Professional Documents
Culture Documents
2. Dựa trên phương pháp phân tích nguyên nhân-hậu quả, tính toán các chỉ số kinh tế trung
bình, các nhà “cổ điển” tìm cách làm sáng tỏ cơ cấu hình thành giá trị hàng hóa. Họ cho
rằng giao động của giá cả trên thị trường không liên quan đến “bản chất tự nhiên” của tiền
và số lượng của chúng, mà liên quan đến các chi phí sản xuất, hay nói cách khác, đến số
lượng lao động bỏ ra.
3. Phạm trù giá trị vào thời đó được đánh giá là mấu chốt của phân tích kinh tế, là gốc rễ để
nảy mầm các phạm trù khác. Vấn đề giá trị hàm chứa các câu hỏi như sau: giá trị biểu hiện
giống như một hiện tượng và các dạng thức của nó thế nào? Cơ sở, nguồn gốc hay nguyên
nhân nào của giá trị? Giá trị có đại lượng hay không và cách xác định đại lượng đó như thế
nào? Cái gì có thể dùng để đo giá trị? Giá trị thực hiện chức năng nào trong lý thuyết kinh
tế? Ngoài ra, việc đơn giản hóa phân tích và hệ thống hóa đã làm cho khoa học kinh tế
hướng đến phát minh các quy luật mang tính cơ học, tương tự như trong vật lý học, nghĩa là
không tính đến các yếu tố tâm lý, đạo đức, luật pháp và các yếu tố xã hội khác.
4. Tăng trưởng kinh tế và phồn thịnh xã hội được cho là không phải dựa vào nguyên tắc xuất
siêu, mà là sự năng động và cân bằng trạng thái nền kinh tế quốc gia. Trong vấn đề này các
nhà “cổ điển” không vận dụng các phương pháp phân tích toán học hay mô hình toán học để
có thể chọn ra phương án tối ưu trong số các phương án về tình trạng kinh tế. Trường phái
cổ điển cho rằng cân bằng trong kinh tế là có thể đạt được một cách tự động theo quy luật
thị trường của Jean-Baptiste Say
5. Từ lâu tiền tệ được cho là của con người tạo ra một cách chủ ý. Đến giai đoạn của trường
phái cổ điển tiền tệ được cho là một dạng hàng hóa tách biệt từ trong thế giới hàng hóa, và
chúng không thể bị thay thế bởi những thỏa thuận giữa mọi người. Tuy nhiên, chức năng
của tiền chỉ được đánh giá là phương tiện trao đổi mang tính kỹ thuật.
Giai đoạn đầu với những đại biểu như William Stafford (1554-1612, người Anh),
Thomas Gresham (1519-1579, người Anh) và Gasparo Scaruffi (1519-1584, người
Ý) với lý thuyết cân đối tiền tệ, chủ trương tăng sở hữu tiền như một dạng của cải
thông qua luật định. Chủ nghĩa trọng thương giai đoạn này còn được gọi là chủ nghĩa
trọng kim.
Giai đoạn sau phát triển mạnh mẽ ở thế kỷ 17 với những người đại diện là Thomas
Mun (1571-1641, người Anh) và Antoine de Montchrétien (1576-1621, người Pháp)
với luận thuyết cân đối thương mại chủ động. Chủ nghĩa trọng thương giai đoạn này
còn được gọi là chủ nghĩa thặng dư thương mại.
Tuy những nhà hoạt động kinh tế nói trên sống ở các nước khác nhau và không có sự
trao đổi gì với nhau nhưng họ đã có những quan điểm trùng hợp. Trường phái này
không chỉ biểu hiện qua lý thuyết, mà còn là một phần của truyền thống văn hóa-
chính trị.
Chủ nghĩa trọng thương bắt đầu thoái trào từ thế kỷ 18. Các nhà tư tưởng của chủ
nghĩa trọng thương không thể đáp lại một cách thuyết phục trước những phê phán đối
với chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch. Chủ nghĩa trọng nông có cơ sở chính ở Pháp là
những tư tưởng kinh tế đầu tiên cố gắng phủ nhận chủ nghĩa trọng thương. Và cho
đến khi kinh tế học cổ điển hình thành rõ ràng nhờ Adam Smith, thì chủ nghĩa trọng
thương kết thúc, về mặt lý luận. Tuy nhiên, ảnh hưởng của nó tới chính sách kinh tế
của các nhà nước thì vẫn còn tiếp tục, thậm chí cho đến tận thế kỷ 20.
Đầu thế kỉ 15, Tây Âu vừa thoát ra khỏi thời kì Trung Cổ và phong kiến, hình thành
một xã hội chủ yếu vẫn là nông nghiệp. Sản xuất tự cung tự cấp là chính, thương mại
chưa phát triển.
Con người đã khám phá ra những vùng đất mới ,tạo điều kiện mở rộng giao lưu giữa
các khu vực (tìm ra tân thế giới giúp giao thương với phương Đông,chinh phục
Mexico mở rộng giao thương với châu Mỹ,giao thương cho Bồ Đào Nha với Ấn độ
và các nước Nam Á bằng đường biển nhờ cuộc hành trình của Vasco da Gama)
Cuối thế kỉ 15 đầu thế kỉ 16, thương mại bắt đầu phát triển nhờ các nhân tố như: các
phát kiến địa lý tạo điều kiện cho sự hình thành các tuyến đường vận tải thương mại,
sự gia tăng dân số tạo nên thị trường lao động, thị trường tiêu thụ, làm tăng doanh lợi
của các nhà sản xuất và thương gia. Ngoài ra, phải kể đến những nguyên nhân khác
như: vai trò của các thương gia được nâng cao, sự hình thành ngày càng nhiều các
quốc gia độc lập cả về chính trị, vàng bạc từ Tân thế giới đổ về…
Trong bối cảnh như vậy, một nhóm người (bao gồm thương gia, nhân viên ngân
hàng, nhân viên Chính phủ và cả một số nhà triết học) đã viết những bài tiểu luận và
những cuốn sách nhỏ về thương mại quốc tế. Những tác phẩm đó đã biện hộ cho một
trường phái kinh tế triết học được gọi là chủ nghĩa trọng thương
Các quan điểm chính
# Một quan điểm chủ đạo của chủ nghĩa trọng thương, cũng là sự thừa nhận truyền
thống quân chủ từ thời kỳ tiền trung cổ, xem người cầm quyền là tối cao, là phụ mẫu
của dân tộc, người có quyền điều hành các chính sách kinh tế với mục đích tạo nên
sự hùng mạnh của quốc gia. Chủ nghĩa trọng thương là hệ tư tưởng đầu tiên xác định
các chức năng lãnh đạo cho người đứng đầu nhà nước.
# Chủ nghĩa trọng thương chủ trương chính sách bảo hộ mậu dịch (chế độ thuế quan
bảo hộ) nhằm bảo hộ cho giới doanh thương quốc nội trên thị trường nước ngoài và
tạo ra những hạn chế đối với giới giao thương ngoại quốc trên thị trường trong nước.
Chính sách bảo hộ mậu dịch làm tăng khả năng cạnh tranh của quốc gia, ưu tiên mở
rộng sản xuất các mặt hàng xuất khẩu. Kết quả khả quan của giao thương được đánh
giá bằng sự vượt trội lượng hàng xuất đối với lượng hàng nhập, bằng lượng vàng
ròng thu được, dẫn đến sự hình thành khái niệm cân đối thương mại chủ động.
# Những người theo phái trọng thương bị cuốn hút vào việc tích lũy các kim loại sản
xuất tiền là vàng và bạc. Vì nguồn cung cấp vàng, bạc có giới hạn nên những người
trọng thương tin rằng một quốc gia có thể cải thiện dự trữ vàng của mình trên sự thua
thiệt của quốc gia khác.
# Chỉ chú ý đến xuất khẩu.Họ cho rằng cần tập trung hoàn toàn vào xuất khẩu, vì
xuất khẩu là nguồn mang lại kim loại quý. Còn nhập khẩu thì rất hạn chế, đặc biệt là
các sản phẩm đã hoàn chế và hàng hóa xa xỉ phẩm. Họ bảo vệ chính sách bảo hộ:
khuyến khích xuất khẩu (thông qua trợ giá) và cản trở nhập khẩu (dựa vào thuế
quan).
# Ngoài ra ,quan niệm của phái trọng thương về nhân công và công xá cũng có nhiều
lệch lạc,.Theo họ muốn gia tăng xuất khẩu để có nhiều kim quý thì phải có nhiều
nhân công."Dân số là của cải và sức mạnh của quốc gia" (theo Nichobas
Barbon)."Quốc gia giàu có nhất phải chăng là quốc gia có nhiều nhân công nhất"
(theo Josiah Tucken)