You are on page 1of 16

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC

VÀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC

I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC


Sơ lược quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin về vấn đề dân tộc
Dân tộc là vấn đề rộng lớn, bao gồm những quan hệ về chính trị, kinh tế, lãnh thổ,
pháp lý, tư tưởng và văn hoá giữa các dân tộc, các nhóm dân tộc và bộ tộc.
- Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, dân tộc là sản phẩm của quá trình
phát triển lâu dài của lịch sử.
+ Mác-Ăngghen đã đặt nền móng tư tưởng cho việc giải quyết vấn đề dân tộc một
cách khoa học.
Hình thức cộng đồng tiền dân tộc như thị tộc, bộ tộc, bộ lạc. Sự phát triển của chủ nghĩa
tư bản dẫn đến sự ra đời của các dân tộc tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản bước sang
giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các nước đế quốc thi hành chính sách vũ trang xâm lược,
cướp bóc, nô dịch các dân tộc nhỏ từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa. Mác và
Ăngghen nêu lên quan điểm cơ bản có tính chất phương pháp luận để nhận thức và giải
quyết vấn đề nguồn gốc, bản chất của dân tộc, những quan hệ cơ bản của dân tộc, thái độ
của giai cấp công nhân và Đảng của nó về vấn đề dân tộc.
+ Lênin đã phát triển quan điểm này thành hệ thống lý luận toàn diện và sâu sắc về vấn
đề dân tộc, làm cơ sở cho cương lĩnh, đường lối, chính sách của các Đảng Cộng sản về
vấn đề dân tộc. Trong đó đáng chú ý là các vấn đề:
+ Sự thức tỉnh ý thức dt, phong trào đấu tranh chống ap bức dt sẽ dẫn đến hình thành các
quốc gia dt độc lập.
+ Với việc tăng cường và phát triển các mối quan hệ giữa các dt sẽ dẫn tới việc phá hủy
hàng rào ngăn cách giữa các dt, thiết lập sự thống nhất quốc tế của CNTB, của đời sống
KT-CT-XH . . .

Cả cuộc đời của Hồ Chí Minh đã dành trọn cho nhân dân, cho đất nước, cho sự nghiệp
đấu tranh giải phóng con người, giải phóng nhân loại cần lao, thoát khỏi mọi áp bức, bất
công, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Cũng chính vì vậy mà vần đề dân
tộc và giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam đã được Người quan tâm,
nung nấu suốt cả đời. Vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề dân tộc thuộc
địa
Khi các nước đế quốc đi xâm chiếm thuộc địa để mở rộng thị trường, chúng thực
hiện sự áp bức về chính trị, bóc lột về kinh tế, nô dịch về văn hoá đối với các nước bị
xâm chiếm- thì vấn đề dân tộc trở thành vấn đề dân tộc thuộc địa.
Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu tranh giải phóng dân tộc
thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân tộc, xoá bỏ
ách áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập nhà nước
dân tộc độc lập.
Vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại cách mạng vô sản đầu
thế kỷ XX có mấy luận điểm cơ bản sau:
1) Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của các dân tộc.
Giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam - một nước thuộc địa nửa phong kiến, trước hết
phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đuổi quân xâm lược, đánh đổ bọn
tay sai, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hoà bình và thống nhất đất nước.
Độc lập, tự do, hoà bình và thống nhất đất nước là khát vọng cháy bỏng của người dân
mất nước. Bởi, mất nước là mất tất cả. Sống trong cảnh nước mất, nhà tan, mọi quyền lực
nằm trong tay quân xâm lược và bọn tay sai thì quyền sống của con người cũng bị đe doạ
chứ nói gì đến quyền bình đẳng, tự do, dân chủ của mọi người. Nếu có, đó chỉ là thứ tự
do cướp bóc, bắt bớ, giết hại và tù đày của quân xâm lược và bọn tay sai. Chính vì vậy
mà “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, một trong những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh
trong cách mạng Việt Nam đã trở thành chân lý của dân tộc Việt Nam và của cả nhân loại
có lương tri.
Độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân – tư tưởng đó của Hồ Chí Minh đã trở thành
mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đó được quán triệt trong toàn bộ
tiến trình cách mạng Việt Nam và nó được thể hiện nổi bật trong các thời điểm có tính
bước ngoặt lịch sử.

+ Tất cả các dân tộc trên thế giới phải được độc lập hoàn toàn và thật sự. Độc lập trên tất
cả các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, toàn vẹn lãnh thổ. Mọi vấn đề của chủ
quyền quốc gia do dân tộc đó tự quyết định. Theo Hồ Chí Minh độc lập tự do là khát
vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa và theo nguyên tắc: Nước Việt Nam là của người
Việt Nam, do dân tộc Việt Nam quyết định, nhân dân Việt Nam không chấp nhận bất cứ
sự can thiệp nào từ bên ngoài. Trong nền độc lập đó mọi người dân đều ấm no, tự do,
hạnh phúc, nếu không độc lập chẳng có nghĩa gì. Hồ Chí Minh nói: “chúng ta đã hy sinh,
đã giành được độc lập, dân chỉ thấy giá trị của độc lập khi ăn đủ no, mặc đủ ấm”. Tư
tưởng này thể hiện tính nhân văn cao cả và triệt để cách mạng của Hồ Chí Minh. Độc lập
tự do là quyền tự nhiên của dân tộc, thiêng liêng và vô cùng quý giá. Hồ Chí Minh đã tiếp
xúc với Tuyên ngôn độc lập của Mỹ 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của
Pháp 1791, Người đã khái quát chân lý: “Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều có
quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Trong hành trình tìm đường cứu nước cho dân tộc khi còn ở Pháp Nguyễn Ái Quốc đấu
tranh để đòi các quyền cho nhân dân An Nam:
Một là, đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản xứ Đông Dương như đối
với châu Âu, xoá bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh, thay thế bằng chế độ đạo luật.
Hai là, đòi quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân, tự do ngôn luận, tự do báo chí,
hội họp, tự do cư trú ... Ngày 18/6/1919, Nguyễn Ái Quốc thay mặt những người Việt
Nam yêu nước tại Pháp gửi đến hội nghị Véc-xây bản yêu sách của nhân dân An-nam đòi
quyền bình đẳng cho dân tộc Việt Nam. Bản yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái
Quốc rút ra bài học: Muốn bình đẳng thực sự phải đấu tranh giành độc lập dân tộc- làm
cách mạng, muốn giải phóng dân tộc chỉ có thể trông cậy vào chính mình, vào lực lượng
của bản thân mình.
Điều này thể hiện ở mục tiêu của cách mạng Việt Nam là: Đánh đổ Đế quốc Pháp và
phong kiến, làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập. Sau Cách mạng Tháng 8 thành công,
Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập và khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền
hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc
Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ quyền tự
do độc lập ấy”.
+ Hoà bình chân chính trong nền độc lập dân tộc để nhân dân xây dựng cuộc sống ấm no
hạnh phúc cũng là quyền cơ bản của dân tộc. Hoà bình không thể tách rời độc lập dân
tộc, và muốn có hoà bình thật sự thì phải có độc lập thật sự. Hồ Chí Minh đã nêu: “Nhân
dân chúng tôi thành thật mong muốn hoà bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên
quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ độc lập và chủ quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh
thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”. Chân lý có giá trị cho mọi thời đại: “Không có
gì quý hơn độc lập, tự do”. Độc lập dân tộc phải gắn liền với sự thống nhất toàn vẹn lãnh
thổ quốc gia.

2) Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn ở các nước đang đấu tranh giành
độc lập.
Do kinh tế lạc hậu, sự phân hoá giai cấp chưa triệt để, vì thế “cuộc đấu tranh giai cấp
không diễn ra giống như ở phương Tây”, điều này có ý nghĩa đối với các dt phương
đông: có sự tương đồng lớn, dù là ai, cũng đều là nô lệ mất nước. Chủ nghĩa dt bản xứ là
chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa dt chân chính, động lực to lớn để phát triển đất nước.
Khác với chủ nghĩa xô vanh, chủ nghĩa dt hẹp hũi của các nước tư bản. Do kinh tế chưa
phát triển, nên sự phân hóa giai cấp ở Đông Dương chưa triệt để, sự dấu tranh gc không
giống như ở Phương Tây. NAQ kiến nghị quốc tế cộng sản "phát động chủ nghĩa dt bản
xứ nhân danh quốc tế cộng sản ...KHi chủ nghĩa dt của họ thắng lợi...nhất định chủ nghĩa
dt ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế".
3) Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế
Dưới ánh sáng của CNMLN khi Hồ Chí Minh bàn đến vấn đề dân tộc và cách mạng giải
phóng dân tộc thì độc lập dân tộc phải gắn với CNXH, mối quan hệ dân tộc và giai cấp
được đặt ra.
Vấn đề dân tộc bao giờ cũng được nhận thức và giải quyết theo lập trường của một giai
cấp nhất định. Theo quan điểm của CNMLN, chỉ trên lập trường của giai cấp vô sản, cách
mạng vô sản mới giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc. Trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản,
Mác-Ăngghen đã đề cập mối quan hệ dân tộc và giai cấp: cuộc đấu tranh của giai cấp vô
sản nhằm lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản, ở giai đoạn đầu của nó là mang tính chất
dân tộc. Mác kêu gọi “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền,
phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành giai cấp dân tộc,... không
phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu”. Cũng theo Mác –Ăngghen, chỉ có giai cấp
vô sản mới thống nhất được lợi ích dân tộc- lợi ích của mình với các lợi ích của nhân dân
lao động và của cả dân tộc. Chỉ có xoá bỏ áp bức, bóc lột giai cấp thì mới xoá bỏ áp bức
dân tộc, đem lại độc lập thật sự cho dân tộc mình và cho dân tộc khác. Tuy nhiên, Mác và
Ăngghen không đi sâu nghiên cứu vấn đề dân tộc vì ở Tây Âu vấn đề dân tộc đã được
giải quyết trong cách mạng tư sản, đối với Mác, vấn đề dân tộc chỉ là thứ yếu so với vấn
đề giai cấp.
Thời đại Lênin, khi CNĐQ đã trở thành một hệ thống thế giới, cách mạng giải phóng dân
tộc trở thành bộ phận của cách mạng vô sản, Lênin mới phát triển vấn đề dân tộc thành
học thuyết về cách mạng thuộc địa. Lênin cho rằng, cách mạng vô sản ở chính quốc
không thể giành thắng lợi nếu không liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp
bức ở thuộc địa. Khẩu hiệu của Mác được bổ sung: “vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị
áp bức, đoàn kết lại.” Lênin đã thực sự “đặt tiền đề cho một thời đại mới, thật sự cách
mạng trong các nước thuộc địa.”
Hồ Chí Minh, từ chủ nghĩa yêu nước đến với CNMLN, đã nhận thức được mối quan hệ
chặt chẽ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
lựa chọn cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Hồ Chí Minh
nêu, các nước thuộc địa phương Đông không phải làm ngay cách mạng vô sản, mà trước
hết giành độc lập dân tộc. Có độc lập dân tộc rồi mới bàn đến cách mạng XHCN. Từ thực
tiễn của đấu tranh cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã phê phán quan điểm của các đảng
cộng sản Tây Âu không đánh giá đúng vai trò, vị trí, tương lai của cách mạng thuộc địa,
và Nguyễn Ái Quốc đi đến luận điểm: “Các dân tộc thuộc địa phải dựa vào sức mình là
chính, đồng thời biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân lao
động thế giới để phải đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, từ cách mạng giải phóng dân
tộc tiến lên làm cách mạng XHCN.” Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp dân tộc với giai
cấp, dân tộc với quốc tế, độc lập dân tộc với CNXH thể hiện một số điểm sau:
+ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh thấy rõ mối quan hệ
giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với sự nghiệp giải phóng giai cấp của giai cấp vô sản.
“Cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của CNCS và của cách mạng thế
giới”.
Năm 1930, trong chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, Hồ Chí Minh xác định con
đường của cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: làm “tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Năm 1960, Hồ Chí Minh xác định “chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng được các dân
tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về sự gắn bó giữa độc lập dân tộc và CNXH vừa phản ánh quy luật khách quan của
sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ
khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với các mục tiêu giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người. Do đó “giành được độc lập rồi phải tiến lên
CNXH, vì mục tiêu của CNXH là “làm sao cho dân giàu, nước mạnh”, “là mọi người
được ăn no, mặc ấm, sung
+ Độc lập cho dân tộc mình và cho tất cả các dân tộc khác. Hồ Chí Minh không chỉ
đấu tranh cho độc lập dân tộc mình mà còn đấu tranh cho tất cả các dân tộc bị áp bức.
“Chúng ta phải tranh đấu cho tự do, độc lập của các dân tộc khác như là đấu tranh cho
dân tộc ta vậy”. Chủ nghĩa dân tộc thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Hồ Chí
Minh nêu cao tinh thần tự quyết của dân tộc, song không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả
của mình trong việc giúp đỡ các đảng cộng sản trên thế giới.
Phân tích:

trả lời câu hỏi của nữ đồng chí Rôdơ, thư ký Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp,
họp ngày 29 tháng 12 năm 1920: Tại sao đồng chí lại bỏ phiếu cho Quốc tế III? Hồ Chí
Minh trả lời: “Rất giản đơn. Tôi không hiểu chị nói thế nào là chiến lược, chiến thuật vô
sản và nhiều điểm khác. Nhưng tôi hiểu rõ một điều: Quốc tế III rất chú ý đến vấn đề
thuộc địa… Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi
muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu.” (1)
Cũng ngay tại nước Pháp, giữa năm 1922, sau khi làm việc với Bộ trưởng Bộ Thuộc địa
Pháp Anbe Xarô, Hồ Chí Minh đã nói thẳng với ông ta mong muốn của mình và của nhân
dân Việt Nam rằng: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc
tôi được độc lập…” (2)
Năm 1945, đứng trước thời cơ mới của cách mạng nước ta, khi nói chuyện với đồng chí
Võ Nguyên Giáp, Hồ Chí Minh khẳng định: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù phải đốt
cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải cương quyết giành cho được độc lập.” (3)
Năm 1966, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và
hải quân, Hồ Chí Minh kêu gọi: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc
lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song
nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do.” (4)
Hồ Chí Minh coi mục tiêu đấu tranh vì độc lập của Tổ quốc, tự do của đồng bào là lẽ
sống của mình. Quyền độc lập dân tộc không tách rời quyền con người và độc lập là điều
kiện tiên quyết để mang lại hạnh phúc cho mọi người dân của đất nước mình. Đồng thời,
độc lập dân tộc còn là điều kiện để dân tộc Việt Nam được quyền sống bình đẳng với các
dân tộc khác trên thế giới và các dân tộc trong nước ta được chung sống bên nhau một
cách bình đẳng, hoà thuận và cùng nhau đi tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Thứ hai, sau khi giành được độc lập dân tộc phải đưa đất nước tiến lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội, nhằm giải phóng con người, giải phóng xã hội, xoá bỏ nghèo nàn và lạc
hậu, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi người, mọi dân tộc.
Giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam nếu chỉ dừng lại ở cuộc đấu tranh
để giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân thì sự nghiệp cách mạng đó mới chỉ đi
được một chặng đường ngắn mà thôi. Bởi có độc lập, có tự do mà nhân dân vẫn đói khổ,
thì nền độc lập tự do ấy cũng chẳng có ý nghĩa gì.
Hồ Chí Minh đã thấu hiểu cảnh sống nô lệ, lầm than, đói rét và tủi nhục của nhân dân các
dân tộc Việt Nam trong thời thực dân, phong kiến. Bởi vậy, một trong những nhiệm vụ
quan trọng có ý nghĩa quyết định của sự nghiệp giải phóng xã hội, giải phóng con người,
theo Hồ Chí Minh là phải xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới xây dựng cuộc sống ấm
no, tự do và hạnh phúc thật sự cho tất cả mọi người.
Đó là ước nguyện, là ham muốn tột bậc của Hồ Chí Minh và là ước nguyện mong mỏi
bao đời nay của nhân dân các dân tộc Việt Nam. Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham
muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn
toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.” (5)
Thực hiện được ước nguyện đó, theo Hồ Chí Minh chính là nhằm giải quyết một cách
triệt để và thiết thực vấn đề dân tộc ở một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Thế nhưng đi về đâu và xây dựng một xã hội như thế nào để thực hiện được ước nguyện
đó nhân dân các dân tộc Việt Nam cũng như cho cả nhân loại bị áp bức, bóc lột? Đó là
điều trăn trở, ưu tư không chỉ ở Hồ Chí Minh mà ở tất cả những người có lương tri, trọng
đạo lý, trọng nghĩa tình khác. Sự bắt gặp và điểm tương đồng trong tư duy giữa Hồ Chí
Minh với những người sáng lập ra học thuyết cách mạng và khoa học của thời đại cũng
chính là ở chỗ đó.
Chứng kiến cảnh sống lầm than, khổ cực, bị bóc lột tới thậm tệ của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động ở thuộc địa và chính quốc, chứng kiến cảnh sống trái ngang của bọn tư
sản, thực dân giàu có và gian ác, nên con đường giải phóng xã hội, giải phóng con người
mà cả Hồ Chí Minh và C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I. Lênin đều khẳng định là phải tiến lên
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, chứ không phải là đi theo con đường tư bản chủ
nghĩa, càng không phải là quay trở lại chế độ phong kiến.
Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định trước sau như một, là chỉ có chủ nghĩa xã
hội mới có đủ cơ sở và điều kiện để thực hiện công cuộc giải phóng con người một cách
triệt để và thiết thực. Tức là thực hiện được đầy đủ các quyền của con người, trong đó có
quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của tất cả mọi người.
Cũng chính vì vậy mà con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và độc lập phải gắn liền với chủ
nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh, và là mục tiêu chiến
lược trong sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam suốt hai phần ba thế kỷ và
mãi mãi về sau.
Xuất phát từ hoàn cảnh của Việt Nam, đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp
nghèo nàn, hậu quả của bọn thực dân, phong kiến để lại rất nặng nề nên Hồ Chí Minh cho
rằng: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng,
ai nấy được học hành, ốm đau có thuốc, già không lao động thì được nghỉ, những phong
tục tập quán không tốt dần dần được xoá bỏ… tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất
ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội.” (6)
Thứ ba, phải thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc và đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau
cùng tiến bộ trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Lịch sử của Việt Nam đã chứng minh trong cộng đồng các dân tộc ở nước ta khồng hề có
dân tộc lớn (dân tộc nhiều người) đi áp bức, bóc lột dân tộc nhỏ (dân tộc ít người), mà
quan hệ giữa các dân tộc với nhau là quan hệ anh em, ruột thịt. Truyền thống quý báu đó
của dân tộc Việt Nam như Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Đồng bào Kinh hay Thổ,
Mường hay Mán, Giarai hay Êđê, Xơđăng hay Bana… đều là con cháu Việt Nam, đều là
anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, nó đói giúp
nhau.”(7)
Bên cạnh việc lên án thủ đoạn đê hèn của bọn thực dân, phong kiến dùng chính sách
“chia để trị” nhằm chia rẽ các dân tộc Việt Nam và để kìm hãm các dân tộc trong vòng
nghèo nàn và dốt nát, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tính ưu việt của chế độ mới để nhằm giải
quyết đúng đắn vấn đề dân tộc ở Việt Nam: “Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước
ta là: Các dân tộc đều bình đẳng và phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ nhau như
anh em. Đồng bào miền xuôi phải ra sức giúp đỡ đồng bào miền ngược cùng tiến bộ về
mọi mặt.” (8)
Hậu quả của chế độ thực dân phong kiến và các thế lực thù địch chống phá cách mạng để
lại ở Việt Nam là rất nặng nề; để khắc phục hậu quả đó nhằm thực hiện quyền bình đẳng
giữa các dân tộc và xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho đồng bào miền xuôi cũng
như miền ngược, Hồ Chí Minh luôn coi trọng tình đoàn kết, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau
giữa các dân tộc anh em ở trong nước. Bởi, chỉ có trên cơ sở đoàn kết mới tạo nên sức
mạnh to lớn cho cách mạng Việt Nam để thực hiện thắng lợi các mục tiêu của cách mạng
đã đề ra.
Sau khi chủ trì Hội nghị Trung ương lần thức Tám (5 – 1941), nhận thấy cơ hội cứu nước
đang đến gần, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào cả nước, trong thư Người viết: “…
Hỡi các bậc phú hào yêu nước, thương nòi! Hỡi các bạn công nông, binh, thanh niên, phụ
nữ, công chức, tiểu thương! Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy.
Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra
khỏi nước sôi lửa bỏng.” (9)
Hồ Chí Minh chẳng những là người quan tâm đến đoàn kết dân tộc, mà chính Người là
hiện thân của sự đoàn kết đó, là người trực tiếp tổ chức khối đại đoàn kết toàn dân, kiên
quyết đấu tranh chống lại mọi biểu hiện gây chia rẽ, hiềm khích, kỳ thị dân tộc để thực
hiện tình đoàn kết trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Bài học kinh nghiêm về đoàn
kết trong cách mạng Việt Nam được Người tổng kết thành 14 chữ vàng như sau:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”
Để thực hiện quyền bình đẳng và xây dựng tình đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ
trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, xuất phát từ hoàn cảnh và điều kiện sống của
các dân tộc ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến đồng bào dân tộc ít
người, sống ở miền núi, vùng sâu và vùng xa của đất nước. Bởi, theo Người so với đồng
bào sống ở miền xuôi, vùng đồng bằng và đô thị, thì đời sống của đồng bào ở miền núi,
xét trên mọi phương diện, còn thấp và gặp rất nhiều khó khăn. Thực tế cho thấy, miền núi
và vùng sâu, vùng xa của đất nước ta, là nơi có điều kiện tự nhiên không thuận lợi, trình
độ sản xuất và văn hoá của nhân dân nơi đây còn rất thấp. Nơi ăn, chốn ở, trường hợc, cơ
sở y tế và giao thông đi lại còn nhiều khó khăn và thiến thốn. Bên cạnh đó, do trình độ
dân trí thấp nên những thủ tục lạc hậu, mê tín, di đoạn còn rất nặng nề.
Hơn nữa, khu vực miền núi nước ta – nơi làm ăn sinh sống chủ yếu của đồng bào các dân
tộc ít người, là nơi giáp biên giới với số nước láng giềng, xa đồng bằng, địa bàn hiểm trở,
dân cư thưa thớt, nhiều vùng vốn là căn cứ địa cách mạng quan trọng của cách mạng Việt
Nam trước đây. Bởi vậy, quan tâm đến đồng bào dân tộc ít người vừa thể hiện tính nhân
văn sâu sắc của Hồ Chí Minh trong chế độ mới, vừa có ý nghĩa kinh tế và quốc phòng to
lớn đối với cả hiện tại và tương lai của đất nước.
Sự quan tâm, giúp đỡ đối với đồng bào các dân tộc ít người theo Hồ Chí Minh, là trách
nhiệm của toàn Đảng và toàn dân, của tất cả các cấp, các ngành, từ Trung ương đến địa
phương, bằng những việc làm cụ thể và thiết thực.
Thứ tư, phải đoàn kết, thương yêu người Việt Nam sống ở nước ngoài và thân thiện với
người nước ngoài sống ở Việt Nam.
Vì nhiều lý do khác nhau, dẫn đến một thực tế của đời sống thế giới, là người dân của
nước này đến cư trú và làm ăn sinh sống ở nước khác và ngược lại. Giải quyết thực trạng
đó ở mỗi quốc gia, dân tộc và mỗi chính đảng, thậm chí với từng nhà lãnh đạo có những
quan điểm và chủ trương chính sách khác nhau.
Đối với người Việt Nam sống xa Tổ quốc, Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết, thương yêu
họ, kêu gọi họ hướng về quê hương đất nước, nơi quê cha, đất tổ của mình, vì tất cả bà
con đều là “con Lạc cháu Hồng” của đất Việt. Đồng thời, Người cũng kêu gọi và khuyên
nhủ bà con phải giữ mối quan hệ thân thiện với nhân dân các nước và thực hiện tốt luật
pháp của họ. Trong những năm chiến tranh và cách mạng, với lòng yêu nước, thương
dân, Hồ Chí Minh đã thu phục được nhiều trí thức tài ba về nước phục vụ Tổ quốc, phục
vụ nhân dân, trong đó có người đã trở thành anh hùng của Việt Nam.
Đối với người nước ngoài sống ở Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn thể hiện thái độ ôn hoà và
thân thiện với họ. Trong Lời tuyên bố với quốc dân sau khi đi Pháp về (23 tháng 10 năm
1946), Hồ Chí Minh nêu rõ:
“Người Pháp ở Pháp đối với ta rất thân thiện, thì người Việt ở Việt đối với người Pháp
cũng nên thân thiện. Đối với quân đội Pháp ta phải lịch sự. Đối với kiều dân Pháp ta phải
ôn hoà. Để tỏ cho thế giới biết rằng ta là một dân tộc văn minh. Để cho số người Pháp
ủng hộ ta càng thêm đông, sức ủng hộ càng thêm mạnh. Để cho những kẻ thù khiêu khích
muốn chia rẽ, không có thể và không có cớ mà chia rẽ. Để cho công cuộc thống nhất và
độc lập của chúng ta chóng thành công.” (10)
Đối với người Hoa sống ở Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng thể hiện quan điểm trước sau
như một là đoàn kết, thân thiện và bảo vệ tài sản, tính mạng cũng như quyền làm ăn chính
đáng của họ trên đất nước Việt Nam, như công dân Việt Nam. Theo Người, chẳng phải
hôm qua hôm nay người Hoa kiều mới đến Đông Dương. Họ đã ở đây, họ đã luôn giữ
một địa vị rất quan trọng trong đời sống kinh tế của Đông Dương. Nhưng chưa bao giờ
lại có những cuộc xung đột giữa người Việt Nam với người Hoa trên đất nước Việt Nam.
Trong “Thư gửi anh em Hoa kiều” nhân ngày Độc lập 2 – 9 – 1945, Hồ Chí Minh nêu rõ:
“Hai dân tộc Trung - Việt chúng ta, mấy ngàn năm nay, huyết thống tương thông, chung
nền văn hoá, trong lịch sử vẫn được gọi là hai nước anh em; hơn nữa, đất nước liền kề,
núi sông kế tiếp, càng như môi vớI răng che chở cho nhau. Ngót trăm năm nay, đế quốc
xâm lược Viễn Đông, giặc Pháp cưỡng chiếm nước ta, lấy đó làm bàn đạp xâm lược
Trung Quốc. Hai dân tộc anh em phương Đông chúng ta lại chịu chung nổi khổ cực bị áp
bức và xâm lược.”
Xuất phát từ quan hệ đặc biệt giữa hai dân tộc và hai nước anh em, trong thư, Hồ Chí
Minh đã nhấn mạnh đến chính sách cơ bản của Đảng và Nhà nước ta đối với bà con Hoa
Kiều đang làm ăn, sinh sống ở Việt Nam: “Chính phủ nhân dân lâm thời Việt Nam đã lập
tức tuyên bố xoá bỏ mọi luật pháp của Pháp trước đây áp đặt lên Hoa kiều, xác định
chính sách cơ bản là bảo đảm tự do, hoan nghênh Hoa kiều cùng nhân dân Việt Nam
chung sức xây dựng nước Việt Nam mới.
Mong rằng anh em hai nước chúng ta thân mật đoàn kết, có việc gì thì giải quyết với
nhau theo nguyên tắc hợp pháp lý với thái độ kính trọng nhường nhịn lẫn nhau, không
được vì những việc tranh chấp nhỏ của cá nhân mà gây điều bất hạnh ngăn cách giữa hai
dân tộc…” (11)
Ngoài ra, đối với các dân tộc và quốc gia khác trên thế giới, quan điểm của Hồ Chí Minh
là tôn trọng nền độc lập dân tộc, không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia,
dân tộc khác, đồng thời thực hiện quyền bình đẳng giữa các quốc gia, dân tộc với nhau.
Quan điểm đó của Người được khẳng định trong bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ, ngày 2
– 9 – 1945 rằng: “… tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào
cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” (12)
Chẳng đường lịch sử hơn 70 năm qua kể từ ngày ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn trung thành với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và những
quan điểm tư tưởng của Hồ Chí Minh về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc đề ra chính
sách dân tộc đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Chính sách đó vừa phù hợp với hoàn
cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, vừa phù hợp với xu thế phát triển tiến bộ của nhân
loại, nên nó đã được cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam đón nhận với niềm phấn khởi và
đầy tin tưởng, cũng bởi lẽ đó mà cách mạng Việt Nam có được sức mạnh to lớn để hoàn
thành thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay.
Vấn đề dân tộc mà Hồ Chí Minh đề cập đến trong tư tưởng của mình được thể hiện tập
trung chủ yếu ở các nội dung về quyền dân tộc, quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, và quan
hệ giữa Việt Nam với các quốc gia, dân tộc trên thế giới.
Về quyền dân tộc, Hồ Chí Minh cho rằng tất cả các dân tộc trên thế giới đều bình
đẳng; tức độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc.
Sinh ra trong cảnh nước mất nhà tan, tận mắt chứng kiến sự chà đạp của ngoại bang lên
tự do độc lập của đất nước, được kết tinh, hun đúc từ tinh thần nồng nàn yêu nước của
người dân nước Việt, Hồ Chí Minh cho rằng: đối với một người dân mất nước, cái quí
nhất trên đời là độc lập của tổ quốc, tự do của nhân dân. Trên đường tiếp cận chân lý cứu
nước, Hồ Chí Minh đã tiếp nhận những tư tưởng bất hủ trong Tuyên ngôn độc lập 1776
của Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của cách mạng Pháp. Từ những
tinh hoa của dân tộc và thế giới, Người đã khái quát nên chân lý bất di bất dịch, lẽ phải
không ai có thể chối cãi được: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân
tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Đây là một tư tưởng vĩ
đại, chẳng những mang tính quốc tế, tính thời đại rộng lớn mà còn mang tính nhân văn
sâu sắc.
Độc lập dân tộc, theo Hồ Chí Minh, phải là độc lập thật sự và độc lập hoàn toàn. Tức
là, dân tộc đó phải có đầy đủ chủ quyền (về chính trị, kinh tế, an ninh, v.v.) và toàn vẹn
lãnh thổ, chứ không phải là chiếc bánh vẽ mà người khác (bọn thực dân, đế quốc) bố thí.
Độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, theo Người, phải được hiểu một cách đơn giản: nước
Việt Nam là của người Việt Nam, mọi vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia Việt Nam phải
do người Việt Nam tự giải quyết. Và giá trị đích thực của độc lập dân tộc phải được thể
hiện bằng quyền tự do hạnh phúc của nhân dân, mà theo Người, độc lập dân tộc là đồng
bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Tư tưởng độc lập dân tộc, khát
vọng độc lập dân tộc của Người được thể hiện ở tinh thần “thà hy sinh tất cả”, “dù phải
đốt cháy cả dãy Trường Sơn” và vượt lên tất cả là tinh thần “không có gì quí hơn độc lập
tự do.”
Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ đấu tranh vì độc lập dân tộc, song người cũng
là hiện thân của khát vọng hoà bình. Đó là tư tưởng độc lập dân tộc trong hoà bình chân
chính của Người. Tinh thần “chúng ta muốn hoà bình” đã dẫn dắt nhân dân ta chiến đấu
và chiến thắng mọi thế lực xâm lược ngoại bang.
Có thể nói, tinh thần “không có gì quí hơn độc lập tự do” là tư tưởng và lẽ sống của
Hồ Chí Minh. Nó là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng không chỉ của dân tộc Việt
Nam mà còn của các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Vì lẽ đó, Người không chỉ được tôn
vinh là “Anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam mà còn là “Người khởi xướng cuộc
đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ 20”
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc
với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, và chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa
quốc tế.
Trên cơ sở những quan điểm cơ bản của Mác-Lenin về mối quan hệ biện chứng giữa
dân tộc với giai cấp, Hồ Chí Minh đã đưa ra những luận điểm mới và sáng tạo, góp phần
bổ sung và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác Lenin. Theo Người, ở các nước thuộc địa
“chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”. Người phân tích, do kinh tế còn
lạc hậu, chưa phát triển nên sự phân hoá giai cấp ở nước ta và nhiều nước thuộc địa khác
chưa triệt để, mâu thuẫn chưa đến mức đối kháng quyết liệt. Ở những nước thuộc địa như
nước ta, mâu thuẫn giữa dân tộc với chủ nghĩa đế quốc quyết liệt hơn mâu thuẫn giữa giai
cấp nông dân với địa chủ, giữa công nhân với tư sản. Do đó, trong bối cảnh này không
thể giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc như ở các nước tư bản
phương Tây được, mà chỉ có thể giải phóng Dân tộc mới giải phóng được giai cấp, quyền
lợi dân tộc, đất nước phải đặt lên trên quyền lợi giai cấp. Xuất phát từ luận điểm trên, Hồ
Chí Minh từng kiến nghị Cương lĩnh hành động của Quốc tế Cộng sản theo hướng phát
động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản, khi chủ nghĩa dân tộc của
họ thắng, nhất định nó sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế. Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá cao
sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính,
coi đó là một động lực lớn mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, không để
ngọn cờ dân tộc rơi vào tay giai cấp nào khác, phải nhận thức và giải quyết vấn đề dân
tộc trên lập trường của giai cấp vô sản, kết hợp chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa quốc tế.
Độc lập dân tộc, theo Hồ Chí Minh, là phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Ngay từ khi
tiếp cận Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, Hồ Chí Minh đã hình
thành đường lối cứu nước: giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, gắn bó
thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và CNXH. Người
nói: “ Cả hai cuộc giải phóng này (dân tộc và giai cấp) chỉ có thể là sự nghiệp của chủ
nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới.” Tiếp đó, ngay trong Chánh cương, Sách lược
vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng cộng sảnViệt Nam tháng 2/1930, Hồ
Chí Minh đã xác định Cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: Làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng (tức cách mạng dân tộc-dân chủ) để đi tới xã hội cộng
sản. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc và CNXH vừa
phản ảnh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng
vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục
tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Xoá bỏ ách áp bức dân tộc mà không
xoá bỏ tình trạng bóc lột và áp bức giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa được giải
phóng. Người nói: “Nếu nước độc lập mà dân không được hạnh phúc, tự do, thì độc lập
cũng chẳng có ý nghĩa gì.” Do đó giành được độc lập rồi, thì phải tiến lên CNXH, vì mục
tiêu của CNXH là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Như vậy,
ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển thành chủ nghĩa yêu nước
hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Là một chiến sỹ quốc tế chân chính, xuất phát từ quan điểm độc lập tự do là quyền
thiêng liêng bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh
cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập dân tộc của tất cả các dân tộc
bị áp bức. Ở Người, chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn gắn liền với chủ nghĩa quốc tế
cao cả, trong sáng. Người nói: “ Chúng ta phải tranh đấu cho tự do độc lập của các dân
tộc khác như là tranh đấu cho dân tộc ta vậy.” Chủ trương “ giúp bạn là tự giúp mình”,
Hồ Chí Minh luôn nêu cao tinh thần dân tộc tự quyết song không quên nghĩa vụ quốc tế
cao cả của mình. Với Người, phải thông qua thắng lợi của Cách mạng mỗi nước mà đóng
góp vào thắng lợi chung của Cách mạng thế giới. Về quan hệ quốc tế, Người tuyên bố với
thế giới: “ Căn cứ trên quyền lợi chung, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòasắn sàng
đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ nước nào trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh
thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hoà bình và xây đắp
dân chủ thế giới.”
Tựu trung, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc vừa mang tính khoa học đúng
đắn, vừa có tính chất cách mạng, mang đậm tính nhân văn sâu sắc, thể hiện sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong
sáng, độc lập dân tộc cho mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc.
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ đất nước cũng đang đứng trước những cơ hội và thách thức to lớn đòi hỏi chúng ta
phải chủ động đón lấy và sáng suốt vượt qua. Để làm được điều đó chúng ta cần nghiên
cứu, vận dụng tư tưởng của Người về mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp, dân tộc và
quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm tạo ra những nguồn lực mới, đưa sự
nghiệp đổi mới vững bước tiến lên , giành những thắng lợi mới.
Trước hết, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng đều phải đặc biệt coi trọng và giữ vững
độc lập dân tộc. Lịch sử đấu tranh dựng nước và giữa nước của ông cha ta từ ngàn xưa
cũng như sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng cộng sảnViệt Nam đứng đầu là Hồ Chí
Minh khới xướng từ 1930 đến nay được ghi lại bằng máu và nước mắt. Thế mới thấy
được ý nghĩa của độc lập dân tộc, mới thấu hiểu được tư tưởng bất hủ “Không có gì quí
hơn độc lập tự do” của Hồ Chí Minh. Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc
tế hiện nay, không một quốc gia nào có thể phát triển mà không gắn với những mối quan
hệ đa dạng và đa phương với các quốc gia khác trong cộng đồng quốc tế. Việt Nam cũng
nằm trong xu thế ấy. Ngoài những lợi ích hiển nhiên, hơn bao giờ hết, nước ta đang đứng
trước rất nhiều nguy cơ có ảnh hưởng trực tiếp đến độc lập dân tộc. Đó là những nguy cơ
lệ thuộc vào nước ngoài về kinh tế, chính trị, nguy cơ phai nhạt bản sắc văn hoá dân tộc,
tiếp thu một nền văn hoá lai căng phi bẳn sắc. Bên cạnh những nguy cơ mang tính hệ quả
của toàn cầu hoá và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta còn phải đối mặt với âm
mưu diễn biến hoà bình. Các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang núp dưới những
chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền, dân tộc tôn giáo để chống phá sự nghiệp cách mạng
nước ta ( Sự biến Tây Nguyên 2/2001 và 4/2004). Trước những nguy cơ ấy, Đảng và Nhà
nước ta phải không ngừng khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân
tộc, nguồn động lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ đất nước. Phát huy tối đa các nguồn
nội lực, bao gồm con người, trí tuệ, truyền thống, đất đai, tài nguyên,v.v để xây dựng và
phát triển kinh tế, đưa đất nước từng bước bắt kịp các nước phát triển. Đất nước phát
triển, nền kinh tế hùng mạnh sẽ góp phần trực tiếp tạo sức mạnh cho nhân dân ta giữ
vững độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc phải được xem là cái bất biến trong sự thiên biến
vạn hoá của nền kinh tế thế giới đang phát triển với xu thế toàn cầu hoá; bản sắc văn hoá
Việt Nam cũng phải được xem là cái bất biến trong sự đa dạng các nền văn hoá thế giới,
tiếp thu nhứng hay, cái đẹp, cái tiên tiến mà vẫn không mất đi cái gốc, cái chất Việt Nam
trong mỗi con người. Đó cũng là cách để giữ vững độc lập dân tộc theo đúng nghĩa của
nó.
Độc lập là tài sản thiêng liêng vô giá của cả dân tộc, là cái phải giữ cho dù mất tất cả,
“hy sinh tất cả”. Muốn thực hiện tốt tinh thần bất hủ ấy của Hồ Chí Minh, ngày nay
đường lối của Đảng và Nhà nước ta phải thể hiện rõ sự quan tâm, không ngừng chăm lo
đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Tiếp thu và phát huy tinh hoa của dân tộc
với truyền thống “lấy dân làm gốc” (Dân vi bản quốc gia trường thọ), sinh thời Hồ Chí
Minh đã không ngừng giáo dục cán bộ, đảng viên phải luôn luôn có tinh thần “vì dân
phục vụ”. Người nói: “ Gốc có vững cây mới bền, Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”
Chăm lo và không ngừng nâng cao đời sống cho nhân dân là cách thiết thực nhất để bảo
vệ độc lập dân tộc, vì theo Người, dân như nước, chở thuyền cũng là nước mà lật thuyền
cũng là nước. Dân giàu thì nước mạnh, mà nước mạnh thì độc lập dân tộc còn. Chủ
trương diệt giặc đói và giặc dốt của Người năm 1945 về cơ bản chính là nền tảng của việc
chăm lo và nâng cao đời sống cho người dân về vật chất cũng như tinh thần. Và suy cho
cùng, mục tiêu của độc lập dân tộc, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là tự do, ấm no,
hạnh phúc của nhân dân; và dĩ nhiên là dân được ấm no tự do hạnh phúc sẽ ra sức bảo vệ
nền độc lập vốn mang lại những điều tốt đẹp đó. Như vậy, chăm lo, không ngững nâng
cao đời sống nhân dân vừa là mục tiêu vừa là cách thiết thực nhất để bảo vệ độc lập dân
tộc theo đúng tinh thần mà Hồ Chí Minh đã nêu rõ.
Thấm nhuần tư tưởng của người về vấn đề dân tộc, ta càng phải phát huy chủ nghĩa
dân tộc chân chính, tinh thần tích cực chủ động, sáng tạo và tự lực tự cường của mọi
người dân Việt Nam để góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo vệ nền độc lập dân
tộc. Người Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết cộng đồng, ý chí
tự chủ kiên cường, sáng tạo, bất khuất, không chịu làm nô lệ, không cam phận nghèo hèn.
Những phẩm chất tốt đẹp ấy đã được phát huy cao độ trong hai cuộc kháng chiến thần
thánh của dân tộc, đưa đến thắng lợi vĩ đại Điện Biên và Đại thắng mùa xuân 1975, giải
phóng MN thống nhất đất nước, đưa cả nước quá độ lên CNXH. Ngày nay, truyền thống
quí báu ấy, chủ nghĩa dân tộc chân chính cần được tiếp tục khơi dậy mạnh mẽ, biến nó
thành một nguồn nội lực đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn thách thức, vững bước tiến
lên cùng bè bạn khắp năm châu.

II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN


TỘC
1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường của cách
mạng vô sản
Thất bại của các phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
chứng tỏ cách mạng chưa có đường lối và phương pháp đấu tranh đúng đắn. Hồ Chí
Minh vượt lên trên những hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu yêu nước, đến với học
thuyết cách mạng vô sản. “Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo
con đường cách mạng vô sản, tức là phải theo đường lối Mác-Lênin”. Theo Hồ Chí Minh,
con đường cách mạng vô sản ở thuộc địa bao hàm nội dung sau:
- Làm cách mạng giải phóng dân tộc giành chính quyền, dần dần làm cách mạng
xã hội chủ nghĩa.
- Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản.
- Lực lượng làm cách mạng là khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh
công – nông – trí.
- Cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế giới. “Ai làm cách mạng
trong thế giới cũng là đồng chí của người An nam ta cả”. Cách mạng thuộc địa phải gắn
chặt với cách mạng vô sản chính quốc.
Vào những năm đầu của thế kỷ XX, nước ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối
cứu nước và giải phóng dân tộc. Chính trong điều kiện đó, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh vừa ra đi tìm đường cứu nước. Sau khi bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin, Người tìm
thấy cơ sở lý luận chắc chắn cho con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Đó là con
đường cách mạng không sản. Bác Hồ khẳng định: Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức: "Cách mạng giải phóng dân tộc phải
phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi trả toàn".
"Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc bất có con đường nào khác con đường cách mạng
không sản". Tư tưởng đó vừa được Đảng ta khẳng định, được cả dân tộc hưởng ứng và đi
theo. Đó là sự lựa chọn của lịch sử Việt Nam, của toàn dân tộc Việt Nam.
Sự lựa chọn này phụ thuộc trên cơ sở:
Chỉ có chủ nghĩa xã hội - chủ nghĩa cộng sản mới triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng
dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người khỏi ách áp bức bóc lột, đem lại cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, đem lại vị trí làm chủ chân chính cho người lao động. Chủ
nghĩa xã hội xóa bỏ triệt để chế độ chiếm có tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất,
là kémồn gốc sinh ra tình trạng người bóc lột người, xác lập chế độ công có về tư liệu sản
xuất chủ yếu, cơ sở kinh tế đảm bảo cho nhân dân lao động thoát khỏi đói nghèo, hướng
tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, làm ra
(tạo) điều kiện giải phóng và phát triển con người toàn diện. Độc lập dân tộc là điều kiện
tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo vững chắc
cho độc lập dân tộc.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi mở ra một thời (gian)
đại mới, thời (gian) đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn
thế giới. Tính tất yếu của thời (gian) đại mới vừa tạo tiềm năng và điều kiện để các dân
tộc đi lên chủ nghĩa xã hội, đem lại những nhận thức mới trong quan niệm và giải pháp
giải quyết vấn đề giải phóng dân tộc một cách triệt để.
Sức mạnh và thành tựu của chủ nghĩa xã hội, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa
vừa thức tỉnh nhân loại, làm ra (tạo) tiềm năng đoàn kết các dân tộc để giữ gìn hòa bình,
đẩy lùi nguy cơ chiến tranh huỷ diệt, buộc chủ nghĩa tư bản phải điều chỉnh chính sách có
lợi cho người lao động; làm ra (tạo) tiềm năng hiện thực cho các nước lạc sau tiến thẳng
lên chủ nghĩa xã hội.
Trong hơn 7 thập kỷ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
vừa đạt thành tựu quan trọng: Sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất
với quy mô và trình độ hiện đại, đảm bảo ngày càng tốt hơn về vật chất và tinh thần của
nhân dân. Từ một nước Nga cùng kiệt nàn và lạc hậu, sau một thời (gian) gian xây dựng
vừa trở thành một cường quốc của thế giới, đạt được bước tiến lớn trong nghiên cứu khoa
học, chinh phục vũ trụ, có tiềm lực quân sự và quốcphòng chốnghùng mạnh… làm ra
(tạo) điều kiện cho phong trào giải phóng dân tộc phát triển. Hàng trăm nước vừa giành
được độc lập dân tộc lũy phần quyết định vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới và
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn 70 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng
vừa khẳng định tính đúng đắn của sự lựa chọn đó.

2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do đảng của giai cấp công
nhân lãnh đạo
Nguyễn Ái Quốc khẳng định, muốn giải phóng dân tộc thành công “trước hết phải
có đảng cách mệnh... đảng có vững cách mệnh mới thành công”... “Cách mệnh phải làm
cho dân giác ngộ”, “Phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu”, “sức cách mệnh
phải tập trung, muốn tập trung phải có đảng cách mệnh”. Cách mạng giải phóng dân tộc
phải có đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo theo nguyên tắc đảng kiểu mới của Lênin.
Chỉ có cuộc cách mạng do chính đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo mới thực hiện được
sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Bác
cho rằng các tổ chức cách mạng theo kiểu cũ không thể đưa cách mạng đến thành công vì
nó thiếu một đường lối chính trị đúng đắn và phương pháp cách mạng khoa học. Các lãnh
tụ yêu nước tiền bối tuy đã ý thức được tầm quan trọng của chính đảng cách mạng và một
đường lối chính trị đúng đắn, song họ chưa làm được. Tháng 2/1930, Nguyễn Ái Quốc đã
sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, chính đảng của phong trào cách mạng nước ta.
3. Lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc
Cách mạng giải phóng dân tộc là “việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc một
hai người”, phải đoàn kết toàn dân “dân tộc cách mệnh chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ,
nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền”. Trong lực lượng đó “công -
nông là chủ cách mạng” ... “công - nông là gốc của cách mạng”, “còn học trò, nhà buôn
nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức song không cực khổ bằng công nông; ba hạng ấy
chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”.
Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc là đánh đổ Đế quốc Pháp và đại địa
chủ phong kiến giành độc lập dân tộc. Hồ Chí Minh cho rằng cần vận động tập hợp rộng
rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang bị mất nước. Thành lập mặt trận dân tộc thống
nhất, để huy động sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân. Công nông là gốc, liên minh với
các giai tầng khác phải chú ý đến lợi ích của giai cấp công- nông và của dân tộc. Trong
Sách lược vắn tắt, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đảng phải tập hợp đại bộ giai cấp công nhân,
tập hợp đại bộ phận nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân
làm cách mạng ruộng đất; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông... đi về phe vô sản giai
cấp; đối với bọn phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An-nam mà chưa rõ mặt phản
cách mạng thì phải lợi dụng, chí ít là làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt
phản cách mạng (như Đảng Lập hiến) thì phải đánh đổ”.
Chủ trương tập hợp lực lượng của Hồ Chí Minh phản ánh tư tưởng đại đoàn kết
dân tộc của Người. Năm 1942, Người chủ trương già, trẻ, gái, trai, dân, lính đều tham
gia đánh giặc. Năm 1944, Người viết: “cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến
toàn dân, vũ trang toàn dân”…Kháng chiến chống Mỹ: “cứu nước là nhiệm vụ thiêng
liêng của mọi người Việt Nam yêu nước”. “31 triệu đồng bào ta…là 31 triệu chiến sĩ
anh dũng diệt Mỹ, cứu nước, quyết giành thắng lợi cuối cùng”. Đây là tư tưởng có ý
nghĩa chiến lược về tập hợp sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân của Hồ Chí Minh.
“Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái,
dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc.Ai
có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy
gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”.
Xuất phát từ tương quan lực lượng lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, Hồ Chí
Minh phát động chiến tranh nhân dân. “Không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt
để ứng phó, không thể nào thắng được”. Quân sự là chính, kết hợp đấu tranh ngoại giao,
thêm bạn bớt thù, phân hoá, cô lập kẻ thù. Đấu tranh kinh tế chống lại sự phá hoại của
địch. Đấu tranh văn hoá, tư tưởng cũng quan trọng. Song Hồ Chí Minh vẫn nhấn mạnh:
“Trong khi liên lạc giai cấp, phải cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của
công- nông mà đi vào thảo hiệp”.

4-CM gpdt phải được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi
trước CMVS ở chính quốc.
Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm cho rằng CM thuộc địa phụ
thuộc vào CMVS ở chính quốc thắng lợi. Luận cương về phong trào CM ở các nước
thuộc địa và nửa thuộc địa nêu ở đại hội VI quốc tế cộng sản 1928: "chỉ có thể thực hiện
hoàn toàn công cuộc gpdt các thuộc địa khi giai cấp VS giành được thắng lợi ở các nước
TB tiên tiến". Ý kiến này đã giảm tính chủ động, sáng tạo của CM thuộc địa. Ngay từ đại
hội V quốc tế cộng sản (1924), NAQ đã chỉ rõ: vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và
đặc biệt là vận mệnh giai cấp VS ở các nước đi xâm lược thuộc địa phải gắn chặt với vận
mệnh của giai cấp bị áp bức ở các nước thuộc địa..."
Dựa vào quan điểm của Mác, "sự nghiệp giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự
nghiệp của bản thân giai cấp công nhân". NAQ đi đến kết luận: "công cuộc giải phóng
anh, em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em."
NAQ nhận thức thuộc địa là khâu yếu của CNĐQ và nhờ đánh giá đúng sức mạnh của
chủ nghĩa yyn và tinh thần dt, ngày từ năm 1924, Người đã nói: CM thuộc địa không
những không phục thuộc vào CMVS ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước"..."họ
có thể giúp đỡ những người anh em mình ở Phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn
toàn". Đây là cống hiến sáng tạo của HCM vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa M-L.
CMVN đã chứng minh luận điểm của HCM là đúng.
5-CM gpdt phải được thực hiện bằng con đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính
trị của quần chúng với lực lượng vũ trang trong nhân dân.
- Cuộc khởi nghĩa của quần chúng phải có t/chất 1 cuộc khởi nghĩa vũ trang chứ không
phải là nổi loạn. Do đó phải được chuẩn bị trong quần chúng, nổ ra ở thành phố, theo
kiểu cách mạng châu âu. Phải được nước Nga ủng hộ, phải trùng hợp với cách mạng vô
sản pháp, phải gắn mật thiết với sự nghiệp CMVS thế giới. Tháng 5/1941, Hội nghị TW8
khóa 1 nhận định: cuộc cách mạng Đông Dương kết thúc bằng 1 cuộc khởi nghĩa vũ
trang, mở đầu có thể là cuộc khởi nghĩa từng phần, từng địa phương...mở đường cho cuộc
khởi nghĩa lớn.
Để chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, HCM chỉ đạo: Phải xây dựng căn cứ địa cách mạng, đào
tạo, huấn luyện cán bộ, xây dựng tổ chức chính trị của quần chúng, lập đội du kích vũ
trang, đón thời cơ, phát động cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8 và giành thắng lợi chỉ trong
vòng có hơn 10 ngày.
*VậN DụNG TTHCM Về VấN Đề DT TRONG CÔNG CUộC ĐổI MớI HIệN
NAY
1-Khởi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dt, nguồn động lực mạnh
mẽ xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Hội nghị TW 6(khóa 7) đã xác định rõ nguồn lực và phát huy nguồn lực để xây dựng và
phát triển đất nước. Trong đó nguồn lực con người cả về thể chất và tinh thần là quan
trọng nhất. Cần khơi dậy truyền thống yêu nước của con người VN biến thành động lực
để chiến thắng kẻ thù, hôm nay xây dựng và phát triển kt.
2-Quán triệt tthcm nhận thức và giải quyết vấn đề dt trên quan điểm giai cấp.
Khẳng định rõ vai trờ, sứ mệnh ls của gcvs, của ĐCS, kết hợp vấn đề dt và giai cấp đưa
CMVN từ gpdt lên CNXH. Đại đoàn kết dt rộng rãi trên nền tảng liên minh công-nông và
tầng lớp trí thức do Đảng lãnh đạo. Trong đấu tranh giành chính quyền phải sử dụng bạo
lực của quần chúng cách mạng chống bạo lực phản cách mạng. Kiên trì mục tiêu độc lập
dt và CNXH.
3-Chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dt, giải quyết tốt mối quan hệ giữa các dt anh
em trong cộng đồng các dt VN.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của đảng nêu: vấn đề dt và đại đoàn kết dt luôn có vị
trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Lịch sử ghi nhận công lao của các dt miền núi
đóng góp to lớn vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống xâm lươc. HCM nói: đồng bào
miền núi đã có nhiều công trạng vẻ vang và oanh liệt.
Trong công tác đền ơn, đáp nghĩa HCM chỉ thị, các cấp bộ Đảng phải thi hành đúng
chính sách dt, thực hiện sự đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các dt sao cho đạt mục
tiêu: nhân dân no ấm hơn, mạnh khỏe hơn. Văn hóa sẽ cao hơn. Giao thông thuận tiện
hơn. Bản làng vui tươi hơn. Quốc phòng vững vàng hơn.

You might also like