You are on page 1of 10

Đảng Cộng sản VN là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên

phong của nhân


dân lao động và của dân tộc VN; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của dân tộc.

Tiếp tục đổi mới và chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng lên ngang tầm với yêu cầu và nhiệm vụ của tình hình mới là đòi hỏi
có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và nhân dân ta.

1. Nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng trong điều kiện mới.

Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội. Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát
triển lý luận, giải quyết đúng đắn những vấn đề do cuộc sống đặt ra.

Nâng cao trình độ trí tuệ, chất lượng nghiên cứu lý luận của Đảng; tiếp tục làm sáng tỏ
những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta; làm
rõ cơ sở lý luận và thực tiễn đường lối, chính sách của Đảng trong thời kỳ mới. Đổi mới
công tác giáo dục lý luận chính trị, tư tưởng trong Đảng, trước hết cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo và quản lý chủ chốt các cấp; đổi mới nội dung, phương pháp học tập và giảng
dạy trong hệ thống trường chính trị, nâng cao tính thiết thực và hiệu quả của chương
trình.

Củng cố, nâng cao chất lượng các cơ quan chuyên ngành về công tác tư tưởng, lý luận.
Tăng cường số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ tư tưởng, lý luận, nhất là cán bộ chủ
chốt. Tiến hành đồng bộ công tác tư tưởng, công tác lý luận, gắn các công tác này với
công tác tổ chức - cán bộ, với phát triển kinh tế, giải quyết hài hòa các lợi ích. Gắn “xây”
với “chống”, lấy “xây” làm chính. Đặc biệt quan tâm chống sự suy thoái về tư tưởng,
chính trị, đạo đức, lối sống. Kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng; phê phán, bác bỏ các quan điểm
sai trái, thù địch.

2. Bảo đảm vai trò nền tảng và hạt nhân chính trị của tổ chức cơ sở Đảng, nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Mỗi tổ chức cơ sở Đảng có trách nhiệm tổ chức và qui tụ sức mạnh của toàn đơn vị hoàn
thành nhiệm vụ chính trị được giao; làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, quản lý
và giám sát đảng viên về năng lực hoàn thành nhiệm vụ và phẩm chất, đạo đức, lối sống;
đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân và những biểu hiện tiêu cực trong Đảng.

Kiện toàn hệ thống tổ chức cơ sở Đảng. Xác định vị thế pháp lý, thể chế hóa về mặt nhà
nước vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các loại hình cơ sở, đặc biệt là tổ chức cơ sở Đảng
trong khu vực kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Chú ý xây dựng tổ chức
cơ sở Đảng trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
vùng sâu, vùng xa; tập trung giải quyết cơ sở yếu kém.
Một Đảng trong sạch để cho dân tin yêu phải gồm những đảng viên trong sạch, có lý
tưởng, đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư vì đảng viên chính là
cầu nối giữa Đảng với dân. Là “đầy tớ” của nhân dân, mỗi cán bộ, đảng viên phải tận tụy
phục vụ nhân dân, một lòng một dạ vì lợi ích của nhân dân. Vì sao vậy? Vì nhân dân theo
Đảng làm cách mạng trước hết là do lợi ích thiết thân của chính họ. Đảng được dân tin và
một lòng theo Đảng vì trong bất cứ hoàn cảnh nào Đảng cũng toàn tâm, toàn ý phục vụ
nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết và trước hết.

Là đảng cầm quyền, đặc biệt trong thời kỳ đất nước tiến hành CNH, HĐH, hội nhập ngày
càng sâu rộng với thế giới, sự trong sạch của bộ máy Đảng càng là một đòi hỏi khách
quan. Đó là bởi “ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có
lợi ích gì khác”. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là lý lưởng, là mục tiêu đấu tranh và
cũng là lý do tồn tại của Đảng. Đảng ra đời, tồn tại vì điều đó và toàn bộ hoạt động của
Đảng cũng là nhằm đạt được điều đó. “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát
tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào
sung sướng”. Chính vì thế, những “ông quan cách mạng” xa dân, nhũng nhiễu, hạch sách
dân luôn bị nhân dân khinh bỉ, căm ghét. Họ đã làm tổn hại đến uy tín, làm suy yếu Đảng.
Để Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, phải kiên quyết đưa những đảng viên thoái hóa,
biến chất ra khỏi Đảng.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nguyên nhân sâu xa khiến người đảng viên mắc những căn
bệnh nguy hiểm như kiêu ngạo, hống hách, tham ô, lãng phí chính là chủ nghĩa cá nhân.
“Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn,
không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi nếu lòng
dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.

Chính chủ nghĩa cá nhân đã khiến những đảng viên thoái hóa, biến chất, sa ngã, vi phạm
kỷ luật Đảng. Vì lợi ích cá nhân, họ kéo bè kéo cánh, gây chia rẽ, mất đoàn kết trong
Đảng, từ đó gây hậu quả nghiêm trọng: làm giảm sức mạnh của Đảng, làm mất cán bộ,
đảng viên, khiến người dân giảm sút niềm tin với Đảng. Thực tế đã cho thấy, ở những nơi
Đảng bộ mất đoàn kết thì không chỉ tổn hại đến nội bộ Đảng mà còn hại đến nhân dân vì
Đảng bộ đó đã không còn là chỗ dựa tin cậy, là nơi gửi gắm niềm tin yêu của quần chúng
nhân dân. Đó cũng là kẽ hở để các thế lực thù địch lợi dụng, kích động, gây chia rẽ nội bộ
Đảng, chia rẽ Đảng với dân, gây nguy cơ đến sự tồn vong của Đảng.

Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, có phẩm chất, đạo đức cách
mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ; kiên định lập trường
giai cấp công nhân, phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng của Đảng, vững vàng trước mọi khó
khăn, thử thách; năng động, sáng tạo, góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc VN xã hội
chủ nghĩa.

Đảng viên làm kinh tế tư nhân không giới hạn về qui mô phải gương mẫu chấp hành
điều lệ Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước và qui định cụ thể của Ban chấp hành
trung ương.
Phân công đảng viên đúng người, đúng việc, tạo điều kiện để đảng viên hoàn thành
nhiệm vụ. Đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng theo đúng qui định
của điều lệ Đảng.

Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên gắn với việc nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở
Đảng. Đẩy mạnh công tác phát triển Đảng gắn với bảo đảm chất lượng. Chú trọng trẻ hóa
và nâng cao trình độ của đảng viên; lấy đạo đức làm gốc, đồng thời bồi dưỡng về kiến
thức, trí tuệ, năng lực để làm tròn nhiệm vụ người lãnh đạo, người đi tiên phong trong các
lĩnh vực công tác được giao.

Thường xuyên sàng lọc đảng viên. Động viên quần chúng giám sát, đóng góp ý kiến về
đảng viên, kịp thời đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách.

Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và
phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triến sự đoàn kết và thống nhất của
Đảng...”(1). Đó là nguyên tắc ứng xử quan trọng nhất trong nội bộ Đảng, làm nên bộ mặt
văn minh tinh thần của Đảng và là mấu chốt của công tác xây dựng đảng.

Theo Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển, là phương thức giáo dục, rèn
luyện đảng viên và xây dựng đảng, làm cho Đảng ta thường xuyên trong sạch, vững mạnh. Đây
là một luận điểm quan trọng của Người, góp phần làm phong phú thêm lý luận xây dựng đảng.
Người cho rằng, tự phê bình và phê bình trước hết là để soi vào mình và người khác giúp mình
thấy rõ mình hơn nhằm phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm; để tư tưởng và hành động
đúng hơn, tốt hơn, tiến bộ hơn; để xây dựng đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Người yêu cầu
“Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình
là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”[4]. Muốn thực hiện
nguyên tắc này, theo Người, mỗi đảng viên phải tự phê bình mình trước, sau đó mới phê bình
người khác. Người nhắc nhở, cán bộ trọng trách càng cao, đảng viên trách nhiệm càng lớn càng
phải gương mẫu tự phê bình và phê bình. Bên cạnh tính kiên quyết trong thực hiện nguyên tắc
tự phê bình và phê bình, Hồ Chủ tịch rất coi trọng cái tâm trong sáng khi phê bình “phải có tình
đồng chí thương yêu lẫn nhau”.

“Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”(2). Đây là cách ứng xử văn minh giữa
những người đồng chí, những người chiến sỹ cùng có lý tưởng cao đẹp, cùng nguyện
chiến đấu hy sinh suốt đời vì một nghĩa lớn là độc lập cho Tổ quốc và hạnh phúc cho
đồng bào, do đó phải sống với nhau sao cho có tình, có nghĩa bởi như Hồ Chí Minh đã
từng nói nếu đọc bao nhiêu sách Mác-Lênin mà sống với nhau không có tình, có nghĩa
thì không thể coi là người đảng viên của Đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin được. Có tình
đồng chí thương yêu là phải giúp nhau cùng tiến bộ, là phê bình chân thành, là đòi hỏi
đồng chí mình sửa chữa khuyết điểm. Thành kiến, trù dập, tranh giành địa vị, bổng lộc, tư
túng, bè cánh, yêu nên tốt, ghét nên xấu... là những hành vi không văn minh, là trái với tư
cách của một Đảng chân chính cách mạng. Tất cả những gì trái với đạo đức cách mạng
đều trái với văn minh, đối lập với văn minh và là sự phá hoại văn minh. Vì vậy có thể nói
Đảng ta là văn minh là bởi vì Đảng ta có đạo đức cách mạng. Những ai vô đạo thì cũng là
kẻ vô văn, là kẻ thù của cách mạng như Hồ Chí Minh từng chỉ rõ.
3. Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; thắt chặt mối
quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân; nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác
kiểm tra, giám sát.

Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật trong Đảng. Mọi cán bộ, đảng viên có
quyền bàn bạc, tham gia quyết định công việc của Đảng; quyền được thông tin, tranh
luận, nêu ý kiến riêng, bảo lưu ý kiến trong tổ chức; khi đã thành nghị quyết thì phải nói
và làm theo nghị quyết của Đảng.

Các cấp lãnh đạo, cán bộ lãnh đạo phải thật sự lắng nghe ý kiến của cấp dưới, của đảng
viên và nhân dân. Xây dựng qui chế ra quyết định của Đảng, bảo đảm phát huy trí tuệ tập
thể; có cơ chế để nhân dân bày tỏ ý kiến đối với những quyết định lớn, tham gia giám sát
Đảng, tham gia các công việc của Đảng; khắc phục lối làm việc quan liêu, xa dân.

Hoàn thiện qui chế bảo đảm quyền kiểm tra, giám sát của tập thể đối với cá nhân, của tổ
chức đối với tổ chức, của cá nhân đối với cá nhân và tổ chức, kể cả đối với người lãnh
đạo chủ chốt và tổ chức cấp trên. Kết hợp giám sát trong Đảng với giám sát của Nhà
nước và giám sát của nhân dân.

Xây dựng qui chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính
trị - xã hội và nhân dân đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, quyết
định lớn của Đảng và việc tổ chức thực hiện, kể cả đối với công tác tổ chức và cán bộ.

Đổi mới phương pháp kiểm tra và bổ sung chức năng giám sát cho ủy ban kiểm tra đảng
các cấp. Tăng cường công tác kiểm tra phòng ngừa. Xây dựng qui chế phối hợp công tác
giữa Ủy ban Kiểm tra của Đảng với Thanh tra của Chính phủ.

*Ứng xử với xã hội:

Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền, Đảng trở thành Đảng cầm quyền.
Đây là giai đoạn khác về cơ bản trong phương thức lãnh đạo của Đảng: Đảng lãnh đạo
Nhà nước, Nhà nước thể chế hoá các chủ trương đường lối của Đảng bằng hệ thống các
quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Do vậy trình độ
văn minh của Đảng ở giai đoạn này thể hiện ở việc lãnh đạo xây dựng nền dân chủ và nhà
nước pháp quyền. Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không bao biện làm thay Nhà nước,
không đứng trên Nhà nước mà Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Một vấn đề lớn nhất của lãnh đạo là quan tâm đến con người, là thu hút nhân tâm, là an
sinh xã hội, là chăm lo cho mọi lớp người, đến từng đồng bào một. Thái độ và chính sách
đối với con người là thước đo trình độ văn minh của Đảng cầm quyền. Điều này chúng ta
đã thấy rất rõ trong suốt quá trình trực tiếp lãnh đạo cơ quan cao nhất của Đảng đồng thời
là người đứng đầu Nhà nước của Hồ Chí Minh. Chúng ta còn được Hồ Chí Minh dặn lại
rất tỷ mỉ trong phần viết về con người của bản Di chúc. Không được phép quên bất cứ ai
từ anh chị em thương bệnh binh, gia đình liệt sĩ, đến những chiến sĩ trẻ tuổi, các cháu
thiếu niên và nhi đồng, chị em phụ nữ và đồng bào nông dân miền xuôi cũng như miền
ngược… Văn minh và nhân đạo hơn nữa là “Đối với những nạn nhân của chế độ xã hội
cũ, như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc buôn lậu, v.v., thì Nhà nước phải dùng vừa giáo dục,
vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương
thiện”(3).

- Đảng ta là văn minh và sẽ mãi mãi "Đảng là đạo đức, là văn minh” bởi vì Đảng luôn
ý thức được rằng: Điều kiện để đảm bảo cho tính tất yếu lịch sử của vai trò cầm quyền và
lãnh đạo xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam là luôn luôn đổi mới và chỉnh đốn Đảng.

4. Đổi mới công tác cán bộ.

Cán bộ phải là người có đức, có tài, có phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối trung thành với
Tổ quốc, với Đảng; hết lòng phấn đấu vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc; có bản lĩnh
chính trị vững vàng, kiên định lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; không dao
động trước mọi biến cố phức tạp, có đủ năng lực thực hiện thắng lợi đường lối, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, có nhân cách và lối sống mẫu mực, trong
sáng, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân.

Xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, có cơ cấu hợp lý, có chất lượng tốt, xây dựng đội ngũ
cán bộ lãnh đạo kế tiếp vững vàng. Chú ý đào tạo cán bộ nữ, cán bộ các dân tộc thiểu số,
cán bộ xuất thân từ công nhân, chuyên gia trên các lĩnh vực; bồi dưỡng nhân tài theo định
hướng qui hoạch. Đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cao.

Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ thật sự dân chủ, khoa học, công minh. Xây dựng và
hoàn thiện chế độ bầu cử, cơ chế bổ nhiệm và miễn nhiệm cán bộ; mở rộng quyền đề cử
và tự ứng cử, giới thiệu nhiều phương án nhân sự để lựa chọn.

Có cơ chế, chính sách bảo đảm phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng và
đãi ngộ xứng đáng người có đức, có tài; thay thế những người kém năng lực, không đủ uy
tín, nhất là những người kém phẩm chất, hư hỏng, có khuyết điểm nghiêm trọng.

Kiên quyết khắc phục những biểu hiện cá nhân, độc đoán, thiếu công tâm và khách quan,
cũng như tình trạng nể nang, tùy tiện, trì trệ trong công tác cán bộ.

Cụ thể hóa, thể chế hóa nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý
đội ngũ cán bộ, đồng thời phát huy vai trò, quyền hạn và trách nhiệm của các tổ chức
thành viên trong hệ thống chính trị. Tổ chức Đảng có thẩm quyền phải chủ trì công tác
cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết định đi đôi với phát huy trách
nhiệm của người đứng đầu tổ chức trong hệ thống chính trị, tổ chức cơ quan, đơn vị công
tác của cán bộ. Qui định trách nhiệm của cơ quan tham mưu trong công tác cán bộ. Có cơ
chế để đảng viên và nhân dân giám sát cán bộ và công tác cán bộ.

5. Đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng.

Việc đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng phải đồng
bộ với đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới kinh tế; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung
dân chủ trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng.
Khâu mấu chốt cần tập trung hiện nay là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước ở cấp trung ương và chính quyền ở cấp địa phương. Đảng lãnh đạo
Nhà nước bằng đường lối, quan điểm, các nghị quyết, quyết định, nguyên tắc giải quyết
những vấn đề trọng đại về quốc kế dân sinh; lãnh đạo thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối,
quan điểm, chủ trương, chính sách lớn của Đảng thành hiến pháp, pháp luật, kế hoạch,
các chương trình công tác lớn của Nhà nước; xây dựng Nhà nước thật sự trong sạch,
vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; bố trí đúng cán bộ ngang tầm nhiệm vụ và
thường xuyên kiểm tra việc tổ chức thực hiện.

Đảng không buông lỏng lãnh đạo, đồng thời không bao biện, làm thay Nhà nước; trái lại,
phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo của Nhà nước trong quản lý đất nước và xã
hội.

Khẩn trương nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản qui định cụ thể về
nguyên tắc, nội dung và cơ chế Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước trong từng lĩnh vực :
lập pháp, hành pháp, tư pháp và từng cấp, từng loại hình tổ chức nhà nước.

Lãnh đạo việc cụ thể hóa, thể chế hóa kịp thời và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nghị
quyết của Đảng. Ra nghị quyết đi liền với đề ra các kế hoạch thực hiện nghị quyết.

Sớm xây dựng qui chế về sự phối hợp giữa kiểm tra của Đảng với Thanh tra của Chính
phủ, kịp thời kết luận các vụ vi phạm, xử lý đúng người, đúng tội, đúng điều lệ Đảng và
pháp luật của Nhà nước.

Xây dựng qui chế phối hợp công tác giữa các ban tham mưu của cấp ủy đảng và cơ quan
chính quyền tương ứng cùng cấp, nhất là giữa Văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng
Quốc hội, Văn phòng Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước; giữa văn phòng cấp ủy và
văn phòng hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân các cấp.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân, giúp Mặt trận và các đoàn thể xác định đúng mục tiêu, phương hướng phát triển và
nội dung hoạt động trong từng thời kỳ; đồng thời phát huy tinh thần tự chủ, sáng tạo của
Mặt trận và các đoàn thể trong xây dựng, đổi mới tổ chức và hoạt động của mình.

Thống nhất việc lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ trong cả hệ thống chính trị,
thực hiện luân chuyển cán bộ, khắc phục tình trạng khép kín, cục bộ về cán bộ. Tăng
cường trách nhiệm của cán bộ, đảng viên là thủ trưởng cơ quan nhà nước. Cơ quan nào vi
phạm chính sách, pháp luật, để xảy ra tình trạng tiêu cực, mất đoàn kết nội bộ thì người
đứng đầu phải chịu trách nhiệm.

Đổi mới phương thức lãnh đạo gắn với đổi mới phong cách hoạt động, lề lối làm việc thật
sự dân chủ, thiết thực, nói đi đôi với làm, khắc phục bệnh quan liêu, tùy tiện, chủ quan,
hình thức.
Để thể hiện quyết tâm phấn đấu theo tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho Đảng ta ngày càng
xứng đáng là đạo đức, là văn minh, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã ghi: “Tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, tăng cường
bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng; xây dựng Đảng thật trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức,
có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có tầm trí tuệ cao, có
phương thức lãnh đạo khoa học, luôn gắn bó với nhân dân”(4).

Để xây dựng Đảng vững mạnh, ngang tầm với đòi hỏi của dân tộc và thời đại, đặc biệt là
trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng phải thật trong sạch. Sức sống, sự lớn mạnh của
Đảng phụ thuộc rất nhiều vào mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Lịch sử đấu tranh
cách mạng của Đảng, của dân tộc đã chứng minh: bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, Đảng
liên hệ chặt chẽ với quần chúng, được quần chúng tin tưởng, ủng hộ thì Đảng vững mạnh,
lãnh đạo cách mạng thành công; còn nếu xa rời quần chúng, không được quần chúng tin
tưởng, ủng hộ thì sẽ suy yếu, giảm sút sức chiến đấu và có khi vấp phải thất bại. Muốn
vững mạnh, muốn được quần chúng tin tưởng, ủng hộ, Đảng phải luôn trong sạch!

Là người lãnh đạo cách mạng, Đảng đề ra đường lối, chiến lược đưa nhân dân ta đấu
tranh giành thắng lợi trong cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Là đảng cầm quyền, Đảng chịu trách nhiệm về mọi mặt đời sống của nhân dân. Chủ tịch
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến
đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét, Đảng và
Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính
phủ có lỗi”.

Bác cho rằng, từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng,
do vậy, “Đảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không
ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. Muốn thế, Đảng phải trong sạch, phải xứng
đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Quan điểm cách mạng
đó là nguyên nhân, là nguồn gốc sâu xa tạo nên sức mạnh của Đảng để Đảng lãnh đạo
nhân dân đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích vĩ đại. “Dễ trăm
lần, không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.

Sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân cho thấy, Đảng luôn vì dân, đặt dân ở vị trí là gốc,
Đảng không phải ở trên dân mà ở trong dân. Đảng và dân gắn bó, hòa quyện là một,
không tách rời và không thể tách rời.

Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là việc của Đảng, của mỗi cán bộ, đảng viên
nhưng đó cũng là việc của dân. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cũng thể hiện mối
quan hệ giữa Đảng với dân; không phải “đóng cửa lại” để xây dựng Đảng mà phải xây
dựng Đảng từ phong trào hành động cách mạng của quần chúng nhân dân. Một trong
những nguyên nhân dẫn đến sự thắng lợi trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng
chính là Đảng đã biết phát huy trí tuệ của toàn dân vào việc xây dựng đường lối của
Đảng. Đảng tin dân, đưa mọi vấn đề để dân góp ý, thảo luận và cùng tìm cách giải quyết,
từ đó có những quyết sách đúng đắn.
Để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, Đảng phải xây dựng, chỉnh đốn để ngày càng
vững mạnh về mọi mặt. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là một trong những vấn
đề có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước. Cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đang được thực hiện sâu
rộng trong Đảng và trong toàn xã hội sẽ thúc đẩy bước chuyển biến mới trong công tác
xây dựng và chỉnh đốn Đảng, tăng cường sự thống nhất đoàn kết trong Đảng, làm cho
Đảng ngày càng vững mạnh và trong sạch, đủ sức lãnh đạo và tổ chức nhân dân vượt qua
mọi khó khăn, thử thách, đưa đất nước ngày càng giàu mạnh, đáp ứng lòng mong mỏi của
nhân dân.

Nhận rõ tầm quan trọng của việc tổ chức ra đảng tiền phong để lãnh đạo cách mạng và sự lãnh
đạo đúng đắn của đảng là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi của cách mạng, Người đã sáng
lập và lãnh đạo Đảng ta. Công lao to lớn của Người là đã tiếp thu và truyền bá thành công chủ
nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, trên cơ sở đó thành lập Đảng. Sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và gắn liền với tên
tuổi Hồ Chí Minh. Đây là sự kiện lịch sử có ý nghĩa to lớn, đánh dấu bước ngoặt căn bản căn bản
không chỉ trong lịch sử cách mạng nước ta, mà cả lịch sử cách mạng của ba nước Đông Dương.
Nhờ uy tín, tài tổ chức, giáo dục, rèn luyện và lãnh đạo của Người, Đảng ta nhanh chóng trở
thành đội tiền phong duy nhất của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc - đảng
cách mạng duy nhất lãnh đạo cách mạng với đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn và
sáng tạo.

Đoàn kết, thống nhất trong Đảng là một tư tưởng chiến lược trong Di chúc của Người. Hồ Chủ
tịch luôn chăm lo xây dựng đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Người coi việc giữ gìn sự đoàn kết,
thống nhất trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Với Người, sự đoàn kết, thống nhất
của Đảng phải được thể hiện trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Tình hình càng
phát triển, nhiệm vụ càng nặng nề, sự đoàn kết, thống nhất trong tư tưởng và hành động của
Đảng càng quan trọng, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo. Đoàn kết, thống nhất trong Đảng là hạt
nhân của khối đại đoàn kết, nên trong quá trình cách mạng, từ khi sáng lập đảng cho đến trước
lúc đi xa, Người rất coi trọng xây dựng khối đoàn kết, thống nhất, luôn đề cao vai trò lãnh đạo
của Đảng, thường xuyên quan tâm đặc biệt đến vấn đề xây dựng Đảng, chăm lo giáo dục, rèn
luyện đội ngũ đảng viên về phẩm chất đạo đức cách mạng nhằm xây dựng đảng ta thành một
đảng cách mạng, trong sạch, đoàn kết, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân,
phục vụ Tổ quốc. Với ý nghĩa như vậy nên trong Di chúc, khi nói về Đảng, Người viết: “Đoàn kết
là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến
các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt
mình”[2]. Chính “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân,
phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo
nhân dân ta hǎng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”[3].

Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm đặc biệt
tới việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đảng phải là đội tiên phong của giai cấp và dân tộc, phải
hoàn thiện mình để lãnh đạo đất nước. Mỗi khi cách mạng chuyển giai đoạn chiến lược, Người
đều nhắc nhở phải chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng xứng đáng với yêu cầu nhiệm vụ mới. Người
đã nhạy bén thấy trước những hiện tượng cần phải chỉnh đốn Đảng ngay sau khi kháng chiến
chống Mỹ thắng lợi, nhưng đáng tiếc, chúng ta chưa làm triệt để như Bác căn dặn trong Di chúc.
Trong Di chúc viết tháng 5-1968, Người nhắc nhở: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn
Đảng”, bởi theo Người xây dựng, chỉnh đốn Đảng vừa là vấn đề thường xuyên, vừa hết sức cấp
bách. Trước lúc đi xa, điều Người quan tâm trước hết cũng là “nói về Đảng”.

Về chỉnh đốn Đảng, Người không coi đó là biện pháp tình thế mà là nhiệm vụ tất yếu, thường
xuyên để thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng, là sự vận động trong quá trình phát triển. Khi cách
mạng khó khăn, chỉnh đốn Đảng để xây dựng thái độ bình tĩnh, sáng suốt, kiên định lập trường,
không để rơi vào tình trạng dao động, bi quan; khi cách mạng trên đà thắng lợi, chỉnh đốn Đảng
để ngăn ngừa bệnh kiêu ngạo, chủ quan, tự mãn, lạc quan tếu; khi Đảng cầm quyền, đảng viên
rất dễ đánh mất mình, ngày hôm qua vĩ đại, không nhất định hôm nay vẫn được mọi người yêu
mến nếu họ không trong sáng, sa vào chủ nghĩa cá nhân. Vì vậy lại càng cần coi trọng chỉnh đốn
Đảng. Đặc biệt, trước yêu cầu xây dựng đảng ngang tầm với nhiệm vụ lịch sử mới và trước thực
trạng của Đảng ta hiện nay thì nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng vừa là cơ bản, thường xuyên
lại vừa rất cấp bách.

Hồ Chí Minh là người kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tham ô, lãng phí. Người coi
đó là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội. Người yêu cầu “phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải
xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Để thực hiện tốt
điều đó, trước hết đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự trong sạch, vững mạnh, có đủ trí tuệ và
năng lực lãnh đạo, được nhân dân tin yêu, xứng đáng là tấm gương, là ngọn cờ lãnh đạo cách
mạng. Đồng thời đảng phải không ngừng đổi mới và chỉnh đốn đội ngũ. Chính vì vậy, điều dặn
dò trước lúc đi xa của Người là “Trước hết nói về Đảng”. Người yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên
phải đoàn kết, “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”, phải thật sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, để xứng đáng là đội quân tiên phong và
người lãnh đạo xuất sắc trong mọi hoàn cảnh.

Sở dĩ trong những năm qua, Đảng ta xây dựng và củng cố được đội ngũ đảng viên đông đảo
vững vàng, từng bước nâng cao năng lực, nhanh chóng đáp ứng yêu cầu cách mạng, hoàn
thành những trọng trách được giao phó, được nhân dân tin cậy và ủng hộ là do Đđảng ta luôn
quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đảng. Cho đến nay, ngay cả
sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới thành công, chúng ta càng thấm thía rằng, chỉ có
nắm vững và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta mới có thể xây dựng Đảng ta
trong sạch vững mạnh. Đây là yếu tố quan trọng quyết định thắng lợi của cách mạng nước ta.
Cùng với cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn đảng thì cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” là thể hiện trách nhiệm và tình cảm của Đảng đối với Bác. Đó là
những cuộc vận động liên quan đến vận mệnh của Đảng, của chế độ, của dân tộc. Vì vậy, xây
dựng, chỉnh đốn đảng là nhiệm vụ của toàn Đảng và cũng là nguyện vọng, trách nhiệm của toàn
dân.

Thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người, trong những năm qua, từng tổ chức đảng, mỗi cán bộ,
đảng viên đã không ngừng phát huy tinh thần đoàn kết, sáng tạo, đổi mới phương thức lãnh đạo,
nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi các Nghị quyết của Đảng vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tròn 40 năm toàn Đảng, toàn dân thực hiện Di chúc của
Người. Đây là dịp để mỗi người, nhất là cán bộ, đảng viên tự xem xét lại mình một cách cặn kẽ
trong việc thực hiện Di chúc của Người như thế nào. Để tiếp tục thực hiện Di chúc thiêng liêng
của Người, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đã nguyện làm theo lời dạy của Người về xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng ta ngày càng trong sạch vững mạnh, lãnh đạo nhân dân ta vượt
qua mọi khó khăn, thử thách, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo
sự chuyển biến về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức của Người; đẩy
lùi sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức và các tệ nạn xã hội, góp phần hiện thực hóa điều mong
muốn cuối cùng của Người là: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước
Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự
nghiệp cách mạng thế giới”[5]. Nhìn lại chặng đường 79 năm xây dựng và phát triển của đảng và
của cách mạng nước ta, chúng ta tự hào về đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại. Càng tự hào, chúng
ta càng phải quyết tâm làm theo lời căn dặn trước lúc đi xa của Bác: “Đảng ta là một Đảng cầm
quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm
liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh
đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”[6].

Đảng lãnh đạo là tất yếu


Thường xuyên đổi mới và chỉnh đốn Đảng là tất yếu.

Cả hai đều tất yếu như nhau!

You might also like