Professional Documents
Culture Documents
1
Komensky qua đời vào ngày 15/11/1670, thọ 78 tuổi. Thi hài của ông chôn
cất tại vùng ngoại ô Amstecdam. Một thời gian dài ngôi mộ rơi vào lãng quên. Mãi
đến năm 1937, tức là 267 năm sau khi qua đời, chính phủ Czech mới có điều kiện
hoàn tất việc xác định phần mộ và sửa sang, xây bảo tàng, dựng tượng kỉ niệm ngay
tại thị trấn Naarden là nơi Komensky yên nghỉ trên đất Hà Lan.
1.2 Bối cảnh thời đại
Như ở trên đã đề cập, năm 1618, đất nước Czech xảy ra cuộc chiến tranh
tôn giáo giữa tín đồ Cơ đốc giáo và tín đồ đạo Tin lành. Bởi vậy, Komensky đã
chịu biết bao khổ cực, và nghèo đói. Ông đã phải tha hương cầu thực nơi xứ
người và lưu lạc tại rất nhiều quốc gia như Hà Lan, Thụy Điển, Anh, Hungri.
Komensky và những người cùng cảnh ngộ luôn hi vọng sẽ có một ngày trở lại
quê hương. Chính vì thế, họ luôn cố gắng chuẩn bị cho công cuộc xây dựng lại
Tổ quốc đã bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh. Và họ nhận thức được rằng, giáo
dục sẽ đóng vai trò thiết yếu trong việc này.
Cuộc đời của ông được miêu tả bởi sự lưu lạc, tuyệt vọng và hỗn loạn. Tuy
nhiên trong suốt thời gian lưu lạc đó, ông đã để lại cho đời hơn 200 cuốn sách và
nhiều bản thảo có giá trị. Nhờ những tác phẩm của mình mà ông đã nổi tiếng
khắp châu Âu.
+ Năm 1631, ông cho xuất bản cuốn sách giáo khoa bằng tiếng Latinh
“Ngữ pháp nhập môn”. Trong cuốn sách này, ông đã khuyến cáo rằng, các giáo
viên phải sử dụng tiếng mẹ đẻ của học sinh để dựa vào đó mà giúp cho học sinh
hiểu được những từ ngữ xa lạ. Ông còn cho rằng, giáo viên phải bắt đầu từ những
bài học đơn giản để học sinh có thể tiếp thu một cách triệt để các tri thức cơ bản
trước khi dạy nâng cao cho chúng. Trong suốt thể kỷ 17 cho đến cuối thế kỷ 18,
cuốn sách này đã trở thành sách giáo khoa tiếng Latinh chuẩn ở châu Âu và châu
Mĩ.
+ Năm 1632, ông bắt đầu viết cuốn “Lý luận dạy học vĩ đại”. Đến năm
1657, cuốn sách được xuất bản tại Hà Lan. Đây là cuốn sách nối tiếng nhất của
Komensky. Trong này, ông đã phác họa những phương pháp giáo dục phổ thông
của nguyên lý giáo dục toàn trí. Theo ông, giáo dục toàn trí là sự cần thiết cho sự
cứu rỗi linh hồn con người. Komensky đã phác họa ra phương pháp giáo dục phổ
cập, hay là những nguyên lý giáo dục cơ bản. Đây chính là công cụ hữu hiệu
nhất để trao đổi tri thức giữa giáo viên và học sinh.
Năm 1641-1646, ông sang Anh và viết cuốn “Con đường ánh sáng”. Trong
cuốn sách này, Komensky đưa ra những điểm cơ bản của ý tưởng về việc xuất
bản sách giáo khoa, tạo ra một ngôn ngữ chung và trường bách khoa. Ông tin
rằng, một ngôi trường đào tạo toàn diện sẽ góp phần thiết lập nên sự thống nhất
về tri thức và tâm linh trên toàn thế giới.
+ Năm 1658, ông viết cuốn “Thế giới qua hình ảnh”. Đây là cuốn sách
có hình minh họa đầu tiên trên thế giới. Cuốn sách này nhanh chóng trở nên nối
tiếng ở châu Âu và Mĩ. Cho tới năm 1887, cuốn sách vẫn được tái bản tại Mĩ.
Với cuốn sách này, ông đã đưa ra một phương pháp dạy học hoàn toàn mới, giúp
học sinh tri giác về những sự vật, hiện tượng trong tự nhiên. Đây cũng là cuốn
2
sách mở đường cho phương pháp giáo dục hiện đại: sử dụng công cụ minh họa
cho bài học, giúp cho học sinh có thể nhận thức vấn đề tốt hơn.
Xét về nhiều mặt, những đóng góp của Komensky cho nền giáo dục là
không thể đếm được. Theo các nhà nghiên cứu, thì ông xứng đáng được tôn là
“cha đẻ của nền giáo dục hiện đại”. Hiện nay, ở Slovakia và cộng hòa Czech,
ngày sinh của Komensky, 28/03 được lấy làm ngày Hiến chương các nhà giáo.
2.1.1.2 . Vận dụng nguyên tắc thích ứng tự nhiên trong giáo dục
Dựa vào những quy luật phổ biến của tự nhiên, Komensky đã vận dụng nó để
lý giải sự phân kỳ lứa tuổi, hệ thống nhà trường cùng một số nguyên tắc dạy học.
Ông chia cuộc đời của thế hệ trẻ đang lớn lên thành 4 thời kì lứa tuổi, cứ 6 năm 1
thời kì gồm:
- Thời thơ ấu (từ lọt lòng đến 6 tuổi): là thời kì tăng trưởng mạnh mẽ về
mặt thể chất và sự phát triển các giác quan.
- Thời niên thiếu (từ 6 tuổi đến 12 tuổi): sự phát triển trí nhớ, tưởng
tượng với những cơ quan thực hiện - ngôn ngữ và tay.
- Tuổi thanh xuân (từ 12 đến 18 tuổi): sự phát triển tư duy ở trình độ cao
hơn (hiểu và suy luận).
- Tuổi trưởng thành (từ 18 đến 24 tuổi): sự phát triển ý chí và năng lực
bảo toàn sự hài hòa.
Tương ứng với 4 lứa tuổi đó Komensky đã vạch ra 4 bậc học: trường lòng mẹ
hay còn gọi là trường mẫu giáo, trường quốc ngữ, trường latinh, và viện hàn lâm (đại
4
học). Komensky muốn rằng chỗ nào cũng có trường mẫu giáo, mỗi một làng phải có
một trường quốc ngữ, mỗi một thành phố phải có một một trường La tinh, mỗi một
nước phải có một trường đại học.
• Trong thời kì mẫu giáo, cần rèn luyện giác quan của trẻ em để chúng
nhận thức được thế giới bên ngoài. Phải chú ý đến sức khỏe của chúng, phải tạo điều
kiện cho chúng phát triển được mọi khả năng của chúng, trong các trò chơi cũng như
trong khi học vẽ, học hát.
• Ở trường quốc ngữ, phải rèn luyện trí tưởng tượng và ký ức cho học
sinh. Ở đây, người ta dạy cho trẻ em đọc, viết, vẽ, hát, làm tính, đo lường …nghĩa là
những tri thức cơ bản
• Ở trường Latinh, người ta dạy cho thiếu niên ngữ pháp, tu từ học,
biện chứng pháp, toán học, thiên văn, lý luận về âm nhạc để trau dồi trí thông minh
và óc phán đoán của họ.
• Sau cùng, trường đại học hun đúc ý chí cho thanh niên và dạy cho
họ triết học, y học, luật học, ….Trường này đào tạo những giáo sư và những người
thủ lĩnh tương lai. Ở đây người ta dùng phương pháp đi du lịch để mở rộng tầm mắt
của học sinh.
Chúng ta cũng cần tuân theo những giai đoạn phát triển tự nhiên. Trên thế giới
này, không có hốc đá hay ngọn núi nào mà ta không thể chinh phục được nếu như
những chiếc thang được đặt đúng vị trí, những bước chân đã được in dấu trên vách
đá và ta được trang bị với những rào chắn bảo vệ trong trường hợp gặp rủi ro. Nếu
chúng ta tự xem lại bản thân, ta cũng sẽ nhận ra rằng khả năng của chúng ta ngày
một hoàn thiện hơn nếu chúng ta đi đúng hướng và mở đường cho những gì sắp diễn
ra sắp tới. Ông cũng nhắc đến quy luật phổ biến của tự nhiên đã chỉ ra rằng tất cả
mọi người đều có chung những giai đoạn của sự phát triển trí tuệ. Trong giáo dục,
giáo viên cần nhận thức được những giai đoạn phát triển đó của học sinh để từ đó
tìm ra những mức độ truyền đạt kiến thức thích hợp. Thêm vào đó, bài học cũng cần
được sắp xếp từ dễ đến khó một cách từ từ và thận trọng.
5
thiết phải có vai trò của việc mở mang dân trí, để con người dần thoát khỏi tình trạng
tư duy mù quáng, sống không theo quy luật tạo hòa, hành động không theo lý trí.
Với việc tiếp nhận chủ nghĩa nhân đạo, sự yêu đời, tính lạc quan từ nên văn
hóa Phục hưng ông đã vạch ra tính bất bình đẳng của chế độ xã hội lúc bấy giờ. Có
những người quá no nê, còn những người khác thì đói khát, lao động vất vả đến kiệt
sức. Với tư tưởng “Dạy mọi điều cho tất cả mọi người” Komensky nhấn mạnh: yêu
cầu cho mọi trẻ em thuộc mọi gia đình giàu có cũng như nghèo khổ, con quý tộc
cũng như con thường dân, có danh tiếng hay không danh tiếng, ở nông thôn hay
thành thị, nam cũng như nữ đều được học trường quốc ngữ một cách bình đẳng. Có
thể nói lúc bấy giờ Komensky đã đẻ ra tư tưởng phổ cập giáo dục tiểu học.
Khác với những nhà nhân văn- nhà giáo dục của thời văn hóa Phục Hưng
Komensky đã tạo nên hệ thống giáo dục không cho tầng lớp của bọn quý tộc mà để
cho mọi tầng lớp quảng đại quần chúng trong xã hội.
Với triết lý toàn trí, ông đã đưa ra mục đích của giáo dục cũng như việc phát
triển trí thức toàn cầu chung cho tất cả mọi người bao gồm phụ nữ, và trẻ em, trên tất
cả các quốc gia. Ông cho rằng giáo dục con người như một công cuộc tìm kiếm
trong nguồn kiến thức để tạo ra những con người toàn trí như Chúa được hình thành
nên bằng sự thông hiểu vạn vật và lòng yêu thương nhân loại.
Ông đặc biệt phân biệt quyền học tập của phụ nữ và cho rằng họ có đầy đủ
khả năng như nam giới và không có lý gì lại chỉ bằng lòng cho họ học đến a, b, c mà
thôi. Ông cũng từng nói “Ví phỏng có người hỏi tôi :nếu thợ thuyền, nông dân,
người khuân vác và cả đến đàn bà nữa cũng học tập, chúng ta sẽ tới đâu? Tôi sẽ trả
lời: chúng ta sẽ đến kết quả là sự giáo dưỡng và giáo dục chung ấy, tiến hành với
những phương pháp tốt, sẽ khiễn cho mỗi người đểu đủ điều kiện để có tư tưởng
đúng và hành động đúng”.
Komensky cho rằng việc học tập bắt đầu từ gia đình và từ bố mẹ (trong đó
phải bao goomgs cả người mẹ). Nếu các bà mẹ không được giáo dục thì những đứa
con của họ cũng không được giáo dục tốt.
2.3.5 Phương pháp tích cực hóa vai trò của người học
Komensky chú ý phát triển mạnh mẽ năng lực nhận thức của học sinh, làm
bùng lên ngọn lửa khát khao tri thức, nhiệt tình say mê học tập. Theo ông để làm
được điều đó, phải kết hợp cái hứng thú với điều ích lợi, khuyến khích tính tò mò
của trẻ. “Tôi luôn luôn làm phát triển tính độc lập trong quan sát, trong ngôn ngữ,
trong thực hành, trong vận dụng ở những học sinh của tôi”, ông đã viết như vậy.
Komensky cho rằng người thầy cần luôn luôn khêu gợi cho học sinh chú ý
đến bài và mỗi khi đặt câu hỏi là phải có sự tham gia của cả lớp. Những học sinh trả
lời đúng phải được khen ngợi để khích lệ
9
việc trách phạt bằng roi vọt trong việc học tập với kết quả kém, nhưng mặt khác thì
ông vẫn giữ trong trường hợp nếu học sinh thiểu tôn sùng Chúa hoặc ương bướng.
11
Bên cạnh đó, J.A.Komensky cũng rất coi trọng việc người lớn nêu gương cho
trẻ, cho đó là cách giáo dục có tác dụng trực tiếp lớn lao: “cha mẹ, vú nuôi, thầy
giáo, người lớn…phải nêu gương cho trẻ một cuộc sống nề nếp, vì trẻ em bắt chước
trước khi hiểu biết”. Bởi vì thời kì tuổi ấu thơ là thời kì chúng làm quen tiếp xúc với
môi trường xung quanh, hình thành nhữg hình ảnh đầu tiên về thế giới. Vì thế, người
lớn phải biết tạo hoc trẻ “sự bận rộn với những việc làm nghiêm túc, hoặc vui chơi
giải trí, miễn là đừng để chúng lêu lổng”. Cần phải dạy cho chúng đức tính khiêm
tốn, sự vâng lời, sự hảo tâm đối với người khác, sự chỉnh tề, tính cẩn thận, tính lịch
thiệp, sự tôn trọng người lớn tuổi, tính cần cù. HÃy khuyên bảo, trò chuyện với con
cái bằng những hành vi đạo đức, đaqcj biệt là khi giáo dục long dũng cảm, chống lại
sự bê tha lười biếng , sự thiếu suy nghĩ chin chắn, tính vô kỉ luật. Đó là nên tảng cơ
bản giúp trẻ hình thành nhân cách và phát triển một cách toàn diện.
III. Ảnh hưởng của các tư tưởng GD của Komensky tới GD Việt Nam hiện nay
12
Komensky là nhà giáo dục học cận đại có ảnh hưởng to lớn đối với sự nghiệp
giáo dục và đào tạo của rất nhiều quốc gia trên thế giới. Những tư tưởng, nguyên tắc
và quy tắc tổ chức công tác dạy học của ông đã được các nhà giáo dục học Việt Nam
ứng dụng và phát huy, đạt được những hiệu quả to lớn và bên cạnh đó cũng có
những hạn chế nhất định.
3.1. Những hiệu quả đạt được
- Trước hết, bàn về phương pháp dạy học giáo dục Việt Nam cũng áp
dụng những nguyên tắc trực quan làm nguyên tắc vàng ngọc của lý luận dạy học.
Hệ thống trường lớp được đầu tư các trang thiết bị học tập như sơ đồ, bảng biểu,
tranh ảnh, các phòng thí nghiệm giúp học sinh trực tiếp hình dung, trực quan bằng
các giác quan nhằm tiếp thu tri thức nhanh hơn và sâu hơn. Thông qua việc quan sát
những hình ảnh minh họa, thực hiện thí nghiệm vật lý, hóa học cơ bản, học sinh tự
đúc rút kinh nghiệm biến bài học thành kinh nghiệm bản thân, “học đi đôi với hành”,
“trăm nghe không bằng một thấy”.
- Áp dụng quan điểm giáo dục phải có tính hệ thống của Komensky, nền
giáo dục Việt Nam đã và đang xây dựng hệ thống các chương trình bài giảng, sách
giáo khoa hài hòa tương xứng với khả năng nhận thức và tư duy của từng giai đoạn
lứa tuổi nhất định. Các nhà trường đặc biệt chú ý và nhấn mạnh liên hệ chặt chẽ giữa
các kiến thức khoa học được truyền đạt nhằm mục đích bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau góp
phần tạo nên tư duy tổng hợp logic dựa trên việc áp dụng môn khoa học tích hợp,
học trò hình dung các kiến thức khoa học theo thứ tự, tuần tự đang diễn ra ngay ở
thực tế. Các bộ môn được giảng dạy trong trường đại học như logic học, triết học là
những môn khoa học tích hợp điển hình.
- Dựa trên phương pháp giáo dục của Komensky, yêu cầu đảm bảo học
sinh lĩnh hội được những tri thức vững chắc, nền giáo dục Việt Nam đã và đang áp
dụng sáng tạo những hình thức học tập nhóm, thuyết trình, thảo luận tạo cơ hội giúp
người học trực tiếp truyền đạt, trao đổi những tri thức mà mình tiếp thu được với
nhau nhằm khắc sâu, kiểm tra những kiến thức còn mơ hồ biến thành kiến thức bản
thân.
- Yêu cầu nhà trường cung cấp kiến thức có hệ thống và toàn diện về
nhiều ngành khoa học, giáo dục Việt Nam đã ứng dụng hiệu quả nguyên tắc “giáo
dục vừa sức đối với học sinh” . Điều này được thể hiện rõ ràng ở những mục tiêu
giáo dục cụ thể đối với từng lứa tuổi. Việc phân chia bậc học tiểu học, trung học cơ
sở, trung học phổ thông, đại học và các chương trình giáo dục chuyên biệt phân ban
tùy theo năng lực và sở thích của người học theo ban khoa học tư nhiên, khoa học xã
hội, khoa học cơ bản. Những quy định về lượng kiến thức phân bổ trong mỗi tiết
học, thời gian học cho mỗi tiết cũng là những ứng dụng đó.
- Về mặt giáo dục đạo đức học, các nhà giáo dục Việt Nam cũng áp dụng
phương pháp giáo dục nêu gương người tốt, việc tốt, các chương trình học bổng toàn
phần và bán phần, hỗ trợ du học sinh đối với hệ đại học, tuyên dương khen thưởng
và vinh danh học sinh đạt thành tích cao trong học tập, mở các diễn đàn học sinh,
sinh viên nhằm trao đổi kinh nghiệm, kiến thức.
3.2. Một số hạn chế
13
- Theo mục đích đào tạo “hệ thống, toàn diện” hệ thống giáo dục của
Việt Nam đã quá chú trọng dạy một số môn văn hóa nhằm đạt chỉ tiêu lên lớp, tốt
nghiệp, đậu đại học và các cuộc thi học sinh giỏi mà ít quan tâm đến các hoạt động
khác như văn nghệ- thể thao, lao động sản xuất và một số các hoạt động xã hội
- Tình trạng thanh niên “mờ nhạt về lý tưởng” cũng phản ảnh tính bất cập
trong việc áp dụng tư tưởng giáo dục đào tạo con người công bằng, bình đẳng, giàu
lý tưởng, yêu chủ nghĩa xã hội.
- Hệ thống trường chuyên lớp chọn phát triển nhanh, bồi dưỡng học sinh
giỏi tiến hành công phu nhưng số lượng nhân tài ít xuất hiện.
- Công tác giáo dục đạo đức thể hiện những hạn chế của mình thể hiện ở
những tệ nạn xã hội và số lượng tội phạm gia tăng ở trong nhà trường từ khi chuyển
sang cơ chế kinh tế thị trường.
Thông qua đó, đòi hỏi giám sát chặt chẽ vấn đề lý luận và thực tiễn giáo
dục, tìm kiếm con đường hiệu quả hình thành nhân cách và xây dựng hệ thống
giáo dục quốc dân.
Tóm lại, thông qua tìm hiểu và áp dụng tư tưởng giáo dục của Komensky,
các nhà giáo dục Việt Nam cũng cần phát huy tích cực hơn vai trò của mình trong
công tác quản lý giáo dục, áp dụng sáng tạo và hiệu quả tư tưởng ấy vào nền giáo
dục riêng của nước nhà nhằm thấy được những tính ưu việt của tư tưởng giáo dục
tiên tiến của Komensky.
14