You are on page 1of 20

Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG CÔNG NGHIỆP, MÔI TRƯỜNG ĐÔ THỊ

VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CHÚNG ĐẾN CON NGƯỜI

Môi trường sống là tổng hợp các yếu tố tự nhiên, xã hội và văn hóa bao
quanh con người. Một môi trường lành mạnh, kết hợp hài hòa các yếu tố tự
nhiên xã hội và văn hóa sẽ có đóng góp lớn cho sự phát triển con người và xã
hội. Trái lại, một môi trường không lành mạnh (bị ô nhiễm nặng) sẽ ảnh hưởng
xấu đến sức khỏe con người, làm suy giảm điều kiện tồn tại và phát triển của
cộng đồng.

Trong vài thập niên gần đây, nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế đã
đưa ra cảnh báo về tình trạng ô nhiễm môi trường mang tính toàn cầu, làm biến
đổi khí hậu, gây hậu quả lớn cho phát triển bền vứng kinh tế - xã hội, văn hóa
và đe dọa đến sự tồn tại và phát triển của con người.

Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra rằng: ô nhiễm môi trường do
nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do các hoạt động sản xuất kinh doanh và
sinh hoạt của con người gây ra; và ô nhiễm môi trường nặng nhất tập trung ở
các đô thị đông dân cư và các khu công nghiệp. Hiện nay, trên thế giới mỗi năm
có hơn 2 tỷ tấn rác thải công nghiệp mỗi năm (có nguy cơ suy giảm môi trường
và ảnh hưởng đến sức khỏe con người), khoảng 500 tỷ tấn nước bẩn thải ra tự
nhiên (và cứ 10 năm thì con số này lại tăng lên gấp đôi). Theo tổ chức y tế thế
giới (WHO), có tới 80% bệnh tật do nguồn nước bẩn này gây ra. Theo dự báo
của Viện nghiên cứu năng lượng Hoa Kỳ, trong khoảng 50 năm đầu thế kỷ XXI,
lượng CO2 trong không khí sẽ tăng lên gấp đôi, chủ yếu là do hoạt động công
nghiệp gây ra. Tác hại của chúng là làm nhiễm bẩn không khí dẫn đến biến đổi
khí hậu toàn cầu. Đó là nguy cơ lớn đe dọa sự tồn vong của hệ sinh thái và số
phận loài người(1).

1
Nguồn: Theo http://www.vnn.vn
Page 1 of 20
Có thể nói, ô nhiễm môi trường (nhất là môi trườn công nghiệp và đô
thị) đã đang gây tổn hại đến sức khỏe con người và trở thành lực cản cho sự
phát triển bền vững của cộng đồng. Đặc biệt là ở các nước đang phát triển (nơi
đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, đô thị hóa, trong khi chưa có đủ điều kiện để
kiểm soát môi trường) đã và đang diễn ra tình trạng ô nhiễm môi trường nặng
nề.

Ở Việt Nam trong những năm qua, quá trình phát triển kinh tế thị
trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa và đô thị hóa đã hình thành những khu công
nghiệp tập trung, những đô thị lớn. Có thể nói, những khu công nghiệp và đô thị
lớn này đã giữ vai trò quan trọng trong phát triển và tăng trưởng kinh tế, cải
thiện đời sống của người dân. Tuy nhiên, chúng cũng bộc lộ những hạn chế -
tình trạng ô nhiễm môi trường nặng, làm ảnh hưởng đến sức khỏe người dân và
cản trở sự phát riển của cộng đồng.

I. Ô nhiễm môi trường công nghiệp

I.1 Khái quát về các khu công nghiệp

Sự ra đời và phát triển của các khu công nghiệp gắn liền với đường lối
đổi mới và chính sách mở cửa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và
Nhà nước ta. Sau 18 năm xây dựng và phát triển (1991 – 2009), nước ta đã
thành lập được 223 khu công nghiệp ở 56 tỉnh, thành phố với diện tích
57.264ha. Trong đó, có 171 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động (52 khu công
nghiệp đang xây dựng). Các khu công nghiệp tập trung chủ yếu ở Hà Nội (11
KCN), Hải Dương (23 KCN), Đồng Nai (28 KCN), TP.Hồ Chí Minh (15 KCN),
Long An (13KCN).

Trong những năm qua các khu công nghiệp đã giữ vai trò quan trọng
trong phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm và cải thiện đời sống. Năm

Page 2 of 20
2008, các khu công nghiệp đã tạo ra giá trị sản xuất công nghiệp đạt hơn 33 tỷ
USD (chiếm 38% GDP cả nước), giá trị xuất khẩu đạt hơn 16 tỷ USD (chiếm
gần 26% tổng giá trị xuất khẩu cả nước), nộp ngân sách khoảng 2,6 tỷ USD, tạo
việc làm cho gần 1,2 triệu lao động(2). Mặt khác, các khu công nghiệp còn là
trung tâm thu hút vốn đầu tư ở trong và ngoài nước, trung tâm thu hút vốn đầu
tư ở trong và ngoài nước, trung tâm đào tạo rèn luyện góp phần xây dựng đội
ngũ công nhân có tay nghề cao, có ý thức kỷ luật lao động và tác phong công
nghiệp.

Tuy nhiên, hoạt động của các khu công nghiệp trong những năm qua đã
bộc lộ những hạn chế, cả những vấn đề bức xúc trong lĩnh vực kinh tế xã hội,
đời sống, văn hóa. Cụ thể là, việc phát triển ồ ạt các khu công nghiệp gắn với
việc thu hồi đất nông nghiệp làm ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống của dân cư
nông nghiệp, đời sống kinh tế và văn hóa của lực lượng công nhân làm việc
trong các khu công nghiệp không cao (nếu không muốn nói là thấp), quyền lợi
của người lao động được tôn trọng và bảo đảm… Đặc biệt là, tình trạng ô nhiễm
môi trường diễn ra trầm trọng và phức tạp làm ảnh hưởng tới sức khỏe của con
người và suy giảm hệ sinh thái.

1.2 Thực trạng ô nhiễm môi trường công nghiệp

Ô nhiễm môi trường công nghiệp là hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch
vụ và sinh hoạt công nghiệp thải ra môi trường các loại chất thải (nước thải, khí
thải, chất thải rắn, khói bụi, tiếng ồn…) làm ô nhiễm môi trường, ảnh hửơng
đến đến sức khỏe con người và làm suy giảm sức sống của hệ sinh thái; Và do
đó, làm ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của đất nước.

1.2.1 Ô nhiễm môi trường do nước thải các khu công nghiệp

2
Nguồn: Báo cáo môi trường quốc gia 2009 – Môi trường khu công nghiệp Việt Nam
Page 3 of 20
Theo báo cáo quốc gia môi trường Việt Nam năm 2009 (môi trường khu
công nghiệp Việt Nam); lượng nước thải tại các khu công nghiệp ngày càng gia
tăng,tập trung chủ yếu ở các khu công nghiệp thuộc bốn vùng kinh tế trọng
điểm ở cả nước (vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, vùng kinh tế trọng điểm miền
Trung,vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng
bằng sông Cửu Long).

Năm 2009, tổng lượng nước thải từ các khu nghiệp của 4 vùng kinh tế
trọng điểm nói trên là 640.963 m3/ngày, trong đó, các chất ô nhiễm trong nước
thải là: các chất lơ lửng (SS) – 141.012 kg/ ngày, chất hữu cơ (COD) – 87.812
kg/ngày, chất hữu cơ (COD) – 204.467 kg/ngày, chất dinh dưỡng (tổng Nitơ) –
37.176 kg/ngày, chất dinh dưỡng (tổng Phốt pho) – 51.277 kg/ngày (Bảng 1).

Bảng 1. Tổng lượng nước thải và thải lượng các chất ô nhiễm trong nước
thải từ các khu công nghiệp của 4 vùng KTTĐ năm 2009:

Lượng Tổng lượng các chất ô nhiễm (kg/ngày)


TT Khu vực nước thải
(m3/ngày) TSS BOD COD Tổng N Tổng P

1 Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ 155.055 34.112 21.243 49.463 8.993 12.404

2 Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung 58.808 12.937 8.057 18.760 3.411 4.705

3 Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam 413.400 90.948 56.636 131.87 23.977 33.072

4 Vùng kinh tế trọng điểm vùng 13.700 3.014 1.877 5


4.370 795 1.096
ĐBSCL
Tổng cộng 640.963 141.012 87.812 204.46 37.176 51.277
(Nguồn: Báo cáo môi trường quốc gia 2009 – Môi trường khu công nghiệp7 Việt Nam)

Bảng trên cho thấy, lượng nước thải từ các khu công nghiệp rất lớn, tập
trung chủ yếu ở các khu công nghiệp thuộc vùng KTTĐ phía Nam (4113,400
m3/ngày, gần gấp đôi lượng nước thải của các khu công nghiệp thuộc 3 vùng
Page 4 of 20
kinh tế trọng điểm còn lại, 227.563 m3/ngày). Hơn nữa, tổng lượng các chất ô
nhiễm trong nước thải ở các khu công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
cũng là lớn nhất.

Chất lượng nước thải ở các khu công nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào việc
nước thải có được xử lý không và xử lý như thế nào. Hiện nay, các khu công
nghiệp đã đi vào hoạt động có trạm xử lý nước thải chỉ chiếm 43%, còn hơn
57% chưa có cơ sở xử lý nước thải đã qua xử lý chỉ đạt khoảng 30%, còn 70%
của hơn 1triệu m3 nước thải/ngày từ các khu công nghiệp được xả thẳng ra các
nguồn tiếp nhận (không qua xử lý), chỉ có 4,26% nước thải được xử lý đạt tiêu
chuẩn môi trường, còn hơn 25% xử lý qua loa không bảo đảm tiêu chuẩn môi
trường. Tình hình trên dẫn đến ô nhiễm nặng không chỉ môi trường nước mặt,
mà cả môi trường nước ngầm.

Kết quả phân tích mẫu nước thải từ các khu công nghiệp cho thấy: nước
thải có hàm lượng các chất lơ lưởng (SS) cao hơn QCVN từ 2 đến hàng chục
lần, thậm chí có nơi cao hơn đến hàng trăm lần. Giá trị các thông số BOD,
COD, tổng N và tổng P cũng cao hơn nhiều lần QCVN(3).

Kết quả kiểm tra công tác bảo vệ môi trường của Chi cục bảo vệ môi
trường Đông Nam Bộ từ tháng 8/2008 đến tháng 11/2008 cho thấy: Tất cả các
khu công nghiệp chưa thu gom triệt để lượng nước thải từ các doanh nghiệp
trong khu công nghiệp; 6/7 khu công nghiệp được kiểm tra có lượng nước thải
có độ ô nhiễm cao (Ví dụ: Công ty TNHH Việt Nam Northem Viking
Technologies tại khu công nghiệp Tân Thới Hiệp, nồng độ các chất ô nhiễm
trong nước thải như COD vượt mức cho phép 20 lần, Coliorm vượt 18.600 lần;
công ty cổ phần bia Sài Gòn – Bình Tây tại khu công nghiệp Vĩnh Lộc xả nước

3
Nguồn: Báo cáo môi trường quốc gia 2009 – Môi trường khu công nghiệp Viêt Nam.
Page 5 of 20
thải có nồng độ BOD5 vượt mức cho phép gấp 145 lần, COD vượt mức cho
phép 165 lần và Coliform vượt mức cho phép 1.000 lần)(4).

Tình trạng xả nuwocs thải công nghiệp thẳng ra môi trường (không qua
xử lý) đã làm ô nhiễm nặng cả nguồn nước mặt và nguồn nước ngầm; hầu hết
các con sông, hồ ao, kênh rạch ở khu vực Khu công nghiệp bị suy thoái, không
bảo đảm chất lượng nước sinh hoạt, thậm chí nhiều địa phương có nguồn nước
nhưng không sử dụng được cho bất kỳ mục đích nào. Theo tài liệu của các tổ
chức bảo vệ môi trường, hiện nay ở Việt Nam có tới 70% các dòng sông, 45%
vùng ngập nước, 40% bãi biển đã bị ô nhiễm và suy giảm môi trường(5).

Trên thực tế, các nguồn nước thuộc lưu vực sông Đồng Nai – Sài Gòn,
sông Bến Nghé, kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè, Kênh Tàu Hũ ở TP.Hồ Chí Minh
và 111 hồ, 13 con sông chảy qua Hà Nội (nhất là 4 sông nội thành: Tô Lịch,
Kim Ngưu, Sét, Lử) đều bị ô nhiễm. Ở đây, nước thải công nghiệp và các loại
nước thải khác (sinh hoạt, y tế, làng nghề, chăn nuôi…) đều được xả trực tiếp
vào cống rãnh sông hồ mà không qua xử lý nào(6). Đặc biệt là, dòng sông Thị
Vải đã “chết” vì nước thải công nghiệp từ công ty Vedan.

Ngoài ra, kênh Bàu Lăng (Quảng Ngãi), sông Hoài (Quảng Nam), lưu
vực sông Cầu (địa phận Thái Nguyên), sông Cà Lồ, hạ lưu sông Công, lưu vực
sông Nhuệ - Đáy… đều bị ô nhiễm ở mức độ khác nhau.

1.2.2 Ô nhiễm môi trường từ khí thải công nghiệp

Các khí thải ô nhiễm phát sinh từ hoạt động công nghiệp chủ yéu do 2
nguồn gây ra: đốt nhiên liệu tạo năng lượng cho hoạt động sản xuất và rò rỉ chất
ô nhiễm từ các hoạt động sản xuất. Hiện nay ở Việt Nam, các cơ sở sản xuất có

4
Nguồn: Báo cáo kiểm tra, thanh tra về bảo vệ môi trường đối với các cơ sở khu sản xuất kinh doanh, dịch vụ
và làng nghề trên lưu vực sông Đồng Nai – Sài Gòn năm 2008. Tổng cục Môi trường năm 2009.
5
Diễn đàn dân trí.Email: thaolan@dantri.com.vn.
6
Diễn đàn dân trí.Email: thaolan@dantri.com.vn. Ngày 31/05/2010.
Page 6 of 20
thể khống chế được ô nhiễm không khí do đốt nhiên liệu tạo năng lưỡng cho sản
xuất, còn ô nhiễm không khí do rò rỉ chất ô nhiễm từ hoạt động sản xuất và tác
động từ các loại khí thải hầu như vẫn không được kiểm soát. Và, điều này gây
ra tác hại rất xấu cho môi trường và sức khỏe không chỉ của những người làm
việc trong các khu công nghiệp, mà còn cả những khu dân cư rộng lớn chung
quanh các khu công nghiệp.

Các khí thải ô nhiễm rất đa dạng (phụ thuộc vào từng ngành sản xuất và
từng loại công nghệ sản xuất), song tập trung chủ yếu ở các loại: Bụi, khí NO2,
CO và SO2.

Nhiều nghiên cứu về môi trường gần đây cho thấy: lượng khí thải công
nghiệp ở Việt Nam ngày một tăng, song tập trung chủ yếu ở các khu công
nghiệp thuộc 4 vùng kinh tế trọng điểm cả nước. Đặc biệt là vùng KTTĐ phía
Nam tập trung nhiều khu công nhiệp, cũng là nơi thải ra nhiều bụi, khí làm ô
nhiễm môi trường nặng nhất.

Năm 2009, thải lượng các chất ô nhiễm không khí từ các khu công
nghiệp thuộc 4 vùng kinh tế trọng điểm là: 91.659kg bụi/ngày, 172.034kg
NO2/ngày, 26.536kg CO/ngày và 1.644.711kg SO2/ngày. (xem: Bảng 2)

Bảng 2: Thải lượng các chất ô nhiễm không khí từ các KCN của 4 vùng
KTTĐ năm 2009.

Thải lượng (kg/ngày)


TT Khu vực
Bụi NO2 CO SO2

1 Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ 22.173 41.617 6.419 397.872

2 Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung 8.409 15.784 2.435 150.900

3 Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam 59.116 110.957 17.115 1.060.785

Page 7 of 20
4 Vùng kinh tế trọng điểm vùng ĐBSCL 1.959 3.677 567 35.154

Tổng cộng 91.658 172.034 26.536 1.644.711


(Nguồn: Báo cáo môi trường quốc gia 2009 – Môi trường khu công nghiệp Việt Nam)

- Hiện nay, tình trạng ô nhiễm bụi ở hầu hết các khu công nghiệp đã trở
thành phổ biến. Chất lượng môi trường không khí, nhất là ở các khu công
nghiệp cũ, công nghệ sản xuất lạc hậu và các khu công nghiệp chưa có hệ thống
xử lý khí thải đã và đang suy giảm nghiêm trọng. Hàm lượng bụi lơ lửng trong
không khí ở các khu công nghiệp đều vượt QCVN(7). Đặc biệt là ở khu công
nghiệp Hòa Khánh (Đà Nẵng): nồng độ khí CO vượt từ 67 đến 100 lần QCVN;
nồng độ khí NO2 vượt từ 2 đến 6 lần QCVN và nồng độ chì (Pb) vượt từ 40 đến
65,5 lần QCVN(8).

- Theo đánh giá của chương trình môi trường của Liên Hiệp Quốc, ở hầu
hết các khu công nghiệp và đô thị Việt Nam, môi trường không khí đều bị ô
nhiễm nồng độ bụi vượt trên chuẩn cho phép từ 1,3 đến 3 lần; thậm chí ở một số
khu công nghiệp và đô thị nồng độ bụi vượt tiêu chuẩn cho phép từ 10 lần đến
20 lần. Trong đó, các cơ sở sản xuất xi măng, cơ khí, luyện kim, hóa chất, phân
bón, nhiệt điện, vật liệu xây dựng… có mức độ gây ô nhiễm nặng nề (Ngân
hàng thế giới, 2008). Kết quả điều tra của Viện Nghiên Cứu quản lý kinh tế
trung ương năm 2008 trên 275 doanh nghiệp (các ngành vật liệu xây dựng, hóa
chất, luyện kim, cơ khí) cho thấy: 23% cơ sở sản xuất này có nồng độ khí thải
độc hại vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1,5 đến 50 lần.

Như vậy, mức độ ô nhiễm không khí ở hầu hết các khu công nghiệp
trong nước (nhất là nồng độ bụi, khí NO2, CO và SO2) đều vượt mức tiêu chuẩn
cho phép; thậm chí một số khu công nghiệp vượt rất nhiều lần. Điều này gây

7
Xem: Báo cáo môi trường Quốc Gia 2009 – Môi trườn khu công nghiệp Viêt Nam.
8
Nguồn: Sở TN&MT Đà Nẵng, 2009.
Page 8 of 20
hậu quả nghiêm trọng tới sức khỏe của người lao động tại các khu công nghiệp
và người dân sống trong vùng; đồng thời làm suy giảm môi trường.

1.2.3 Ô nhiễm môi trường từ chất thải rắn công nghiệp

Hoạt động công nghiệp ở Việt Nam đã và đang thải ra một lượng ngày
càng lớn các chất thải rắn, trong đó chất thải rắn độc hại chiếm khoảng 20%.

Báo cáo môi trường Quốc gia năm 2009 cho thấy: Tổng lượng chất thải
rắn trung bình của cả nước đã tăng từ 25nghìn tấn/ngày (năm 1999) lên tới
30nghìn tấn/ngày (năm 2005). Trong những năm gần đây, lượng chất thải rắn
công nghiệp tăng nhanh (từ 1triệu tấn/năm vào năm 2005 lên gần 2.500.000
tấn/năm vào năm 2008). Trong đó, lượng chất thải rắn độc hại cũng tăng khá
cao (từ 200.000 tấn/năm vào năm 2005 tăng lên 500.000 tấn/năm 2008).

Lượng chất thải rắn từ hoạt động công nghiệp tăng nhanh phần lớn tập
trung ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, đặc biệt là ở vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam. Chất thải rắn từ các khu công nghiệp ở vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam chiếm tỉ trọng lớn nhất so với các vùng khác (3.000 tấn/ngày). Đồng thời,
lượng chất thải rắn độc hại ở đây cũng chiếm tỉ trọng lớn nhất: nhiều gấp 3 lần
lượng chất thải rắn độc hại ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và gấp 20 lần
lượng chất thải rắn độc hại ở vùng kinh tế trọng điểm miền Trung (Bảng 3).

Bảng 3. Khối lượng chất thải rắn từ các khu công nghiệp phía Nam
năm 2008.

Khối lượng chất thải rắn công


TT Tỉnh/Thành phố
nghiệp
Không nguy hại(tấn/ngày)
Nguy hại

1 Đồng Nai 329 55

2 Bình Dương 155 41

Page 9 of 20
3 TP. Hồ Chí Minh 1.618 191

4 Long An 102 26

5 Bình Phước 45 11

6 Bà Rịa – Vũng Tàu 288 72

7 Tây Ninh 5 1

8 Tiền Giang 26 6

9 11 tỉnh ĐBSCL (không kể Long An 371 93


vàTổng
Tiền cộng:
Giang) 2.939 496
(Nguồn: Báo cáo môi trường quốc gia 2009 – Môi trường khu công nghiệp Việt Nam)

Tại Bắc Ninh, lượng chất thải rắn công nghiệp có khoảng 450tấn/ngày,
trong đó, chất thải độc hại khoảng 48 tấn/ngày (chiểm 10,7%), nhưng hầu hết
các khu công nghiệp ở đây đều không có khu vực thu gom và xử lí chất thải rắn
tập trung.

Ở Hà Nội, tổng lượng chất thải rắn do Công ty Môi trường đô thị
URENCO thu gom trong 1 tháng (năm 2009) là 2.700 tấn/tháng, trong đó lượng
chất thải độc hại từ hoạt động sản xuất công nghiệp (dầu thải, bùn thải, dung
môi, dung dịch tẩy rửa, bao bì hóa chất, pin, ắc quy…) là 2.100 tấn/tháng. Điều
đó chứng tỏ tỉ lệ chất thải độc hại phát sinh từ sản xuất công nghiệp là rất cao.

Như vậy, lượng chất thải rắn công nghiệp ở nước ta là rất lớn và ngày
càng tăng lên; trong đó lượng chất thải độc hại chiến một tỷ lệ không nhỏ và
ngày càng tăng lên. Trong khi đó, hầu hết các khu công nghiệp chưa có khu tập
trung thu gom và xử lý chất thải rắn (Một số khu công nghiệp đã thu gom và xử
lý chất thải rắn, nhưng do công nghệ không phù thuộc nên xử lý hiệu quả không
cao).

Page 10 of 20
Hiện nay, việc thu gom và xử lý chất thải rắn công nghiệp là vấn đề nan
giải. Bởi lẽ, thứ nhất, đa số các khu công nghiệp chưa có khu tập trung thu gom,
phân loại chất thải rắn. Thành phố Hồ Chí Minh mới chỉ có khu chế xuất Tân
Thuận, KCN. Linh Trung 1 và 2, KCN.Tân Bình đã hoàn thành hạng mục xây
dựng khu vực phân loại và trung chuyển chất thải rắn; KCN.Vĩnh Lộc và Hiệp
Phước đang xây dựng trạm trung chuyển; tất cả các KCN còn lại đều chưa triển
khai thực hiện. (Nguồn: BQL. Các khu KCX và KCN Tp. Hồ Chí Minh, 2009).
Tại miền Trung, các khu công nghiệp chưa có trung tâm xử lý chất thải độc hại
tập trung (Nguồn: TCMT, 2009). Thứ hai, các khu doanh nghiệp được cấp giấy
phép vẫn chuyển, xử lý, chất thải rắn, chất thải độc hại còn ít; mặt khác, năng
lực của các doanh nghiệp này còn nhiều hạn chế, công nghệ chưa hoàn chỉnh,
chưa phù hợp nên hiệu quả vận chuyển và xử lý chất thải rắn, nhất là chất thải
độc hại chưa cao, một số trường hợp gây ô nhiễm thứ cấp.

Vì vậy, đa số chất thải rắn công nghiệp độc hại không được xử lý, mà
được chôn xuống đất hoặc để trong kho, hoặc xả lẫn với chất thải thông thường
ra môi trường. Đặc biệt là, một số doanh nghiệp không xử lý chất thải độc hại,
mà thu gom rồi lén lút đổ xả thẳng ra môi trường tạo hậu quả rất nghiêm trọng
đối với môi trường và nhất là đối với sức khỏe của nhân dân (ví dụ: DNTN Tân
Phát Tài là đơn vị duy nhất ở tỉnh Đồng Nai được cấp giấy phép đăng ký kinh
doanh xử lý chất thải. Doanh nghiệp này đã thu gom chất thải độc hại từ các
KCN ở Đồng Nai và TP.HCM đem đổ tại Ấp 7, xã An Phước, huyện Long
Thành (27/10/2008); tháng 7/2009, doanh nghiệp này lại thuê xe chở chất thải
công nghiệp độc hại đổ lại kênh mương là ranh giới giữa TP.Biên Hòa và huyện
(9)
Vĩnh Cửu tỉnh Đồng Nai . Điển hình là vụ xâm hại môi trường của Hyndai
Vinashin; năm 2008 doanh nghiệp này đã thải ra môi trường 705,9 tấn rác thải
độc hại (trong đó có 196,6tấn dầu thải và 509,2 tấn giẻ lau dầu thải) và gần 200
tấn chất thải từ 4 sửa chữa tàu biển, trong đó có 60 tấn chất thải độc hại được

9
Nguồn: cục quản lý tài nguyên nước,http://dwrm.gov.vn, ngày 17/7/2009; Người lao động, ngày 19/6/2009.
Page 11 of 20
Hyndai Vinashin chôn ngay sát đình làng và trường mẫu giáo thôn Phú Thọ 3,
xã Ninh Diêm,huyện Ninh Hòa mà công an tỉnh Khánh Hòa phát hiện, ngăn
chặn(10).

I.2 Hậu quả của ô nhiễm môi trường công nghiệp

Ô nhiễm môi trường do hoạt động sản xuất, kinh doanh công nghiệp nói
chung và hoạt động của các khu công nghiệp nói riêng là rất lớn. Nó gây hậu
quả nghiêm trọng tới các hệ sinh thái tự nhiên. Đặc biệt là, nước thải, khí thải,
chất rắn công nghiệp không được xử lý, mà xả thẳng ra môi trường đã gây ra
thiệt hại lớn tới sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản ở các vùng lận cận,
tạo ra nguy cơ “sa mạc hóa nông nghiệp, nông thôn”.

Ô nhiễm môi trường công nghiệp còn là nguồn gốc phát sinh và làm gia
tăng dịch bệnh, gia tăng tỷ lệ người mặc bệnh và làm trầm trọng thêm mức độ
bệnh tật ở những người lao động tại các khu công nghiệp và cộng đồng dân cư
vùng phụ cận. Điều báo động là mức độ bệnh tật và tỷ lệ người bệnh ngày càng
gia tăng trong những năm gần đây và gây ra tổn thất lớn về kinh tế, ảnh hưởng
xấu đến sự phát triển con người.

Theo Ngân hàng thế giới, Việt Nam sẽ phải chịu tổn thất do ô nhiễm
môi trường lên tới 5,5GDP mỗi năm (như vậy, Việt Nam mất 3,9tỷ USD trong
71tỷ USD của GDP năm 2007 và khoảng 4,2 tỷ USD trong 76 tỷ USD của GDP
năm 2008). Mỗi năm Việt Nam thiệt hại 780 triệu USD trong các lĩnh vực sức
khỏe cộng đồng do ô nhiễm môi trường(11).

1.3.1 Tổn thất hệ sinh thái, làm suy giảm sản xuất nông nghiệp và nuôi
trồng thủy sản, ảnh hưởng đời sống của người lao động.

10
Nguồn: http:// www.tuanvietnam.net/v/sukiennonghomnay.
11
NguồnL Bộ Công Thương – Trang thông tin điện tử Thương mại và môi trường, 2008).
Page 12 of 20
Sông suối, hồ ao, kênh rạch là nơi tiếp nhận trực tiếp các chất ô nhiễm
trong nước thải công nghiệp. Thông thường, nước thải công nghiệp chứa các
chất hữu cơ vượt quá giới hạn cho phép sẽ gây ra hiện tượng phú dưỡng làm
giảm lượng oxy trong nước, làm cho các loại thủy sinh suy thoái chết dần chết
mòn, có một số loài bị chết hàng loạt. Đặc biệt là các chất độc tố như dầu mỡ,
kim loại, các loại hóa chất… thấm vào thức ăn của các loài sinh vật và cuối
cùng sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe con người. Mặt khác các chất độc tố sẽ tác động
trực tiếp đến con người thông qua sinh hoạt và nước uống. Dưới đây là một số
dẫn chứng tiêu biểu.

- Ở khu vực miền Bắc trên lưu vực sông Nhuệ - Đáy có 19 khu công
nghiệp. nước thải của các khu công nghiệp này không được xử lý triểt để đã làm
ô nhiễm nặng nguồn nước sông Nhuệ - Đáy, làm giảm sản lượng nuôi trồng
thủy sản và gây ra các vụ cá lồng chết hàng loạt vào những năm 2002 – 2005;
đồng thời làm giảm chất lượng nước mặt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn
cung cấp nước sinh hoạt cho dân cư trong khu vực. Cụ thể là, do nước sông Đáy
bị ô nhiễm nên gần 60.000 dân Hà Nam thiếu nước sinh họat từ năm 2001 và
tình trạng này ngày càng trầm trọng; có những đợt ô nhiễm nghiêm trọng làm
cho nhà máy nước ở Phủ Lý phải ngừng hoạt động vì nước quá nhiễm bẩn(12).

Nước thải của khu công nghiệp Phố Nối A (Hưng Yên) đã và đang làm
ô nhiễm nghiêm trọng sông Bần và sông Bắc Hưng Hải và hệ thống kênh
mương ở khu vực này; chất lượng nước ở khu vực này không đạt tiêu chuẩn B1
(QCVN 08/2008) nên không thể tưới tiêu cho nông nghiệp. ở đây, “Hàng chục
kênh nương đã biến thành dòng nước chết, bốc mùi hôi tanh khó chịu. Nước
chảy đến đâu, tôm cá chết nổi đến đó, cây trồng cũng héo rũ. Trên địa bàn Văn
Lâm, Mỹ Hào do hệ thống thủy lợi bị ô nhiễm không thẻ tưới tiêu phục vụ sản
xuất, hàng chục ha đất canh tác phải bỏ hoang”(13).

12
Nguồn: Báo cáo môi trường quốc gia 2006, Bộ TN&MT.
13
Nguồn: Diễn đàn các nhà báo môi trường Việt Nam, ngày 1/11/2009.
Page 13 of 20
- Ở khu vực miền Nam, các khu công nghiệp trên lưu vực hệ thống sông
Đồng Nai – Sài Gòn đã xảy ra lượng nước thải lớn với nồng độ ô nhiễm cao,
làm ô nhiễm tất cả các dòng sông, kênh rạch ở khu vực này và gây ta hiện tượng
các “đoạn sông chết”.

10 KCN của tỉnh Đồng Nai và Bà Rịa – Vũng Tàu mà điển hình là công
ty Vedan Việt Nam đã xả các chất thải ô nhiễm với nồng độ cao và không thể
kiểm soát được đã làm cả sông Thị Vải bị ô nhiễm nặng, đặc biệt là 12km sông
đã trở thành “đoạn sông chết”. Trong khu vực này, các loài tôm, cua, cá, thủy
sản đều chết, làm thiệt hại nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng
thủy sản, ảnh hưởng đến đời sống của hàng ngàn hộ dan ở khu vực. Theo ước
tính của các nhà khoa học, để cứu “đoạn sông chết” này và khôi phục lại như
trước phải cần đến hàng ngàn tỷ đồng và phải mất thời gian từ 10 đến 15 năm.

Vào tháng 7/2009, công ty TNHH San Miguel Pure Foods Việt Nam đã
gây ra ô nhiễm môi trường nghiêm trọng ở suối Bến Vân và sông Thị Tính
(Bình Dương). Hồ chứa nước thải của công ty bị vỡ làm cho 230.000m3 nước
thải chưa xử lý xả ra môi trường làm ô nhiễm nặng vùng đất, vùng nước ở khu
vực này. Kết quả phân tích mẫu nước thải từ hồ chứa này cho thấy nồng độ ô
nhiễm rất cao: nồng độ COD vượt tiêu chuẩn cho phép 263,8 lần, SS vượt 165,6
lần, tổng Nitơ vượt 44,6 lần, tổng phốtpho vượt 237,5 lần, theo thống kê sơ bộ
của luyện Bến Cát (Bình Dương), sự cố này làm 20ha cao su bị ảnh hưởng,
10.000m2 ao cá bị thiệt hại (cá bị chết), hàng loạt tôm cá chết nổi lên ở suối Bến
Vân và sông Thị Tính…

- Ở khu vực miền Trung, KCN Quảng Phú (Quảng Ngãi) chưa có hệ thống
nước thải tập trung, toàn bộ nước thải của KCN này đều xả trực tiếp ra môi
trường làm kênh Bầu Lăng bị ô nhiễm nặng và người dân trong khu vực đã mất
nguồn nước sinh họat.

Page 14 of 20
Như vậy, hậu quả về môi trường, về kinh tế và đời sống của người dân
do ô nhiễm môi trường công nghiệp gây ra là rất lớn. Hậu quả này có liên quan
và tác động trực tiếp đến sức khỏe của con người và cộng đồng.

1.3.2 Ô nhiễm môi trường công nghiệp làm tổn thất kinh tế, gia tăng bệnh
tật và làm suy giảm điều kiện phát triển con người.

- Trước hết, ô nhiễm môi trường công nghiệp làm gia tăng số lượng
người mắc các bệnh nghề nghiệp. Trong giai đoạn 1976 – 1990 ở Việt Nam chỉ
có 5.497 trường hợp mắc bệnh nghề nghiệp, nhưng đến năm 2004 con số này đã
tăng gấp 3 lần (21.597 người). Dự báo số người mắc bệnh nghề nghiệp đến
2010 là trên 30 ngàn. Số tiền phải chi trợ cấp bệnh nghề nghiệp giai đoạn 2000
– 2004 là hơn 50 tỷ đồng(14).

Ô nhiễm môi trường công nghiệp không chỉ làm tăng bệnh nghề nghiệp
và chi phí trợ cấp bệnh nghề nghiệp, mà còn làm tổn hại đến sức khỏe của
người dân sống gần khu vực công nghiệp. Điều này đã gây tổn thất kinh tế
không nhỏ cho việc khám, chữa bệnh và các thiệt hại về thu nhập do bị bệnh.
Kết quả điều tra ở phường Thọ Sơn, TP. Việt Trì (nơi người dân chịu tác động ô
nhiễm môi trường công nghiệp) và phường Gia Cầm, TP. Việt Trì (nơi người
dân không chịu tác động của ô nhiễm môi trường công nghiệp) cho thấy: thiệt
hại kinh tế trung bình của mỗi người dân trong một năm ở nơi chịu tác động ô
nhiễm môi trường công nghiệp cai gấp 3,5 lần so với nơi người dân không chịu
tác động ô nhiễm môi trường công nghiệp (Xem: Bảng 4).

Bảng 4: Thiệt hại kinh tế do bệnh tật tại phường Thọ Sơn và
phường Gia Cầm (TP. Việt Trì, Phú Thọ)

14
Nguồn: Nguyễn Khắc Hải, Viện y học lao động và vệ sinh môi trường. Ô nhiễm môi trường công nghiệp và
sức khỏe cộng đồng, 2005.
Page 15 of 20
TT Các chi phí Thọ Sơn Gia Cầm
(n=4813) (n=3.967)

1 Chi cho khám, chữa bệnh – Điều trị 200.151.000 64.295.000


bệnh nhân (đồng)

2 Tiền thuốc (đồng) 728.330.000 93.202.000

3 Đi lại của bệnh nhân (đồng) 93.256.000 48.820.000

4 Chi phí khác (đồng) 123.780.000 34.155.000

5 Chi của người nhà bệnh nhân (đồng) 44.900.000 26.920.000

6 Chi trung bình (đồng/người/năm) 247.000 65.640

7 Thiệt hại về thu nhập – Tiền bệnh nhân 599.387.000 58.588.000


giảm thu nhập do phải nghỉ việc (đồng)

8 Tiền người nhà giảm thu nhập do phải 245.659.000 78.588.000


nghỉ việc (đồng)

9 Tiền giảm thu nhập (đồng/người/năm) 175.000 34.600

Tổng cộng: 422.000 100.200

Chú thích: Phương pháp phỏng vấn trực tiếp, tính tổng chi phí và tính thiệt
hại bằng cách chia trung bình cho tổng số người được phỏng vấn tại mỗi giường.

(Nguồn: Chương trình điều tra, đánh giá tác động sức khỏe môi trường
TP. Việt Trì (Phú Thọ), Cục bảo vệ môi trường, 2007).

Page 16 of 20
Như vậy, ô nhiễm môi trường trong công nghiệp, nhất là ô nhiễm nguồn
nước, đất là một trong những nguyên nhân quan trọng làm phát sinh và gia tăng
các bệnh tật lây nhiễm (tiêu chảy, lao, sốt xuất huyết, sốt rét, giun sán, ARI, các
tai biến sản khoa…), suy dinh dưỡng và các loại bệnh không lây nhiễm (bệnh
khối u, bệnh nội tiết, bệnh tim mạch, hen, bệnh tiêu hóa, xơ gan, bệnh thận…)
(Nguồn: Chương trình điều tra, đánh giá tác động sức khỏe môi trường tại TP.
Việt Trì (Phú Thọ), Cục Bảo vệ môi trường, 2007).

- Thứ 2, ô nhiễm môi trường công nghiệp, nhất là ô nhiễm không khí do
khí thải công nghiệp xả ra là một trong những nguyên nhân phát sinh bệnh tật
và làm gia tăng bệnh tật.

Có thể nói, tình trạng ô nhiễm không khí ở các khu công nghiệp trên cả
nước khá trầm trọng và đang ở mức báo động. Phần lớn các nhà máy, xí nghiệp
trong các khu công nghiệp chưa có hệ thống xử lí ô nhiễm không khí hoặc có
nhưng hoạt động không hiệu quả; trong khi đó nền công nghiệp của chúng ta
còn mang tính sản xuất nhỏ, công cụ máy móc và công nghệ lạc hậu… nên đã
thải vào môi trường một lượng lớn bụi và các khí độc hại làm tổn hại sức khỏe
của không chỉ những người lao động trực tiếp trong các khu công nghiệp mà
còn làm phát sinh và gia tăng bệnh tật của dân cư cả một khu vực rộng lớn.

Ô nhiễm không khí ở các khu công nghiệp đã tác động trực tiếp đến
đường hô hấp, gây ra các bệnh về phổi, hen suyễn, viêm phế quản, tim mạch,
làm tăng nhanh quá trình lão hóa và giảm tuổi thọ con người. Theo số liệu năm
2004 của cục y tế Dự phòng và môi trường, trong 5 nhóm bệnh nghề nghiệp
được giám định, nhóm bệnh bụi phổi và phế quản chiếm 76,71% (cao nhất),
nhóm bệnh do các yếu tố vật lí là 16,94%, bệnh nhiễm độc nghề nghiệp 4,08%,
bệnh ngoài da nghề nghiệp 1,35% và bệnh nhiễm khuẩn nghề nghiệp 0,93%
(nguồn: Cục y tế Dự phòng và Môi trường, 2004).

Page 17 of 20
Theo nghiên cứu tại KCN Thượng Đình (Hà Nội), dân cư vùng ô nhiễm
không khí cực đại (phường Thượng Đình và Khương Đình), tỷ lệ người lớn mắc
triệu chứng hô hấp cap gấp từ 6,3 đến 9,1 lần; tỷ lệ trẻ em mắc triệu chứng hô
hấp cap gấp 4,9-5,5 lần; tỷ lệ dân cư mắc rối loạn thông khí phổi cao gấp 17,7-
30,8 lần (trong đó có đến 57,1-64,7% là rối loạn thông khí tắc nghẽn); tỷ lệ mắc
các triệu chứng bệnh về mắt, mũi, da, rối loạn thần kinh thực vật… cao gấp hơn
9 lần so với vùng đối chứng là xã Định Công, huyện Thanh Trì, Hà Nội (nguồn:
Nghiên cứu vùng ô nhiễm không khí cực đại và tác động của nó tới sức khỏe,
bệnh tật của dân cư trong vùng tiếp giáp KCN Thượng Đình, Hà Nội. Chu Văn
Thăng, 2005).

Khí thải công nghiệp của cụm công nghiệp Quán Toan (Hải Phòng)
trong 2 ngày 27-28/10/2009 đã làm cho 72 học sinh và 1 giáo viên (trường
THCS Quán Toan, Hồng Bàng, Hải Phòng) phải nhập viện trong tình trạng hôn
mê, tức ngực khó thở vì hít phải khí độc (Nguồn: Báo Đất Việt, ngày
29/10/2009).

Tóm lại, ô nhiễm môi trường công nghiệp, nhất là môi trường nước, đất,
không khí do các chất thải độc hại từ nước thải công nghiệp, khí thải công
nghiệp và chất thải rắn công nghiệp gây ra là rất lớn và có xu hướng ngày càng
tăng lên. Tình trạng này đã và đang tác động gây hậu quả rất xấu đến mọi lĩnh
vực của xã hội. Đặc biệt là, làm thiệt hại lớn về kinh tế, làm ô nhiễm và giảm
diện tích sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản; làm giảm và ô nhiễm nguồn
nước ngọt cung cấp cho sản xuất và tiêu dùng; gây ra và làm gia tăng bệnh tật
của con người (nhất là người lao động trong các KCN và vùng phụ cận). Có thể
nói ô nhiễm môi trường công nghiệp là “thủ phạm” chính gây các loại bệnh dịch
cho con người và làm suy giảm môi trường phát triển lành mạnh của con người.

1.4 Nguyên nhân chủ yếu của ô nhiễm môi trường công nghiệp:

Page 18 of 20
Một là, hệ thốn luật pháp và chính sách về bảo vệ môi trường, nhất là
môi trường công nghiệp chưa đầy đủ, còn nhiều kẽ hở. Vì vậy, nhiều doanh
nghiệp và các nhân cố tình lách luật, xâm hại môi trường để thu lợi. Hơn nữa,
mức xử phạt về vi phạm xâm hại môi trường quá thấp, không đủ sức răn đe
(trước đây, khung hình phạt được quy định từ 100.000 đến 70.000.000 đồng, từ
tháng 3/2008 được điều chỉnh lên trên 500.000 đồng nhưng đến nay vẫn chưa có
hướng dẫn thực hiện, theo chúng tôi vẫn còn quá thấp). Vì vậy, các doanh
nghiệp sẵn sàng vi phạm và bỏ ra tiền nộp phạt bởi số tiền nộp phạt nhỏ hơn
nhiều lần so với số tiền họ thu được do vi phạm môi trường.

Hai là, sự yếu kém của các cơ quan quản lí, bảo vệ môi trường và các cơ
quan chức năng thực thi pháp luật về môi trường đã góp phần làm tăng thêm các
vụ xâm hại môi trường.

Theo thống kê mới nhất về tình hình tội phạm của tổng cục cảnh sát
chống tội phạm (Bộ công an), đã phát hiện hơn 3.000 vụ việc, tội phạm vi phạm
pháp luật về môi trường (tăng 275% s0 với cùng kì năm trước). Theo đó, có
1/034 doanh nghiệp, 2096 cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường. Tuy nhiên, mới chỉ có 62 vụ đã bị khởi tố với 106 bị can.

Sự “lơ là”, chậm trễ và thiếu kiên quyết xử lý các vụ xâm hại môi trường
dẫn đến những hậu quả tai hại, làm xuất hiện tình trạng “nhờn luật” đi đến coi
thường pháp luật. Có thể nói “62 vụ việc đã bị khởi tố với con số 3.000 vụ việc
đã bị phát hiện lại tiềm ẩn mốt số mối lo khác. Đó là sự thiếu kiên quyết của
pháp luật đối với loại tội phạm vô cùng nguy hiểm này. Nó khiến người ta liên
tưởng tới vụ Vedan, một vụ vi phạm pháp luật về môi trường điển hình đã bị
phát hiện quả tang nhưng chỉ bị xử lý hành chính. Hai năm qua, những người cố
tình vi phạm pháp luật đó không chỉ nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, mà còn

Page 19 of 20
mặc sức kỳ kèo trả giá với những người nông dân đáng thương về số tiền bồi
thường”(15).

Ba là, trong hệ thống sản xuất công nghiệp ở Việt Nam còn một bộ phận
không nhỏ các nhà máy, cơ sở công nghiệp cũ (ở TP. Hồ Chí Minh, Biên Hòa,
Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng, Thái Nguyên, Việt Trì…), có máy móc thiết bị
và công nghệ lạc hậu, sản xuất tiêu tốn rất nhiều nguyên liệu và năng lượng, gây
ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Ở các khu công nghiệp mới có có máy móc
thiết bủntung bình và tương đối hiện đại, song chưa đầu tư đúng mức cho hệ
thống xử lí nước thải, chất thải rắn, tiếng ồn… nên phần lớn vẫn xả thải trực tiếp
ra môi trường.

Bốn là, quy mô phát triển công nghiệp ngày càng rộng lớn, tốc độ phát
triển công nghiệp ngày càng nhanh làm cho các cơ quan và đội ngũ cán bộ quản
lí công nghiệp, nhất là quản lí môi trường “theo không kịp”. Có thể nói, chúng ta
chưa chuẩn bị, chưa đào tạo đủ một đội ngũ cán bộ có đủ tâm và đủ tầm để thực
thi nghĩa vụ quản lí và bảo vệ môi trường công nghiệp.

Năm là, một bộ phận các nhà doanh nghiệp do “hám lợi” nên trong hoạt
động sản xuất kinh doanh đã bất chấp cả luật pháp, bất chấp môi trường; một bộ
phận khác thì thiếu kiến thức về môi trường. Trong khi đó, đa số người lao động
ở các khu công nghiệp có trình độ học vấn thấp, thiếu ý thức bảo vệ môi trường.

15
. Lê Huy. Pháp luật và môi trường. Báo Đát Việt, ngày 16/7/2010.
Page 20 of 20

You might also like