Professional Documents
Culture Documents
Hà Nội, 2010
ĐẢO NAM YẾT
Quyển sách điện tử này nằm trong bộ sách “Biển đảo Việt Nam” do tập thể
thành viên diễn đàn Hoàng sa (HSO) và thành viên hai box “Giáo dục Quốc phòng”
và “Kỹ thuật quân sự nước ngoài” của mạng “Trái Tim Việt Nam Online” biên tập
nhằm giúp các bạn trẻ có thêm thông tin về Tổ quốc Việt Nam giàu đẹp.
Đây là quyển sách phi lợi nhuận và mong các bạn giới thiệu cho nhiều người
khác cùng đọc.
Mọi góp ý xin gửi về: mardfinder@yahoo.com.vn hay
http://ttvnol.com/forum/gdqp/1160307.ttvn.
Chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật các hình ảnh và bài viết mới cho quyển
sách này.
Thân ái
1
ĐẢO NAM YẾT
CHƯƠNG I. NAM YẾT – ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
Nam Yết (tên quốc tế: Namyit) là một hòn đảo thuộc chủ quyền Việt Nam
trong quần đảo Trường Sa, ở tọa độ 10o11’00’’ độ vĩ Bắc; 114 o21’42’’ độ kinh Đông,
cách đảo Ba Bình do Đài Loan đang chiếm giữ khoảng 10 hải lý và cách đảo Sơn Ca
khoảng 12 hải lý về phía Tây Nam, cách đảo Ga Ven do Trung Quốc đang chiếm giữ
khoảng 6 hải lý về phía Đông, và cách xa đất liền hơn hai ngày, hai đêm đi tàu thủy.
Đảo Nam Yết là một phần của cồn Tizard cùng với đảo Ba Bình (Thái Bình), đảo
Sơn Ca, bãi Bàn Than, đá Núi Thị.
Đảo Nam Yết có dáng hình bầu dục hơi hẹp bề ngang, nằm theo hướng Đông -
Tây dài khoảng 650 mét, chiều rộng khoảng 170 mét, diện tích khoảng 96.500m2.
Quanh đảo có bờ kè bằng bê tông, được xây dựng trong 8 năm, từ năm 1998 đến năm
2006 thì hoàn thành. Ở đây nước biển rất trong và có màu xanh nhạt khác hẳn với
màu xanh thẫm của đại dương, nhờ đó, giới hạn của vành đai san hô hiện ra rất rõ rệt.
Đảo Nam Yết được hình thành do sự đông đặc của dung nham phun trào từ núi
lửa ngầm dưới mặt nước từ đại Mezozoi (đại Trung sinh, cách ngày nay 240 triệu
năm). Lâu ngày, san hô phát triển trên nền phún xuất đó rồi chết đi, dần hình thành đá
2
ĐẢO NAM YẾT
vôi san hô. Đảo có một vành đá san hô bao quanh với đủ loại san hô màu sắc sặc sỡ.
Bãi san hô ngập nước bao quanh đảo, lan ra cách bờ từ 300 đến 1.000 mét. Khi thủy
triều thấp nhất, bãi san hô nhô lên khỏi mặt nước từ 0,2 đến 0,4 mét. Đây là một trong
những rạn san hô tiêu biểu trong vùng biển Thái Bình Dương.
Về thời tiết, mùa mưa liên tục từ tháng 6 đến tháng 1 năm sau, thời gian kéo
dài từ 6 đến 8 tháng, lượng mưa trung bình hàng năm từ 2.848mm đến 3.235mm.
Mùa khô từ tháng 2 đến tháng 5, thời gian kéo dài 4 tháng, (có năm kéo dài 5 tháng).
Nhiệt độ trung bình hàng năm ở đảo Nam Yết từ 25 đến 29ºC, cao nhất 35ºC, thấp
nhất từ 14ºC đến 21ºC. Gió mùa Tây Nam thổi từ tháng 5 đến tháng 10, gió Đông
Bắc từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau. Từ tháng 7 đến tháng 12 thường xuyên hay có
bão đổ bộ vào đảo. Độ ẩm trung bình hàng năm trên đảo Nam Yết là 79%; độ ẩm cao
nhất là 96%; thấp nhất là 61%. Độ ẩm cao mang theo nhiều hơi sương muối, làm cho
trang bị vũ khí, khí tài nhanh xuống cấp, lương thực, thực phẩm nhanh hư hỏng.
Khi thủy triều thấp nhất, đảo cao khoảng từ 3 đến 4 mét. Khi biển lặng, sóng
cao từ 0,2 đến 0, 5 mét. Biển động, sóng cao từ 4 đến 5 mét. Từ tháng 8 đến tháng 12
là thời kỳ cao điểm mưa to, gió lớn, gây khó khăn cho tàu ta neo đậu làm nhiệm vụ
tại đảo.
Trên đảo có nhiều cây xanh: dừa, nhào, mù u, phi lao, keo, phong ba, bão
táp.... Theo ghi nhận của phái đoàn Viện Khảo sát Nông nghiệp và điền địa (chính
3
ĐẢO NAM YẾT
quyền Sài Gòn cũ) do Ung Văn Khiêm dẫn đầu ra đảo tháng 7/1973, thì dừa là cây
chủ đạo trên đảo Nam Yết. Đoàn cũng nhận xét đất đai của đảo có thể trồng một số
loại cây ăn trái như nhãn, mãng cầu, hay một số loại cây nông sản phụ như sắn, rau
cải. Đất trên đảo là cát san hô (phân tích của đoàn khảo sát trên xếp đất đai trên đảo
vào nhóm đất Regosol, nhưng có nhiều điểm khác biệt so với các loại đất khác cùng
nhóm ở ven biển miền Trung do đây là đất phát triển trên đá vôi san hô và trong môi
trường giữa đại dương) nên hầu như không trồng được các loại cây ăn quả, rau, chỉ
phù hợp với các loại cây nước lợ như mù u, bàng quả vuông, phong ba, dừa và các
loại cây leo, cỏ dại. Thực vật ở đây có nguồn gốc từ sinh trưởng tự nhiên như phong
ba, bão táp.... và do hạt trôi nổi từ vùng duyên hải Việt Nam và Sarawak (Malaysia)
đến; nhưng thời gian gần đây có nhiều cây được đưa từ đất liền ra như dừa, phi lao,
bàng.... Đất qua cải tạo có thể trồng được rau muống, bầu, bí. Đảo không có nước
ngọt nhưng là một trong số ít đảo thuộc quần đảo Trường Sa như Ba Bình, Trường
Sa, Song Tử...có nước lợ tương đối nhiều, có thể dùng tắm giặt.
Về động vật, đoàn khảo sát ghi nhận phía Tây của đảo là nơi trú ẩn của các
giống chim biển, nhất là hải âu, phân chim góp phần tăng độ phì của đất. Trên đảo
còn có muỗi, chuột (to cỡ chuột cống). Ban đêm có vít (vích) to bò lên đụn cát đẻ
trứng.
Nam Yết và vùng biển xung quanh đảo có quần thể sinh vật khá phong phú và
đa dạng. Trong chương trình đặc biệt Biển đông - Hải đảo giai đoạn 1993 – 1997 và
2001 – 2003 của Viện Nghiên cứu Hải Sản, đã thống kê được ở đảo Nam Yết có trữ
4
ĐẢO NAM YẾT
lượng ốc nhảy bình quân 40g/m2 trên diện tích 100 ha, rong có khoảng hơn 500 kg và
nhiều loại sinh vật khác. Tuy nhiên, kết quả cuộc khảo sát những năm 2006 – 2007
của Viện Tài nguyên và Môi trường Biển cho thấy sự giảm sút về mật độ và trữ
lượng; thay đổi về phân bố và tập tính của loài trong các rạn san hô ở đảo Nam Yết.
Cụ thể, mật độ của nhóm cá kinh tế suy giảm rất nhanh, từ 35% – 45%, trong vòng 2
năm 2006 – 2007. Việc mất đi của nhóm san hô tạo rạn – habitat (nơi sống – ổ sinh
thái) quan trọng của các sinh vật sống kèm khác là một trong những nguyên nhân
chính làm cạn kiệt nguồn lợi sinh vật quanh đảo Nam Yết. Trên cơ sở những cuộc
khảo sát sinh vật từ trước đến nay, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã đề
xuất thành lập khu bảo tồn biển Nam Yết vào năm 2015. Đây sẽ là một trong 15 khu
bảo tồn biển của Việt Nam.
5
ĐẢO NAM YẾT
6
ĐẢO NAM YẾT
CHƯƠNG II. LỊCH SỬ ĐẢO NAM YẾT
2.1. Sơ lược về lịch sử chung quần đảo Trường Sa
Với tư cách người làm chủ, Nhà nước Việt Nam trong nhiều thế kỷ đã liên tiếp
điều tra, khảo sát, khai thác, lập bản đồ quần đảo Trường Sa.Trong các tài liệu và bản
đồ cổ của Việt Nam cũng như của các nhà hàng hải châu Âu để lại đều đã ghi rõ hai
quần đảo nói trên là lãnh thổ và chịu sự quản lý về mặt hành chính của nhà nước Việt
Nam đương thời. Trong lịch sử trước đây, việc chiếm hữu và khai thác quần đảo
Trường Sa của Nhà nước Việt Nam chưa bao giờ gặp sự chống đối của bất cứ quốc
gia nào. Ngay cả Trung Quốc từ thế kỷ XIX trở về trước vẫn thừa nhận và tôn trọng
chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa.
“Bản đồ Biển Đông” do anh em nhà Vanlangren người Hà Lan in năm 1595 và
bản đồ do Mercator vẽ, in năm 1613 đã vẽ hai quần đảo “Trường Sa” và “Hoàng Sa”
thành một dải liền nhau nằm sát bờ biển miền trung Việt Nam ngày nay.
Trong tác phẩm “Phủ Biên Tạp Lục” của Lê Qúy Đôn viết vào năm 1776 có
ghi “phủ Quảng Ngãi,ở ngoài cửa biển An Vĩnh,huyện Bình Sơn có núi gọi là Cù Lao
Ré,phía ngoài đó có đảo Đại Trường Sa, trước kia có nhiều hải vật và những hóa vật
của tàu, lập đội Hoàng Sa để lấy, đi ba ngày đem mới đến”. “Đại Trường Sa” mà Lê
Qúy Đôn nói tới là “quần đảo Trường Sa” ngày nay.
Triều Tây Sơn tuy phải đối phó liên miên với quân xâm lược vẫn luôn quan
tâm đến việc duy trì và sử dụng các đội Hoàng Sa để khai thác tài nguyên thiên nhiên
ở Hoàng Sa và Trường Sa. Năm 1786, Nguyễn Huệ sai cai Hội Đức Hầu dẫn đội
Hoàng Sa gồm 4 chiếc thuyền câu vượt biển thu lượm đồ vàng bạc, đồ đồng, đồi mồi,
hải ba cùng cá gáy mang về kinh đô dâng nộp. Kết quả khảo sát, điều tra quần đảo
Trường Sa được ghi chép tỷ mỷ trong các sách địa lý và lịch sử của Việt Nam. Sách
“Lịch triều hiến chương loại chí" viết năm 1821, "Việt sử cương giám khảo lược"
năm 1876, “Hoàng Việt dư địa chí" năm 1883, “Đại Nam thực lục tiền biên” viết năm
1884 ghi chép về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của ông cha ta cách đây hơn 2
thế kỷ trùng hợp với các số liệu trong các tài liệu khảo sát hàng hải hiện đại ngày nay.
Sử sách các triều đại nhà Nguyễn còn ghi chép tỷ mỷ các đội Hoàng Sa hàng
năm được cử ra hai quần đảo để khảo sát, vẽ bản đồ và thực hiện chủ quyền của
mình. Bản đồ vẽ xứ đằng trong của Bùi Thế Đạt vẽ năm 1774 và “Đại Nam nhất
thống toàn đồ” được vẽ vào khoảng 1838 thì “Bãi Cát Vàng” và “Vạn Lý Trường Sa”
đều được thể hiện là lãnh thổ Việt nam.
Năm 1815, vua Gia Long cử Phạm Quang Ảnh chỉ huy đội Hoàng Sa; năm
1816 cho thủy quân và đội Hoàng Sa ra khảo sát và đo đạc đường biển.
7
ĐẢO NAM YẾT
Vào tháng cuối mùa đông mỗi năm, nhà Nguyễn đưa từ 5 đến 10 hoặc 18 đến
20 chiếc thuyền đến các đảo xa lấy hoá vật, được phần nhiều là vàng, bạc, tiền, súng
đạn.
Việc thực hiện chủ quyền và nghĩa vụ của Nhà nước Việt Nam còn thể hiện ở
sự giúp đỡ, cứu nạn tàu bè qua lại và thường xuyên tiến hành tuần tiễu bảo vệ hai
quần đảo. Tháng 10 năm 1714, ba tàu buồm Hà Lan bị đắm ở Hoàng Sa, thủy thủ các
tàu này đã được ngư dân Việt Nam cứu và dẫn vào đất liền trình diện chúa Nguyễn.
Họ đã được giúp đỡ ăn, ở chu đáo cho đến ngày về nước. Những tài liệu lịch sử nghĩa
cử, hoạt động nói trên và các văn kiện chính thức của Nhà nước phong kiến Việt
Nam đã ghi chép đầy đủ các mặt địa lý hành chính, kinh tế của quần đảo và việc thực
hiện chủ quyền với danh nghĩa Nhà nước đối với quần đảo đó đã có giá trị pháp lý
vững chắc, không ai có thể thay đổi được. Việc thành lập đội Hoàng Sa, hàng năm có
mặt đều đặn ở hai quần đảo để thực hiện nhiệm vụ do Nhà nước giao chứng tỏ rằng
Nhà nước Việt Nam thực sự thực hiện quyền làm chủ, củng cố và giữ vững chủ
quyền của mình đối với quần đảo Trường Sa.
8
ĐẢO NAM YẾT
Đại Nam Nhất Thống Chí (khởi soạn 1848, in năm 1910) của Quốc Sử Quán
Triều Nguyễn khẳng định: “đội Bắc Hải khiến đội Hoàng Sa kiêm quản, ra Bắc Hải,
các đảo Côn Lôn tìm hải vật”. Đội Bắc Hải tuy không được chính quyền Chúa
Nguyễn coi quan trọng như đội Hoàng Sa song vẫn do Nhà nước quản lý. Đây là
bằng chứng có tính cách Nhà nước rõ ràng của đội Bắc Hải. Đội Bắc Hải do đội
Hoàng Sa kiêm quản, mà nhiệm vụ của đội Hoàng Sa không những để khai thác tài
nguyên mà còn có nhiệm vụ kiểm soát các hải đảo và vùng biển Việt Nam.
Như vậy đến thời kỳ này thì “Bãi Cát Vàng” và “Vạn Lý Trường Sa” không
còn là hai quần đảo vô chủ nữa mà đã là lãnh thổ của Việt Nam.
Theo Hiệp ước Pháp - Việt 1874 cùng Hiệp ước ngày 6 tháng 6 năm 1884 giữa
Pháp và Triều đình Nhà Nguyễn về việc Nhà Nguyễn đồng ý cho Pháp thay mặt Nhà
9
ĐẢO NAM YẾT
nước Việt Nam trong các hoạt động đối ngoại, ký các văn bản ngoại giao và bảo vệ
chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chính quyền thực dân Pháp ở Việt Nam
đã chính thức chiếm hữu Trường Sa trong tình trạng không có nước nào chiếm hữu.
Năm 1887, Pháp và Triều đình Mãn Thanh ký công ước về hoạch định biên
giới cả trên biển và trên bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Năm 1909, nhà cầm quyền Pháp cho các pháo hạm tuần tiễu trên vùng biển hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Từ năm 1920, các tàu của Sở Hải quân Đông
Dương cũng được tăng cường để làm nhiệm vụ tuần tiễu chống bọn buôn lậu ở vùng
biển Hoàng Sa và Trường Sa.
Năm 1933, chính quyền thực dân Pháp đã làm đầy đủ thủ tục chiếm hữu theo
nghi thức truyền thống phương Tây với một hạm đội đem đến mỗi đảo một văn bản
chiếm hữu do các thuyền trưởng ký đóng kín trong một cái chai được gắn trong một
trụ xi măng xây trên mỗi đảo. Người ta kéo cờ và thổi kèn trên từng hòn đảo Trường
Sa (Spratly), đảo An Bang (Caye d’Aboine), đảo Ba Bình (Itu-Iba), đảo Loại Ta
(Loaito), đảo Thị Tứ cùng các tiểu đảo phụ thuộc. Sau đó Bộ Ngoại giao Pháp đã có
một thông tri đăng công báo Pháp ngày 26 tháng 7 năm 1933 về sự chiếm hữu đảo
Trường Sa ngày 13 tháng 4 năm 1930 và các đảo An Bang, Ba Bình, Loại Ta, Thị Tứ
cùng các đảo phụ cận từ ngày 7 tháng 4 năm 1933 đến ngày 12 tháng 4 năm 1933.
Ngày 21 tháng 12 năm 1933, thống đốc Nam kỳ Grơthayme đã ký Nghị định
số 4762/S-P đặt quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa.
Ngày 15 tháng 6 năm 1938, toàn quyền Đông Dương Brêviê đã ký Nghị định
số 156/S-P xây dựng một đèn biển, trạm khí tượng thuỷ văn, đài vô tuyến điện ở đảo
Ba Bình trong quần đảo Trường Sa.
Suốt thời gian đại diện cho Nhà nước Việt Nam về mặt đối ngoại, Chính phủ
Pháp luôn khẳng định chủ quyền của Việt Nam với quần đảo Trường Sa, đồng thời
phản kháng lại những hành động xâm phạm chủ quyền của Việt Nam ở quần đảo đó.
Ngày 14 tháng 10 năm 1950, Chính phủ Pháp chính thức bàn giao việc quản lý
và bảo vệ hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cho Chính phủ Bảo Đại. Tổng trấn
Trung phần Phan Văn Giáo đã ra Hoàng Sa chủ trì việc bàn giao. Ngày 9 tháng 7 năm
1951, tại Hội nghị Xan Phranxixcô, sau khi Nhật tuyên bố từ bỏ mọi quyền đối với
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà họ đã chiếm đóng trái phép từ trước chiến
tranh thế giới lần thứ hai, Trần Văn Hữu, Thủ tướng Chính phủ của chính quyền Bảo
Đại đã tuyên bố khẳng định chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Lời khẳng định này được đưa ra trước Hội nghị có đại diện của 51 nước
tham dự nhưng không có đại biểu nào lên tiếng phản đối.
Sau khi Hiệp định Giơnevơ năm 1954 được ký kết, ngày 28 tháng 4 năm 1956,
quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi Đông Dương, chính quyền Sài Gòn vẫn duy trì các
lực lượng đồn trú bảo vệ, khảo sát quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 20 tháng
10
ĐẢO NAM YẾT
10 năm 1956, chính quyền Sài Gòn ra Nghị định số 143/NV về việc đổi tên các tỉnh
miền Nam, trong đó quần đảo Trường Sa được đưa về tỉnh Phước Tuy.
Năm 1957, các lực lượng thuỷ quân lục chiến của quân đội Sài Gòn đã được
đưa ra quần đảo Trường Sa làm nhiệm vụ bảo vệ các đảo thay cho các đơn vị đồn trú
trước đây. Năm 1963, chính quyền Sài Gòn đã dựng bia chủ quyền trên các đảo
Trường Sa, An Bang, Song Tử Tây,...Trong các năm từ 1961 đến 1973, liên tục phái
các đội tàu làm nhiệm vụ tuần tiễu, kiểm soát và tiến hành khảo sát hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 6 tháng 9 năm 1973, Bộ trưởng Bộ Nội vụ chính quyền Sài Gòn ra Nghị
định số 420-BNV/HDCP/26 sáp nhập quần đảo Trường Sa vào xã Phước Hải thuộc
quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy.
Như vậy, từ sau khi Pháp rút khỏi Đông Dương cho đến tháng 4 năm 1975,
chính quyền Sài Gòn và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt
Nam đã tiến hành những hoạt động thực hiện chủ quyền của Nhà nước Việt Nam với
quần đảo Trường Sa một cách hoà bình, thực sự và liên tục.
Tháng 4 năm 1975, trong hào khí của cuộc Tổng tiến công nổi dậy của quân và
dân ta giải phóng miền Nam, chấp hành mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng, Hải quân
nhân dân Việt Nam đã giải phóng hoàn toàn quần đảo Trường Sa, góp phần đưa cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta giành được thắng lợi trọn vẹn.
Từ sau khi thống nhất đất nước, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
liên tục có những hoạt động khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo
Trường Sa và Hoàng Sa. Về mặt hành chính, trước năm 1982, Trường Sa thuộc
huyện Long Đất, tỉnh Đồng Nai; ngày 9 tháng 12 năm 1982, theo quyết định số 193
của Hội đồng bộ trưởng, huyện Trường Sa được thành lập và thuộc tỉnh Đồng Nai;
ngày 28/12/1982, huyện Trường Sa được chuyển sang tỉnh Phú Khánh. Sau khi chia
tách tỉnh (30/6/1989), huyện Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa. Theo Nghị định số
65/2007/NĐ-CP của Chính phủ được ban hành vào tháng 4 năm 2007, huyện Trường
Sa (thuộc tỉnh Khánh Hòa) có 3 đơn vị hành chính trực thuộc gồm thị trấn Trường Sa
và các xã Song Tử Tây, Sinh Tồn.
11
ĐẢO NAM YẾT
Đảo Nam Yết được người phương Tây ghi nhận lần đầu tiên có lẽ là vào năm
1767, khi tàu Dolphin (cá heo) của thuyền trưởng William Wallis quan sát được đảo
này vào ngày 03 – 04/11/1767. Tàu Dolphin (cùng các tàu Swallow và Prince
Frederick) khởi hành từ cảng Plymouth nước Anh ngày 22 tháng 08 năm 1766, có
chuyến hải trình dài hai năm vòng quanh thế giới. Đoàn đã đi qua phía Tây bán cầu
và đến Philippin tháng 10/1767, sau đó đi qua quần đảo Trường Sa và bờ biển miền
Nam Việt Nam. W. Wallis chính là người đặt tên cho hòn đảo ông quan sát được vào
ngày 04/11/1767 là đảo mới (Namyit) – cái tên được dùng cho đến ngày nay.
William Walis, người đặt tên cho đảo Nam Yết (Namyit)
Nằm trong quần đảo Trường Sa, các chính quyền Việt Nam thời phong kiến và
chính quyền thuộc địa Pháp đã liên tục quản lý đảo Nam Yết trong các thế kỷ XVIII,
XIX đến những năm đầu thế kỷ XX. Các cuộc khảo sát cũng được tiến hành thường
xuyên. Có thể kể đến cuộc khảo sát về san hô đảo Nam Yết của B. Smith năm 1890
hay Bernard năm 1897. Năm 1952 Dawydoff đã thống kê được 32 loài thân mềm, 14
loài da gai, một số loài giáp xác và giun đốt ở đảo Nam Yết, Thái Bình, Loại Ta và
Trường Sa.
12
ĐẢO NAM YẾT
Bia chủ quyền của chính quyền Sài Gòn trên đảo Nam Yết.
Trong chiến tranh thế giới thứ hai, phát – xít Nhật chiếm một số đảo trong
quần đảo Trường Sa vào ngày 30 tháng 3 năm 1931, trong đó có Nam Yết và có lẽ đã
xây dựng trên đảo này một số căn cứ quân sự. Trước đó, người Nhật tuyên bố chủ
quyền với quần đảo mà họ gọi là Sinnan, có vị trí nằm trong vùng nối các điểm 12o
B, 117oD; 9o30B, 117oD; 8oB, 116 oD; 7oB, 114 oD, 7oB, 111 o30D; 9oB, 111o30D;
13
ĐẢO NAM YẾT
12oB, 114oD và 12oB, 117 oD. Người Nhật tuyên bố rằng quần đảo Sinnan là quần đảo
vô chủ trước năm 1921 và Công ty của Nhật Rasa Phosphate Co đã khai thác quần
đảo này từ năm 1917, đầu tư đáng kể vào các công trình vĩnh cửu trên các đảo ở đây
với sự ủng hộ của Chính phủ Nhật Bản.
Sau thế chiến, chính quyền miền Nam thực hiện quản lý trên thực tế đảo Nam
Yết. Tháng 8/1956, họ đã đưa tàu chiến Tuy Đông (HQ – 04) ra quần đảo Trường Sa
nhằm mục đích dựng bia chủ quyền trên hầu hết các đảo thuộc quần đảo này và xây
các bệ cột để cắm cờ Việt Nam.
Năm 1962, các tàu tuần tiễu Tuy Đông và Tây Kết đã đến đảo Trường Sa và
Nam Yết. Sau năm 1963, do chiến tranh, các cuộc tuần tiễu ra quần đảo Trường Sa đã
được giảm bớt. Tuy nhiên, các hoạt động tuần tiễu, điều tra, khảo sát vẫn được tiến
hành liên tục. Có thể kể đến các chuyến khảo sát của đoàn điền địa năm 1973 đã kể
trên hay chuyến đi “công tác dầu hỏa” của tàu hải quân (Việt Nam cộng hòa) HQ – 3
đầu năm đó.
Quân đội miền Nam Việt Nam chỉ thực sự đóng quân trên đảo Nam Yết từ
tháng 8 năm 1973 với quân số 70 người (địa phương quân). Đây là đảo duy nhất ở
quần đảo Trường Sa có lính Việt Nam cộng hòa trú quân thường xuyên trước năm
14
ĐẢO NAM YẾT
1974. Sau sự cố 20/01/1974, Việt Nam cộng hòa gấp rút tăng cường bảo vệ các đảo
thuộc quần đảo Trường Sa với chiến dịch mang tên Trần Hưng Đạo 48, đổ bộ lên một
số đảo khác của quần đảo Trường Sa, mỗi đảo từ 20 đến 40 địa phương quân. Lúc
này, lực lượng bộ binh trú đóng ở Trường Sa thuộc Đại đội 4, Tiểu đoàn 371 Điạ
phương quân tỉnh Phước Tuy. Bộ chỉ huy đặt căn cứ trên đảo Nam Yết do trung úy
Đoàn Cận Tiêm chỉ huy.
15
ĐẢO NAM YẾT
Ngày 5 tháng 9 năm 1975, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Lữ đoàn
Hải quân đánh bộ 126, gồm lực lượng của 2 Trung đoàn 46 và Trung đoàn 126 Đặc
công Hải quân, làm nhiệm vụ phòng thủ bảo vệ quần đảo Trường Sa và sẵn sàng cơ
động chiến đấu bảo vệ vùng biển. Ngày 23 tháng 3 năm 1976, Bộ Tổng Tham mưu
tiếp tục điều động Trung đoàn Công binh 83 thuộc Quân khu 5 về trực thuộc Bộ Tư
lệnh Hải quân làm nhiệm vụ xây dựng các công trình chiến đấu phòng thủ bảo vệ
quần đảo Trường Sa.
Tháng 11 năm 1975, Đoàn cán bộ của Bộ Tư lệnh Hải quân và của Lữ đoàn
126 do đồng chí Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng, Đại tá Hoàng Hữu Thái làm
trưởng đoàn đi kiểm tra tình hình sẵn sàng chiến đấu của các đảo trên quần đảo
Trường Sa và nghiên cứu việc tổ chức các lực lượng phòng thủ đảo. Nhìn thấy anh
em mặc quần đùi bằng bao đạn khâu tay, người nào cũng đen cháy, nhiều đồng chí
trong đoàn không cầm được nước mắt. Trên cơ sở nghiên cứu khảo sát thực tế tình
hình các đảo, Quân chủng xác định biên chế tổ chức lực lượng chiến đấu bảo vệ các
đảo Nam Yết, Trường Sa, Song Tử Tây là cấp đại đội tăng cường, các đảo còn lại
biên chế tổ chức cấp đại đội thiếu.
Tháng 5 năm 1977, đoàn cán bộ của Quân chủng hải quân do đồng chí Tư
lệnh, Thiếu tướng Giáp Văn Cương và Chính ủy, Thiếu tướng Hoàng Trà dẫn đầu
kiểm tra tình hình sẵn sàng chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ đảo Nam Yết. Đây là lần
đầu tiên đồng chí Tư lệnh và Chính ủy đi nắm tình hình trên đảo Nam Yết. Trong
chuyến đi đó, đồng chí Tư lệnh xác định hình thức tổ chức đảo Nam Yết tương
đương cấp tiểu đoàn, biên chế có các phân đội hoả lực bộ binh, pháo binh, pháo cao
xạ, các bộ phận thông tin, ra đa.
Xuất phát từ vị trí, đặc điểm quần đảo Trường Sa và yêu cầu nhiệm vụ phòng
thủ bảo vệ quần đảo, từ cuối năm 1977, Quân chủng chủ trương và tiến hành tách một
bộ phận lực lượng, chủ yếu là cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 46 cũ của Lữ đoàn 126 tổ
chức thành một trung đoàn chuyên trách làm nhiệm vụ phòng thủ bảo vệ Trường Sa.
Theo đề nghị của Quân chủng Hải quân, ngày 8 tháng 5 năm 1978, Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng ra Quyết định 391/QĐ-QP thành lập Trung đoàn 145 phòng thủ Trường
Sa. Sau đó, thể theo nguyện vọng của cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn, để ghi dấu truyền
thống các đơn vị tiền thân là Trung đoàn 126 và Trung đoàn 46, Trung đoàn 145
được đổi phiên hiệu thành Trung đoàn 146 phòng thủ Trường Sa. Đồng chí Trung tá
Cao Anh Đặng được bổ nhiệm Trung đoàn trưởng; đồng chí Trung tá Vũ Quang
Chinh là Chính ủy Trung đoàn. Ngày 12 tháng 2 năm 1979, Bộ Quốc phòng ra Quyết
định nâng cấp Trung đoàn 146 thành Lữ đoàn 146. Đến tháng 6 năm 1981, Bộ Tổng
Tham mưu quyết định chuyển Lữ đoàn 146 trực thuộc Quân chủng về trực thuộc
Vùng 4 Hải quân.
Thực hiện chủ trương tăng cường sức phòng thủ bảo vệ chủ quyền quần đảo
Trường Sa, tháng 4 năm 1988, Quân chủng quyết định thành lập 5 khu vực đảo
16
ĐẢO NAM YẾT
phòng thủ và thành lập các tiểu đoàn pháo binh, phòng không trên các đảo Trường
Sa, Nam Yết, Song Tử Tây. Trong đó, đảo Nam Yết được xác định là trung tâm chỉ
huy khu vực 2.
Như vậy, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới, đầu năm 1988, đảo Nam Yết có
bước phát triển mạnh về tổ chức các lực lượng chiến đấu cả về chất lượng và số
lượng, quân số cao nhất năm 1989 lên tới gần 400 cán bộ, chiến sĩ, quy mô tổ chức
của đảo Nam Yết là đảo cấp I tương đương trung đoàn. Ban chỉ huy đảo gồm có đảo
trưởng, đảo phó chính trị, đảo phó - tham mưu trưởng, đảo phó Pháo binh, đảo phó
phòng không, đảo phó bộ binh (lục lăng đột kích). Về tổ chức lãnh đạo, thành lập
Đảng bộ bộ phận đảo trực thuộc Đảng bộ Lữ đoàn.
Từ năm 1991 đến 1996, để phù hợp với cách đánh, với các phương án tác
chiến mới, tiểu đoàn pháo binh, tiểu đoàn phòng không của đảo Nam Yết được giải
thể, thành lập các cụm chiến đấu và các phân đội hoả lực cơ động. Những năm tiếp
theo đến năm 2006, tổ chức lực lượng các đảo tiếp tục được tinh hoá theo hướng gọn,
mạnh, giảm dần số lượng, nâng cao chất lượng phòng thủ, chất lượng và trình độ sẵn
sàng chiến đấu của bộ đội.
Lính pháo binh đảo Nam Yết diễn tập bắn đạn thật
Hàng năm, đảo tập trung làm tốt việc bổ sung, hoàn chỉnh các văn kiện theo
các phương án chiến đấu phòng ngự; hiệp đồng chiến đấu; đánh địch tập kích ban
đêm ở các cấp toàn đảo, cụm và phân đội. Tổ chức luyện tập, toàn đảo tháng 1 lần,
cụm một tháng 2 lần, phân đội một tháng 3 lần. Kết quả luyện tập thường xuyên đạt
17
ĐẢO NAM YẾT
khá, giỏi. Trong luyện tập phương án, chú trọng luyện tập các phương án đánh địch
ban đêm, đánh biệt kích người nhái, chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu. Bên cạnh
đó, đảo tổ chức thực hiện tốt các kế hoạch luyện tập thực hành bắn xua đuổi các tàu
thuyền xâm phạm khu vực biển đảo quản lý. Hàng năm, các đoàn kiểm tra của Bộ
Quốc phòng, Quân chủng, Vùng và Lữ đoàn về huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, đảo
luôn đạt yêu cầu, có nhiều năm liên tục đạt khá, giỏi như các năm 1993- 1995 và liên
tục các năm 1998-2005.
Cùng với việc phát triển lực lượng, hệ thống công sự trận địa phòng ngự trên
đảo Nam Yết tiếp tục được đầu tư xây dựng. Trung đoàn 83 sau khi hoàn thành xây
dựng các công tình quân sự của kế hoạch "Z76" năm 1980 tiếp tục được Quân chủng
giao nhiệm vụ xây dựng các công trình quân sự lâu bền, kiên cố trên đảo Nam Yết,
bao gồm hệ thống lô cốt, hầm trú ẩn, hầm chỉ huy. Đến cuối năm 1984, Trung đoàn
hoàn thành xây dựng xong các công trình trên đảo, có hạng mục xong trước thời gian
kế hoạch 3 tháng.
Những năm 1989, 1995 vào mùa khô, đảo như một công trường xây dựng lớn
với hàng trăm cán bộ, chiến sĩ công binh cùng các trang thiết bị công trình miệt mài
lao động. Các tàu vận tải chở hàng ra vào đảo như con thoi. Bộ mặt của đảo mỗi năm
một đổi mới như một pháo đài mỗi ngày một thêm vững chắc. Bộ đội đảo Nam Yết tổ
chức đóng gạch, xây dựng được 1.000m2 nhà cấp bốn, tham gia vận chuyển hàng
nghìn tấn vật liệu tu sửa, kè đá được hàng nghìn mét hào dã chiến. Năm 1992, khánh
thành hai nhà đảo bộ hai tầng và sau đó hàng loạt các công sự, trận địa hoàn thành
đưa vào sử dụng.
Những năm 1996-2005, hàng chục công trình kiên cố tiếp tục được xây dựng.
Hệ thống kè bê tông vòng quanh đảo; cầu cảng cho xuồng chuyển tải hoàn thành là
những điểm nhấn đánh dấu sức vươn lên không ngừng của đảo Nam Yết, xứng đáng
với vị trí tiền tiêu, mảnh đất thiêng liêng của Tổ quốc.
Năm 1991, hoàn thành xây dựng hệ thống mạng lưới điện sinh hoạt trên đảo.
Tháng 5 năm 1992, ăng ten Parabôn thu tín hiệu truyền hình được lắp đặt đưa vào sử
dụng. Kể từ năm 1975, đây là lần đầu tiên bộ đội đảo Nam Yết được xem truyền hình
trực tiếp. Những năm sau đó, đảo tiếp tục lắp đặt hệ thống loa truyền thanh đến các
cụm. Hàng ngày theo giờ quy định, bộ đội được xem, nghe, các chương trình thời sự,
văn hoá, khoa học, xã hội và thể thao của Đài truyền hình Việt Nam, Đài tiếng nói
Việt Nam, các bản tin thi đua tuần, tháng của đơn vị, các tài liệu tuyên truyền nhân
dịp các ngày lễ lớn, sự kiện quan trọng của đất nước, của quân đội.
Ngày 30 tháng 4 năm 1978, hai tàu 610, tàu 608 của Hải đoàn 125 chở đoàn
cán bộ Quân chủng cập đảo Nam Yết. Đi theo đoàn còn có Đội văn nghệ quần chúng
của Hạm đội 171 và Đội chiếu phim của Cục Chính trị ra phục vụ bộ đội đảo. Đây là
lần đầu tiên bộ đội đảo Nam Yết được xem biểu diễn văn nghệ và xem chiếu bóng
18
ĐẢO NAM YẾT
trên đảo. Những năm sau đó, vào mùa biển lặng, Quân chủng đều tổ chức văn công ra
đảo phục vụ bộ đội và đội chiếu bóng của Vùng 4 đi theo các tàu vận tải ra chiếu
phim. Từ năm 1983, Quân chủng đầu tư xây dựng tủ sách cho đảo từng bước hình
thành thư viện đảo sau này. Từ đó cho đến những năm sau này, bộ đội Trường Sa
luôn nhận được sự chi viện bằng vật chất và tinh thần hết sức có ý nghĩa của nhân
dân cả nước, của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội, nhất là Thành phố Hồ Chí
Minh và tỉnh Khánh Hoà góp phần cải thiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
bộ đội trên các đảo Trường Sa, trong đó có bộ đội đảo Nam Yết. Hàng năm, ngoài
các đoàn của Bộ Quốc phòng, của Quân chủng ra kiểm tra và thăm đảo, còn có các
đoàn của Quốc hội, Nhà nước, của các địa phương, đoàn thể xã hội ra thăm động viên
bộ đội. Trong đó có chuyến thăm của đồng chí Phó Thủ tướng Trần Đức Lương ra
thăm đảo Nam Yết, tháng 4 năm 1993.
19
ĐẢO NAM YẾT
Nước ngọt phục vụ cho sinh hoạt, ăn uống của bộ đội đảo Nam Yết là vấn đề
nan giải và khó khăn. Về mùa mưa anh em tận dụng nguồn nước mưa tự nhiên, còn
về mùa khô luôn trong tình trạng thiếu nước trầm trọng. Hệ thống chứa nước của đảo
gồm bể xây và bể téc sắt chỉ bảo đảm lượng chứa hơn 200 khối, chia theo mỗi đầu
người 1m3 sử dụng thường xuyên và dự trữ. Bể nước xây trên đảo thường hay bị lún
và nứt rò chảy do xây trên nền san hô yếu, bị rung do các loại pháo lớn bắn đạn thật
thường xuyên trên đảo nên cũng chỉ dùng một thời gian lại phải xây, sửa. Còn nước
chứa trong téc sắt bị ô xi hoá, bị vàng, bẩn không bảo đảm vệ sinh nhất là về mùa
khô, đơn vị phải lọc nước mới sừ dụng được. Vì vậy việc quản lý và sử dụng nước
ngọt đơn vị quy định rất chặt chẽ, phân phối theo định lượng đầu người trong ngày để
duy trì cho sinh hoạt và dự trữ sẵn sàng chiến đấu.
20
ĐẢO NAM YẾT
Từ năm 1978, đơn vị bắt đầu triển khai trồng và chăm sóc cây xanh để cải
thiện môi trường sống trên đảo. Giống cây từ bờ đưa ra đảo chủ yếu là cây phi lao,
bàng quả vuông, dừa, mù u là những loại cây phù hợp với đảo Nam Yết. Mặc dù tỉ lệ
cây sống thấp và thường xuyên bị bão nhưng sau nhiều năm số lượng cây xanh không
ngừng tăng lên, đảo luôn giữ được màu xanh.
21
ĐẢO NAM YẾT
Trong xây dựng, củng cố đảo, sau năm 1988, phong trào trồng cây xanh tiếp
tục được đẩy mạnh và là một phong trào quan trọng trong các hoạt động hàng năm
của đảo. Ngoài một số giống cây từ bờ cung cấp, đảo tổ chức gây giống cây tại chỗ
như phi lao, bão táp, bàng quả vuông, mù u, những năm sau này thí nghiệm trồng
thêm cây ăn quả. Hàng năm đảo triển khai trồng từ 1.500 đến 2.000 cây xanh các
loại, có 30-40 cây dừa, tỷ lệ sống đạt 15-20%. Cho nên dù khí hậu khắc nghiệt, bão
gió hàng năm ảnh hưởng lớn, song đảo luôn luôn giữ được màu xanh, số lượng các
loại cây xanh thường xuyên được nhân lên, được chăm sóc phát triển tươi tốt, rợp
bóng trên đảo, mang đậm hình bóng của đất liền, ấm áp tình cảm quê hương đất
nước.
Từ tháng 4 năm 1989, các đoàn tàu đánh cá của ngư dân tỉnh Khánh Hoà ra
Trường Sa đánh bắt hải sản và tiếp sau đó là ngư dân một số tỉnh ven biển Nam Bộ
cũng tổ chức các đoàn tàu ra đánh bắt hải sản trên vùng biển Trường Sa, đảo Nam
Yết luôn giữ mối liên lạc chặt chẽ, nắm chắc tình hình các tàu đánh cá trên khu vực
biển quản lý. Những năm 1992-2006, đảo đã giúp đỡ hàng trăm tàu thuyền dân với
hàng vạn lít nước ngọt, hàng nghìn lít dầu; kịp thời cứu chữa hàng chục ngư dân bị
bệnh, tai nạn trên biển, nuôi dưỡng tạm thời và cung cấp hàng trăm viên thuốc các
22
ĐẢO NAM YẾT
loại. Cuối năm 2002, đảo kịp thời tổ chức cứu nạn một tàu ngư dân bị sự cố kỹ thuật
bảo đảm an toàn cho người và phương tiện; đầu năm 2006, quân y của đảo kịp thời
cấp cứu sống một số ngư dân bị thương khi đang sản xuất được Quân chủng tặng
Bằng khen.
Với những thành tích đạt được, cán bộ chiến sỹ đảo Nam Yết đã được nhà
nước khen thưởng:
+ Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ đổi mới, tuyên dương
ngày 22-12-2004.
+ Huân chương Chiến công hạng Nhất, năm 1984.
+ Huân chương Chiến công hạng Ba, năm 2003.
+ Bác Tôn tặng Lẵng hoa, năm 1979.
được Thủ tướng chính phủ tặng:
+ Bằng khen các năm 1997, 1998, 1999.
và được tư lệnh hải quân tặng cờ thưởng:
+ “Đơn vị dẫn đầu trong phong trào thi đua” các năm 1997, 1999, 2000, 2002.
+ "Đơn vị huấn luyện giỏi 5 năm 1996-2000”.
+ Đơn vị hoàn thành xuất sắc cuộc vận động xây dựng môi trường văn hóa
1992-2002".
+ Bằng khen về thành tích cứu hộ, cứu nạn năm 2005.
+ Danh hiệu "Đơn vị quyết thắng" (1997-2001 và 2004, 2005).
23
ĐẢO NAM YẾT
CHƯƠNG 3. NHỮNG CÂU CHUYỆN VỀ ĐẢO NAM YẾT
Đảo Nam Yết nhìn từ phía xa giống như một khu du lịch nghỉ dưỡng giữa biển khơi.
Tàu lớn thả neo ngoài khơi, thuyền nhỏ cập bến, thủ trưởng gặp chiến sĩ, đại
biểu đất liền hội ngộ người miền biên hải, tay bắt mặt mừng, niềm vui bừng lên dưới
tán lá bàng, lá phong ba, cây bão táp như chung một niềm tự hào về biển trời giàu có
của Tổ quốc. Quả cũng không sai khi ai đó nói rằng, Nam Yết là đảo đẹp nhất trong
quần đảo Trường Sa của Việt Nam, nằm ở vị trí trung tâm giữa hai đầu hải phận đất
nước. Dưới bàn tay những cán bộ chiến sỹ nơi đây, bên cạnh những dây muống biển
hoa tím bò trườn mềm mại trên bờ cát trắng là một vườn cây xanh mướt với những
24
ĐẢO NAM YẾT
bóng dừa, mù u, bàng, đu đủ, cây nhàu, cây tra, cây phong ba, cây bão táp và những
vườn rau cải, mồng tơi, lá mơ lông, rau muống... đủ loại.
Bước chân lên Nam Yết không còn cái ấn tượng ngày xưa khi nhắc tới hải đảo
là nhắc tới sự khắc nghiệt của nắng gió và cát trắng. Nay với sự nỗ lực của cán bộ
chiến sỹ trên đảo và tinh thần cả nước hướng về Trường Sa, đảo đã được phủ sóng
điện thoại di động Viettel, lương thực, chế độ dinh dưỡng của cán bộ chiến sỹ được
bảo đảm khá đầy đủ. Trên đảo bộ đội có đầy đủ sân chơi thể thao, doanh trại với TV,
radio, dàn karaoke, hội trường sinh hoạt văn nghệ, trạm xá, nhà bếp khang trang...
Không giấu nổi niềm tự hào, Trung tá Phạm Văn Hóa, Đảo trưởng Nam Yết cười tươi
cho biết: “Anh em ở đảo quí màu xanh cây lá, mỗi khi tắm xong đều tận dụng nước
ngọt để tưới cây. Chúng tôi giờ không thiếu rau xanh, có khi còn nhiều hơn cả trên
đất liền ấy chứ...”. Trên đảo, anh em cán bộ chiến sỹ nuôi tới gần 100 con lợn béo,
hàng trăm con gia cầm. Bên những hàng cây, doanh trại, công sự... từng đàn lợn nhởn
nhơ rũi cát như ở chốn quê nhà. Là sĩ quan cơ yếu của đảo nhưng Đại úy Bùi Văn
Ngãi còn là một tay nuôi gia cầm mát tay, anh và một đồng đội nữa hiện nuôi tới hơn
40 con ngan, vịt (chỉ có điều chúng đều không biết bơi do chỉ hoàn toàn được nuôi
trên cạn). Trên đảo, mỗi anh em cán bộ chiến sỹ hàng năm cũng đều đặt ra tiêu chuẩn
thi đua trồng và chăm sóc 5 cây xanh sống khỏe, đồng thời tận dụng diện tích trồng
thật nhiều các loại rau xanh... Mỗi năm toàn đảo thu được hàng chục tấn rau, hàng
chục tấn thịt, cá, cải thiện cho đời sống bộ đội.
Hoa Văn Phương Anh, 19 tuổi, chiến sĩ trẻ nhất đảo, quê ở Khoái Châu, Hưng
Yên, ra đảo tháng 1-2008 tâm sự, lúc ở đất liền anh có đôi chút ngại ngùng khi nghĩ
tới hải đảo xa xôi, nhưng nay thì đã yên tâm. Ngoài những giờ luyện tập và làm
nhiệm vụ, Phương Anh vẫn chú ý ôn luyện kiến thức văn hóa để sau khi hoàn thành
nghĩa vụ sẽ tiếp tục đăng ký thi đại học. Cùng ý nghĩ như Phương Anh, bác sĩ Phong,
bác sĩ Tịnh trong kíp y tế của Bệnh viện 103 mới tăng cường ra đảo từ tháng 3-2008
cũng vững tin và xác định hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Năm qua, đảo đã cứu
giúp 60 ngư dân gặp bão trôi dạt trên biển, can thiệp kịp thời giành lại sự sống cho
nhiều trường hợp ngư dân lặn biển bị tai biến giảm áp, trong đó, có công sức không
nhỏ của các anh.
Cán bộ chiến sỹ trên đảo Nam Yết có chung niềm tự hào là những người lính
gánh vác sứ mạng bảo vệ chủ quyền nơi tiền tiêu của Tổ quốc. Ngày đêm trên đảo,
dưới hương thơm của hoa mù u, cán bộ chiến sỹ đảo Nam Yết với chất thép của
người chiến sỹ quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng và lòng yêu quê hương, đất
nước, đã không ngừng luyện tập, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ từng tấc đất biên cương
của Tổ quốc. Khi Nguyễn Mậu Trường mới được hai tuổi (anh sinh năm 1986) cha
anh là liệt sĩ hải quân Nguyễn Mậu Phong đã chiến đấu và hy sinh anh dũng để bảo
vệ chủ quyền Tổ quốc. Lớn lên trong tình thương của mẹ và bà con lối xóm, hun đúc
lòng tự hào về người cha anh hùng, nay Trường lại từ quê hương Quảng Bình rèn
25
ĐẢO NAM YẾT
luyện và trở thành chiến sĩ hải quân trên đảo Nam Yết. Nở nụ cười thật hiền và rắn
rỏi, Trường bảo: “Cha em và những người đồng đội của cha đã hy sinh vì Trường Sa,
nay em tự hào mình lại được tiếp bước cha gìn giữ vững chắc biển trời của quê
hương. Với em biển trời Trường Sa như máu thịt, như gần gũi đâu đây linh hồn của
cha em và đồng đội...”.
Vợ chồng Lương - Dương (giữa) với các đồng đội đảo Nam Yết
Hôm hay tin sẽ được ra đảo thăm chồng, Hiền Lương chạy ào ra chợ mua ít
quà cho chồng mà chân lập cập như người say rượu vì mừng. Chưa bao giờ ra biển,
chưa bao giờ hiểu được sóng gió đại dương nên Hiền Lương bị say sóng nằm bẹp gí
trong khoang tàu dù đang mùa biển lặng.
26
ĐẢO NAM YẾT
Sau hai ngày đêm, Lương choàng tỉnh khi nghe tiếng reo hò ngoài boong. Chị
nhờ hai người dìu ra bên ngoài. Trước mắt chị là một chấm nhỏ ở đường chân trời.
Cái chấm đó to dần, to dần... Hiền Lương nói về cảm nhận của mình: “Giữa biển cả
mênh mông cái chấm nhỏ hiên ngang quá đỗi”.
Ở cầu tàu đảo Nam Yết (huyện đảo Trường Sa), Hiền Lương được đưa vào đảo
bằng chuyến xuồng thứ hai. Thiếu úy Hải Dương đã biết trước trên chuyến tàu này có
vợ mình, nhưng đến khi thấy vợ ngay trước mặt cứ nhìn sững như không tin đó là sự
thật. Hiền Lương ào đến ôm chồng, nước mắt cứ thế trào ra, bao tháng ngày thui thủi
bất chợt ùa về... Chỉ huy đảo Nam Yết toát mồ hôi trước sự kiện đặc biệt này.
Bấy lâu ở đảo chỉ toàn dân nhà binh, biên chế quân số đâu ra đó, nay lại có một
“nữ binh” vượt biển ra thăm chồng mới... “chết đứng” chứ. Tính toán căng thẳng,
cuối cùng phòng của hai anh lính đảo được trưng dụng nhường cho đôi uyên ương
hưởng tuần trăng mật hôm nào dở dang và thật đặc biệt: Trường Sa...
Chị Hiền Lương và cành "hoa đảo" làm bằng ốc - món quà của bộ đội Trường
Sa - Ảnh: T.B.
Ngày đầu tiên dẫn vợ đi chào đồng đội khắp đảo, nhiều lính trẻ trên đảo trêu:
“Tớ cưới vợ cùng ngày với cậu mà được thế đâu, sẽ đề nghị thủ trưởng sau này cho
vợ con ra thăm mới công bằng chứ”.
Bấy giờ là mùa khô, đảo oi bức, nước dự trữ trong hồ cạn kiệt, nước uống còn
phải cầm chừng, thế nhưng những người lính đảo đã bảo nhau nhường “vàng” (nước)
cho Hiền Lương. Có khách đặc biệt đến thăm mà Hiền Lương nhìn đồng đội của
chồng quây quần bên mâm cơm chỉ toàn đồ hộp, càng thương chồng và những người
lính Trường Sa hơn. Hiền Lương ước ao: giá như ở đất liền mình sẽ trổ tài nấu cho
những người lính một nồi canh và một rổ rau xanh to tướng.
27
ĐẢO NAM YẾT
Lính đảo sống cực vậy mà “ướt át” lắm, họ xuống biển chọn những vỏ ốc đẹp
nhất đem kết thành hoa gọi là “hoa đảo” để tặng những người đến từ đất liền.
Đêm cuối cùng, vợ chồng Lương thức trắng. Ngày mai tàu rời đảo về đất liền,
cô vợ trẻ sẽ trở về với mái nhà, còn chồng vẫn ở lại giữa mịt mù biển khơi... Khi
những cánh tay trên boong tàu vẫy chào nhỏ dần, có những giọt nước mắt của người
trên tàu, Hiền Lương cũng khóc nhưng cô nhớ mãi lời Hải Dương động viên: “Thôi
em về trước, tết này anh lại về với em...”.
Hiền Lương nhớ mãi ngày chồng khoác balô lên tàu ra đảo. Ngày ấy, anh mím
môi không chịu cho người vợ trẻ đi tiễn ở Cam Ranh nên không có cảnh tiễn đưa,
chia tay như hôm ở Trường Sa. Một mình thui thủi, những lúc ở trường còn có đồng
nghiệp, học trò, mỗi chiều vừa về tới nhà là trái tim người vợ trẻ cứ nhói lên.
Ấy vậy mà hàng chục lá thư gửi ra đảo xa chị đều kể anh nghe toàn những
chuyện vui nơi đất liền. Hiền Lương bộc bạch: “Không có cũng ráng kiếm chuyện
vui của học trò, đồng nghiệp kể cho anh ấy nghe, có vậy anh ấy mới yên tâm công
tác”.
Hôm chúng tôi đến xã Phước Đồng, thành phố Nha Trang trời đang mưa dầm.
Căn nhà nhỏ vẫn còn tươi trên vách dòng chữ của ngày tân hôn “Hiền Lương - Hải
Dương, trăm năm hạnh phúc”. Mấy hôm trước Hiền Lương đã chuẩn bị đi mua sắm ít
quà để tết này vợ chồng cùng về quê thăm gia đình ở Quỳnh Lưu, Nghệ An, nhưng
rồi tin gửi về từ đảo xa: “Tết này thiếu úy Hải Dương sẽ không về do phải làm nhiệm
vụ đảo xa”.
Biết làm vợ lính đảo phải chấp nhận hi sinh, thiếu thốn, nhưng Hiền Lương
cũng cảm thấy buồn thế nào ấy. Những lúc như vậy Hiền Lương tìm đến Ngọc, một
người bạn cũng có người yêu là lính đảo. Hai chị em cùng cảnh rủ rỉ tâm sự suốt
những lần ngủ chung. Người yêu của Ngọc ra đảo suốt gần hai năm, bạn bè nói xa
nói gần: “Người gần không yêu, yêu chi người mấy năm không nhìn thấy mặt”.
Chỉ có Hiền Lương mới hiểu nỗi lòng của những người đã dành nửa của mình
cho những người lính đảo: “Khi người ta yêu thật sự thì có lẽ như cây phong ba ở
Trường Sa vậy, giữa sóng gió, bão tố vẫn vươn lên...
28
ĐẢO NAM YẾT
114 độ 22 phút Đông. Đây là hành trình cuối cùng trong chuyến thăm Trường Sa của
chúng tôi.
Có mặt tại buổi giao lưu có Thượng tá Ngô Văn Cải, nguyên đảo trưởng đảo
Nam Yết. Anh Cải vừa bàn giao công việc trưởng đảo để trở về đất liền ăn tết Mậu
Tý sau hai năm làm việc trên đảo.
Vị khách mời thứ hai là trung tá Phạm Văn Hòa, người vừa từ đất liền ra nhận
nhiệm vụ trưởng đảo. Người thứ ba là hạ sĩ Nguyễn Mậu Trường. Anh là một câu
chuyện dài của đảo này. Tên của anh chưa chắc đã nhiều người nhớ, nhưng trong số
63 chiến sỹ nằm lại để bảo vệ hòn đảo này, vào sự kiện tháng 3 năm 1988, hẳn không
ai quên được cái tên Nguyễn Mậu Phong, cha của Trường.
Chúng tôi bắt đầu câu chuyện với Thượng tá Cải: Thưa anh, được biết anh đã
có hai năm làm việc trên đảo. Nhiều sự kiện đã diễn ra trong suốt thời gian này
nhưng câu chuyện nào làm anh nhớ nhất?
- Thượng tá Ngô Văn Cải: Tôi là một trong những người thế hệ sau. Đi sau,
chúng tôi xác định xây đảo là một nhiệm vụ quan trọng nhất. Chúng tôi đã được
Đảng, lãnh đạo giao nhiệm vụ xây dựng Nam Yết thành một điểm đảo quan trọng,
đặc biệt. Tôi rất tin vào những việc đã làm.
- Về với gia đình, câu chuyện nào anh sẽ kể con nghe?
- Thượng tá Ngô Văn Cải: Tôi sẽ nói với con tôi là bất kỳ ở môi trường nào,
hoàn cảnh nào, bản thân cũng phải phấn đấu vươn lên và tổ chức mọi công việc của
bản thân, tập thể đảm bảo tốt nhất.
- Ấn tượng tôi nhìn thấy rõ là hơn một tấn đất phải chuyển từ đất liền ra, để
khắc phục việc nhiễm mặn sau bão?
- Thượng tá Ngô Văn Cải: Thời tiết của Nam Yết cũng giống như những nơi
khác. Chúng tôi cố gắng dùng đất chở từ đất liền ra để trồng cây xanh trên đảo. Thực
ra cũng không cần thiết. Vì cải tạo đất ở đây cũng đã đủ cho chúng tôi trồng cây,
trồng rau.
- Có thể thành quả lao động đó chính là hình ảnh mà chúng tôi nhìn thấy khi đi
ra đảo, đó là Nam Yết như một làng quê yên tĩnh nằm giữa biển Đông. Trong tâm
trạng về đất liền đón Tết, anh nhắn nhủ gì cho đồng đội?
- Thượng tá Ngô Văn Cải: Chúng tôi đã xây dựng đảo trong một thời gian dài
và thực hiện trách nhiệm của mình. Thực ra, ở lại cũng không khác nhau. Về đất liền,
là tình cảm với đất liền. Ở lại đảo lại là tình cảm với cán bộ, chiến sĩ trên đảo. Ở đâu
cũng là tình cảm với Tổ Quốc.
29
ĐẢO NAM YẾT
- Lính đảo có một câu khẩu hiệu: "Đảo là nhà, biển cả là quê hương". Tiếp
theo là câu chuyện với anh Phạm Văn Hòa, anh có thể kể về quá trình anh là một
chiến sĩ của Trường Sa và bây giờ đang là một sĩ quan của Trường Sa, là chỉ huy của
Nam Yết?
- Trung tá Phạm Văn Hoà: Đảo là một phần máu thịt của tổ quốc. Từ thời Lạc
Long - Âu Cơ đẻ 50 con lên rừng, 50 xuống biển. Chúng tôi kế thừa được truyền
thống đó. Những người cũ từng xây dựng đảo và những người lính bây giờ. Bao
nhiêu tầng lớp cha anh đã giữ vững truyền thống. Không những thế, còn phải xây
dựng vững mạnh hơn, để xứng đáng với cha ông.
- Nghe cái tên Nam Yết, chúng tôi chỉ biết nó là một đảo thuộc Trường Sa?
- Trung tá Phạm Văn Hoà: Thực chất mà nói, Nam Yết là 1 đảo tiền tiêu của
Tổ quốc. Những người dựng đảo đã mang cây, đất từ đất liền ra. Là một đảo mà cảnh
quan môi trường luôn được xây dựng, được cả cán bộ chăm lo, cống hiến, xem như
quê hương thứ hai. Tất cả hơi ấm đất liền đều mang ra đảo, nhành cây, trái ngọt. Nam
Yết luôn được tôn vinh và chăm lo. Vì nó là mảnh đất thiêng liêng cho Trường Sa.
- Là một sĩ quan hải quân, anh có câu chuyện gì gắn với đời lính không quên
được, nhất là kỷ niệm với Trường Sa?
- Trung tá Phạm Văn Hoà: Sống ở đây, kỷ niệm của tôi rất dồi dào. Sống ở
đây mới thấy tình cảm rất thiêng liêng. Chúng tôi xác định, sống giữa biển, hòa nước
biển chén rượu ngọt ngào, mọi người sống chan hòa. Lúc thực hiện nhiệm vụ, phải
phân biệt trên dưới nhưng khi sinh hoạt với nhau, đó là tình đồng đội, tình anh em....
cha chú.
- Những gì đã chứng kiến cho tôi hiểu tình cảm đại gia đính giữa biển Đông.
Nhưng cuộc sống vẫn còn khó khăn. Vậy trong những gì mà đất liền có thể gửi cho
Trường Sa, theo anh còn thiếu gì?
- Trung tá Phạm Văn Hoà: Như các anh cũng đã hiểu, đồng bào chiến sĩ cả
nước cũng hiểu, Trường Sa bốn mùa sóng gió. Nếu có một cơn bão đi qua, Trường Sa
phải gánh chịu hết. Là những thiệt thòi. Nhưng sóng gió không khuất phục được ý
chí. Cây xanh tàn, chúng tôi trồng lại. Muốn gửi gắm rằng Trường Sa luôn là lá chắn
tuyệt vời, vững chắc cho hậu phương phát triển kinh tế.
- Là người cha, người chồng, tết mọi năm được xum vầy, năm nay đón Tết trên
đảo, nếu có một lời nhắn cho gia đình, anh muốn gửi điều gì?
- Trung tá Phạm Văn Hoà: Năm năm công tác, 4 năm tôi đón Tết trên đảo.
Tình cảm gia đình, tình anh em đồng đội đều quý như nhau. Không được đón tết với
gia đình thì còn đồng đội. Tôi cũng san sẻ tình cảm với đồng đội như với gia đình.
Cũng mứt Tết, cũng bánh chưng, hoa đào... Tôi tạo dựng hình ảnh trên Trường Sa
một cái Tết đất liền thu nhỏ. Vợ con tôi cũng hãnh diện vì điều đó. Không thể trách
chồng, cha đi công tác đảo xa.
30
ĐẢO NAM YẾT
Cuộc hội ngộ giữa hai mẹ con
- Với hạ sỹ trẻ Nguyễn Mậu Trường, anh vừa có một ngày đầu tiên trên đảo
Nam Yết. Lần đầu tiên đón Tết xa nhà, Trường thấy thế nào?
- Nguyễn Mậu Trường: (xúc động không nói được gì)
- Là chiến sĩ trẻ nên hẳn Trường còn dễ xúc động. VietNamNet đã chuẩn bị
một cuộc liên lạc để kết nối với Quảng Bình, nơi mẹ Trần Thị Liễu của em đang
ngóng tin con. Xin hỏi đầu cầu Quảng Bình đã sẵn sàng?
Phóng viên VietNamNet: Tôi hiện đang ở nhà mẹ Liễu.
- Phóng viên Hà Trường: Tôi đang ngồi với con trai chị Liễu. Xin chị gửi lời
gì cho con?
Chị Liễu đang lần giở những kỷ vật của người chồng Nguyễn Mậu Phong.
Chị Trần Thị Liễu: Mẹ ở nhà rất khỏe, mẹ rất tự hào vì con đang đứng trên
mảnh đất cha mình đã ngã xuống. Tết con không về, mẹ chúc con ở lại đơn vị ăn tết
mạnh khỏe, vui mà không quên nhiệm vụ.
- Nguyễn Mậu Trường: Con muốn chúc mẹ ăn tết vui và hạnh phúc.
- Phóng viên Hà Trường: Câu chuyện Nguyễn Mậu Trường rất xúc động. Em
từng mơ đi qua đảo nơi người cha Nguyễn Mậu Phong đã ngã xuống để thắp cho cha
một nén hương. Còn chị Liễu cũng nói rằng đây là tết đầu tiên sau 20 năm gia đình
được xum họp. Người con trai cả đang cùng với hương hồn cha ngoài đảo xa.
Tết đến, xuân về, anh chỉ biết chúc mẹ một cái tết vui vẻ. Với Trường Sa,
chúng tôi đã rất gần, ở ngay đây. Nam Yết giờ đang mưa. Hành trình về với đất liền
sẽ khó khăn vì biển động. Nhưng như vậy là Nam Yết lại sẽ có thêm nước dự trữ cho
một cái tết an lành. Chúng tôi đang chuẩn bị xuất phát về trở về đất liền.
31
ĐẢO NAM YẾT
Nhân dịp năm mới, phóng viên VietNamNet chúng tôi xin chúc các chiến sĩ
đảo Trường Sa ăn tết vui vẻ, luôn chắc tay súng bảo vệ lãnh thổ, chủ quyền của tổ
quốc. Chúc các anh mạnh khỏe!
VietNamNet
Cuộc giao lưu được thực hiện ngày 22 /01/2008
Đại tá Nguyễn Văn Lăng, Chính ủy, Bộ CHQS tỉnh Bến Tre thay mặt đoàn đại
biểu tỉnh trao thư và tặng quà cho bộ đội đảo Nam Yết. (Ảnh : Hoàng Vũ)
16 giờ 30 ngày 17-4, chúng tôi đặt chân lên đảo Nam Yết anh hùng, đảo đầu
tiên trong chuỗi đảo mà chúng tôi sẽ lần lượt ghé thăm. Điều đầu tiên làm chúng tôi
ngạc nhiên là ở đây sạch sẽ và rợp bóng cây xanh dù thời tiết đang ở vào đỉnh điểm
nắng nóng của mùa khô. Quang cảnh nhìn từ xa cũng như khi đến tận nơi đều thấy
đẹp như một hòn đảo trong chuyện cổ tích. Những con đường bê- tông thẳng tắp rợp
bóng cây xanh. Đặc biệt là dừa ở đây rất nhiều làm chúng tôi ngỡ mình đang đi trên
đất Bến Tre. Các loại cây khác có nhiều trên đảo là nhào, mù u, phi lao, keo. Riêng
hai loại cây nổi tiếng gắn liền với tên tuổi Trường Sa là phong ba và bão táp thì lại
mọc ngoài rìa đảo.
32
ĐẢO NAM YẾT
Đi tham quan một vòng quanh đảo mới thấy hết kỳ công của bao lớp chiến sĩ
ngày đêm làm nhiệm vụ canh giữ và xây dựng đảo. Để bê tông hóa hoàn toàn một
hòn đảo rộng 96.500 m2 cách xa đất liền hơn hai ngày, hai đêm đi tàu thủy quả thật
không phải chuyện đơn giản. Bộ đội phải vượt qua sóng to, gió lớn để chở từ đất liền
ra đảo các loại vật liệu: cát, đá, xi-măng, sắt thép và nước ngọt để trộn bê-tông. Việc
xây bờ kè quanh đảo kéo dài 8 năm, bắt đầu từ năm 1998 và hoàn thành vào năm
2006. Đại úy Lê Việt Hùng, Trợ lý công binh trên đảo cho biết: “Chúng tôi thường
phải thi công bờ kè từ 9 giờ tối đến 4 giờ sáng, thời điểm nước thủy triều xuống. Bình
quân độ dài bờ kè tính theo mỗi bước chân trị giá khoảng 30 triệu đồng.” Chúng tôi
tận mắt thấy không chỉ bờ kè mà hệ thống công sự, giao thông hào, lô cốt chằng chịt
trên toàn đảo đều được bê tông hóa kiên cố.
Đảo Nam Yết ở tọa độ 10o11’00’’ độ vĩ Bắc; 114o21’42’’ độ kinh Đông, cách
đảo Ba Bình do Đài Loan đang chiếm giữ khoảng 10 hải lý về phía Tây Nam, cách
đảo Ga Ven do Trung Quốc đang chiếm giữ khoảng 6 hải lý về phía Đông. Trong
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, bộ đội ta giải phóng hoàn toàn đảo vào
ngày 27-4-1975. Trải qua nhiều năm tháng xây dựng và trưởng thành, đảo đã giành
được nhiều danh hiệu và phần thưởng cao quí của Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng
và Quân chủng hải quân. Đặc biệt, năm 2004, đảo được Nhà nước tuyên dương Đơn
vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ đổi mới.
Chúng tôi gặp chiến sĩ Cao Tuấn Anh, quê Thanh Hoá, da sạm đi vì nắng gió
nhưng gương mặt, ánh mắt vẫn ngời lên vẻ tự tin, kiên định. Anh đã ra đảo được một
năm. Anh tâm sự: “Chúng em là thanh niên, ở xa đất liền lâu ngày nên khát khao tình
cảm lắm. Nghe tin có tàu ra thăm đảo, cả đêm em thao thức, không tài nào ngủ được .
Em trông tàu ra để nhận thư, nhận quà”. Tôi hỏi: “Bây giờ em có nguyện vọng gì
thêm nữa?”. Anh trả lời ngay: “Có tàu ra đảo thường xuyên và cho em được phục vụ
quân đội lâu dài”. Những gì được “mắt thấy, tai nghe” tại đây đã làm dịu ngay những
ánh mắt, nét mặt trong đoàn chúng tôi lúc ban đầu lộ vẻ nghi ngại, lo lắng về tư
tưởng, đời sống của bộ đội trên đảo.
Đại úy Trịnh Quang Khương đang chỉ huy anh em đào hố móng xây bể nước
và nhà kho, ngưng tay xà beng, quyệt mồ hôi, tươi cười chào đón chúng tôi. Giữa hố
móng rộng khoảng 4m2, sâu hơn 1m, một cây dừa cao khoảng 4m vẫn đứng ung
dung. Nghe tôi hỏi, anh Khương cho biết: “Lính đảo vốn quí từng chiếc lá xanh nên
giữ cây dừa lại cho đến lúc nào vẫn còn có thể.”
Tôi đã từng nghe, trong quần đảo Trường Sa có rất nhiều đảo chìm. Những nơi
ấy quanh năm trời tuôn nắng lửa. Lính ta luôn khát khao trên đảo có một vòm lá xanh
tạo cảm giác dịu bớt cái nắng vốn chói chang đến độ “phỏng” cả mắt lại còn được
nước biển phản quang thêm một lần nữa cho thêm bỏng rát cũng mãnh liệt như mơ
ước nhìn thấy một mái tóc dài thiếu nữ vậy.
33
ĐẢO NAM YẾT
Riêng chuyện trồng và chăm sóc rau trên đảo của bộ đội ta rất công phu. Điều
đó còn cực khổ hơn việc chăm sóc cây kiểng ở trong đất liền. Đất trồng rau được
đựng vào ba lớp bao để tránh rơi vãi hoặc bị nước biển thấm vào trong khi vận
chuyển từ đất liền ra. Bộ đội được trang bị những chiếc khay hoặc tận dụng những
thứ khác như thùng hư, can bể, xoong, nồi lủng đựng đất vào. Nước ngọt để tưới rau
cũng phải định lượng như khẩu phần nước cho người. Vào tháng có gió Đông Bắc
thổi bụi nước biển lên đảo, các anh bộ đội phải lấy vải mủ, lá dừa che cho rau. Khi
nào gió thổi mạnh quá, các anh phải bưng các khay, chậu rau vào nhà. Nếu lỡ tay để
chậm một đêm thì rau bị “cháy” không có gì cứu vãn nổi. Chúng ta ở trong đất liền,
nơi mà chuyện “rau cỏ” luôn thừa thãi nên vô tình không nghĩ đến sự quan trọng của
nó trong mối tương quan về chế độ dinh dưỡng. Nếu con người mà thiếu rau lâu ngày
trông sẽ khô khốc như “cây củi nương”, còn ruột thì cứ như bị thắt lại từng khúc.
Mặc dù việc trồng rau khó khăn và vất vả như vậy nhưng Thượng tá Ngô Văn
Cải, Đảo trưởng, cho biết năm 2006, bộ đội tự túc được bình quân 14 kg
rau/người/tháng với các loại như: bầu, bí, rau mồng tơi, rau muống, rau lang, rau
sam.v.v... Có năm nhờ thời tiết thuận lợi cả đảo thu hoạch đến 3 tấn rau xanh, 4 tấn
bầu bí. Rõ ràng để trồng được nhiều rau trong hoàn cảnh ngặt nghèo như vậy, các anh
không chỉ đơn thuần là trồng rau vì nhiệm vụ, vì cải thiện bữa ăn mà phải có cả niềm
đam mê, yêu thích và nghệ thuật. Bằng tất cả sự kính trọng và cảm phục, tôi xin được
gọi các anh là “nghệ nhân” trồng rau! Tất nhiên, nguồn thực phẩm của các chiến sĩ
không chỉ có rau xanh. Bên cạnh đó các anh còn thu hoạch từ chăn nuôi được 1.000
kg heo, gà, vịt... Nguồn hải sản mà các anh đánh bắt có năm được tới 3 tấn cá, 2 tấn
rùa biển.
Đến với quần đảo Trường Sa lần này còn có ba vị tiến sĩ của Viện ứng dụng
công nghệ. Các anh đem xương rồng Nopal ra trồng thử nghiệm trên đảo, coi đó là
một cách chia sẻ những khó khăn về rau xanh với bộ đội. Tiến sĩ Phan Xuân Dũng,
Ủy viên dự khuyết BCH TW Đảng, Viện trưởng, cho biết: “Xương rồng Nopal có
xuất xứ từ Nam Mỹ. Lá non của nó làm rau ăn, hiện có bán tại các siêu thị bên đó. Lá
già được nghiền ra đề lấy bột dùng làm nguyên liệu chế mỹ phẩm và dược phẩm. Đặc
biệt là loại xương rồng này chịu nắng hạn rất tốt”. Chưa ai biết chắc kết quả của việc
trồng xương rồng Nopal trong tương lai thế nào. Tuy nhiên, việc ba vị tiến sĩ đã rời
khỏi bàn giấy trong những căn phòng có máy điều hòa không khí “hàn lâm” để dãi
dầu nắng gió trong thời điểm thời tiết cực kỳ nắng nóng này là một việc làm mang lại
hiệu quả cổ vũ tinh thần và chia sẻ tình cảm đối với bộ đội Trường Sa chắc chắn là
không nhỏ!
34
ĐẢO NAM YẾT
Chiến sĩ đảo Nam Yết vui vẻ trả lời các câu hỏi của phóng viên báo chí. (Ảnh:
Hoàng Vũ)
7 giờ 30 tối. Đoàn Văn công Hải quân biểu diễn phục vụ với một chương trình
khá bài bản, có đơn ca, tam ca, tốp ca, múa, ảo thuật.v.v...Sân khấu là nền sân ngay
bên cột mốc chủ quyền đảo Nam Yết. Tuy nhiên, những tiết mục giao lưu văn nghệ
đầy ngẫu hứng của của các ca sĩ, diễn viên với bộ đội thường là những tiết mục vui
vẻ, sôi động nhất. Bộ đội vừa hát theo vừa vỗ tay rền vang, những tiếng cười át cả
tiếng sóng biển. Chúng tôi thật bất ngờ khi tốp ca của đảo bước lên sân khấu. Các
chiến sĩ hát rất đúng nhịp với giọng hát hào hứng, lạc quan. Thậm chí có chiến sĩ còn
lên nhảy với ca sĩ Hồng Nhung khi được mời. Có anh chiến sĩ nói với tôi: “Lính đảo
thấy văn công như lân thấy pháo”.
10 giờ tối. Các anh bộ đội bố trí cho đoàn Văn công nghỉ tại khu nhà Ban chỉ
huy. Cánh nhà báo được chia ra làm hai, một tốp nghỉ ở khu A, tốp kia nghỉ ở khu B.
Trung úy Phan Nhiên Thạo nhường giường cho tôi. Tất cả nhà cửa trên đảo đều xây
dựng kiên cố, có cái một tầng, có cái hai tầng và đều lót gạch bông. Bộ đội ăn ở cực
kỳ sạch sẽ và ngăn nắp, mền gối xếp khéo léo, vuông vức như cái hộp hình chữ nhật.
6 giờ sáng ngày 18-4, các đoàn đại biểu từ dưới tàu lên tập trung tại cột mốc
chủ quyền để thăm hỏi, tặng quà cho bộ đội. Đại tá Nguyễn Văn Lăng, Chính ủy Bộ
CHQS tỉnh, thay mặt đoàn đại biểu tỉnh Bến Tre lên trao thư và tặng quà cho các
chiến sĩ.
Thay mặt cán bộ chiến sĩ đang làm nhiệm vụ trên đảo, Thượng tá Ngô Văn
Cải, Đảo trưởng, báo cáo một số hoạt động trong công tác xây dựng, bảo vệ biển,
đảo. Bình quân, hàng năm các anh quan sát, phát hiện 1.500 lần chiếc máy bay hoạt
động trên không; 800 lượt tàu thuyền xuất hiện trên biển, khả năng xử lý mục tiêu
ngày càng chính xác.v.v...
Thay mặt đoàn công tác, Chuẩn Đô đốc Phan Khuê Tảo, Phó Tư lệnh Hải
quân, căn dặn bộ đội luôn đề cao cảnh giác, tăng cường luyện tập, quan sát mọi diễn
35
ĐẢO NAM YẾT
biến trên biển, trời; kịp thời báo cáo lên cấp trên; sẵn sàng đánh tan mọi cuộc đột
kích, tấn công lên đảo.
Để đáp lại lòng tin cậy của Đảng, nhân dân và các cấp chỉ huy, bộ đội trên đảo
đã tổ chức bắn đạn thật như một lời báo cáo về kết quả tập luyện, sẵn sàng chiến đấu
của các anh. Tất cả các mục tiêu giả định đều bị các anh bắn trúng chính xác.
36
ĐẢO NAM YẾT
Bờ biển trải dài cát trắng với cây xanh ngả bóng
Trồng cây là một niềm vui, hơn nữa là một tình yêu đối với người lính đảo quanh
năm làm bạn với biển trời đầy nắng gió. Niềm tự hào của các chiến sĩ đảo được cụ
thể hóa qua số lượng cây mà họ đã chung sức vun trồng được: 280 cây dừa; 100 cây
phong ba; 132 cây bàng vuông lớn, nhỏ; 200 cây mù u to nhỏ, có cây trên 100 năm
tuổi; 300- 400 cây tra... Vườn cây ăn quả cũng có những “kỷ lục chưa sách vở nào
ghi nhận” như có quả đu đủ nặng hơn 10kg. Riêng cây đu đủ tính đầu người mỗi
người có 5 cây. Còn vườn chuối sai quả, ít buồng nào có dưới 10 nải.
Tháng 10, tháng 11 từng đàn chim kéo về đảo cư trú với đủ loài như én, họa
mi, sẻ…. Những chú chim “dạn người” đậu cả vào cọc màn, hành lang. Buổi chiều,
chúng tôi ngỡ ngàng chứng kiến cảnh trong ánh nắng dát vàng, đàn cò sải cánh về
đậu trong vùng trồng phong ba, mù u. Trước cảnh vật đẹp kỳ lạ ấy, đại tá Nguyễn
Văn Liên đã phải thốt lên: “Nam Yết là thiên đường cây xanh của Trường Sa!”.
37
ĐẢO NAM YẾT
Những chú heo tha thẩn trong vườn và ngủ trên lối đi
Như trong đất liền, phong trào trồng cây xanh trên đảo cũng thường được phát
động từ mùa Xuân song có điểm khác là phong trào này được diễn ra tới… hết năm.
Quá trình trồng cây thường được định hướng cụ thể, có sự chuẩn bị chu đáo về chủng
loại và số lượng cây. Nhiệm vụ chăm sóc cây giao cụ thể từng đơn vị, chiến sĩ: việc
trồng cây giao theo đầu người, mỗi chiến sĩ có nhiệm vụ trồng 3-4 cây; mỗi ngày 2
đợt tưới cây vào 6 giờ 30 sáng và 16 giờ 30 chiều. Các cây to phải bẻ cành khô, cành
nứt gãy gây nguy hiểm. Trực ban sẽ kiểm tra lượng người tham gia, lượng nước tưới
cho cây. Đơn vị, cá nhân nào không chấp hành sẽ bị phê bình trên loa phóng thanh
toàn đảo.
Ngày hai buổi, các chiến sĩ dành ra 30 phút để dọn đảo. Rác ở đảo được quét
hàng ngày, có một hố lớn để đốt, không để mất vệ sinh và nhất là phát sinh sâu bệnh
gây hại cho “thiên đường xanh”. Đảo phát động dùng thùng phi đựng dầu cũ, sơn
38
ĐẢO NAM YẾT
xanh làm thùng rác. Bởi vậy, đảo Nam Yết không hề có rác, mọi góc đều sạch sẽ,
tươi tắn. Ngoài ra, Nam Yết còn có những “lệ đảo” riêng như: ai bẻ cây xanh thì sẽ bị
đánh giá về nhận thức vào phong trào và nộp vào quỹ Đoàn thanh niên 50.000 đồng;
ăn thịt một con chim bị phạt 100.000 đồng. “Nhưng tất nhiên, chưa có đồng chí nào
vi phạm. Vì trên đảo ai cũng yêu cây xanh cả. Thậm chí trên đảo nhiều khi các chiến
sĩ tưới cây trước khi tưới rau”, đảo phó Nguyễn Hữu Lục vui vẻ nói.
Nói đến cây xanh trên Nam Yết nhất ai cũng nhắc đến đại úy Bùi Văn Ngãi, 38
tuổi, quê Diễn Châu, Nghệ An. Anh đã có 5 năm gắn bó với đảo. Quan trọng hơn,
anh là người hướng dẫn các kỹ thuật chiết, trồng cây cho toàn bộ chiến sĩ. Sở dĩ được
giao trách nhiệm này vì ngày còn ở quê, anh từng làm nghề bán cây giống với gia
đình. Vì thế, các chiến sĩ vẫn thường nói vui anh Ngãi là “bà đỡ” cho cây cối. Anh
kể, lần đầu tiên anh ra đảo là năm 1995 cây cối mới chỉ lưa thưa, nhìn đâu cũng chỉ
thấy cát và nắng.
Đại úy Bùi Văn Ngãi giới thiệu kỹ thuật chiết các loại cây trên đảo
Giờ thì đảo đã trở thành nơi cung cấp cây tra, dừa, bàng vuông, chuối.v.v. sang
các đảo khác. Sắp tới đảo Nam Yết còn xanh hơn nữa, vì đảo mới có thêm cỏ từ đảo
Sinh Tồn về phủ xanh các vùng cát trắng. Lãnh đạo đảo sắp quy hoạch các vườn cây
khác nhau như: vườn cây sĩ quan, vườn cây chi đoàn thanh niên, vườn cây Đảng
viên… nhằm gắn ý nghĩa việc trồng cây với nhiệm vụ từng người.
Để tạo nên kỳ tích ấy các chiến sĩ đã đổ không ít mồ hôi, công sức. Nhớ lại cơn
bão cuối năm 2007, đảo trưởng Hòa vẫn nhớ cảm giác hụt hẫng. Gió cấp 12, mưa lớn,
sóng to… tất cả đều dồn vào đảo với tất cả sức mạnh tàn phá. Những con sóng đẩy
nước tràn qua đảo cao tới 50 cm. Bão kết thúc, đảo chỉ còn trơ trọi một số cây dừa và
cổ thụ. Các cây xanh nhỏ hầu như đều bị dập nát hoặc cuốn trôi theo nước biển. Nhìn
cây lá xơ xác ngổn ngang, ai cũng xót xa. “Chỉ chưa đầy nửa năm, vườn cây đã xanh
39
ĐẢO NAM YẾT
trở lại. Lúc ấy mới cảm nhận hết tình cảm của chiến sĩ dành cho cây trên đảo. Màu
xanh của đảo là đóng góp lớn của các chiến sĩ và là niềm tự hào của các chiến sĩ”,
đảo trưởng Phạm Văn Hòa chia sẻ.
40
ĐẢO NAM YẾT
Năm tháng qua đi, cộng với khí hậu khắc nghiệt ngoài đảo, nhiều tập báo đã cũ
nát, có tập mất cả bìa, song vẫn được các CBCS trân trọng giữ gìn và truyền tay nhau
đọc (chỉ được mượn đọc tại chỗ), họ coi đây là nguồn tư liệu quý,rất cần cho việc
nghiên cứu và sưu tầm mỗi khi có các cuộc thi tìm hiểu về Đảng, Bác Hồ, về truyền
thống Quân đội, về Đoàn thanh niên...
Thư viện hiện có 2.301 cuốn thuộc các lĩnh vực: văn học, tiểu thuyết, truyện
ngắn, hồi ký, sách về Bác Hồ, về quân đội, tuổi trẻ, khoa học...
Vào mỗi sáng mở cửa, thường có từ 40 - 50 CBCS đến đọc, còn phần lớn họ
mượn mang về nhà (ở đảo các chiến sỹ gọi phân đội chiến đấu là nhà), mỗi tuần, một
người chỉ được mượn 2 cuốn.
Ngồi nói chuyện với các chiến sỹ, tôi mới vỡ ra một điều, những người lính trẻ
xa quê, nơi đảo xa, nhu cầu học và đọc là rất lớn. Ai cũng muốn sau khi hoàn thành
nghĩa vụ trở về sẽ không lạc hậu so với bạn bè. Dẫu biết năm nào các thư viện, tủ
sách trên các đảo cũng được quân đội bổ sung, song không nhiều trong khi nhu cầu
học và đọc của chiến sỹ lại lớn.
Sau nhiều lần trò chuyện với cán bộ và chiến sỹ, chúng tôi thấy, nếu mỗi Tỉnh,
thành Đoàn hay một tổ chức quần chúng nào đó đứng ra tổ chức, kết nghĩa, giúp đỡ
các đảo xây dựng môt tủ sách hay một thư viện như cách Báo Tiền phong đã làm năm
2003 thì các đầu sách báo phục vụ nhu cầu đọc của lính đảo sẽ được nâng lên.
41
ĐẢO NAM YẾT
Để rồi mai đây trong mỗi chuyến tàu ra đảo, trên tay người chiến sỹ họ sẽ lại
có thêm nhiều đầu sách mới, họ thường ví nó như hơi ấm của đất liền truyền đến,
động viên giúp cho họ tăng thêm sức mạnh, để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được
giao và đó chính là cách để Trường Sa sẽ ngày một gần hơn.
Phạm Yên
Chăm sóc cây nhàu tại công trình lấn biển thuộc đảo Nam Yết.
Thượng tá Đảo trưởng Ngô Văn Cải chỉ tay về bãi bồi nằm phía Nam của đảo
giới thiệu về công trình lấn biển được thực hiện bởi mồ hôi và công sức của toàn thể
cán bộ - chiến sĩ trên đảo trong hơn 2 năm qua.
Anh cho biết: Lợi dụng lúc thuỷ triều rút xuống, anh em khuân đá đắp thành
một con đập chạy dài uốn lượn theo doi cát nhô lên trên mặt nước. Đắp đá đến đâu là
chuyển cát lấp vào đến đó. Cứ như vậy, lâu dần trở thành một bãi bồi nhô lên trên
mặt biển, có đoạn cao hơn 1m. Có được mét vuông đất nào là phải giữ bằng đủ cách,
từ lấp xuống cây, lá, rác mùn đến chuyển đất thịt từ đất liền ra. Đất “nở” ra đến đâu
được anh em cho trồng cây xanh ngay đến đó. Đầu tiên là trồng cây dừa, cây nhàu
42
ĐẢO NAM YẾT
chắn gió, chắn cát, sau đến chuối, đu đủ phủ xanh đảo.
Chỉ tay về phía doi cát nhô lên mỗi khi con sóng rút xuống, Thượng tá Đảo
trưởng Ngô Văn Cải nhẩm tính: “Chỗ đó cũng hơn 1.000m² và chỉ 1 năm nữa thôi là
thành đất, thành lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc với màu xanh được phủ kín”.
Để màu xanh phủ kín trên hòn đảo là cả một quá trình gian nan được các chiến
sĩ trên đảo ví như một việc làm “dời non, lấp biển”. Đảo trưởng Ngô Văn Cải nhớ lại:
“Đầu năm 1996, hai cây dừa đầu tiên được mang ra đảo trồng thử nghiệm trong điều
kiện nước ngọt và đất trồng thiếu trầm trọng. Cả đảo dồn mọi công sức, vật dụng để
che chắn gió cát và chăm sóc, tưới nước cho dừa dưới cái nắng gió của biển đảo. Dừa
nhanh chóng thích nghi với thời tiết khắc nghiệt và trở thành “cây chiến lược” tạo
màu xanh cho đảo. Đến cuối năm 1999, đảo Nam Yết được phủ xanh bóng dừa.
Sau cây dừa, anh em trên đảo đưa cây nhàu ra trồng thử nghiệm. Khác với cây
dừa, cây nhàu cần một lượng nước rất lớn để sinh trưởng, nhưng khi đã bám rễ được
trên cát rồi thì lớn rất nhanh. Quả và lá nhàu phơi khô, sắc ra uống còn là vị thuốc
chữa được các bệnh thông thường.
43
ĐẢO NAM YẾT
Cây nhàu dễ trồng ở chỗ chịu được nắng gió và có thể trồng xen với các loại
cây khác như mù u, đu đủ… Mỗi con đường trên đảo được trồng một loại cây khác
nhau và mang tên “Đường thanh niên”.
Bí thư chi đoàn đảo Nguyễn Đình Hoán cho biết, phong trào trồng cây xanh
trên đảo được phát động rất rầm rộ và lấy cây nhàu làm chỉ tiêu phấn đấu. Ở đâu có
đất là anh em cắm cây nhàu xuống và chỉ một mùa là đã lên xanh tốt. Hiện toàn đảo
đã trồng được hàng ngàn cây xanh, trong đó nhiều nhất là dừa (hơn 300 cây), sau đến
là nhàu và đu đủ. Dừa của đảo Nam Yết hiện nay còn được đưa sang trồng tại nhiều
đảo ở Trường Sa và nhanh chóng tạo màu xanh, giữ đất cho đảo.
Dẫn chúng tôi đi thăm khu trại chăn nuôi trên đảo, chiến sĩ Vũ Đức Thuấn giới
thiệu: Nhờ có màu xanh của cây lá, mấy năm gần đây đảo đã nuôi được heo, gà vịt -
điều mà nhiều năm trước chỉ có chó sống được. Dưới bóng mát của hàng dừa, các
chiến sĩ trung đội 2 dùng lưới quây lại thả hơn 20 con vịt cỏ. Đàn vịt hơn 1 tháng tuổi
rộ lên cạp cạp khi Thuấn vãi nắm thóc xuống đất.
Để “tắm” cho vịt, các chiến sĩ dùng một chảo lớn đổ nước vào để đàn vịt “tung
tăng” mỗi ngày một lần. Với cách nuôi này, cả đảo hiện đã nuôi được hơn 200 con vịt
lớn nhỏ. Còn gà và ngan (vịt Xiêm) thì đơn vị nào cũng nuôi được. Heo những năm
trước chỉ đến dịp tết đất liền chuyển ra mới có - thì nay tháng nào anh em trên đảo
cũng giết heo cải thiện bữa ăn.
44
ĐẢO NAM YẾT
Thuấn còn cho biết, không chỉ gia súc chăn nuôi được trên đảo mà nhờ có cây
xanh, bóng mát những năm gần đây các loài chim biển và chim di trú còn tụ về sinh
sống, đã tạo nên cho hệ sinh thái biển đảo Trường Sa thêm phong phú và đa dạng.
Chia tay đảo Nam Yết, Đảo trưởng Nguyễn Văn Cải không ngần ngại khi nói
với chúng tôi về “hòn đảo xanh” trong tương lai không xa sẽ đón những cư dân đầu
tiên ra đảo sinh sống. Và màu xanh hôm nay sẽ tạo một vùng sinh thái bền vững trên
vùng đất thiêng liêng của Tổ quốc giữa muôn trùng khơi.
Phạm Yên
Rời khỏi đảo Đá Lớn, tàu đưa chúng tôi đến đảo Nam Yết. Tại nơi này, đoàn
đại biểu của 5 tỉnh, thành phố được đảo tặng lại một món quà mà ai cũng nâng niu,
trân trọng. Đó là lá cờ Tổ quốc đã bạc màu vì sương gió hằng ngày vẫn tung bay
trên đảo, khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa.
45
ĐẢO NAM YẾT
quyền đất nước của người lính đảo. Noi gương lớp lớp người đã sống, chiến đấu bảo
vệ chủ quyền non song, dưới lá cờ Tổ quốc, những người lính đảo Nam Yết không
ngừng học tập, rèn luyện xứng đáng với truyền thống cha ông và Quân đội quân
nhân dân Việt Nam anh hùng. Nâng lá cờ trên tay, Phó chủ tịch UBND thành phố
Đỗ Trung Thoại không giấu nổi xúc động: “Mang lá cờ về, chính là mang theo hình
ảnh của Trường Sa đến với thành phố Cảng. Thành phố sẽ có các chương trình hành
động hướng đến Trường Sa như sự tri ân đến với quân và dân nơi này”.
Nam Yết có nhiều cán bộ, chiến sĩ quê hương Hải Phòng đóng quân. Cũng
như bao lính đảo khác, họ coi Nam Yết là quê hương thứ hai. Những khuôn mặt trẻ
trung sạm đen vì nắng gió, càng tăng phần rắn rỏi.
Thiếu úy Đồng Xuân Việt, quê ở xã Tân Phong (Kiến Thụy) tâm sự: “Thỉnh
thoảng nhớ nhà, em liên lạc cho mẹ. Được cái mẹ em cũng vui và thông cảm với
người lính hải quân như chúng em, cứ luôn dặn dò con phải cố gắng rèn luyện, học
tập sao cho xứng đáng với người ở đất liền”. Tôi trêu: “Thế mẹ có nhắc nhở thêm gì
không”, Việt cười ngượng nghịu: “À, cũng có nhắc em về chuyện gia đình, nhưng
đến giờ em vẫn chưa có gì, là người lính em cứ phải làm tốt nhiệm vụ của mình đã,
chuyện riêng thì… tính sau”. Còn Đỗ Văn Toanh, nhà ở Tràng Cát (quận Hải An)
tâm sự, ra đảo làm nhiệm vụ là vinh dự đối với mỗi chiến sĩ hải quân nhân dân Việt
Nam. Mọi khó khăn chắc chắn sẽ vượt qua và những người ở đất liền hãy tin tưởng
vào chúng tôi. Phát huy truyền thống của thành phố Cảng Trung dũng-Quyết thắng”,
chúng tôi sẽ sống, chiến đấu theo gương những anh hùng thế hệ trước.
Ở Nam Yết, những người lính đảo như Nguyễn Văn Công (ở D4- Cát Bi),
Bùi Thanh Tuấn (Đồng Thái- An Dương), Bùi Văn Vươn (Đại Bản- An Dương), Bùi
Việt Anh (Văn Đẩu- Kiến An) và còn nhiều người khác vẫn đang thực hiện lời hứa
của mình đối với thành phố Cảng. Đó là ngày đêm canh giữ, bảo vệ chủ quyền lãnh
46
ĐẢO NAM YẾT
thổ của Tổ quốc. Lá cờ đoàn Hải Phòng mang về cũng có hình ảnh của các anh,
những chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam đang sống, chiến đấu tại đảo Nam Yết,
trong đó có tình cảm của những người con đất Cảng đang làm nhiệm vụ thiêng liêng,
cao cả trên đảo.
Chia tay Nam Yết lúc trưa, gió biển nhẹ, trời nắng như đổ lửa, nhưng đi theo
con đường ra bến tàu dưới bóng cây anh, chúng tôi cảm thấy dễ chịu. Nam Yết rợp
cây xanh tỏa bóng mát. Để có màu xanh ấy, quân và dân trên đảo đã dày công xun
xới và chăm bón suốt 34 năm qua, kể từ khi lá cờ đỏ sao vàng tung bay trên đảo,
khẳng định chủ quyền của một nước Việt Nam thống nhất, độc lập tại nơi đây.
9. Cả đời vì Trường Sa
Thế Anh
Trên chuyến tàu trở về không chỉ có những người lính trẻ mà còn có cả những
người con của Tổ quốc đã dâng trọn cuộc đời thanh xuân cho Trường Sa thân yêu.
Ngày đến với đảo xa họ chỉ mới đôi mươi, vậy mà ngoảnh đầu lại tóc người lính trẻ
năm nào nay đã điểm muối tiêu. Trung tá Trần Việt Đông (ảnh) mà tôi gặp ở đảo
Nam Yết là một người như thế. Ra thắp cho đồng đội nén nhang trước khi rời đảo mà
hai dòng lệ cứ chảy dài trên đôi mắt đã hằn vết chân chim của người lính già.
Trung tá Trần Việt Đông thường ôm đàn ngồi hát khi nhớ về những đồng đội
đã hi sinh - Ảnh: THẾ ANH
47
ĐẢO NAM YẾT
Lặng đi một hồi lâu, ông tâm sự: "Năm nay tôi đã ngoài năm mươi, hơn 20
năm gắn bó với Trường Sa, nay xa nó tôi như đứt từng khúc ruột. Đồng đội tôi đã
nhiều người ngã xuống nơi đây, rồi đến lượt tôi cũng đã già yếu. Đợt này về cũng
đúng lúc tôi đến tuổi về hưu, có lẽ đây là lần cuối cùng tôi thắp cho đồng đội nén
nhang nơi đảo xa này...". Nói rồi ông dõi mắt ra biển khơi, nơi ấy có những đồng đội,
những người luôn hiện hữu trong lòng ông dù dưới nấm mộ gió kia chẳng có hình hài
của những người đã ngã xuống...
Chia tay ông Đông là những người đồng đội còn trẻ như những ngày đầu ông
mới ra đảo. Người gọi ông bằng bố, người gọi bằng chú. Họ nắm tay nhau bịn rịn,
chẳng ai muốn rời nhau. Mặc cho chuyến tàu trở về oằn mình trước những con sóng,
lâu lâu ông Đông lại ra đứng ở sàn tàu dõi mắt về nơi những đồng đội đang tiếp bước
gìn giữ Tổ quốc. Hành trang trở về của người lính già là 1.000 lá thư gửi từ đất liền.
Những cánh thư mong manh mà nặng tình nghĩa vợ con. Đó là một cuốn nhật ký yêu
thương của nỗi lòng xa cách 30 năm đời lính.
Tiếng reo hò của những anh lính trẻ khi nhìn thấy đất liền dường như làm cho
ông Đông quay trở lại với hiện tại, với trách nhiệm của người chồng, người cha sau
những năm tháng xa nhà. Ông nói: "Hơn 30 năm đời lính, vậy mà đến khi về hưu tôi
vẫn chưa lo nổi căn nhà đàng hoàng cho vợ con. Đợt cơn bão số 7 vừa rồi, biết tôi ở
ngoài đảo nên anh em ở nhà đến giúp vợ tôi chống bão, cũng may tôi kịp điện về kêu
anh em đừng trèo lên nhà, chứ không bão chưa vào thì nhà đã sập rồi. Đợt này về tôi
phải cố sửa lại căn nhà, rồi lo dựng vợ gả chồng cho tụi nhỏ nữa. Đời lính là thế, khi
tóc còn xanh thì lo việc nước, đến khi tóc bạc mới lo việc gia đình...".
48
ĐẢO NAM YẾT
Hoàng hôn dần lặn xuống biển, người đàn ông có khuôn mặt khắc khổ ấy chỉ
sáng lên ở đôi mắt. Khi nói về gia đình, giọng anh có phần khắc khoải nhưng đề cập
đến công việc trên đảo, Dũng hào sảng lắm.
“Tôi vừa được chấp thuận kéo dài thời gian công tác ở đây thêm 6 tháng”, anh
khoe. Đảo đã quá đỗi gắn bó nên nghĩ đến khi về đất liền, anh vui vì được gặp gia
đình song cũng không tránh khỏi bùi ngùi. Một trong những lý do khiến Dũng quyết
xin kéo dài thời gian công tác ở đảo là năm qua, anh chỉ đạt mức hoàn thành tốt
nhiệm vụ. Trong khi ấy, anh muốn mình phải phấn đấu hơn nữa, học nâng cao kỹ
thuật điện tử để nhất định hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ…
49
ĐẢO NAM YẾT
đảo. Dù gia đình Soái làm nghề nông, thuộc diện khó khăn nhưng điều đó không làm
lay chuyển tình yêu của anh với biển đảo. “Đây là người yêu đảo hơn đất liền, sẵn
sàng đương đầu với những nhiệm vụ khó khăn”, đại úy Đức nói.
Những khoảnh khắc đời thường bên những gốc cây cảnh.
Ảnh: Trung Kiên.
Những trường hợp như Dũng, Soái không phải là hiếm. Riêng Nam Yết có tới
65% quân nhân chuyên nghiệp có nguyện vọng được kéo dài thời gian công tác. Với
cán bộ đảo, tỷ lệ này còn cao hơn. Họ tình nguyện chọn đảo làm nhà, cho hạt cát
cũng mang hồn Tổ quốc. Tổ quốc ở nơi này có tên gọi Trường Sa.
50
ĐẢO NAM YẾT
nâng huyết áp, sử dụng các thuốc nội khoa như solomedron.dopamim, kháng sinh, lợi
tiểu…Bệnh nhân thường xuyên bị đe doạ tử vong do phù phổi cấp, trụy tim mạch.
Sau khoảng 12 giờ vật lộn với tình trạng hiểm nghèo, đến sáng 10-10, đồng chí
Nguyễn Xuân Bảo đã được cứu sống, tự thở, các chức năng sống về hô hấp, tim mạch
dần hồi phục và rút ống nội khí quản, tiếp tục được các bác sĩ bệnh xá theo dõi và
chăm sóc. Đến sáng 12-10, anh đã ngồi dậy, tự đi lại được. Có thể khẳng định ca cấp
cứu đã thành công.
Trao đổi với Giám đốc Bệnh viện 103, những người đã tham gia hội chẩn từ xa
với bác sỹ Nguyễn Lam như các PGS.TS Đỗ Tất Cường, Đỗ Quyết, Nguyễn Văn
Hiên, chúng tôi được biết: Bệnh viện 103 thường xuyên có liên hệ với bệnh xá, đã
chuẩn bị tốt nhất về các kiến thức chuyên môn cho kíp bác sĩ, y sĩ trước khi ra đảo
nhận nhiệm vụ. PGS.TS Đỗ Quyết cho biết: đuối nước là tình trạng nước tràn vào
đường hô hấp làm cho các cơ quan bị thiếu oxy, đe doạ các chức năng sống của cơ
thể ngừng hoạt động, cần xử trí cấp cứu khẩn cấp, nhanh chóng mới có thể cứu sống
bệnh nhân. Đặc biệt, đây là bệnh nhân đuối nước biển, tình trạng bệnh nhân thường
nặng hơn rất nhiều do nguy cơ phù phổi tổn thương, nếu không cấp cứu kịp thời,
hoặc không được thở máy chế độ đặc biệt, bệnh nhân sẽ tử vong.
Trao đổi qua điện thoại với bác sĩ Nguyễn Lam, chúng tôi được biết thêm: thời
gian qua, bệnh xá đã cấp cứu và điều trị thành công nhiều ca bệnh như mổ ruột thừa,
cấp cứu sốc do tiếp xúc với hải quỷ hoặc hội chứng giảm áp do lặn sâu.
Bệnh xá đảo Nam Yết do Bệnh viện 103 (Học viện Quân y) phụ trách với biên
chế gồm 2 bác sĩ, 5 y sĩ, được trang bị y tế sẵn sàng đảm bảo cấp cứu và điều trị cho
bộ đội trong mọi tình huống. Với sự giúp đỡ và chỉ đạo thường xuyên của Bộ Quốc
phòng, Cục Quân y, Quân chủng Hải quân và của Viện quân y 103, bệnh xá đã làm
tốt các công việc của mình, luôn đảm bảo vệ sinh môi trường, tuyên truyền giáo dục
sức khoẻ và cấp cứu điều trị kịp thời các tình huống.
V.Y
51
ĐẢO NAM YẾT
Thượng tá Đào Hùng Chiến, Chính trị viên đảo Nam Yết cho biết: “Với sự
đồng lòng, đoàn kết và gắn bó của cán bộ, chiến sĩ, chúng tôi đã khắc phục nhiều khó
khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Giờ là thời khắc của năm mới, qua Báo Quân đội
nhân dân thay mặt bộ đội đảo Nam Yết, tôi xin gửi lời chúc tốt đẹp nhất tới những
người ở đất liền. Chúng tôi xin hứa luôn luôn phấn đấu hết mình và quyết tâm cùng
nhau bảo vệ vững chắc vùng đất thiêng liêng của Tổ quốc”. Mùa xuân đang đến,
những thành viên trong đoàn công tác xin chúc bộ đội Trường Sa luôn chắc tay súng,
vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ. Trường Sa chào năm mới! Tình cảm
chân thành ấy sẽ là niềm tin của đất liền. Như lời khẳng định chắc nịch mà tôi luôn
được nghe mỗi khi trò chuyện cùng các anh: “Chúng tôi luôn xác định quyết tâm bảo
vệ vững chắc biển trời Tổ quốc. Đó là vinh dự và trách nhiệm của bộ đội Trường Sa,
không sờn lòng trước bất cứ thử thách nào và luôn cố gắng để đáp lại niềm tin với đất
liền. Trường Sa xin gửi lời chào năm mới”.
13. Chuyện những người viết tiếp trường ca giữ đất thiêng (trích)
3.Chiều 25/4, đảo Nam Yết nằm ở phía Bắc quần đảo Trường Sa hiện ra - hòn
đảo nổi đầu tiên tàu HQ936 hướng tới. Đây là một đảo lớn trong cụm đảo khu vực 2,
cách bán đảo Cam Ranh 318 hải lý. Cự ly ngày một gần hơn thì cảm giác ngợp trước
một màu xanh ngon lành trên đất nâu tươi mới cũng càng lúc càng lớn hơn. Trên đảo
không chỉ có vô số cây phong ba mà còn có nhàu, cây bàng ta, mù u. Tràn trên cát là
muống biển.
Chúng tôi phát hiện ra những góc nhìn tuyệt đẹp khi mà càng vào sâu trong
đảo là từng vườn cây lá xanh rì và xa mãi nữa lại ngăn ngắt màu xanh của biển và cát
trắng. Đầy lãng mạn mà vẫn giữ nét hùng vĩ.
Không có thời gian để đi dạo khắp ba hòn đảo nổi là đảo Nam Yết, đảo Sinh
Tồn, đảo Trường Sa lớn, nhưng ai cũng đã có những phút giây thanh bình ngồi dưới
tán lá rậm xanh rì mát rượi. Thưởng thức nước dừa trồng trên đảo. Ngắm chim biển
chao lượn trên sóng. Lắng nghe chia sẻ cùng những chiến sĩ, những cư dân sống trên
đảo. Đủ loại phương ngữ của đất nước.
Có không ít những gương mặt đáng nhớ. Chiến sĩ trẻ nhất đảo Nam Yết là binh
nhì Hoa Văn Phương Anh, 19 tuổi, quê ở xã Tân Dân, Khoái Châu (Hưng Yên), nhập
ngũ tháng 10 năm ngoái, ra đảo đầu năm nay. Cũng như nhiều lính trẻ, khó khăn nhất
theo Phương Anh là những ngày đầu lên đảo, "trời mưa, gác đêm rất nhớ nhà, sinh
hoạt nề nếp kỷ luật lại rất nghiêm".
Trung tá Phạm Văn Hòa năm nay xấp xỉ tuổi 50 quê ở TP. Hà Tĩnh, từng làm
Đảo phó quân sự đảo Trường Sa, Phó Tham mưu trưởng đảo Song Tử và giờ là Đảo
52
ĐẢO NAM YẾT
trưởng đảo Nam Yết. Anh nói ngắn gọn về nơi mình đang sống: "Đá Tây là mảnh đất
thiêng liêng của Tổ quốc, là hướng phòng thủ phía Đông của đất nước, là một trong
những nơi bảo vệ quyền lợi hải sản giàu mạnh nhất về biển. Luôn luôn học tập và sẵn
sàng chiến đấu, ngoài luyện tập thì trồng cây xanh là nhiệm vụ hàng đầu của chúng
tôi".
Với Trung tá Lê Văn Phi, Chính trị viên cụm chiến đấu 3 quê ở Đô Lương
(Nghệ An), "thú vị nhất ở đảo Nam Yết là đã có sóng điện thoại di động". Những
chiến sĩ giỏi được biểu dương trong tháng sẽ được thưởng 5 phút gọi điện thoại về gia
đình.
Nghĩa trang đảo Nam Yết chỉ có một mộ liệt sĩ. Không gian tĩnh lặng ven biển
linh thiêng như trong nghĩa trang lớn Trường Sơn. Càng xúc động khi ta kính cẩn
nghiêng mình trước tấm bia liệt sĩ đề năm sinh 1984, hy sinh năm 2004. Đương nhiên
về những điều liên quan đến người đã khuất ai cũng sẽ có một ấn tượng đặc biệt.
Nhưng cả nghĩa trang liệt sĩ trên đảo và trên biển đều mang lại những xúc cảm sâu
sắc cho các đoàn khách.
... Trưa đó chứng kiến cán bộ chiến sĩ đảo Nam Yết tổ chức bắn đạn thật trên
biển sau kỳ huấn luyện, không chỉ có tôi, mà cả đoàn đều cùng hồi hộp, tự hào trước
sức mạnh tổng hợp, khả năng sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc chủ quyền biển
đảo.
Thu Phương
53
ĐẢO NAM YẾT
Lòng nghĩ về người chiến sĩ
Dáng cây sao mà dẻo dai
Vóc người sao mà bền bỉ
Nguồn: Trần Đăng Khoa, Bên cửa sổ máy bay, Nxb Tác phẩm mới, 1985
Trong chuyến công tác tại Trường Sa lần này, chúng tôi may mắn được dự
nhiều buổi lễ kết nạp đảng viên nhân kỉ niệm 80 năm Ngày thành lập Đảng. Trên
quần đảo “đầu sóng ngọn gió” này, câu chuyện về quá trình phấn đấu, tu dưỡng của
các đảng viên mới thật hấp dẫn chúng tôi.
54
ĐẢO NAM YẾT
bước chân lên đảo, đồng chí bí thư chi bộ gặp, động viên và cho biết: Chi bộ công
nhận quá trình phấn đấu liên tục của tôi và đã đưa vào nguồn phát triển Đảng”.
55
ĐẢO NAM YẾT
ai được kết nạp. Con vào bộ đội, lại được ra Trường Sa công tác, đó là cơ hội lớn để
thực hiện ước mơ mà bố mẹ hằng mong. Con cố gắng nhiều lên nhé, phải cố gấp
năm, gấp mười so với ở nhà, con ạ!”. Bố đã viết thư dặn Hồng như thế khi biết tin
anh được điều ra Trường Sa công tác. Hồng đã không phụ lòng mong mỏi của bố mẹ.
Đã từng công tác ở nhiều đảo trên quần đảo Trường Sa, ở đâu anh cũng là lá cờ đầu
trong phong trào thi đua xây dựng đơn vị. Năm 2007, 2008, Hồng được tặng danh
hiệu “Chiến sĩ thi đua” cấp cơ sở. Năm 2009, Hồng tiếp tục là “lá cờ đầu” của tập thể
đảo Đá Nam.
“Bí quyết nào giúp Hồng có được thành tích thi đua ấn tượng như thế ?”. “Gia
đình và đơn vị là hai nguồn động lực thôi thúc em phấn đấu anh ạ!”. Người đảng viên
tuổi 25 Lê Khắc Hồng trả lời đơn giản như vậy. Anh khá bẽn lẽn khi trò chuyện cùng
chúng tôi. Phải thông qua Đại úy – QNCN Phí Ngọc Quang, người đã giới thiệu
Hồng vào Đảng, chúng tôi mới hiểu rõ hơn nghị lực phấn đấu đáng khâm phục ở anh.
Nhà Hồng nghèo, các em đang tuổi đi học, nên tiền lương chuẩn úy được bao nhiêu,
anh đều gửi hết về gia đình. Làm nhiệm vụ trên đảo chìm, Hồng tranh thủ nhặt từng
mảnh gỗ, miếng bìa, sợi dây chun… chế tạo thành mô hình, đồ dùng huấn luyện rất
sát thực. Hệ thống báo động toàn đảo do Hồng cùng đồng đội làm từ những vỏ lon
nước ngọt và vỏ đạn 12,7mm được cấp trên công nhận là một sáng kiến độc đáo, hiệu
quả cao…
56
ĐẢO NAM YẾT
LỜI KẾT
Trường Sa, Hoàng Sa – những mảnh đất thân thương của Tổ quốc Việt Nam!
Mỗi hòn đảo, bãi đá nơi đây đều thấm đượm mồ hôi, xương máu của bao thế hệ
người Việt Nam, của các chiến sỹ hải quân nhân dân Việt Nam đang ngày đêm canh
giữ từng bãi đá, từng hòn đảo cho đất mẹ!
Trong quần đảo Trường Sa, đảo Nam Yết là một đảo lớn, có vị trí chiến lược
quan trọng. Có thể nói đây chính là một hải đảo tiền tiêu của nước ta hiện nay. Vì
vậy, nhiệm vụ của các chiến sỹ đóng quân trên đảo là vô cùng nặng nề và cũng rất
vinh quang. Cũng vì vậy mà đảo luôn nhận được sự chăm sóc, động viên đặc biệt của
Bộ Tư lệnh hải quân và của nhân dân cả nước.
Với lòng mong muốn đóng góp chút công sức giúp mỗi người Việt Nam thêm
hiểu và thêm yêu Trường Sa, nhóm thành viên các diễn đàn đã sưu tầm, biên soạn các
thông tin, những mẩu chuyện về các đảo thuộc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
thành một bộ sách, trong đó có quyển Đảo Nam Yết này.
Chúng tôi rất mong được sự hưởng ứng, góp ý của tất cả những ai yêu mến và
quan tâm đến Hoàng Sa và Trường Sa.
57
ĐẢO NAM YẾT
PHỤ LỤC
(Ảnh về Nam Yết)
58
ĐẢO NAM YẾT
59
ĐẢO NAM YẾT
60
ĐẢO NAM YẾT
61
ĐẢO NAM YẾT
8. Đảo về chiều
62
ĐẢO NAM YẾT
63
ĐẢO NAM YẾT
64
ĐẢO NAM YẾT
65
ĐẢO NAM YẾT
66
ĐẢO NAM YẾT
67
ĐẢO NAM YẾT
MỤC LỤC
68