You are on page 1of 4

TTO - Tính đến 2010, Khu Công nghiệp Amata - Việt Nam đã có hơn 100 nhà

máy đến từ các nước trên thế giới. Theo suy nghĩ của tôi, tuy khu công nghiệp
này chưa thành công như mong muốn, nhưng đây là một khu công nghiệp chất
lượng cao, có tiềm năng phát triển hơn nữa trong tương lai.

Tôi dám nói vậy là vì có hệ thống cơ sở hạ tầng rất tốt, được bao quanh bởi môi
trường tự nhiên trong lành và có điều kiện đất đai để mở rộng.

Hiện nay, Công ty Amata đang có kế hoạch đầu tư thêm một dự án khu công
nghiệp nữa nằm cách thành phố Hồ Chí Minh 17 km, diện tích hơn 1.000 ha,
nằm bên bờ sông Đồng Nai, cách cửa biển khoảng 60 km và chỉ cách địa điểm
xây dựng sân bay quốc tế mới (Sân bay Quốc tế Long Thành) 7 km. Đây có thể
xem là địa điểm tốt nhất tại khu vực phía Nam của Việt Nam.

Vào tháng 7 năm 1993, tôi có dịp tháp tùng đoàn Thủ tướng Thái Lan Chuan
Leekpai thăm Trung Quốc. Đoàn đến thăm thành phố Thượng Hải, ngay từ lúc
đó với những trải nghiệm của mình về sự phát triển kinh tế của Đài Loan, tôi đã
nghĩ trong bụng Thượng Hải sẽ nhanh chóng trở thành một trung tâm kinh tế lớn
trong thời gian rất ngắn. Cũng trong thời gian đó, Tập đoàn CP, người đi tiên
phong trong việc thâm nhập vào thị trường Trung Quốc, cũng đang có kế hoạch
mở rộng đầu tư tại nước này.

Ông Dhanin Chearavanont, Chủ tịch tập đoàn CP, rủ tôi đầu tư xây dựng khu
công nghiệp tại Thượng Hải, vì ông đang có kế hoạch tập trung các dự án về
một mối để tiện quản lý. Nhiệm vụ của tôi là đi nghiên cứu tìm địa điểm đặt khu
công nghiệp gần Thượng Hải.

Tôi nhận lời và kéo đối tác Nhật là Itochu cùng đi. Sau khi khảo sát nghiên cứu
3-4 tháng, chúng tôi đi đến kết luận, thị trấn Chiêng Ting, cách Thượng Hải 25
km, là địa điểm thích hợp để xây dựng khu công nghiệp, vì có hệ thống giao
thông thuận lợi, nối liền với đường cao tốc, có nguồn cung cấp nước từ một con
sông lớn, và có dân số hơn 500.000 người. Tôi còn nhớ, ông chủ tịch thị trấn,
tên là Chin, hứa sẽ cấp một khu đất rộng gần 3.000 ha, với giá 10 USD/m2.

Sau đó tôi mời Chủ tịch Chin sang thăm Khu công nghiệp Amata Nakorn và hai
bên ký bản ghi nhớ MOU về hợp tác đầu tư. Sau khi bàn bạc nhất trí với đại diện
của CP là ông Thanakorn và Công ty Nippon Koei của Nhật, làm xong quy hoạch
và tính toán chi phí cho biết dự án khả thi nhưng lãi không nhiều, tôi thông báo
với các cổ đông CP và phía Trung Quốc để chuẩn bị ký kết hợp đồng thực hiện
dự án.

Thế nhưng sau đó xảy ra một sự cố không dự tính trước, đó là việc thay thế
nhân sự lãnh đạo thị trấn Chiêng Ting, nay ông Hoang thay thế ông Chin làm
chủ tịch thị trấn. Ông Hoang nói với tôi rằng giá đất bây giờ đổi lại thành 20
USD/m2 thay vì 10 USD/m2. Tôi bất ngờ đến mức không thốt nên lời. Sau đó, tôi
cố đàm phán lại dựa vào những điểm đã thỏa thuận trong bản MOU, tìm cách
nói chuyện với cấp trên có liên quan, gồm Sở Đất đai của Thành phố Thượng
Hải, kể cả báo cáo với ông Krasae Chanavông, Ngoại trưởng Thái Lan đang
thăm Trung Quốc vào thời gian đó.

Tôi xin tháp tùng Đoàn Ngoại trưởng Thái Lan nên có dịp gặp Phó Thủ tướng
Trung Quốc Qian Shi Shen để nói về việc giá đất tăng lên. Ngài Phó Thủ tướng
trả lời rằng việc định giá hay thay đổi giá đất thuộc thẩm quyền trực tiếp của
chính quyền Thành phố Thượng Hải, chính quyền trung ương không can thiệp.
Tôi lặng người một lúc lâu.

Sau đó tôi và ông Thanin cùng đến gặp Thị trưởng thành phố Thượng Hải,
nhưng ông này lại chỉ tôi đến gặp Giám đốc Sở Địa chính, người phụ trách toàn
bộ vấn đề đất đai của thành phố. Kết quả chúng tôi được trả lời là giá đất ghi
trong thỏa thuận MOU là quá thấp, vì giá đất tại Thượng Hải đã tăng rất nhanh
trong vòng một năm qua.

Tôi sững sờ khi nghe họ giải thích như vậy. Vì lý do đó, tôi và bên CP bàn bạc lại
và thấy rằng nếu tình hình đã thay đổi như vậy thì dự án này rất khó thực hiện
được.

Vì vậy, tôi đành phải ngưng dự án, mặc dù đã bỏ phí gần một năm ròng, cũng
như các chi phí khảo sát, thiết kế lập quy hoạch, nghiên cứu khả thi… cộng lại
hơn nửa triệu USD mà tôi và CP mỗi bên gánh một nửa. Dù sao vẫn còn hơn cứ
đầu tư và thất bại. Tôi coi đây là cái giá phải trả để có được kinh nghiệm làm ăn
với Trung Quốc.

Trong thời kỳ này, tôi không ngừng tìm kiếm các cơ hội mở rộng đầu tư xây
dựng khu công nghiệp sang các nước. Vào kỳ nghỉ lễ cuối năm 1995, tôi đi Ấn
Độ, đến các thành phố ven biển và miền trung như Bangalore, tổng cộng tôi đi
thăm gần 10 thành phố.

Qua chuyến đi này, tôi nhận thấy trong tương lai 5-10 năm sau, Ấn Độ cũng sẽ
trở thành một nước tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ và thu hút nhiều nhà đầu tư
nước ngoài. Các ngành có triển vọng phát triển nhất của Ấn Độ là công nghiệp
dầu khí, hóa dầu… Vì vậy tôi đã đến thành phố Orisa, bên bờ vịnh Bengal, nơi
có cảng Saradip được xây dựng từ thời thống trị của người Anh. Cạnh cảng này
là một khu đất lớn và một nhà máy hóa chất.

Tôi nghĩ phải tranh thủ thời gian đừng để mất cơ hội (mặc dù vẫn còn ấm ức sau
cú đầu tư không thành tại Trung Quốc, vả lại Ấn độ cũng nổi tiếng chẳng khác
Trung Quốc về việc hay thay đổi chính sách) nên đã thuê Công ty Four Daniel,
một công ty tư vấn kỹ thuật của Mỹ, để làm luận chứng kinh tế kỹ thuật dự án
xây dựng khu công nghiệp hóa dầu tại thành phố Orisa. Lúc đó ông Sandhu,
Giám đốc dự án, cho biết triển vọng dự án rất tốt vì có công ty dầu khí của Ấn độ
quan tâm đầu tư xây dựng nhà máy lọc dầu và nhiều dự án sản xuất thép khác.

Do đó, tôi đề xuất kế hoạch xây dựng một khu công nghiệp trên diện tích khoảng
1.000 ha. Trong giai đoạn đầu, để thu hút các nhà máy lọc dầu và các nhà máy
sản xuất thép, tôi đến nói chuyện với các khách hàng tiềm năng, họ đều tỏ ý
muốn đầu tư vào khu công nghiệp này, tính sơ bộ cho thấy 50 % diện tích khu
công nghiệp sẽ được lấp đầy trong giai đoạn đầu. Như vậy tính khả thi của dự
án rất cao.

Tôi về nước rủ ông Premchai Kanasut, ông trùm của tập đoàn Italian-Thai, bay
từ sân bay Don Muong đến sân bay Orisa bằng máy bay phản lực riêng của ông
để cùng tôi đi khảo sát địa điểm. Ông Premchai và tôi nhất trí với nhau về tính
khả thi của dự án xây dựng khu công nghiệp phức hợp hóa dầu tại đây. Mặc dù
dự án đầu tiên dành cho nhà máy lọc dầu Ấn Độ sẽ có lãi không nhiều, nhưng về
sau, chúng tôi sẽ có lãi hơn nhờ các dự án khác vào tiếp theo, một công thức
đầu tư nhìn về lâu dài mà tôi rút ra từ Trung Quốc.

Chính quyền thành phố Orisa rất ủng hộ các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có
chúng tôi. Họ nói chỉ cần cho biết chúng tôi cần bao nhiêu diện tích là họ sẽ giải
quyết ngay.

Tôi và đối tác liên doanh hăng hái cùng nhau làm việc, lập quy hoạch, thiết kế,
tính toán chi phí. Công ty Italian-Yhai lo toàn bộ việc xây dựng, còn tôi lo việc
kinh doanh bán đất trong khu công nghiệp. Lúc đó khả năng công ty dầu khí Ấn
Độ sẽ vào lập nhà máy trong khu công nghiệp là rất lớn, công ty đã cử đoàn
sang Thái Lan để tham quan và hai bên đã bàn bạc chuẩn bị về vốn liếng…

Nhưng cuối cùng dự án phải tạm gác lại giữa chừng do tác động của cuộc khủng
hoảng kinh tế khu vực, người Thái gọi là cuộc khủng hoảng “Tom Yam
Kung”(“Lẩu tôm Thái”). Chúng tôi hy vọng chờ thêm một thời gian cho đến khi
tình hình khá hơn sẽ làm tiếp. Thế rồi một sự kiện không ngờ khác lại xảy ra.
Một cơn sóng thần khủng khiếp, chưa từng có trong lịch sử, hình thành từ Ấn Độ
Dương, ập vào Thành phố Orisa với những cơn sóng hung hãn cao đến 6 mét,
tàn phá khu vực dự kiến xây dựng khu công nghiệp, cướp đi nhiều sinh mạng và
gây tổn thất vật chất nặng nề.

Trước đó, khi đi khảo sát thực địa, chúng tôi đã lập kế hoạch xây dựng đê ngăn
sóng cao 3 mét, cách bờ biển 2 km, và sẽ tiến hành trồng cây thông suốt dọc
chiều dài 2 km vì khi đó qua nghiên cứu số liệu thống kê, chúng tôi thấy trong
lịch sử, sóng cao nhất không quá 2 mét. Thế mà khi gặp phải cơn sóng thần
khổng lồ này, mọi dự tính đều bị đảo lộn. Sức tàn phá của nó thật khủng khiếp,
tất cả mọi thứ bị nó san phẳng.
Tôi rùng mình khi thử hình dung thảm họa nếu khu công nghiệp này đã xây dựng
xong, thì hậu quả do cơn sóng thần này gây ra sẽ còn khủng khiếp đến đâu. Tôi
nghĩ trời vẫn còn thương mình, vì nếu đã trót đầu tư vào đây thì bây giờ chắc
chắn đã bị trắng tay. Cuối cùng, tôi đành phải gói ghém tất cả quay về nước. Vụ
này tiêu tốn của tôi hơn 10 triệu bạt. Lại phải trả giá thêm cho bài học làm ăn ở
Ấn Độ, lần này nguyên nhân không phải do con người, mà do cơn khủng hoảng
kinh tế khu vực và do “ông trời”.

You might also like