Professional Documents
Culture Documents
BL
OGSPOT.COM
Thơ Haiku
Thơ Haiku là gì ?
Haiku âm theo lối chữ Kanji ( gốc chữ Nho) là bài cú , có nghĩa là
câu nói để trình bày . Chữ "hai" nghĩa là "bài" , trong tiếng Hán Việt có
nghĩa "phường tuồng" , chữ "ku" là "cú" hay "câu". Haiku là loại thơ độc
đáo , rất thịnh hành của Nhật Bản và là loại thơ ngắn nhất trên thế giới.
Một bài Haiku Nhật luôn tuân thủ hai nguyên lý tối thiểu, đó là Mùa
và Tính Tương Quan Hai Hình Ảnh.Trong thơ bắt buộc phải có “Kigo” (quý
ngữ) nghĩa là từ miêu tả mùa ( không dùng từ xuân, hạ, thu, đông nhưng
dùng các từ như hoa anh đào, cành khô, lá vàng ,tuyết trắng ... để chỉ các
mùa), và diễn tả một hình ảnh lớn (vũ trụ) tương xứng với một hình ảnh
nhỏ (đời thường).
Ðọc thơ Haiku, ta cảm được vị trí đứng ở ngoài sự kiện của tác giả.
Tác giả dường như chỉ chia sẻ với người đọc một sự kiện đã quan sát
được.
Nhưng người đọc vẫn có thể nghiệm được tình cảm của tác giả,
một tình cảm nhè nhẹ, bàng bạc trong cả bài thơ, nói lên niềm vui sống
hay sự cô đơn, đôi khi cũng nêu ra điểm tác giả thắc mắc về cuộc đời của
con người: ngắn ngủi, phù du, trước sự vĩnh hằng của thiên nhiên.
Thơ có xu hướng gợi ý hay ám chỉ bóng gió nhẹ nhàng. Thông
thường trong thơ đưa ra hai hình ảnh : một hình ảnh trừu tượng sống
động và linh hoạt, một hình ảnh cụ thể ghi dấu thời gian và nơi chốn.
Nhà thơ không giải thích hay luận về sự liên kết giữa hai hình ảnh
nầy, chỉ diễn tả sự vật theo bản chất tự nhiên của nó . Người làm thơ phải
tự đặt mình như một đứa trẻ lúc nào cũng có cảm giác bỡ ngỡ , lạ lùng khi
tiếp xúc lần đầu tiên với ngoại giới . Một bài thơ Haiku hay là làm sống lại
những gì đã chôn sâu trong ký ức và đưa ra những cảm giác sâu sắc, tế
nhị, để tự nó khơi lại trí tưởng tượng và mơ ước của người đọc để người
đọc tự suy diễn , cảm nhận .
Thơ như một bài kệ, sàn lọc từng chữ, không dư mà cũng không
thiếu, cốt sao nói đến chính cái đang là - "đương hạ tức thị". Nắm bắt thực
tại ngay trong giây phút nẩy mầm, cái đang xảy ra lắm khi chuyên chở cả
một vũ trụ thu gọn vào trong thời điểm đó, tiểu thế giới và đại thế giới
hòa nhập vào nhau. Một diễn tiến trước mắt khiến ta liên tưởng đến một
hiện tượng hay biến cố nào đó trong một kinh nghiệm sống của riêng
mình . Kỷ xảo của thơ Haiku là giản lược tối đa chữ nghĩa trong thơ để vận
dụng trí tưởng tượng nơi người đọc . Không có người làm thơ và kẻ đọc
thơ, cả hai nhập làm một, đồng âm cộng hưởng trong niềm rung cảm với
sự liên hệ rất tinh tế và hài hòa của đất trời.
Fu ru i ke ya Trong ao xưa
Ka e ru to bi ko mu Con ếch nhảy vào
Mi zu no o to Tiếng nước khua
Chỉ vài chữ : một ao nước, một con ếch nhảy , một tiếng nước khua
động cũng diễn tả đầy đủ cảnh vật , không dông dài , nhưng luôn luôn đủ
ý .Như vậy Haiku là một loại thơ thiền , một cách tập nhìn sự vật đơn giản
, thuần khiết . Ðây là một quan hệ biện chứng giữa tĩnh và động như một
công án, một tiếng chuông chiêu mộ thức tỉnh ngộ tính con người.
Thi nhân ghi lại những bức xúc của mình đối với sự biến chuyển
trong khoảnh khắc của thiên nhiên đang xảy ra trước mặt. Vạn vật thì
thường trôi nổi lững lờ đối với kẻ vô tình mà thật ra đang nói muôn triệu
điều trong từng mỗi khắc giây. Người không thấy, người không nghe vì
người không chịu nhìn, chịu nghe hay người không biết đấy thôi.
Haiku là một nghệ thuật tổng hợp tinh tế tuyệt vời giữa Phật giáo
và Lão Giáo trong thế giới Thiền thi, giữa cụ thể và trừu tượng, giữa ẩn dụ
và phân tích, giữa thiên nhiên vũ trụ và nội tâm con người . Vạn vật và vũ
trụ đều có nguồn gốc từ Đạo, theo sự sinh hóa vô thường và kiếp người
cũng chỉ là phù sinh hư ảo . Điều nói ra được thì hữu hạn, mà ý lại vô
hạn . Ðiều mà thơ muốn mọi người lãnh hội chẳng phải là điều có thể nói
được mà là những điều mà thơ chưa nói ra . Cái tiểu vương quốc của
những con chữ gò bó chải chuốt bỗng vươn mình ảo hóa trở thành một vũ
trụ siêu hình .Trong thơ Haiku có sự dung hợp giữa Thiền và Thơ, vì thơ
biểu lộ tình cảm và thơ có thể tải đạo . Thơ Haiku đi từ một sự vật cụ thể
thật nhỏ nhoi tầm thường để dẫn dắt người đọc đi vào cõi mênh mông bát
ngát không hình tượng , như một thiền sư đã nói : "Gom góp tất cả lời nói
để hoàn thành một câu, vò cả đại thiên thế giới thành một hạt bụi" . Nhà
thơ William Blake cũng có nói : “Cả vũ trụ trong một hạt cát (a world in a
grain of sand)”.
"Từ trong hạt bụi ngu ngơ ấy
Mưa nắng vô thường sây sát nhau ."
Ðể cuối cùng người thơ đốn ngộ được :
"Từ trong hạt cát hằng sa đó
Vũ trụ Chân Như sáng nhiệm mầu ."
Mẹ yêu ơi !
mỗi khi nhìn thấy biển
khi thấy biển khơi.
Issa
Matsuo Bashō (松 尾 笆 焦 Tùng Vĩ Ba Tiêu, 1644-1694), thiền sư thi sĩ lỗi lạc của thời Edo (江戶)
Nhật Bản, tên thật là Matsuo Munefusa, là con trai út thứ bảy của một samurai cấp thấp phục vụ cho
lãnh chúa thành Ueno, một ngôi thành nằm giữa con đường đi từ Kyoto đến Ise. Basho được thừa nhận
là người phát triển những câu đầu (発句, phát cú) của thể renga (連歌, liên ca) có tính hài hước gọi là
Renga no Haikai thành một thể thơ độc lập mang âm hưởng sâu thẳm của Thiền đạo. Masaoka Shiki
(1867-1902) hoàn thiện sự tách biệt này thêm nữa và chuyển sang gọi nó là thể haiku (俳句, bài cú hay
hài cú).
Mục lục
Bashō sinh ra trong gia đình samurai cấp thấp có tên Matsuo Kinsaku trong thời Tokugawa (1603-
1868). Năm mới được 9 tuổi, ông vào lâu đài Ueno làm tùy tùng cho một lãnh chúa và trở thành bạn
thân thiết với con trai vị lãnh chúa này, một người chỉ lớn hơn ông vài tuổi tên là Yoshitada. Hai người
đã cùng nhau vui chơi, học tập và làm thơ. Cũng trong những năm đó, sự phát lộ năng khiếu thơ của ông
đã được nhà thơ và nhà phê bình xuất sắc đương thời Kitamura Kigin phát hiện. Ông bắt đầu được
Kitamura Kigin rèn tập, và có bài thơ đầu tay năm ông mới 18 tuổi được nhiều người biết đến.
Khi người bạn Yoshitada lâm bạo bệnh mất vào năm 24 tuổi, Bashō lên núi Koya đặt một nạm tóc của
bạn vào chùa và quyết định rời bỏ lâu đài Ueno mặc dù không được phép của lãnh chúa. Năm 1666, ông
đến Kyotō và sống ở đây 5 năm, tiếp tục đọc văn học Nhật Bản cổ đại, nghiên cứu văn học Trung Quốc
và cả thư pháp.
Mùa xuân năm 1672, sau một thời gian về quê chừng vài tháng, ông dời lên sống ở Edo. Trong những
năm này, ông đã thử làm nhiều nghề khác nhau nhưng dần cảm thấy mình chỉ hợp với văn đạo, ông bắt
đầu mở lớp dạy thơ haikai (俳諧, bài hài), một thể loại thơ còn được gọi là haikai no renga(俳諧の連
歌, bài hài chi liên ca), là những bài thơ dài thiên về trào lộng, nhẹ nhàng và phóng túng, vốn rất thịnh
hành trong thời Tokugawa. Năm 1675, Bashō xướng họa cùng thi sĩ Nishiyama Soin (1605-1682), chủ
soái của trường phái Danrin (談林, Đàm Lâm), một trong hai trường phái haikai nổi tiếng đương thời
(trường phái Teimon (貞門, Trinh Môn) của Matsunaga Teitoku (1571-1653) và trường phái Danrin).
Tư tưởng thơ haikai của Nishiyama Soin, đứng trên mọi sự dung tục và tầm thường, vượt thoát ra ngoài
khuôn khổ của một thể loại thơ giải trí thế tục đơn thuần vốn đang thịnh hành toàn quốc với trường phái
Teimon, đã ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng và sáng tác của Bashō về sau.
Bashō-an, bút hiệu Bashō và phong cách Shōfu
Mùa xuân năm 1679 Matsuo Bashō được phong tước hiệu Sosho (bậc thầy dạy thơ Haikai). Năm sau
ông dời đến một túp lều bên sông Sumida và ở đây, có đệ tử mang tặng cây ba tiêu (cây chuối), một
giống cây đương thời chỉ có ở Trung Hoa. Ngay tức thì, nhà thơ say mê nó và đem trồng trong sân nhà.
Khách đến thăm gọi nhà ông là "ba tiêu am" (芭蕉庵, Basho-an). Cũng trong những năm này, ông tu tập
thiền đạo với một thiền sư tại một ngôi chùa địa phương.
Năm 1682 Bashō am bị cháy, ông dời về Koshu và từ đó lấy bút hiệu là Bashō (芭蕉, Ba Tiêu). Năm
sau ông trở lại Edo và dựng lại "ba tiêu am". Bắt đầu từ đây, định mệnh thơ haikai rơi vào tay của
Bashō: ông đã sáng tạo ra một phong cách mới là Shōfu (蕉風, Tiêu Phong, ẩn ý về đời người nghệ sĩ
như những tàu lá ba tiêu bị xé tan trong gió những đêm giông bão), một phong cách dung hợp giữa sự
trào lộng đời thường của haikai đương thời với yếu tố cao nhã tâm linh của thể thơ renga (liên ca) cổ
điển. Ông cũng dần hoàn thiện một loại thơ ngắn 17 âm tiết trong 3 câu 5+7+5 từ những câu đầu
(hokku) của thể thơ renga và thể thơ cực ngắn ấy về sau được mọi người biết đến với cái tên đã trở thành
bất hủ haiku.
Du hành bờ Tây
Mặc dù danh tiếng ngày càng rực rỡ, những nghi vấn về bản thể, tâm linh, thiền tông và nghệ thuật
không ngớt thúc bách Bashō tìm con đường cho chính mình để đạt được đại ngộ (satori). Mùa thu năm
1684, ông từ bỏ cuộc sống yên ổn ở am ba tiêu và bắt đầu làm một lữ nhân (旅人, tabibito) của cõi phù
thế. Theo con đường ven biển về hướng Tây, ông lang thang thăm lại cố hương Ueno rồi đi Nagoya. Ở
đó, ông cầm đầu một nhóm thi sĩ soạn nên 5 tập renga xuất sắc mang tên Đông nhật (Fuyu no hi). Đến
mùa hạ năm sau, Basho mới trở về Edo sau khi thăm viếng nhiều nơi. Chuyến đi lớn đầu tiên này được
ông ghi lại trong kỷ hành (kikō, một dạng nhật ký hành trình) mang tên Nhật ký phơi thân đồng nội
(Nozarashi kiko, Dã sái kỷ hành, 1685).
Hai năm sau, Bashō tạo nên chấn động trong văn chương bằng bài thơ về bước nhảy bất ngờ của con ếch
mà tiếng động của nó khi chạm mặt nước ao cũ vang trong thinh lặng của đêm đen như khoảnh khắc đạt
đốn ngộ của thiền sư, đăng trong hợp tuyển của thơ ông và đồ đệ mang tên Xuân nhật (Haru no hi) (xin
xem thêm haiku).
Chuyến đi kế tiếp của Bashō hướng về Kashima được Bashō mô tả trong Kỷ hành Kashima (Kashima
kikō, 1687). Đây là chuyến đi mà đích đến của Bashō là đền Kashima thăm viếng sư phụ, thiền sư
Bucho, và thăm lại cây anh đào nổi tiếng ở Yoshino mà nhớ về người bạn yểu mệnh tại Ueno năm xưa.
Ngay sau chuyến đi Kashima, Matsuo Bashō lại khăn gói hành hương trong một năm trời từ Edo về bờ
biển Suma, từ Akashi đến thôn Sarashina để được tận hưởng mùa trăng trên đỉnh núi Obasute. Chuyến
đi này lại sinh thành hai tập nhật ký thơ ca khác là Ghi chép trên chiếc túi hành hương (Oi no kubun,
cập chi tiểu văn, 1688) và Nhật ký về thôn Sarashina (Sarashina kiko, 1688). Đây là những trang ca ngợi
thiên nhiên vô cùng nồng nàn, là lời kêu gọi say đắm "trở về với thiên nhiên". Đó là một lý tưởng mà
Bashō gọi là fuga (phong nhã), biểu hiện qua những con người lỗi lạc như Saigyo của thơ tanka, Sesshu
của tranh thủy mặc, Rikyu của trà đạo và Sogi của thơ renga.
Bắc hành
Chuyến đi dài nhất của Bashō với một người đệ tử là cuộc du hành phương Bắc đảo Honshu vào năm
ông 45 tuổi. Đây là một chuyến đi kéo dài 151 ngày đầy gian khổ, bất trắc trên con đường thiên lý đến
những vùng đất còn nguyên sơ, khởi đầu từ Edo ngày 27 tháng ba âm lịch năm 1689. Chuyến đi này đã
đưa Bashō đến hàng loạt những thị trấn mới lạ, như Nikko, Shirakawa, Sendai, Matsushina v.v. Từ đây
ông rẽ ngang đảo Honshu đến Sakata ở phía Tây trên biển Nhật Bản. Ông cũng lặn lội xuống miền
duyên hải để tới Niigata, Kanazawa, Tsuruga và tạm dừng ở Ogaki, với tổng chiều dài lên đến 2.500 cây
số. Đó là cuộc hành trình nổi tiếng nhất trong văn học Nhật Bản vì nó đã để lại cho đời sau một kiệt tác
thi ca xen lẫn những đoạn tản văn Lối lên miền Oku (Oku no hoshomichi, áo chi tế đạo). Bằng sự so
sánh ít nhiều có tính tương đối với văn chương cổ điển Việt Nam, có thể nói nếu Việt Nam tự hào có
một Nguyễn Du với Truyện Kiều thì vị thế của Matsuo Bashō và tác phẩm Lối lên miền Oku trong trái
tim người dân Nhật Bản cũng tương tự.
Tuy nhiên, nếu con đường thi ca của Lối lên miền Oku chấm dứt ở Ogaki vào mùa thu năm 1689, thì con
đường du hành của Bashō mãi đến 1691, khi nhà thơ về Edo mới kết thúc. Ông còn tiếp tục đi Kyotō, về
quê thăm nhà và cùng các bạn thơ du ngoạn hồ Biwa. Trên đường thiên lý Basho đã dừng trú tại Huyền
trú am (Genju-an) trong khu rừng bên hồ Biwa và tại đây ông viết nên bài tùy bút kỳ tuyệt mang tên Tùy
bút Huyền trú am (Genjuan no ki, 1690). Cùng với các bài thơ haiku được viết trong thời gian này của
tác giả, bài tùy bút được đưa vào thi tập Áo rơm cho khỉ (Sarumino, viên thoa, 1691), một tập thơ mang
phong cách Shofu đậm đặc. Sau đó, ông cũng qua một vài tuần ở một thảo am khác là Lạc thị xá
(Rakushisha) thuộc vùng Saga và ở đây ông soạn lên tác phẩm lớn nhất cuối cùng của đời mình là Nhật
ký Saga (Saga nikki, 1691).
Bashō trở về Edo vào năm 1691 với danh tiếng lẫy lừng, được đông đảo bạn bè, môn đệ và người ái mộ
vây quanh. Những năm sau đó ông có một vài trách nhiệm trong đời sống mà lúc này phải đảm nhận,
như trông nom một phụ nữ tên là Jutei cùng các con của nàng, chỉ vì hồi trẻ ông đã từng yêu Jutei.
Đến năm 1693, Basho quyết định đóng cửa sống trong cô tịch, không tiếp khách, và người ta nói rằng
cánh cửa nhà ông chỉ mở ra khi có một biến cố, như khi hoa triêu nhan nở bên hàng dậu. Trong thời gian
này, cuộc đời và thơ ca của ông hướng đến một lý tưởng gọi là karumi (khinh), tức sự nhẹ nhàng thanh
thoát tìm thấy ngay giữa cuộc đời ô trọc. Lý tưởng đó sau này được học trò của ông ấn hành trong thi tập
Túi đựng than (Sumida wara, 1694).
Mùa xuân năm 1694, Bashō quyết định đi thăm phương Nam mà đích đến là Osaka ở đảo Kyushu theo
lời mời thành khẩn của một đệ tử. Trên đường đi tuy đã nhuốm bệnh nhưng "mộng vẫn vây quanh cánh
đồng cỏ khô", ông trở bệnh nặng tại một lữ quán ở Ōsaka. Đệ tử của ông xin ông làm bài thơ từ thế, như
truyền thống của các thiền sư Nhật Bản, để cáo biệt cõi đời trước lúc lâm chung, ông đáp: "thơ lúc bình
sinh đã là bài từ thế rồi", và viết:
Giữa hai chiều không gian và thời gian, con người từ khi đến với cõi thế này đã phải chấp nhận sự hữu
hạn của năm tháng, do vậy mà luôn ước ao tìm đến cõi vĩnh hằng. Những chuyến du hành của Matsuo
Bashō như muốn bộc lộ khát khao phá vỡ đi sự câu thúc của chiều còn lại trong vũ trụ (thời gian) để tìm
ra cho được sự rộng mở, khai phóng không gian tồn tại của bản thể và cái đẹp. Đời ông như một lữ
khách trong thời gian, là những chuyến du hành không dứt, phản ánh qua các tập kỷ hành hay xoay
quanh các thi tập phân theo bốn mùa. Ông yêu thích các thi nhân đời Đường và nhắc đến tứ thơ của họ
trong các tác phẩm của ông. Ông chuộng Trang Tử và dựa trên nền triết học này mà đề ra thuyết "Bất
dịch và lưu hành" trong thi ca của mình: thi nhân đi tìm những giá trị vĩnh hằng trong dòng biến động
của vạn vật. Ông quan niệm tòng theo tạo hóa và quay trở về với tạo hóa, "tả thông thì học thông, tả trúc
thì học trúc" và cho rằng trong đời chỉ có hai loại thơ: thơ tự nhiên dung hợp giữa thiên nhiên và nhân
sinh còn thơ nhân tạo chỉ có kỹ thuật mà thiếu tấm lòng. Bashō đã từng bảo học thi pháp để rồi quên nó
đi, đối với ông cái tình cần hơn sự chuốt vẽ chữ nghĩa.
Tin vào sự mẫn cảm của người nghệ sĩ, Bashō khuyên nên nắm bắt ngay ánh chớp loé ra từ sự vật trước
khi nó tan biến đi trong tâm trí. Thơ cần nhẹ nhàng, đơn giản, trong sáng, gần với đời sống và thi nhân
cần "nâng tâm hồn lên thành thơ để rồi quay trở về với đời thường”. Chính điều đó đã trở thành một
trong những đặc trưng của thể thơ (haiku) do ông sáng tạo, một thể thơ mà tất cả những điều bình
thường, nhỏ nhoi trong cuộc sống như bụi cám, tôm cá, tiếng dế mèn, ngôi nhà dột, cây cột xiêu đổ, con
sâu đang gặm hạt dẻ, chiếc mũ chiến lăn lóc trên cỏ, cây chuối trong giông bão v.v. đều có thể trở thành
những đề tài hồn nhiên, dịu dàng và đầy sức sống của thơ. Có hai điều mang tính cách tân trong quan
niệm thi ca của ông: không lặp lại chính mình và không theo khuôn mẫu người. Ông tự bảo mình "phải
biết chán cái tôi của ngày hôm qua" và tự chế diễu thơ mình tựa như "lò sưởi trong mùa hạ và quạt trong
mùa đông". Ông kêu gọi đừng bắt chước theo những thành tựu của các văn hào xưa mà chỉ nên truy tìm
điều họ đã muốn đi tìm. Với tinh thần đó, dù đã có các trường phái haikai rất nổi tiếng trong thế kỷ 17
như Teimon (Trinh Môn) và Danrin (Đàm Lâm), Bashō vẫn tự lập nên một phong cách mới gọi là Shōfu
(Tiêu Phong) trong đó chứa đựng những quan niệm nghệ thuật của riêng ông. Linh hồn thơ Shōfu chính
là linh hồn của sabi (寂び, cái tịch liêu, tĩnh lặng) và karumi (軽み, nhẹ nhàng), mang âm điệu sâu thẳm
của Thiền đạo và sắc màu tươi nhuận của thiên nhiên.
Ảnh hưởng
Thiên tài của Bashō ôm choàng những hiện tượng khác nhau của đời sống, do đó đã gây nên những ảnh
hưởng sâu rộng về sau. Tương truyền, ông có đến 2000 đệ tử, và nổi danh nhất là 10 nhà thơ được gọi là
Bashō Jitetsu (Ba Tiêu thập triết), đó là Etsujin, Hokushi, Joso, Kikaku, Kyorai, Kyoroku, Ransetsu,
Shiko, Sanpu và Yaha. Các nhà thơ theo khuynh hướng lãng mạn hay hiện thực hậu sinh như Kobayashi
Issa (1763-1827), Masaoka Shiki (1867-1902) đều có thể xem Bashō là bậc thầy của mình. Nhiều người
đã hành hương theo bước đường phiêu lãng của Bashō ngày xưa.
Sang thế kỷ 20, Bashō lại càng trở thành một hình ảnh vĩ đại được tôn vinh của nền văn hóa Nhật Bản.
Một số nhà nghiên cứu xem ông là nhà thơ huyền bí tương tự Blake và Wordsworth, số khác thấy ông đi
trước chủ nghĩa tượng trưng của Pháp. Thể thơ haiku do ông hoàn thiện bằng thiên tài của mình đã trở
thành thể thơ quốc tế, được nghiên cứu rộng rãi cả trong và ngoài Nhật Bản. Nhiều nhà văn, nhà thơ lớn
của thế giới còn sáng tác thể thơ này bằng tiếng mẹ đẻ của mình, trong đó có Paul Eluard của Pháp,
Octavio Paz của Tây Ban Nha và George Seferis của Hy Lạp.
Đánh giá:
Reginald Horace Blyth (1898-1964), tại trang 6 cuốn Japanese life and Character in Senryu
(Hokuseido, Tokyo, 1960) khi nhìn nhận hiện tượng Bashō, đã viết bằng lời tôn vinh hết mực: Nước
Nhật sinh ra cùng với Bashō vào năm 1644. Ông chính là người đã sáng tạo ra linh hồn của Nhật Bản.
• Đông nhật (Fuyu no hi, 1684), 5 tập, viết chung với bạn thơ.
• Nhật ký phơi thân đồng nội (Nozarashi kiko, dã sái kỷ hành, 1685)
• Xuân nhật (Haru no hi, 1686) viết chung với đồ đệ.
• Nhật ký hành trình Kashima (Kashima kiko, 1687)
• Ghi chép trên chiếc túi hành hương (Oi no kubun, cập chi tiểu văn, 1688)
• Nhật ký về thôn Sarashina (Sarashina kiko, 1688)
• Lối lên miền Oku (Oku no hoshomichi, áo chi tế đạo, 1689)
• Áo rơm cho khỉ (Sarumino, viên thoa, 1691)
• Nhật ký Saga (Saga nikki, 1691).