You are on page 1of 4

ELÖRE A MAGYAR NARANCSÉRT Chương chín - TẤT CẢ VÌ CAM NỘI

Így került vissza Pelikán a börtönbe. Thế là Pelikan lại quay vào tù.
A püspök és Gulyás úr éppen dominóznak, mikor nagyon Khi hắn đau khổ bước vào khám, vị giám mục và lão cựu
letörten belép a cellába. Leroskad a priccsre, arcán thanh tra đang chơi đô-mi-nô. Hắn ngồi phịch xuống
őszinte kétségbeesés. giường mặt đầy nỗi hoang mang.
- Én nem tudom, mi van velem, püspök úr, de az utóbbi - Thưa đức cha, không hiểu tại sao mà dạo này tôi chẳng
időben semmi sem sikerül. Pedig tele vagyok jó làm được cái gì cho ra hồn cả. Thiện ý thì đầy, thông
szándékkal. Próbálom megérteni a vonalat, de mindig hiểu đường lối thì cũng muốn thông hiểu. Vậy mà toàn
mellényúlok. És ráadásul a vízállás is egyre emelkedik. xôi hỏng bỏng không, đấy là chưa nói chuyện nước sông
ngày càng to.
- Ne búsulj, fiam - vigasztalja a püspök. - A magyarok - Đừng buồn con ạ. - ông giám mục an ủi hắn. - Thánh
istene nem hagy el minket. phù hộ người Hung không bỏ rơi ta đâu.
- Remélem is - kap valamelyest erőre Pelikán. - Mert - Tôi cũng hy vọng vậy - Pelikan hồi lại chút ít. - Vì theo
szerintem az ötlet, mármint ez az egész új rendszer jól tôi thì cái sự nghiệp, hay nói đúng ra là cái chế độ mới
van kitalálva. Csak még sok a tökkelütött meg a này là hoàn chỉnh. Chỉ phải cái là vẫn còn nhiều kẻ ngu
csirkefogó. De előbb-utóbb minden a helyére rázódik. đần với lưu manh. Nhưng rồi trước sau thì mọi thứ cũng
phải đâu vào đấy thôi.
- Például maga is -jegyzi meg Gulyás úr. - Ngay cả anh nữa - lão Gulyas nói chêm vào.
- Például én is, hiába gúnyolódik - mondja Pelikán. A - Ngay cả tao nữa, mày có chọc ghẹo cũng bằng thừa -
dolgok kiforrják magukat. - A püspökhöz fordul: - Mi Pelikan nói: - Tất cả mọi thứ tự sẽ đâu vào đấy hết. - Hắn
lesz ma az ebéd? quay sang ông giám mục: - Hôm nay ăn trưa gì đấy cha?
A püspök szolgálatkészen kopog a fűtőtesten. Ông giám mục lẹ làng gõ ống sưởi. Có tiếng gõ lại. Ông
Visszakopognak. A püspök arcán széles mosoly. giám mục mặt rạng rỡ.
- Grenadírmars. - Khoai tây mỳ cán (Mỳ cán mỏng cắt lát trộn khoai tây
đã tán dừ. AK).
Pelikánnak összefut a nyál a szájában. És amúgy is Nước bọt tràn đầy miệng Pelikan. Gì thì hắn cũng đắc
elégtételt érez. chí.
- Na látják! Azért van fejlődés. - Các vị thấy chưa? Ăn uống có tiến bộ đấy chứ hả?
De hiába főzték kedvenc ételét a börtönben, délben ismét Nhưng trong tù người ta có nấu món hắn rất khoái cũng
Virág elvtársnál ebédel. bằng thừa, vì đến trưa hắn lại xơi cơm ở đằng đồng chí
Virag.
- Ne kísérletezzen velem többet, Virág elvtárs! - teszi - Đồng chí tha cho tôi, đừng thử nghiệm tôi nữa! - Hắn
össze őszinte kétségbeeséssel a kezét. - Engedjen vissza a thành thật chắp hai tay vào nhau cầu khẩn. - Hãy cho tôi
gátra. A Duna egyre jobban árad. về đê thôi. Nước sông Đu-na ngày càng lớn rồi.
Virág elvtárs nem szól, szomorú, fáradt tekintettel nézi, Đồng chí Virag không nói gì chỉ mệt mỏi buồn bã nhìn
amint Gogolák elvtársnő az ezüsttálcáról kitálalja a hắn trong khi nữ đồng chí Gogolak gắp thịt nai nướng từ
szarvassültet. Aztán, hogy a marcona asszony eltűnt a chiếc khay bạc cho hắn. Đợi cho bà ta biến sau cánh cửa
tapétaajtó mögött, leereszti a szemhéját, ernyedten bí mật, đồng chí từ từ nhắm mắt lại rồi ngả người trên
hátradől székében, és megszólal. Halkan, de ghế của mình và cất giọng khe khẽ nhưng vô cùng quan
jelentőségteljesen. trọng:
- A nemzetközi helyzet egyre fokozódik. Néha bizony én - Tình hình thế giới hiện nay đang lên mạnh. Ngay cả tôi
is elfáradok. Én is ember vagyok, Pelikán elvtárs. thỉnh thoảng cũng bị mệt mỏi. Tôi cũng là người, đồng
chí biết đấy.
Pelikán nagy részvéttel nézi a megviselt Virágot, aki Pelikan thông cảm nhìn đồng chí Virag đang mệt mỏi.
mélyen elgondolkozva ingatja a fejét. Đồng chí suy nghĩ rất lung và lắc đầu.
- Bizony, Pelikán elvtárs, sok az álmatlan éjszakánk - Đúng vậy, chúng ta hiện còn nhiều đêm mất ngủ.
mostanában.
Sajnálni kell szegényt. Hắn thấy thương đồng chí quá.
- Tessék sört inni lefekvés előtt, attól úgy alszik, mint a - Đồng chí cứ uống thật nhiều bia trước khi đi ngủ khắc
bunda. Nem aludni, az szörnyű lehet. sẽ ngủ say như chết. Không ngủ được thì khổ lắm.
Virág szinte suttogva mondja: Đồng chí Virag gần như thì thào:
- Az ellenség itt lapul közöttünk. - Nhưng kẻ thù vẫn còn ẩn nấp đâu đây.
- Ne tessék mondani! szörnyülködik el Pelikán. - Ấy chết, thật vậy ạ? - Pelikan hoang mang.
- Most már nemsokára igazán kérünk magától valamit, - Chẳng lâu nữa tổ chức sẽ thực sự yêu cầu đồng chí một
Pelikán elvtárs! việc!
- Tessék már kinyögni! - Pelikán rimánkodva néz Virág - Xin đồng chí cứ nói thẳng ra cho ạ! - Pelikan van nài
elvtársra. De az leinti. nhìn đồng chí Virag, nhưng đồng chí đã giơ tay.
- Türelem. Kellő időben a kellő csapást. Addig is új - Từ từ. Đánh phải đúng lúc, đúng chỗ. Nhưng giờ cho
őrhelyre állítjuk, Pelikán elvtárs. tới lúc ấy tổ chức cử đồng chí đến vị trí mới.
- Irgalom - mondja Pelikán. - Én teljesen hülye vagyok. - Xin đồng chí thương cho - Pelikan nói. - Đầu óc tôi đặc
như bí.
- Menet közben kell az önbizalmat - Lòng tự tin sẽ được khẳng định trong đấu tranh. Đồng
megszerezni.Szereti. . . chí có...
- A mi nagy bölcs vezérünket?! - Yêu mến lãnh tụ vĩ đại anh minh của chúng ta không
ạ?!
A kétségbeesett kérdésre hidegen tárgyilagos válasz Câu hỏi hơi hoang mang của hắn nhận một câu trả lời
koppan: thuần tuý tự nhiên:
- Most a narancsra gondoltam. - Không, tôi muốn nói là cam kia.
- Milyen narancsra? - Cam nào ạ?
- A narancsra általában. A narancs, az egy déligyümölcs. - Cam nói chung. Cam là một loại hoa quả xứ nóng.
- Biztos szeretem - adja meg magát Pelikán. - Tíz éve - Chắc là tôi thích - Pelikan đầu hàng - Tôi nếm lần cuối
ettem utoljára. đâu mười năm trước thì phải.
Így lett Pelikán József az Első Magyar Narancsliget Thế là Pelikan trở thành ông viện trưởng Viện nghiên
igazgatója. cứu nội hoá cam Hung đầu tiên.

*** ***
Új munkahelyén minden előzetes várakozással szemben Trái với mọi dự kiến, tại cơ quan mới hắn hoàn thành
derekasan megállta a helyét. Pazar klubhelyiséget xuất sắc mọi nhiêm vụ. Một câu lạc bộ rất hoành tráng
építtetett a narancskutatók népes gárdájának, ezenkívül cho đội ngũ đông đảo của các cán bộ nghiên cứu cam
bölcsődét, óvodát, mert a narancs honi telepítői szabad được xây dựng. Ngoài ra hắn còn xây nhà trẻ, mẫu giáo
idejükben nem fukarkodtak az utódok szaporításával. vì những nhà nội hoá cam sở tại không ngần ngại tăng
trưởng dân số trong những lúc rỗi rãi.
A termés egyelőre nem ígérkezett nagynak. A zöldellő Trước mắt vụ mùa cũng không hứa hẹn lắm. Quả cam
narancsligetben érő egyetlen narancsot viszont féltő duy nhất trong vườn cam xanh tươi được chăm sóc giữ
gonddal őrizték. Naponta megnézték: gömbölyödik-e, gìn cực kỳ cẩn thận. Hàng ngày trọng lượng, độ chín của
pirosodik-e, és feszült várakozással lesték a nagy napot: a trái cam được xác định, đánh giá cụ thể. Ai cũng hồi hộp
narancsszüret napját, amikor Bástya elvtárs jelenlétében mong chờ ngày thu hoạch. Lúc đó với sự hiện diện của
megszegik az első magyar narancsot, utána pedig đồng chí Bastya, quả cam sẽ được chính thức bổ và trong
ünnepélyes keretek között kiosztják a Kossuth díjakat és buổi lễ trọng thể giải thưởng Kossuth (giải thưởng lớn
egyéb kitüntetéseket. nhất của Hung dành cho khoa học và nghệ thuật. AK) và
các huân huy chương khác sẽ được trao cho các đơn vị,
cá nhân xuất sắc.
Az ünnepség előtti délutánon Pelikán igazgató még rövid Buổi chiều trước ngày thu hoạch, viện trưởng Pelikan đi
szemlét tesz: mindeni rendben van-e a dísztribünön, jól thị sát lần cuối. Hắn cẩn thận xem lễ đài đã khang trang
feszül-e fölötte a büszke transzparens: „Előre a magyar chưa, khẩu hiệu đầy tự hào “Tất cả vì cam nội!” đã được
narancsért!" A takarítónők még egyszer felsúrolják a căng hoành tráng ở bên trên chưa. Các bà, các cô quét
szabadtéri színpadot, a narancskutatók elmennek a dọn lau lại một lần nữa sân khấu ngoài trời, các cán bộ
borbélyhoz, hogy rendbe hozassák a hajzatukat, nghiên cứu cam ra hiệu cắt tóc cạo râu gọn gàng nghiêm
szakállukat. Pelikán az alkonyi lebukó nap sugaraiban chỉnh. Trong ánh hoàng hôn rực rỡ Pelikan nhìn lại một
még egy utolsó pillantást vet a gondosan őrzött egyetlen lần cuối trái cam được chăm nom tỉ mỉ, biểu tượng anh
magyar narancsra, a következő nap hősére. hùng của ngày hôm sau.
És elérkezik az ünnepség napja. A dísztribün zsúfolásig Và ngày lễ mong đợi rồi cũng đến. Các đại biểu ngồi kín
megtelt, az első páholyban maga Bástya elvtárs. lễ đài, trên chỗ danh dự là đồng chí Bastya.
Elégedetten nézi a narancskutatók népi tánccsoportjának Đồng chí hài lòng nhìn tiết mục đặc sắc do nhóm vũ dân
szívet melengető bermr tatóját. Röpülnek a színes tộc Viện Cam trình diễn. Váy đủ màu bay phấp phới hé
szoknyák, elővillannak az izmos leánycombok, döngenek ra những cặp đùi thon chắc. Những chiếc giày đỏ rập
a piros csizmák a rögtönzött deszkákon. theo nhịp làm rung chuyển cả sân khấu mới dựng.
Pelikán nem kis szorongással nézi a bemutatót, még Pelikan ngồi nhìn màn trình diễn với vẻ lo âu không giấu
utoljára a színpad mögötti díszasztalhoz oson: itt fekszik nổi trên mặt. Hắn rón rén ra chiếc bàn trang trọng đằng
egy kristály üvegtálban az első magyar narancs egy sau sân khấu một lần cuối. Chiếc đĩa pha lê đựng trái
gyönyörű, kalocsai csipketerítő alatt és mellette szépen cam Hung đầu tiên được phủ bằng một tấm khăn thêu
egymás mellett a sok kitüntetés, amit majd Bástya elvtárs đăng ten tuyệt đẹp. Bên cạnh đó là một hàng những huân
fog kiosztani. huy chương sẽ được đồng chí Bastya trao tặng.
Pelikán végigsimítja szemével a sok plecsnit, amelyek Mắt hắn vuốt ve đống huân chương trìu mến, trong đó
közül egyet most ő fog megkapni, nem érdemtelenül. De hắn sẽ được nhận một chiếc hoàn toàn xứng đáng. Nhưng
ekkor különös látványra lesz figyelmes. A színpadnak hắn chợt để ý thấy bên cạnh sân khấu thằng Pisti nhà hắn
támaszkodva ott játszik az ő vásott Pisti fia, frissen vasalt trong bộ quần áo thiếu niên tiền phong phẳng phiu đang
úttörőegyenruhában, egy falka más, ünneplőbe öltözött chơi với đám trẻ cùng đội. Bọn trẻ đang chơi tẩm tầm
gyerekkel. Pisti eldugott valamit egyik tenyerébe, most vông. Thằng Pisti chìa hai tay nắm chặt ra. Thằng bạn nó
előrenyújtja a két öklét, egy másik srác pedig azon chỉ và thằng Pisti xoè tay ra: không có gì cả. Rồi nó xoè
töpreng, melyikbe rejtette el azt a valamit. Aztán ráver nốt tay kia ra.
Pisti egyik öklére. Pisti kinyitja: ebben semmi. Aztán
kinyitja a másikat.
És uramisten, Pelikán nem hisz a szemének, mert mi van Thôi chết rồi! Pelikan không còn tin ở mắt mình nữa:
benne: három narancsmag. Trong tay thằng Pisti là ba hạt cam nằm gọn.
Odaugrik a díszasztalhoz, lerántja a kalocsai díszes Hắn nhảy phắt tới bên bàn giật chiếc khăn thêu ra. Nỗi
csipkekendőt, és a gyanúja nem csalt: a kristálytál üres. nghi ngờ của hắn thoắt trở thành sự thật: trái cam Hung
Az első magyar narancs sehol. đầu tiên đã không cánh mà bay.
Pelikán odaugrik a fiához. Elkapja a tenyerét. Pelikan nhảy lại, chộp tay thằng con.
- Mutasd csak a tenyeredet? De hisz ez narancsmag! - Xoè tay tao xem? Hạt cam phải không?
- Az - mondja Pisti. - Không hạt cam thì hạt gì? - Thằng bé trơ tráo.
- Te megetted a narancsot?! - kérdi Pelikán - Mày ăn mất rồi phải không?! - Pelikan hoảng hốt hỏi.
kétségbeesetten.
A gyerek szemtelenül a szemébe néz. Thằng bé láo lếu nhìn hắn.
- Azt hittem, a narancs arra való, hogy megegyék. - Cam để ăn chứ còn để làm gì.
Pelikán eltakarja az arcát. Pelikan lấy hai tay bưng mặt.
- Tönkretettél, te bitang! - Thằng khốn nạn, mày hại tao rồi!
És a narancsszegés pillanata egyre vészesebben Thời điểm bổ cam ngày càng đến gần. Pelikan nhìn
közeledik. Pelikán segélyt keresve körülnéz. A dísztribün quanh cầu cứu. Hắn thấy đồng chí Virag ngồi trên lễ đài
szélén meglátja Virág elvtársat. Odasettenkedik hozzá. liền lén đến.
- Baj van - súgja elkeseredetten. - A kisfiam megette a - Gay to. - Hắn cay đắng thì thào. - Thằng con tôi nó ăn
narancsot. mất cam rồi.
Virág elvtárs csak ül, szenvtelenül, mint egy fakír. Rá se Đồng chí Virag ngồi đờ người như một tu sĩ Ấn độ.
pillant, benyúl a zakója belső zsebébe, és átnyújt neki Không nhìn hắn, ông thọc tay vào túi áo móc ra một quả
egy citromot. Pelikán zavarodottan rebegi. chanh rồi đưa cho hắn. Pelikan bối rối lắp bắp.
- Ez citrom. - Đây là chanh chứ ạ.
- Narancs - mondja Virág elvtárs fellebbezhetetlen - Cam. - Đồng chí Virag nhấn giọng dứt khoát.
hangsúllyal.
- Citrom - szívóskodik tovább Pelikán. - Chanh ạ. - Pelikan chữa lại.
- Nem nyitok vitát - zárja le az ügyet Virág elvtárs. - Tôi không tranh luận với anh. - Đồng chí Virag kết thúc
hội thoại.
Igy hát a Rákóczi-induló pattogó hangjai mellett a Thế rồi trong tiếng nhạc quân hành vang lừng và trước
magyar politikai és kulturális élet megjelent kitűnőségei chứng kiến của các đại biểu ưu tú của phong trào cũng
jelenlétében Pelikán igazgató a kristályüveg tálban egy như của giới văn hoá nghệ thuật, giám đốc Pelikan trao
citromot nyújt át Bástya elvtársnak. trái chanh đựng trong đĩa pha lê cho đồng chí Bastya.
A tábornok energikus mosollyal az erre a célra készített Vị tướng nở nụ cười rất tươi rồi cầm con dao bạc chỉ
ezüstkéssel vágja egyenlő szeletekre a déligyümölcsöt, és dành cho dịp này bổ trái chanh ra mấy phần bằng nhau.
a jelenlevők tapsa közepette egy cikket maga is a Trong tiến vỗ tay vang dội của những người có mặt, ông
szájához emel. cầm một miếng trịnh trọng đưa lên miệng.
Hirtelen elfintorodik az arca. Fegyelmezett dühvel Bỗng ông nhăn mặt. Nhưng ông chỉ rít qua kẽ răng:
sziszegi:
- Ez mi? - Gì thế này?
- Narancs - feleli Pelikán, és Virág elvtársra pillant, hogy - Cam ạ. - Pelikan trả lời rồi liếc mắt nhìn đồng chí Virag
az ő helyeslő tekintetéból merítsen erőt. - Az új magyar để lấy thêm nghị lực. - Đây là cam nội chính hiệu ạ. -
narancs - folytatja egyre büszkébben. - Kicsit sárgább, Hắn nói tiếp đầy vẻ tự hào. - Hơi nhợt hơn một chút, hơi
kicsit savanyúbb, de a mienk. chua hơn một chút, nhưng là của chúng ta.
Bástya elvtárs bólint, és férfiasan eszi tovább az első Đồng chí Bastya gật gù rồi kiên cường xơi tiếp miếng
magyar narancsot. Ezek után zavartalanul kiosztják a cam nội đầu tiên. Sau đó là đến lễ trao phần thưởng trang
kitüntetéseket, és egy újabb győzelem tudatával vonulnak trọng, rồi tất cả mọi người trong niềm vui chiến thắng
a szabadban felállított büféasztalokhoz. mới kéo nhau ngồi vào bàn tiệc.
De ezzel mégnincs vége. Este díszelőadás a Fővárosi Thế nhưng vẫn chưa hết. Đến tối chương trình văn nghệ
Operettszínházban, a magyar narancskutatók tiszteletére. chào mừng các cán bộ nghiên cứu cam được tổ chức
Természetesen a Csárdás királynő van műsoron. trọng thể tại Nhà hát lớn thủ đô. Tất nhiên là vở “Nữ
hoàng Vũ điệu Tra-rơ-đát” (Csárdás, một điệu nhảy
Hung) được trình diễn.
Pelikán mint a liget igazgatója külön páholyt kapott, ahol Pelikan trên cương vị Giám đốc Viện Cam được ngồi
meg is jelenik mind a nyolc, ünneplőbe bújt gyerekével. ngăn riêng. Hắn ngồi đó với đủ cả tám đứa con quần áo
A szomszéd páholyban legjobb tudósai, mellükön a még lễ phục chỉnh tề. Trong các ngăn bên cạnh là các cán bộ
csillogó kitüntetésekkel. khoa học ưu tú nhất ngực đầy huy chương vẫn còn lấp
lánh.
Egyszerre zsongás a nézőtéren: kinyilik a díszpáholy Chợt có tiếng ồn áo trong đám khán giả: Cánh cửa ngăn
ajtaja, belép először két hadsegéd, utána meg maga danh dự từ từ mở. Đầu tiên là hai sĩ quan trợ lý bước vào,
Bástya elvtárs, fehér blúzos, copfos süldő leánykájával. tiếp theo đó là đồng chí Bastya cùng con gái mặc áo
Bástya elvtárs kezében egy zacskó cukor. Abból kínálja a trắng, tóc tết bím. Đồng chí chìa túi kẹo cầm trong tay
kislányt. mời con gái.
A zenekarban felzeng a „Jaj cica, eszem azt a csöpp kis Dàn nhạc cử bài "Con mèo nhỏ của em ơi, cái miệng xinh
szád" szívmelengető dallama. Bóni gróf incselkedik a xinh của anh làm em chết mất thôi" hào hứng. Trên sân
rózsaszín tüllruhás, rózsaszín combú görlcsapattal. khấu bá tước Boni (Bô-ni) đang đùa cợt với đám thanh
Mindenki el van ragadtatva, a nézőtér szinte felröpül a nữ áo hồng, đùi cũng hồng hồng. Ai ai cũng mê hồn, cả
gyönyörűségtől. Bástya elvtárs sem titkolja kisebbfajta hội trường tưởng như chao đảo trong cảm xúc tuyệt vời.
meghatódottságát, szelíden megsimítja leánykája haját. Ngay cả đồng chí Bastya cũng trìu mến xoa đầu con gái
không giấu nổi xúc động.
Nyilik Pelikán páholyának az ajtaja, valaki besurran, Cửa ngăn của Pelikan mở ra, có ai đó luồn vào ngồi cạnh
leül. Egy kéz a sötétben keményen megszorítja Pelikán hắn. Trong bóng tối một bàn tay siết chặt tay hắn. Đầu
kezét. A gátőr először összerezzen, de mikor meglátja tiên hắn giật mình, nhưng khi nhìn thấy khuôn mặt rạng
Virág elvtárs biztató mosolyú arcát, megnyugszik. rỡ của đồng chí Virag thì hắn trấn tĩnh lại.
- Győztünk - súgja Virág. - Ugye, megérte? - Đại thắng! - đồng chí Virag thì thầm vào tai hắn. -
Cũng đáng đấy chứ hả?
Ölébe veszi az egyik Pelikán gyereket, úgy húzódik Đồng chí bế một đứa con Pelikan vào lòng rồi ngồi xích
közelebb az emberéhez. lại gần hắn.
- Látja, Pelikán, most jó ülni a babérokon! - Anh thấy chưa, bây giờ ngồi hưởng vinh dự thích nhé!
Pelikán elkomorul. Pelikan nhấp nhổm.
- Azért van egy kis rossz érzés bennem -suttogja - Nhưng tôi vẫn cảm thấy thế nào ấy - hắn thì thào lại. -
Virágnak. - Ekkora felhajtás. Mégiscsak becsaptuk az Việc gì mà phải làm quá to tát thế này. Gì thì ta cũng lừa
embereket. người khác.
- Ugyan kit csaptunk be? - Virág lehunyja a szemét, - Lừa ai? - Đồng chí Virag nhắm mắt lại, vuốt râu mép
megsimítja a bajuszát, mint mindig, amikor összegezi như mỗi khi ông sắp gọn lại các suy nghĩ trong đầu. -
gondolatait. - Magunkat? Mi úgyis tudjuk, hogy miről Lừa bản thân ta ấy à? Chúng ta biết tỏng mục đích của ta
van szó... A kutatókat? Azok örülnek, hogy plecsni van a là gì rồi...Lừa các cán bộ nghiên cứu ấy à? Họ chỉ cần có
mellükön. A széles tömegeket? Azok úgyse esznek se gì đeo trên ngực càng nhiều càng tốt thôi. Lừa quảng đại
narancsot, se citromot, de boldogok, hogy velünk quần chúng à? Họ có ăn cam, chanh bao giờ đâu, nhưng
ünnepelhetnek. Az imperialistákat? Hát azoknak bizony được vui mừng với chúng ta là họ hạnh phúc rồi. Lừa
túljártunk az eszén. Nem szeretnék most a bőrükben bọn đế quốc ư? Đúng là ta đã cho chúng một vố rồi. Giờ
lenni. mà chúng biết thì chắc là cay cú phải biết.
Egy kis szünetet tart, megfogja Pelikán vállát. Đồng chí ngừng một lát rồi khoác vai Pelikan.
- Kiadtuk a jelszót: legyen magyar narancs! És lett - Chúng ta đã vạch ra mục đích nhiệm vụ là phải có cam
magyar narancs! Mi nem ígérgetünk a levegőbe. nội! Và đã có cam nội! Chúng ta không phải là những
người chỉ hứa suông.
Es ebben a pillanatban felzendül a színpadon az örökifjú Đúng vào lúc đó trên sân khấu vang lên giọng của bà
Jákhy Janka éneke: Jakhy Janka (Gia-ki Giong-ko) mãi mãi trẻ trung.
„Hajmási Péter, Hajmási Pál, Hoi-ma-si Pê-te, Hoi-ma-si Pan (tên các nhân vật trong
a barométer esőre áll... " vở ca kịch, AK)
hàn thử biểu chỉ cơn mưa sắp tràn...
Ez olyan irtózatosan szép, hogy nem lehet megállni sírás Lời ca tuyệt diệu đến nỗi không thể không chảy nước
nélkül. Pelikán is küzd a könnyeivel. mắt được. Pelikan cũng rưng rưng.
És mikor éjszaka ismét érte jön egy nagy fekete autó, Mãi đến nửa đêm, khi chiếc xe hòm đen đến đón, trong
még mindig ez muzsikál a fejében: Hajmási Péter, đầu hắn vẫn còn ngân mãi lời ca: "Hoi-ma-si Pê-te, Hoi-
Hajmási Pál, a barométer esőre áll... ma-si Pan, hàn thử biểu chỉ cơn mưa sắp tràn..."
A két szűkszavú bőrkabátos csak nézi; mit dúdolgat ez a Hai gã mặc áo da kín tiếng chỉ còn biết ngây nhìn hắn
Pelikán ilyen angyali boldogsággal. không hiểu làm sao mà gã Pelikan này lại hạnh phúc mơ
màng như vậy.
Így érkeznek meg Virág elvtárshoz. Và cứ như thế cả bọn đến chỗ đồng chí Virag.

You might also like