You are on page 1of 10

Chuyên đề 10:

Bài học “Lấy dân làm gốc” để xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Bài học “Lấy dân làm gốc” để xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ CNXH đã ghi: “Sự nghiệp cách
mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chính người dân là người làm nên
thắng lợị lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện
vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là sự gắn bó mật thiết với nhân
dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất không lường
được đối với vận mệnh của đất nước”.

Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay phần mở đầu đã nhấn mạnh: “Đảng Cộng sản
Việt Nam là Đảng cầm quyền. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy
quyền làm chủ, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào dân để xây dựng Đảng”. Trang Di
chúc bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho Đảng ta và nhân dân ta, Người đặc biệt
nhấn mạnh, tăng cường quan hệ giữa Đảng với nhân dân: "Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức
và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Phải
giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những quan niệm sâu sắc về vai trò của nhân dân trong lịch
sử và mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Người không chỉ khẳng định dân
là gốc của nước, mà còn tôn vinh nhân dân: ''Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân
dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đòan kết của nhân dân''. Người còn
nói, nhân dân là người xây dựng, là người đổi mới, làm nên sự nghiệp lớn, mọi quyền
hành và lực lượng đều ở nhân dân.

Quán triệt Điều lệ Đảng và thấm nhuần sâu sắc Tư tưởng Hồ Chí Minh về ''Lấy dân làm
gốc'', chúng ta càng thấm thía rằng: Mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân, nếu Đảng
xa dân, tách khỏi dân thì Đảng không thể tồn tại được. Không có sự tham gia giám sát của
nhân dân thì cán bộ, đảng viên dễ trở thành "ông quan'', ''bà quan" cách mạng chứ khó trở
lên ''Người lãnh đạo, Người đầy tớ trung thành của nhân dân". Không có sự giám sát chặt
chẽ của quần chúng nhân dân thì tổ chức Đảng khó tránh khỏi tệ quan liêu - một trong
những nguy cơ lớn của Đảng cầm quyền, biến sứ mệnh cầm quyền cao cả của Đảng thành
''Đảng lạm quyền", thậm chí còn dẫn đến thoái hóa, biến chất. Do vậy, sự giám sát cán bộ,
đảng viên và tổ chức đảng của nhân dân trong việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
đang trở nên bức bách và có ý nghĩa sống còn của Đảng ta. Đó là bài học ''Lấy dân làm
gốc" để xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Lịch sử đã từng chứng minh, một chế độ chính trị - xã hội chỉ tồn tại được khi nào có khả
năng tập hợp, đoàn kết được quảng đại quần chúng nhân dân. Trong những giai đoạn cách
mạng trước, sở dĩ Đảng ta luôn luôn giữ vững được vai trò lãnh đạo của mình, bởi nhờ có
sự ủng hộ, che chở, bảo vệ của nhân dân. Ngày nay, đứng trước cuộc đấu tranh bài trừ các
tệ nạn xã hội, trước hết là làm trong sạch các tổ chức đảng, bộ máy Nhà nước, khắc phục
tệ quan liêu, tham nhũng và sự tha hóa đạo đức, phẩm chất của một bộ phận cán bộ, đảng
viên chỉ có thể thực hiện đạt hiệu quả khi nào các tổ chức đảng, các cấp ủy đảng thực sự
tin ở dân, dựa vào sự tham gia kiểm tra, giám sát của nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn
Đảng. Tham gia giám sát cán bộ, đảng viên và tổ chức dảng còn là quyền và nghĩa vụ của
nhân dân đối với Đảng. Đối với một Đảng cầm quyền, Đảng có sứ mệnh lãnh đạo toàn bộ
hệ thống chính trị và toàn xã hội tiến hành công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng
XHCN. Do đó, toàn bộ cuộc sống từ vật chất đến tinh thần, văn hóa của mỗi người dân
trong xã hội đều gắn với sự lãnh đạo của Đảng. Tổ chức đảng có trong sạch, vững mạnh,
cán bộ, đảng viên có tiên phong gương mẫu thì mới bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng
thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới đất nước, và cũng nhờ đó mà cuộc sống của nhân
dân được đảm bảo, cải thiện và nâng cao. Trái lại, cán bộ, đảng viên tiêu cực, tha hóa, tổ
chức đảng không trong sạch, vững mạnh thì không chỉ làm cho tổ chức đảng bị rệu rã, dẫn
đến mắc sai lầm, thất bại mà còn trực tiếp ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống, cuộc sống
của nhân dân. Do vậy mà việc giám sát cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng vừa là một quyền
cơ bản không thể thiếu của công dân, vừa là nghĩa vụ, trách nhiệm vẻ vang của nhân dân
đối với Đảng. Nhân dân giám sát cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng là một nội dung về
quyền làm chủ của nhân dân nhằm xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững
mạnh và từ đó cũng nhằm bảo vệ lợi ích thiết thân, chính đáng, hợp pháp của nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Dân chủ là bản chất của chế độ và của Đảng ta. Bác Hồ đã
khẳng định: ''Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn
dân... Làm cho mọi công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý Nhà nước".

76 năm qua, chính nhờ bắt rễ sâu rộng trong quần chúng, đường lối chính trị được lòng
dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ, cho nên Đảng và nhân dân ta đã kết thành một khối
vững chắc, quan hệ máu thịt với nhân dân là cội nguồn sức mạnh to lớn của Đảng ta. Ở
đâu và lúc nào, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên thường xuyên chăm lo lợi ích của nhân
dân, sống đồng cam cộng khổ với dân, mọi việc làm đều vì lợi ích của dân, thì ở đó Đảng
và dân có mối quan hệ tốt đẹp; cán bộ, đảng viên được dân tin, dân phục, dân theo. Trái
lại, ở đâu và lúc nào tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên xa dân, quay lưng lại với dân, quan
liêu, thậm chí trù dập, ức hiếp dân thì ở đó sẽ bị dân oán ghét, chê trách, bất hợp tác. Qua
20 năm thực hiện đường lối đổi mới, với việc phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời
sống, mở mang dân trí, dân chủ trong xã hội, Đảng ta ngày càng củng cố được niềm tin
của nhân dân, khơi dậy được những tiềm năng, tạo ra được những nguồn sinh lực của
cách mạng. Ý Đảng, lòng dân là sức mạnh vô tận.

Bài học "Lấy dân làm gốc" để xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được tiến hành đồng bộ
trên nhiều mặt cả về kinh tế, chính trị, tư tưởng... để cùng tác động đến đời sống, tâm lý,
tư tưởng các tầng lớp nhân dân, tạo nên sự chuyển biến tích cực trong thái độ, tình cảm,
tâm lý, ý thức của từng người dân. Đời sống vật chất và đời sống tinh thần của các tầng
lớp nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng cao, dân chủ XHCN được củng cố, mở
rộng; tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực bị ngăn chặn và đẩy lùi; Đảng vững mạnh, nâng
cao được sức chiến đấu, bộ máy nhà nước trong sạch, thật sự của dân, do dân, vì dân,
nâng cao được hiệu lực quản lý, thì sẽ được lòng dân. Đảng vì dân, dân tin ở Đảng, ra sức
góp phần xây dựng Đảng và bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ chế độ XHCN của
chúng ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với quan điểm lấy dân làm gốc
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nước lấy dân làm gốc; Gốc có vững, cây
mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân. Người rất tâm đắc với câu nói dân
gian: “Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong”.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, biểu hiện trước hết của dân là gốc là phải tin ở dân, gần gũi
dân, và biết dựa vào dân; Phải có ý thức rõ “dân chúng rất khôn khéo, rất hăng hái, rất
anh hùng”. Muốn hoàn thành nhiệm vụ, muốn biến đường lối chủ trương của Đảng thành
phong trào quần chúng, thành sức mạnh cách mạng thì Đảng phải có đường lối đúng đắn;
cán bộ đảng viên “phải liên lạc mật thiết với dân chúng, xa rời dân chúng là cô độc. Cô
độc thì nhất định thất bại”. Cán bộ đảng viên còn phải học hỏi dân, “nếu không học hỏi
dân thì không lãnh đạo được dân”, mà “muốn hiểu biết, học hỏi dân thì ắt phải có nhiệt
thành, có quyết tâm”.

Theo Hồ Chí Minh phải thực hiện dân chủ với dân để phát huy tinh thần làm chủ của dân
là cốt lõi của vấn đề dân là gốc. Người thường nói: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là
nhân dân làm chủ”. Vậy quyền hạn, nghĩa vụ của người làm chủ phải thế nào? Câu trả lời
của Người là: “Nếu Chính phủ sai thì phải phê bình, phê bình nhưng không phải là chửi”.
Và người yêu cầu: người làm chủ trước hết phải làm tròn bổn phận công dân, tức là phải
tuân theo pháp luật Nhà nước; tuân theo kỷ luật lao động; giữ gìn trật tự chung; nộp thuế
đúng kỳ, bảo vệ tài sản công cộng; bảo vệ Tổ Quốc. “Phải chăm lo việc nước như việc
nhà”, “phải biết tự mình lo toan gánh vác, không ỷ lại, không ngồi chờ”; “làm chủ sao
cho ra làm chủ, không phải làm chủ là muốn ăn bao nhiêu thì ăn, làm bao nhiêu thì làm”.

Theo Hồ Chí Minh, thiết thực nhất của việc bồi dưỡng “cái gốc” là phải thường xuyên
chăm lo đời sống cho dân, chăm lo lợi ích chính đáng của dân. Người thường nhắc tới
những câu của người xưa “có thực với vực được đạo”, “dân dĩ thực vi thiên”. Người nhắc
nhở cán bộ, đảng viên: “Đối với nhân dân không thể lý luận suông”. Chính sách của Đảng
và Chính phủ là phải hết sức chăm lo đời sống của dân: “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ
có lỗi. Nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi. Nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi.
Nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm dân là gốc là quan điểm khoa học, toàn diện. Đó
là sự kế thừa những tinh hoa dân tộc, là sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Từ thực tiễn cuộc sống, Hồ Chí Minh
lưu ý: “Bất kỳ nơi nào có quần chúng, thì nhất định có ba hạng người: hạng hăng hái,
hạng vừa vừa và hạng kém… Người lãnh đạo phải dùng hạng hăng hái làm trung kiên cho
sự lãnh đạo, do hạng hăng hái đó mà nâng cao hạng vừa vừa và kéo hạng kém lên. Phải
học hỏi dân chúng, nhưng “không phải dân chúng nói gì, ta cũng cứ nhắm mắt theo”; phải
“tìm ra mâu thuẫn trong những ý kiến khác nhau, xem cái nào đúng, cái nào sai” để vận
dụng.

Một sự kiện được nhiều người nhắc tới là tháng 10/1949 khi cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp đang ở giai đoạn quyết liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài báo Dân vận. Người
diễn đạt rất khái quát: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Công việc đổi mới, xây dựng
là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân. Đoàn thể
từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi
dân. Quan điểm của Người thật rõ ràng: Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì
dân.

Điều mà cả cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh nung nấu trăn trở là vấn đề thực hiện dân chủ
với dân; làm thế nào để nhân dân “biết dùng quyền dân chủ” và “hưởng quyền dân chủ”.
Ngày 6/1/1946, chỉ bốn tháng sau khi khai sinh nền Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ lâm
thời do Người đứng đầu đã tổ chức cuộc tổng tuyển cử phổ thông, trực tiếp, bình đẳng lần
đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Tháng 11/1946, Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ 2 đã thông
qua bản Hiến pháp do Người chỉ đạo soạn thảo. Nhà nước dân chủ, pháp quyền từ ý
tưởng của Người đã dần dần trở thành hiện thực trên đất nước Việt Nam. Quan điểm của
Người trong những sự kiện lịch sử này rất mẫu mực, rõ ràng: “Tổng tuyển cử là một dịp
cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc
nước nhà”, “Hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công
dân thì đều có quyền đi bầu cử”.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà nước của dân còn bao hàm việc dân có quyền bãi miễn
Chính phủ và nhân viên chính quyền Nhà nước các cấp, nếu họ có tư tưởng hoặc việc làm
có hại đến nhà nước, hại đến dân.

Nhà nước Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập là Nhà nước kiểu mới: Nhà nước
của dân. Sức mạnh và sự trường tồn của nhà nước bắt nguồn từ lực lượng toàn dân đoàn
kết, với tinh thần làm chủ - tự chủ. Bởi thế nhà nước ta còn là nhà nước do dân. Bác viết:
“Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”, “Không có lực
lượng nhân dân thì việc nhỏ mấy, dễ mấy làm cũng không xong”; “Vậy nên Chính phủ
với nhân dân phải đoàn kết thành một khối”.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, [Nhà nước của dân, do dân phải được thể hiện ở các chủ
trương, chính sách của nhà nước trong mọi mặt đời sống xã hội là vì dân. Ngay sau khi
nước nhà dành được độc lập, Người nói rõ: “… nếu nước độc lập mà dân không hưởng
hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.

Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Nhân dân đã và sẽ mãi mãi là người
làm nên lịch sử. Thực hiện tốt Di huấn của Bác về lấy dân làm gốc, chắc chắn bộ máy
Nhà nước ta sẽ “chạy” đều, hiệu quả quản lý điều hành chắc chắn có hiệu lực cao. Đó là
việc làm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn./.
Lấy dân làm gốc để xây dựng Đảng vững mạnh
Là một xã thuần nông của huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế, do vậy vấn đề
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cải tạo, quy hoạch vườn tạp..., để phát triển kinh
tế luôn được lãnh đạo nơi đây trăn trở. Năm 2003, Phú Sơn đã đưa 92,85% diện tích
gieo cấy giống lúa cấp 1 vào đồng ruộng; trồng 34,5 ha sắn kết hợp với 6,5 ha lạc; lập
20,5 ha vườn trồng xoài, nhãn...
Bên cạnh đó, với kế hoạch chuyển diện tích đất nông nghiệp kém hiệu quả sang đào ao
thả cá, toàn xã hiện có 15 hồ nuôi với diện tích 1,2 ha, giúp bà con cải thiện bữa ăn, gia
đình có thêm nguồn thu.

Đời sống của nhân dân Phú Sơn đang ngày được cải thiện rõ rệt. Tính đến đầu năm 2004,
toàn xã đã không còn hộ đói, hộ nghèo giảm từ 41% (2002) còn 31,5 %; 80% hộ có nhà
kiên cố và bán kiên cố; 95,55% hộ có điện thắp sáng; Công tác giáo dục được quan tâm
và đang từng bước được nâng lên ở cả chất lượng đào tạo và điều kiện trường lớp, trang
thiết bị dạy học. Tình hình trật tự trị an trên địa bàn xã cũng được giữ vững, ổn định...

Từ một xã nghèo, lãnh đạo xã Phú Sơn đã biết khơi dậy và phát huy sức mạnh tinh thần
đoàn kết của người dân để cùng xây dựng quê hương ngày một vững mạnh. Trong những
năm qua, chi bộ Đảng Phú Sơn đã rất chú trọng và nỗ lực trong công tác xây dựng Đảng,
coi công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh là động lực quan trọng nhất để phát
triển xã nhà trên mọi lĩnh vực.

Chi bộ Phú Sơn một mặt đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi để các đảng viên không ngừng
học tập, bồi dưỡng thêm trình độ lý luận chính trị, làm tốt công tác tư tưởng; mặt khác
yêu cầu thực hiện nghiêm túc quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo niềm tin trong lòng dân. Hiện
tại, trong chi bộ có 5 đồng chí đang theo học lớp quản lý nông nghiệp, kế toán (hệ đại
học). Trong công tác phát triển đảng viên, năm qua, có 9 quần chúng ưu tú được xã gởi đi
bồi dưỡng chính trị và trong số đó đã kết nạp được 3 đồng chí vào hàng ngũ của Đảng,
xóa được tình trạng thôn ''trắng''về đảng viên.

''Chúng tôi lấy dân làm gốc để xây dựng Đảng vững mạnh" là khẳng định của đồng chí
Phan Viết Giáo - Bí thư chi bộ xã Phú Sơn. Thực hiện đúng nội dung Quy chế dân chủ tại
cơ sở; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tất cả những vấn đề liên quan trực tiếp đến
quyền lợi của người dân đều được chi bộ công khai trước dân, từ mức đóng góp cho
cácnguồn quỹ AN-QP, quỹ đền đáp, góp công của cho các công trình xây dựng cơ
bản...đến việc phân cấp đất đai cho các hộ gia đình... Ngay cả trong quá trình phát triển
đảng viên, chi bộ phải thông qua ý kiến ủng hộ quần chúng ưu tú của đa số nhân dân sở
tại.

Để hiểu được những tâm tư, nguyện vọng của bà con, chi bộ xã Phú Sơn đã thành lập Ban
Dân vận với thành viên là những đảng viên ưu tú. Định kỳ, Ban Dân vận có những buổi
tham gia sinh hoạt trực tiếp với dân, để vừa phổ biến nội dung những chủ trương, chính
sách của Đảng đến bà con, vừa lắng nghe sự phản ánh từ phía nhân dân, kịp thời sửa đổi
những bất cập trong chỉ đạo, chấn chỉnh tư cách những đảng viên chưa gương mẫu...Nhờ
vậy, những chương trình hành động của Phú Sơn trong mọi lĩnh vực đều thống nhất với
tinh thần tự nguyện của bà con rất cao. Trong một tương lai không xa, trên nền tảng đoàn
kết của toàn Đảng, toàn dân, Phú Sơn sẽ thoát khỏi sự nghèo khó, tiến lên lớn mạnh mọi
mặt.
Phát huy truyền thống “Lấy dân làm gốc” trong xây dựng, củng cố nền quốc phòng
toàn dân hiện nay
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, "Lấy dân làm gốc" là truyền
thống văn hoá chính trị của các nhà lãnh đạo, cầm quyền một lòng vì dân, vì nước. Nó
thể hiện nhất quán tư tưởng : dân là nước, còn dân thì còn nước. Đất nước có tạm
thời bị giặc ngoại xâm chiếm đóng, nhưng làng không mất, dân không mất (mất nước,
không mất làng) thì nhân dân sẽ đứng lên đấu tranh, đất nước nhất định sẽ được khôi
phục trong độc lập, tự do.

Các triều đại phong kiến Việt Nam độc lập trong lịch sử đều "Lấy dân làm gốc" trong việc
ban hành các chủ trương, chính sách, từ kinh tế, xã hội, văn hoá, luật pháp đến an ninh,
quốc phòng, ngoại giao... Triều Khúc Thừa Dụ có chính sách "Khoan, giản, an, lạc"; triều
Lý có chính sách "Ngụ binh ư nông"; triều Trần có "Khoan, thư sức dân" , "Chúng chí
thành thành" và nổi tiếng với Hội nghị Diên Hồng; triều Lê quan niệm "Dân như nước có
thể đẩy thuyền, lật thuyền", nên vai trò, vị trí người dân được luật hoá trong Bộ luật Hồng
Đức. Căn cứ vào thực tiễn lịch sử, nhà sử học Ngô Sĩ Liên (thời Lê) tổng luận, các triều
đại đó đã "Lấy nghĩa mà duy trì, lấy nhân để cố kết, lấy trí để trông coi, lấy tín để ngăn
phòng. Có đặt dân lên chốn chiếu êm mới làm cho thế nước vững như núi Thái Sơn, bàn
thạch. Chăm lo cho nước trở nên văn minh, dân đến chỗ giàu thịnh là mưu hay trị dân, giữ
nước; là kế xa sửa nước, chăn dân". Trong tập "Nước Việt Nam từ cội nguồn xa xưa đến
ngày nay" của Giáo sư, Tiến sĩ Pi-e Ri-sa Fe-ray, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu và sưu
tầm về Á Đông ngày nay (CERAC) của nước Pháp, trong chương I nhan đề " Nước Việt
Nam cổ xưa hay sự chinh phục của tính cách Việt Nam" có một đoạn viết khá hấp dẫn về
nhà Lê và nhà văn hoá Nguyễn Trãi:" Triều đại nhà Lê (Lê sơ, 1428 -1527) do một chủ
đất bình thường là Lê Lợi sáng lập. Ông trở thành Hoàng đế dưới danh hiệu Lê Thái Tổ
(1428-1433), được một nhà nho, nhà văn, nhà chiến lược, nhà chính khách tài ba là
Nguyễn Trãi giúp đỡ. Lê Lợi đã điều hành một cuộc chiến tranh giải phóng quốc gia thật
mẫu mực, cho đến ngày nay, triều đại ông lập nên vẫn còn là một trong những triều đại
được hâm mộ và có tiếng tăm lừng lẫy nhất. Nhưng các vua Lê còn làm được những việc
hơn thế nữa, bằng Bộ luật Hồng Đức do vua Lê Thánh Tông (1470 - 1497) soạn thảo, các
vua Lê đã thể nghiệm và xác định được vị trí "con người Việt" trong tổng thể các mối
quan hệ xã hội". Cụ thể, Bộ luật Hồng Đức đã thể hiện sâu sắc tư tưởng "Lấy dân làm
gốc" của dân tộc ta, trong "Điều 294: Trong kinh thành và phường ngõ, làng xóm có kẻ
ốm đau mà không ai nuôi, nằm ở đường xá, cầu điếm, chùa quán thì xã quan ở đó phải
dựng lều lên mà chăm sóc họ cơm cháo, thuốc men, cốt sao cứu sống họ. Nếu không may
mà họ chết thì phải trình quan trên và tổ chức chôn cất, không được để lộ thi hài. Nếu
phạm tội này thì quan làng xã bị tội biếm hay bãi chức". Tính chất nhân đạo - "Lấy dân
làm gốc" được nêu trong điều này của Bộ luật Hồng Đức chỉ xuất hiện ở châu Âu mấy thế
kỷ sau đó, khi nổ ra cách mạng tư sản .

Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết hợp tính nhân văn của chủ nghĩa cộng sản với
tinh hoa truyền thống "Lấy dân làm gốc" của dân tộc, đưa nhân dân lên vị trí làm chủ
trong tiến trình cách mạng. Từ chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm đến chống các tệ
nạn "làm quan cách mạng", bệnh quan liêu, quân phiệt, tham nhũng, tư túi, bè cánh, xa rời
quần chúng... Đặc biệt, truyền thống "Lấy dân làm gốc" được xác định là cơ sở của tư
tưởng cách mạng và là nền tảng tư tưởng quân sự, quốc phòng của Hồ Chí Minh và Đảng
ta. Trong những bài giảng để đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam ( xuất bản năm
1927 thành tập "Đường cách mệnh"), so sánh với những cuộc cách mạng đã nổ ra trên thế
giới, Hồ Chí Minh nhấn mạnh yêu cầu "Làm cách mệnh đến nơi", "Cách mệnh rồi thì
giao cho quần chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người... tức là dân chúng được
hưởng cái tự do, bình đẳng thật". Trong những vấn đề then chốt nhất của cách mạng,
Người khẳng định "Phải theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phải có Đảng vững bền và phải lấy
dân chúng (công nông) làm gốc" và "Cách mệnh là việc chung của dân chúng chứ không
phải việc của một, hai người... Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không
chống nổi". Khi đã giành được chính quyền, tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong bảo vệ chính quyền cách mạng, chẳng những đã kế thừa được truyền thống "Lấy
dân làm gốc" của dân tộc mà còn tạo mọi điều kiện để thực sự đưa nhân dân lao động lên
vị trí làm chủ đất nước: "Anh em phải làm sao cho dân yêu, mến. Phải nhớ rằng dân là
chủ. Dân như nước, mình như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết..." và "Nước lấy
dân làm gốc. Trong cuộc kháng chiến kiến quốc, lực lượng chính là ở dân. Gốc có vững
cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân". Sau kháng chiến chống Pháp thành
công, cách mạng Việt Nam tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng CNXH trên miền
Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
chăm lo giáo dục cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ý thức làm chủ đất nước, làm chủ xã
hội và coi phục vụ nhân dân là tốt đẹp, vẻ vang nhất: "Trong bầu trời không có gì quý
bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân...
Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ nhân dân". Tin tưởng vô bờ vào
sức mạnh của nhân dân, không ngừng động viên, giáo dục, tổ chức nhân dân làm cách
mạng để đem lại độc lập, tự do cho đất nước, hạnh phúc cho toàn dân là sự nghiệp cao cả
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt đời theo đuổi, đã đem lại cho đất nước, cho dân tộc những
thành qủa chưa từng có trong lịch sử.

Ngày nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN của toàn dân ta đã cú những
thuận lợi mới, thời cơ mới, thực lực và sức mạnh mới, đưa dân tộc lên vị thế chưa từng
có. Bạn bè tăng lên, thù giảm bớt, đói nghèo lạc hậu từng bước được đẩy lùi, đời sống vật
chất, tinh thần, văn hoá không ngừng được cải thiện. "Lấy dân làm gốc" ngày nay được kế
thừa và phát huy trong điều kiện, vẫn đất nước mình, dân tộc mình, nhưng kết cấu dân cư,
thành phần giai cấp, xã hội đã có nhiều đổi mới. Do đó, phải phát huy được hiệu quả của
mọi thành phần kinh tế, trờn co s? bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ trong cuộc trường
chinh chống đói nghèo và lạc hậu, phát huy được sức mạnh Việt Nam, trí tuệ Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới đất nước, vì mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh". Truyền thống "Lấy dân làm gốc", hơn lúc nào hết, cần được kế thừa và
phát triển một cách sáng tạo trong xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân vững chắc
để nhanh chóng đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Quốc phòng ngày
nay không chỉ là hoạt động chuẩn bị đối phó với chiến tranh mà trước hết là hoạt động
đẩy lùi và ngăn chặn chiến tranh, tạo môi trường thuận lợi cho việc đẩy mạnh CNH, HĐH
đất nước. Hơn lúc nào hết, cần làm cho mỗi người dân nâng cao ý thức quốc phòng, thực
sự chăm lo, góp phần xây dựng, củng cố sức mạnh quốc phòng toàn dân. Muốn vậy, phải
tạo dựng được "Thế trận lòng dân" vững chắc.

Thực tế cho thấy, nơi nào nhân dân phấn khởi, tin tưởng ở lãnh đạo thì mọi việc ở nơi đó
thành công, nơi nào để cho nhân dân bất bình, mất lòng tin ở lãnh đạo thì nơi ấy tình hình
không ổn định, luôn luôn có diễn biến phức tạp. Mặt khác, những nơi có cơ sở chính trị
yếu kém, vai trò lãnh đạo bị buông lỏng, không nắm được quần chúng, lòng dân không
yên, mất niềm tin... thì các thế lực thù địch sẽ tranh thủ lôi kéo, kích động, chia rẽ nhân
dân, tạo nên những vụ, việc phức tạp gây mất ổn định chính trị. Không thế trận nào vững
mạnh bằng "Thế trận lòng dân", tạo dựng được "Thế trận lòng dân" vững chắc là nhân tố
quyết định sức mạnh quốc phòng hiện nay. Để có thế trận đó, trước hết phải đẩy mạnh
nhiệm vụ then chốt là xây dựng, chỉnh đốn Đảng - nhân tố quyết định của mọi thắng lợi
và trực tiếp tạo ra sức mạnh quốc phòng, trong đó có tiềm lực cơ bản là sức mạnh của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cùng với đó, phải đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội,
tạo cơ sở vật chất kỹ thuật để không ngừng tăng tích luỹ tiềm lực quốc phòng. Trước mắt,
tập trung đẩy mạnh xoá đói, giảm nghèo, chăm lo cải thiện, nâng cao đời sống mọi mặt
của nhân dân, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải
đảo, vùng căn cứ cách mạng. Đi đôi với phát triển kinh tế -xã hội, thường xuyên coi trọng
công tác giáo dục quốc phòng, nâng cao lòng yêu nước, ý chí quyết tâm bảo vệ Tổ quốc
XHCN cho toàn dân. Cần làm cho mỗi người thấy, với tình hình thế giới, khu vực và
trong nước hiện nay, nếu ta giữ được sự ổn định từ trong Đảng, trong nước, trong nội bộ
chế độ thì các thế lực thù địch bên trong cũng không dễ gì gây ra đảo lộn lớn, tạo cớ cho
bên ngoài can thiệp. Trong bất kể tình huống nào, kế thừa và phát huy truyền thống "Lấy
dân làm gốc", với quan điểm "Dân thực sự là người làm chủ". Xét trên góc độ an ninh -
quốc phòng, ta phải chủ động phòng ngừa, đồng thời bảo đảm xử lý kịp thời, kiên quyết,
khẩn trương, khôn khéo, nhanh gọn các tình huống phức tạp, thì dù nó đã xảy ra cũng
không thể lan rộng, kéo dài. Sự chủ quan đối với các nguy cơ và tệ nạn nội sinh dễ tạo ra
những hậu quả xấu, có thể dẫn đến bất ngờ về chiến lược. Đó là bài học sâu sắc của nhiều
nước XHCN vừa qua.

Tạo lập được "Thế trận lòng dân" chính là xây móng, dựng nền để xây dựng thế trận quốc
phòng toàn dân vững chắc và lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh. Đó là sự liên kết
chặt chẽ thế trận của các lĩnh vực, các ngành, được thể hiện trong mối quan hệ cụ thể
song phương và đa phương, như kết hợp quốc phòng với an ninh, quốc phòng với kinh tế,
an ninh với đối ngoại hoặc kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh và quốc phòng - an
ninh với đối ngoại; kết hợp thế trận chung trên phạm vi toàn quốc với thế trận ở từng địa
phương, từng cơ sở; kết hợp thế trận tại chỗ với thế trận cơ động; kết hợp thế trận trong
nước với thế trận ngoài nước; thế trận thời bình với thế trận thời chiến; thế trận quốc
phòng toàn dân với thế trận chiến tranh nhân dân. Thế trận quốc phòng toàn dân là thể
hiện sự liên kết toàn diện trong mọi ngành nghề, mọi tầng lớp nhân dân... nhằm phát huy
mọi khả năng tạo nên sức mạnh tổng hợp lớn nhất, đáp ứng kịp thời mọi tình huống, cả
trong thời bình và thời chiến. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, bao
gồm các thứ quân, cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân, tự vệ. Trong đó phải
tập trung xây dựng quân đội nhân dân "cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại", có lực lượng dự bị hùng hậu, lực lượng thường trực với chất lượng tinh, số lượng
hợp lý, thực sự là nòng cốt cho sự nghiệp xây dựng, củng cố quốc phòng và cho toàn dân
chiến đấu trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Để lực lượng vũ trang nhân dân có sức mạnh
tổng hợp, cần phải xây dựng toàn diện; trong đó hết sức coi trọng xây dựng bản lĩnh chính
trị, xây dựng lòng trung thành vô hạn đối với Đảng, với chế độ, với Tổ quốc, với nhân
dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Nhân dân là chủ thể của đất
nước, nền quốc phòng toàn dân chỉ thực vững chắc khi được kết hợp từ nhiều nguồn lực,
trong đó nguồn lực từ nhân dân là vô tận. Trong điều kiện hiện nay, khi nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc XHCN có những phát triển mới, yêu cầu xây dựng nền quốc phòng toàn dân
ngày một cao thì càng phải biết dựa vào dân, phát huy nguồn lực to lớn từ nhân dân. Phải
nghiên cứu, cân nhắc xã hội hoá một số nội dung của xây dựng nền quốc phòng, kết hợp
kinh tế với quốc phòng. Vừa qua, một số địa phương đã thực hiện xã hội hoá công tác
quốc phòng khá hiệu quả, như tham gia thực hiện chính sách, chế độ đối với dân quân,
đóng góp kinh phí xây dựng đường, mương, trạm điện.... kết hợp kinh tế và quốc phòng,
xây dựng thế trận quốc phòng. Trong thời gian tới, cần rút kinh nghiệm để đẩy mạnh hơn
nữa theo hướng này. Chỉ có như vậy, sự nghiệp quốc phòng mới thực sự là sự nghiệp của
dân.

"Lấy dân làm gốc" là một truyền thống văn hóa chính trị, chính vì thế việc nâng cao năng
lực lãnh đạo của các cấp uỷ d?ng, từ Trung ương đến cơ sở, nâng cao năng lực của đội
ngũ cán bộ, công chức, nâng cao hiệu lực hoạt động của hệ thống chính trị... là điều kiện
tiên quyết trong việc kế thừa và phát huy truyền thống này một cách có hiệu quả vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, vào nhiệm vụ xây dựng, củng cố nền quốc
phòng toàn dân nói riêng.

Mô hình điển hình lấ dân làm gốc ở Thừa Thiên Huế

Lấy dân làm gốc để xây dựng Đảng vững mạnh - Là một xã thuần nông của huyện
Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế, do vậy vấn đề chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật
nuôi, cải tạo, quy hoạch vườn tạp..., để phát triển kinh tế luôn được lãnh đạo nơi đây
trăn trở. Năm 2003, Phú Sơn đã đưa 92,85% diện tích gieo cấy giống lúa cấp 1 vào
đồng ruộng; trồng 34,5 ha sắn kết hợp với 6,5 ha lạc; lập 20,5 ha vườn trồng xoài,
nhãn...

Bên cạnh đó, với kế hoạch chuyển diện tích đất nông nghiệp kém hiệu quả sang đào ao
thả cá, toàn xã hiện có 15 hồ nuôi với diện tích 1,2 ha, giúp bà con cải thiện bữa ăn, gia
đình có thêm nguồn thu.

Đời sống của nhân dân Phú Sơn đang ngày được cải thiện rõ rệt. Tính đến đầu năm 2004,
toàn xã đã không còn hộ đói, hộ nghèo giảm từ 41% (2002) còn 31,5 %; 80% hộ có nhà
kiên cố và bán kiên cố; 95,55% hộ có điện thắp sáng; Công tác giáo dục được quan tâm
và đang từng bước được nâng lên ở cả chất lượng đào tạo và điều kiện trường lớp, trang
thiết bị dạy học. Tình hình trật tự trị an trên địa bàn xã cũng được giữ vững, ổn định...

Từ một xã nghèo, lãnh đạo xã Phú Sơn đã biết khơi dậy và phát huy sức mạnh tinh thần
đoàn kết của người dân để cùng xây dựng quê hương ngày một vững mạnh. Trong những
năm qua, chi bộ Đảng Phú Sơn đã rất chú trọng và nỗ lực trong công tác xây dựng Đảng,
coi công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh là động lực quan trọng nhất để phát
triển xã nhà trên mọi lĩnh vực.

Chi bộ Phú Sơn một mặt đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi để các đảng viên không ngừng
học tập, bồi dưỡng thêm trình độ lý luận chính trị, làm tốt công tác tư tưởng; mặt khác
yêu cầu thực hiện nghiêm túc quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo niềm tin trong lòng dân. Hiện
tại, trong chi bộ có 5 đồng chí đang theo học lớp quản lý nông nghiệp, kế toán (hệ đại
học). Trong công tác phát triển đảng viên, năm qua, có 9 quần chúng ưu tú được xã gởi đi
bồi dưỡng chính trị và trong số đó đã kết nạp được 3 đồng chí vào hàng ngũ của Đảng,
xóa được tình trạng thôn ''trắng''về đảng viên.

''Chúng tôi lấy dân làm gốc để xây dựng Đảng vững mạnh" là khẳng định của đồng chí
Phan Viết Giáo - Bí thư chi bộ xã Phú Sơn. Thực hiện đúng nội dung Quy chế dân chủ tại
cơ sở; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tất cả những vấn đề liên quan trực tiếp đến
quyền lợi của người dân đều được chi bộ công khai trước dân, từ mức đóng góp cho
cácnguồn quỹ AN-QP, quỹ đền đáp, góp công của cho các công trình xây dựng cơ
bản...đến việc phân cấp đất đai cho các hộ gia đình... Ngay cả trong quá trình phát triển
đảng viên, chi bộ phải thông qua ý kiến ủng hộ quần chúng ưu tú của đa số nhân dân sở
tại.

Để hiểu được những tâm tư, nguyện vọng của bà con, chi bộ xã Phú Sơn đã thành lập Ban
Dân vận với thành viên là những đảng viên ưu tú. Định kỳ, Ban Dân vận có những buổi
tham gia sinh hoạt trực tiếp với dân, để vừa phổ biến nội dung những chủ trương, chính
sách của Đảng đến bà con, vừa lắng nghe sự phản ánh từ phía nhân dân, kịp thời sửa đổi
những bất cập trong chỉ đạo, chấn chỉnh tư cách những đảng viên chưa gương mẫu...Nhờ
vậy, những chương trình hành động của Phú Sơn trong mọi lĩnh vực đều thống nhất với
tinh thần tự nguyện của bà con rất cao. Trong một tương lai không xa, trên nền tảng đoàn
kết của toàn Đảng, toàn dân, Phú Sơn sẽ thoát khỏi sự nghèo khó, tiến lên lớn mạnh mọi
mặt.

You might also like