You are on page 1of 45

© hiepkhachquay

Bản tin Vật lí


tháng 8/2009

Kiên Giang, tháng 8 / 2009


Bản tin tổng hợp hàng tháng
© http://thuvienvatly.com
© http://www.scribd.com/hkqam3639
HiepKhachQuay tổng hợp từ nguồn tin physicsworld.com
Trông thấy sự vi phạm đối xứng ở ytterbium lớn
nhất từ trước đến nay

Các nhà nghiên cứu Berkeley thiết kế thiết bị riêng của họ dùng để phát hiện ra sự vi phạm tính chẵn lẻ lớn hơn
nhiều được tiên đoán cho ytterbium. Trong thí nghiệm của họ, kim loại ytterbium được làm nóng đến 500 độ
Celsius để tạo ra một chùm nguyên tử, chùm này được gởi qua một buồng trong đó điện trường và từ trường
định hướng vuông góc lẫn nhau. Bên trong buồng, các nguyên tử ytterbium bị va chạm bởi chùm laser, chuyển
sang kích thích một số electron của chúng lên những trạng thái năng lượng cao hơn thông qua một chuyển tiếp
“bị cấm” (ít có khả năng xảy ra). Sau đó, các electron nhảy về trạng thái năng lượng thấp hơn theo những lộ
trình khác nhau.
Các tương tác yếu giữa electron và hạt nhân – cộng với các tương tác yếu bên trong hạt nhân nguyên tử - có
tác dụng hòa trộn một số trạng thái năng lượng electron với nhau, tạo ra một đóng góp nhỏ cho chuyển tiếp bị
cấm. Nhưng những quá trình điện từ khác, bình thường hơn, có mặt do tính không hoàn hảo của thiết bị, còn
hòa trộn các trạng thái đó và làm lu mờ dấu hiệu. Mục đích của điện trường và từ trường của buồng là khuếch
đại hiệu ứng vi phạm tính chẵn lẻ và loại bỏ hay nhận ra những hiệu ứng điện từ giả mạo này.
Trên cơ sở phân tích dữ liệu của họ, các nhà nghiên cứu nhận thấy một dấu hiệu rõ rang cho các vi phạm tính
chẵn lẻ nguyên tử, lớn hơn 100 lần so với dấu hiệu tương tự đối với caesium. Với các tinh chỉnh cho thí nghiệm
của họ, cường độ và tính rõ ràng của dấu hiệu ytterbium hứa hẹn những tiến bộ quan trọng trong nghiên cứu
các lực yếu.
Các nhà vật lí ở Mĩ và phát hiện ra sự vi phạm đối xứng nguyên tử lớn nhất từng
trông thấy từ trước đến nay, trong một nguyên tử ytterbium – lớn hơn 100 lần so với hiệu
ứng lớn nhất từng quan sát thấy tính cho đến nay trong các nguyên tử caesium. Với nghiên
cứu thêm nữa, những kết quả trên có thể làm sáng tỏ cách thức neutron phân bố trong hạt
nhân, cái sẽ giúp các nhà vật lí tìm hiểu xem các tương tác yếu hoạt động như thế nào bên
trong hạt nhân.
Tính chẵn lẻ là phép biến đổi cơ lượng tử đảo trục tọa độ không gian của một vật
trong không gian 3D. Nếu một hạt vi phạm tính chẵn lẻ, thì ảnh qua gương của nó sẽ hành xử

© hiepkhachquay | Bản tin Vật lí tháng 8/2009 1


khác đi và những hạt như vậy có thể được mô tả là “thuận” trái hoặc “thuận” phải. Lực yếu vi
phạm tính chẵn lẻ bởi nó chỉ tác dụng lên các hạt thuận trái, chẳng đả động gì đến các hạt
thuận phải.
Một sự vi phạm mang tính lịch sử
Lí thuyết vi phạm tính chẵn lẻ lần đầu tiên được thiết lập vào giữa thập niên 1950
nhưng mãi cho đến những năm 1970 thì mọi thứ mới thật sự sáng tỏ về mặt thực nghiệm.
Nhà vật lí người Pháp Marie-Anne Bouchiat đã nhận thấy cỡ của hiệu ứng tăng theo lập
phương của số nguyên tử, do đó sự vi phạm đối xứng dễ phát hiện hơn ở các nguyên tử nặng.
Hiệu ứng lớn nhất và chính xác nhất tính cho đến nay được phát hiện bởi một nhóm đứng
đầu là Carl Wieman tại trường Đại học Colorado ở Boulder vào năm 1997 ở caesium với độ
chính xác 0,3%.
Bước ngoặc mới nhất trong câu chuyện này là các kết quả ytterrium đến từ Dmitry
Budker và các cộng sự tại trường Đại học California, Berkeley. Đội nghiên cứu đã thiết kế
một thí nghiệm phơi một chùm nguyên tử ytterium trước điện trường và từ trường vuông góc
nhau. Cấu hình trường đó đặt ra tính thuận của thí nghiệm và một chùm laser được sử dụng
để kích thích các electron của nguyên tử từ trạng thái cơ bản “S đơn” lên trạng thái kích thích
“D-bộ ba” thứ nhất. Đội nghiên cứu đã đo tốc độ kích thích và nhận thấy với cấu hình trường
thuận trái thì các nguyên tử tạo ra sự chuyển tiếp thường xuyên hơn so với cấu hình thuận
phải. Sự vi phạm tính chẵn lẻ phát sinh do lực yếu hòa trộn trạng thái năng lượng điện tử cao
của chuyển tiếp với một trạng thái chẵn lẻ ngược lại lân cận (xem biểu đồ).

Để đảm bảo rằng sự vi phạm tính chẵn lẻ được quan sát thấy, các nhà nghiên cứu Berkeley đã thận trọng chọn
chuyển tiếp “cấm”, hay ít có khả năng xảy ra này để loại trừ những hiệu ứng điện từ khác sẽ có mặt trong một
chuyển tiếp phổ biến hơn. Đội nghiên cứu còn làm chủ được việc tăng cường hiệu ứng vi phạm tính chẵn lẻ với
điện trường ngoài vì điện trường này đồng thời hòa trộn những trạng thái chẵn lẻ ngược nhau, cho phép
nguyên tử Yb trải qua chuyển tiếp bị cấm. Sự giao thoa của hai loại hòa trộn cho phép đội nâng cao một cách
hiệu quả hiệu ứng mà họ đang tìm kiếm.

Vượt ngoài mô hình chuẩn?


Hiện nay, các kết quả không thực sự chính xác lắm với sai số chung 14% nhưng đội
nghiên cứu hiện đang cải thiện sai số này. “Sai số này đủ để khẳng định rõ ràng rằng hiệu

2 thuvienvatly.com | © hiepkhachquay
ứng đó có mặt và là hiệu ứng lớn”, Budker nói. “Điểm quan trọng là chúng tôi bắt đầu khảo
sát các tương tác hạt nhân yếu một khi chúng tôi vượt qua mức chính xác 1% ở Yb, cái
chúng tôi rất lạc quan về nó”, ông thêm.
Một mục tiêu lâu dài là sử dụng sự vi phạm tính chẵn lẻ làm một công cụ tìm kiếm
nền vật lí mới nằm ngoài Mô hình Chuẩn. Tuy nhiên, trong những động cơ gần hơn là xác
định sự phân bố neutron bên trong hạt nhân, việc khó thực hiện với các phương pháp truyền
thống do sự thiếu điện tích của neutron. Điều này sẽ xác nhận hoặc bác bỏ các mô hình “lớp
vỏ neutron” tiên đoán rằng các proton được bao quanh bởi một lớp tương đối lớn hơn của các
neutron.
Budker còn hi vọng rằng các thí nghiệm cuối cùng có thể sẽ hé lộ “các mômen
anapole” từ trước đến nay chỉ trông thấy ở caesium. Các mômen anapole đi cùng với các
dòng điện cảm ứng bởi tương tác yếu quay tròn bên trong hạt nhân giống như các dòng điện
bên trong tokamak.
Nghiên cứu này được công bố trên server bản thảo arXiv.

© hiepkhachquay | Bản tin Vật lí tháng 8/2009 3


Vết nạn rứt trong định luật Planck

Các vật nhỏ Planck được mang lại rất gần nhau mà không chạm nhau

Những nghi ngờ lâu nay rằng định luật Planck bị vi phạm ở cấp độ chiều dài vi mô
giờ đang được sự hậu thuẫn của bằng chứng thực nghiệm.

Các nhà khoa học tại Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) và trường Đại học
Colombia vừa chứng tỏ được rằng định luật đó, liên hệ bức xạ phát ra bởi một vật với nhiệt
độ của nó, ước tính nhiệt phát ra thấp hơn đến ba bậc độ lớn khi hai vật cách nhau chỉ 30 nm.

Những phép đo truyền nhiệt bức xạ này – lần đầu tiên đo ở cấp độ chiều dài này –
được tiến hành bằng cách thêm một lớp vàng lên đầu mútcủa kính hiển vi lực nguyên tử
(AFM) sao cho nó uốn cong theo lượng nhiệt truyền qua.

Nghi ngờ của Planck

Thiết lập lần đầu tiên vào năm 1900, Max Planck luôn ngờ vực rằng định luật do ông
thiết lập không có giá trị ở những thang chiều dài có thể so sánh với bước sóng của bức xạ
nhiệt, một chế độ gọi tên là trường gần. Các tính toán bức xạ ở những khoảng cách vi mô này
tiếp tục trong thập niên 1950, nhưng việc xác nhận bằng thực nghiệm tỏ ra khó khăn – mãi
cho đến hiện nay.

Việc kiểm tra định luật Planck ở mức trường gần yêu cầu giữ hai vật ở rất gần nhau,
nhưng ngăn không cho chúng chạm nhau. “Chúng tôi đã thử làm như vậy trong nhiều
nămvới các tấm song song nhau”, Gang Chen thuộc MIT nói. Nhưng với phương pháp đó,
những khoảng cách nhỏ nhất thích hợp là một micron hoặc lớn hơn.

4 thuvienvatly.com | © hiepkhachquay
Việc chuyển sang phương pháp dựa trên cơ sở AFM là chìa khóa dẫn đến thành công.
Bằng cách gắn một hạt thủy tinh tròn nhỏ lên đỉnh của đầu mút, các nhà nghiên cứu đã thực
hiện được những khoảng cách hàng chục nanomet. Tiện lợi của việc sử dụng một vật hình
cầu là nó dễ duy trì ở một khoảng cách nhất định giữa một điểm và một bề mặt, so với giữa
hai bề mặt.

Giảm bớt sự dẫn nhiệt

Đội của Chen đã đo được tốc độ truyền nhiệt giữa hạt thủy tinh và ba loại chất nền
khác nhau: thủy tinh, silicon pha tạp chất, và vàng. Các thí nghiệm được thực hiện dưới chân
không để loại trừ sự dẫn nhiệt đáng kể qua khe không khí.

Các nhà nghiên cứu chiếu một laser 650 nm lên lớp vàng của đầu mút, làm nóng quả
cầu đó, nó phát ra bức xạ và nguội đi. Quy mô của sự thất thoát nhiệt này được tiết lộ bởi sự
uốn cong sau đó của đầu mút, gây ra bởi sự chênh lệch hệ số giãn nở nhiệt của hai chất liệu.

Hệ số truyền nhiệt cao nhất được tìm thấy xảy ra giữa một hạt thủy tinh và một chất
nền thủy tinh. Những chất liệu điện môi có cực này có các phân cực phonon mặt – gây ra bởi
sự kết hợp cộng hưởng giữa điện từ trường và các phonon quang trong các điện môi có cực –
và chúng làm tăng cường mạnh bức xạ trường gần.

Các đầu đọc cải tiến

Những nỗ lực của Chen và các cộng sự của ông có thể cải thiện mẫu thiết kế nhiệt của
các đầu đọc từ hiện nay trong các ổ đĩa cứng, chúng cách mặt đĩa khoảng 5-7 nm. Một điện
trở trong đầu đọc làm cho nó nóng lên, và công trình mới này cho phép các kĩ sư điều khiển
sự nóng lên này, hay thậm chí sử dụng nó để điều khiển khe hở.

“Có hai công ti hiện cũng đang tìm kiếm công nghệ ghi từ nhiệt hỗ trợ”, Chen
nói.Một lựa chọn cho việc tăng mật độ lưu trữ dữ liệu là thu nhỏ kích cỡ của các bit dữ liệu,
nhưng nếu chúng quá nhỏ thì sự mất dữ liệu xảy ra do các thăng giáng domain từ. “Người ta
đã phát triển những nam châm cứng hơn nhiều để ngăn cản các thăng giáng như thế, nhưng
thật khó ghi dữ liệu trên những nam châm cứng. Nhưng với việc sử dụng nhiệt cục bộ, người
ta có thể ghi dữ liệu đó”, ông thêm.

Mục tiêu tiếp theo cho các nhà nghiên cứu là lặp lại các phép đo của họ ở những
khoảng phân cách ngắn hơn. “Sự gồ ghề bề mặt là một thách thức lớn”, Chen nói, “và những
trở ngại khác là độ linh động cơ và độ tinh khiết của các bề mặt – nhưng cả hai chẳng dễ gì
định lượng được”.

Nghiên cứu này công bố trên tờ Nano Letters.

© hiepkhachquay | Bản tin Vật lí tháng 8/2009 5


ADN xoắn và uốn cong theo yêu cầu

Các mô hình cấu trúc nano xếp hình ADN xoắn và uốn cong. Mỗi ống trụ biểu diễn một chuỗi xoắn kép ADN.
Những đoạn cong được tô màu đỏ. Sự xoắn và cong là do sự tháo lắp hoặc lồng vào nhau của các cặp base.
(Ảnh: Hendrik Dietz)
Các nhà nghiên cứu ở Mĩ và Đức vừa phát triển một phương pháp mới biến đổi ADN
thành những hình dạng phức tạp bằng cách làm cho các phân tử đó xoắn lại và uốn cong. Kĩ
thuật có thể quan trọng trong việc chế tạo các viên gạch cấu trúc của dụng cụ thang bậc nano,
ví dụ như các vòng, bánh xe, solenoid và bánh răng phân tử, cho các ứng dụng trong các lĩnh
vực như phân phối thuốc và quang điện tử.
Phân tử ADN gồm hai chuỗi thẳng bện lại thành một chuỗi xoắn kép với một trong
bốn “base” khác nhau gắn với mỗi nhóm đường dọc theo các chuỗi. Ngoài việc là “viên gạch
cấu trúc của sự sống”, ADN còn là một chất liệu kĩ thuật hấp dẫn vì các chuỗi với những loạt
base bổ sung nhận ra và kết hợp với nhau, cho phép những cấu trúc phân tử phức tạp được
chế tạo bằng sự tự lắp ráp. Các nhà khoa học từ lâu đã biết rằng các phân tử ADN có thể uốn
cong thành các nucleosome trong đó phân tử ADN uốn cong xung quanh các protein với bán

6 thuvienvatly.com | © hiepkhachquay
kính cong nhỏ khoảng 4 nm. Giấc mơ là tạo ra được những cấu trúc nhân tạo nhại lại những
cấu trúc tự nhiên đó.
Thao tác trên ADN
Tuy nhiên, nay Hendrik Dietz thuộc trường Đại học Bách khoa München ở Đức và
Shawn Douglas cùng William Shih thuộc Trung tâm Ung thư Dana-Farber, Khoa Y Harvard
và Viện Wyss ở Harvard, vừa tiến thêm một bước lớn về phía mục tiêu này. Kĩ thuật của họ,
cho thêm các cặp base ADN vào các bó xoắn kép ADN hoặc lấy chúng ra, cho phép các nhà
nghiên cứu xây dựng được các bánh xe, khung vòm kích cỡ nano và những đối tượng cong
liên tục khác. Hướng và mức độ cong có thể điều chỉnh để tạo ra các phân tử uốn thành hình
cung với bán kính nhỏ cỡ 6 nm (Science325 725).
Shih và các cộng sự làm được như vậy bằng cách sử dụng các bó ADN xoắn kép song
song, giữ bên cạnh nhau bởi các liên kết ngang hình thành bởi các chuỗi vượt qua trên nhau
từ một chuỗi này sang chuỗi tiếp theo tạo thành một chất liệu rắn chắc bất ngờ. Việc sử dụng
một bó lớn chuỗi kép là quan trọng vì nó mang lại sự rắn chắc, Shih giải thích. Thật vậy, việc
uốn cong sẽ không có kích nếu như chất liệu mới đó quá mềm.
Tiếp theo, các nhà nghiên cứu loại bỏ hoặc chèn thêm vào các cặp base của ADN dọc
theo các chuỗi xoắn kép, giữa các liên kết ngang. Khi một cặp base bị loại bỏ thì chuỗi xoắn
kép co lại, và khi một cặp base được chèn thêm vào thì chuỗi xoắn kép nở ra.
Nếu như các cặp base được xóa một cách có hệ thống khỏi một lớp trong khi chúng lại được
chèn vào lớp đối diện của chuỗi kép, thì sự co/giãn thu được làm cho cấu trúc bị uốn cong.
Nói đơn giản, hình dạng là lõm nơi các cặp base bị lấy ra và là lồi nơi chúng được thêm vào.
Các phân tử uốn cong
Đội của Shih nói rằng đây là lần đầu tiên sự uốn cong ADN được điều khiển theo một
kiểu như vậy. Những nỗ lực trước đây dựa trên các tương tác vật liệu với protein để bẻ cong
ADN, còn phương pháp hiện nay chủ yếu dựa trên các tương tác với chính ADN. Các cấu
trúc tạo ra rất rắn chắc và có thể điều chỉnh tinh tế trên một ngưỡng rộng độ cong. “Về cơ
bản, chúng tôi đã thu được một bước nhảy lớn trong lượng cong điều khiển, đó là nguyên do
vì sao các kết quả của chúng tôi thật quan trọng”, Shih nói.
Những cấu trúc ADN cong, rắn chắc như vậy có thể dùng để xây dựng các vòng phân
tử, các bánh xe và solenoid phân tử. Từ đó, những viên gạch cấu trúc này có thể được chế tạo
thành những dụng cụ cho các ứng dụng trong những lĩnh vực như plasmon học – chẳng hạn,
để chế tạo ănten nano – và trong các liệu pháp điều trị như phân phối thuốc bên trong cơ thể.
Đội nghiên cứu nói hiện tại đội muốn xây dựng một số dụng cụ đơn giản sau khi đã
chứng minh các bánh răng và hình dạng bóng chuyền bãi biển bằng cách nối những thành
phần cong khác nhau lại với nhau. Các cấu trúc đó cũng cần phải được làm cho tráng kiện
hơn, nghĩa là giảm lượng khiếm khuyết hiện đang có mặt trong chúng.

© hiepkhachquay | Bản tin Vật lí tháng 8/2009 7


Màng xà phòng vỡ giống như lá cờ phần phật trước gió

Các nhà vật lí ở Pháp vừa chụp được những bức ảnh tốc độ cao cho thấy một màng xà
phòng bị chọc thủng dao động trong một khoảnh khắc trước khi vỡ tung thành một màn
sương mịn của những giọt nước. Các nhà nghiên cứu quy hành trạng kì lạ này cho cơ sở vật
lí tương tự đã làm cho đường viền lá cờ phần phật trước gió.
Thật ra thì mép ngoài của một màng bị chọc thủng không giãn nở theo kiểu êm đềm
như đã được lưu ý tới lần đầu tiên bởi nhà vật lí Lord Rayleigh hồi năm 1891. Nhưng mãi
cho đến cuối thập niên 1960 thì các nhà vật lí mới lần đầu tiên nhận ra rằng các lỗ thủng trên
màng xà phóng lớn dần lên qua các “ngón” đặc biệt, cái là nguyên nhân cho sự phun trào
quan sát thấy của các giọt nước. Cho đến nay, hiện tượng này chỉ được nghiên cứu từ trước
nhìn vào, cái đã đưa các nhà vật lí đến chỗ liên hệ những sự bất ổn định quan sát thấy với
động học nội tại của màng chất lỏng.
Tuy nhiên, trong nghiên cứu mới nhất này, Henri Lhuissier và Emmanuel Villermaux
tại trường Đại học Aix-Marseille vừa đi tới một phương pháp mới bằng cách quan sát màng
xà phòng từ một góc nghiêng và nghiên cứu cách nó hành xử khi nó vỡ tung. Để tạo ra màng
xà phòng, các nhà nghiên cứu đã kéo một cái khung rắn ra khỏi một dung dịch bột giặt
thương mại hiệu “Dreft”. Sự vỡ tung của màng xà phòng sau đó thực hiện trong một bầu
không khí hơi bão hòa.
Sử dụng một camera tốc độ cao với tốc độ khung hình lên 25000 khung hình mỗi
giây, các nhà nghiên cứu đã chụp được một màng xà phòng co dần trong không khí với mỗi
loạt trọn vẹn kéo dài thường chưa tới 0,01s. Họ nhận thấy rằng, ngoài việc lỗ thủng lớn dần
song song với màng, còn tồn tại một chuyển động thứ cấp vuông góc với mặt phẳng đó, làm
cho vùng đó của màng dần đến chỗ xuyên thủng dao động theo kiểu như lá cờ vẫy trước gió.
Công bố các kết quả của họ trên tờ Physiccal Review Letters, các nhà vật lí Pháo quy
sự phần phật này cho sự chênh lệch vận tốc giữa màng đang co nhanh và không khí đang
chuyển động chậm hơn. Khi các phân tử xà phòng bắt đầu sự đi qua của chúng, không khí
thổi xung quanh chúng dẫn đến sự mất ổn định – giống như một lá cờ bắt đầu phần phật khi
một dòng không khí nhanh (gió) thổi xung quanh nó. Một khi màng đã lùi đủ xa cho các gợn
sóng phần phật đi qua một ngưỡng cho trước, thì chuyển động một bên này có thể kích ngòi
cho sự mất ổn định thứ cấp làm phát sinh các lồi lõm.

8 thuvienvatly.com | © hiepkhachquay
Phần phật trước gió
Nhằm mang thêm bằng chứng rằng sự phần phật này có liên quan đến môi trường
ngoài, các nhà nghiên cứu cũng đã chụp các bức ảnh một màng xà phòng đang dao động
trong sulphur hexafluoride (SF6), chất đậm đặc gấp 5 lần không khí. Trong trường hợp này,
việc làm mất ổn định của lỗ chọc thủng phát triển nhanh hơn nhiều, đưa các nhà nghiên cứu
đến kết luận rằng tốc độ vỡ của màng xà phòng tăng theo mật độ của môi trường chứa nó.
Lhussier phát biểu với physicsworld.comrằng ông hiện đang chỉnh sửa kĩ thuật chụp
ảnh tốc độ cao của mình để nghiên cứu một hiện tượng còn phổ biến hơn nữa trong tự nhiên
– các bọt. “Việc áp dụng những lí thuyết như vậy cho các chóp bọt hoặc lớp vỏ là rất quan
trọng vì những bụi nước li ti mà chúng tạo ra trong khi vỡ tung là nguyên nhân cho một phần
lớn sự hình thành aerosol tự nhiên và vì thế giữ vai trò quan trọng trong khí hậu qua sự trao
đổi đại dương-khí quyển”, ông nói.

© hiepkhachquay | Bản tin Vật lí tháng 8/2009 9


Một dạng mới của cacbon

Cấu trúc dải của một mẫu graphene mọc ghép đa lớp. Các dải tuyến tính xuất hiện từ các điểm K trong cấu trúc
dải. Ba “hình nón” có thể trông thấy từ ba lớp graphene trong mẫu MEG.
Các nhà nghiên cứu ở Mĩ và Pháp vừa tìm thấy cái họ khẳng định là một dạng mới
của cacbon. Chất liệu mới chế tạo từ các lớp graphene – những tấm cacbon chỉ dày một
nguyên tử - xếp chồng lên nhau theo kiểu sao cho mỗi lớp độc lập về mặt điện tử học. Các
nhà nghiên cứu khẳng định rằng chất liệu đó, được đặt tên là graphene mọc ghép đa lớp
(MEG), có thể dùng trong điện tử học cacbon thay cho các tấm graphene lớp đơn và lớp kép
đắt tiền.
Graphene được tách ra lần đầu tiên chỉ mới cách đây 5 năm bằng cách bóc từng lớp
nguyên tử ra khỏi graphite bằng cách sử dụng băng dính trong suốt. Kể từ đó, graphene đã
làm kinh ngạc giới vật lí với độ dẫn cao của nó ở nhiệt độ phòng và với việc phá vỡ kỉ lục
bền hơn thép 200 lần khiến nó là một trong những chất liệu bền nhất từng được kiểm nghiệm.
Edward Conrad ở Viện Công nghệ Georgia và các cộng sự đã nuôi các lớp graphene
từ một chất nền silicon carbide theo kiểu sao cho mỗi lớp quay đi 30 độ so với lớp bên dưới.
MEG này khác với graphite có mặt trong tự nhiên ở chỗ mỗi lớp quay đi 60 độ so với lớp bên
dưới.
“Với sự xếp chồng mà chúng ta thấy ở graphite tự nhiên, mang lại sự kết hợp đặc biệt
giữa các lớp, có vẻ như tự nhiên đã làm chủ việc xếp chồng các tấm graphene theo một kiểu
không có ích cho điện tử học nói chung”, Conrad nói.
Các nhà nghiên cứu đã thực hiện tán xạ tia X và quang phổ quang phát xạ phân giải
góc (ARPES) trên một mẫu MEG với 11 lớp graphene để đo cấu trúc điện tử của nó. Họ
nhận thấy năng lượng electron trong một phần nhất định của cấu trúc dải tỉ lệ với động lượng

10 thuvienvatly.com | © hiepkhachquay
của nó, mang lại sự xác nhận rằng các electron hành xử giống như các hạt không có khối
lượng.
“Cấu trúc dải tuyến tính hoàn hảo này, gọi là hình nón Dirac, chưa từng được đo rõ
ràng như vậy trước đây trên các mẫu graphene khác”, Conrad nói. Sử dụng ARPES, Conrad
và các cộng sự trông thấy không có sự biến dạng của hình nón Dirac, nên họ kết luận không
có sự ghép cặp electron với các lớp khác trong mẫu và do đó mỗi lớp là cách li về mặt điện
tử.
Mặc dù các nhà nghiên cứu chỉ mới đang bắt đầu tìm hiểu nguyên do vì sao các lớp
trong mẫu MEG không ghép cặp với nhau, biết rằng chúng liên kết về mặt hóa học, nhưng họ
khẳng định những tính chất độc nhất vô nhị này có thể dùng làm cơ sở cho điện tử học
cacbon thay cho các màng graphene lớp đơn hoặc lớp kéo, chúngđòi hỏi phải tinh vi và tốn
kém để tách ra.
Một tiện lợi nữa của graphene mọc ghép là nó có thể sản xuất trên quy mô lớn.
Graphene thì tương đối không đắt tiền khi nuôi mọc ghép, như trong trường hợp MEG, do
giá thành của silicon cacbide, sản xuất tốn khoảng 100 đô la trên cm vuông. Theo Conrad,
giá thành này vẫn thấp hơn 1 triệu lần so với sản xuất graphene bóc vỏ. Các nhà nghiên cứu
hiện đang cố gắng chế tạo các transistor tốc độ cao từ MEG.
Nghiên cứu này được công bố trên server bản thảo arXiv

© hiepkhachquay | Bản tin Vật lí tháng 8/2009 11


Sự dư thừa positron liên quan đến pulsar Geminga

Ảnh minh họa vệ tinh PAMELA.


Có phải những sự dư thừa mới phát hiện gần đây của các electron và positron vũ trụ
là bằng chứng trực tiếp đầu tiên cho sự tồn tại của các hạt vật chất tối? Đó là niềm hi vọng
của nhiều nhà vật lí, trong khi những người khác thì đề xuất một nguồn gốc trần tục hơn ở
một pulsar láng giềng. Nay các nhà nghiên cứu ở Mĩ khẳng định rằng các dư thừa đó có thể
liên hệ với các tia gamma năng lượng cao phát ra bởi pulsar Geminga.
Vật chất tối lạnh là lời giải thích được chấp nhận nhất cho câu hỏi tại sao vũ trụ
dường như có khối lượng hấp dẫn ít hơn ít nhất là 80% so với cái nhìn thấy được. Các hạt vật
chất tối được trông đợi là sẽ va chạm với nhau và hủy nhau – tạo ra các hạt năng lượng cao
như electron và positron. Nếu những hạt này có thể quan sát thấy, thì chúng sẽ thể hiện bằng
chứng trực tiếp nhất từ trước đến nay cho sự tồn tại của vật chất tối.
Sự dư thừa các electron và positron năng lượng cao đến từ vũ trụ đã được báo cáo bởi
một vài thí nghiệm. Đặc biệt, hồi năm 2008, các nhà nghiên cứu làm việc với vệ tinh
PAMELA tìm thấy một sự thừa thải positron ở năng lượng 10-100 GeV trong phổ tia vũ trụ.
Những kết quả đó không thể nào giải thích được bởi mô hình chuẩn của nguồn gốc và sự
truyền tia vũ trụ trong Dải Ngân hà và thay vào đó, nó đưa ra một “nguồn” phát ra positron
năng lượng cao ở gần. Tuy nhiên, chẳng có bằng chứng thuyết phục nào liên hệ các positron
với vật chất tối – và tốc độ phân hủy cao hơn nhiều so với trông đợi từ các lí thuyết chuẩn.
Positron từ Geminga
Nay, Hasan Yuksel và Todor Stanev tại trường Đại học Delaware và Matthew Kistler
tại trường Đại học Bang Ohio khẳng định nguồn phát của các positron này là Geminga – một
sao neutron ở gần và đang quay nhanh. Những kết quả đó cũng thể hiện lần đầu tiên các nhà
thiên văn có thể liên hệ tia vũ trụ với một nguồn phát đặc biệt.
Tại trung tâm lí thuyết của họ là tập hợp những quan sát dường như chẳng có liên
quan gì bởi đài thiên văn tia gamma Milagro ở New Mexico, nơi đã nhìn thấy một quầng
nguồn phát tia gamma năng lượng cao xung quanh Geminga. Nằm cách Trái đất chừng 800

12 thuvienvatly.com | © hiepkhachquay
năm ánh sáng và chừng 300.000 năm tuổi, Geminga là nguồn phát tia gamma gần nhất được
biết so với Trái đất, trừ các thiên thể trong hệ mặt trời ra.
“Chúng tôi muốn tìm hiểu nguồn gốc của các tia gamma này, chúng không được
trông đợi từ một pulsar già nua như thế”, Yuksel giải thích. “Chúng tôi nhận thấy chúng gợi
ý rằng các cặp electron và positron đang được tạo ra ở gần pulsar đó và rồi gia tốc lên những
năng lượng rất cao”.
Các từ trường lộn xộn
Điều quan trọng, sự trải rộng của sự phát xạ tia gamma này cũng ngụ ý rằng một “cơn
gió” của những hạt này đang thoát ra khỏi pulsar đó, xác nhận sự tồn tại của một máy gia tốc
hạt mạnh ở gần Trái đất và cho thấy rằng tia vũ trụ tạo ra trong phần hoạt tính hơn của
Geminga – sau một hành trình loanh quanh đi qua các từ trường lộn xộn của Dải Ngân hà –
có khả năng là nguồn gốc của sự dư thừa positron quan sát thấy bởi PAMELA.
Nếu đúng như vậy, thì những kết quả trên cũng có khả năng là sự phát hiện „trực tiếp‟
đầu tiên của tia vũ trụ. “Khi tia vũ trụ được phát hiện ra trong khí quyển hoặc trong không
gian, chúng ta không thể suy ra nguồn gốc của chúng một cách dễ dàng vì quỹ đạo của chúng
dễ dàng bị bẻ cong bởi từ trường của Dải Ngân hà và mọi thông tin có liên quan thông
thường bị mất đi”, Kistler nói. “Tuy nhiên, nếu sự dư thừa positron quan sát thấy này có thể
có tương quan với một vật thể đã biết ở gần Trái đất, thì đây là lần đầu tiên một mối liên hệ
giữa mật độ tia vũ trụ và nguồn phát sinh ra chúng được thiết lập”.
Các nhà thiên văn khác thì hân hoan chào đón kết quả trên. “Thoạt nhìn, chẳng có gì
quá đỗi bất ngờ rằng Geminga có thể là nguồn gốc của sự dư thừa positron PAMELA vì nó
là một pulsar năng lượng cao ở gần nhất”, theo Stefan Funk tại trường Đại học California và
là một thành viên của đài thiên văn tia gamma HESS. “Tuy nhiên, bằng cách liên hệ kết quả
này với các quan trắc Milagro gần đây, thì trên nguyên tắc kết quả này có thể dùng để tính ra
số hạt chạm đến chúng ta từ Geminga nếu những hạt này là electron”.
Không bác bỏ vật chất tối
Douglas Finkbeiner tại trường Đại học Harvard ở Massachusetts thì cảnh giác hơn.
“Tôi vui mừng khi thấy người ta đang theo đuổi cách giải thích pulsar và những pulsar nhất
định góp phần cho tín hiệu này ở chừng mực nào đó”, ông nói. “Nhưng hiện tại người ta
chẳng biết đủ nhiều về các pulsar để loại trừ khả năng rằng có cái gì đó khác đang át trội”.
Yuksel và các cộng sự của ông đồng ý rằng cho đến nay vật chất tối không thể bị bác
bỏ. Tuy nhiên, họ tin rằng những quan trắc mới từ những thí nghiệm nhạy hơn khác sẽ khảo
sát Geminga chi tiết hơn và cho phép các nhà khoa học đo đạc tốt hơn tổng năng lượng chứa
trong tia vũ trụ thổi từ pulsar ấy đến.

© hiepkhachquay | Bản tin Vật lí tháng 8/2009 13


Dụng cụ nhỏ xíu hoàn thiện cỗ máy tính lượng tử đầu tiên

Các nhà vật lí NIST vừa chứng minh được tiến trình xử lí thông tin lượng tử xác thực, duy trì liên tục trong bẫy
ion ở phần giữa bên trái của bức hình này, cải thiện viễn cảnh chế tạo một máy tính lượng tử thực tiễn. Các ion
bị bẫy bên trong khe tối (dài 3,5mm và rộng 200 micromet) giữa các bánh xốp nhôm phủ vàng. Bằng cách thay
đổi điện áp đặt vào từng điện cực vàng, các nhà khoa học có thể di chuyển các ion giữa sáu vùng của bẫy. (Ảnh:
J. Jost/NIS)
Các nhà nghiên cứu ở Mĩ khẳng định đã chứng minh được dụng cụ cỡ nhỏ đầu tiên
thực hiện được tất cả các chức năng cần thiết trong quá trình xử lí lượng tử gốc ion cỡ lớn.
Mặc dù từng giai đoạn hoặc nhóm giai đoạn riêng lẻ trong điện toán lượng tử đã được chứng
minh trước đây, nhưng dụng cụ mới này được cho là thực hiện được một tập hợp đầy đủ các
toán tử lôgic lượng tử mà không bị mất những lượng lớn thông tin khi truyền đi. Kết quả là
dụng cụ mới thể hiện một bước tiến quan trọng trong cuộc truy tìm một cỗ máy tính lượng tử
thực tiễn, theo lời các nhà nghiên cứu tại Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ Hoa Kì (NIST) ở
Boulder, Colorado.
Trong khi các máy tính thông thường lưu trữ dữ liệu dưới dạng các “bit” với giá trị 1
hoặc 0, thì trong điện toán lượng tử, dữ liệu được lưu trữ dưới dạng “qubit” có thể nhận hơn
một giá trị một lúc. Kết quả của hiện tượng này, gọi là sự chồng chất, là các máy tính lượng
tử có tiềm năng lưu trữ và xử lí những lượng dữ liệu không có tiền lệ trước đây. Ngoài ra, các
hạt lượng tử còn có thể trở nên “bị vướng víu”, cho phép chúng chia sẻ một mối liên hệ gần
gũi hơn nhiều so với cơ học cổ điển cho phép trong đó dữ liệu được truyền đi đồng thời giữa
các hạt bị vướng víu bất chấp khoảng cách xa xôi của chúng.

14 thuvienvatly.com | © hiepkhachquay
Hành trình lượng tử
Khái niệm điện toán lượng đã thu được sức thúc đẩy to lớn vào năm 1994 khi nhà
toán học Peter Shor phát minh ra một thuật toán cho thất điện toán lượng tử có thể nhân các
con số nhanh hơn nhiều so với trong điện toán cổ điển. Hàm ý là các máy tính lượng tử có
thể hoạt động ở tốc độ cực cao, có thể áp dụng để giải những bài toán phức tạp như bẻ một số
khóa mã hóa được sử dụng rộng rãi nhất ngày nay. Tuy nhiên, người ta sớm thấy rõ rằng các
nhà nghiên cứu sẽ có một nhiệm vụ rất khó khăn là đưa bài toán này vào trong thực tiễn vì
bản chất dễ phá vỡ của thông tin lượng tử, đặc biệt khi mà dữ liệu lượng tử đang được truyền
đi giữa các nơi.
Bất chấp sự hạn chế này, một số thuật toán lượng tử đơn giản đã được thực hiện trong
những năm vừa qua. Có lẽ đáng chú ý nhất là minh chứng đầu tiên và duy nhất của thuật toán
nhân của Shor, sử dụng sự cộng hưởng từ hạt nhân, bởi Lieven Vandersypen và các cộng sự
của ông tại Trung tâm Nghiên cứu IBM Almaden ở California.
Một phương pháp đầy triển vọng để hiện thực hóa các thuật toán lượng tử là lưu trữ
và truyền dữ liệu lượng tử bằng các ion cực lạnh. Đây là phương pháp được chọn bởi nhóm
nghiên cứu tại NIST, đứng đầu là Jonathan Home, nhóm, trong những năm qua, đã chứng
minh được toàn bộ những bước cần thiết cho điện toán lượng tử: (1) “kích hoạt” các qubit lên
trạng thái khởi đầu như mong muốn (0 hoặc 1); (2) lưu trữ dữ liệu qubit trong các ion; (3)
thực hiện các toán tử lôgic trên một hoặc hai qubit; (4) truyền thông tin giữa những vị trí
khác nhau trong bộ vi xử lí; và (5) đọc các kết quả qubit một cách riêng rẽ.
Bị bắt trong bẫy
Trong nghiên cứu mới nhất này, nhóm của Home hiện nay đã lần đầu tiên làm chủ
được việc kết hợp tất cả những giai đoạn độc lập này. Đội nghiên cứu đã giữ hai nguyên tử
beryllium trong một cái bẫy trước khi thao tác trên các trạng thái năng lượng của từng ion, sử
dụng một xung laser tử ngoại bên ngoài để lưu trữ dữ liệu lượng tử. Điện trường sau đó được
dùng để di chuyển các ion trên những khoảng cách vĩ mô – lên tới 960 micromet – giữa
những vùng khác nhau bên trong bẫy. Các nhà nghiên cứu đã lặp lại một chuỗi 15 toán tử
lôgic 3150 lần trên mỗi trạng thái trong số 16 trạng thái khởi đầu khác nhau và nhận thấy bộ
vi xử lí hoạt động với độ chính xác toàn thể 94%.
Một trong những đổi mới chủ yếu được các nhà nghiên cứu NIST sử dụng là dùng hai
ion magnesium là “chất làm lạnh” để làm nguội các ion beryllium khi chúng đang truyền đi.
“Sự làm nguội đồng cảm” này cho phép các toán tử lôgic được tiếp tục mà không có thêm
bất kì sai số nào do sự nóng lên trong quá trình truyền tải. “Chúng tôi có được sự truyền tải
hợp nhất, và rõ ràng cho thấy nó không cản trở khả năng của chúng ta thực hiện thêm các
phép điện toán – đây là một bước quan trọng cho việc xây dựng một dụng cụ cỡ lớn”, Home
phát biểu với physicsworld.com.
Phản ứng ban đầu đối với phát triển này từ phía cộng đồng nghiên cứu là tích cực.
“Home và đội của ông đã cho thấy những mảnh riêng lẻ của trò chơi ghép hình làm việc độc
lập trong một chuỗi thí nghiệm đẹp trong những năm gần đây. Giờ thì, ở thành tựu mới này,
họ đã đưa các mảnh của trò chơi lại với nhau và làm cho chúng cùng hoạt động trong một thí
nghiệm”, theo Boris Blinov, một nhà nghiên cứu điện toán lượng tử tại trường Đại học
Washington.

© hiepkhachquay | Bản tin Vật lí tháng 8/2009 15


Con đường phía trước
Hans Bachor, một chuyên gia quang học lượng tử tại trường Đại học Quốc gia
Australia, cũng bị gây ấn tượng. “Công trình trên thật sự là là một bước tiến lớn và gây ấn
tượng nhất – nó chứng minh được toàn bộ những bước chủ chốt cần thiết trong chu trình điện
toán”. Tuy nhiên, Bachor cũng cảnh báo những thách thức công nghệ đang nằm phía trước.
“Câu hỏi là liệu họ có thể giữ ion đó ở trạng thái cơ bản hay không. Tôi không thành thạo
lắm những bài toán trên nguyên tắc, nhưng nó sẽ yêu cầu phát minh thêm các thủ thuật mới”,
ông thêm.
Home phát biểu với physicsworld.com rằng đội của ông đang tiếp tục phát triển hệ
ion bị bẫy của họ với sự tập trung vào hai vấn đề đặc biệt. Lĩnh vực thứ nhất là cải thiện độ
chính xác toán tử lôgic: độ chính xác cần thiết cho một dụng cụ cỡ lớn là 0,9999, còn độ
chính xác ở dụng cụ này là 0,95. “Ở đây chúng tôi bị hạn chế bởi sự điều khiển mà chúng tôi
có trên các chùm laser của mình, và công suất của những chùm này”, ông nói. Lĩnh vực thứ
hai là chế tạo những dụng cụ lớn hơn. “Sự truyền tải giữa những phần khác nhau của bộ vi
xử lí có thể là một bài toán chỉ tồn tại ở dụng cụ lớn hơn. Việc điều khiển máy tính cổ điển,
và nhu cầu điều khiển chính xác số lượng lớn các điện cực và chùm laser, thể hiện một thách
thức kĩ thuật to lớn”, ông nói.
Markus Aspelmeyer, một nhà nghiên cứu quang học lượng tử tại trường Đại học
Vienna, thì nhận ra một trong những thách thức khác có liên quan trong việc tăng kích cỡ.
“Thách thức là việc thu nhỏ các sai số cổng riêng và thu được sự điều khiển trên một số
lượng lớn ion trên một con chip đơn”, ông nói. “Tuy nhiên, điều này là cần thiết để tiến hành
các phép toán dài dòng trên máy tính lượng tử trong tương lai. Nó là một thử thách hấp dẫn
với cả kĩ thuật và khoa học thông tin lượng tử và cho đến nay không rõ những hạn chế chính
xác đó sẽ nằm ở đâu”.
Nghiên cứu này được công bố trên tờ Science Express.

16 thuvienvatly.com | © hiepkhachquay
Ma sát giữ cho các động cơ phân tửđi đúng hướng

Ảnh chụp huỳnh quang của các protein động cơ đơn (trái): Chuyển động của hai phân tử kinesin đang khuếch
tán (màu xanh) trên một vi ống (màu đỏ) thể hiện theo một loạt liên tiếp máy ghi sóng.
Giản đồ đo lực ma sát (phải): Bằng cách kéo các phân tử kinesin đang khuếch tấn với kẹp laser trên một vi ống,
lực ma sát giữa động cơ và rãnh vi ống có thể đo được rất chính xác (Ảnh: MPI-CBG, BIOTEC).
Khi bạn đang đi từ A đến B, ma sát vừa là bạn vừa là thù. Ma sát giữa lốp xe và mặt
đường cho phép chiếc xe không bị trượt, chẳng hạn, trong khi ma sát ở trục xa làm giảm hiệu
suất nhiên liệu của chiếc xe. Tuy nhiên, giờ thì các nhà sinh lí học ở Đức vừa phát hiện thấy
ma sát còn giữ một vai trò quan trọng trong cách thức các động cơ phân tử di chuyển bên
trong các tế bào sống.
Khám phá đó có thể đưa đến sự hiểu biết tốt hơn về sinh học tế bào vì các động cơ
phân tử có mặt trong nhiều tiến trình đa dạng, ví dụ như sao chép ADN và độ linh động của
tinh trùng.
Nghiên cứu mới được thực hiện bởi Joe Howard và các cộng sự tại Viện Sinh học
Phân tử Tế bài và Di truyền Max Planck, cùng với Erik Shaeffer tại trường Đại học Kĩ thuật
Dresden, họ khảo sát các phân tử “kinesin”. Những phân tử này gồm một họ lớn các động cơ
phân tử vận tải hàng hóa (ví dụ như các phân tử sinh học) dọc theo các vi tuyến ống.
Các động cơ phân tử không chân
Các nhà sinh lí học tin rằng phân tử kinesin có hai “chân” và thả bộ dọc theo vi ống
giống hệt như một người đi trên dây – một chân kẹp chặt vi ống, còn chân kia thả ra và kéo
nó về phía trước. Nhưng do các phân tử đó chỉ có kích thước một vài nanomet, cho nên các
thăng giáng nhiệt làm cho chúng thả bộ trông “say xỉn” hơn theo một sợi dây kéo căng bị lắc
mạnh.

© hiepkhachquay | Bản tin Vật lí tháng 8/2009 17


Để tìm hiểu các lực có mặt giữ đường cho các động cơ đó, đội nghiên cứu đã gắn
kinesin vào một hạt bột nhỏ xíu đường kính khoảng 1 μm. Sau đó, họ thả hạt bột vào tiêu
điểm của một chùm laser , với áp suất quang tác dụng lên hạt bột giữ nó đứng vững ở chố “
kẹp quang học”. Một vi ống gắn trên một bệ tịnh tiến khi đó được đặt gần hạt bột và hút nó ở
ngưỡng tốc độ chừng 1 μm/s, đại khái bằng tốc độ tự nhiên của động cơ phân tử.
Sau đó, đội nghiên cứu đã xác định lực ma sát tác dụng lên hạt bột hình cầu bằng
cách đo độ lệch của hạtkhỏi tâm kẹp. Ở tốc độ dưới 1 μm/s, lực ma sát tỉ lệ với tốc độ tương
đối của kinesin và vi ống. Điều này được xác nhận trong một thí nghiệm khác bằng cách đo
chuyển động của kinesin đã sử dụng hết nhiên liệu (ATP). Những phân tử này khuếch tán
dọc theo vi ống ở tốc độ xác định bởi phương trình khuếch tán Einstein, phương trình cũng
có thể dùng để tính lực ma sát.
Khảo sát sải chân của chúng
Khi tốc độ tương đối cao hơn 1 μm/s, lực ma sát vẫn tăng lên – nhưng tốc độ tăng bắt
đầu giảm. Theo Howard, đây đúng là cái xảy ra nếu như các chân của kinesin đang chộp lên
những vị trí nhất định trên vi ống và sau đó bước đi. Bằng cách phân tích hình dạng của
đường cong lực/tốc độ, đội nghiên cứu kết luận rằng “sải chân” của các động cơ vào khoảng
8 nm, cái cũng xảy ra với chiều dài của một chất nhị trùng nhất định lặp lại dọc theo vi ống.
Điều này làm đội thấy ngạc nhiên, vì những nỗ lực trước đây nhằm đo sải chân này bằng
những kĩ thuật khác cho giá trị 4 nm.
Howard phát biểu vớiphysicsworld.comrằng kết quả trên “cho chúng ta một phương
pháp mới nghĩ về cách thức các động cơ phân tử hoạt động – hai thành phần có liên quan, lực
phát động và ma sát”. Kết quả này có thể giúp các nhà sinh lí học tìm hiểu làm thế nào những
lượng lớn động cơ hoạt động cùng với nhau để đẩy một tế bào tinh trùng, chẳng hạn, vì, theo
Howard, chuyển động tập thể như thế có khả năng có mặt ma sát.
Các nghiên cứu trên còn có thể giúp các nhà khoa học tìm hiểu chuyển động ở một
thang bậc lớn hơn nhiều. Theo Shaeffer, các lực hút chân kinesin vào vi ống là các lực van
der Waals cho phép con tắc kè bám víu trên tường nhẵn. Tắc kè chạy dựa trên những sợi tơ
nhỏ xíu trên chân của chúng kích cỡ chừng 100nm, trong khi chân kinesin sử dụng các cấu
trúc kích cỡ chừng 25 nm.
Công trình được tường thuật trong số ra ngày 14 tháng 8 của tờ Science.

18 thuvienvatly.com | © hiepkhachquay
Bộ kích neutrino có thể làm hé lộ sóng hấp dẫn

Ảnh SN 1987A chụp bằng Kính thiên văn vũ trụ Hubble (Ảnh: NASA)

Các máy dò neutrino và sóng hấp dẫn hiện đang hoạt động có thể sử dụng phối hợp
để quan sát sóng hấp dẫn phát ra trong một vụ nổ sao siêu mới láng giềng – theo lời các nhà
vật lí ở Italy.
Sóng hấp dẫn là các dao động của không-thời gian được tiên đoán bởi thuyết tương
đối rộng. Một số thí nghiệm hiện đang cố gắng dò tìm sóng hấp dẫn bằng cách đo những
biến đổi nhỏ xíu trong khoảng cách giữa của hai khối lượng được cho là xảy ra khi sóng đi
qua một máy dò hạt. Tuy nhiên, cho đến nay chưa hề có thí nghiệm nào thành công và bằng
chứng thuyết phục nhất tính đến nay cho sóng hấp dẫn là chu kì quỹ đạo của hệ sao đôi
Hulse–Taylor đang rút ngắn lại ở tốc độ chính xác với sự phát sóng hấp dẫn.
Tuy nhiên, với một chút may mắn, sự dò tìm trực tiếp đầu tiên của sóng hấp dẫn có
thể xảy ra nếu một sao siêu mới xuất hiện trong thiên hà của chúng ta. Một vụ bùng nổ sao
nặng như vậy tạo ra một lượng rất lớn ánh sáng và bức xạ khác, có thể giúp các nhà vật lí thu
hẹp tìm kiếm của họ sang thời điểm chính xác mà sóng hấp dẫn chạm tới Trái đất. Đây sẽ là
một hỗ trợ lớn trong việc củng cố độ nhạy của các máy dò sóng hấp dẫn.
Xung neutrino
Khi bức xạ từ sao siêu mới SN 1987A được phát hiện trên Trái đất này (năm 1987),
các nhà vật lí đã nhận ra rằng nó chứa một xung neutrino – hay chính xác hơn, các phản
neutrino electron. Nay Francesco Vissani và các cộng sự tại Phòng thí nghiệm Gran Sasso và
INFN Torino vừa thực hiện những tính toán cho thấy sự phát hiện neutrino từ một sao siêu
mới láng giềng có thể cho phép các máy dò sóng hấp dẫn hiện nay đưa ra khám phá đầu tiên
của chúng.
Trọng tâm của lí thuyết này là quan điểm rằng sóng hấp dẫn đủ lớn để phát hiện ra
được tạo ra khi sao siêu mới đạt tới pha “giật ngược”. Pha này xảy ra khi lõi sắt của ngôi sao
co lại nhanh chóng đến mật độ của hạt nhân. Vật chất rơi vào trong bật trở lại từ lõi hạt nhân,
cái không nén được, kết quả là một gia tốc hướng thẳng ra ngoài của những lượng lớn vật
chất.
Đối với một sao siêu mới điển hình, Vissani và các cộng sự tính toán thấy sự giật
ngược này sẽ tồn tại khoảng 30ms – tạo ra một đợt bùng phát sóng hấp dẫn kéo dài cỡ bằng

© hiepkhachquay | Bản tin Vật lí tháng 8/2009 19


thời gian đó. Đa số các nhà thiên văn vật lí đồng ý rằng xung neutrino từ sao siêu mới đạt tới
sự giật ngược vào khoảng 3ms. Sử dụng một mô hình phát triển từ sự phân tích neutrino và
dữ liệu khác từ SN 1987A, đội nghiên cứu đã tính được thời gian trễ giữa sự phát hiện ra
neutrino trong các máy dò trên Trái đất và sự tới nơi của các sóng hấp dẫn.
Các nhà vật lí kết luận rằng việc dò tìm neutrino có thể dùng để thu hẹp thời gian tới
nơi của sóng hấp dẫn xuống đến sai số khoảng 10ms.
Chào đón sự thu giảm
Theo Edward Daw tại trường Đại học Sheffield, các máy dò sóng hấp dẫn hiện nay
hoạt động trên cơ sở thời gian tới của các sóng có thể xác định trong vòng 100ms. Ông cảnh
báo rằng trong khi những kết quả mới không nhất thiết có nghĩa là giá trị này có thể giảm đi
tới 10 lần, thì bất kì sự thu giảm nào cũng được chào đón.
“Đây là một cải tiến có ích, đặc biệt nếu bạn đang yêu “, cầu các tín hiệu trùng khớp
giữa các giao thoa kế sóng hấp dẫn bội trong vòng cánh cửa thời gian này, ông phát biểu với
physicsworld.com. Nếu sử dụng ba máy dò, thì sự thu giảm đi 10 lần có nghĩa là khả năng
của một lần dò sai do nhiễu trong mọi máy dò sóng được giảm đi 1000 lần. Điều này có
nghĩa là ngưỡng nhiễu của các máy dò sóng có thể thu giảm đi, khiến cho chúng nhạy hơn
với sóng hấp dẫn.
Daw, người đang nghiên cứu về các máy dò sóng hấp dẫn LIGO, chỉ ra rằng các tính
toán của Vissani cho thấy LIGO sẽ không thể dò ra sóng hấp dẫn từ một sao siêu mới kiểu
như SN 1987A – thậm chí sử dụng bộ kích neutrino. Đẫy là vì sao siêu mới xuất hiện bên
ngoài Dải Ngân hà. Thay vào đó, các nhà khoa học sẽ phải chờ cho đến khi sao siêu mới tiếp
theo xuất hiện trong thiên hà của chúng ta – cái được trông đợi chỉ xảy ra vài ba lần trong
một thế kỉ.
Hãy hi vọng điều ấy xảy ra khi các máy dò neutrino và sóng hấp dẫn được bật lên.
Các tính toán trên được báo cáo trên tờ Physical Review Letters.

20 thuvienvatly.com | © hiepkhachquay
Đừng bực dọc về bài toán pha
Mong muốn chưa thực hiện được của các nhà tinh thể học là đo pha của các chùm
nhiễu xạ tạo ra bởi các công cụ nhiễu xạ tia X thật ra khá vớ vẩn, theo Emil Wolf, một nhà
vật lí lí thuyết tại trường Đại học Rochester ở Mĩ. Thay vào đó, Wolf tin rằng các nhà vật lí
nên chuyển hướng chú ý của họ sang đo những tính chất khác của chùm tia X nhiễu xạ - cái
giữ thông tin cấu trúc khó nắm bắt giống như vậy bị che khuất trong pha không tiếp cận
được.
Wolf, người nổi tiếng với việc là đồng tác giả của chuyên luận cổ điển Các nguyên lí
Quang học, nói rằng nhiều nhà nghiên cứu tin tưởng một cách sai lầm rằng biết được pha của
các chùm nhiễu xạ sẽ dẫn đến việc xác định rõ ràng cấu trúc nguyên tử của các chất rắn.
Nhưng quan điểm sai lầm này sử dụng một giả định không thể lí giải rằng các chùm
tia X là đơn sắc. “Những chùm tia như thế không xuất hiện trong tự nhiên, chúng cũng không
thể nào được tạo ra trong phòng thí nghiệm”, Wolf nói. Kĩ thuật của ông – chưa được xác
nhận về mặt thực nghiệm – sử dụng các tia X kết hợp không gian có thể tạo ra được trong
phòng thí nghiệm.
Khi chiếu một chùm tia X vào một chất kết tinh, thì hình ảnh nhiễu xạ thu được mang
lại một số kiến thức về vị trí của các nguyên tử bên trong chất liệu đó. Hình ảnh đó được xác
định bởi việc đo biên độ của tia X nhiễu xạ là hàm của vị trí. Hoạt động đo lường làm phá
hỏng thông tin tinh thể học quan trọng mang bởi pha của tia X – ấy là bài toán pha. Thay vào
đó, pha của mỗi chùm nhiễu xạ phải được ước tính qua phép gần dudngs, dẫn đến thông tin
không hoàn chỉnh, không xác thực.
Tính toán của Wolf cho thấy sẽ hiệu quả hơn là hãy đo biên độ và pha của một tính
chất vật lí khác của tia X – độ kết hợp phổ. Tính chất này xác định cách thức tia X thuộc
những bước sóng khác nhau giao thoa với nhau. Được trang bị thông tin này, người ta có thể
xác định mật độ electron trong tinh thể, và cuối cùng là những tính chất vật lí của chúng ta,
ông khẳng định.
Phương pháp của ông tương tự như phương pháp đã thực hiện khoảng 6 năm trước
đây trong miền quang học. “Tôi đã không đánh giá đúng cho đến rất gần đây sự liên quan của
công trình nghiên cứu với bài toán tái dựng tia X”, ông phát biểu với physicsworld.com
Trong tính toán của ông, Wolf xem xét các nguồn tia X kết hợp không gian, trong đó
hai điểm khác nhau trên một mặt đầu sóng có tương quan với nhau, dẫn đến giao thoa. Sự
giao thoa này thường phát sinh ở các bước sóng quang học và chúng đã được tạo ra ttrong
miền tia X của phổ điện từ trong những năm gần đây. Những nguồn tia X như thế là không
đơn sắc.
“Điểm cơ bản là các thăng giáng tại hai điểm đó sẽ phối hợp với nhau”, Wolf nói.
Ông trích dẫn thí dụ ánh sáng phát ra từ một ngôi sao. “Ánh sáng như thế phát ra hàng tỉ
nguyên tử bức xạ độc lập; nhưng khi ánh sáng đó chạm tới trái đất nó trở nên kết hợp cao
trên những vùng rộng lớn”. Mức độ kết hợp cao này tạo ra các ảnh chụp qua kính thiên văn
với cực đại và cực tiểu nhiễu xạ sắc nét.

© hiepkhachquay | Bản tin Vật lí tháng 8/2009 21


Việc thu được pha của mức độ kết hợp phổ trong các phép đo nhiễu xạ tia X là có thể
thực hiện với các kĩ thuật giao thoa kế hiện có, Wolf giải thích. “Tôi hiện đang viết một bài
báo dài hơn giải thích làm thế nào các kết quả lí thuyết của tôi có thể áp dụng trong thực tế”.
“Tôi [cũng] đang tiếp xúc với một vài nhóm thực nghiệm về khả năng áp dụng lí
thuyết cho một số bài toán tái dựng khác”.
Pawel Korecki thuộc trường Đại học Jagiellonian ở Ba Lan tin rằng “rất có khả năng”
đề xuất của Wolf sẽ được xác thực trong phòng thí nghiệm, mô tả phép đó ấy là “có thể
nhưng không phải không quan trọng”. Tuy nhiên, vị chuyên gia nhiễu xạ tia X lại thận trọng
hơn về khả năng của các ứng dụng thực tiễn.
Các tính toán của Wolf được báo cáo trên số ra ngày 14 tháng 8 của tờ Physical
Review Letters.

22 thuvienvatly.com | © hiepkhachquay
Chế tạo graphene trong một lóe sáng đèn flash

Một mặt nạ định hình diện tích bị chiếu sáng với hình chữ “N” được gắn lên trên màng graphite oxide (GO)
bằng giấy lọc (Ảnh: American Chemical Society)

Các nhà nghiên cứu ở Mĩ vừa nhận thấy việc chiếu một camera flash vào graphite
oxide đủ để tạo ra graphene – những tấm carbon dày một nguyên tử lần đầu tiên được khám
phá ra vào năm 2004 có những tính chất cơ và điện độc nhất vô nhị. Quá trình mới này còn
có thể sử dụng để những khuôn graphene phức tạp có thể tích hợp vào các mạch điện tử gốc
carbon nhanh và linh hoạt.

Trước đây, các nhà hóa học đã tìm cách biến graphite oxide thành graphene, nhưng
các phản ứng biến đổi có liên quan trong việc loại bỏ oxygen thường mất hàng ngày và yêu
cầu các xúc tác biến đổi mạnh như hydrazine. Ngoài ra, những quá trình hóa học này còn
ngăn không cho thêm những hợp chất khác vào graphene thu được.

Nay, qua một cơn dâng trào cảm xúc, Jiaxing Huang, một nhà khoa học vật liệu tại
trường Đại học Northwestern ở Illinois, Mĩ, nhận thấy một sự bùng phát ngắn ngủi của ánh
sáng có thể thực hiện phản ứng đó trong một mili giây thôi. Điều then chốt đối với tiến trình
là hiệu ứng quang nhiệt: camera flash phân phối một xung năng lượng biến đổi thành nhiệt
trong graphite oxide. “Xung năng lượng phát ra từ camera flash này gây cảm ứng một “vụ nổ
nano” trong màng graphite-oxide”, Huang giải thích. “Sự biến đổi xảy ra nhanh đến mức
màng chất phồng lên và giãn ra đến hai bậc độ lớn”.

Trong một video mà nhóm công bố, các tấm graphite oxide xám, trong suốt, có thể
nhìn thấy bị đen đi và nở ra, đi cùng là một tiếng bốp to. Đội của Huang mô tả vật liệu màu
đen thu được là “lông tơ” – nó thủng kiểu tổ ong và chỉ là một phần khối lượng riêng của
graphite. Phân tích thêm cho thấy vật liệu đó cấu thành từ các tấm graphene mất trật tự và
các giá cách đều với nhau.

© hiepkhachquay | Bản tin Vật lí tháng 8/2009 23


Đội nghiên cứu còn cho thấy họ có thể thêm các hạt nano plastic vào khối graphite
oxide đó, sao cho khi hỗn hợp bị chiếu ánh sáng flash, thì các hạt của nó hợp nhất với nhau
kiểu như các giọt chất lỏng, khóa miếng graphene thành một vật liệu composite dai.

Vì quá trình sản xuất sạch, nhanh và đơn giản, nên đội nghiên cứu đoan chắc rằng
việc sản xuất graphene ở quy mô công nghiệp qua quá trình này là có thể. Peter Blake, người
làm việc với nhà cung cấp Graphene Industries, ở trường Đại học Manchester ở Anh, đồng ý
như vậy. “Đây là một minh chứng khái niệm hấp dẫn sẽ mang lại lợi ích to lớn cho những
nghiên cứu khác đang diễn ra trong cùng lĩnh vực trên”, ông phát biểu với physicsworld.com.

Blake nói thêm rằng ngành điện tử học in được có thể thu lợi từ công nghệ này. Một
thách thức hiện tồn tại là gắn graphene lên trên các bề mặt silicon hoặc thủy tinh cho thiết kế
vi mạch. Người ta cũng có thể sử dụng graphite oxide cách điện để chế tạo mạch điện sau đó
biến đổi nó thành graphene dẫn điện với một lóe sáng đèn flash, ông tin tưởng như vậy.
Ngoài ra, các mặt nạ cản sáng có thể được sử dụng để tạo ra những khuôn mẫu graphene
phức tạp.

Để phát triển nghiên cứu này, đội của Huang hiện đang có kế hoạch sử dụng quá trình
trên chế tạo một mạch điện cấp độ nano, nhưng tiến trình không đơn giản khi nó có liên quan
đến những lượng nhỏ vật liệu vì nhiệt phát sinh bởi xung sáng có thể tiêu tan quá nhanh để
kích ngòi cho một phản ứng.

Nghiên cứu này xuất hiện lần đầu tiên trên tờ Journal of the American Chemical
Society.

24 thuvienvatly.com | © hiepkhachquay
Nhìn thấy các hiệu ứng lượng tử ở cấp vĩ mô

Sự ghép đôi mạnh của chuyển động của một đơn nguyên tử với một độ tự do dao động của một màng kích cỡ
micron có thể thu được trong một hộp hai mode (Ảnh: American Physical Society)

Một sự bố trí nhằm ghép chuyển động của một đơn nguyên tử với một màng tinh thể
có thể cho phép các hiệu ứng cơ lượng tử được trông thấy ở quy mô lớn hơn bao giờ hết tính
từ trước đến nay.

Ý tưởng đó, do các nhà nghiên cứu ở Áo, Đức và Mĩ đề xuất, có thể giúp giải được bí
ẩn vì sao các hiệu ứng lượng tử dường như chỉ xuất hiện ở những chiều kích rất nhỏ trong khi
thế giới hàng ngày bị chi phối bởi vật lí học cổ điển.

“Động cơ thực sự là tìm hiểu xem chúng ta có thể lèo lái cơ học lượng tử đi được bao
xa vào thế giới vĩ mô”, theo Klemens Hammerer, một nhà lí thuyết tại trường Đại học
Innsbruck và là đồng tác giả của bài báo trên. “Vẫn chưa rõ là các ranh giới của cơ học lượng
tử nằm ở đâu. Các vật có thể lớn đến dường nào mà vẫn hành xử theo kiểu cơ lượng tử?”

Từ nhỏ đến lớn

Trong khi tìm cách kiểm tra các ranh giới của cơ học lượng tử, các nhà vật lí đã đi
theo hai lộ trình chính. Một lộ trình liên quan đến việc “bẫy” vài hạt lượng tử vào một trạng
thái lớn đơn lẻ, đôi thi còn gọi là trạng thái “con mèo Schrödinger” sau thí nghiệm tưởng
tượng nổi tiếng mà Erwin Schrödinger đã nghĩ ra. Lộ trình kia là ghép cặp một hạt lượng tử
đơn lẻ với một số thứ vĩ mô, thường là một số dạng dao động tử cơ.

Trở ngại với lựa chọn thứ hai này là một vật vĩ mô có thể nặng hơn gấp 1013 lần, nói
ví dụ, so với một đơn nguyên tử. Để đạt được sự ghép cặp mạnh – nghĩa là, sự ghép cặp có
thể tồn tại lâu hơn các tín hiệu nhiễu khác có mặt trong hệ - cơ chế hay “cái lò xo” của sự
ghép cặp thật quan trọng.

Nhóm của Hammerer, gồm các nhà nghiên cứu tại trường Đại học Ludwig–
Maximilians ở Munich, Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ quốc gia (NIST) ở Boulder,
Colorado, và Viện Công nghệ California (Caltech), đề xuất rằng lò xo đó có thể chọn dạng
một bẫy quang.

© hiepkhachquay | Bản tin Vật lí tháng 8/2009 25


Trong cơ cấu này, hai chùm laser trực giao phản xạ giữa một cặp gương trong hộp sẽ
tạo ra một giếng thế, một nguyên tử sẽ được đặt vào đó. Một màng mỏng chế tạo từ một tinh
thể có chiết suất khúc xạ cao, ví dụ như silicon nitride, sau đó sẽ được đặt liền kề nguyên tử
để tác dụng như một vật vĩ mô trong cơ cấu.

Chuyển động lò xo

Hiệu quả của bẫy quang là một lò xo thu được từ quá trình khuếch đại. Bất kì chuyển
động nào của nguyên tử phản ánh trạng thái lượng tử của nó cũng sẽ làm dịch chuyển màng
tinh thể lân cận. Tuy nhiên, mọi dịch chuyển trong màng sẽ làm thay đổi sự cộng hưởng của
hộp, cái hóa ra sẽ buộc màng – và nguyên tử đó – chuyển động thêm. Chuyển động được
khuếch đại này có thể phát hiện ra hoặc bằng cách chiếu một laser khác lên trên nguyên tử,
hoặc ghi nhận lượng ánh sáng rời khỏi hộp, cái sẽ tiết lộ trạng thái của màng, theo lời các nhà
nghiên cứu.

Hammerer phát biểu với physicsworld.com rằng ông đang hợp tác với một số nhà
thực nghiệm để thi hành đề xuất đó, trong đó có Jeff Kimble ở Caltech và Jun Ye tại NIST,
hai người cũng là đồng tác giả của bài báo. Theo Hammerer, Kimble đã làm chủ được việc
đưa các nguyên tử vào trong bẫy trong các hộp và hiện đang nghiên cứu cách thêm một màng
vào.

Markus Aspelmayer, một nhà vật lí lượng tử tại trường Đại học Vienna, xem đề xuất
của các nhà nghiên cứu trên là “một đóng góp rất quan trọng”. “Nói đại khái, cơ sở vật lí
lượng tử nguyên tử có thể di chuyển sang địa hạt vĩ mô của các bộ cộng hưởng cơ cỡ lớn”,
ông nói. “Hammerer và các cộng sự của ông ta cho thấy chế độ này phải khả thi ngay cả với
các thôgn số thực nghiệm hiện nay. Bài báo này đưa ra một thách thức hấp dẫn với các nhà
thực nghiệm và mở ra lĩnh vực quang cơ lượng tử trước cộng đồng vật lí nguyên tử”.

26 thuvienvatly.com | © hiepkhachquay
Phương pháp mới sản xuất hàng loạt LED vô cơ

Một màn hiển thị LED sử dụng một ma trận LED vô cơ in trên một tấm plastic mỏng. (Ảnh: D. Stevenson và C.
Conway, Viện Beckman, Đại học Illinois)

Một đội nghiên cứu ở Mĩ vừa phát triển được một kĩ thuật sản xuất hàng loạt đi-ôt
phát quang (LED) từ các vật liệu vô cơ trên quy mô thương mại. Quá trình mới có thể cho
phép những nguồn sáng nhỏ xíu này lần đầu tiên mọc được trên nhiều chất liệu đa dạng như
các chất thủy tinh, plastic và cao su. Bước đột phá này có thể dẫn tới những ứng dụng linh
hoạt và mang tính kinh tế như màn hình máy tính và các màn hiển thị dẻo, các nhà nghiên
cứu khẳng định như thế.

LED phát ra ánh sáng đơn sắc khi các electron của chúng kết hợp với các lỗ trống để
hình thành nên các “exciton”. LED thông thường chế tạo bằng vật liệu vô cơ và chúng
thường được chế tạo từ một chồng nhiều lớp bán dẫn mỏng mọc trên các chất nền tròn xếp
lại thành hàng nghìn con chip nhỏ. LED màu lam và lục chế tạo từ các lớp gallium nitride
(GaN) và indium gallium nitride (InGaN), và LED màu đỏ thì chế tạo từ nhôm indium
gallium phosphide (AlInGaP).

Lớp dưới của những LED này chứa các tạp chất có chủ ý nhằm tạo ra sự dư thừa
electron trong vùng này. Các lỗ trống tích điện dương hình thành ở những lớp trên bằng cách
thêm vào một chất biến tính, và khi đặt một điện áp thích hợp qua dụng cụ thì hai hạt mang
điện này sẽ tiến về phía nhau để tái kết hợp và phát ra một photon.

© hiepkhachquay | Bản tin Vật lí tháng 8/2009 27


LED vô cơ sáng, đáng tin cậy và tuổi thọ lâu, đó là nguyên do vì sao chúng được sử
dụng rộng rãi trong các màn hiển thị từ đồng hồ cho đến các biển quảng cáo. Tuy nhiên, việc
dx LED vô cơ thật vất vả vì các nhà sản xuất phải cưa các bánh xốp, loại bỏ đi-ôt, và rồi đặt
đi-ôt trở lại thành những ứng dụng đặc biệt. Ngoài ra, quá trình này còn đòi hỏi những lượng
lớn dây quấn và kích thước ngang của các chip LED có thể không dưới 200 μm, chúng quá
lớn đối với nhiều màn hiển thị.

LED hữu cơ, trái lại, được chế tạo bằng cách kẹp các phân tử gốc cacbon giữa một
chất nền tráng indium thiếc ôxit và một tiếp xúc kim loại. Đặt một điện áp hai đầu cấu trúc
này mang các electron từ một phía của dụng cụ đến với các lỗ trống ở phía bên kia đến, và sự
tái kết hợp của những hạt mang điện này làm phát ra photon.

Đội người Mĩ đứng đầu là nhóm John Rogers tại trường Đại học Illinois, Urbana-
Champaign, vừa khai thác quá trình này từ nền công nghiệp LED nuôi LED hữu cơ và cải
biến chúng cho ngành công nghiệp vô cơ nhiều tỉ đô la đã được thiết lập. Trong minh chứng
cỡ nhỏ của kĩ thuật, các nhà nghiên cứu đã cho lắng một lớp nhôm arsenide (AlAS) và một
LED đỏ lên trên một chất nền gallium arsenide. Sau đó, họ loại bỏ có chọn lọc các phần của
màng bằng kĩ thuật in ảnh litô và khắc vạch rõ “các đảo LED” hình vuông dài 50 μm trên
bánh xốp này. Việc phơi mình sau đó trước axit hydrofluoric loại bỏ đa phần của lớp AlAS
xung quanh để lại một ma trận LED liên kết yếu với chất nền.

Một công cụ in tự động với một con tem mềm nhặt ra một ma trận những con chip
LED nhỏ xíu này và lắng chúng lên trên một chất nền, ví dụ thủy tinh, plastic và cao su. Một
mạng lưới kim loại mỏng trên chất nền này mang lại một tiếp giáp cho LED, trước khi một
tiếp xúc thứ hai được đưa vào với một quá trình in li-tô phẳng hoàn tất tiến trình.

Mặc dù hiện nay kĩ thuật trên có thể dùng chế tạo các màn hiển thị màu đỏ, nhưng
Rogers hiện có kế hoạch phát triển các màn hiển thị màu sắc trọn vẹn bằng việc hoàn thiện
một phương thức đồng thời tạo ra LED màu lam và lục. “Chúng tôi đang chuẩn bị một bản
thảo về nội dung đó”, Rogers phát biểu với physicsworld.com.

Một ứng dụng tiềm năng khác các hệ ánh sáng trắng dùng cho chiếu sáng công cộng,
hiện đang được phát triển bởi một công ti spin-off, CoolEdge. “Chúng tôi còn đang khảo sát
các dụng cụ hồng ngoại và tử ngoại mềm dẻo và có thể kéo căng dùng cho những ứng dụng
nhất định trong y sinh học”, Rogers nói.

Các nhà nghiên cứu công bố công trình của họ trên số mới nhất của tờ Science.

28 thuvienvatly.com | © hiepkhachquay
Dùng vàng kiểm tra hơi thở chẩn đoán ung thu

Các nhà nghiên cứu ở Israel vừa phát minh ra một loại phép kiểm tra hơi thở mới
dùng phát hiện bệnh ung thư phổi ở bệnh nhân, sử dụng các bộ cảm biến chế tạo với các hạt
nano vàng. Mặc dù phép phân tích các chất hạt trong hơi thở không phải là một công cụ mới
trong chẩn đoán ung thư, nhưng đây là kĩ thuật đầu tiên có thể phát hiện ra ung thư mà không
cần xử lí trước hơi thở hắt ra, theo như lời các nhà nghiên cứu.

Ung thư phổi là nguyên nhân cho hơn một phần tư số người chết liên quan đến ung
thư với ước tính 1,3 triệu người đang hấp hối từ khắp thế giới mỗi năm. Kiểm tra hơi thở là
một phương pháp không xâm hại, đã được xác minh, hoạt động bằng cách liên hệ “các hợp
chất hữu cơ dễ bay hơi” (VOC) với những dạng đặc biệt của bệnh ung thư phổi. Hạn chế của
phương pháp này hiện nay là nó đòi hỏi thu thập các mẫu và rồi phân tích chúng bằng những
kĩ thuật như phổ khối và phổ hồng ngoại.

Những hạt vàng nhỏ xíu

Hossam Haick tại Viện Công nghệ Israel và các cộng sự của ông vừa phát triển một
dụng cụ mới dùng phát hiện ung thư trong hơi thở, cái họ nói có thể mang lại một chẩn đoán
hầu như tức thời tình trạng sức khỏe của bệnh nhân. Thành phần chính của dụng cụ mới là
một bộ cảm biến gốc cacbon có nhúng các hạt nano vàng bên trong.

Khi người bệnh thở vào trong dụng cụ đó, các chất hạt trong hơi thở tích góp lại trên
lớp cacbon và bộ cảm biến phồng lên đẩy các hạt nano vàng ra xa nhau, thành ra làm thay đổi
điện trở của màng. Mỗi loại chất hạt có một tác dụng đặc trưng lên điện trở, cái có thể đo

© hiepkhachquay | Bản tin Vật lí tháng 8/2009 29


bằng một dòng điện chạy qua bộ cảm biến. “Người sử dụng thu được một con số trên màn
hiển thị của dụng cụ cho biết người đó đang khỏe mạnh hay bị mắc ung thư”, Haick nói.

Sau khi đưa bộ cảm biến mới vào trong một dụng cụ kiểm tra hơi thở, các nhà nghiên
cứu đã tiến hành một loạt phép kiểm tra nhằm các mục đích chế tạo. Sau khi tuyển 96 tình
nguyện viên – 40 bệnh nhân ung thư và 56 người kiểm chứng – đội nghiên cứu đã xây dựng
một danh mục VOC dựa trên tín hiệu điện có mặt trong hơi thở của người mắc ung thư
nhưng không có mặt trong hơi thở của người kiểm chứng.

Bỏ qua thử nghiệm

Haick và đội của ông hiện đang kiểm tra dụng cụ mới của họ trên nhiều tình nguyện
viên hơn nhằm xem xét tác động của các yếu tố như chế độ ăn, nồng độ cồn và sự di truyền.
Ngoài ra, trong một bước phá vỡ lệ ước trong đổi mới y khoa, các nhà nghiên cứu khẳng định
các thử nghiệm lâm sàng trọn vẹn có lẽ là không cần thiết để đưa công nghệ mới này sang
một giai đoạn sẵn sàng ứng dụng trong bệnh viện. Thay vì thế, họ tin rằng họ có thể chứng
minh độ chính xác của dụng cụ bằng một loạt “hỗn hợp nhân tạo” các chất hạt có thể mô
phỏng hơi thở mắc ung thư và hơi thở khỏe mạnh.

Tony Cass, một kĩ sư y sinh tại trường Cao đẳng Hoàng gia London, nhìn thấy sự hứa
hẹn ở công nghệ mới, nhưng ông có sự dè dặt của mình trước ý kiến bỏ qua các thử nghiệm
lâm sàng. “Công nghệ đó có tiềm năng, nhưng nó sẽ cần sự xác nhận lâm sàng nhiều hơn nữa
trước khi nó được chấp nhận”, ông nói. Cass cảnh báo về sự nguy hiểm của việc chẩn đoán
ung thư trực tiếp theo kiểu đơn giản hóa quá mức. “Việc sử dụng hơi thở „tổng hợp‟ là một
phương thức tốt để kiểm tra một số phương diện của dụng cụ nhưng bản chất của phương
pháp đó sử dụng các ma trận cảm biến và hóa chất đòi hỏi sự ước lượng ở các mẫu phức tạp
– tức là bệnh nhân thực sự”, ông nói.

Ngoài ung thư phổi, dụng cụ mới này còn được sử dụng cho những tác dụng triển
vọng trong chẩn đoán những chứng bệnh khác như suy thận, Haick phát biểu với
physicsworld.com. Cass cũng đồng ý rằng dụng cụ đó có tiềm năng trở nên linh hoạt ngoài
việc là một công cụ y khoa. “Nó có thể sớm tìm thấy công dụng trong việc theo dõi phản ứng
của bệnh nhân với phương thức điều trị và có thể hữu ích trong việc loại trừ những chứng
bệnh khác có thể biểu hiện những triệu chứng tương tự như ung thư phổi trong giai đoạn đầu,
ví dụ như chứng nghẽn mạch phổi kinh niên”, ông nói.

Bài báo nghiên cứu này có mặt trong số mới nhất của tờ Nature Nanotechnology.

30 thuvienvatly.com | © hiepkhachquay
Các kĩ sư kêu gọi xây dựng “cây nhân tạo” để loại bớt CO2

Việc xây dựng một rừng “cây nhân tạo” là một trong những công nghệ triển vọng
nhất nhằm loại trừ cacbon đi-ôxit (CO2) ra khỏi khí quyển, theo một bản báo cáo mới được
công bố bởi Học viện Cơ kĩ thuật ở Anh. Bản báo cáo còn kêu gọi một chương trình quốc gia
Anh dành cho nghiên cứu và đầu tư vào các dự án “địa kĩ thuật” có thể mang lại sự hiểu biết
tốt hơn về những rủi ro và cái giá phải trả của việc làm biến đổi khí hậu.

Đa số những nỗ lực nhằm xử lí sự biến đổi khí hậu đều bao hàm việc cắt giảm sự phát
thải CO2 và vào tháng 12 tới, Hội nghị Liên hiệp quốc về Biến đổi Khí hậu ở Copenhagen lần
đầu tiên sẽ cố gắng thiết lập những mục tiêu liên kết nhằm giảm bớt sự phát thải khí nhà
kính. Cho đến nay, cho dù là đồng ý cắt giảm 50% lượng phát thải CO2 có lẽ cũng không đủ
để làm dừng sự gia tăng nhiệt độ trung bình của hành tinh lên thêm 2oC vào cuối thế kỉ.

Địa kĩ thuật – sự can thiệp có cân nhắc vào hệ thống khí hậu nhằm chống lại sự ấm
lên toàn cầu do con người gây ra – mang lại một giải pháp khác. Bản báo cáo mới, Địa kĩ
thuật – Có cho chúng ta thời gian để hành động?, nhìn vào những lựa chọn địa kĩ thuật khác
nhằm đối phó với sự biến đổi khí hậu, bao gồm việc thêm sắt vào các đại dương để tạo ra các
hoa phytoplankton khi đó hấp thụ CO2 và xây dựng những tấm chắn mặt trời khổng lồ trong
không gian có thể phản xạ các tia Mặt trời ra ngoài.

© hiepkhachquay | Bản tin Vật lí tháng 8/2009 31


Hấp thụ cacbon

Các tác giả - đứng đầu là Tim Fox, trưởng khoa môi trường và biến đổi khí hậu tại
Học viện Cơ kĩ thuật – nhận thấy việc xây dựng “cây nhân tạo” hình cái quạt đập là phương
thức triển vọng nhất để giảm hàm lượng CO2. Một cây như thế sẽ hoạt động bằng cách cho
không khí đi qua vào trong cấu trúc và sau đó bắt lấy CO2 thông qua một chất “sorbat”, ví dụ
như natri hydroxit. CO2 sau đó được loại bỏ và chôn dưới lòng đất theo kiểu giống như bắt và
trữ cacbon thông thường.

Theo bản báo cáo, việc xây dựng 100 000 “cây” như vậy – tốn 20.000 đô la mỗi cây –
sẽ cần 600 hecta đất nhưng sẽ đủ để loại trừ CO2 ra khỏi các hộ dân cư và hệ thống vận tải
của nước Anh.

Tảo là vị cứu tinh

Bản báo cáo còn khuyến nghị phủ bên ngoài các tòa nhà một loại tảo, chúng sẽ hấp
thụ CO2 thông qua sự quang hợp. Các tác giả phát biểu rằng tảo khi đó sẽ được “khai thác
định kì từ các bề mặt công trình và dùng làm nhiên liệu sinh học”.

Khuyến nghị thứ ba là chế tạo bề mặt các tòa nhà phản xạ nhiều hơn. Mặc dù các tác
giả khẳng định phương pháp này không đủ hiệu quả như hai phương pháp kia, nhưng “nó
thật sự có lợi ở chỗ làm giảm nhiệt độ trong các trung tâm thành phố, [cái] có thể thường
nóng hơn vài độ so với môi trường vùng xung quanh”.

Bản báo cáo còn vạch ra một lộ trình 100 năm cho địa kĩ thuật ở Anh, chương trình
kêu gọi 10 triệu bảng tài trợn mỗi năm để giúp mang các nhà khoa học khí hậu, các nhà kinh
tế học và các kĩ sư lại gần nhau đồng thời phát triển và triển khai các “mạng lưới thông
minh” đáp ứng nhu cầu bởi việc truyền thông với các đồng hồ đo điện trong các hộ gia đình.

Một bản báo cáo khác về địa kĩ thuật của Hội Hoàng gia cũng sẽ được công bố vào
hôm thứ tư tới.

32 thuvienvatly.com | © hiepkhachquay
Các phân tử lộ diện huy hoàng trước kính hiển vi

Cấu trúc tinh tế bên trong của một phân tử pentacene được chụp ảnh với một kính hiển vi lực nguyên tử. Đây là
lần đầu tiên các nhà khoa học thu được một độ phân giải làm hé lộ cấu trúc hóa học của một phân tử. Hình dạng
lục giác của năm vòng cacbon trong phân tử pentacene được phân giải rõ ràng. Thậm chí vị trí của các nguyên
tử hydro xung quanh các vòng benzen có thể suy luận ra từ bức ảnh (Ảnh: IBM Research, Zurich)

Các nhà vật lí ở Thụy Sĩ và Hà Lan vừa thiết kế ra một dạng kính hiển vi lực nguyên
tử (AFM) mới có khả năng tiết lộ nhân dạng của từng nguyên tử một trong một phân tử, lần
đầu tiên. Kết quả này là một bước đột phát quan trọng trong lĩnh vực kính hiển vi mặt và có
thể mang lại những kiến thức quan trọng về các phản ứng hóa học cũng như sự phát triển của
các dụng cụ electron độc thân, theo như lời các nhà nghiên cứu.

AFM – được phát minh ra cách nay chừng 20 năm – cho các nhà khoa học cái nhìn
tốt nhất trong việc khảo sát các nguyên tử trên bề mặt của chất cách điện lẫn chất dẫn điện.
Quá trình cơ bản là quét một đầu kim loại nhọn qua một mẫu vật để tạo ra hình ảnh dựa trên
sự cân bằng của những lực nhỏ xíu giữa đầu nhọn và mẫu. Những cải tiến kĩ thuật liên tục đã
cho phép các nhà nghiên cứu nhìn vào các bề mặt một cách chi tiết chưa có tiền lệ, trong đó
có một đột phá hồi năm 2007 khi các nhà nghiên cứu lần đầu tiên làm chủ được việc phân
giải các nguyên tử cô lập trên bề mặt của một chất.

Tập trung vào vấn đề

Tuy nhiên, để cải tiến AFM đến những độ phân giải ngày càng cao hơn, các nhà
nghiên cứu cần phải di chuyển đầu nhọn của kính trong vòng 1nm của mẫu và ở cự li này,
một số thách thức kĩ thuật đã phát sinh. Vấn đề chính là nguy cơ đầu nhọn bị dịch chuyển
sang bên hoặc thậm chí bị hấp thu bởi mẫu do lực tương tác van der Waals – lực hút tĩnh điện
yếu giữa các nguyên tử hay phân tử gần kề nhau phát sinh do các thăng giáng vị trí electron
của chúng. Ngoài ra, khi đầu dò tiến gần hơn đến mẫu, thì điều còn quan trọng hơn nữa là

© hiepkhachquay | Bản tin Vật lí tháng 8/2009 33


biết chính xác kết cấu nguyên tử và dạng hình học của đầu nhọn AFM và với các đầu nhọn
thông thường thì thông tin này không phải lúc nào cũng rõ ràng.

Chụp ảnh “giải phẫu” một phân tử pentacene với độ phân giải nguyên tử - ảnh 3D đã hiệu chỉnh. Bằng cách sử
dụng một đầu kim loại sắc nhọn cỡ nguyên tử tận cùng với một phân tử cacbon monoxit, các nhà khoa học IBM
đã có thể đi trong cự li ngắn chế độ lực cho phép họ thu được ảnh của cấu trúc nội của phân tử đó (Ảnh: IBM
Research, Zurich)

Tuy nhiên, nay một đội nghiên cứu, đứng đầu là Leo Gross thuộc phòng thí nghiệm
nghiên cứu IBM ở Zurich, Thụy Sĩ, đã khắc phục được những trở ngại này để phân giải từng
nguyên tử và từng liên kết một trong một đơn phân tử. Gross hiểu rõ rằng nguyên tử hay
phân tử ở đầu rất nhọn của AFM chi phối độ tương phản và độ phân giải của kính hiển vi. Vì
lí do này, họ đã thay đầu nhọn kim loại của AFM thông thường bằng một đơn phân tử cacbon
monoxit (CO), phân tử rất bền đồng thời là đối tượng chịu lực van der Waals nhỏ hơn nhiều
khi tiếp cận gần với mẫu.

34 thuvienvatly.com | © hiepkhachquay
Để chứng minh công cụ mới của họ, các nhà nghiên cứu đưa đầu nhọn AFM của họ
vào trước một hydrocacbon đã được nghiên cứu rõ gọi tên là pentacene (C22H14, gồm năm
vùng benzen hợp nhất và dài chỉ 1,4nm). Chúng tạo ra một ảnh thể hiện năm vòng cacbon cả
thảy cũng như từng nguyên tử cacbon và hydro riêng lẻ bên trong phân tử đó. Khoảng cách
quan sát được giữa các nguyên tử riêng lẻ chỉ là 0,14nm – độ phân giải tốt nhất từ trước tới
nay cho một AFM.

Một chút may mắn

Gross tiết lộ với physicsworld.com rằng đã có một chút may mắn trong việc khám phá
ra cacbon monoxit làm cho đầu nhọn AFM hoạt động hiệu quả cao vì họ đã chọn phân tử CO
một cách tình cờ trong lộ trình sử dụng AFM bình thường của họ. Tuy nhiên, các nhà nghiên
cứu nhanh chóng nhận ra rằng cải tiến quan sát thấy ở độ phân giải là có ý nghĩa khoa học vì
CO đã được sử dụng trong kính hiển vi quét chui hầm (STM), trong nhiều năm, để cải thiện
độ phân giải vì lí do tương tự.

Gross phát biểu với physicsworld.com rằng đội của ông dự định phát triển nghiên cứu
của họ với mục tiêu ngắn hạn là cải thiện độ phân giải và xây dựng một danh mục những dấu
hiệu hóa học cho nhiều nguyên tử và phân tử khác nhau. Rốt cuộc thì AFM đầu nhọn CO có
thể được dùng để nhận dạng các phân tử quen thuộc chưa được nhận dạng dùng trong phân
tích hóa học. Trong thời gian dài, những dạng mới của AFM như thế này có thể áp dụng cho
nghiên cứu các phản ứng hóa học và xúc tác ở cấp độ nguyên tử.

Nền công nghiệp điện tử cũng có thể hưởng lợi từ kính hiển vi mới này vì một đặc
trưng tốt hơn của cấu trúc phân tử có thể giúp phát triển các dụng cụ electron độc thân. “Mặc
dù chúng tôi đang tập trung vào những cải tiến thực nghiệm cỡ nhỏ, nhưng cũng thật hay là
có những mục tiêu lâu dài”, Gross nói. “Một sự hiểu biết tốt hơn những quá trình điện tử ở
cấp độ phân tử có thể lập nền tảng cho nền điện tử học vượt ngoài CMOS”, ông thêm.

Nghiên cứu này xuất hiện trên số mới nhất của tờ Science.

© hiepkhachquay | Bản tin Vật lí tháng 8/2009 35


Chụp được ảnh ‘vòi bão táp’ trên camera

Một trong những loạt ảnh trích từ chuỗi video thu được của một vòi bão táp quan sát thấy ở gần trường Đại học
Duke. Cơn bão sấm tạo ra vòi phun này nằm cách xa chừng 200 dặm và dưới đường chân trời (Ảnh: Steven
Cummer)

Kể từ khi học giả người Mĩ Benjamin Franklin bất chấp hiểm nguy đương đầu với
bão điện với những cái diều khoa học của ông, việc nghiên cứu sét thường đi cùng với nhà
khảo sát lãng mạn trong cuộc tìm kiếm các câu trả lời khoa học. Những người lãng mạn mới
đây nhất làm sáng tỏ hiện tượng tự nhiên ngoạn mục này là một đội nhà vật lí ở Mĩ, họ đã
làm chủ được việc chụp những bức ảnh chi tiết nhất từ trước đến nay của “vòi bão táp” – một
dạng hiếm thấy của sét ở trên cao bắn thẳng lên trên trời.

Người ta tin rằng vòi bão táp bắt đầu từ sự ghép cặp điện giữa phần thấp nhất của khí
quyển, gọi là tầng đối lưu, và phần khí quyển phía trên ở cao độ 90km, nơi có rất nhiều ion
và electron tự do tồn tại. Dạng sét này đã được quan sát trước đây từ mặt đất và từ trên quỹ
đạo. Nhưng, vì nó xảy ra ở quá cao trong bầu khí quyển, nên chẳng có ai từng tiến đến đủ
gần để nghiên cứu những tính chất điện trong một cú sét như thế.

Đương đầu với bão

Để thu được một bức tranh vật lí cụ thể hơn, đội nghiên cứu tại trường Đại học Duke,
Bắc Carolina, và Trạm Yucca Ridge, Colorado, đã tiến hành quan sát một vòi bão táp đang
hoạt động trong cơn bão nhiệt đới Cristobel hồi tháng 7 năm 2008. Trước sự ngạc nhiên và
may mắn của họ, vào hôm 21 tháng 7, một vòi bão táp đã đánh trong vòng chỉ một vài
kilomet của trạm ghi của các nhà nghiên cứu ở gần Đại học Duke. Các nhà nghiên cứu đã xác
định được chính xác địa điểm và kích cỡ của cú sét bằng kĩ thuật chụp ảnh ánh sáng yếu, và
đã định lượng sự truyền điện tích bằng cách quan sát tín hiệu vô tuyến của tia sét, sử dụng
một loạt bộ cảm biến vô tuyến đặt trên mặt đất.

36 thuvienvatly.com | © hiepkhachquay
Công bố kết quả của họ trên tờ Nature Geoscience, đội nghiên cứu đã ghi được tổng
lượng truyền điện tích từ tầng đối lưu sang tầng điện li là 144C cho chiều dài cú sét ước tính
75km. Giá trị tương đương lượng điện tích truyền trong những cú sét mạnh từ mây xuống đất
nhưng với điện tích truyền theo hướng ngược lại – từ cách xa mặt đất hướng lên khí quyển
tầng trên. “Biết được vòi sét nằm cách các bộ cảm biến của chúng tôi bao xa, cộng với các tín
hiệu vô tuyến, cho phép chúng tôi nói được dòng điện trong vòi sét ấy mạnh bao nhiêu”, theo
Steven Cummer, một kĩ sư điện tại trường Đại học Duke và là trưởng nhóm nghiên cứu.

Các vòi bão táp đã được thu hình trên camera trước đây, nhưng trước đây chúng chỉ
được quan sát thấy từ cách xa nhiều nghìn kilomet. “Chúng tôi đã may mắn thu hình được
vòi sét đủ gần so với các bộ cảm biến của chúng tôi và điều này có nghĩa là chúng tôi có thể
tiến hành những phép đo chính xác cao với sai số rất nhỏ”, Cummer phát biểu với
physicsworld.com.

Những câu hỏi chưa được trả lời

Trong khi nghiên cứu này mang lại bức tranh chính xác nhất từ trước tới nay của các
vòi bão táp, thì nó không hoàn toàn giải được bí ẩn làm thế nào hiện tượng này được kích
hoạt bên trong những đám mây. “Dường như những tia bão táp này có liên hệ với các lớp
chứa nhiều điện tích toàn phần, nhưng thật sự hiểu được cơ chế này sẽ đòi hỏi một số phép
đo cấu trúc nội của các kênh dẫn sét bên trong các đám mây trong những kì phun vòi bão táp,
cái hiện tại chúng tôi chưa làm được”, Cummer nói.

Các nhà nghiên cứu dự định phát triển nghiên cứu này bằng cách quan sát nhiều vòi
bão táp hơn một cách tường tận hơn. “Một việc chúng tôi muốn làm là thu hình một vòi bão
táp với một camera tốc độ cao hơn cái chúng tôi hiện đang sử dụng, để phân giải theo thời
gian xem thật ra chúng phát triển như thế nào”, Cummer tiếp lời. Có thêm nhiều tư liệu hơn
về vòi bão táp sẽ mang lại cho họ ý tưởng tốt hơn về cái có thể tạo ra các vòi bão táp.

Thật may mắn cho các hành khách đi máy bay, hầu như toàn bộ các máy bay thương
mại đều bay bên dưới tầng trên của những đám mây sấm rất cao – lên tới cao độ 15km - từ
đó những vòi bão táp này xuất hiện. Tuy nhiên, có một số máy bay tầm cao cần phải đề
phòng. “Mặc dù các vòi bão táp dường như ít gặp, nhưng chúng có thể ảnh hưởng đến những
thứ không được bảo vệ tốt khỏi tia sét”, Cummer cảnh báo.

© hiepkhachquay | Bản tin Vật lí tháng 8/2009 37


Laser plasmon nén ánh sáng đến kích cỡ nhỏ nhất

Giản đồ bên trái minh họa ánh sáng đang bị nén lại và duy trì trong khe 5nm giữa dây nano và bề mặt bạc bên
dưới. Bên phải là ảnh chụp hiển vi điện tử của thiết kế lai thể hiện trên giản đồ (Ảnh: Xiang Zhang, UC
Berkeley)

Các nhà nghiên cứu tại trường Đại học California ở Berkeley khẳng định họ vừa chế
tạo được laser bán dẫn nhỏ nhất từ trước đến nay. Dụng cụ cấp độ nano mới đó có thể phát ra
ánh sáng trong một không gian kích cỡ chỉ 5nm, nhỏ hơn 100 lần so với đốm sáng tạo ra bởi
các laser thông thường. Kì công này có thể đặt nền tảng cho nhiều ứng dụng, gồm các máy
tính quang sử dụng ánh sáng thay cho electron để xử lí thông tin, các bộ sinh cảm biến và các
mạch quang lượng tử kích cỡ nanomet.

Thông thường, ánh sáng không thể tập trung vào một đốm nhỏ hơn nửa bước sóng
của nó – cái gọi là giới hạn nhiễu xạ. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, các nhà khoa học
đã thành công trong việc nén ánh sáng xuống cấp độ nano bằng cách ghép nó với các
electron dao động tập thể tại bề mặt của các kim loại – cái gọi là plasmon mặt. Những kích
thích thu được của ánh sáng và electron được gọi là “polariton plasmon mặt” hay SPP.

Những nỗ lực trước đây nhằm khai thác SPP để chế tạo các laser plasmon cỡ nano đã
thất bại vì điện trở cố hữu của kim loại hấp thụ mất SPP, làm cho chúng bị tiêu tán hầu như
ngay tức thì sau khi chúng được tạo ra. Hiệu ứng này trở nên tồi tệ hơn khi ánh sáng liên kết
chặt chẽ hơn với bề mặt.

Sóng mang lai

Nay, Xiang Zhang và các cộng sự vừa khắc phục được trở ngại này bằng cách xây
dựng một dụng cụ lai gômg một dây nano bán dẫn cadmium sulphide nằm cách một bề mặt
bạc kim loại một lớp cách điện dày 5nm. Cấu trúc này – các nhà nghiên cứu đặt tên là “sóng
mang plasmon lai” – có thể tập trung ánh sáng vào một diện tích nhỏ hơn 100 lần so với một
đốm bị giới hạn nhiễu xạ. Và, vì nó là phi kim, nó có chút điện trở nhỏ nên SPP có thể tồn tại
lâu hơn.

38 thuvienvatly.com | © hiepkhachquay
Cơ cấu thí nghiệm được Rupert Oulton và các cộng sự sử dụng để nghiên cứu laser plasmon của họ (Ảnh:
Xiang Zhang, UC Berkeley)

Sau đó, các nhà nghiên cứu có thể khuếch đại SPP hiện có bằng cách chiếu ánh sáng
lên trên cấu trúc. “Chúng tôi có thể làm như vậy vì dây nano về cơ bản hoạt động như một bộ
khuếch đại đối với ánh sáng cấp độ nano”, thành viên đội nghiên cứu Rupert Oulton phát
biểu với physicsworld.com. “Đây là cái các nhà khoa học đang cố gắng thu được trong chừng
sáu năm qua và là một cột mốc quan trọng trong việc xoay chuyển nền khoa học của ánh
sáng cỡ nano sang thành công nghệ”.

Kết quả gây hứng thú nhiều vì nó được chứng minh với các chất liệu bán dẫn, chúng
hoàn toàn tương thích với kĩ thuật linh kiện điện tử hiện đại, ông thêm.

Phát hiện ra từng đơn phân tử

Những ứng dụng hấp dẫn nhất xuất hiện từ nghiên cứu này sẽ là những ứng dụng khai
thác lợi ích của ánh sáng cỡ nano được tạo ra. Ví dụ, các tương tác giữa ánh sáng và vật chất
có thể được tăng cường, nghĩa là những hiệu ứng rất yếu sẽ có thể quan sát được. Điều này
có thể vào một lúc nào đó có ích trong việc phát hiện ra từng đơn phân tử, cho phép dò tìm
sinh học cực kì nhạy, Oulton nói.

“Chúng tôi cũng đã chứng tỏ được rằng laser plasmon là rất hiệu quả nên nó có thể
hoạt động theo kiểu tương tự như một laser thông thường”, ông giải thích. “Kích cỡ cực nhỏ
của ánh sáng sẽ làm tăng thêm tốc độ truyền thông quang học, trong khi kích cỡ thu gọn của
dụng cụ sẽ cho phép bạn đóng gói và điều biến hàng nghìn bộ truyền ánh sáng nhỏ xíu này
lên trên một con chip”. Những kế hoạch như thế thật hứa hẹn vì những cỗ máy tính đang tiến
nhanh đến những giới hạn tốc độ của điện tử học và sẽ cần phải chuyển sang quang học để có
thêm một bước nhảy lớn về phía trước, ông nói.

Dụng cụ mới trên là một bước phát triển theo gót chân của một laser nano khác,
“spaser”, phát triển bởi các nhà nghiên cứu đến từ các trường đại học Purdue, Cornell và

© hiepkhachquay | Bản tin Vật lí tháng 8/2009 39


Bang Norfolk. Ở đây, một chất nhuộm ghép với những quả cầu vàng bề ngang chỉ 44nm
được dìm trong dung dịch làm phát ra plasmon mặt khi bị chiếu sáng.

Hướng tới một dụng cụ thực tiễn

Đội nghiên cứu UC Berkeley hiện có kế hoạch cải tiến công nghệ của nhóm bằng
cách kích thích laser của nhóm, sử dụng dòng điện thay cho ánh sáng sao cho dụng cụ thực
tiễn hơn cho công dụng thực tế. “Điều này sẽ không khó – bơm quang học thì kém hiệu quả
hơn bơm điện nhiều, nên công việc khó đã được thực hiện”, Oulton nói.

“Đây thật sự là một công trình tuyệt vời”, người đồng phát minh ra spaser, Vladimir
Shalaev, thuộc trường Đại học Purdue, bình luận. “Và thật hấp dẫn là công trình Berkeley và
NSU-Purdue-Cornell về các laser nano đều xuất hiện hầu như đồng thời, vào lúc cộng đồng
đang chuẩn bị kỉ niệm 50 năm phát minh ra laser vào năm tới. Cả hai loại laser nano đều tiêu
biểu cho những đột phá quan trọng và chúng ta có thể trông đợi nhiều ứng dụng trong ngành
lượng tử học nano, cảm biến, và những lĩnh vực khác thuộc khoa học và công nghệ”.

Nghiên cứu này được công bố trên tập san Nature.

40 thuvienvatly.com | © hiepkhachquay
Liệu ‘Mộc tinh nóng’ có quá gần ngôi sao mẹ?

Ảnh minh họa một Mộc tinh nóng (Ảnh: ESA C Carreau)

Các nhà thiên văn vừa khám phá ra một hành tinh ngoại nặng gấp 10 lần Mộc tinh
nhưng quay xung quanh ngôi sao của nó chưa tới một ngày mỗi vòng. Theo kiến thức hiện
nay về sự hình thành và tiến hóa của hành tinh, các nhà khoa học đã theo vết hành tinh ngoại
tỉ năm tuổi đó vào khoảng một triệu năm trước khi nó bị nuốt chửng vào trong ngôi sao. Tuy
nhiên, một sự chứng kiến như vậy sẽ tương đối hiếm khi xảy ra, cho thấy các nhà vật lí có lẽ
phải xét lại kiến thức của họ về cách thức các ngôi sao tương tác với các hành tinh của
chúng.

© hiepkhachquay | Bản tin Vật lí tháng 8/2009 41


Hành tinh ngoại mới gọi tên là WASP-18b và thuộc một họ gọi là “Mộc tinh nóng” –
gọi như thế vì chúng có cùng cỡ kích thước như Mộc tinh nhưng quay xung quanh ngôi sao
của chúng ở quỹ đạo gần hơn nhiều so với Mộc tinh quay xung quanh Mặt trời. Gần 375
hành tinh ngoại như thế (các hành tinh quay xung quanh những ngôi sao khác ngoài Mặt trời)
đã được phát hiện ra tính cho đến nay. Các nhà thiên văn tin rằng các Mộc tinh nóng hình
thành ở xa ngôi sao đồng hành của chúng và sau đó theo thời gian di cư dần vào phía trong.

WASP-18b được phát hiện bằng phương pháp “đi qua” – trong đó một hành tinh làm
cho ngôi sao chủ của nó lu mờ đi khi nó đi qua giữa ngôi sao đó và Trái đất – bởi chương
trình khảo sát sự đi qua WASP South. Sau đó, quỹ đạo của hành tinh ngoại trên được nghiên
cứu một cách độc lập bằng các quan sát vận tốc xuyên tâm từ máy ghi phổ Coralie. Kĩ thuật
vừa nói đã tính ra khối lượng và chu kì quỹ đạo của một hành tinh ngoại từ sự lắc lư nó gây
ra cho ngôi sao của nó.

Những chỗ phồng to và mômen quay

WASP-18b khoảng bằng mười lần khối lượng Mộc tinh và quay xung quanh ngôi sao
của nó một vòng 0,94 ngày, khiến nó là Mộc tinh nóng thứ hai được xác nhận có chu kì quỹ
đạo chưa tới một ngày. Vì nó quá to và quá gần ngôi sao của nó (chỉ bằng ba lần bán kính
sao), nên các tương tác thủy triều sẽ làm kéo dài cả hành tinh lẫn ngôi sao dọc theo đường
thẳng nối liền tâm của chúng. Tuy nhiên, cả ngôi sao và hành tinh đều đang quay tròn xung
quanh trục tương ứng của chúng, và những chỗ phình to thu được và mômen quay sẽ làm cho
WASP-18b xoắn ốc về phía trong cho đến khi nó bị nhận chìm và bị phá hủy bởi ngôi sao
của nó trong vòng chưa tới một triệu năm.

Andrew Collier-Cameron thuộc trường đại học St Andrew ở Anh và các cộng sự ở
Thụy Sĩ, Bỉ và Mĩ vừa chứng minh rằng ngôi sao đó khoảng chừng một tỉ năm tuổi. Người ta
tin rằng các ngôi sao và hành tinh của chúng được hình thành cùng lúc, cho nên WASP-18b
cũng có tuổi bằng chừng ấy. Điều này có nghĩa là đội nghiên cứu hoặc là đã chộp được hành
tinh ngoại đó ở một thời điểm hiếm gặp trong thời gian sống của nó – vì nó mới chỉ bị nuốt
chửng bởi ngôi sao – hoặc là ngôi sao tiêu thụ rất tệ năng lượng thủy triều giữa nó và hành
tinh. Cách giải thích thứ hai sẽ làm tăng đáng kể thời gian sống của WASP-18b và, nếu được
xác nhận, sẽ buộc các nhà thiên văn suy nghĩ lại kiến thức của họ về các tương tác thủy triều
trong các hệ hành tinh và cách thức các hệ mặt trời tiến hóa.

Một cách giải thích khác, đưa ra bởi Douglas Hamilton thuộc trường đại học
Maryland, người không có liên quan trong nghiên cứu hiện tại, là WASP-18b có lẽ đã tương
tác với một hành tinh khác nữa sau khi đạt tới kích cỡ trọn vẹn (và khi nó vẫn nằm cách
tương đối xa ngôi sao bố mẹ của nó). Một quá trình như vậy khi đó sẽ có thể sẽ đẩy WASP-
18b đến gần ngôi sao hơn.

“Hay, có thể cái gì đó đang giữ hành tinh chống lại lức kéo về phía trong của thủy
triều?”, Hamilton nghi vấn. “Chẳng hạn, một mặt được hiểu biết nghèo nàn của sự đối lưu
sao hay một tính chất tinh vi nào đó chưa rõ của bản thân thủy triều”. Toàn bộ những khả
năng này đều cần được giải quyết chặt chữ hơn, ông nhấn mạnh.

42 thuvienvatly.com | © hiepkhachquay
Collier-Cameron và các cộng sự nói nếu WASP-18b đang xoắn ốc nhanh chóng vào
phía trong, thì các hiệu ứng phải trở nên có thể thấy được trước kính thiên văn trong vòng
một thập kỉ thôi và như vậy chúng sẽ được đo lường.

Nghiên cứu này báo cáo trên tập san Nature.

http://thuvienvatly.com
http://www.scribd.com/hkqam3639

© hiepkhachquay | Bản tin Vật lí tháng 8/2009 43

You might also like