You are on page 1of 135

Gv:

Nhận định về các đồng tiền đang lưu thong hiện nay
A/ Cơ sở lý thuyết:
I/ Nguồn gốc ra đời tiền tệ:
- Theo K.Mác, Quá trình ra đời tiền tệ trãi qua các hình thái giá trị sau:
+ Hình thái giản đơn hay ngẩu nhiên giá trị: Ngay từ trong xã hội nguyên
thủy đã xuất hiện mầm móng của sự trao đổi, nhưng được tiến hành dưới hình thức
trực tiếp vật này đổi lấy vật khác. Trong hình thái này giá trị của một hàng hóa được
biểu hiện một cách ngẩu nhiên thông qua giá trị sử dụng của một hàng hóa khác.
+ Hình thái giá trị mở rộng: Khi bất đầu xuất hiện phân công lao động xã
hội, trao đổi trở nên thường xuyên hơn. Bấy giờ, giá trị của một hàng hóa không chỉ
biểu hiện thông qua giá trị sử dụng của một thứ hàng hóa khác, mà biểu hiện thông
qua giá trị sử dụng của nhiều hàng hóa khác có tác dụng là vật ngang giá, Tuy
nhiên, trao đổi vẩn mang tính trực tiếp.
+ Hình thái giá trị chung: Khi phân công lao động xã hội và sản xuất phát
triển thì hình thức trao đổi hàng hóa trực tiếp ngày càng bộc lộ rỏ nhược điểm của
nó. Do đó, tất yếu đòi hỏi phải có một hàng hóa đặc biệt đóng vai trò vật ngang giá
chung tách ra từ tất cả hàng hóa khác và các hàng hóa khác đều trao đổi với nó
được. Tuy nhiên, trong giai đoạn này vật ngang giá chung vẩn chưa cố định ở một
thứ hàng hóa và những vùng khác nhau thì có những vật ngang giá chung khác
nhau.
=> Khi vật ngang giá chung cố định ở một thứ hàng hóa thì sinh ra hình
thái tiền tệ.
II/ Khái niệm tiền tệ:
1. Theo K.Mác: “Tiền tệ là thứ hàng hóa đặc biệt, tách ra khỏi thế giới
hàng hóa, dùng làm vật ngang giá chung để thể hiện và đo lường giá trị của mọi
hàng hóa, Nó trực tiếp thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa
những người sản xuất hàng hóa”.
2. Theo quan niệm đương đại: “Tiền là bất cứ cái gì được chấp nhận
chung trong việc thanh toán để lấy hàng hóa hay dịch vụ khác nhau, hoặc trong việc
hoàn trả nợ”.
III/ Chức năng và vai trò của tiền tệ:
1. Chức năng của tiền tệ:
- Theo K.Mác, khi giả định vàng là hàng hóa tiền tệ, ông đã cho rằng tiền
tệ có 5 chức năng:
+ Thước đo giá trị: Khi nó biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hóa
khác.
+ Phương tiện lưu thông: Khi tiền tệ là môi giới cho quá trình trao đổi hàng
hóa.
+ Phương tiện thanh toán: Khi quá trình lưu thông hàng hóa phát triển sẽ
phát sinh những nhu cầu vay mượn, thuế khóa… Khi đó tiền chấp hành chức năng
phương tiện thanh toán.

- 1
Trang - 3 -
Gv:
+ Phương tiện cất trữ: Khi tiền tệ tạm thời rút khỏi lưu thông, chuẩn bị cho
nhu cầu chi dung trong tương lai.
+ Tiền tệ thế giới.
2. Vai trò của tiền tệ:
- Trong nền kinh tế vai trò của tiền tệ được thể hiện ở 3 mặt:
+ Thứ nhất: tiền tệ là phương tiện không thể thiếu để mở rộng và phát triển
kinh tế hàng hóa.
+ Thứ hai: tiền tệ là phương tiện để thực hiện và mở rộng các quan hệ quốc
tế.
+ Thứ ba: tiền tệ là một công cụ để phục vụ cho mục đích của người sở hữu
chúng.
IV/ Các hình thái của tiện tệ:
1. Hóa tệ:
- Tức là tiền bằng hàng hóa, bao gồm 2 loại.
a) Hóa tệ không kim loại: Tức là dùng hàng hóa không kim loại làm tiền tệ.
b) Hóa tệ kim loại (kim tệ): Tức là lấy kim loại làm tiền tệ.
2. Tín tệ:
- Là loại tiền mà bản thân nó không có giá trị, nhưng nhờ sự tín nhiệm của
mọi người mà nó được lưu dụng.
- Tín tệ gồm 2 loại:
a) Tiền kim loại: Khác với tiền kim loại thuộc hình thái hóa tệ ở chổ, giá trị
của chất kim loại đúc thành tiền và giá trị ghi trên bề mặt của đồng tiền không có
liên hệ gì với nhau, có thể gán cho nó một giá trị nào cũng được.
b) Tiền giấy: Có 2 loại
- Tiền giấy khả hoán: Là một mảnh giấy được in thành tiền để lưu hành,
người có loại tiền giấy này có thể đến ngân hàng để đổi lấy một số lượng vàng hay
bạc tương đương với giá trị ghi trên tờ giấy được sự dụng làm tiền bất cứ lúc nào.
- Tiền giấy bất khả hoán: là loại tiền giấy bắt buộc lưu hành và dân chúng
không thể đem nó đến ngân hàng để đổi lấy vàng hay bạc.
3.Bút tệ:
- Là tiền ghi sổ chỉ tạo ra khi phát tín dụng và thông qua tài khoản tại ngân
hàng
4.Tiền điện tử:
- Là thứ tiền được sử dụng qua hệ thống thanh toán tự động hay còn được
gọi là hộp ATM
V/ Bản vị tiền tệ
1/ Chế độ đơn kim bản vị: là chế độ tiền tệ trong đó chỉ có một kim khí,
vàng hoặc bạc, được do đúc thành tiền và có khả năng miễn trái vô hạn .
2/ Chế độ lượng kim bản vị: là chế độ tiền tệ trong đó có 2 thứ kim khí,
vàng và bạc, được tự do đúc thành tiền và miễn trái vô hạn.

- 1
Trang - 4 -
Gv:
3/ Các chế độ bản vị vàng biến thể: chế độ đơn kim bản vị vàng nguyên
thủy biến thể qua một vài hình thức sau:
- Chế độ bản vị tiền vàng: là chế độ trong đó tiền giấy khả hoán dược
chuyển dổi thành tiền vàng theo định nghĩa chính thức.
- Chế độ bản vị vàng thoi: hay còn gọi là chế độ kim đỉnh bản vị: theo chế
độ này tiền giấy không được tự do đổi ra tiền vàng mà phải có một khối lượng tiền
giấy nhất định mới đổi được một thoi vàng nhất định.
- Chế độ bản vị hối đoái vàng hay còn gọi là chế độ kim hoán bản vị:
trong đó tiền giấy không được đổi trục tiếp ra vàng mà phải thông qua một đồng
tiền khác trung gian có thể đổi ra vàng
4/ Chế độ ngoại tệ bản vị: là chế độ tiền tệ trong đó đơn vị tiền tệ của một
nước được định nghĩa theo một ngoại tế nhất định, thướng là ngoại tệ mạnh.
VI/ Khối tiền tệ :
1/ Hoạt tính cơ bản để một công cụ được gọi là tiền gồm 3 khả năng:
- Thứ nhất: có thể được dùng để trao đổi thanh toán khi mua hoặc bán
hàng hóa, sức lao động, trí tuệ…
- Thứ hai: có thể được dùng để mua bán hoặc chuyển nhượng hay đầu tư.
- Thứ ba: có thể chuyển thành tiền mặt của chính phủ bất cứ lúc nào (có
tính thanh khoản)
2/ Khối tiền tệ :
- Khối tiền tệ M1 bao gồm:
+ Tiền mặt của nhà nước
+ Tiền gửi không kỳ hạn
- Khối tiền tệ M2 bao gồm:
+ M1
+ Tiền gửi tiết kiệm
+ Tiền gửi định kỳ tại ngân hàng
- Khối tiền tệ M3 bao gồm
+ M2
+ Các loại tiền gởi ở các định chế tại chình khác
- Khối tiền tệ L bao gồm:
+ M3
+ Trái phiếu kho bạc ngắn hạn
+ Trái phiếu tiết kiệm dài hạn của kho bạc
+ Thương phiếu
+ Các thuận nhận của ngân hàng
VII/ Hệ thống tiền tệ quốc tế:
1/ Một đồng tiền đóng vai trò là tiền tệ quốc tế phải thỏa mãn 2 yêu cầu
sau:
- Có khả năng chuyển đổi qua lại với đồng tiền trong nước dễ dàng và chi
phí chuyển đổi thấp.

- 1
Trang - 5 -
Gv:
- Là phương tiện dự trữ không sợ bị mất giá trị.
2/ Hệ thống tiền tệ quốc tế ngày nay còn bao gồm những đồng tiền chúng
như SDR, EURO.
B/ NỘI DUNG:
I/ Những điểm nổi bậc của các đồng tiền trên thế giới:
1/ Tiền giấy đầu tiên
-Người Trung Quốc chính là những người đầu tiên sử dụng tiền giấy, dưới
triều đại nhà Đường (678-907 s
.
Chỉ có điều, Trung Quốc cổ đại cũng là nước đầu tiên phải đối mặt với khủng
hoảng tài chính do việc in ấn tiền giấy tràn lan trong khi giá trị của chúng sụt giảm
dẫn đến tình trạng lạm phát. Kết quả, Trung Quốc phong kiến đã loại trừ hoàn toàn
tiền giấy vào năm 1455 và không lưu hành chúng sau đó vài thế kỷ.
2/ Đồng tiền có kích cỡ lớn nhất thế giới:
- Với kích thước bằng một
trang nhật báo, đồng 100.000 peso
của Philippines chính là đồng tiền
giấy lớn nhất thế giới. Chính phủ
Philippines đã ban hành đồng tiền
này trong năm 1998 để kỷ niệm 100
năm ngày thoát khỏi ách thống trị
của Tây Ban Nha. Đồng tiền này chỉ
dành riêng cho các nhà sưu tầm tiền
và họ đã phải bỏ ra tới 180.000 peso
(3.700 USD) để mua một đồng tiền quá khổ này.
3/ Đồng tiền có giá trị cao nhất
-Đồng tiền có giá trị cao nhất mà Bank
of England cho lưu hành chính là đồng
1.000.000 bảng Anh. Đồng tiền này được ban
hành trong năm 1948 và là một giải pháp tình
thế trong thời kỳ tái thiết sau Chiến tranh thế
giới thứ II. Chỉ dành riêng cho chính phủ Mỹ,
đồng 1.000.000 bảng Anh này đã bị hủy bỏ
sau đó vài tháng vì một số đã lọt vào tay tư
nhân. Tuy bị hủy bỏ, nhưng đồng tiền này
không phải là một tờ giấy lộn. Trong một vụ bán đấu giá năm 2008, một trong hai đồng
1.000.000 bảng Anh còn sót lại được bán với giá 120.000 USD.

4.Đồng tiền bị mất giá khủng khiếp nhất


Để đối phó với tình trạng siêu lạm phát lên tới 231.000.000% và giá một ổ bánh mì
lên tới 300 tỷ đô la Zimbabue, Chính phủ đoàn kết Zimbabue đã ban hành loại tiền giấy có

- 1
Trang - 6 -
Gv:
mệnh giá tới 100.000 tỷ đô la Zimbabue. Đây quả là đồng tiền có dãy số mệnh giá dài nhất,
lên tới 15 chữ số (một con số 1 và 14 con số không).

5/ :
5.1. Tờ Tiền 1 Pound của Ai Cập
-Đây là một trong 7 tờ tiền của Ai Cập đã
được đưa vào lưu thông năm 1961. Một mặt của
tiền có dòng chữ Ả Rập cùng hình ảnh của nhà
thờ Hồi giáo Sultan Qayetbay. Mặt còn lại viết
bằng tiếng Anh lại là hình những ngôi đền được
chạm khắc tại Abu Simbel với hình dạng giống
hệt bốn bức tượng của Pharaoh Ramses II,
người đã trị vì Ai Cập trong 67 năm.

5.2. Tờ Franc của Thụy Sĩ


-Năm 1995, mẫu tiền giấy hiện
tại (là mẫu thứ tám củaThụy Sĩ) đã
được phát hành. Mỗi mệnh giá lại xuất
hiện một bức chân dung của một nghệ
sĩ nổi tiếng tại Thụy Sĩ, phia trên là
những khối màu đậm được phối hợp rất
phá cách thể hiện đựơc đúng chất nghệ
thuật sáng tạo của các nghệ sĩ Thụy Sĩ
– sang trọng lịch lãm và vô cùng hiện
đại. Mặt trước của tờ tiền này tác giả
Honegger - nhà soạn nhạc nổi tiếng,
đồng thời mặt sau có hình ảnh của đầu
bánh xe và bàn phím piano gợi lên ấn
tuợng trong lòng mọi nguời về bản
nhạc nổi tiếng của ông: “Pacific 231” .
5.3. Tờ Tenge của Kazakhstan
- Đơn vị tiền tệ của Kazakhstan là tenge - xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1993
thay thế cho đồng rúp của Liên Xô. Một mặt tiền thể hiện hình dáng của đất nước này trên
bản đồ, một mặt lại kết hợp rất nhiều những hình ảnh đặc trưng cho đất nước bao gồm: Đài

- 1
Trang - 7 -
Gv:
tưởng niệm Astana - Baiterek, cờ Kazakhstan, chữ ký của Tổng thống Nazarbayev và lời
bài hát quốc ca Kazakhstan.

5.4. Tờ Dollar Hongkong


-Trong tháng 7/2007, Hong Kong giới thiệu tờ tiền 10 $ bằng polymer - chất liệu
bền hơn và an toàn rất nhiều so với tiền giấy
thông thường. Cả hai phiên bản 10 $ đều
đựợc thừa nhận là hợp pháp và bắt buộc phải
có cùng một thiết kế sắp xếp các hình ảnh
dạng hình học trừu tượng với cách kết hợp
màu hoa cà, tím, xanh dương và màu vàng
giống như trên. Mẫu thiết kế này cho chúng
ta hình dung ra một Hong Kong với những
lối kiến trúc hiện đại cũng như các hoạt động
lễ hội và văn hóa phong phú giàu tính truyền
thống.

5.4. Tờ Florin của Aruba


-Năm 1986, chính phủ mới của
đảo quốc Aruba đã tạo ra một loại tiề n
duy nhất được gọi là Florin để thay thế
cho đồng florin Antilles đựơc sử dụng
truớc đây. Bắt đầu từ năm 1990, mẫu tiề n
đã được thiết kế lại bởi Evelino Fingal (
một nhà thiết kế đồ họa và là giám đốc
Bảo tàng khảo cổ). Ông đã tìm thấy nguồ n
cảm hứng của mình trong các mẫu thiết kế
lập dị như bức tranh về bộ lạc người M ỹ
bản địa, hay những mảnh gốm, khảo cổ và
động vật hoang dã bản địa. Trên mỗi mặt
của tờ tiền, gồm rất nhiều hình ảnh dạng
hình học rất thú vị được xếp lớp để tạo cho người nhìn ấn tuợng như là nó được cắt dán ra
vậy.

5.6. Đồng Rand của Nam Phi


-Năm 1961, đồng rand đã đựoc thiết kế thay thế cho pound. Tuy nhiên, phải đến
những năm 1990, khi sự phân biệt chủng tộc không còn tồn tại thì chúng mới được giới

- 1
Trang - 8 -
Gv:
thiệu. Mỗi tờ tiền một màu tượng trưng cho
trong những "Big Five" –Những loài động
vật hoang dã to lớn và nổi tiếng châu Phi:
sư tử, voi châu Phi, trâu Cape, báo và tê
giác đen.

5.7. Tờ "Dollar" của châu Nam Cực


-Mẫu sưu tập ở trên là một phần của
bộ sưu tập A1 nó chỉ mới là đề xuất của
Công ty Antarctica Overseas Exchange
Office (Văn phòng Hối đoái Hải ngoại Nam
Cực). Nó được thiết kế dựa trên địa lý khu
vực này và nhằm tuyên truyền bảo vệ các
loài động vật hoang dã. Đó là hình ảnh
những chú chim cánh cụt tại đảo Peterman, ở
mặt trước là những chú chim cánh cụt đang
nhảy xuống vùng nuớc đóng băng, và mặt
kia thì ngược lại, chúng đang lên bờ rời khỏi
vùng phiến băng Ross.

5.8. Đồng Florin Hà Lan


-Tờ tiền này trước đây của Hà Lan giờ đã
được thay thế bằng đồng euro từ ngày 01-1-
2002. Chắc hẳn người Hà Lan sẽ rất tiếc khi
không còn được cầm trên tay đồng tiền rực rỡ
này. Đồng Florin Hà Lan mệnh giá 50 có in
hình hoa hướng dương được thiết kế bởi Jaap
Drupsteen năm 1990. Mặt còn lại bao gồm
các lược đồ phát thanh, điện trở nằm trong
một khối hình - được thiết kế như một phần
của cánh đồng hoa hướng dương, còn ngọn
hải đăng và những chú chim cũng được đưa
vào bức tranh khéo léo theo phong cách nghệ
thuật cổ điển Hà Lan.

- 1
Trang - 9 -
Gv:
5.9. Tờ đôla Úc
-Xuất hiện vào năm 1966 để
thay thế cho đồng pound cũ của Úc .
Đồng đôla Úc mỗi bên là chân dung của
hai nhân vật nổi bật đồng thời thể hiện
những giá trị nghệ thuật và văn hóa thời
đại họ sống. Trong những năm 1980, loại
tiền mới được đưa vào lưu hành với công
nghệ chống làm giả tiên tiến hơn. Tờ tiền
mới một bên là cửa sổ trong suốt, bên
trong có hình in chìm của nhà thám hiểm,
thuyền trưởng James Cook người Anh,
nhà thám hiểm đầu tiên đặt chân đến bờ
biển phía Đông nước Úc.

5.10. Tờ Franc CFP

- Đồng tiền chung của các thuộc địa


của Pháp: Polynésie, New Caledonia, và
Wallis và Futuna là Franc CFP, xuất hiện
vào năm 1945. Thông thường, một mặt
của tờ tiền cho thấy cảnh quan hoặc nhân
vật lịch sử của New Caledonia, còn bên
kia là của của Polynésie. Mặt trước của
tờ 10000 Franc CFP trên mô tả một cách
sinh động một cảnh quan ven biển của
Huahine và người phụ nữ Polynesia; mặt
còn lại xuất hiện rất nhiều hình ảnh san
hô, cá của vùng New Caledonia, và một
phụ nữ người Melanes đeo hoa dâm bụt.

5.11. Tiền Đôla của Quần đảo


Cook
- Quần đảo Cook được tạo nên bởi
15 đảo nhỏ với dân số chỉ vài ngàn
người. Tờ đôla xuất hiện tại nước này
vào năm 1987. Trên tờ tiền là hình ảnh
của thần Ina (nữ thần của Polynesia
tượng trưng cho sự phồn thực) đang cưỡi
trên một con cá mập và mặt bên kia là
chiếc thuyền độc mộc truyền thống cùng
với sự xuất hiện của thần Te-Rongo.

- 1
Trang - 10 -
Gv:

5.12.Tờ Kwacha Zambia

-Năm 1968, Zambia giới thiệu tờ tiền


giấy kwacha của mình. Cá chim ưng là hình ảnh
chính trên hầu hết các tờ tiền; tầm nhìn xa và
phản ứng nhanh nhạy của loài cá này chính là
mục tiêu của Zambia cho nền kinh tế của minh:
khả năng tăng trưởng và phục hồi. Ở mặt sau là
tượng Nữ thần Tự do, đại diện cho cuộc đấu
tranh cho tự do của Zambia khi còn là thuộc địa.

6
:
6.1. Đồng 1 Afghani của người
Afghanistan

-Trước khi bị Mỹ tấn công, thủ lĩnh Taliban


và các lạc trưởng thường cho sản xuất tiền tệ riêng
với các mệnh giá khác nhau. Những đồng tiền xu
này chỉ được giới thiệu năm 2005 như một cách thức chuẩn hóa tiền tệ và khuyến khích
người dân sử dụng quốc tệ thay vì dùng USD hay đồng Rupee của Pakistan.

6.2. Đồng 1 đô la Australia


- Tất cả tiền xu Australia đều có hình ảnh nữ
hoàng Elizabeth đệ nhị ở mặt trước, cùng các biểu
tượng truyền thống khác như chim Superb Lyrebird,
quốc huy, hay hình ảnh Gwoya Jungarai. Trong đồng
1 đô la trên là năm chú kanguru, vật biểu của xứ xở
chuột túi.

6.3. Đồng 2 đô la Canada


- Đồng 2 đô la Canada còn được gọi với cái tên
trừu mến là “toonie”. Người ta đã từng cho rằng có thể
tách được đồng xu này ra khỏi phần tâm của nó.
Nguyên nhân xuất phát từ những đồng xu bị lỗi khi
đúc năm 1966, khi đúc cứng hay làm lạnh phần tâm
đồng xu luôn co lại nhiều hơn phần ngoài. Một vài
tháng sau khi phát hiện lỗi này, sự cố đã được khắc

- 1
Trang - 11 -
Gv:
phục.

6.4.Đồng 2 franc của Thụy Sĩ


Đồng 2 franc Thụy Sĩ cùng với đồng 1 franc và 50
franc còn được sử dụng khá phổ biến ở đất
nước Lichtenstein.

6.5. Đồng 50 centavos của Honduras


- Đồng 50 centavos của Honduras có hình ảnh vị tù
trưởng thiên tài Lempira, người đã lãnh đạo cuộc chiến chống
người Tây Ban Nha vào đầu thế kỷ 16.

6.6. Đồng 2 đô la Hồng Kông


Mặt sau của đồng 2 đô la Hồng Kông được khắc bằng
cả tiếng Anh và tiếng Trung. Mặt trước có hình hoa ban đỏ,
loài hoa có trên quốc kì của đặc khu hành chính này.

6.7. Đồng Rupee của Ấn Độ


Đồng Rupee của Ấn Độ đã có từ khoảng thế kỉ 6 trước
Công Nguyên. Tất cả những đồng Rupee đang được lưu hành
đều có biểu tượng của Ấn Độ ở mặt trước.
Đồng 1 shequel của Israel có biểu tượng hoa ly, từ Yehud viết
bằng tiếng Do thái cổ và quốc huy Israel.

6.8. Đồng 50 koruna của Cộng hòa Czech


Mặt trước của đồng 50 koruna là hình một chú sư tử
cùng mệnh giá tiền và ngày đúc.

- 1
Trang - 12 -
Gv:

6.9. Đồng 100 fils của Bahrain


Đồng 100 fils của Bahrain có hình quốc huy, tương tự
như biểu tượng in trên quốc kì.

II/ Chi tiết đồng tiền từng quốc gia:


1/ :
, VND
a) Lịch sử hình thành:
* Thời Bắc thuộc:
- Căn cứ vào các hoạt động khảo cổ, thời kỳ này tiền đồng Trung Quốc
được lưu hành tại Việt Nam như Hán nguyên thông bảo của nhà Hán, Khai nguyên
thông bảo của nhà Đường và cả những đĩnh vàng, đĩnh bạc cũng được lưu hành.
* Thời phong kiến độc lập
- Ngoài những đĩnh vàng, đĩnh bạc, tiền tệ Việt Nam chủ yếu là tiền đồng, tiền kẽm.
Thời Đinh, Lê: Đinh Tiên Hoàng cho đúc tiền đồng hiệu Thái bình thông
bảo sau đó Lê Đại Hành cho đúc tiền đồng Thiên phúc trấn bảo.

Thời Lý: dưới triều vua Lý Thái Tông, tiền đồng có hiệu Minh đạo thông
bảo, sang đến triều Lý Thần Tông, tiền đồng hiệu là Thuận thiên thông bảo.

- 1
Trang - 13 -
Gv:

Thời Trần, Hồ: các triều vua cũng cho đúc tiền đồng, đến đời Trần Minh
Tông (1323) thì chuyển sang đúc tiền kẽm, tuy nhiên do tiền kẽm sử dụng không
được thuận tiện nên nhanh chóng bị bãi bỏ. Dưới triều vua Trần Thuận Tông, Hồ
Quý Ly chấp chính đã bắt đầu cho phát hành tiền giấy gọi là Thông bảo hội sao.
Tiền giấy Thông bảo hội sao có các loại mệnh giá sau: 1 quan vẽ rồng, 30 đồng vẽ
sóng nước, 10 đồng vẽ cây đào, 5 tiền vẽ chim phượng, 3 tiền vẽ kỳ lân, 2 tiền vẽ
rùa, 1 tiền vẽ mây. Dân cư có tiền cũ phải nộp hết vào kho của Nhà nước và cứ 1
quan tiền đồng đổi thành 1 quan 2 tiền giấy, ai tàng trữ sẽ bị tử hình nhằm loại bỏ
hẳn tiền đồng và bắt buộc sử dụng tiền giấy.

Thời Lê, Mạc: trải qua giai đoạn bị nhà Minh đô hộ, khi Lê Thái Tổ lật
đổ ách thống trị của nhà Minh và lên ngôi vua, tiền đồng trong nước không còn, ông
cho đúc tiền đồng Thuận thiên thông bảo và quy định 1 tiền bằng 50 đồng. Triều
vua Lê Thái Tông đúc tiền đồng hiệu Thiệu bình và quy định 1 tiền bằng 60 đồng.
Năm 1528, Mạc Đăng Dung cho đúc tiền kẽm và cả tiền sắt, đến năm 1658, tiền
kẽm và tiền sắt bị cấm sử dụng. Dưới triều vua Lê Hiển Tông (niên hiệu Cảnh
Hưng), do những cuộc nội chiến liên miên tốn kém chi phí nên nhà vua cho mở rất
nhiều sở đúc tiền để đúc tiền kẽm. Năm 1726 (Cảnh Hưng thứ 37), tiền đồng niên
hiệu Cảnh Hưng thuận bảo lại được đúc từ binh khí và đại bác bằng đồng không sử
dụng nữa.
Thời Nguyễn: Sau khi lên ngôi, vua Gia Long cho mở các sở đúc tiền ở
Bắc thành, Gia Định để đúc tiền đồng Gia Long thông bảo. Các triều vua sau của
nhà Nguyễn tiếp tục đúc tiền đồng và có lúc đúc cả tiền kẽm. Song song với tiền
đồng, các loại thoi bạc, thoi vàng và tiền bạc, tiền vàng cũng xuất hiện từ khoảng
năm 1820, cuối triều Gia Long, đầu triều Minh Mạng. Vàng được định giá gấp 17
lần bạc và mỗi lạng bạc giá 2 quan 3 tiền đồng.
* Thời kỳ Việt Nam là một phần Đông Dương thuộc Pháp
- Đơn vị tiền tệ cả khu vực là Piastre, thường gọi là “bạc”. Lúc đầu có đồng bạc
Mexico nặng 27,73 gam, sau đó có đồng bạc Đông Dương nặng 27 gam.

- 1
Trang - 14 -
Gv:

Đồng bạc Mexico đúc năm 1838 Đồng bạc Đông Dương đúc tại Pháp.
- Ngân hàng Đông Dương cũng phát hành cả tiền giấy. Tờ tiền giấy in hình 3 thiếu
nữ với những bộ trang phục truyền thống của 3 nước Campuchia, Lào và Việt Nam.

Tờ 100 bạc Đông Dương.

* Thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám


- Từ 1945 – 1954, sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, thì giấy
bạc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cũng ra đời ngày 31/11/1946.
- Một mặt in chữ “Việt Nam Dân chủ Cộng hoà” bằng chữ quốc ngữ, chữ Hán
và hình chủ tịch Hồ Chí Minh, một mặt in hình Nông – Công – Binh.
- Các loại giấy bạc đều có số Ả Rập, chữ quốc ngữ, chữ Hán, Lào, Campuchia
chỉ mệnh giá, có ký tên của Bộ trưởng Bộ Tài chính và Giám đốc Ngân khố TW.
Do đó ngoài tên gọi giấy bạc Cụ Hồ, còn tên gọi khác là giấy bạc tài chính.

Tờ giấy bạc tài chính 100 đồng. Tờ giấy bạc tài chính 5 đồng.

- 1
Trang - 15 -
Gv:
- Ngày 5/6/1951, Ngân hàng Quốc gia Việt nam thành lập và phát hành
giấy bạc ngân hàng. 1 đồng ngân hàng đổi lấy 10 đồng tài chính.
- Giấy bạc ngân hàng có các loại mệnh giá: 1, 10, 20, 50, 100, 200, 500,
1.000 và 5.000 đồng. Một mặt in chữ “Việt nam Dân chủ Cộng hoà” và hình Hồ
Chí Minh, một mặt in hình Công – Nông – Binh và bộ đội ở chiến trường. Trên giấy
bạc có số hiệu, mệnh giá ghi bằng số Ả Rập, chữ quốc ngữ và chữ Hán.

Tờ giấy bạc ngân hàng 20 đồng có màu tím.

Tờ giấy bạc ngân hàng 100 đồng.

5.000 đồng.

- Sau đó, do có nhiều khó khăn trong liên lạc, Trung Bộ và Nam Bộ được phát
hành tiền riêng. Tiền này có mệnh giá 1, 5, 20, 50 và 100 đồng. Hình ảnh trang trí
tương tự nhưng có thêm chữ kí của Chủ tịch Uỷ Ban kháng chiến Nam Bộ, đại diện
Bộ trưởng Tài chính và Giám đốc Ngân khố Nam Bộ.

- 1
Trang - 16 -
Gv:
- Từ 1954 – 1975, sau khi Pháp rời khỏi Việt Nam, miền Bắc và miền Nam có 2
chế độ khác nhau, mỗi chế độ in tiền riêng, đều gọi là đồng.
- Ở miền Nam, từ 1953, lưu hành
Đồng (tiền Việt Nam Cộng hoà). Năm
1953, tiền kim loại 10, 20, 50 xu được
đưa vào lưu thông. Năm 1960, có
thêm tiền kim loại 1 đồng, và 10 đồng
năm 1964, 5 đồng năm 1966 và 20
đồng năm 1968. 50 đồng đúc năm
1975 nhưng chưa kịp lưu hành thì
Việt Nam Cộng hoà sụp đổ. Vì thế rất
hiếm đồng xu này còn tồn tại.

- Sau 30/4/1975, tiền miền Nam phải đổi thành tiền giải phóng. Từ Quảng Nam
– Đà Nẵng trở vào, 500 đồng miền Nam đổi lấy 1 đồng giải phóng. Từ Huế trở ra,
1000 đồng miền Nam đổi 3 đồng giải phóng.

Tờ 10 xu. Tờ 2 đồng.

- 1
Trang - 17 -
Gv:
- Vào năm 1978, sau khi đất nước thống nhất về mặt hành chính, đã có
một cuộc đổi tiền nữa. Ở miền bắc 1 đồng giải phóng đổi 1 đồng thống nhất, ở miền
Nam 1 đồng giải phóng đổi 8 hào thống nhất. Có phát hành thêm các loại tiền 5 hào,
1 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 30 đồng, 50 đồng, 100 đồng.

Tờ 5 hào với ảnh cây dừa ở Tờ 1 đồng với ảnh nhà máy Gang
Bến Tre thép Thái Nguyên

Tờ 20 đồng với ảnh máy gặt lúa và đập nước.

- Lần đổi tiền thứ 3 vào năm 1985, khi 10 đồng thống nhất đổi 1 đồng tiền
mới. Phát hành các loại tiền 10, 20, 50 đồng.

Tờ 50 đồng.

- 1
Trang - 18 -
Gv:

Tờ 10 đồng với hình ảnh cầu Thê Húc và đền Ngọc Sơn.
* Cho đến nay
- Tiền giấy cotton 10.000 và 20.000 đồng in vào năm 1990, loại 50.000 đồng
được phát hành từ 15/10/1994, 100.000 đồng cotton phát hành ngày 1/9/2000.

Tờ 100.000.

- Trong những năm gần đây, Việt Nam cho in tiền kim loại mệnh giá nhỏ
(nhưng đã ngừng lưu hành vì tính bất tiện), kết hợp với việc in tiền giấy làm từ
polymer thay cho giấy cotton.

- 1
Trang - 19 -
Gv:

b)Đặc điểm đồng tiền đang lưu hành hiện nay:


- Đồng (VND) là đơn vị tiền tệ chính thức của Việt Nam, do Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam phát hành. Nó có ký hiệu là ₫, mã quốc tế theo ISO 4217 là "VND ".
Một đồng có giá trị bằng 100 xu hay 10 hào. Hai đơn vị xu và hào vì quá nhỏ nên
không còn được phát hành nữa. Tiền giấy được phát hành hiện nay có giá trị 500₫,
1000₫, 2000₫, 5000₫, 10.000₫, 20.000₫, 50.000₫, 100.000₫, 200.000₫ và
500.000₫. Đồng thời cũng có tiền kim loại trị giá 200₫,500₫, 1000₫, 2000₫ và
5000₫. Loại tiền này còn được gọi một cách dân dã là Tiền cụ Hồ, đặc biệt khi
dùng để phân biệt với các loại tiền khác đã từng lưu hành tại Việt Nam có cùng tên
gọi là "đồng".
* : 100đ, 200đ.500d, 1000đ,
5000đ, 10000đ, 20000đ, 50000đ, 100000đ, 500000đ.Tr

- 1
Trang - 20 -
Gv:

- 1
Trang - 21 -
Gv:

:
Miêu tả
Mệnh Kích Phát
Màu chủ đạo Mặt Loại
giá thước Mặt sau hành
trước giấy
120 ×
100 ₫ Nâu đen Quốc huy Tháp Phổ Minh Cotton 1992
59 mm
130 × Hồ Chí
200 ₫ Nâu đỏ Sản xuất nông nghiệp Cotton 1987
65 mm Minh
130 × Hồ Chí
500 ₫ Đỏ cánh sen Cảng Hải Phòng Cotton 1989
65 mm Minh
134 × Hồ Chí
1000 ₫ Tím Khai thác gỗ Cotton 1989
65 mm Minh
134 × Hồ Chí
2000 ₫ Nâu sẫm Xưởng dệt Cotton 1989
65 mm Minh
134 × Hồ Chí
5000 ₫ Xanh lơ sẫm Thủy điện Trị An Cotton 1993
65 mm Minh
140 × Hồ Chí
Đỏ tía Vịnh Hạ Long Cotton 1994
68 mm Minh
10000 ₫
132 × Nâu đậm trên Hồ Chí
Khai thác dầu khí Polymer 2006
60 mm nền vàng Minh
140 × Hồ Chí
Xanh lơ sẫm Xưởng sản xuất đồ hộp Cotton 1993
68 mm Minh
20000 ₫
136 × Hồ Chí
Xanh lơ đậm Chùa Cầu Polymer 2006
65 mm Minh
140 × Xanh lá cây Hồ Chí
Bến Nhà Rồng Cotton 1994
68 mm sẫm Minh
50000 ₫
140 × Hồ Chí
Nâu tím đỏ Huế Polymer 2003
65 mm Minh
145 × Hồ Chí
Nâu sẫm Nhà sàn Bác Hồ Cotton 2000
100000 71 mm Minh
₫ 144 × Xanh lá cây Hồ Chí
Quốc tử giám Polymer 2004
65 mm đậm Minh
200000 148 × Hồ Chí
Đỏ nâu Hòn Đỉnh Hương, Hạ Long Polymer 2006
₫ 65 mm Minh
500000 152 × Xanh lơ tím Hồ Chí Nơi sinh của Hồ Chí Minh,
Polymer 2003
₫ 65 mm sẫm Minh Kim Liên, Nghệ An
* : 200đ, 500đ,
1000đ, 2000đ, 5000đ.

- 1
Trang - 22 -
Gv:

200 đ

500đ

1000đ

2000đ

5000đ

- 1
Trang - 23 -
Gv:
- ô :
Thông số kỹ thuật Miêu tả
Ngày
Mệnh Độ
giá Đường dày Khối Mặt phát
Vật liệu Vành Mặt sau
kính lượng trước hành
mép
"NGÂN HÀNG NHÀ
20,00 1,45 Thép mạ Quốc NƯỚC VIỆT NAM",
200 ₫ 3,2 g Trơn 2003
mm mm nikel huy mệnh giá, hoa văn dân
tộc
Khía răng "NGÂN HÀNG NHÀ
22,00 1,75 Thép mạ cưa ngắt Quốc NƯỚC VIỆT NAM",
500 ₫ 4,50 g 2004
mm mm nikel quãng 6 huy mệnh giá, hoa văn dân
đoạn tộc
"NGÂN HÀNG NHÀ
19,00 1,95 Thép mạ Khía răng Quốc NƯỚC VIỆT NAM",
1000 ₫ 3,80 g 2003
mm mm đồng thau cưa liên tục huy mệnh giá, hình Thủy
Đình, Đền Đô
Khía răng "NGÂN HÀNG NHÀ
23,50 1,80 Thép mạ cưa ngắt Quốc NƯỚC VIỆT NAM",
2000 ₫ 5,10 g 2004
mm mm đồng thau quãng 12 huy mệnh giá, hình nhà
đoạn rông
"NGÂN HÀNG NHÀ
25,50 2,20 Hợp kim Quốc NƯỚC VIỆT NAM",
5000 ₫ 7,70 g Khía vỏ sò 2003
mm mm CuAl6 Ni2 huy mệnh giá, hình Chùa
Một Cột

c) .
-

. cuộc khủng hoảng kinh tế toàn c


. ông Sean Doyle, Đại sứ - Trưởng phái đoàn EU tại Việt Nam nhận định
“Chính phủ Việt Nam đã rất nỗ lực trong việc giữ tình hình kinh tế đất nước tương
đối ổn định trong năm 2009 và đầu năm 2010. Trong bối cảnh thương mại thế giới
sụt giảm và khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tăng trưởng GDP của Việt Nam vẫn
được duy trì, hoạt động xuất khẩu tuy giảm sút nhưng vẫn đạt trên mức trung bình
trong khu vực. Kết quả này có được, một phần lớn là nhờ vào các biện pháp và
chính sách kinh tế mạnh dạn c ủa chính phủ”.
-Tuy nhiên

chế của nền kinh tế - bộc lộ qua cuộc khủng hoảng và sự cần thiết phải tái cơ cấu
một cách nhanh chóng, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhà nước, nhằm tạo ra
sự tăng trưởng bền vững và nâng cao khả năng cạnh tranh. Bên cạnh đó, sự thâm

- 1
Trang - 24 -
Gv:
hụt ngân sách quốc gia, tình trạng lạm phát gia tăng và thương mại sụt giảm cũng là
những thách thức mà Việt Nam phải đối mặt trong năm 2009 và sẽ còn tiếp tục phải
giải quyết trong năm 2010. , thâm
hụt thương mại của Việt Nam sẽ tiếp tục duy trì trong thời gian trung hạn và đồng
VND có thể sẽ tiếp tục giảm giá thêm trong năm 2011. Tăng trưởng GDP thực tế
năm 2010 của Việt Nam sẽ ở mức 6,7%, lạm phát so với cùng kỳ năm trước ở mức
8,5%. Mức tỷ giá VND – USD duy trì đến hết năm 2

1.2/ Malaysia: Ringgit, MYR


a) Lịch sử hình thành:
- Ngày 12 tháng 6 năm 1967, đồng Đôla Malaysia thay thế cho đồng Đôla
của xứ Malaya và Borneo thuộc Anh.
- Đồng đô-la Malaysia là đồng tiền mới được phát hành bởi ngân hàng trung
ương mới, Ngân hàng Negara Malaysia.
- Đến năm 1973, đồng Đôla Malaysia có thể trao đổi ngang giá với Đôla
Singapore và Đôla Brunei.
b) Đặc điểm đồng tiền đang lưu hành:
* : Đồng 1, 5, 10, 20 và 50 xen Malaysia:
- Tiền Malaysia được viết tắt là RM, tức ringgit Malaysia. Theo tỷ giá hiện
nay, 1 ringgit có giá 25 cent Mỹ (0,20 Euro).
- Kể từ ngày 7/12/2005, "tiền xu 1RM sẽ không còn là loại tiền hợp pháp nữa và sẽ
được rút khỏi lưu thông", trích thông báo của Ngân hàng Negara.
- Tiền xu 1 ringgit của Malaysia có màu vàng, được đúc và phát hành đầu
tiên năm 1989, thay thế cho loại tiền giấy cùng giá trị. Tuy nhiên, đến tháng
11/2000, Malaysia cho tái phát hành và lưu thông tiền giấy 1RM.
- Bên cạnh nhược điểm dễ bị làm giả, tiền xu 1RM còn rất nặng nên chúng ít được
sử dụng và thường "nằm ì" trong các chú lợn đất.
-

- 1
Trang - 25 -
Gv:

Xê ri đầu tiên
First Series
Thông số kỹ thuật Miêu tả Ngày
Giá Đúc
trị Đường Phát
Chất liệu Cạnh Mặt trước Mặt sau lần
kính hành
đầu
12
1 sen Đồng Nhà Quốc hội một State title, 1967 tháng 6
18 mm ngôi sao 13 cánh value, năm 1967
Thép mạ và trăng lưỡi liềm đúc
1 sen 1973 ?
đồng
5 sen 16 mm
10 sen 19 mm 12
Nhà Quốc hội một 1967 tháng 6
20 sen 23 mm ngôi sao 13 cánh State title,
Cupronickel value, year of 1967
50 sen và trăng lưỡi liềm
28 mm minting
50 sen Lettered 1971 ?

-Vào ngày 7 tháng 12 năm 2005, tiền kim loại RM1 đã bị hủy bỏ và rút khỏi
lưu thông. Điều này một phần là do các vấn đề với việc tiêu chuẩn hóa (hai phiên
bản tiền xu khác nhau đã được đúc) và giả mạo.
- Ba loại tiền xu thoi vàng, "Kijang Emas" (kijang (một loại nai) là logo
chính thức của Ngân hàng Negara Malaysia) cũng được phát hành với giá trị danh

- 1
Trang - 26 -
Gv:
nghĩa RM 50, RM 100 và RM 200. Loại tiền này đã được phát hành ra 7 tháng
7 năm 2001 bởi Ngân hàng Negara Malaysia và do Royal Mint of Malaysia Sdn
Bhd đúc. Giá mua và bán lại của Kijang Emas được giá thị trường vàng quốc tế
đang lưu hành xác định.
*
- đã phát hành tiền giấy dollar Malaysia lần đầu
vào tháng 6 năm 1967 với các mệnh giá $1, $5, $10, $50 và $100. Mệnh giá $1000
đã được phát hành lần đầu năm 1968. Tiền giấy Malaysia đã luôn luôn mang hình
ảnh của Tuanku Abdul Rahman, Yang di-Pertuan Agong đầu tiên của Malaysia.
- Các máy ATM thường cho ra giấy bạc RM50, hoặc hiếm hoi hơn, giấy bạc
RM10 cùng với giấy bạc RM50.
Giấy bạc Malaysia đã từ lâu theo một mã màu xuất phát từ thời thuộc địa.
Các mệnh giá thấp hơn thì kiểm mẫu này được Singapore và Brunei áp dụng theo
và khi Bank Negara giới thiệu lần đầu giấy bạc RM2 nó sao chép màu hoa cà của tờ
giấy bạc 2 dollar Singapore.
 RM1 - xanh da trời  RM50 - xanh lá cây/xám
 RM2 - hoa cà (không còn  RM100 - tím
lưu hành nữa)  RM500 - cam (không còn
 RM5 - xanh lá caay lưu hành nữa)
 RM10 - đỏ  RM1000 - blue/green
 RM20 - nâu/trắng (không
còn lưu hành nữa)

- 1
Trang - 27 -
Gv:

c) .
-
. Quý 2/2010, tăng trưởng kinh tế Malaysia gần đạt tốc độ tăng
trưởng nhanh nhất trong một thập kỷ. 18/8/2010, ngân hàng trung ương
Malaysia cho biết, GDP của nước này đã tăng 8,9% so với năm ngoái sau khi tăng
trưởng trong quý 1 đạt 10,1%, cao hơn 8,4% so với dự báo của các nhà kinh tế
trong cuộc khảo sát của hãng Bloomberg. Theo thống đốc ngân hàng trung ương
Zeti Akhtar Aziz, tăng trưởng của Malaysia có thể sẽ đạt hơn 6% trong năm nay.

-Ngân hàng trung ương Malaysia đã tăng lãi suất ba lần trong năm nay và có thể sẽ
tiếp tục tăng nếu kinh tế nước này tăng trưởng đủ mạnh để chịu được các chi phí
vay cao do những mối đe dọa đối với sự phục hồi trên thế giới. Tăng trưởng mạnh
của nền kinh tế khiến đồng ringgit của Malaysia tăng 9% so với đồng USD và 22%
so với đồng EUR trong năm nay.
.

- 1
Trang - 28 -
Gv:
1.3/ Campuchia: Riel (KHR)
a) :
- Riel (đọc như Ria, phiên âm tiếng Việt là Riên) là tiền tệ của Campuchia.
Có hai loại tiền riel riêng biệt, loại thứ nhất được phát hành giữa năm 1953 và tháng
5 năm 1975, và loại thứ hai kể từ ngày 1 tháng 4 năm 1980. Ở Campuchia, dollar
Mỹ cũng được sử dụng rộng rãi

* 1953 – 1975
- Năm 1953, chi nhánh tại Campuchia của Institut d'Emission des Etats
du Cambodge, du Laos et du Vietnam đã phát hành tiền giấy đặt hai tên gọi
là piastre và riel. Đồng thời, hai chi nhánh khác cũng có hành động tương tự
với đồng ở Nam Việt Nam và kip ở Lào. Tiền riel đầu tiên được chia ra
100 centimes (viết tắt cent. trên đồng xu) nhưng đồng xu này năm 1959 đã được đổi
thành 100 sen. Trong những năm đầu, hai loại tiền là riel và piastre cùng lưu hành
song song. Thực ra, các đồng bạc giấy riel đầu tiên cũng được đặt tên gọi tên bằng
piastre.
Tiền xu: Các loại tiền xu mệnh giá 10, 20 và 50 centime của năm 1953 và
sen được đúc bằng nhôm và có kích thước giống với các đồng tiền xu kim loại
tương ứng của Lào và Nam Việt Nam (dù xu của Lào không có lỗ). Xu 1 riel có
kích thước của một US nickel và đã được phát hành năm 1970 nhưng đã không
được đưa ra dùng, có lẽ do việc lật đổ chính quyền của Norodom
Sihanouk của Lon Nol.
Tiền giấy: Sau khi phát hành tiền giấy đề tên cả riel và piastre (gần như khớp
với các đồng tiền ở Lào và Nam Việt Nam), một đồng riel thực sự độc lập đã được
phát hành bởi Ngân hàng Quốc gia Campuchia vào năm 1955. Campuchia đã phát
hành nhiều xê ri tiền giấy có mệnh giá 1, 5, 10, 20, 50, 100 và 500 riel. Tiền giấy
1000 và 5000 riel được in nhưng đã không được phát hành để lưu thông. Tờ 5000
riel vừa mới ra với thiết kế về cuộc sống, lịch sử và thần thoại Campuchia.

- 1
Trang - 29 -
Gv:
- : Một trong những gương mặt đá tr
: tòa nhà nhìn từ bên trong khuông viên của cung điện hoàng
gia, trước kia nó là lối vào dành cho vua chúa, ngày nay nó thường mở cửa cho các
vị nguyên thủ đi vào viến thăm. Công chúng không bao giờ được tiếp cận đến khu
vực này!).

-Tờ 10 Riels ( a: là hình ngôi đền cổ Bantye Sray. b: Chợ lớn mới vẫn
còn cho đến ngày hôm nay. Đây là ngôi nhà độc đóa, có hình dấu nhân nếu ta nhìn
từ trên xuống, trong những năm chiến tranh, nó vẫn hiên ngang đứng vững. ngày
nay nó là khu sầm uất, buôn bán nhiều đồ lưu niệm cho khách du lịch thập phương.

* 1975- 1981
-Khmer Republic (1970-1975) gồm có các tờ mệnh giá: 100, 500, 1000 và
5000 Riels :

- 1
Trang - 30 -
Gv:

- Năm 1976, Sihanouk bị quản thúc trong hoàng cung và Pol Pot lên làm Thủ
tướng và người cầm đầu nhà nước chính thức là Khieu Samphon bạn học của Pol
Pot.
Trong một bối cảnh như vậy thì tiền có ý nghĩa gì cho chế độ này dưới thời Pol Pot!
Bộ tiền đầu tiên của Khmer Đỏ đã được in ra với các mệnh giá như sau: 0.1, 0.5, 1,
5, 10, 50 và 100 Riels. Thế nhưng liền khi đó Pol Pot đã cho hũy bỏ lệnh phát hành,
những người có liên quan đến vụ việc này điều bị giết hết!

- 1
Trang - 31 -
Gv:

b) 1980- nay
- Sau khi Việt Nam đánh lui Khmer Đỏ năm 1978, đồng riel đã được tái lập
làm tiền tệ Campuchia vào ngày 1 tháng 4 năm 1980, ban đầu với giá trị 4 riel =
1 dollar Mỹ. Đồng riel có các đơn vị nhỏ hơn, 1 riel bằng 10 kak hay 100 sen. Do
không có tiền để thay thế và do nền kinh tế lúc này đang đỗ vỡ nghiêm trọng, chính
quyền trung ương đã phát tiền cho dân chúng để khuyến khích người dân sử dụng.
- Ở các khu vực nông thôn, tiền riel được sử dụng trên thực tế cho các hoạt
động mua bán. Tuy nhiên, dollar Mỹ cũng được sử dụng, đặc biệt ở các vùng đô thị
và khu du lịch. Ở Battambang và những khu vực khác gần biên giới Thái Lan,
như Pailin, baht Thái cũng được chấp nhận.
Tiền xu: Các đồng tiền xu đầu tiên là xu 5 sen đúc năm 1979 bằng
nhôm. Không có loại đồng xu nào được đúc cho đến năm 1994, khi các xu có
mệnh giá 50, 100, 200, và 500 riel đã được giới thiệu. Tuy nhiên, chúng
không được lưu hành phổ biến.
y
- Trong thời gian trị quốc độc đoán và tàn bạo, Polpot chuyển hướng sang tấn
công vào dân thường Việt Nam sống dọc theo biên giới tiếp giáp. Nhiều cánh
quân Khmer Đỏ đã xâm phạm vùng lãnh thổ Việt Nam và hành quyết rất nhiều
thường dân vô tội, nó tàn bạo hơn cả thời Lonlol sách nhiễu kiều bào, bằng
những cánh hành hình mang rợ; đập đầu, xé xác, móc tim gan...trẻ em thì bị
tóm chân và đập vào tường, phụ nữ thì bị hãm hiếp và dùng cây nhọn thọc
xuyên qua cửa mình...
- Trong khi đó thì có rất nhiều các cán bộ Campuchia thân Việt Nam phải chạy
sang Việt Nam lánh nạn. Kể từ đó mà Việt Nam và Khmer Đỏ có những cuộc
giao tranh triền miên. Trung quốc là nước đứng đằng sau tất cả những diễn biến
này. Nhằm hổ trợ về mặc hậu cần, thập chí 1 chiếc khăng rằng hoàng nơi cổ của
lính Khmer Đỏ cũng được phía Bắc Kinh gửi sang.
- Thế nhưng, Việt Nam không thể ngồi yên để cho dân tình của mình chịu
những nỗi kinh hoàng do Khmer Đỏ gây ra ngày càng lan rộng. Quân đội Việt
Nam đã quy động một lực lượng lớn đánh thẳng vào Campuchia do Khmer Đỏ
cầm quyền. Cuộc chiến này đã làm tổn thất sinh mạng của biết bao bộ đội việt
Nam, mà cho đến nay vẫn bị liệt kê là mất tích...Thế nhưng, lịch sử đã cho thấy
về sự toàn thắng vẻ vang thuộc về quân đội Việt Nam. 07-01-1979, PhnomPenh

- 1
Trang - 32 -
Gv:
đã nằm dưới sự kiểm soát của quân đội Việt Nam ( và vào mỗi năm đảng Nhân
Dân Campuchia lấy ngày lịch sử này làm ngày giải phóng).
- Ngay sau khi Việt Nam đánh chiếm được PhnomPenh, Trung Quốc đã mở
một cuộc tấn công biển người và thọc xâu vào biên giới Việt Nam, khiến cho sự
tổn thất sinh mạng đôi bên khá nặng nề, một số vùng lãnh thổ đó đã bị Trung
Quốc chiếm lấy.
- Mặc dù bị Trung Quốc đánh phá từ phương Bắc, quân lính Việt Nam vẫn tiếp
tục truy đuổi những cánh quân Khmer Đỏ, có lúc đã tràng sang qua lãnh thổ
Thái Lan. Từ cửa ngỏ Thái, Trung Quốc tiếp tục viện trợ vủ khí cho những tàn
quân Khmer Đỏ còn cầm cự dọc theo biên giới Thái nhằm tạo cơ hội đánh du
kích vào quân Việt Nam.
- Tưởng cũng nên biết thêm là, truớc khi Việt Nam tiến chiếm được
PhnomPenh, thì quốc vương Norodom Shihanouk bị Khmer Đỏ quản thúc tại
hoàng cung. Một toán biệt kích Việt Nam nhảy dù xuống nhằm tìm cánh giải
cứu cho nhà vua, thế nhưng đã bị Khmer Đỏ phát hiện và tiêu diệt, chỉ duy 1
người còn sống...
- Sau khi chiến tranh lắng dịu, ngày 8 tháng 1 năm 1979 Hội đồng Nhân dân
Cách mạng nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia do Heng Samrin làm Chủ tịch
đã được thành lập.
- Trong giai đoạn chủ tịch Heng Samrin nắm quyền,( People Republic of
Kampuchea 1979-1991), ngân hàng Cam cho phát hành bộ tiền với các mệnh
giá như sau: 0.1, 0.2, 0.5, 1, 5, 10, 20, 50 riels.

- 1
Trang - 33 -
Gv:

* Đến năm 1987, ngân hàng cho tái phát hành thêm hai mệnh giá : 5, 10
riels ( chúng đều giống với mẫu cũ nhưng khác màu).
- Tiếp theo giai đoạn :State of Cambodia (1990-1992): Gồm có các tờ mệnh
giá như sau : 50, 100, 200, 500, 1000 và 2000 Riels.
Nhưng đặt biệt của giai đoạn này có 2 tờ ; 1000 & 2000 là 2 tờ không được lưu
hành.

- 1
Trang - 34 -
Gv:

+ Tờ 1000 Riels:

+ Tờ 2000 Riels:

* The Kingdom of Cambodia phát hành năm 1995 với những mệnh giá như:
100, 200, 500, 1000 , 2000, 5000, 10.000, 20.000, 50.000 & 100. 000 Riels.
- Các tờ không còn lưu hành : 100, 200, 500, 1000 2000& 20.000 Riels.
- Các tờ vẫn còn lưu hành và chúng sẽ ko còn tái phát hành: 5000, 10.000, , 50.000
& 100. 000 Riels
+ Tờ 100 Riels:

+ Tờ 200 Riels:

- 1
Trang - 35 -
Gv:

+ Tờ 500 Riels:

+ Tờ 1000 Riels:

+ Tờ 2000 Riels:

+ Tờ 5000 Riels:

- 1
Trang - 36 -
Gv:

+ Tờ 10.000 Riels:

+ Tờ 20.000 Riels:

+ Tờ 50.000 Riels:

+ Tờ 100.000 Riels:

- Đến tận năm 1999, thì ngân hàng Campuchia cho phát hành tờ 1000 Riels
mẫu mới. Tờ này đã không được tái in và trở nên hiếm. Nhưng hiện vẫn còn đang
lưu hành.

- 1
Trang - 37 -
Gv:
+ Tờ 1000 Riels:

- Tiền giấy đã được phát hành năm 1980 với cách mệnh giá 1, 2 và 5 kak, 1,
5, 10, 20 và 50 riel. Các tờ bạc giấy sau này có mệnh giá lên đến 100.000 riel. Tuy
nhiên, bạc giấy trên 10.000 riel thì ít phổ biến hơn. Xê ri các tờ bạc giấy dần được
giới thiệu gần đây từ năm 2001-2002 là 50, 100, 500, 1000, 5000, 10.000, 50.000 và
100.000 riel.
c) ampuchia.
- ,nền kinh tế Campuchia,
dù gần đây có những bước tiến, nhưng vẫn tiếp tục gánh chịu những di sản của mấy
thập kỷ chiến tranh

.Nhất là những địa điểm du lịch


1.4/ : Nhân ( NDT)

- Người Trung Quốc sáng chế ra tiền giấy vào cuối thế kỷ VIII, đầu thế
kỷ IX Công nguyên. Ban đầu người ta gọi là phi tiền (tiền bay) vì nó nhẹ đẽn
nỗi gió có thể thổi bay khỏi tay. .Tờ bạc đầu tiên, đúng hơn là một tờ "hối phiếu"
trả ngay chứ không phải thực sự là tiền. Thương nhân có thể ký thác tiền của mình
tại kinh đô rồi nhận một chứng chỉ viết trên giấy đem đi đổi lấy tiền ở các tỉnh.
Triều đình đã nhanh chóng nắm lấy công việc kinh doanh tiền tệ vốn do tư nhân
đảm nhiệm này ngay từ năm 812. Khi ấy, tiền thuế và các khoản thu khác đã được
chuyển từ các địa phương về kinh đô theo phương thức này. Các "hối phiếu" vẫn
được sử dụng nhưng nay do các quan chức của triều đình phát hành tại kinh đô và
có thể mang về các địa phương đổi lấy hàng hoá như muối, chè,...
- Tiền giấy thực sự dùng làm phương tiện trao đổi và được bảo đảm bằng
một khoản tiền ký thác ra đời vào khoảng đầu thế kỷ thứ X tại tỉnh Tứ Xuyên miền
Nam, kết quả của một sáng kiến tư nhân đem đến đầu thế kỷ XI triều đình đã cho
phép 16 cơ sở kinh doanh tư nhân, tức "ngân hàng" phát hành hối phiếu. Nhưng
đến năm 1023, triều đình đã giành lấy hoạt động tư doanh này và thành lập một
công sở phát hành tiền giấy với nhiều loại giá trị khác nhau và được bảo đảm bằng

- 1
Trang - 38 -
Gv:
những khoản tiền ký thác. Tiền giấy do ngân hàng đó phát hành có ghi rõ nó chỉ
có giá trị trong 3 năm, kèm theo ngày phát hành và ngày thu hồi. Năm 1107,
tiền giấy được in bằng nhiều bản khắc gỗ với ít nhất là 6 màu.
- Tiền giấy do triều đình phát hành đã chiếm một tỉ lệ rất lớn trong quỹ tiền
tệ. Năm 1126 đã có 70 triệu "điếu" (một "điếu" bằng một nghìn đồng tiền) đã
được chính thức phát hành, phần lớn không có khoản tiền ký thác nào bảo đảm, do
đó đã sinh ra nạn lạm phát khá trầm trọng.

Một vấn đề khác nhanh chóng nảy sinh là


vấn đề về tiền giả. Vì ai cũng có thể dùng giấy để in
tiền nên nhà cầm quyền phải tìm cách làm cho quá
trình sản xuất tiền giấy thật phức tạp, sao cho kẻ khác
khó làm giả đúng y hệt. Một số biện pháp kỹ thuật
tinh vi bí mật đã nhanh chóng được áp dụng trong
việc làm tiền giấy như dùng nhiều màu, có những
hình vẽ cực kỳ phức tạp và trộn sợi vào trong giấy.
Vật liệu cơ bản làm cả tơ vào nữa. Có thể đem những
tờ bạc bị dây bẩn hoặc nhầu nát đổi lấy tờ mới nhưng
phải trả thêm một số tiền nhỏ về chi phí in tờ bạc.

- Khi người Mông Cổ thống trị Trung Quốc, họ phát hành một loại tiền
giấy gọi là ti tệ (tiền lụa). Vật ký thác để đảm bảo giá trị loại tiền này không phải
là kim loại quý mà là những kiện lụa. Năm 1294, tiền lụa Trung Quốc được tiêu
dùng ở tận những nơi xa xôi như Ba Tư. Năm 1965, các nhà khảo cổ học đã tìm ra
được tại đó hai tờ "tiền lụa".
- Về sau, dưới triều Minh vai trò của tiền giấy bị hạ thấp. Nhà Minh phát
hành vào năm 1375 một loại giấy bạc mới gọi là "Đại Minh thông bảo". Trong
một thời gian dài tới 200 năm, loại giấy bạc này chỉ được phát hành ở mỗi giá trị và
được coi là tiền lưu hành hợp pháp. Điều đó tất nhiên gây nhiều khó khăn cho các
hoạt động thương mại, mặc dù vẫn có tiền đồng lưu hành và dùng làm loại tiền nhỏ
sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày. Nhưng do lạm phát, loại tiền "thông bảo" này
mất dần giá trị, sau đó được thay thế loại tiền đúc bằng bạc.

- Trung Quốc sử dụng bạc, cùng với các loại hợp kim đồng đúc, làm đơn vị
tiền tệ đầu tiên là vào thời nhà Hán (206 TCN-220 CN). Trước thời nhà Tống (960-
1280), người Trung Quốc dùng bạc thoi chủ yếu như một phương tiện tích trữ của
cải. Vào thời nhà Nguyên, các thỏi bạc được đúc thành dạng thuyền hoặc hài, và
được gọi là "Nguyên bảo" - nghĩa là "bảo vật nhà Nguyên". Các thỏi bạc trong các
thế kỷ sau cũng có hình dạng này. 1436, khai niên của Minh Anh Tông,
chính quyền chính thức bắt đóng thuế bằng bạc. Từ thời Minh mạt đến thời nhà

- 1
Trang - 39 -
Gv:
Thanh (1644-1911), người ta chủ yếu dùng các bạc thoi trong các giao dịch ngoại
thương cho đến khi đồng xu bằng bạc hiện đại được đúc vào năm 1889.
b) .
- Nhân dân tệ (NDT) là tên gọi chính thức của đơn vị tiền tệ nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa (nhưng không sử dụng chính thức ở Hong Kong và Macau).
Đơn vị đếm của đồng tiền này là nguyên/viên (tiền giấy), giác hoặc phân (tiền kim
loại). Một nguyên bằng mười giác. Một giác lại bằng mười phân. Trên mặt tờ tiền
là chân dung chủ tịch Mao Trạch Đông.
-Nhân dân tệ do Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc phát hành. Năm 1948,
một năm trước khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, nhân dân tệ đã
được phát hành chính thức. Tuy nhiên, đến năm 1955, loạt mới được phát hành thay
cho loạt thứ nhất. Năm 1962, loạt thứ hai lại được thay thế bằng loạt mới. Loạt thứ
tư được phát hành trong thời gian từ năm 1987 đến năm 1997. Loạt đang dùng hiện
nay là loạt thứ năm phát hành từ năm 1999, bao gồm các loại 1 phân, 2 phân, 5
phân, 1 giác, 5 giác, 1 nguyên, 5 nguyên, 10 nguyên, 20 nguyên, 50 nguyên và 100
nguyên. Theo tiêu chuẩn ISO-4217, viết tắt chính thức của Nhân dân tệ là CNY,
tuy nhiên thường được ký hiệu là RMB, biểu tượng là ¥.
- Trong ngôn ngữ Trung Quốc, “Yuan - đồng” thường được gọi là “kuai” và
“jiao - hào” là “mao”. Loại nhân dân tệ bằng xu it khi được sử dụng, trừ tại các siêu
thị. Tiếp theo là những nét mô tả chính của tờ 1 đồng nhân dân tệ nói trên. Việc
nhìn ra các loại khác nhau của đồng nhân dân tệ là dễ dàng vì trên mỗi tờ tiền giấy
hoặc tiền xu kim loại có in số đếm Ả rập tương ứng .
* :1 Yuan; 5 Yuan ;10 Yuan ;20 Yuan ; 50
Yuan; 100 Yuan:
-Tờ 1 nhân dân tệ có 2 loại, tờ mầu đỏ xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1996,
trong khi tờ thứ 2 màu xanh năm 1999.

+Mặt chính của tờ 1 nhân dân tệ phát hành


năm 1996 là chân dung của hai phụ nữ dân tộc
thiểu số, và mặt sau là Vạn lý Trường thành.

- 1
Trang - 40 -
Gv:

+Mặt chính của tờ 1 nhân dân tệ phát hành năm 1999 là chân dung cố Chủ
tịch Mao Trạch Đông, trong khi mặt sau là Hồ Tây (Xihu Lake) ở thành phố Hàng
Châu - phía nam Trung Quốc.

-Tờ 5 nhân dân tệ cũng có hai loại, tờ mầu nâu được thiết kế và phát hành
năm 1980, trong khi tờ màu tía năm 1990.
+Mặt chính của tờ phát hành năm 1980
là chân dung hai người dân tộc thiểu số - một
phụ nữ Tây Tạng và một đàn ông Hồi giáo,
trong khi mặt sau là bức tranh phong cảnh
sông Dương Tử, con sông dài nhất Trung
Quốc.

+Mặt chính của tờ phát hành năm 1999


là chân dung của Mao Trạch Đông và mặt sau
là Taishan Maintain – một ngọn núi phía đông
tỉnh Quảng Đông Trung Quốc – đã được
UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên và
văn hóa thế giới.

-Tờ 10 nhân dân tệ cũng có hai loại – loại thông thường xuất hiện lần đầu
năm 1999, trong khi loại đặc biệt được Ngân hàng Trung ương phát hành vào ngày
8/7 (2008) nhằm đánh dấu sự kiện Thế vận hội Bắc Kinh. Mặt chính của loại thông
thường là chân dung Mao Trạch Đông, còn mặt sau là bức phong cảnh Tam Hiệp
- 10 Yuan, 20 Yuan, 50 Yuan, 100Yuan:

- 1
Trang - 41 -
Gv:

c) :
-

.
-. Theo Soros_ Chủ tịch quỹ đầu tư Soros Fund Management LLC, bí mật
thành công của Trung Quốc nằm ở hệ thống phân cấp rõ ràng giữa tài khoản vốn và
tài khoản vãng lai mà nhiều nước không có. Trong đó tài khoản vốn được kiểm soát
rất chặt chẽ. Điều này khiến Nhân dân tệ bị định giá thấp trong một thời gian dài,
giúp Trung Quốc liên tục đạt thặng dư thương mại lớn.Quan trọng hơn, sự phân
chia hệ thống tài kho ản này có tác dụng như hệ thống thuế nhưng hiệu quả hơn, bởi
nó cho phép Trung Quốc có lợi thế về giá trị xuất khẩu mà không cần kích thích để
tăng năng suất lao động. Việc kiểm soát chặt tài khoản vốn cùng hệ thống phân cấp
tài khoản giúp Trung Quốc chống đỡ được với cuộc khủng hoảng toàn cầu vốn gây
thiệt hại nghiêm trọng cho các nước phát triển.
- Kết thúc Hội nghị thượng đỉnh G20 diễn ra tại Hàn Quốc cuối 2/2010, Quỹ
Tiền tệ Quốc tế - IMF nhận định đôla Mỹ đang được định giá quá cao, trong khi đó
đồng n
.Tuy nhiên giá trị
đồng nhân dân tệ đột ngột tăng cao sẽ làm cho kinh tế Trung Quốc đình đốn, nhiều
doanh nghiệp bị đóng cửa, thất nghiệp gia tăng, xã hội mất ổn định, vai trò lãnh đạo
của đảng cộng sản Trung Quốc bị đe dọa.
- Tại Hoa Kỳ, một số nghị sĩ cho rằng Trung Quốc tiến hành cạnh tranh
không lành mạnh, khi kìm giữ đồng nhân dân tệ ở mức thấp hơn giá trị thực của nó
từ 20 đến 40%, để thúc đẩy xuất khẩu sang Mỹ. Trong tháng chín, Hạ viện Hoa Kỳ

- 1
Trang - 42 -
Gv:
đã thông qua dự luật tố cáo Bắc Kinh thao túng tỷ giá và nếu văn bản này được
Thượng viện thông qua, thì chính quyền Washington được phép áp dụng các biện
pháp thuế quan, đánh vào sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc.
-Kinh tế gia Lu Ting, thuộc Bank of America – Merill Lynch ở Hồng Kông,
được AFP trích dẫn nhận định, nếu đồng nhân dân tệ, đột nhiên hoặc trong vòng vài
tháng, tăng giá trị ở mức như các nghị sĩ Mỹ nói, đa số các công ty sản xuất hàng
cho xuất khẩu của Trung Quốc sẽ bị mất thị phần. Do đó, không một nước nào trên
thế giới có thể làm như vậy.
-Hồi tháng 6/2010, Trung Quốc tỏ ra nhân nhượng trước áp lực của quốc tế
khi tái lập cơ chế cho phép đồng nhân dân tệ dao động với biên độ hạn hẹp là 0,5%
xoay quanh tỷ giá cơ bản được Ngân hàng Nhà nước ấn định hàng ngày.
Thế nhưng, từ đó đến nay, theo giới chuyên gia, đồng nhân dân tệ chỉ tăng
giá 2,4% so với đồng đô la Mỹ, vào lúc châu Âu và Hoa Kỳ phải đối mặt với quá
trình phục hồi kinh tế chậm chạp sau khủng hoảng và không ngừng kêu gọi Trung
Quốc tiếp tục tăng giá đồng tiền quốc gia.
- Nhân hội nghị thượng đỉnh Trung Quốc – Châu Âu tại Bruxelles, thủ tướng
Ôn Gia Bảo đã giải thích rằng nhiều doanh nghiệp xuất khẩu của Trung Quốc chỉ có
mức lợi nhuận từ 2 đến 3% và ông khuyên các nước châu Âu không nên hòa đồng
theo Hoa Kỳ để gây áp lực buộc Trung Quốc tăng giá trị đồng tiền.Lãnh đạo Trung
Quốc nói thẳng, « Nếu đồng nhân dân tệ tăng từ 20 đến 40%, thì điều này sẽ làm
cho nhiều doanh nghiệp Trung Quốc phá sản, nhiều người bị thất nghiệp (…) và
gây ra rối loạn xã hội ». Theo ông, thế giới sẽ không có lợi lộc gì nếu kinh tế Trung
Quốc bị khủng hoảng.
- Kinh tế gia Ian Sloan, thuộc Khối lượngachusetts Institute of Technology
nhấn mạnh, tính chính đáng của đảng cộng sản Trung Quốc nắm quyền lãnh đạo đất
nước phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hàng năm. Từ hơn một thập niên
qua, Trung Quốc luôn luôn có tỷ lệ tăng trưởng hàng năm trên 8%. Theo dự báo của
IMF, năm tới, 2011, tỷ lệ này của Trung Quốc có thể lên tới 9,6%.
Tuy nhiên, đây là một nền kinh tế hướng ngoại, tăng trưởng phụ thuộc nặng
nề vào xuất khẩu. Việc đột ngột nâng giá đồng nhân dân tệ sẽ gây ra phản ứng dây
chuyền với một loạt doanh nghiệp phải đóng cửa và sa thải nhân công. Trong ngắn
hạn, chính quyền Trung Quốc có thể đối phó qua việc hỗ trợ lĩnh vực ngân hàng và
các doanh nghiệp, nhưng về lâu dài, những biện pháp này không thể giúp duy trì sự
ổn định xã hội và lòng trung thành đối với đảng cộng sản.
Do vậy, theo giới quan sát, bất chấp áp lực của Hoa Kỳ và châu Âu, chính
quyền Trung Quốc kiên quyết duy trì nhịp độ điều chỉnh giá trị đồng nhân dân tệ
như đã thông báo hồi tháng sáu.
Tại cuộc họp thường niên của Quỹ Tiền tệ Quốc tế, khai mạc ngày 08/10, tại
Washington, thống đốc Ngân hàng Nhà nước Trung Quốc Châu Tiểu Xuyên tuyên
bố, đồng nhân dân tệ sẽ được điều chỉnh dần dần để tiến tới mức « cân bằng »
nhưng ông bác bỏ mọi « liệu pháp sốc ».

- 1
Trang - 43 -
Gv:
Theo lời một chuyên gia tại ngân hàng Crédit Suisse ở Hồng Kông thì giá trị đồng
yuan sẽ tăng, nhưng theo tốc độ ốc sên. Từ nay đến cuối năm, đồng tiền Trung Quốc sẽ
tăng khoảng 1% và năm tới sẽ tăng từ 2 đến 3%.
2/ Châu Âu:
2.1/ Tây Ban Nha: Peseta(Pts)
a) Lịch sử hình thành:
- Peseta đã được giới thiệu vào năm
1869 sau khi Tây Ban Nha gia nhập Liên
minh tiền tệ Latin vào năm 1868. Luật của
Tây Ban Nha 26 tháng 6 năm 1864 ra lệnh
chuẩn bị cho việc gia nhập Liên minh tiền tệ
Latin (thành lập năm 1865), các peseta đã trở
thành một phân khu của peso với 1 duro peso
= 5 pesetas. Các peseta thay thế Escudo tại
một tỷ lệ là 5 pesetas = 1 peso duro = 2 escudos.
- Những bất ổn chính trị của thế kỷ XX do các liên minh tiền tệ để chia tay,
cho đến 1927 nó chính thức kết thúc.
- Năm 1959, Tây Ban Nha đã trở thành một phần của hệ thống pegging các
peseta tại một giá trị của 60 pesetas = 1 đô la Mỹ . Năm 1967, các peseta theo sự
mất giá của đồng Bảng Anh , duy trì tỷ giá hối đoái là 168 pesetas = 1 pound và
thiết lập một tỷ lệ mới là 70 pesetas = 1 $.
- Peseta đã được thay thế bằng đồng euro trong năm 2002 . Tỷ giá hối đoái
là 1 € = 166,386 pesetas.
b) Đ :
:
- Năm 1869 và năm 1870, tiền xu đã được giới thiệu với các mệnh giá 1, 2,
5, 10 & 50 céntimos, 1, 2 và 5 pesetas. 25 pesetas xu đã được giới thiệu vào năm
1876. Năm 1889, 20 pesetas tiền xu đã được giới thiệu
1904, tiếp theo đó của tiền bạc trong năm 1910. Các
đồng tiền kim loại cuối cùng đã được ban hành vào năm 1912.

Năm 1925 với sự giới thiệu của niken-đồng kền 25 céntimos


- Năm 1926, 50 céntimos bạc đã được thực hiện, tiếp theo là giới thiệu một
phiên bản ẩn náu trong 25 céntimos vào năm 1927.
- Năm 1934, Cộng hòa Tây Ban Nha lần thứ hai phát hành tiền kim loại cho
25 và 50 céntimos và peseta.

- 1
Trang - 44 -
Gv:
- Năm 1937, một đồng xu 5 céntimos sắt đã được giới thiệu cùng với một
peseta 1 đồng.
- Các cuối cùng của đảng Cộng hòa là một vấn đề, đục lỗ bằng đồng 25
céntimos vào năm 1938.
- Chính phủ Quốc gia giới thiệu nhôm 5 và 10 céntimos vào năm 1940, tiếp
theo là đồng-nhôm 1 đồng xu peseta vào năm 1944.
- Năm 1947, các đồng tiền đầu tiên peseta 1 mang chân dung của Francisco
Franco đã được ban hành.
- Nickel 5 pesetas theo sau vào năm 1949.
- Năm 1949, đục lỗ đồng kền 50 céntimos đã được giới thiệu, tiếp theo là
đồng-nhôm 2 ½ pesetas năm 1954, đồng kền 25 & 50 pesetas năm 1958 và nhỏ hơn
nhôm 10 céntimos năm 1959.
- Silver 100 pesetas đã được phát hành giữa 1966 và 1969, với nhôm 50
céntimos giới thiệu vào năm 1967.
- Sau sự gia nhập của vua Juan Carlos , sự thay đổi duy nhất để đúc tiền đã
được sự giới thiệu của cupronickel 100 pesetas năm 1976. Cupronickel 200 pesetas
đã được giới thiệu vào năm 1986, tiếp theo là đồng-nhôm 500 pesetas năm 1987.

- Năm 1989, nhôm-đồng 5 pesetas đã được giới thiệu. Nhôm-đồng 25


pesetas & nhỏ hơn 50 pesetas đã được giới thiệu vào năm 1990, cùng với hơn 200
pesetas.
- Cho đến ngày 19 Tháng Sáu năm 2001, sau đồng tiền được đúc bằng tiếng
Tây Ban Nha Nacional de Fabrica Âm sắc y Moneda :

Đường Trọng
€ equiv. Thành phần
kính lượng
0.006
1₧ 14 mm 0,55 g Nhôm
(0.01)
5₧ 0.03 17,5 mm 3g Nhôm đồng
10 ₧ 0.06 18,5 mm 3g Cupronickel
25 ₧ 0.15 19,5 mm 4,25 g Nhôm đồng
50 ₧ 0.30 20,5 mm 5,60 g Cupronickel
100 ₧ 0.60 24,5 mm 9,25 g Nhôm đồng
200 ₧ 1.20 25,5 mm 10,5 g Cupronickel
500 ₧ 3.01 28 mm 12 gr Nhôm đồng

- 1
Trang - 45 -
Gv:

- Ngày lớn hơn xuất hiện bên ngoài các ngôi sao là ngày thiết kế. Các ngày
tháng của một số đồng tiền Tây Ban Nha có thể được tìm thấy trên sao nhỏ 6-điểm
trên Mặt chính một trong hai hoặc ngược lại.
* :
- Năm 1874, các Banco de España
5 và 10 pesetas. Bộ
Tài chính (Ministerio de Hacienda) giới thiệu 50 céntimos, 1 và 2 pesetas năm
1938, cũng như phát hành tiền đóng dấu (bao gồm bưu chính hoặc tem thuế gắn liền
với đĩa tông) với các mệnh giá 5, 10, 15, 20 , 25, 30, 40, 45, 50 và 60 céntimos.

- 1
Trang - 46 -
Gv:
- Từ giữa những năm 1940, mệnh giá phát hành được 1, 5, 25, 50, 100, 500
và 1000 pesetas.Năm 1978, 5000 pesetas đã được giới thiệu.Số 200 và 500 pesetas
được thay thế bằng tiền xu năm 1986 và 1987.

- 2000 pesetas giới thiệu vào năm 1983, 200 pesetas trong năm 1984
và 10.000 pesestas vào năm 1987.
- ền giấy đã được giới thiệu giữa năm 1982 và 1987 và vẫn còn
hợp pháp cho đến khi sự ra đời của đồng euro.

Kích
Giá € equiv. Màu sắc Chân dung
thước
trị
120 × 65 Leopoldo Alas
200 ₧ 1.20 Da cam
mm Leopoldo Alas
129 × 70 Màu
500 ₧ 3.01 Rosalia de Castro
mm xanh
1 000 138 × 75 Benito Pérez
6.01 Xanh
₧ mm Galdós
2 000 147 × 80 Juan Ramón
12.02
₧ mm Jiménez
5 000 156 × 85 Juan Carlos I của
30.05 Nâu
₧ mm Tây Ban Nha
Juan Carlos I của
10 000 165 × 85 Tây Ban Nha và
60.10
₧ mm Felipe, Prince of
Asturias

- 1
Trang - 47 -
Gv:

1992:
€ Màu
Giá trị Kích thước Chân dung
equiv. sắc
Hernán Cortés và Francisco
1 000 ₧ 6.01 130 × 65 mm Xanh
Pizarro
2 000 ₧ 12.02 138 × 68 mm José Celestino Mutis
5 3 146 ×
Nâu Christopher Columbus
000 ₧ 0.05 71 mm
1 6 154 × Juan Carlos I của Tây Ban
0 000 ₧ 0.10 74 mm Nha và

- Andorra sử dụng tiền xu và tiền giấy từ Tây Ban Nha, không có Andorran
riêng peseta, và họ đã được chuyển đổi thành pesetas bình thường. Các peseta
Andorran (ADP) là một 01:01 peg với peseta Tây Ban Nha
Peseta giấy và tiền đã được pháp luật đấu thầu trên 31 tháng mười hai 2001,
tiếp tục trao đổi vô thời hạn tại bất kỳ chi nhánh của ngân hàng trung ương .
Euro tiền kim loại đã được giới thiệu vào tháng Giêng năm 2002, và ngày 01
tháng 3 năm 2002, các peseta mất tình trạng hợp pháp của mình tại Tây Ban Nha,
và cũng ở Andorra. Tỷ giá hối đoái là 1 euro = 166,386 ESP
Giá cả tại nhiều siêu thị Andorran và cơ sở bán lẻ khác vẫn hiển thị hai giá
trong euro và pesetas hoặc trong euro và franc Pháp
c)
- Vào năm 1992, sự mất giá của đồng peseta đã làm tăng tính cạnh tranh cho
hàng hóa xuất khẩu của nước này. Tây Ban Nha là một trong những quốc gia tiên
phong trong việc sử dụng thay thế đồng tiền chung châu Âu euro vào ngày 1 tháng
1 năm 2002

- 1
Trang - 48 -
Gv:

: Franc(CHF)
:
- Trước năm 1798, khoảng 75 đơn vị đã làm cho đồng tiền ở Thụy Sĩ, trong
đó có 25 bang và nửa bang, 16 thành phố, và abbeys, kết quả trong khoảng 860
đồng tiền khác nhau trong lưu thông, với các giá trị khác nhau
- Năm 1798, các nước Cộng hòa Helvetic giới thiệu một loại tiền tệ dựa trên
thaler Berne , được chia thành 10 batzen hoặc rappen 100.
- Các franc Thụy Sĩ là bằng 6 ¾ gram bạc nguyên chất hoặc 1 ½ franc Pháp.
- Franc này được ban hành cho đến cuối Helvetic Cộng hòa năm 1803,
nhưng phục vụ như là mô hình cho các loại tiền tệ của một số bang ở Thụy Sĩ Liên
minh được thành lập lại
- Mặc dù 22 bang và nửa bang phát hành tiền xu từ năm 1803, và năm 1850,
ít hơn 15% số tiền trong lưu thông ở Thụy Sĩ vào năm 1850 đã được sản xuất trong
nước, phần còn lại là nước ngoài, chủ yếu là mang về bởi lính đánh thuê. Ngoài ra,
một số ngân hàng tư nhân cũng bắt đầu phát hành tiền giấy đầu tiên, do đó, trong
tổng số, ít nhất là 8.000 đồng tiền khác nhau và ghi chú đã được lưu hành tại thời
điểm đó, làm cho hệ thống tiền tệ cực kỳ phức tạp.
- Để giải quyết vấn đề này, mới Hiến pháp Liên bang Thụy Sĩ năm 1848 quy
định rằng Chính phủ Liên bang sẽ là thực thể chỉ được cho phép để kiếm tiền ở
Thụy Sĩ. Sau đó là hai năm sau đó của liên bang đầu tiên của Đạo luật tiền đúc,
thông qua hội Liên bang vào ngày 07 tháng 5 năm 1850, trong đó giới thiệu các
franc là đơn vị tiền tệ của Thụy Sĩ. Nó thay thế các loại tiền tệ khác nhau của các
bang Thụy Sĩ , một số trong đó đã sử dụng một franc (chia thành 10 batzen và
rappen 100) được trị giá 1 ½ franc Pháp .
- Năm 1865, Pháp , Bỉ , Italia , và Thụy Sĩ đã thành lập Liên minh tiền tệ
Latin , trong đó họ đã đồng ý giá trị tiền tệ quốc gia của họ vào một tiêu chuẩn là
4,5 gam bạc hoặc 0,290322 gram vàng. Ngay cả sau khi liên minh tiền tệ đã bị mờ
đi trong những năm 1920 và chính thức kết thúc vào năm 1927, đồng franc Thụy Sĩ
vẫn còn trên các tiêu chuẩn đó cho đến năm 1936, ngày 27 tháng trong thời gian
khủng hoảng . Đồng tiền được giảm giá 30% sau khi phá giá của đồng Bảng Anh ,
đồng đô la Mỹ và đồng franc Pháp. Năm 1945, Thụy Sĩ gia nhập hệ thống Bretton
Woods và cố định các franc cho đồng đô la Mỹ ở mức $ 1 = 4,30521 franc ( tương
đương với 1 franc = 0,206418 gam vàng). Điều này đã được thay đổi đến $ 1 =
4,375 F (1 franc = 0,203125 gam vàng) vào năm 1949.
- Từ giữa năm 2003 và giữa năm 2006, của tỷ giá đồng franc với các đồng
euro đã được ổn định ở một giá trị trong khoảng 1,55 CHF / euro, do đó, franc Thụy
Sĩ đã tăng và giảm song song với đồng euro so với đồng đô la Mỹ và các đồng tiền

- 1
Trang - 49 -
Gv:
khác Trong tháng ba năm 2008, franc Thụy Sĩ được giao dịch trên một đồng đô la
Mỹ lần đầu tiên.
- Các franc Thụy Sĩ có lịch sử được coi là một loại tiền tệ ẩn náu an toàn với
lạm phát hầu như bằng không và pháp luật yêu cầu việc tối thiểu là 40% được hỗ
trợ bởi dự trữ vàng. Tuy nhiên, liên kết này với vàng, trong đó có từ những năm
1920, đã được chấm dứt vào Ngày 01 tháng 5 2000 sau một cuộc trưng cầu. Đến
tháng ba năm 2005, sau một chương trình bán vàng, các Ngân hàng quốc gia Thụy
Sĩ đã tổ chức 1.290 tấn vàng dự trữ đó tương đương với 20% tài sản của mình.
:
* Tiền xu:
- Năm 1850, tiền xu đã được giới thiệu với các mệnh giá 1, 2, 5, 10, và 20
centimes và ½, 1, 2, và 5 F, với 1 và 2 centimes đánh bằng đồng, 5, 10, và 20
centimes tại billon , và mệnh giá đồng franc trong bạc tiền phạt 0,900. Giữa năm
1860 và năm 1863, phạt tiền bạc 0,800 đã được sử dụng, trước khi các tiêu chuẩn
được sử dụng tại Pháp của 0,835 độ mịn đã được áp dụng cho tất cả các đồng xu
bạc, ngoại trừ 5 F (mà vẫn giữ độ mịn 0,900) năm 1875. Năm 1879, billon được
thay thế bằng niken-đồng kền trong và 10 centimes 5 và bằng niken trong 20
centimes.

- Cả hai cuộc chiến tranh thế giới chỉ có một tác động nhỏ trên tiền kim loại
của Thụy Sĩ, với đồng và kẽm tiền xu tạm thời được ban hành. Năm 1931, kích
thước của các đồng tiền franc 5 được giảm từ 25 gam đến 15, với nội dung bạc
giảm xuống 0,835 độ mịn.
- Những đồng xu 1 centime vẫn còn được
sản xuất cho đến năm 2006, mặc dù trong bao giờ
giảm số lượng, nhưng nó không có vai trò lớn trong
nền kinh tế tiền tệ trong quý thứ tư của thế kỷ XX
(khoảng năm 1975-2000).
- Trong số những thay đổi đáng chú ý đã được thiết kế mới cho những đồng
xu 5 franc vào năm 1888, 1922, 1924 (nhỏ) và 1931 (chủ yếu chỉ là giảm kích
thước). Một thiết kế mới cho những đồng xu bằng đồng đã được sử dụng từ năm
1948 . Tiền xu miêu tả một vòng các ngôi sao (như các đồng tiền franc 1 nhìn thấy

- 1
Trang - 50 -
Gv:
bên cạnh khoản này) đã được sửa đổi lần từ 22 sao đến 23 sao vào năm 1983, kể từ
khi các ngôi sao đại diện cho các bang Thụy Sĩ, nó đã được cập nhật để đại diện cho
sự mở rộng năm 1979 của liên bang Thụy Sĩ.
- Có 10 đồng xu từ năm 1879 trở đi centime (trừ
các năm 1918-1919 và 1932-1939) đã có cùng thành phần,
kích thước và thiết kế cho đến nay (2009) và vẫn còn hợp
pháp và được tìm thấy trong lưu thông.

10 centimes 1879
- Ngoài những đồng tiền lưu thông nói chung, nhiều loạt các đồng tiền kỷ
niệm đã được ban hành, cũng như bạc và đồng xu vàng . . Những đồng tiền không
hợp pháp đấu thầu nhiều hơn, nhưng có thể đổi được giá trị có mặt tại văn phòng
đăng bài, và tại các ngân hàng quốc gia và bang. của họ giá trị của vật liệu hoặc thu
bằng hoặc vượt quá giá trị mặt.

Tổng quan của Thụy Sĩ đồng tiền hiện hành


Đường Độ Trọng
Gi Thàn
kính dày lượng Phát biểu
á trị h phần
(mm) (mm) (g)
Xuất xứ
Cupronickel
1.8 hoặc tinh
5 centimes 17.15 1.25 Nhôm đồng
1.8 khiết Nickel
đến năm
1980
Xuất xứ
Cupr hiện nay
10 centimes 19.15 1.45 3
onickel đúc từ năm
1879
Cupr
20 centimes 21.05 1.65 4
onickel
Trong bạc
1 / 2 franc
18.20 1.25 2.2 Cupronickel đến năm
(50centimes)
1967
Trong bạc
Cupr
1 franc 23.20 1.55 4.4 đến năm
onickel
1967
Trong bạc
2 francs 2 F 27.40 2.15 8.8 Cupronickel đến năm
1967

- 1
Trang - 51 -
Gv:
Trong bạc
cho đến
Cupr
5 francs 5 F 31.45 2.35 13.2 năm 1967
onickel
và năm
1969

* Tiền giấy
- Trong năm 1907, Ngân hàng Quốc gia Thụy Sĩ đã qua việc phát hành tiền
giấy từ các bang và các ngân hàng khác nhau. Nó giới thiệu mệnh giá của F 50,
100, 500 và 1000 . Năm 1914, Kho bạc Liên bang phát hành tiền giấy mệnh giá của
F 5, 10 và 20.

+ : 10 franc
: 126 × 74 mm

: Le Corbusier

- 1
Trang - 52 -
Gv:
: 08/4/1997

+ : 20 franc
: 137 × 74 mm

: Arthur Honegger
: 01/10/1996

+ : 50 franc
: 148 × 74 mm
: xanh
: Sophie Taeuber-Arp Sophie Taeuber-Arp
: 03/10/1995

+ : 100 franc

- 1
Trang - 53 -
Gv:
: 159 × 74 mm
: xanh dương
: Alberto Giacometti
: 01/10/1998

+ : 200 franc
: 170 × 74 mm
: nâu
: Ramuz Charles Ferdinand Ramuz
+ Ng : 01/10/1997

+ : 1000 franc
: 181 × 74 mm
: Purple
: Jacob Burckhardt
: 01/04/1998

c) :
- Đồng Franc Thụy Sỹ trước đây từng được coi là một đồng bạc có độ an
toàn cao trong những thời điểm xảy ra khủng hoảng tài chính quốc tế. Tuy nhiên,
trong cuộc khủng hoảng 2008 (hiện nay), đồng tiền này đang mất giá mạnh.

- 1
Trang - 54 -
Gv:
Ngày 17/3/2008 vừa qua, đồng Franc Thụy Sỹ lên giá tới mức 0,9638 Franc đổi
được 1 USD - cao nhất từ năm 1971 tới nay, nhưng hiện đã rớt về mức 1,2140
Franc đổi được 1 USD và ít có khả năng phục hồi trong năm 2009. Khả năng của
Ngân hàng Trung ương Thụy Sỹ (SNB) trong việc hỗ trợ đồng tiền và nền kinh tế
cũng đang giảm dần.
- m thấp hơn mức giảm
điểm của chỉ số Nasdaq trên thị trường Mỹ, chỉ số này vẫn mất 31% số điểm trong
năm 2008.
- Sau khi tăng 1,9% trong năm 2008. Sản xuất công nghiệp trong tháng 11
năm 2008 của Thụy Sỹ đã sụt giảm với tốc độ mạnh nhất kể từ năm 1995 tới n ay.
- Đồng franc cũng đã tăng giá do sức mạnh tương đối của nền kinh tế Thụy
Sỹ. Tăng trưởng đang tiếp tục mạnh hơn, trong khi đó tiêu dùng nội địa duy trì ở
mức rất cao. SNB đã nâng dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2010 từ mức 1,5% lên
2%.
- Franc của
.

: Pound (GBP)

( ký hiệu : £, mã ISO : GBP ) là đơn vị tiền tệ chính thức của


Vương quốc Anh, bao gồm các lãnh thổ hải ngoại và thuộc địa. Ký hiệu
của đồng bảng Anh ban đầu có 2 vạch trên thân (₤), sau này mới
chuyển thành một gạch (£), ký hiệu này xuất xứ từ ký tự L trong LSD
(tên viết tắt của các đơn vị trong hệ đếm 12 – librae, solidi, denarii,
chuyển sang tiếng Anh là Pound, silling và pence).

a) Lịch sử lâu đời


- Đồng bảng Anh là đồng tiền lâu đời nhất còn được sử dụng sau khi một số
quốc gia thuộc khối EU chuyển sang dùng đồng Euro (€). Nó là đồng tiền được lưu
trữ trong các quỹ dự trữ ngoại tệ toàn cầu, mức phổ biến chỉ sau đồng đô la Mỹ và
đồng Euro. Đồng bảng đứng thứ tư về khối lượng giao dịch ngoại tệ toàn cầu sau
đồng đô la Mỹ, đồng Euro và đồng Yên Nhật.
- Các đồng bảng Anh được cho là đồng tiền tệ lâu đời nhất vẫn được sử dụng
cho đến ngày hôm nay. Được giới thiệu bởi vua
Henry II vào đầu năm
1158, song lúc đó, chúng
chưa được gọi là “đồng
bảng Anh” mà dùng “xu
Tealby” làm đơn vị tiền
tệ.
Đồng Tealby cổ.

- 1
Trang - 55 -
Gv:

- Elizabeth I cùng nhóm cố vấn của


bà đã đưa ra “đồng bảng Anh” như một đơn
vị tiền tệ vào năm 1560-1561 để chống lạm
phát, tuy nhiên, việc này lại phát sinh ra
việc làm bạc giả gây cản trở giá trị của tiền
tệ.
Trước đồng bảng Anh, trong thời
gian đầu thời kỳ Trung cổ, những đồng xu
làm bằng bạc được sử dụng như một loại
tiền tệ. Kể từ đó, đồng bảng vẫn giữ một vị trí ổn định bất kể các đồng tiền khác
của Châu Âu thay đổi ra sao. Qua các khủng hoảng tài chính năm 1621, 1694 -96,
1774 và 1797, đồng bảng vẫn vững vàng.

- Ngay cả những thời điểm khó khăn (khi Nội chiến nước Anh gây loạn lạc)
cũng không làm đồng bảng mất giá. Có ý kiến cho rằng, nhờ đồng tiền vững giá
trong nhiều thế kỷ, nước Anh xây dựng được nền tảng tài chính ưu việt, hệ thống tín
dụng an toàn, uy tín trong suốt thế kỷ 18. Đồng bảng là đồng tiền chính thức
của Ngân hàng Anh ngay khi nó được thành lập năm 1694.
:
- Bảng Anh được phát hành dưới 2 dạng là tiền kim loại và tiền giấy:

* Tiền kim loại: do xưởng đúc tiền hoàng gia phát hành bao gồm mệnh giá 1
xu, 2 xu, 5 xu, 10 xu, 20 xu, 1 bảng và 2 bảng. Có cả đồng 5 bảng nhưng ít được sử
dụng.

Trên đồng 1 xu có hình cổng thành Westminster


Palace. Được phát hành ngày 15 tháng 2 năm 1971.

Trên đồng 2 xu có hình biểu tượng của Huân tước xứ


Wales. Được phát hành ngày 15 tháng 2 năm 1971.

Trên đồng 5 xu có hình hoa Thistle, quốc hoa của xứ


Scotland. Hiện tại phiên bản nhỏ hơn được phát hành tháng 6
năm 1990 (phiên bản lớn hơn được giới thiệu năm 1968, bị hủy
năm 1990).

- 1
Trang - 56 -
Gv:

Trên đồng 10 xu có hình một con sư tử, tượng trưng cho


xứ England. Hiện tại phiên bản nhỏ hơn phát hành tháng 9 năm
1992 (phiên bản lớn hơn được giới thiệu năm 1968 song đã bị
hủy vào năm 1993).

Đồng 20 xu có hình Tudor Rose – quốc hoa của


Vương Quốc Anh. Phát hành ngày 9 tháng 6 năm 1982.

- Đồng 1 bảng có rất nhiều hình ảnh phản ánh các


quốc gia khác nhau của Vương quốc Anh: biểu tượng sư tử
quen thuộc của đội tuyển Anh, biểu tượng của cây thánh giá
Celtic xứ Bắc Ireland. Được phát hành vào ngày 21 tháng 4
năm 1983.

- Đồng 2 bảng có thiết kế đại diện cho sự phát triển


về công nghiệp ở Anh. Phát hành ngày 15 tháng 6 năm
1998.

- Đồng 50 xu có hình Britannia, nữ thần tượng


trưng cho đại đế quốc Anh và hình một con sư tử cũng là
biểu tượng của nước Anh. Hiện tại, bản nhỏ hơn được giới
thiệu tháng 9 năm 1997,(phiên bản lớn hơn được giới thiệu
tháng 10 năm 1969 và bị hủy năm 1998).

* Tiền giấy : do ngân hàng Anh và các ngân hàng ở Scotland, bắc Ireland
phát hành. Bao gồm các mệnh giá : 5 bảng, 10 bảng, 20 bảng và 50 bảng.
Trên tờ 5 bảng có in hình Elizabeth Fry,
một nhà hoạt động xã hội đã có công cải thiện
điều kiện sống cho phụ nữ ở các nhà tù Châu
Âu. Song tờ 5 bảng này đã không còn là đồng
tiền tệ chính thức vào ngày 21 tháng 11 năm
2003.

- 1
Trang - 57 -
Gv:
Trên tờ 10 bảng có in
hình Charles Darwin, nhà khoa học tự
nhiên, người đề xuất Thuyết Tiến hóa.
Ngoài ra, nó còn được in hình các hệ
động thực vật mà ông đã từng khám
phá.

-Tờ 20 bảng có hình Edward Elgar, một nhà soạn nhạc người Anh.

-Tờ 50 bảng có hình John Houblon, người sáng lập Ngân hàng Anh và là
thống đốc đầu tiên của ngân hàng Anh.
Có cả tiền giấy mệnh giá 100 bảng, nhưng không lưu thông trên thị trường.
Tiền giấy mệnh giá 1 bảng được dùng ở quần đảo Channels và Scotland
: Bảng Anh vẫn luôn là một trong những đồng tiền có giá
trị cao nhất trên thế giới.
- Đồng bảng Anh là đồng tiền lâu đời nhất còn được sử dụng sau khi một số
quốc gia thuộc khối EU chuyển sang dùng đồng Euro (€). Nó là đồng tiền được lưu
trữ trong các quỹ dự trữ ngoại tệ toàn cầu, mức phổ biến chỉ sau đồng đô la Mỹ và
đồng Euro. Đồng bảng đứng thứ tư về khối lượng giao dịch ngoại tệ toàn cầu sau
đồng đô la Mỹ, đồng Euro và đồng Yên Nhật.
- Các đồng bảng Anh được cho là đồng tiền tệ lâu đời nhất vẫn được sử dụng
cho đến ngày hôm nay. Được giới thiệu bởi vua Henry II vào đầu năm 1158, song
lúc đó, chúng chưa được gọi là “đồng bảng Anh” mà dùng “xu Tealby” làm đơn vị
tiền tệ.

- 1
Trang - 58 -
Gv:
- Giá trị lịch sử lâu đời, sức mạnh trên thị trường tiền tệ chính là những gì
người ta nhận xét về đồng bảng Anh.
2.4 Liên Bang Nga: RUBLE(RUB)
a) Lịch sử hình thành:
-RUBLE là tiền tệ của Liên bang Nga và hai nước cộng hòa tự trị Abkhazia
và Nam Ossetia. Trước đây, đồng rúp cũng là tiền tệ của Liên Xô và Đế quốc Nga
trước khi các quốc gia này tan rã. Đồng rúp được chia thành 100 kopek,. Mã ISO
4217 là RUB; mã trước đây là RUR, nói về đồng rúp Nga trước thời điểm đặt tê n
năm 1998 (1 RUB = 1000 RUR).
-Hiện tại, không có biểu tượng chính thức cho đồng rúp, dù hiện đang được
sử dụng. Nhiều biểu tượng đã được đề xuất,bao gồm cả: "РР" (cyrillic cho "RR"),
một "R" với hai dấu gạch ngang (giống như đồng peso Philipin) và một "Р" với một
dấu gạch ngang.
:
*Tiền giấy:

* Hình ảnh: 5 rúp


+ Kích thước: 137 × 61 mm
+ Màu sắc chính: Xanh
+Mặt phải: Các Thiên niên kỷ của Nga tưởng niệm trên nền của nhà thờ
Saint Sophia ở Veliky Novgorod
+ Mặt trái: Pháo đài tường của Điện Kremlin Novgorod

* Hình ảnh: 10 rúp


+ Kích thước: 150 × 65 mm
+ Màu sắc chính: xanh lá cây và màu nâu sẫm

- 1
Trang - 59 -
Gv:
+ Mặt phải: Cầu qua sông Yenisei ở Krasnoyarsk , Chapel
+ Mặt trái: Krasnoyarsk nhà máy thủy điện

* Hình ảnh: 50 rúp


+ Kích thước: 150 × 65 mm
+ Màu sắc chính: Màu xanh và tím, tương ứng
+ Mặt phải: Điêu khắc ở chân cột co hinh giô
Petropavlosk Fortress ở Saint Petersburg
+ Mặt trái: Cựu chứng khoán xây dựng

* Hình ảnh: 100 rúp


+ Kích thước: 150 × 65 mm
+ Màu sắc chính: xanh- đỏ tía
+Mặt phải: Điêu khắc trên hiên của Nhà hát Bolshoi ở Moscow
+ Mặt trái: Các nhà hát Bolshoi

* Hình ảnh:500 rúp


+ Kích thước: 150 × 65 mm

- 1
Trang - 60 -
Gv:
+ Màu sắc chính: Màu tím và màu xanh tương ứng
+ Mặt phải: Đài tưởng niệm Peter Đại đế ,
Sedov tàu thuyền và các thiết bị đầu cuối biển ở Arkhangelsk
+Mặt trái: Tu viện Solovetsky

* Hình ảnh:1000 rúp


+ Kích thước: 157 × 69 mm
+ Màu sắc chính: xanh
+ Mặt phải: Đài tưởng niệm Yaroslav I Wise
+ Mặt trái: John Giáo Hội Baptist tại Yaroslavl

* Hình ảnh:5000 rubles


+ Kích thước: 157 × 69 mm
+ Màu sắc chính: màu da cam
+ Mặt phải: Đài tưởng niệm Nikolay Muravyov-Amursky ở Khabarovsk
+ Mặt trái: Khabarovsk cầu qua sông Amur

*Tiền đồng:

Đồng 10 kopek năm 2003(bạch kim) Đồng 10 rúp năm 2009

- 1
Trang - 61 -
Gv:
- Đồng 1, 5, 10, 50 kopek và 1, 2, 5 rúp

+Mệnh giá: 1 kopek


- Đường kính:15,5mm
o Thành phần: Cupronickel -
thép
- Mặt phải: Saint George
- Mặt trái: Giá trị
- Mệnh giá: 5 kopeks
- Đường kính:18,5mm
- Thành phần: Cupronickel - thép
- Mặt phải: Saint George
- Mặt trái: Giá trị

+ Mệnh giá: 10 kopeks


- Đường kính:17,5mm
- Thành phần: Brass 1997-
2006, thau mạ 2006 thép
- Mặt phải: Saint George
- Mặt trái: Giá trị

+ Mệnh giá: 50 kopeks


- Đường kính:19,5mm
- Thành phần: Brass 1997-
2006,
thau mạ 2006 thép
- Mặt phải: Saint George
- Mặt trái: Giá trị

- 1
Trang - 62 -
Gv:

+ Mệnh giá: 1 đồng rúp


- Đường kính:20,5mm
o Thành phần: Cupronickel
1997-2009,
Nickel mạ thép năm 2009
- Mặt phải: 2-đầu đại bang
biểu tượng của Ngân hàng của
Nga
- Mặt trái: Giá trị

+ Mệnh giá: 2 rúp


- Đường kính:23 mm
o Thành phần: Cupronickel
1997-2009,
Nickel mạ thép năm
2009
o Mặt phải: 2-đầu đại bàng
biểu tượng
của Ngân hàng của Nga
- Mặt trái: Giá trị

+ Mệnh giá: 5 rúp


- Đường kính:25mm
- Thành phần: Cupronickel –
đồng 1997-2009, Nickel mạ
thép năm 2009
- Mặt phải: 2-đầu đại bàng
biểu tượng của Ngân hàng của
Nga
- Mặt trái: Giá trị
+ Mệnh giá: 10 rúp
- Đường kính:22mm
- Thành phần: Thép mạ
đồng thau
- Mặt phải: 2-đầu đại bang
biểu tượng của Ngân hàng của
Nga
- Mặt trái: Giá trị

- 1
Trang - 63 -
Gv:
c)Nhận định:
-Tờ Kinh tế Trung Quốc dẫn nguồn Liên hợp Tảo báo của Singapore ngày
21/6 cho hay, Tổng thống Nga Dmitry Medvedev hy vọng, đồng Rúp của nước này
sẽ trở thành một trong những đồng tiền dự trữ của thế giới.
-Theo nhận định của Chủ tịch Hiệp hội ngân hàng khu vực Nga, ủy viên Ủy
ban ngân hàng quốc gia Nga Anatoly Aksakov cho rằng, đồng rúp mất giá sẽ có ích
cho sự phục hồi của nền kinh tế Nga.
-Nhiều chuyên gia kinh tế cũng có cùng nhận xét như vậy và cho rằng, trong
bối cảnh thị trường tài chính thế giới tiếp tục bất ổn định, việc phá đồng rúp Nga
không chỉ giúp ích cho kinh tế Nga mà còn là phương tiện dự trữ có triển vọng cho
các quốc gia khác.
-Theo họ, đồng rúp là một trong những ngoại tệ có triển vọng hơn cả, nhờ
nền kinh tế Nga có nhiều nguồn dự trữ lớn. Theo nhận định của một số nhà kinh tế,
trong những năm tới, đồng rúp Nga có đủ tiềm năng để trở thành ngoại tệ dự trữ.
Những ngân hàng hàng đầu của thế giới cũng khuyến khích các khách hàng lớn của
mình mua đồng rúp, bởi theo họ đây là sự đầu tư có lợi hơn cả.

2.5 :Koruna(CZK)
a)Lịch sử hình thành:
- Trong tiếng Séc, từ koruna có nghĩa là "vương miện". Đồng tiền này chính
thức được sử dụng từ ngày 18 tháng 2 năm 1993 sau khi Cộng hòa Séc và Slovakia
tách khỏi Tiệp Khắc. Ký hiệu trong giao dịch quốc tế của đồng koruna Séc theo ISO
4217 là CZK.
Đồng tiền koruna của Cộng hòa Séc bắt đầu tham gia các tỉ giá hối đoái từ
năm 1995 và được thả nổi kể từ năm 1999. Trong năm 2007, chỉ số lạm phát của
đồng tiền này là 2,4% và đã được duy trì ổn định trong suốt nhiều năm qua. Cộng
hòa Séc có kế hoạch gia nhập khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu (euro) vào
năm 2012 nhưng sau đó đã tuyên bố hoãn lại. Đầu năm 2008, Ngân hàng Quốc gia
Séc tuyên bố sẽ lùi thời hạn gia nhập khu vực đồng tiền chung đến năm 2019

b) Đ :
*Tiền giấy:

- Mệnh giá: 50 Kč

- 1
Trang - 64 -
Gv:
+ Kích thước: 134 × 64 mm
+ Màu sắc chính; đỏ
+ Mặt phải: Saint Agnes của Bohemia và Thánh Tâm
+ Mặt trái: Thánh Salvator trần của Giáo Hội (một phần của Tu viện của St
Agnes của Bohemia ở Prague) và trang trí chữ A

- Mệnh giá: 100 Kč


+ Kích thước: 140 × 69 mm
+ Màu sắc chính: Màu xanh lá cây, hồng
+ Mặt phải: Charles IV
+ Mặt trái: Con dấu của Đại học Charles

+ Mệnh giá: 200 Kč


+ Kích thước: 146 × 69 mm
+ Màu sắc chính:cam
+ Mặt phải: John Amos Comenius
+ Mặt trái: Orbis pictus , bàn tay của người lớn đi qua để con của một bàn
tay

- 1
Trang - 65 -
Gv:

- Mệnh giá:500 koruna


+ Kích thước: 152 × 69 mm
+ Màu sắc chính: Màu nâu, màu hồng
+ Mặt phải: Božena Nemcova và hoa hồng
+ Mặt trái: Laureate người phụ nữ tượng trưng cho tất cả các nhân vật phụ
nữ trong cuốn sách của Nemcova

-Mệnh giá: 1000 Kč


+ Kích thước: 158 × 74 mm
+ Màu sắc chính: Violet
+Mặt phải: František Palacký , bật gốc cây
+ Mặt trái: Đại bàng giang rộng đôi cánh của nó trong lâu đài của Tổng giám
mục ở Kroměříž , nơi một preparig quốc hội hiến pháp của đế quốc Áo đã được tổ
chức năm 1848

-Mệnh giá: 2000 Kč


+ Kích thước: 164 × 74 mm
+ Màu sắc chính: Xanh
+ Mặt phải: Emmy Destinn
+ Mặt trái: Euterpe và motif âm nhạc như violin

- 1
Trang - 66 -
Gv:

-Mệnh giá: 5000 Kč


+ Kích thước: 170 × 74 mm
+ Màu sắc chính: Màu xanh, tím
+ Mặt phải: Tomáš Masaryk Garrigue
+ Mặt trái: Gothic và Baroque tòa nhà ở Prague , ở trung tâm thống trị Thánh
Vitus Cathedral)
*Tiền Kim Loại: 5 0 h, 1, 2, 5, 10, 20, 50 Kč.

b) Nhận định: Đồng tiền koruna của Cộng hòa Séc bắt đầu tham gia các tỉ
giá hối đoái từ năm 1995 và được thả nổi kể từ năm 1999. Trong năm 2007, chỉ số
lạm phát của đồng tiền này là 2,4% và đã được duy trì ổn định trong suốt nhiều năm
qua. Cộng hòa Séc có kế hoạch gia nhập khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu

- 1
Trang - 67 -
Gv:
(euro) vào năm 2012 nhưng sau đó đã tuyên bố hoãn lại. Đầu năm 2008, Ngân hàng
Quốc gia Séc tuyên bố sẽ lùi thời hạn gia nhập khu vực đồng tiền chung đến năm
2019.
2.6 : KRONE (KR)
a)Lịch sử hình thành:
- Cho tới cuối thế kỷ 18, đồng krone được định giá trị bằng 8 đồng rigsdaler
Đan Mạch Đồng krone mới được đưa ra lưu hành vào năm 1873, thay cho đồng
rigsdaler Đan Mạch với tỷ giá 2 kroner = 1 rigsdaler. Đồng krone Đan Mạch được
lưu hành là kết quả của Liên minh tiền tệ Scandinavia, gồm các nước Đan Mạch,
Thụy Điển và 2 năm sau thêm Na Uy gia nhập. Tổ chức này tồn tại tới Thế chiến
thứ nhất. Đồng krone Đan Mạch dựa trên bản vị vàng với tỷ lệ 2.480 kroner = 1
kilogram vàng nguyên chất.
- Sau khi Liên minh tiền tệ Scandinavia giải thể vào năm 1914 thì Đan Mạch,
Thụy Điển và Na Uy đều quyết định thay đổi tên tiền riêng của mình.
- Đan Mạch quay trở lại bản vị vàng năm 1924, nhưng tới năm 1931 thì từ bỏ
vĩnh viễn. Từ năm1940 tới 1945, đồng krone Đan Mạch gắn chặt với đồng
Reichsmark Đức.
- Sau khi chấm dứt cuộc chiếm đóng của Đức quốc xã năm 1945, thì tỷ giá
hối đoái được ấn định là 24 kroner = 1 bảng Anh, tới tháng 8 cùng năm thì tỷ giá
giảm xuống còn 19,34 (4,8 kroner = 1 dollar Mỹ). Trong hệ thống Bretton Woods,
Đan Mạch phá giá tiền của mình so với đồng bảng Anh và dollar Mỹ vào năm 1949
với tỷ giá 6,91 kroner = 1 dollar Mỹ. Tới năm 1967 lại phá giá lần nữa dẫn tới tỷ giá
là 7,5 kroner = 1 dollar Mỹ và 18 kroner = 1 bảng Anh.

Tiền giấy:
Loạt tiền năm 2001:

+ Mệnh giá:50 kroner


- Kích thước: 125 × 72 mm
- Màu sắc: Tím
- Mặt trước: Karen Blixen
Mặt sau: Quái vật đầu người mình ngựa từ Nhà thờ Landet

- 1
Trang - 68 -
Gv:

+ Mệnh giá: 100 kroner


- Kích thước: 135 × 72 mm
- Màu sắc: vàng cam
- Mặt trước: Carl Nielsen
- Mặt sau: Rắn thần từ Nhà thờ Tømmerby

+ Mệnh giá: 200 kroner


- Kích thước: 145 × 72 mm
- Màu sắc: xanh lá cây
- Mặt trước: Hình Johanne Luise Heiberg
- Mặt sau: sư tử từ nhà thờ chính tòa Viborg

+ Mệnh giá: 500 kroner


- Kích thước: 155 × 72 mm
- Màu sắc: xanh dương
- Mặt trước: Niels Bohr
- Mặt sau: Hiệp sĩ đấu với con rồng từ Nhà thờ Lihme

- 1
Trang - 69 -
Gv:

+Mệnh giá: 1000 kroner


- Kích thước: 165 × 72 mm
- Màu sắc: đỏ
- Mặt trước: Hình họa sĩ Anna Ancher, Hình họa sĩ Michael Ancher
- Mặt sau: Cuộc đấu giữa 2 hiệp sĩ từ nhà thờ Bislev

*Loạt tiền giấy in hình các cầu:

+ Mệnh giá: 50 kroner


- Mặt trước: Cầu Sallingsund
- Mặt sau: Chậu Skarpsalling

+ Mệnh giá: 100 kroner


- Mặt trước: Cầu Lillebælt cũ

- 1
Trang - 70 -
Gv:
- Mặt sau: Dao găm Hindsgavl

+ Mệnh giá: 200 kroner


- Mặt trước: Cầu Knippelsbro
- Mặt sau: Tấm đai bằng đồng từ Langstrup

+ Mệnh giá: 500 kroner


- Mặt trước: Cầu hoàng hậu Alexandrine
- Mặt sau: Chậu bằng đồng thiếc từ Keldby

+ Mệnh giá: 1000 kroner


- Mặt trước: Cầu Storebælt
- Mặt sau: Xe ngựa chở thần Mặt trời
+ Nước sử dụng: Đan Mạch bao gồm cả các lãnh thổ tự trị Greenland và
Quần đảo Faroe.
*Tiền đồng:

-Mệnh giá: 50 øre


+Mặt phải: vương miện của
vua
+Mặt trái: Trái tim (biểu
tượng của xưởng
+Đường kính: 21,5 mm
+Độ dày:1,55 mm
+Khối lượng:4,3g
+Chất liêụ:Thiếc-đồng

-Mệnh giá: 1 krone


+Mặt phải: Chữ viết tắt
lồng nhau
của Nữ hoàng Margrethe II
+Mặt trái: Thiết kế truyền
thống (có lỗ ở giữa)
+Đường kính:20,25 mm
+Độ dày:1,6 mm
+Khối lượng:3,6g
+Chất liệu: kền-đồng

-Mệnh giá: 2 kroner


+Mặt phải: Chữ viết tắt lồng nhau
của Nữ hoàng Margrethe II

- 1
Trang - 71 -
Gv:
+Mặt trái: Thiết kế truyền thống (có lỗ ở giữa)
+Đường kính: 24,5 mm
+Độ dày: 1,8 mm
+Khối lượng: 5,9 g
+Chất liệu: kền-đồng

-Mệnh giá: 5
+Mặt phải: Chữ viết tắt lồng nhau
của Nữ hoàng Margrethe II
+Mặt trái: Thiết kế truyền thống
(có lỗ ở giữa)
+Đường kính: 28,5 mm
+Độ dày: 2 mm
+Khối lượng: 9,2 g
+Chất liệu: kền-đồng

-Mệnh giá: 10 kroner


+Mặt phải: Nữ hoàng Margrethe II
+Mặt trái: Quốc huy
+Đường kính: 23,35 mm
+Độ dày: 2,3 mm
+Khối lượng: 7 g
+Chất liệu: Nhôm đồng thiếc

-Mệnh giá: 20 kroner


+Mặt phải: Nữ hoàng Margrethe II
+Mặt trái: Quốc huy
+Đường kính: 27 mm
+Độ dày: 2,35mm
+Khối lượng: 9,3 g
+Chất liệu: Nhôm đồng thiếc

2.7 :KRONA (KR)


a)Lịch sử hình thành:
Việc phát hành đồng krona, thay thế ngang giá cho đồng riksdaler Thụy
Điển, là kết quả của việc thành lập Liên minh Tiền tệ Scandinavia, có hiệu lực từ
năm 1873 và kéo dài tới Thế chiến thứ nhất. Liên minh này gồm 2 nước Đan Mạch,
Thụy Điển, sau đó thêm Na Uy. Tên tiền là krona bằng tiếng Thụy Điển và krone
trong tiếng Đan Mạch và Na Uy (dịch nghĩa đen sang tiếng Anh là crown). Cả 3

- 1
Trang - 72 -
Gv:
tiền này đều lấy bản vị vàng (kim bản vị) với tiêu chuẩn 2.480 kronor (kroner) = 1
kg vàng nguyên chất.
Sau khi Liên minh Tiền tệ Scandinavia giải thể, thì cả 3 nước đều quyết định
giữ tên tiền riêng của mình như cũ
b)
*Tiền giấy:

- Mệnh giá:1000KRONA
+Mặt phải: Gustav Vasa
+ Mặt trái :Hình người Bắc Âu của Olaus Magnus từ năm 1555
+ Kích thước : 160 × 82 mm
+ Màu sắc: Vàng-xám
+ Chất liệu:giấy

-Mệnh giá:500 Krona


+Mặt phải: Charles XI
+Mặt trái:Christopher Polhem
+ Kích thước : 150 × 82 mm
+ Màu sắc: Đỏ-xám
+ Chất liệu: giấy

- 1
Trang - 73 -
Gv:

-Mệnh giá: 100 Krona


+Mặt phải: Carl von Linné
+Mặt trái: Ong thụ phấn một bông hoa
+ Kích thước : 140 × 72 mm
+ Màu sắc: Xanh dịu
+ Chất liệu: giấy

-Mệnh giá: 50 Krona


+Mặt phải: Jenny Lind
+Mặt trái: Đàn Nyckelharpa và dãy âm
+ Kích thước : 120 × 77 mm
+ Chất liệu: giấy
+ Màu sắc: Vàng

-Mệnh giá: 20 Krona


+Mặt phải: Selma Lagerlöf
+Mặt trái: Nils Holgersson bay trên vùng Scania
+ Màu sắc: Tím hơi xanh
+ Chất liệu: giấy
+ Kích thước : 120 × 67 mm
- Nước sử dụng: Thụy Điển, Đồng krona Thụy Điển cũng được lưu hành ở
Quần đảo Åland song song với tiền chính thức của Phần Lan là đồng euro.
*Tiền đồng:
+ Hình ảnh:

- 1
Trang - 74 -
Gv:
+ Mệnh giá: 50 öre
+ Đường kính: 18.75 mm
+ Độ dày: 1.80 mm
+ Trọng lượng: 3.7 g
+ Chất liệu: 97% đồng; 2.5%
kẽm ;0.5% thiếc

+ Mệnh giá: 1 krona


+ Đường kính: 25 mm
+ Độ dày: 1.88 mm
+ Trọng lượng: 7 g
+ Chất liệu: Đồng kền; 75%
đồng; 25% kền

+ Mệnh giá: 5 krona


+ Độ dày:2 mm
+ Trọng lượng:9.5 g
+ Đường kính: 28.5 mm
+ Chất liệu: Outer layer (46.5%):
Đồng kền (như đồng 1 kr) lớp bên trong
(53.5%): 100% Kền

+ Mệnh giá: 5 Krona


+ Đường kính: 28.5 mm
+ Độ dày: 2 mm
+ Trọng lượng: 9.5 g
+ Chất liệu: Outer layer (46.5%):
Đồng kền (như đồng 1 kr) lớp bên trong
(53.5%): 100% Kền

 Về các mệnh giá khác phát hành từ trước kia, tất cả các đồng 2 Krona đúc
từ năm 1876 trở đi vẫn lưu hành hợp pháp theo luật, mặc dù hiện nay rất hiếm thấy
các tiền này. Cần nói thêm, mọi tiền kim loại được đúc năm 1897 và sau này nhân
các dịp quốc khánh hoặc kỷ niệm cũng đều lưu hành hợp pháp.

- 1
Trang - 75 -
Gv:
Theo truyền thống, các tiền kim loại có giá trị ít hơn 1 krona khô ng in hình
nổi quốc vương Thụy Điển, trong khi các tiền đúc có giá trị từ 1 krona trở lên
(ngoại trừ đồng 5 Krona) đều mang hình nổi này. Các khẩu hiệu của hoàng gia
Thụy Điển cũng được đưa vào nhiều tiền kim loại.
c)Nhận định:
Theo đánh giá gần đây của các chuyên gia đồng krona Thụy Điển tăng 0,6%
lên mức 7,9057 krona/USD ,nhà đầu tư sẽ chú ý nhiều hơn đến các loại tài sản có
lợi tức cao hơn.
2.8 Hungary: FORINT (FT)
a)Lịch sử hình thành:
-Forint trở thành tên gọi của đơn vị tiền tệ của Hungary từ năm 1867. Từ
năm 1892 đến năm 1946, đơn vị tiền tệ của Hungary không mang tên Forint mà lần
lượt mang các tên Korona, Pengő, Adópengő. Từ năm 1946, Forint lại trở thành tên
gọi chính thức của đơn vị tiền tệ của Hungary.
Hiện Hungary đang có mục tiêu gia nhập Khu vực đồng Euro. Khi trở thành
thành viên chính thức của khối này, Euro sẽ thay thế Forint làm đơn vị tiền tệ của
Hungary.
:
*Tiền giấy:
+ Hình ảnh:

Mặt trước tờ tiền giấy mệnh giá 20.000 Forint (mệnh giá lớn nhất) phát hành
năm 1999. Nhân vật được vẽ trong tờ tiền này là Ferenc Deák.
+ Chất liệu:giấy
+ Mệnh giá:bao gồm 200, 500, 1000, 2000, 5000, 10 000, 20 000 forint do
Ngân hàng Quốc gia Hungary phát hành. Loạt tiền giấy hiện đang lưu thông bắt đầu
được phát hành từ năm 1997.
+ Nước sử dụng: Hungary

- 1
Trang - 76 -
Gv:

- 1
Trang - 77 -
Gv:

*Tiền đồng:
+ Hình ảnh:
Tiền kim loại mệnh giá 100 Forint phát
hành năm 1998.

+ Mệnh giá: 5, 10, 20, 50, 100, 200


forint do Công ty Đúc tiền Hungary phát hành. Loạt tiền kim loại hiện đang lưu
thông được bắt đầu phát hành từ năm 1990 thay thế cho các tiền kim loại phát hành
dưới thời xã hội chủ nghĩa.

- 1
Trang - 78 -
Gv:

c) Nhận định: Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế:
Hiên tại đồng forint của Hungary đã rơi mạnh so với đồng euro sau khi Quỹ
Tiền tệ Quốc tế tuyên bố nước này cần phải hành động nhiều hơn nữa để cắt giảm
thâm hụt ngân sách.
Đồng tiền Hungary giảm giá 9 forint, hơn 3%, so với đồng euro, đạt 291,38
forint đổi một euro
2.9 Đức:Mark(RM)
a) Lịch Sử hình thành
- Các Mark Deutsche là chính thức tiền tệ của Tây Đức (1948-1990) và Đức
(1990-2002) cho đến khi việc nhận con nuôi của đồng euro trong năm 2002. Nó
thường được gọi là "Deutschmark" bằng tiếng Anh nhưng không phải bằng tiếng
Đức. Nó lần đầu tiên được phát hành theo Đồng Minh chiếm đóng vào năm 1948 thay
thế Reichsmark , và phục vụ như là Cộng hòa Liên bang Đức là tiền tệ chính thức từ
ngày thành lập năm sau cho đến năm 1999, khi Mark đã được thay thế bằng đồng euro
; của tiền xu và tiền giấy vẫn còn trong lưu thông , được xác định trong điều khoản của
euro, cho đến việc giới thiệu các ghi chú euro và tiền xu vào đầu năm 2002. Tiền xu và
tiền giấy DM tiếp tục được chấp nhận như là hình thức thanh toán hợp lệ tại Đức cho
đến ngày 28 tháng hai năm 2002.
- Các Deutsche Bundesbank đã đảm bảo rằng tất cả các nhãn hiệu của Đức ở
dạng tiền mặt có thể được thay đổi thành euro vô thời hạn, và người ta có thể làm điều
đó tại bất kỳ chi nhánh của ngân hàng Bundesbank của Đức. Tiền giấy thậm chí có thể
được gửi đến ngân hàng bằng thư.
Ngày 31 Tháng Mười Hai 1998, các Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) cố định tỷ
giá không thay đổi, có hiệu quả Ngày 01 tháng 1 năm 1999, cho nhãn hiệu của Đức
euro là 1,95583 DM = 1 €. Một Deutsche Mark được chia thành 100 t
.
*Trước năm 1871
- thống nhất ban
đầu vào năm 1871. Trước khi thời gian đó, các khác nhau bang Đức đã ban hành một
loạt các tiền tệ khác nhau, mặc dù phần lớ n đã được liên kết với các Vereinsthaler ,
một đồng xu bạc có chứa 16 03/02 gram bạc nguyên chất. Mặc dù Mark dựa trên vàng
hơn là bạc, một tỷ giá hối đoái cố định giữa các Vereinsthaler và Mark of 3 Mark = 1
Vereinsthaler được sử dụng để chuyển đổi.
* 1873-1948
Đánh dấu lần đầu tiên, được gọi là Goldmark , được giới thiệu vào năm 1873. Với sự
bùng nổ của Thế chiến I , các Mark đã được đưa ra tiêu chuẩn vàng. Đồng tiền đó
được gọi là Papiermark , đặc biệt là cao lạm phát , sau đó siêu lạm phát xảy ra và đồng
tiền đã trở thành độc quyền tạo ra tiền giấy. Các Papiermark được thay thế bởi các
Rentenmark vào cuối năm 1923 và các Reichsmark (RM) vào năm 1924.
*Cải cách tiền tệ của tháng 6 năm 1948

- 1
Trang - 79 -
Gv:
Các Deutsche Mark được giới thiệu vào Chủ Nhật 20 Tháng Sáu 1948 bởi Ludwig
Erhard .
Sự ra đời của các loại tiền tệ mới được dự định để bảo vệ miền tây nước Đức từ một
làn sóng thứ hai của siêu lạm phát và ngăn chặn sự trao đổi hàng hóa tràn lan và thị
trường chợ đen thương mại (trong đó thuốc lá Mỹ đã hành động như là tiền tệ).
*Cải cách tiền tệ trong vùng chiếm đóng của Liên Xô
Trong khu vực chiếm đóng của Liên Xô của Đức (sau này là Cộng hòa Dân chủ Đức ),
các Đông Đức Mark (còn có tên là "Deutsche Mark" 1948-1964 và colloquially gọi là
Ostmark) đã được giới thiệu một vài ngày sau đó trong các hình thức và Reichsmark
Rentenmark ghi chú với tem dính để ngăn chặn lũ lụt tại các Reichsmark và
Rentenmark ghi chú từ phương Tây. Vào tháng 7 năm 1948, một loạt hoàn toàn mới
của Đông Đức đã được phát hành giấy bạc Mark.
*Lander Deutscher Ngân hàng và Deutsche Bundesbank
Sau đó trong năm 1948, Ngân hàng Deutscher Lander nhận trách nhiệm, sau năm
1957 của Deutsche Bundesbank . Các DM thu được một danh tiếng như là một mạnh
mẽ lưu trữ giá trị vào những thời điểm khi quốc gia đồng tiền khác lại nghe theo các
thời kỳ lạm phát . Nó đã trở thành niềm tự hào quốc gia và một neo cho sự thịnh
vượng kinh tế của đất nước, đặc biệt là trong những năm của Wirtschaftswunder trong
những năm 1950. Trong những năm 1990, các cuộc thăm dò ý kiến cho thấy đa số
người Đức phản đối việc nhận con nuôi của đồng euro, các cuộc thăm dò ngà y hôm
nay cho thấy một số lượng đáng kể thích để trở về Mark.
*Liên minh tiền tệ với các Saarland
Dân số trong các bảo hộ Saar quyết định trưng cầu dân ý gia nhập Cộng hoà Liên
bang. Vì vậy sự kết hợp của Saar vào Cộng hòa Liên bang Đức
Saarland duy trì đồng tiền của mình, các Franc Saar ,
được ở một liên minh tiền tệ ở ngang tầm với các Franc Pháp Ngày 09 tháng 7 năm
1959 của Mark Deutsche thay t hế các Franc Saar với tỷ lệ 100 Francs = 0,8507 DM.
Đức đánh dấu vai trò này trong thống nhất nước Đức
Các Mark Deutsche đóng một vai trò quan trọng trong việc thống nhất nước Đức. Nó
đã được giới thiệu như là tiền tệ chính thức của Đông Đức vào tháng 7 năm 1990, thay
thế Mark Đông Đức (Mark der DDR).

Những đồng tiền đầu tiên đã được phát hành bởi Ngân hàng Lander Deutscher vào
năm 1948 và 1949. Từ năm 1950, các dòng chữ Bundesrepublik Deutschland (Cộng
hòa Liên bang Đức) xuất hiện trên các đồng tiền.

- 1
Trang - 80 -
Gv:
Mệnh Ngày Thành phần Mặt chính Ngược lại
giá ban
hành
1948- 1948-1949: Mệnh giá Oak thanh
2001 Bronzeplated giữa thân niên
nhất thép cây lúa
1950–2001: mạch đen
Copperplated
thép
1950- 1950-1968: Mệnh giá Oak thanh
2001 Đồng, giữa thân niên
nhất 1968-2001: cây lúa
Bronzeplated mạch đen
thép
1949- Brassplated thép Mệnh giá Oak thanh
2001 giữa thân niên
nhất cây lúa
mạch đen
1949- Brassplated thép Mệnh giá Oak thanh
2001 giữa thân niên
cây lúa
nhất mạch đen
50 1949- Đồng kền Mệnh giá Người phụ
2001 nữ trồng
một cây sồi
nhất cây
1 DM 1950- Đồng kền Mệnh giá Đức đại
2001 giữa lá sồi bàng

2 DM Năm Đồng kền Mệnh giá Đức đại


1951, giữa thân bàng
1957- cây lúa
2001 mạch đen và
nho

5 DM 1951- - Mệnh giá Đức đại


2001 1975-2001: bàng
đồng kền

- 1
Trang - 81 -
Gv:
10 1987- - Khác nhau Đức đại
DM 2001 bàng ,
thiết kế
khác nhau
Cả hai đồng xu vẫn còn trong lưu thông vào năm 2001 và các siêu thị nói riêng vẫn
được đánh dấu giá để t này. Có một số lượng đáng kể bạc kỷ niệm 5
và 10 xu DM , mà thực sự đã có tình trạng hợp pháp , nhưng hiếm khi nhìn thấy bên
ngoài "vòng tròn người thu gom.

Ngày 27 tháng 12, 2000, chính phủ Đức đã ban hành một đạo luật cho phép các ngân
hàng Bundesbank ra, trong năm 2001, một vàng 0,999 đặc biệt tinh khiết 1 DM tiền xu
kỷ niệm cuối của nhãn hiệu Đức. Có tổng cộng một triệu đồng tiền vàng của Đức đã
được đánh dấu đúc (200,000 tại mỗi trong số năm bạc hà) và đã được bán bắt đầu vào
giữa-2001 thông qua các đại lý tiền xu Đức thay mặt cho Bundesbank.
*Tiền giấy
Có bốn loạt tiền giấy đánh dấu tiếng Đức:
- Đầu tiên được ban hành năm 1948 của quân đội Đồng Minh. Có mệnh giá ½, 1, 2,
5, 10, 20, 50 và 100 DM.
- Dòng thứ hai đã được giới thiệu vào năm 1948 do Ngân hàng Lander Deutscher,
một tổ chức của chính quyền chiếm đóng phương Tây. Các mẫu thiết kế đã được
tương tự như đô la Mỹ và đồng franc Pháp , như các công việc thiết kế và in ấn các
giáo phái khác nhau đã được chia sẻ giữa các Ngân hàng của Pháp
t, 5, 10, 20, 50 và 100 DM.
Dòng thứ ba được giới thiệu vào năm 1960 bởi các Bundesbank , mô tả các biểu tượng
trung lập, các bức tranh của họa sĩ người Đức Albrecht Dürer , và các tòa nhà. Có 5,
10, 20, 50, 100, 500 và 1000 DM.
-Thứ tư đã được giới thiệu vào năm 1990 bởi các Bundesbank để truy cập
những tiến bộ trong sự giả mạo công nghệ. Các ghi chú mô tả các nghệ sĩ Đức và các
nhà khoa học cùng với các biểu tượng và công cụ thương mại của họ. Điều này thêm
một loạt tên gọi 200 DM, để giảm việc sử dụng tiền giấy của 100 DM, làm tăng 54%
của tất cả tiền giấy lưu hành, và để lấp đầy khoảng cách giữa 100 DM và 500 tên gọi
DM. Tuy nhiên trong 200 DM mệnh giá là khá hiếm.
Trong loạt hai sau, các mệnh giá 5 DM hiếm khi được nhìn thấy, như là những người
có giá trị lớn hơn 100 DM.
*Tiền giấy của loạt thứ tư (1990-2002)

Thiết kế của tiền giấy Đức vẫn không thay đổi


trong thập niên 1960, 1970 và 1980. Trong thời
gian này, giả mạo công nghệ thực hiện tiến bộ
đáng kể như vậy, trong những năm 1980, các
Bundesbank đã quyết định phát hành một loạt

- 1
Trang - 82 -
Gv:
tiền giấy mới của Deutsche Mark. Các màu sắc cho mỗi mệnh giá vẫn không thay đổi
từ loạt trước đây nhưng thiết kế đã trải qua những thay đổi đáng kể và một tên gọi 200
DM đã được giới thiệu. Các nghệ sĩ nổi tiếng quốc gia và các nhà khoa học đã được
chọn để được miêu tả trên tờ giấy bạc mới. Các tính năng bảo mật mới được: một sợi
an ninh cửa sổ (với mệnh giá ghi chú "trong microprinting), đóng dấu, vi in ấn, in
chìm (xem góc phụ thuộc vào khả năng hiển thị cũng như một chữ nổi đại diện của các
giáo phái ghi chú), màu thay đổi mực (trên mệnh giá 500 và 1000 DM), một thấy,
thông qua đăng ký và tính năng bảo mật cực tím, nhìn thấy được.
Đầu tiên được ban hành là 100 và 200 giáo phái DM vào ngày 01 tháng mười 1990
(mặc dù tờ tiền giấy cho thấy " Frankfurt am Main , 2 năm 1989. Januar "). Các mệnh
giá tiếp theo là 10 DM vào ngày 16 tháng 4 năm 1991, sau 50 DM vào mùa thu năm
đó. Tiếp theo là 20 DM lưu ý về 20 tháng 3 năm 1992 (in trên Ngày 2 tháng 8 năm
1991). Lý do được giới thiệu dần dần, mà công chúng sẽ trở nên quen thuộc với tên
gọi duy nhất, trước khi giới thiệu một hình mới. Sự thay đổi này được hoàn thành với
sự giới thiệu của 5, 500, và 1000 giáo phái DM ngày 27 tháng 10 1992. Mặt chính in
mờ trên của Mặt chính quyền lưu ý, cho thấy tên gọi của nó (như trên các đảo ngược
của € mới 5, € 10, và 20 € tiền giấy ), và các chòm sao EURion trên của lưu ý ngược
lại. Hơn nữa, màu sắc đã được thay đổi một chút để phấn màu để cản trở giả.
Hình ảnh Giá trị Kích thước Màu chính
Ngược lại
5 DM 122 × 62 Màu vàng-xanh
mm

10 DM 130 × 65 Blue-tím
mm

20 DM 138 × 68 Xanh-màu xanh lá


mm cây

50 DM 146 × 71 Màu vàng-nâu


mm

100 DM 154 × 74 Màu xanh


mm

200 DM 162 × 77 Da cam


mm

- 1
Trang - 83 -
Gv:
500 DM 170 × 80 Màu tím đỏ
mm

1000 178 × 83 Dark-nâu


DM mm

c) :
-Tờ báo trên dẫn kết quả khảo sát mới nhất của Viện nghiên cứu thị trường
Ipsos cho hay, khoảng 51% số người trả lời ghét cay ghét đắng đồng tiền chung châu
Âu và muốn quay lại sử dụng đồng D-mark.
Đồng Euro ở Đức hiện còn có biệt danh là “Teuro”, một kiểu chơi chữ với từ “Teuer”
nghĩa là đắt đỏ.

- -
.
Nếu so sánh tương quan với đồng D-mark ở năm 1998, đồng Euro hiện mạnh hơn.
Nhưng việc mất giá mạnh gần đây của đồng Euro đã làm dấy lên những lo lắng ở nền
kinh tế lớn nhất châu Âu này.
-Tuy nhiên, ý kiến cho rằng muốn quay lại dùng đồng D-mark cũng dao động
tùy từng độ tuổi. 56% số người từ 54-60 tuổi nói rằng muốn dùng lại đồng tiền này,
trong khi chỉ có 42% số người trong độ tuổi từ 16-29 có cùng quan điểm.
Về hai miền của nước Đức đối với ý kiến này cũng có sự chênh lệch, dù không đáng
kể, 52% người ở Đông Đức và 48% ở Tây Đức cho biết họ thích đồng D-mark hơn
euro.
34% số sinh viên tốt nghiệp từ các trường trung học dự bị đại học cho rằng, họ sẽ dùng
đồng D-mark.

3.1. Brazil: Reais ( R)


:
*Thời kỳ 1690-1994
- Tiền tệ chính thức đầu tiên của Brazil (1690-1942) là real. Tiền – được
vay mượn từ một loại tiền của Bồ Đào Nha trước đây được sử dụn g ở Brazil
(“Real” xuất phát từ tiếng Bồ Đào Nha, ở dạng số nhiều: Reis, ký hiệu: R$). Đồng
Real được tạo ra vào năm 1970 và được sử dụng cho đến năm 1942, khi nó được
thay thế bởi đồng Cruzeiro.

- 1
Trang - 84 -
Gv:
Đồng Real đã được phục hồi lại vào năm 1994 cho một đơn vị tiền tệ mới mà
vẫn còn được sử dụng cho đến nay. Một Real hiện đại tương đương với 2,75 × 10 18
của Reis cũ.
- Các Real Bồ Đào Nha là đồng tiền được sử dụng bởi người Bồ Đào Nha
đầu tiên định cư ở châu Mỹ, nhưng đồng tiền chính thức lưu hành đầu tiên dưới
dạng Real lại được in bơi người Hà Lan, trong một phần thuộc địa của họ ở vùng
Đông Bắc Brazil.
Real đã trở thành tiền tệ chính thức của Brazil vào năm 1790. Nó không
được chia thành các đơn vị nhỏ hơn. Real bị ảnh hưởng bởi lạm phát trong suốt thời
gian nó tồn tại, và các đơn vị tiền thực tế đã chuyển từ Real thành Mil Reis ("một
ngàn Reis") và sau đó đến conto de Reis (một triệu Reis) trong những năm cuối
cùng của chế độ cộng hòa Velha.
Các khoản dưới 1.000 Reis được ký hiệu bằng "R", như trong "350 Rs". Từ
1.000 Reis và lớn hơn, các "R" vẫn là tiền tố, nhưng cifrão ( - dấu đô la gấp đôi)
được chèn sau chữ số hàng nghìn, như trong "Rs 1$712" cho 1.712 Reis. Đối với
khoản tiền một triệu đồng Reais và lớn hơn, một dấu hai chấm ":" được đưa vào
ngay sau chữ số hàng triệu, như trong "Rs 1:020$800" cho 1.020.800 Reis.
Trong thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, đồng tiền vàng được dựa trên 22 carat
vàng miếng mà nặng ½ ounce (14,34 gram ). Các tiêu chuẩn cho các loại tiền tệ
bằng bạc khác nhau trong thời gian này, với các đồng tiền 640 Real cố định ở 17,92
gram của bạc 0,917 năm 1806. Năm 1834, peça được đánh giá lại theo 10$000 Reis
và đồng xu bạc 1$200 real đã được thiết lập tại 26,89 gram bạc 0,917. Trong năm
1846, một tiêu chuẩn vàng được thiết lập với Mil Reis cố định tại 822,076 mg vàng,
gia 37,5% so với các tiêu chuẩn trước đó.
Sau khi thành lập nước Cộng hòa năm 1889, giá trị của tiền tệ giảm xuống,
chốt lại ở 180 mg vàng một ngàn Reis thiết lập vào năm 1926. Điều này đã bị bãi bỏ
vào năm 1933 khi Mil Reis đã được cố định với đồng đô la Mỹ ở tỷ lệ 12$000 Reis
= 1 đô la. Năm 1942, các real được thay thế bởi các Cruzeiro , với tỷ lệ 1$000
Reis= 1 Cruzeiro.
*Tiền xu
Trong những năm 1750, tiền xu được lưu thông với các mệnh giá 5, 10, 20
và 40 Reis (bằng đồng), 75, 150, 300 và 600 Reis (bằng bạc), và 1000, 2000, 4000
và 6400 Reis (bằng vàng). Chế độ tiền xu bằng bạc đã được cải cách năm 1778, với
sự bổ sung 80, 160, 320 và 640 reis. Giữa năm 1780 và 1782, các mệnh giá 800,
1600 và 3200 Real (bằng vàng) đã được bổ sung. Năm 1809, tiền đồng cũ và đồng
xu bạc được đánh dấu với quốc huy Bồ Đào Nha, gấp đôi giá trị của các đơn vị 5,
10, 20 và 40 real và tăng giá trị của 75, 150, 300 và 600 real lên đến 80, 160, 320 và
640 Reis. Từ năm 1810, đồng 8 real Tây Ban Nha ("đô la Tây Ban Nha") đã được
đúc chồng lên để sản xuất đồng tiền 960 real. Đồng 80 Reis đã được giới thiệu năm
1811.

- 1
Trang - 85 -
Gv:
Giữa 1823 và 1833, chế độ tiền kim loại đồng của Brazil gồm nhiều loại
khác nhau trên khắp đất nước, với mệnh giá 10, 20, 37 ½, 40, 75 và 80 Reis được
sản xuất. Tiền bằng bạc vẫn tiếp tục với các mệnh giá 80, 160, 320, 640 và 960
Reis, cùng với 4000 và 6400 Reis (bằng vàng).
Giữa 1833 và 1835, chế độ tiền xu đã được cải cách. Các đồng tiền kim loại
đã được chuẩn hóa trên toàn quốc, với sự giới thiệu của đồng tiền 10, 20 và 40 Reis.
Tiền bạc đã được giới thiệu với các mệnh giá 100, 200, 400, 800 và 1200 Reis, cùng
với 10.000 Reis bằng vàng.
Một cuộc cải cách khác giữa 1848 và 1854 giảm hàm lượng bạc và vàng
trong đúc tiền, với đồng bạc mới cho 200, 500, 1000 và 2000 Reis, và 5000, 10.000
và 20.000 Reis (bằng vàng). Đồng 10 và 20 Reis đã được giới thiệu vào năm 1868,
tiếp theo là đồng kền 100 và 200 Reis vào năm 1871, đồng 40 Reis năm 1873 và
đồng kền 50 Reis năm 1886 trong khi 10 Reis đã được ngưng đúc vào năm 1870.
Trong năm 1901, đồng kền 400 Reis đã được giới thiệu, tiếp theo là đồng
kền 20 Reis năm 1918. Nhôm-đồng 500 và 1000 Reis đã được giới thiệu vào năm
1922, đồng kền 200 Reis, nhôm đồng 2000 Reis và bạc 5000 Reis năm 1936.
*Tiền giấy
Tiền giấy đầu tiên của Brazil đã được ban hành giữa năm 1770 và 1793. Họ
lưu thông theo giá trị và đã được chuyển đổi thành tiền xu. Tiền giấy đã được ban
hành bởi các tỉnh khác nhau giữa các năm 1808 và 1857, với các mệnh giá 37 ½,
75, 150, 300, 450, 500, 600, 10.000, 25.000, 50.000 và 100.000 Reis.
Các Ngân hàng Brazil đầu tiên được thành lập năm 1808 và bắt đầu phát
hành tiền giấy vào năm 1810, với các mệnh giá 30, 40, 50, 60, 70, 80, 90, 100, 20,
300 và 400 Mil Reis, với 4, 6, 8, 10, 12 và 20 Mil Reis được bổ sung vào năm 1813
và 1 và 2 Mil Reis vào năm 1828. Ngân hàng này đóng cửa vào năm 1829.
Năm 1833, chính phủ phát hành tiền giấy trao đổi đồng với các mệnh giá 1,
2, 5, 10, 20, 50 và 100 Reis triệu. Theo sau đó, vào năm 1835, tín phiếu Kho bạc
mệnh giá 1, 2, 5, 10, 20, 50, 100, 200 và 500 triệu Reis. Tiền giấy 500 Mil Reis đã
được bổ sung vào năm 1874, 1000 Mil Reis giới thiệu vào năm 1921. Tín phiếu
Kho bạc tiếp tục được sản xuất trong suốt thời gian còn lại của việc lưu thông đồng
real và các đồng tiền cuối cùng đã được in chồng để sản xuất tiền giấy Cruzeiro đầu
tiên.
Giữa năm 1850 và năm 1893, một số ngân hàng tư nhân phát hành tiền giấy
mệnh giá từ 10 đến 500 Mil Reis. Bao gồm Banco do Brazil (1853-1890), Banco
do Maranhao (1857-1885) và Banco da República dos Estados Unidos do Brasil
(1890-1892).
Chính phủ phát hành tiền giấy từ năm 1892 và 1897. Mệnh giá bao gồm
100, 200 và 500 Reis và 1, 2, 5, 10, 50, 100, 200 và 500 Mil Reis, phát hành từ
Alagoas , Amazonas , Maranhao , Pernambuco , Rio Grande do Norte và Sergipe .
Giữa năm 1906 và 1910, Caixa de Conversão phát hành giấy bạc mệnh giá
10, 20, 50, 100, 200, 500 và 1000 Mil Reis (1 conto de Reis). Năm 1905, Banco do

- 1
Trang - 86 -
Gv:
Brazil được thành lập, phát hành tiền giấy từ năm 1923 và 1942 với mệnh giá 1, 2,
5, 10, 20, 50, 100, 200, 500 và 1000 Mil Reis. Từ năm 1923, tên của ngân hàng này
đã được thay đổi thành Banco làm Brasil. Năm 1926, Caixa de Estabilização phát
hành tiền giấy mệnh giá vàng với 10, 20, 50, 100, 200, 500 và 1000 Mil Reis.
Chính quyền địa phương một lần nữa phát hành tiền giấy trong các năm
1924-1942. Mệnh giá bao gồm 2, 5, 10, 20, 50, 100, 200 và 500 Mil Reis, phát
hành từ Minas Gerais, Rio Grande do Sul và São Paulo. Những tờ tiền giấy reis
cuối cùng đã được thay thế bởi Cruzeiro tiền và thu hồi trong năm 1955.
*Thời kỳ 1994 đến nay
- Việc real (Reais số nhiều) hiện đại đã được giới thiệu vào ngày 01 tháng
bảy 1994, trong nhiệm kỳ tổng thống của Itamar Franco, khi Fernando Henrique
Cardoso đã được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Tài chính Brazil. Việc phát hành này
như một phần của một kế hoạch rộng lớn để ổn định nền kinh tế Brazil, được gọi là
Real Plano. Các loại tiền tệ mới thay thế tạm thời real Cruzeiro (CR $).
Theo giới thiệu,real đã được định nghĩa là bằng 1 URV (unidade real de
valor: "giá trị real đơn") một đơn vị tiền tệ không lưu thông. Đồng thời URV được
định nghĩa là giá trị 2750 cruzeiros Reais, đó là tỷ giá bình quân của đồng đô la Mỹ
cho real Cruzeiro vào thời điểm đó. Kết quả là, việc real trị giá một đô la Mỹ chính
xác như nó đã được giới thiệu. Cùng với tất cả các thay đổi tiền tệ trước đó trong
lịch sử của đất nước, đợt cải cách này làm cho đồng real mới bằng 2,75 x 10 18 đồng
tiền đầu tiên của Brazil.
Ngay sau khi ra mắt, real bất ngờ đạt được giá trị so với đồng đô la Mỹ, do
luồng vốn lớn vào cuối năm 1994 và 1995. Trong thời gian đó nó đạt được giá trị
đồng đô la tối đa của nó bao giờ hết, khoảng $1,20 US. Từ năm 1996 đến năm
1998, tỷ giá hối đoái được kiểm soát chặt chẽ bởi Ngân hàng Trung ương, vì thế
real mất giá từ từ so với đồng đô la,tỷ giá tăng từ gần 1 : 1 đến khoảng 1.2 : 1 vào
cuối năm 1998. Tháng 01 năm 1999, Ngân hàng Trung ương, theo chủ tịch mới -
Arminio Fraga , phát hành kiểm soát của nó. Real bị bất ngờ phá giá mạnh, với một
tỷ lệ gần như $2 R: $1 US. Trong tháng 10 năm 2002, tỷ giá đạt mức thấp lịch sử
của nó gần như R$4 một US$1. Giá trị của real so với đô la tiếp tục biến động
nhưng nhìn chung đều tăng, để đến năm 2005, tỷ lệ trao đổi gần $2 R: $1 US.
Trong Tháng 05 năm 2007, lần đầu tiên kể từ năm 1999, real đã có trị giá hơn 0.50$
thậm chí mặc dù Ngân hàng Trung ương đã cố gắng để giữ nó bên dưới ngưỡng
tượng trưng do lo ngại về ảnh hưởng của nó nền kinh tế Brazil. Tính đến 22 tháng 6
năm 2010, 1 real Brazil trị giá 0,5612 đô la Mỹ, nói cách khác, 1$ US giá trị
1,7820$ R.

*Tiền xu
-Seri đầu tiên(1994-2003) Năm 1994, tiền xu đã được giới thiệu với các
mệnh giá 1, 5, 10, 25 và 50 xu và 1 thực tế. Tất cả đều được đúc bằng thép

- 1
Trang - 87 -
Gv:
không gỉ. Chúng vẫn có giá trị pháp lý nhưng từ ngày 23 tháng 12 năm 2003
thì được thu hồi từ lưu thông bởi Ngân hàng Trung ương.

Series đầu tiên


Giá trị Ngược lại

1 centavo

5 centavos

10 centavos

25 centavos

50 centavos

1 real

*Seri thứ hai (1998 đến nay)


- Năm 1998, một seri tiền xu thứ hai đã được giới thiệu. Nó được đặc trưng bởi
tiền xu bằng thép mạ đồng 1 và 5 centavos, thép mạ đồng thau 10 và 25 centavos, một
đồng kền 50 centavos và 1 real (2 màu: màu đồng thau và đồng kền).
Từ năm 2002 trở đi, thép đã được sử dụng cho các đồng xu 50 centavos và phần
giữa của đồng xu 1 real.

- 1
Trang - 88 -
Gv:
Trong tháng 11 năm 2005, Ngân hàng Trung ương chấm dứt việc đúc đồng xu 1
centavo, nhưng những đồng tiền hiện có tiếp tục được pháp luật chấp nhận. Các nhà bán lẻ
hiện nay nhìn chung làm tròn giá đến 5 hoặc 10 centavos.

seri thứ hai


Ngược
Thiết kế
Giá trị lại

Mặt chính: The Southern Cross ở


phía trên bên phải.
1 Ngược lại: mô tả Pedro Alvares Cabral ,
centavo Bồ Đào Nha biển thuyền trưởng. Bồ Đào
Nha thế kỷ 16 con tàu trong nền.

Mặt chính: The Southern Cross ở


phía trên bên phải.
Ngược lại: mô tả Joaquim José da Silva
Xavier (còn gọi là Tiradentes ), liệt sĩ của
5 phong trào độc lập đầu được biết đến như
centavos Inconfidência Mineira . Trong nền, một
hình tam giác , biểu tượng của phong
trào, và một chim bồ câu, biểu tượng của
hòa bình và tự do.
Mặt chính: The Southern Cross ở
phía trên bên phải.
Ngược lại: mô tả Hoàng đế Pedro I , vị
10
vua đầu tiên của Brazil. Trong bối cảnh,
centavos
các hoàng đế trên một con ngựa: một
cảnh ám chỉ đến việc công bố độc lập.
Mặt chính: The Southern Cross ở
phía trên bên phải.
Ngược lại: mô tả soái Deodoro Manuel
25
da Fonseca , đầu tiên của Tổng thống
centavos
Cộng hòa Brazil. Của Cộng hòa huy
được trong nền.
Mặt chính: The Southern Cross ở
phía trên bên phải.
Ngược lại: mô tả José Maria da Silva
Paranhos Junior (còn gọi là Nam tước
50
của Rio Branco), của đất nước tốt nhất
centavos
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Trong bối
cảnh, hình ảnh đất nước với những gợn
sóng mở rộng ra phía ngoài, đại diện cho

- 1
Trang - 89 -
Gv:
sự phát triển của chính sách đối ngoại
của Brazil, mở rộng và phân giới cắm
mốc biên giới quốc gia.

Mặt chính: The Southern Cross ở


phía trên bên phải.
Ngược lại: Vòng ngoài miêu tả mẫu của
1 thực marajoara mô hình nghệ thuật. Trong
vòng trong, các Efígie da República ,
biểu tượng của nước Cộng hoà.

*Đồng xu kỷ niệm
-Ngân hàng Trung ương Brazil cũng đã phát hành phiên bản đặc biệt kỷ niệm
của một đồng xu sản 1 trong những dịp đặc biệt. Những đồng tiền được quy phạm pháp
luật đấu thầu và khác biệt với những tiêu chuẩn chỉ ở phía ngược lại.
Tiền xu không được miêu tả với cùng scalee

Hình ảnh Thông tin chi tiết


Giá trị
Ngày phát hành: Ngày 10 tháng 12 năm
1998
Dịp lễ: Kỷ niệm 50 năm Tuyên ngôn Nhân quyền
Đơn vị sản xuất: 600000
1 thực Ngược lại: chính thức logo của những kỷ niệm,
trong cứu trợ-bas , một nhân vật. Trong vòng ngoài,
những chữ khắc "Tuyên ngôn về Quyền con người"
và "kỷ niệm 50 năm"
Ngày phát hành: 12 tháng chín, 2002
Dịp lễ: Kỷ niệm sinh thứ 100 của cựu tổng thống
Brazil Juscelino Kubitschek
Đơn vị sản xuất: 50 triệu
Đảo ngược: Một bức chân dung khuôn mặt của
1 thực Kubitschek. Theo chiều dọc, các dòng chữ
"Centenary Juscelino Kubitschek của". Trong vòng
ngoài, hình ảnh ám chỉ tới các cột của cung điện
Alvorada, nơi ở của Tổng thống tại Brasília , thành
phố mà ông đã quyết định sẽ được xây dựng.
Ngày phát hành: 23 tháng chín năm 2005

- 1
Trang - 90 -
Gv:
1 thực Dịp lễ: Kỷ niệm 40 năm thành lập của Ngân hàng
Trung ương Brazil
Đơn vị sản xuất: 40 triệu
Ngược lại: Hình ảnh của thương hiệu xây dựng
Ngân hàng Trung ương, lấy cảm hứng trong logo
chính thức được phát triển cho những kỷ niệm.
Trong vòng ngoài, những dòng chữ "Ngân hàng
Trung ương Brazil" và "1965 40 NĂM 2005"
*Tiền giấy
seri gốc
- Năm 1994, tiền giấy đã được giới thiệu với các mệnh giá 1, 5, 10, 50 và 100
Reais. Theo sau đó là 2 Reais vào năm 2001 và 20 Reais vào năm 2002. Vào tháng 01 năm
2006, Ngân hàng Trung ương Brazil ngưng sản xuất của các tờ tiền giấy 1 real, nhưng nó
vẫn được thừa nhận.

- 1
Trang - 91 -
Gv:

* Tiền giấy Polyme 10 real


- Vào tháng 04 năm 2000, nhân kỷ niệm kỷ niệm 500 của Bồ Đào Nha cập vào bờ
Brazil, Ngân hàng Trung ương Brazil phát hành một loại tiền giấy polymer 10 real và lưu
thông cùng với các giấy bạc khác. Các hãng in tiền Brazil in 250 triệu tiền giấy này, chiếm
khoảng một nữa tiền giấy 10 real đang lưu thông.

Seri mới
- Vào ngày 03 tháng 2 năm
2010, Ngân hàng Trung ương Brazil
đã công bố một seri tiền giấy mới sẽ
bắt đầu được phát hành vào tháng 04
năm 2010. Thiết kế mới sẽ bổ sung
thêm những cải tiến bảo mật để tránh
làm giả. Các ghi chú sẽ có kích cỡ
khác nhau theo các giá trị để giúp
người khiếm thị nhận biêt. Những
thay đổi được thực hiện đã phản ánh
sự tăng trưởng của nền kinh tế
Brazil, sự cần thiết và an toàn hơn
cho một loại tiền tệ mạnh mẽ hơn.
Các loại tiền mới sẽ được dần dần

- 1
Trang - 92 -
Gv:
được thông qua vào năm 2012, cùng tồn tại với những đồng tiền cũ.
:
- Đồng real của Brazil tăng cao so đô la Mỹ trong 10 tháng đầu năm 2010.
Theo các nhà phân tích của Goldman Sachs, real là một trong những đồng tiền được định
giá cao nhất thế giới. Bộ trưởng Tài chính Brazil đang cố gắng can thiệp để giảm giá đồng
real.
Tuần trước, việc chào bán số lượng trái phiếu khổng lồ trị giá 70 tỉ đô la Mỹ của
Petrobras (Brazil) đã góp phần tạo nên dòng chảy ồ ạt của đô la Mỹ vào Brazil. Các trái
phiếu trên thu hút nhà đầu tư vì lãi suất cao và nền kinh tế tăng trưởng nhanh của Brazil.
Mặc dù không nói rõ về sự can thiệp để làm yếu đồng real nhưng ông Mantega cho
biết Brazil có sẵn “kho vũ khí” các công cụ thích hợp để làm suy yếu đồng real.
3.2 Chile: Peso (CLP)
- Peso là tiền tệ của Chile . Các đồng peso hiện nay được lưu hành từ năm
1975, với một phiên bản lưu hành trước đó giữa năm 1817 và 1960. Biểu tượng
được sử dụng tại địa phương cho nó là $ . Mã ISO 4721 cho các peso Chile hiện
nay là CLP. Mỗi peso được chia ra 100 centavos, mặc dù từ thời kỳ lạm phát năm
1983 đến nay đã không còn tiền xu mệnh giá centavo trong lưu thông. Tỷ giá bình
quân của các Peso của Chile với đô la Mỹ là 1 Đô la Mỹ bằng 559,7 peso Chile vào
năm 2009. Ngày 30 tháng chín năm 2010, đồng đô la Mỹ có giá trị 485,23 peso.

- Các peso đầu tiên 1817-1960: Các peso Chile đầu tiên được giới thiệu vào năm
1817, vào khoảng 8 reals Tây Ban Nha. Cho đến năm 1851, đồng peso đã được chia thành
8 reales, với Escudo trị giá 2 peso. Trong năm 1835, đồng tiền xu centavos đã được giới
thiệu cho đến khi 1851 các mệnh giá real và escudo được chấm dứt phát hành, các vấn đề
trong centavos và décimos (trị giá 10 centavos) bắt đầu. Also in 1851, the peso was set
equal 5 French francs on the silver standard, 22.5 grams pure silver. Cũng trong năm
1851, đồng peso đã được thiết lập bằng 5 franc Pháp. Tuy nhiên, đồng tiền vàng được làm
theo một tiêu chuẩn khác của Pháp, với 1 peso = 1,37 gam vàng (5 Franc tương đương 1,45
gram vàng). Năm 1885, một tiêu chuẩn vàng đã được thông qua, tỷ giá đồng peso với
đồng bảng Anh ở mức của 13 ⅓ peso = 1 pound. Từ năm 1925, tiền xu và tiền giấy đã
được phát hành bằng đồng cóndores, trị giá 10 peso. Các tiêu chuẩn vàng đã được chấm
dứt vào năm 1932 và giá trị của đồng peso đã giảm hơn nữa. Các Escudo thay thế đồng
peso vào ngày 01 tháng 01 năm 1960 với tỷ lệ 1 Escudo = 1.000 peso.
*Tiền xu
- Giữa 1817 và 1851, đồng xu bạc được phát hành với các mệnh giá ¼, ½, 1,
2 reales và 1 peso (còn được tính bằng 8 reales), với đồng tiền vàng cho 1, 2, 4 và 8
escudo. Trong năm 1835, đồng ½ và 1 centavo đã được ban hành. Chế độ tiền tệ
thập phân đầy đủ đã được giới thiệu giữa 1851 và 1853, bao gồm ½ và 1 centavo
bằng đồng, 20 và 50 centavos và 1 peso bằng bạc, 5 và 10 peso bằng vàng. Năm
1860, đồng tiền vàng 1 peso đã được giới thiệu, tiếp theo là đồng kền ½, 1, 2
centavos (từ giữa năm 1870 đến năm 1871). Đồng tiền xu cho các mệnh giá đã được
giới thiệu lại vào giữa năm 1878 và 1883, và có sự xuất hiện thêm đồng 2½

- 1
Trang - 93 -
Gv:
centavos vào năm 1886. Một chế độ tiền vàng mới được giới thiệu vào năm 1895,
tương ứng với các tiêu chuẩn vàng thấp hơn, cùng với tiền kim loại cho 2, 5, 10 và
20 peso. Năm 1896,đồng ½ và 1 décimo được thay thế bằng tiền xu 5 và 10
centavos.
-Năm 1907, một thời gian ngắn, đồng xu 40 centavos bằng bạc đã được giới
thiệu theo sau việc ngừng sản xuất các đồng xu 50 centavos. Năm 1919, đồng tiền
xu được làm bằng đồng sau cùng (1 và 2 centavos) đã được ban hành. Năm sau,
đồng kền thay thế bạc trong các đồng tiền 5, 10 và 20 centavos. Chế độ tiền vàng
cuối cùng đã được giới thiệu vào năm 1926, với các mệnh giá 20, 50 và 100 peso.
Năm 1927, đồng xu bằng bạc 2 và 5 peso đã được ban hành. Đồng kền 1 peso đã
được giới thiệu vào năm 1933, thay thế cuối cùng của tiền bạc. Những đồng tiền
kim loại cuối cùng của peso đầu tiên được ban hành giữa năm 1954 và 1959. Đây là
những đồng nhôm 1, 5 và 10 peso.
*Tiền giấy
- Tiền giấy Chile đầu tiên đã được ban hành từ năm 1840 và 1844 bởi Kho
bạc của tỉnh Valdivia, với các mệnh giá 4 và 8 reales. Trong những năm 1 870, một
số ngân hàng tư nhân bắt đầu phát hành tiền giấy, bao gồm các Agricola Banco,
Banco de la Alianza, Banco de Concepción, Banco Consolidaro de Chile, Banco de
A. Edwards y Ca., Banco de Escobar , Ossa y Ca., Mobiliario Banco, Banco
Nacional de Chile, Banco del Pobre, Sud Americano Banco, Banco del Sur, Banco
de la Union và Banco de Valparaiso. Others followed in the 1880s and 1890s.
- Những ngân hàng khác theo sau trong thập niên 1880 và thập niên 1890.
Bao gồm các mệnh giá 1, 2, 5, 10, 20, 50, 100 và 500 peso. Một ngân hàng khác,
Banco de A. Edwards y Ca., cũng phát hành giấy bạc mệnh giá £ sterling (Libra
esterlina).
- Năm 1881, Chính phủ đã ban hành tiền giấy có thể chuyển đổi thành bạc
hoặc vàng, với các mệnh giá 1, 2, 5, 10, 20, 50, 100 và 1.000 peso. Tiền giấy 50
centavos được bổ sung trong năm 1891 và 500 peso trong năm 1912. Năm 1898,
việc ban hành tạm thời đã được chính phủ thực hiện, bao gồm tiền giấy tự in của
các ngân hàng tư nhân với dòng chữ "Emision Fiscal". Điều này đánh dấu sự kết
thúc của tiền giấy được sản xuất bởi tư nhân.
- Năm 1925,Ngân hàng Trung ương Chile bắt đầu phát hành tiền giấy.
Đầu tiên, các mệnh giá 5, 10, 50, 100 và 1000 peso đã được in trên tiền giấy của
chính phủ. Năm 1927, tiền giấy "Billete Provisional" đã được ban hành với các
mệnh giá 5, 10, 50, 100, 500 và 1.000 peso. Chính thức được giới thiệu vào giữa
năm 1931 và 1933,với các mệnh giá 1, 5, 10, 20, 50, 100, 500, 1000, 5000 và
10.000 peso. Tiền giấy 1 và 20 peso được ngưng sản xuất lần lượt vào các năm
1943 và 1947. Các mệnh giá còn lại tiếp tục sản xuất cho đến năm 1959, cùng với
việc bổ sung tiền giấy mệnh giá 50000 peso vào năm 1958.
*Peso thứ hai (từ năm 1975 đến nay)

- 1
Trang - 94 -
Gv:
- Các đồng peso hiện nay đã được giới thiệu vào ngày 29 tháng 9 năm 1975
bởi Nghị định 1123, thay thế Escudo với tỷ lệ là 1 peso = 1000 escudos. Nó được
chia nhỏ ra 100 centavos cho đến năm 1984.
*Tiền xu
- Năm 1975, tiền xu đã được giới thiệu với các mệnh giá 1, 5, 10 và 50
centavos và 1 peso. Đồng xu 1, 5 và 10 centavo rất giống với các đồng tiền 10, 50
và 100 Escudo họ đã thay thế. Từ năm 1983, lạm phát đã để lại những đồng xu
centavo lỗi thời. Đồng xu 5 và 10 peso đã được giới thiệu vào năm 1976, tiếp theo
là 50 và 100 peso vào năm 1981 và 500 peso vào năm 2000. Tiền xu đang lưu hành
có các mệnh giá 1, 5, 10, 50, 100 và 500 peso, tuy nhiên, hầu hết các nhà bán lẻ có
xu hướng tròn giá đến gần 10 peso.
Ngay sau Chính phủ quân sự ở Chile (1973-1990), các mẫu thiết kế mặt
chính của tiền xu 5 và 10 peso đã được thay đổi. Those coins bore the image of a
winged female figure wearing a classical robe. Những đồng tiền mang hình ảnh của
một nhân vật nữ mặc một chiếc áo choàng cánh cổ điển. Bên cạnh cô, với chữ số La
Mã nhỏ, ngày của cuộc đảo chính được đánh dấu, và bên dưới là từ Libertad (tiếng
Tây Ban Nha nghĩa là tự do) được viết bằng chữ hoa. Sau sự trở lại của nền dân
chủ, một thiết kế với những bức chân dung của Bernardo O'Higgins được sử dụng.
Năm 2001, đồng xu 100 peso vừa được thiết kế lại mang hình ảnh của một người
phụ nữ Mapuche bắt đầu lưu thông.
- Trong tháng 2 năm 2010 người ta đã phát hiện ra rằng trên series năm 2008
của các đồng tiền 50 peso, tên quốc gia "CHILE" đã bị viết sai chính tả thành
"CHIIE". Sở đúc tiền quốc gia lúc đó nói rằng họ không có kế hoạch thu hồi các
đồng tiền. Những đồng xu ấy, trị giá khoảng 9 cent (Mỹ) cho mỗi 50 peso vào thời
điểm đó, sau đó trở thành mục tiêu được sưu tầm.
*Tiền giấy
- Năm 1976, tiền giấy đã được giới thiệu với các mệnh giá 5, 10, 50 và 100
peso. Lạm phát có kể từ khi bắt đầu việc phát hành mệnh giá cao hơn nhiều. Tiền
giấy 500 peso đã được giới thiệu vào tháng 05 năm 1977, tiếp theo là 1.000 peso
vào tháng 06 năm 1978, 5.000 peso trong tháng 07 năm 1982, 10.000 peso vào
tháng 06 năm 1989, 2.000 peso trong tháng 12 năm 1997 và 20.000 peso vào tháng
12 năm 1998. Các giấy bạc 5, 10, 50, 100 và 500 peso đã được thay thế bằng tiền
kim loại, để lại các giấy bạc 1000, 2000, 5000, 10.000 và 20.000 peso trong lưu
thông.
- Tất cả tiền giấy được in trên giấy trừ giấy bạc 2000 peso đã được ban hành
như là một tờ tiền giấy polymer từ tháng năm 2004. Tất cả tiền giấy có tiêu chuẩn
145x70mm (trừ một số ngoại lệ dưới đây).
- Trong dịp kỷ niệm của hai trăm năm của nước Cộng hòa, tiền giấy mới sẽ
được phát hành giữa năm 2009 và 2012. Đầu tiên, từ giấy bạc 5.000 peso, được phát
hành vào ngày 24 Tháng Chín 2009 và nó đã được ban hành như là một tờ tiền giấy
polymer. Các loạt tiền giấy mới sẽ có kích thước khác nhau so với hiện tại, từng có

- 1
Trang - 95 -
Gv:
một sự khác biệt từ 7 mm tùy thuộc vào giá trị của chúng (tờ tiền 1.000 peso sẽ nhỏ
hơn so với 5000, vv.). Những tờ 5.000 peso mới có kích thước là 134 x 70 mm. Đây
sẽ là lần đầu tiên một thế hệ tiền giấy hoàn toàn mới được đưa vào lưu thông không
phải vì những tác động của lạm phát. Tiền giấy mới sẽ khó khăn hơn để làm giả bởi
vì các biện pháp bảo mật mới và rẻ hơn để sản xuất.
c)Nhận xét
- Đồng peso Chile đã bị mất giá liên tục mỗi năm so với USD và các ngoại tệ
mạnh. Tuy nhiên, đồng peso dường như ổn định hơn so với đồng đôla Mỹ trong giai
đoạn từ năm 1994 đến 1997, để tiếp tục mất giá sau đó với một đỉnh cao về tỷ lệ
peso trên mỗi USD và đôi khi vượt qua gần 700 Chile peso mỗi đồng đô la Mỹ
(trong năm 2002 và 2003) do ảnh hưởng của cuộc tấn công 11.09(vào năm 2001).
Từ đỉnh cao mà peso đã được đánh giá lại đáng kể.

- 1
Trang - 96 -
Gv:

- 1
Trang - 97 -
Gv:

- 1
Trang - 98 -
Gv:

3.3 ARGENTINA: Peso (ARS)


-Mã ISO 4217: ARS.
-Biểu tượng: $.
-Tiền đơn vị nhỏ nhất: centavos.
-Mệnh giá tiền xu được phát hành: 1, 5, 10, 25, 50 centavos, 1 peso.
-Mệnh giá tiềm giấy được phát hành: 2, 5, 10, 20, 50, 100 peso.
-Các peso là tiền tệ của Argentina. Các biểu tượng được sử dụng tại địa phương cho
nó là $ (để tránh nhầm lẫn, Argentina thường xuyên sử dụng U $ D, US $, U $, U $ S,
hoặc U $ A để chỉ đô la Mỹ).
1 peso được chia ra 100 centavos . Các peso cũng là tên của một số loại tiền tệ trước
đó của Argentina.
Tỷ giá trao đổi khoảng 3 peso cho mỗi đồng đô la Mỹ 2002-2008, và khoảng 4 peso
trong năm 2010.
-Sau độc lập , Argentina bắt đầu phát hành tiền xu riêng của mình..Năm 1826 – 1881,
hai loại tiền giấy được phát hành, Peso Fuerte & Peso Argentina moneda
corriente:
- Peso Fuerte ( $F, Mã ISO 4217: ARF) là một loại tiền tệ chuyển đổi. Tỷ lệ 16 Peso
Fuerte/ ounce vàng vào năm 1864.Nó được thay thế bởi Peso moneda Nacoinal vào
năm 1881.
- Peso Argentina moneda corriente ($m/c, Mã ISO 4217: ARC) cũng được giới thiệu
vào năm 1826, là một loại tiền tệ không chuyển đổi. Được biết đến như là papel peso
(tiền giấy) bởi vì nó chỉ được phát hành như là ghi chú. Các Peso moneda Corriente
được giới thiệu ngang với các Peso Fuerte nhưng đã bị mất giá nhiều lần trong giao
dịch.
- Các Peso moneda Corriente được thay thế bởi Peso moneda Nacional ở mức 25 Peso
moneda Corriente = 1 Peso moneda Nacional vào năm 1876.
*1881 – 1969, Peso Oro Selledo ( $ O/ s, Mã ISO 4217: ĐỐI_SỐ):
- Là một loại tiền giấy chuyển đổi bằng 1,4516 gam vàng Mỹ.
*1970 – 1983, Peso ley ( $L, Mã ISO 4217: ARL):
- Các Peso ley 18,188 là tiền tệ của Argentina từ 01 tháng một 1970 và 05 tháng 5 năm
1983. Nó được chia ra 100 centavos. Tên của nó xuất phát từ số 18.188 pháp luật, có
hiệu lực ngày 05 tháng tư 1969.

- 1
Trang - 99 -
Gv:
- Các peso ley thay thế Peso moneda Nacionaltại
một tỷ lệ 100 -1.
- Năm 1970, tiền xu đã được giới thiệu có mệnh
giá 1, 5, 10, 20 và 50 centavos. Khi lạm phát bị
xói mòn giá trị của tiền tệ, mệnh giá cao hơn đã
được giới thiệu: 1 peso vào năm 1974, 5 và 10
peso vào năm 1976, và 50 và 100 peso vào năm
1978.
- Tiền giấy được phát hành với các mệnh giá: 1,
5, 10, 20, 50, 100, 500, 1.000, 5.000, 10.000,
50.000, 100.000, 500.000, 1.000.000 peso.

*1983-198, Peso Argentino ($ a) ( ISO 4217 : ARP):

- Peso Argentino thay thế các loại tiền tệ trước đó với tỷ lệ 1 Peso Argentino = 10.000
Peso ley. Các loại tiền tệ đã được sinh ra ngay sau khi sự xuất hiện của dân chủ.

- Mệnh giá tiền xu : Năm 1983, tiền xu cho 1, 5, 10 và 50 centavos đã được ban hành.
Năm 1984, một lần nữa lại centavo 50 ban hành, cùng với 1, 5 và 10 peso argentinos.
Năm 1985, 5, 10 và 50 peso tiền xu được đúc Argentino.

- Mệnh giá tiền giấy: Năm 1983, Trung ương Banco ban hành giấy bạc 1, 5, 10, 50 và
100 peso argentinos. Năm 1984, 500, 1.000 và 5.000 peso ghi chú Argentino được
giới thiệu. Năm 1985, cácpeso dưới 50 argentinos peso được thay thế bằng tiền xu,
với 10.000 peso argentinos được giới thiệu.

*1985 – 1991, Austral ( ) (Mã ISO 4217: ARA):

- 1
Trang - 100 -
Gv:

- Austral (Argentina Phương Nam) được chia ra 100 centavos. Các biểu tượng là một
chữ hoa A với một dòng ngang thêm. Biểu tượng này xuất hiện trên tất cả các đồng
tiền phát hành loại tiền này (bao gồm cả centavos), để phân biệt với các loại tiền tệ
trước đó.

- Các phương nam thay thế Peso Argentino với tỷ lệ 1 phương nam = 1.000 argentinos
peso.

- Năm 1985, tiền xu đã được giới thiệu cho ½, 1, 5, 10 và 50 centavos. Các centavo ½
chỉ phát hành vào năm 1985, sản xuất, trong khi của centavo 1 chấm dứt vào năm
1987, 5 centavo ngừng vào năm 1988, và của các đồng tiền khác centavo kết thúc vào
năm 1989. Năm 1989, 1, 5 và 10 xu phương nam đã được ban hành, theo sau vào năm
1990 và 1991 của 100, 500 và 1.000 phương nam mệnh giá.

Năm 1985, các vấn đề tạm thời đã được thực hiện bao gồm 1.000, 5.000 và 10.000
peso Argentina ghi chú trên đóng dấu với giá trị 1, 5 và 10 australes.

- Tất cả tiền giấy, trừ các loại lâm thời hiển thị trên Liberty trở lại với một ngọn đuốc
và lá chắn. Trên obverses, từ peso xoá hoàn toàn, trong khi ngược lại các thiết kế thay
thế hình ảnh với tên gọi viết bằng chữ không có dấu cách trong một vài dòng. mệnh
giá được hiển thị trên cả hai khuôn mặt trong các mẫu A MIL 10 (10.000 australes), A
MIL 50 (50.000 australes) và A MIL 500 (500.000 australes).

*1992 – nay, Peso Convertible ($AR) (Mã ISO 4217: ARS) :

- Các Peso Convertible thay thế cho Austral với tốc độ 1 Peso = 10.000 australes.

- Các peso hiện hành ( ISO 4217 : ARS) thay thế cho Austral với tốc độ 1 peso =
10.000 australes. Nó cũng được gọi là peso chuyển đổi quốc tế kể từ khi tỷ giá hối
đoái đã được cố định bởi Ngân hàng Trung ương tại 1 peso = 1 đô la Mỹ và đối với
mỗi peso chuyển đổi, lưu thông có một đồng đô la Mỹ tại Ngân hàng Trung ương dự
trữ ngoại tệ . Kết quả cuối cùng thay thế này là một trong những peso chuyển đổi sẽ
có giá trị 10,000,000,000,000 (10 13) peso moneda Nacional. Tuy nhiên, sau khi cuộc
khủng hoảng tài chính năm 2001 , việc trao đổi hệ thống cố định tỷ lệ bị hủy bỏ.

- 1
Trang - 101 -
Gv:
- Năm 1992, 1, 5, 10, 25 và 50 centavo tiền xu đã được giới thiệu, tiếp theo là 1 peso
vào năm 1994. Đồng xu 1 centavo được đúc cuối năm 2001 và đã được rút khỏi lưu
thông.

1 centavos đồng
kẽm 1$ đồng nikel
1Centavos
đồng nhôm

5 centavos
thép mạ đồng 5 centavos
5 centavos đồng đồng nikel
nhôm

10 centavos đồng nhôm 10 centavos thép mạ đồng

50 cent đồng nhôm

25 centavos đồng nhôm 25 centavos đồng nikel

- Kỷ niệm hiến pháp quốc gia Công ước , 2 - và 5-peso tiền kim loại nickel được phát
hành vào năm 1994.

- 1
Trang - 102 -
Gv:
-

tiếng thế giới, và nhà thơ Jorge Luis


Mệnh Mặt Reverse
Borges , họ đã có một hình ảnh của
giá
khuôn mặt Borges ở một bên, và một
mê cung và tiếng Do Thái chữ Aleph
mặt khác .
2
peso - Ngoài ra, kỷ niệm lần thứ 50 cái chết
(1994) của Eva Perón , vào ngày 18 tháng 9
năm 2002 mới đồng tiền 2-peso một với
khuôn mặt của cô đã được tạo ra. Nó
đã được nói rằng điều này sẽ thay thế
đồng tiền cũ AR $ 2 tiền giấy, nếu lạm
5 phát tiếp tục được cao.
peso
(1994) Năm 1992, tiền giấy đã được giới thiệu
có mệnh giá 1, 2, 5, 10, 20, 50, và 100
peso. Các ghi chú 1 peso được thay thế
bằng một đồng xu vào năm 1994.

2
peso
(2007) b)Đặc điểm tiền hiện tại.
- Kể từ tháng 01 năm 2002, tỷ giá hối đoái
dao động, lên đến một đỉnh cao bốn peso
cho một đồng đô la. Việc xuất khẩu bùng nổ sau đó tạo ra một làn sóng lớn đô la vào nền kinh
tế của Argentina, đã giúp hạ thấp giá của chúng. Mặt khác, chính quyền hiện nay đã công khai
thừa nhận một chiến lược trong việc giữ tỷ giá giữa 2,90-3,10 peso cho mỗi đô la Mỹ, để duy
trì sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu và khuyến khích thay thế nhập khẩu của các ngành công
nghiệp địa phương. Khi cần thiết, Ngân hàng Trung ương phát ra peso và mua đô la ở thị
trường tự do để giữ giá đồng đô la, và đã tích lũy được trên 27.000 triệu USD trong dự trữ
trước khi các 9.810 triệu USD thanh toán cho IMF trong tháng 01 năm 2006.

- 1
Trang - 103 -
Gv:

3.4 Mexico: Peso (MXN)


- Mã ISO 4217: MXN.
- Tiểu đơn vị: centavo.

- 1
Trang - 104 -
Gv:
- Biểu tượng: $ hoặc Mex $.
- Centavo: ¢.
- Tiền xu: 50 ¢, 1 $, 2 $, 5 $, 10 $; 5 ¢, 10 ¢, 20 ¢, 20 $, 50 $ , 100 $ (hiếm
khi được sử dụng.
- Giấy bạc: $ 20 , $ 50, $ 100, $ 200, $ 500, $ 1.000.
a) :
-Đồng Peso: là tiền tệ của Mexico. Mã ISO 4.217 cho peso là MXN, trước
đợt định giá lại năm 1993, mã đồng peso là “MXP”. Một Peso Mexico được chia ra
100 centavos. Tên gọi ban đầu được dùng để peso oro (trọng lượng vàng) hoặc
peso Plata (trọng lượng bạc). Các bản dịch tiếng Anh chữ của peso từ tiếng Tây
Ban Nha là trọng lượng. Theo ngày 23 tháng 06 năm 2010, tỷ giá của đồng peso
được 12,141 cho mỗi đồng đô la Canada, 15,488 mỗi Euro, và 12,658 cho mỗi đô la
Mỹ

*Peso đầu tiên


- Các đồng peso ban đầu là tên của 8 reales tiền xu ở
Mexico - thuộc địa cũ của Tây Ban Nha . Sau khi Mexico
giành được độc lập năm 1821, chính phủ mới của Tây Ban
Nha tiếp tục hệ thống tiền tệ của 16 reales bạc = 1 Escudo
vàng, với đồng peso 8 reales là đồng xu bạc lớn nhất. Tiền
giấy cũng được ban hành, thanh toán bằng tiền peso.
Năm 1863, phát hành lần đầu tiên tiền xu dưới dạng
1
đồng centavos, trị giá của peso. Năm 1866 bằng tiền xu
Kỷ niệm hai peso 100
tiền xu từ năm 1921. mệnh giá một peso. Tiền xu mệnh giá reales tiếp tục được
ban hành cho đến năm 1897. Năm 1905, lượng vàng của
đồng peso đã giảm 49,3% nhưng lượng bạc của peso vẫn giữ ban đầu không thay
đổi. Tuy nhiên, từ năm 1918 trở đi, trọng lượng của tất cả các đồng xu bạc bị sụt
giảm, cho đến năm 1977, khi đồng tiền bạc 100 peso cuối được đúc.
*Peso thứ hai
-Ngày 01 Tháng 1 năm 1993, các Ngân hàng của Mexico giới thiệu một loại
tiền tệ mới, đồng peso Nuevo (MXN), bằng văn bản "N $" tiếp theo là số tiền bằng
số. Một peso mới, hoặc N$1,00, bằng với 1000 của peso MXP lỗi thời.
Ngày 01 Tháng 1 năm 1996, các Nuevo sửa đổi lần được giảm từ danh
nghĩa, tiền xu và tiền giấy mới. Mã ISO 4217, nhưng vẫn không thay đổi như MXN.
Nhờ vào sự ổn định của nền kinh tế Mexico và sự tăng trưởng trong đầu tư
nước ngoài, đồng peso của Mexico hiện đang trong số 15 đơn vị tiền tệ được giao
dịch nhiều trong những năm gần đây; kể từ cuối những năm 1990 peso đã được giao
dịch ở mức khoảng 9 - 13 peso mỗi đô la Mỹ .
* Sử dụng bên ngoài Mexico

- 1
Trang - 105 -
Gv:
-Các đồng đô la Tây Ban Nha hoặc peso Mexico đã được sử dụng rộng rãi ở
Hoa Kỳ. Theo một nghị định của ngày 06 tháng bảy năm 1785, giá trị của đồng đô
la Mỹ đã được thiết lập để phù hợp với đồng đô la Tây Ban Nha, cả hai đều dựa trên
trọng lượng của bạc trong các đồng tiền. Việc đầu tiên, đô la Mỹ đã không phát
hành tiền xu cho đến ngày 2 tháng 4 năm 1792, và đồng peso tiếp tục được chính
thức công nhận và sử dụng, cùng với các đồng tiền khác của nước ngoài, cho đến
ngày 21 tháng 2 năm 1857. Tại Canada , nó vẫn hợp pháp, cùng với bạc tiền xu
nước ngoài khác, cho đến 1854 và tiếp tục lưu hành sau đó. Các đồng peso của
Mexico cũng là mô hình cho các đồng đô la eo biển Malorca , những đồng đô la
Hồng Kông , các Yen Nhật và các đồng nhân dân tệ Trung Quốc.
*Tiền xu
-Thế kỷ 19
Những đồng tiền đầu tiên của tiền tệ peso
là 1 miếng centavo đúc năm 1863. Hoàng đế
Maximilian , người cai trị của Đế chế Mexico thứ
hai 1864-1867, đúc các đồng tiền đầu tiên với
truyền thuyết “peso” trên chúng, chân dung của
ông được vào mặt chính, với truyền thuyết
“Maximiliano Emperador” đảo ngược cho thấy
cánh tay của triều đình và những huyền thoại
“Imperio Mexicano”, “1 Peso” và niên hiệu.
Một centavo đồng xu của năm 1890 Chúng được đúc vào những năm 1866-1867.
Chính phủ mới của nước Cộng hòa
Mexico tiếp tục đúc đồng 8 reales, nhưng cũng bắt đầu đúc tiền xu bằng đồng
centavos và peso. Thêm vào là tiền xu bằng đồng 1 centavo, 5, 10, 25 và 50
centavos và peso 1 đã được giới thiệu giữa năm 1867 và 1869. Đồng tiền xu 1, 2, 2
½, 5, 10 và 20 peso vàng đã được giới thiệu vào năm 1870. Các đặc trưng của
Mexico: “đại bàng” và truyền thuyết “República Mexicana”. Đảo ngược của các
đồng tiền lớn hơn cho thấy cái cân, những đồng tiền nhỏ hơn thì thấy các loại đơn
vị. Tiền xu 1-peso đã được làm từ năm 1869 đến 1873, trong khi đồng 8 reales lại
được tiếp tục sản xuất. Trong năm 1882, đồng tiền xu bằng hợp kim nikel 1, 2 và 5
centavos đã được ban hành nhưng họ chỉ đúc trong hai năm. Các đồng 1 peso đã
được giới thiệu lại vào năm 1898.
1.1. Thế kỷ 20
Năm 1905 một cuộc cải cách tiền
tệ đã được thực hiện, trong đó lượng vàng
của đồng peso đã giảm 49,36% và đồng
tiền bạc được giảm (trừ đồng 1 peso). Đồng
1 và 2 centavos, niken 5 centavos, bạc 10,
20 và 50 centavos và vàng 5 và 10 peso đã
Một chọn lọc các đồng tiền Mexico cũ được ban hành.

- 1
Trang - 106 -
Gv:
Năm 1910, một đồng tiền peso mới được ban hành, các “Caballito nổi
tiếng”, được coi là một trong những đồng tiền đẹp của Mexico. Mặt chính có hình
một con đại bàng ngậm một con rắn, đứng trên một cây xương rồng, các truyền
thuyết “Estados Unidos Mexicanos” và “Un Peso”. Mặt ngược lại cho thấy một
người phụ nữ cưỡi một con ngựa, tay nâng cao cho lời kêu gọi và niên hiệu.
Giữa năm 1917 và 1919, các tiền đúc bằng vàng được mở rộng bao gồm 2, 2
½, và 20 peso. Tuy nhiên, vấn đề lưu thông của vàng chấm dứt vào năm 1921. Năm
1918, các đồng tiền peso được điều chỉnh, để nó phù hợp với tiền xu mới 10, 20 và
50 centavos (bằng bạc). Tiền xu 10 và 20 centavos (bằng thiếc) đã được giới thiệu
vào năm 1919 và 1920.
-Năm 1947, một bức chân dung mới của Morelos xuất hiện trên 1 peso,
với Cuauhtémoc trên 50 centavos và Miguel Hidalgo trên 5 peso.
Năm 1955, đồng 50 centavos đã được giới thiệu, cùng với đồng xu 5 -peso
và một đồng xu 10-peso mới. Năm 1957, đồng tiền 1 peso mới được phát hành.
Một peso đặc biệt được đúc vào năm 1957 để kỷ niệm Benito Juárez và hiến pháp
năm 1857. Đây là những peso bạc cuối cùng.
Giữa năm 1960 và 1971, một tiền đúc mới được giới thiệu, bao gồm đồng 1
và 5 centavos,hợp kim nickel 10, 25 và 50 centavos, 1, 5 và 10 peso và 25 peso bạc
(chỉ phát hành năm 1972). Năm 1977, 100 peso bạc được phát hành cho lưu thông.
Năm 1980, đồng xu 5-peso đã được giới thiệu cùng với 20 peso (từ 1982) và 50
peso bằng hợp kim nikel. Giữa năm 1978 và 1982, các kích thước của tiền xu cho
20 centavos và cao hơn đã giảm. Tiền xu 100, 200, 500, 1.000 và 5.000 peso bằng
kim loại thường đã được giới thiệu giữa năm 1984 và 1988.
1.2. Nuevo peso
-Các peso Nuevo (peso mới) là kết quả của siêu lạm phát ở Mexico. Năm
1993, tổng thống Carlos Salinas ra lệnh ban hành đồng Peso mới (peso Nuevo) với
bằng việc bỏ 3 số 0 của đồng peso cũ, theo đó, 1 peso Nuevo = 1000 peso. Vào thời
gian đó, từ "Nuevo" đã được gỡ bỏ từ tất cả các loại tiền tệ mới được in, do đó các
ghi chú được tính bằng chỉ "peso" một lần nữa. Để tránh nhầm lẫn, Ngân hàng của
Mexico đã ban hành một loại tiền có hình dáng và các chi tiết hoàn toàn mới dưới
dạng peso Nuevo.
Trong năm 1993, đồng tiền của các loại tiền tệ mới đã được ban hành với các
mệnh giá 5, 10, 20 và 50 centavos, 1, 2, 5, 10, 20 và 50 nuevos peso. Các 5 và 10
centavos được đúc trong thép không gỉ và 20, 50 centavos trong đồng nhôm. Với
các nuevos 1, 2 và 5 peso bằng nhôm và thép không gỉ. Đồng 10, 20 và 50 nuevos
peso bằng bạc và nhôm. Năm 1996, từ Nuevo(s) đã được gỡ bỏ khi gọi những đồng
xu. Đồng 10 peso mới đã được giới thiệu với các kim loại cơ bản thay thế bạc.
Năm 2003 các ngân hàng của Mexico bắt đầu khởi động một loạt mới là
$100 tiền lưỡng kim.
Các đồng tiền thường gặp trong lưu thông có giá trị 50¢, $1, $2, $5, $10 và
$20. Loại $50, 10¢ và 5¢ là những đồng tiền xu hiếm thấy. Các đồng tiền $ 20

- 1
Trang - 107 -
Gv:
không phải là sử dụng rộng rãi như các tờ tiền giấy 20 USD. Tính đến cuối năm
2006 và đầu năm 2007, việc sử dụng là 20 cent tiền xu cũng dần dần suy giảm.

*Tiền giấy
-Peso đầu tiên
Tiền giấy đầu tiên do nhà nước Mexico đã được sản xuất năm 1823 bởi
hoàng đế Iturbide với các mệnh giá 1, 2 và 10 peso. Tiền giấy 10 peso cũng do
Hoàng đế Maximilian năm 1866 ban hành, nhưng, cho đến những năm 1920, tờ tiền
giấy sản xuất hoàn toàn nằm trong tay của các ngân hàng tư nhân và chính quyền
địa phương.
Năm 1920, Ủy ban tiền tệ Mexico đã ban hành 50-centavo và tiền giấy 1
peso trong khi Ngân hàng của Mexico đã ban hành tiền giấy 2 peso. Từ năm 1925,
Ngân hàng phát hành tiền giấy 5, 10, 20, 50 và 100 peso, 500 và 1000 peso sau năm

- 1
Trang - 108 -
Gv:
1931. Từ năm 1935, Ngân hàng cũng đã ban hành tiền giấy 1 peso và 10.000 peso
từ năm 1943.
Việc sản xuất tiền giấy 1 peso chấm dứt vào năm 1962, tiếp theo là 5 peso
trong năm 1971, 10 và 20 vào năm 1977, 50 peso vào năm 1984, 100 pes o vào năm
1985, 500 peso ở peso năm 1987 và 1.000 vào năm 1988.
Tiền giấy 5.000 peso đã được giới thiệu vào năm 1981, tiếp theo là 2.000
peso vào năm 1983, 20.000 peso vào năm 1985, 50.000 peso trong peso năm 1986
và 100.000 vào năm 1988.
-Peso thứ hai
*Seri B và C
Năm 1993, tiền giấy đã được giới thiệu mới cho 10, 20, 50, và 100 nuevos
peso. Những ghi chú được thiết kế theo series B của Ngân hàng.
Trong tháng 10 năm 1994, Series C đã được phát hành với những thiết kế
hình ảnh mới. Từ “nuevos” vẫn còn. Tiền giấy 500 nuevos peso đã được thêm vào.
Tất cả đã được in vào ngày 10 tháng 12 năm 1993.
*Series D
Các seri tiếp theo của tiền giấy, được thiết kế thành seri D, đã được giới thiệu
vào năm 1996. Nó là một phiên bản sửa đổi của series C với “nuevos” được cắt bỏ,
tiêu đề ngân hàng thay đổi từ "El Banco de México" thành "Banco de México" và
câu "pagará a la vista al portador" được gỡ bỏ.
Bắt đầu từ năm 2001, mỗi tên gọi trong series được nâng cấp dần dần. Ngày
15 Tháng 10 năm 2001, trong một nỗ lực để chống làm giả, tiền giấy series D với
50 peso và lớn hơn được tiếp tục sửa đổi với sự bổ sung một dải ánh kim. Trên tờ
100 peso và lớn hơn, số mệnh giá được in chuyển màu ở góc trên bên phải. Ngày 30
tháng 9 năm 2002,tờ $20 mới được giới thiệu. Các $20 mới được in trên nhựa
polymer dẻo hơn là giấy. Tờ $1000 mới được ban hành vào ngày 15 tháng 11 2004.
Ngân hàng của Mexico dùng “D1 series” để chỉ tiền giấy $20, $50, và $1000 trong
làn sóng thay đổi này.

- 1
Trang - 109 -
Gv:
Ngày 05 tháng 4 2004 các Phòng đại biểu chấp thuận yêu cầu các Ngân hàng
của Mexico sản xuất trước 01 tháng 01 năm 2006 loại tiền giấy và tiền xu được
nhận dạng bởi người mù (ước tính hơn 750.000 công dân khiếm thị, trong đó có
250.000 là hoàn toàn mù).
Ngày 19 tháng 12, năm 2005, $ 100, $ 200, và $500 MXN tiền giấy mô hình
xúc giác (như chữ nổi).
Mô hình xúc giác như sau:

Bill Mô tả của mô hình


Giá trị

Năm chéo dòng cạnh


$ 100 nhau, có độ dốc âm, mỗi chia
thành ba phân đoạn.

$ 200 Chia nhỏ lên vuông mẫu.

Bốn đường ngang dưới


$ 500 mỗi khác, mỗi chia thành ba
phân đoạn.

* Series F
Vào tháng 09 năm 2006, đã có thông báo cho rằng một dòng tiền giấy mới
sẽ được tung ra dần dần. Các mệnh giá 50 peso bằng polymer đã được đưa ra vào
tháng 10 năm 2006. Những tờ 20-peso đã được đưa ra vào tháng 08 năm 2007.
Những tờ 1000 peso đã được đưa ra tháng 03 năm 2008.
Tiền giấy $200 được ban hành trong năm 2008, tờ $100 và $500 đã được
phát hành vào tháng 08 năm 2010.
*Bill kỷ niệm
Ngày 29 Tháng Chín 2009, Ngân hàng của Mexico công bố kỷ niệm của tiền
giấy. Tiền giấy 100 peso và tên gọi dự luật kỷ niệm trăm năm sự bắt đầu của cuộc
Cách mạng Mexico (1910-1920). Tờ 200 peso và tên gọi dự luật kỷ niệm hai trăm
năm cho sự bắt đầu của Chiến tranh Mexico vì độc lập (từ năm 1810).

- 1
Trang - 110 -
Gv:

100 Peso Tiền giấy:


In trên polymer với kích thước
là 66 mm chiều dài, và 134 mm. Mặt
trước của tờ tiền giấy các mô tả một đầu
máy, được sử dụng để vận chuyển quân
đội cách mạng, điều này tượng trưng
cho phong trào vũ trang đã bắt đầu vào
năm 1910. Ở mặt sau của tờ tiền giấy
có một phân đoạn một bức tranh tường
mang tên "Del Porfirismo a Revolución
la", được vẽ bởi nghệ sĩ David Alfaro
Siqueiros. Ngân hàng của Mexico in
50.000.000 tờ tiền giấy 100-peso.

200 Peso Tiền giấy:


Tờ 200-peso tên gọi Các đồng peso Tiền giấy mệnh giá $ 100 cho
dự luật kỷ niệm hai trăm năm thấy Mặt trận (trên) và ngược lại (dưới) bên
của các Bắt đầu của Độc lập
Mexico (1810-1821). Tờ giấy này
được in trong một định hướng thẳng
đứng với kích thước là 66 mm và
141 mm. Mặt chính của tờ tiền giấy
các mô tả của Lãnh tụ Mexico độc
lập, Don Miguel Hidalgo y Costilla,
mang theo biểu ngữ của ông mà sau
này được sử dụng bởi các máy bay
chiến đấu độc lập. Mặt ngược Các đồng peso Tiền giấy mệnh giá $ 200
lại mô tả các di tích mang tính cho thấy Mặt trận (còn lại) và ngược lại
biểu tượng của Mexico City. (phải) bên

:
- Nhờ vào sự ổn định của nền kinh tế Mexico và sự tăng trưởng trong đầu tư
nước ngoài, đồng peso của Mexico hiện đang trong số 15 đơn vị tiền tệ được giao
dịch nhiều trong những năm gần đây; kể từ cuối những năm 1990 peso đã được giao
dịch ở mức khoảng 9 - 13 peso mỗi đô la Mỹ. Tính đến tháng 10 năm 2010, peso
được giao dịch ở mức 12.35 peso mỗi đô la Mỹ.

3.5. CANADA: đô la (CAD)

- 1
Trang - 111 -
Gv:
:
-Mã ISO 4217: CAD. Ký hiệu tiền tệ: $ hoặc C$ để phân biệt nó với các loại
tiền tệ khác cũng được gọi tên là đô la.Tiền kim loại: 1¢, 5¢, 10¢, 25¢, $1 (Loonie),
$2 (Toonie), 50¢ ( ít dùng).Tiền giấy: $5, $10, $20, $50, $100 (ít dùng).
-Tính đến 2007, đồng đô la Canada là loại tiền tệ được trao đổi hàng thứ 7
trên thế giới. Đằng sau đồng đô la Mỹ , các đồng euro , các yen , các sterling
pound , các franc Thụy Sĩ và các đồng đô la Úc .
- Tỉnh Canada tuyên bố rằng tất cả các tài khoản cần được duy trì theo đô la
và cent vào thời điểm ngày 1 tháng 1 năm 1858, và ra lệnh phát hành các đồng tiền
xu Canada chính thức đầu tiên trong cùng một năm. Đồng đô la được chốt ngang
giá với đồng đô la Mỹ, theo tiêu chuẩn vàng là $1 = 23,22 grain (1,505 g) vàng.
- Năm 1861, New Brunswick và Nova Scotia theo sau Canada trong việc áp
dụng một hệ thống thập phân dựa trên đơn vị đô la Mỹ. Các vùng thuộc địa kết hợp
cùng nhau trong Liên bang Canada đã dần dần chấp thuận hệ thống thập phân trong
vài năm sau đó.
Nghị viện liên bang đã thông qua Đạo luật tiền tệ thống nhất vào tháng 4
năm 1871, thay thế các loại tiền tệ của các tỉnh khác nhau bằng một đồng đô la
Canada chung. Các tiêu chuẩn vàng đã tạm thời bị bỏ rơi trong Thế chiến thứ nhất
và dứt khoát bãi bỏ vào ngày 10 Tháng Tư 1933.
-Tại sự bùng nổ của Thế chiến thứ hai , tỷ giá với đô la Mỹ đã được cố định
ở 1,1 đô la Canada = 1 $. Điều này đã được thay đổi để tính chẵn lẻ vào năm 1946.
Năm 1949, đồng bảng Anh đã mất giá và Canada theo sau, trở về với một tỉ giá của
1,1 đô la Canada = 1 $. Tuy nhiên, Canada cho phép đồng đô la của mình để thả nổi
vào năm 1950, chỉ có trở về cố định một tỷ giá hối đoái năm 1962, khi đồng đô la
đã được pegged lúc 1 đô la Canada = 0,925 $. Peg này kéo dài cho đến năm 1970,
sau đó của giá trị tiền tệ đã thả nổi.
*Tiền xu
Trong năm 1858, các loại tiền xu 1 ¢ bằng đồng thiếc và 5 ¢, 10 ¢ và 20 ¢
bằng bạc 0,925 đã được tỉnh Canada ban hành. Ngoại trừ tiền xu 1 ¢ được đúc năm
1859, không có đồng xu nào đã được phát hành.
Đến năm 1870, việc sản xuất tiền xu 5 ¢ và 10 ¢ được phục hồi và các đồng
xu 25 ¢ và 50 ¢ bằng bạc được đưa vào sử dụng.
Tiền xu $ 5 và $ 10 bằng vàng đã được phát hành từ năm 1912 tới năm 1914.
Trải qua nhiều thay đổi. Đến năm 2000, các loại tiền xu 1¢, 5¢, 10¢, 25¢ và
50¢ bằng thép mạ đã được giới thiệu, với đồng xu 1¢ được mạ đồng và những đồng
xu khác thì bọc bằng hợp kim đồng-niken.
Những đồng tiền xu được Xưởng đúc Canada hoàng gia sản xuất ở
Winnipeg, Manitoba, và hiện nay được phát hành với mệnh giá 1¢ (penny), 5¢
(nickel), 10¢ (dime), 25¢ (twenty-five cent piece) ("quarter" không phải là một tên
gọi chính thức tại Canada), 50¢ (50¢ piece) (mặc dù 50 ¢ piece ít khi được sử
dụng), $1 (loonie) Do sự xuất hiện của hình con chim lặn mỏ đen (loon trong tiếng

- 1
Trang - 112 -
Gv:
Anh) trên mặt sau của của đồng đô la tiền xu, thay thế cho đồng đô la tiền giấy vào
năm 1987, từ "loonie" đã được dùng trong cách nói chuyện tại Canada để phân biệt
đồng đô la Canada tiền xu với đồng đô la Canada tiền giấy., và khi đồng hai đô la
tiền xu được đưa vào sử dụng năm 1996, thì từ phái sinh "toonie" đã trở thành từ
phổ biến để chỉ nó trong tiếng lóng của tiếng Anh Canada $2 (toonie).
- Bộ tiêu chuẩn thiết kế là các biểu tượng của Canada (thường là động vật
hoang dã) nằm trên mặt trái, và hình Elizabeth II nổi trên mặt phải. Tuy nhiên, một
số đồng penny, nickel, dime hiện vẫn còn lưu thông có mang hình nổi của George
VI. Những đồng xu kỷ niệm với các mặt trái khác nhau cũng được phát hành không
định kỳ. Tiền xu 50¢ hiếm khi được tìm thấy trong lư u thông; chúng thường được
sưu tập và không được sử dụng thường xuyên trong các giao dịch thường nhật. Đã
có những cuộc thảo luận lặp đi lặp lại về việc rút penny ra khỏi lưu thông với lý do
là Xưởng đúc Canada hoàng gia phải mất tới 4 cent để sản xuất và phân phối đồng
tiền xu 1 cent này.[6] Đồng penny Canada tiêu tốn ít nhất 130 triệu C$ mỗi năm để
duy trì nó trong lưu thông, theo ước tính của một tổ chức tài chính kêu gọi rút bỏ
đồng penny.[7] Vào năm 2007 một cuộc khảo sát cho thấy, chỉ có 37% dân số
Canada sử dụng penny, nhưng chính phủ vẫn tiếp tục sản xuất khoảng 816 triệu
penny mỗi năm, tương đương 25 penny cho một người Canada.

Loạt giấy bạc ngân hàng Canada mới nhất:


- Tiền giấy có tên gọi là đô la được phát hành lần đầu ở Canada là British
Army Bills, phát hành vào giữa những năm 1813 và 1815 với mệnh giá trong
khoảng từ $1 tới $400. Chúng là sự phát hành khẩn cấp do cuộc chiến năm 1812.
Giấy bạc đầu tiên được Ngân hàng Montreal phát hành năm 1817.
- Sau khi thành lập vào năm 1841, trên địa bàn tỉnh Canada đã bắt đầu phát
hành tiền giấy. Giấy bạc được ngân hàng Montreal sản xuất cho chính phủ vào giữa
những năm 1842 và 1862, với các mệnh giá $4, $5, $10, $20, $50 và $100.
Một lượng lớn các ngân hàng đủ tư cách được thành lập trong các thập niên
1830, 1850, 1860 và 1870, mặc dù nhiều ngân hàng chỉ phát hành tiền giấy trong
một thời gian ngắn. Các ngân hàng khác, như ngân hàng Montreal, phát hành giấy
bạc trong một vài thập niên. Cho đến năm 1858, rất nhiều giấy bạc đã được phát
hành với mệnh giá là cả hai loại shilling/pound và đô la (5 shilling = $1). Một lượng
lớn các mệnh giá khác nhau đã được ban hành, bao gồm cả $1, $2, $3, $4, $5, $10,
$20, $25, $40, $50, $100, $500 và $1000. Năm 1866, tỉnh Canada bắt đầu phát hành
tiền giấy riêng của mình, với các mệnh giá $1, $2, $5, $10, $20, $50, $100 và $500.
- Năm 1870, sau khi thành lập Liên bang, nhà nước tự trị Canada đã giới
thiệu giấy bạc 25¢ cùng với phát hành mới $1, $2, $500 và $1000. Giấy bạc $50 và
$100 theo sau trong năm 1872, nhưng phần lớn giấy bạc chính quyền sản xuất sau
này chỉ là giấy bạc $1 và $2, có $4 được thêm vào trong năm 1882. Các mệnh giá
$500, $1000, $5000 và $50,000 được phát hành sau năm 1896 chỉ để giao dịch ngân
hàng mà thôi.

- 1
Trang - 113 -
Gv:
- Trong năm 1935, chỉ còn mười ngân hàng đủ tư cách (chartered bank) vẫn
còn phát hành giấy bạc, ngân hàng Canada được thành lập và bắt đầu phát hành các
giấy bạc với các mệnh giá $1, $2, $5, $10, $20, $50, $100, $500 và $1000. Năm
1944, các ngân hàng đủ tư cách đã bị cấm không cho phát hành tiền tệ riêng của
mình, với Ngân hàng Hoàng gia Canada và Ngân hàng Montreal thuộc số những
ngân hàng cuối cùng được phát hành giấy bạc.
- Mặc dù tiền xu $1 được giới thiệu vào năm 1935, nhưng chưa tới khi giới
thiệu nó thì giấy bạc ngân hàng $1 đã được rút khỏi lưu thông. Giấy bạc $2 cũng đã
được thay thế bằng tiền xu năm 1996. Hiện tại tất cả các giấy bạc ngân hàng đều
được Công ty giấy bạc Canada và BA International Inc in cho Ngân hàng Canada.
- Trong năm 2000, Ngân hàng Canada ngừng việc phát hành giấy bạc $1000
và bắt đầu rút chúng ra khỏi lưu thông, "như là một phần của cuộc chiến chống rửa
tiền và các tổ chức tội phạm."
Giấy bạc đô la Canada được Ngân hàng Canada phát hành là tiền tệ chính
thức ở Canada. Tuy nhiên, các giao dịch thương mại có thể được thanh toán hợp
pháp theo bất kỳ cách nào mà các bên liên quan thỏ a thuận. Tiền tệ chính thức của
hệ thống tiền tệ Canada được điều chỉnh bằng Đạo luật tiền tệ.
*Giá trị
- Không giống như các loại tiền tệ khác trong hệ thống Bretton Woods, có
giá trị cố định, đồng đô la Canada đã được cho phép để thả nổi từ năm 1950 tới năm
1962.
Ngân hàng Canada không có mục tiêu giá trị cụ thể cho đồng đô la Canada
và đã không c an thiệp vào các thị trường ngoại hối kể từ năm 1998.[18] Quan điểm
hiện tại của Ngân hàng Canada là các điều kiện thị trường sẽ xác định giá trị của
đồng đô la Canada.
Trên thị trường thế giới, theo dòng lịch sử, đô la Canada có khuynh hướng xê
dịch theo đô la Mỹ. Sự tăng giá biểu kiến của đô la Canada (so với đô la Mỹ) có thể
vẫn chỉ là giảm giá so với các loại tiền tệ quốc tế khác; tuy nhiên, trong quá trình
tăng giá của đô la Canada từ năm 2002, nó đã tăng giá trị so với cả đô la Mỹ cũng
như so với các loại tiền tệ quốc tế khác.
Do giá trị tăng cao và tỷ giá cao kỷ lục mới, đô la Canada đã được tạp chí
Time tặng danh hiệu Canadian Newsmaker of the Year (Sự kiện Canada của năm)
cho năm 2007
*Tiền tệ dự trữ
-Một số ngân hàng trung ương (và ngân hàng thương mại) giữ đô la Canada
như là tiền tệ dự trữ. Đô la Canada được coi là một loại tiền tệ kiểm chuẩn.
Trong nền kinh tế châu Mỹ đô la Canada đóng một vai trò tương tự như đô la
Úc (AUD) tại khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Đô la Canada (trong vai trò như
là một loại tiền tệ dự trữ cho ngân hàng) từng là một phần quan trọng của các nền
kinh tế và các hệ thống tài chính các quốc gia vùng Caribe thuộc Anh, Pháp và Hà
Lan kể từ thập niên 1950. Đô la Canada cũng được nhiều ngân hàng trung ương ở

- 1
Trang - 114 -
Gv:
Trung Mỹ và Nam Mỹ nắm giữ. Việc nắm giữ đô la Canada tại châu Mỹ Latinh
được thực hiện như thế là do tại mỗi quốc gia đều có sự lưu hành kiều hối và
thương mại quốc tế có tầm quan trọng quốc gia.
-Bằng cách theo dõi sự xê dịch của đô la Canada so với đô la Mỹ, các nhà
kinh tế ngoại hối có thể gián tiếp theo dõi các trạng thái và các mẫu hình nội tại của
nền kinh tế Mỹ mà có thể không nhận thấy bằng cách theo dõi trực tiếp. Đô la
Canada chỉ tiến triển đầy đủ thành loại tiền tệ dự trữ toàn cầu kể từ thập niên 1970
khi nó được thả nổi so với tất cả các loại tiền tệ khác trên thế giới.
*Cách nhận biết tiền giả:

T ouch tăng T i lt. Màu L ook thông L ook vào lúc


mực (5). sắc thay đổi qua dự luật. xuất hiện và
trong dải kim Giữ nó với ánh hành động của
loại (1) và dấu sáng. Kiểm tra từng tính năng
gạch ngang hình ảnh ma bảo mật cẩn
(3). quái (2) và số thận.
lượng câu đố
(4). Hãy chắc
chắn rằng dấu
gạch ngang (3)
tạo thành một
dòng rắn.
:
- Tỷ giá giao dịch tại các ngân hàng ở Canada trong sáng 07/04/2010 là
0,9999 CAD đổi được 1 USD. Các chuyên gia kinh tế cho rằng nền tảng kinh tế
chắc chắn của Canada cũng như triển vọng lạc quan của kinh tế thế giới đã hỗ trợ
đồng CAD tăng giá mạnh so với đồng USD.
BoC đã cam kết duy trì lãi suất ở mức thấp kỷ lục 0,25% đến cuối tháng 6 tới
nhằm thúc đẩy sự phục hồi kinh tế và kiềm chế lạm phát, song các nhà sản xuất đã

- 1
Trang - 115 -
Gv:
bắt đầu tăng giá hàng hóa trước khi có quyết định tăng lãi suất của ngân hàng trung
ương, do kinh tế Canada đang phục hồi nhanh chóng.
- Chuyên gia Audrey Childe-Freeman, thuộc tổ chức Brown Brothers
Harriman (ngân hàng tư nhân lớn và lâu đời nhất ở Hoa Kỳ), dự đoán đồng CAD sẽ
còn mạnh hơn nhờ triển vọng chính sách tài chính, hệ thống ngân hàng vững mạnh
và giá cả hàng hóa phục hồi ở Canada.
- Nhà kinh tế hàng đầu Avery Shenfeld của CIBC World Markets (một ngân
hàng đầu tư thuộc Ngân hàng hoàng gia Canada) cũng cho rằng sự ổn định của nền
kinh tế Canada là nhân tố quan trọng để đưa đồng CAD lên ngang bằng giá trị đồng
USD vào năm 2007 và 2008. Ông dự đoán đồng CAD vẫn sẽ mạnh lên kể cả khi giá
dầu không trở lại những mức cao như trước đây.
: Đô la(USD)
a)
- Đồng đô la Mỹ hay Mỹ kim (United States dollar, ký hiệu: $; mã ISO
4217: USD; Quỹ tiền tê quốc tế (IMF) dùng US$), còn được gọi ngắn là "đô la" hay
"đô", là đơn vị tiền tệ chính thức của Hoa Kỳ.
- Đồng đô la Mỹ lấy tên từ đồng 8 real của Tây Ban Nha. Trong thời kỳ
thuộc địa, tiền này khá phổ biến đối với người Mỹ - họ gọi nó là đồng đô la Tây
Ban Nha. Các đồng đô la đầu tiên được chính phủ Hoa Kỳ đúc có cùng cỡ và cấu
tạo với đồng đô la Tây Ban Nha, có khối lượng bạc ít hơn 1 ounce.
- Đồng đô la Mỹ thông thường được chia ra thành 100 xu (cent, ký hiệu ¢).
Trong một cách chia khác, có 1.000 min (mill) trong mỗi đô la; 10 đô la còn được
gọi là Eagle (đại bàng). Tuy nhiên, chỉ có đơn vị xu mới được dùng rộng rãi; dân
chúng Mỹ ít nghe đến "eagle" hay "mill", tuy mill có khi được dùng trong việc thu
thuế.
- Trong tiền được lưu hành, các đơn vị ít hơn hoặc bằng 1 đô la được phát
hành với dạng tiền kim loại trong khi các đơn vị nhiều hơn hoặc bằng 1 đô la được
phát hành với dạng tiền giấy (đơn vị 1 đô la có thể theo dạng tiền giấy hay tiền kim
loại, nhưng tiền giấy được lưu hành hơn nhiều).
- Hiện nay, việc phát hành tiền được quản lý bởi các hệ thống ngân hàng của
Cục Dự trữ Liên bang.
- Tiền kim loại được đúc bởi Sở đúc tiền Hoa Kỳ (United States Mint). Tiền
giấy được in bởi Cục Khắc và In (Bureau of Engraving and Printing) cho Cục Dự
trữ Liên bang từ năm 1914. Chúng được bắt đầu in giấy bạc cỡ lớn, nhưng từ năm
1928 đã đổi thành cỡ nhỏ.
- Ngày nay đô la được in thành các mệnh giá $1, $2, $5, $10, $20, $50, và
$100. Tuy nhiên cũng có thời gian tiền Hoa Kỳ gồm có năm loại có mệnh giá lớn
hơn.
- Tiền mệnh giá cao thịnh hành vào thời điểm chúng được Chính phủ Hoa
Kỳ phát hành lần đầu tiên vào năm 1861. Các tờ $500, $1.000, và $5.000 có giá trị

- 1
Trang - 116 -
Gv:
sinh lời được phát hành vào năm 1861, và tờ chứng nhận $10.000 vàng ra đời năm
1865.
- Tiền giấy trên 100 đô la không còn được in nữa sau 1946 và đã chính thức
ngưng lưu hành trong năm 1969. Sau khi việc trao đổi tiền điện tử được ra đời,
chúng trở thành dư thừa. Các đơn vị tiền lớn đã được phát hành gồm có $500,
$1.000, $5.000, $10.000 và $100.000.
*Tiền kim loại:
Đang được lưu hành có tiền kim loại 1¢ (penny), 5¢ (nickel), 10¢ (dime),
25¢ (quarter), 50¢ (nửa đô la, không thịnh hành) và $1 (không thịnh hành).

Tổng thống Abraham Lincoln trên đồng Tổng thống George Washington trên
1cent đồng Quarter Dollar

Đồng bạc được đúc giữa 1794 đến 1935 với một vài thời gian bị gián đoạn
Tiền đúc bằng đồng và niken cùng cỡ được đúc từ 1971 đến 1978.
Trong năm 2000, một đồng $1 mới có hình Sacagawea được ra mắt, chúng
có viền phẳng và có màu vàng kim loại. Dù vậy, chúng không được ưa chuộng bằng
đồng tiền giấy $1 và ít được dùng trong công việc hằng ngày.
Trong quá khứ, Hoa
Kỳ đã đúc tiền kim loại với
giá trị: nửa xu, hai xu, ba xu,
hai mươi xu, $2,50, $3,00,
$4,00, $5,00, $10,00 và
$20,00.
Sở Đúc tiền Hoa Kỳ
cũng sản xuất tiền thoi vàng
và bạch kim, được gọi là
"American Eagles" (Đại bàng
Mỹ), đều là tiền tệ chính thức
tuy chúng rất hiếm khi được
dùng.
Đồng thoi American
Silver Eagle (Đại bàng bạc
Mỹ) được lưu hành với giá trị
$1 (1 ounce troy).

- 1
Trang - 117 -
Gv:
Đồng thoi American Gold Eagle (Đại bàng vàng Mỹ) có giá trị $5 (1/10
ounce troy), $10 (1/4 ounce troy), $25 (1/2 ounce troy) và $50 (1 ounce troy).
Đồng thoi American Platinum Eagle (Đại bàng bạch kim Mỹ) có giá trị $10
(1/10 ounce troy), $25 (1/4 ounce troy), $50 (1/2 ounce troy) và $100 (1 ounce
troy).
Đồng bạc có 99,9% bạc, đồng
vàng có 91,67% vàng (22 karat) và
đồng bạch kim có 99,95% bạch kim.
Các đồng tiền này không có bán lẻ
cho cá nhân, mà phải mua từ các cơ
quan có phép.
Sở Đúc tiền còn sản xuất tiền
kim loại dành cho các nhà sưu tầm, có
cùng giá mặt và thể tích vàng thoi, để
bán lẻ. Hiện giờ đơn vị lớn nhất được
lưu hành là tờ $100 và đồng $100 ounce troy Platinum Eagle.
*Tiền giấy:
- Chân dung những người được in trên Dollar Mỹ là những vị Tổng
thống nổi tiếng, những nhà kinh tế lỗi lạc... được người dân Mỹ ngưỡng mộ. Và để
“lưu danh thiên cổ”, chân dung cũng như tên tuổi của họ vẫn đang được hàng triệu
người dân thế giới truyền tay nhau qua những đồng Dollar Mỹ

Tổng thống George Washington trên tờ 1 Dollar Tổng thống Thomas Jefferson trên tờ 2 Dollar

-Các loại tiền giấy đôla Mỹ có chung dạng trang trí, chung mầu sắc (đen
bóng mặt trước và xanh lá cây mặt sau) có cùng kích thước (156 x 66 mm) cho dù
chúng có giá trị khác nhau, từ 1 USD trở lên. Mỗi loại tiền giấy, ứng với một mệnh
giá, mang hình một tổng thống Mỹ theo đúng quy định.
Hai chức năng chống tiền giả quan trọng nhất trong tiền Mỹ là giấy và mực.
Các thành phần của giấy và các chế biến mực còn được giữ bí mật. Sự kết hợp của
giấy và mực tạo ra một lớp da đặc biệt, càng được nổi rệt ra khi tiề n được qua nhiều
tay. Các đặc điểm này khó tái tạo được nếu không có đủ thiết bị và vật dụng.Tiền
giấy Mỹ rất khó phân biệt: chúng có hoa văn rất giống nhau, và được in bằng cùng
màu, và có cỡ bằng nhau. Trong khi đó, các đơn vị tiền quan trọng khác như đồ ng

- 1
Trang - 118 -
Gv:
euro có tiền với cỡ khác nnhau: mệnh giá càng cao thì cỡ tiền càng lớn, và chúng
còn được in bằng nhiều màu khác nhau. Chẳng những chúng giúp người khiếm thị,
chúng còn giúp người thường không lẫn lộn một tờ giấy có giá trị cao trong một xấp
tiền có giá trị thấp, một vấn đề thường gặp ở Mỹ. Các du khách cũng thường không
phân biệt được tiền Mỹ vì họ không rành lắm với những hoa văn trên mặt giấy.
*Đặc điểm nhận dạng 100 dollar mới:
-

.
- 3-D:

- 1
Trang - 119 -
Gv:

Dây bảo an:

:
.

- 1
Trang - 120 -
Gv:
:

100 đô la n

: .

-
Ngân hàng

- 1
Trang - 121 -
Gv:

Các số sê-ri
-

.C.

. Đâ

- 1
Trang - 122 -
Gv:

:
-

Màu sắc:

tiền.

Sử dụng quốc tế:

- 1
Trang - 123 -
Gv:
- Vào thời điểm này, đồng đô la Mỹ vẫn là đơn vị tiền dự trữ hàng đầu, hầu
hết trong đơn vị $100. Phần đông tiền giấy Hoa Kỳ đang ở ngoài Hoa Kỳ. Đồng đô
la còn được dùng làm đơn vị tiêu chuẩn trong các thị trường quốc tế cho các mặt
hàng như vàng và dầu hỏa.
- Một số quốc gia ngoài Hoa Kỳ sử dụng đồng đô la Mỹ làm đơn vị tiền tệ
chính thức. Ecuador, El Salvador và Đông Timor dùng đô la Mỹ. Các cựu thành
viên trong nhóm Lãnh thổ Tín nhiệm Các đảo Thái Bình Dương (Trust Territory of
the Pacifi Islands) dưới sự quản lý của Hoa Kỳ, kể cả Palau, Micronesia và Quần
đảo Marshall, đã không phát hành tiền riêng sau khi họ độc lập.
- Thêm vào đó, đơn vị tiền địa phương của Bermuda, Bahamas, Panama và
một số quốc gia khác có thể hoán đổi với đồng USD với tỷ giá 1:1.
+ Đơn vị tiền tệ của Barbados được hoán đổi với tỷ giá 2:1.
+ Argentina đã dùng tỷ giá hoán đổi 1:1 giữa đồng peso Argentina và đô la
Mỹ từ 1991 đến 2002.
+ Đồng Nhân dân tệ $của CHND Trung Hoa đã được ổn định giá với đô la
Mỹ từ giữa thập niên 1990 với giá Y8,28/USD cho đến ngày 21 tháng 7, 2005.
- Không lâu sau khi đồng euro (€; mã ISO 4217 EUR) được ra mắt như tiền
mặt trong năm 2002, đồng đô la đã bị từ từ giảm giá trên thị trường quốc tế. Sau khi
đồng euro lên giá trong tháng 3 năm 2002, việc thiếu hụt trong chi tiêu và thương
mại của Hoa Kỳ ngày càng gia tăng. Đến Giáng Sinh năm 2004 đồng đô la đã tụt
giá thấp nhất đối với các đơn vị tiền quan trọng khác, đặc biệt là đồng euro. Đồng
euro lên giá cao hơn $1,36/€ (dưới 0,74€/$) lần đầu tiên cuối năm 2004, khác hẳn
với đầu năm 2003 ($0,87/€). Bắt đầu từ cuối tháng 5 đến đầu tháng 6 năm 2005
đồng đô la lại lên giá nhanh chóng so với đồng euro sau khi nền kinh tế các nước
châu Âu đang ứ đọng và Hiến pháp Liên minh châu Âu không được phê chuẩn
trong cuộc trưng cầu dân ý ở hai nước Pháp và Hà Lan. Trong khi tỷ lệ thất nghiệp
tại các nước sử dụng euro và sự phát triển kinh tế bị chậm lại tại các nước thuộc
Liên Minh, đồng euro có thể bị xuống giá so với đồng đô la, tuy đồng euro vẫn giữ
sức mạnh.
:
- Từ năm 2000 – 2009, người Mỹ đã từng bước chứng kiến giá trị tài sản và
sức mua đồng USD dần trượt dốc. Trong suốt thập niên vừa qua đồng USD đã dần
giảm giá so với hầu hết các đồng tiền mạnh khác ngoại trừ đồng Bảng Anh. Phần
lớn sự suy yếu của đồng bạc xanh trong năm vừa rồi bắt nguồn từ việc duy trì mức
lãi suất thấp kỉ lục của FED. Nguyên nhân chính dẫn đến sự hồi phục gần đây của
đồng USD là do niềm tin vào sự phục hồi của nên kinh tế Mỹ, do đó FED có thể sẽ
tăng lãi suất trở lại sớm hơn dự kiến. Theo tính toán, hiện tại có đến 57% khả năng
FED sẽ tăng lãi suất trong kỳ họp tháng 6, 80% khả năng sẽ tăng lãi suất vào tháng
8. Việc đồng USD giảm giá trị đã góp phần làm tăng thâm hụt ngân sách, giảm vai
trò làm đồng tiền dự trữ và góp một phần vào cơn khủng hoảng tài chính vừa qua.
4/ Châu Phi:

- 1
Trang - 124 -
Gv:
-Giới thiệu vài nét về kinh tế Châu Phi:
Nền kinh tế của châu Phi bao gồm thương mại , công nghiệp , và các nguồn lực
của người dân châu Phi .Đến năm 2006, có khoảng 922.000.000 người đã sống ở 54 quốc
gia khác nhau .Châu Phi là nơi sinh sống của lục địa nghèo nhất thế giới. Mặc dù các bộ
phận của châu lục này đã tăng trưởng đáng kể trong vài năm qua, 175 quốc gia xem xét
trong Liên hợp quốc " Báo cáo phát triển con người năm 2003, 25 quốc gia châu Phi được
xếp hạng thấp nhất trong số các quốc gia trên thế giới. Điều này một phần là do lịch sử
sóng gió của nó.Các phi thực dân hóa của châu Phi đã đầy bất ổn trầm trọng hơn do xung
đột chiến tranh lạnh. Kể từ giữa thế kỷ 20, các cuộc chiến tranh lạnh và tăng tham nhũng
và chế độ chuyên quyền cũng đóng góp cho nền kinh tế nghèo của châu Phi.
Sự tương phản lớn nhất về phát triển đã được so sánh giữa châu Phi và các nền
kinh tế của Châu Âu .Các kinh tế châu Phi Outlook báo cáo cụ thể đề cập rằng châu Phi
thương mại với Trung Quốc đã nhân lên 10 kể từ năm 2001, đạt trên 100 tỷ USD trong
năm 2008. Các nền kinh tế của Trung Quốc và Ấn Độ đã phát triển nhanh chóng, trong
khi châu Mỹ Latinh cũng đã tăng trưởng trung bình, nâng hàng triệu người trên sống tự
cung tự cấp. Ngược lại, phần lớn châu Phi đã trì trệ và thậm chí thụt lùi về mặt thương mại
nước ngoài , đầu tư , thu nhập bình quân đầu người và tăng trưởng kinh tế mà nguyên nhân
chủ yếu là tuổi thọ thấp, bạo lực và sự bất ổn định, mà trong đó lần lượt có các vấn đề tồn
tăng trưởng của châu lục. Trong những thập kỷ, đã có nhiều nỗ lực không thành công để
cải thiện nền kinh tế của từng quốc gia châu Phi. Tuy nhiên, số liệu gần đây cho thấy một
số phần của châu lục này đang trải qua sự tăng trưởng nhanh hơn.Các Ngân hàng Thế giới
báo cáo các nền kinh tế của các nước hạ Sahara châu Phi đã tăng trưởng ở mức phù hợp
với mức giá toàn cầu. Các nền kinh tế phát triển nhanh nhất nước châu Phi tăng trưởng
đáng kể so với tỷ lệ trung bình toàn cầu. Các quốc gia hàng đầu trong năm 2007 bao gồm
Mauritania với tốc độ tăng trưởng 19,8%, Angola tại 17,6%, Sudan ở 9,6%, Mozambique ở
7,9% và Malawi ở 7,8%. Nhiều cơ quan quốc tế đang có sự quan tâm ngày càng cao đối
với nền kinh tế đang nổi lên hiện đại hóa châu Phi , đặc biệt là châu Phi tiếp tục duy trì
tăng trưởng kinh tế cao, mặc dù hiện tại tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu .
4.1. NAM PHI: Rand (R)
- Nam Phi là kết quả của quá trình nhập cư sớm từ Châu Âu và tầm quan
trọng chiến lược của Con đường Biển Cape.
- Theo xếp hạng của Liên hiệp quốc, Nam Phi là quốc gia có mức thu nhập
loại trung bình và sở hữu nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên; tài chính, truyền
thông và năng lượng rất phát triển. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên đầu người
của Nam Phi, tính theo sức mua tương đương, đặt nước này vào vị trí một trong
năm mươi nước giàu nhất thế giới.
- Hố sâu thu nhập và một nền kinh tế đối ngẫu cho thấy Nam Phi là một nước
phát triển. Nam Phi có một trong những tỷ lệ bất bình đẳng thu nhập cao nhất thế
giới. Nam Phi cũng là nước sản xuất và tiêu thụ năng lượng lớn nhất châu lục Châu
Phi.
 Các giai đoạn phát triển của các đơn vị tiền tệ tại Nam Phi:
Nam Phi tồn tại hai hình thái tiền tệ:
*Tiền xu:

- 1
Trang - 125 -
Gv:
-Tiền xu đã được giới thiệu vào năm 1961 với các mệnh giá ½, 1, 2 ½, 5, 10,
20, 50 xu. Năm 1965, đồng tiền 2-xu thay thế cho 2 đồng tiền xu ½. Các đồng tiền
xu ½ lần cuối tấn lưu thông vào năm 1973. Các 2-rand đã được giới thiệu vào năm
1989, tiếp theo là đồng xu 5-rand trong năm 1994. 1 - và tiền kim loại 2-xu đã
ngưng vào tháng Tư năm 2002, chủ yếu do lạm phát có giảm giá trị chúng. Tất cả
giá là bây giờ làm tròn gần nhất 5 cent.
Năm 1961, Nam Phi đã thay thế đồng bảng với một loại tiền tệ thập phân:
100 xu (100c) = 1 rand (R1), 1 rand được giá trị từ 10 shilling.

1 / 2 c, 1 c và
5 đồng tiền c ban hành từ năm
1961 - 1964.

1 R và 2 đồng xu R phát
hành 1961-1983.

- Các rand đã được giới


thiệu tại Nam Phi vào tháng Hai năm 1961, sau khi trưng cầu dân ý của tháng 11
năm 1960 được thành lập tự chủ của Đế quốc Anh .
Các đồng tiền lưu thông đầu tiên của nước Cộng hoà: ½ phần trăm,1 xu , 2 ½
cent (thay thế 3d), 5 xu (thay thế 6ngày), 10 cent (thay thế số 1),20 xu (thay thế
2s),50 xu (thay thế 5 tuổi). Các đồng tiền ban đầu đã có cùng kích thước với các
đồng tiền Anh. Tất cả ngoại trừ 1/2 và 1 đồng tiền xu đã bạc.
Ngoài ra, hai thỏi tiền kim loại có mệnh giá 1 R và R 2 được ban hành, thay
thế một nửa pound vàng và bảng Anh tiền xu được giới thiệu vào năm 1952.
-Một loạt tiền kim loại đã sửa đổi đã được giới thiệu cho năm 1965. Giáo
phái bao gồm 1/2, 1, 2, 5, 10, 20 và 50 xu.

- 1
Trang - 126 -
Gv:

Những đồng xu 1/2 phần trăm đã bị dừng vào năm 1970.Các đồng tiền vàng
rand được đúc cho đến năm 1983. Bắt đầu từ năm 1967, tuy nhiên, họ đã dần dần
thay thế bằng các Krugerrand tiền xu, nhất là sau khi vấn đề của giáo phái nhỏ hơn
Krugerrand từ 1/10 đến 1/2 oz vào năm 1980.

- New đúc tiền đã được giới thiệu bắt đầu


bằng một R2 mệnh giá (ban đầu được gọi
colloquially như là một "De Klerk"), thêm một đồng
xu R5, và thay thế tất cả các mệnh giá của tiền kim
loại trước đó. Ban đầu các đồng tiền mang huy hiệu
và tên của đất nước trong tiếng Anh và tiếng Hà Lan
Nam Phi.
Đúc tiền kim loại 1c và 2c chấm dứt vào cuối tháng Ba năm 2002. Tất cả
giao dịch tiền mặt được làm tròn đến 5 xu gần nhất. Những đồng xu vẫn còn hợp
pháp, nhưng có ít nhiều biến mất khỏi lưu thông.
- A mới hai kim loại đồng xu R5 với các tính năng bảo mật, trong đó có một
cạnh rãnh và chữ trên vi đảo ngược, được giới thiệu vào năm 2004.
*Tiền giấy

- 1
Trang - 127 -
Gv:

Đồng Rand của Nam Phi


Năm 1961, đồng rand đã đựoc thiết kế thay thế cho pound. Tuy nhiên, phải đến
những năm 1990, khi sự phân biệt chủng tộc không còn tồn tại thì chúng mới được
giới thiệu.
Dòng đầu tiên của tiền rand đã được giới thiệu vào năm 1961 với các mệnh
giá 1, 2, 10 và 20 rand, với thiết kế tương tự và màu sắc cho các ghi chú pound
trước để dễ dàng chuyển đổi.
Dòng 1978 bắt đầu với mệnh giá của 2, 5 và 10 rand, với 20 và 50 rand giới
thiệu vào năm 1984. 100 và 200 ra đã được giới thiệu vào năm 1994.
Trong năm 2010, Nam Phi, Ngân hàng dự trữ và các ngân hàng thương mại
đã rút tất cả 1990 series R200 tiền giấy do chất lượng cao tương đối đồng tiền giả
trong lưu thông.
c) :
- Đồng Rand của Nam Phi được sử dụng rộng rãi ở châu lục Châu Phi này,
có thể tính khoảng hơn 10 quốc gia sử dụng đồng tiền chung của Nam Phi và sắp
tới đồng tiền Rand có thể sử dụng chung cho toàn châu lục này.
- Đồng Rand của Nam Phi tuy thời gian đầu hình thành, nó không có một vị
thế mạnh trên thế giới vì những năm trước đây nền kinh tế Châu Phi noi chung và
kinh tế của Nam Phi nói riêng vẫn còn khá nghèo, tăng trưởng thấp nên đồng Rand
của Nam Phi vẫn chưa được đánh giá cao trên thị trường quốc tế. Nhưng vào những
năm trở lại đây nó đã được đánh giá cao, có thể làm ảnh hưởng đến đồng USD, một
phần là do giá trị đồng USD chịu sự ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, một
phần là do sự tăng trưởng của nền kinh tế Nam Phi nhất là sự tăng giá trị của các
kim loại quý, là một tài sản mà Nam Phi đang sở hữu.
- Đồng rand Nam Phi, đồng tiền tệ thị trường hoạt động nhất thế giới, đã gia
nhập câu lạc bộ mười lăm đồng tiền tệ được ưa thích, hệ thống Thanh toán kết nối
liên tục (CLS), nơi các giao dịch được giải quyết lập tức, làm giảm nguy cơ giao
dịch xuyên múi giờ. Theo Bloomberg Currency Scorecard, đồng rand Nam Phi
(ZAR) là đồng tiền tệ hoạt động tốt nhất trước đồng dollar Mỹ trong giai đoạn 2002
- 2005.
4.2. AI CẬP: Pound(EGP)
Ai Cập cổ đại là một thế giới thịnh vượng nhất của nền văn minh, tiên tiến,
mà bắt đầu vào khoảng 3150 trước Công nguyên với sự thống nhất chính t rị của

- 1
Trang - 128 -
Gv:
Thượng và Hạ Ai Cập theo pharaoh đầu tiên, và nó phát triển trong thiên niên kỷ ba
kế tiếp. Bước vào thế kỷ 19, Ai Cập vẫn giữ một trong những vùng phát triển nhất
trên thế giới.
Ai Cập là một thị trường được các công ty quốc gia xem là trọng điểm trong
khu vực Trung Đông và Bắc Phi. Kinh tế Ai Cập phụ thuộc chủ yếu vào nông
nghiệp, môi giới trung gian, xuất khẩu dầu mỏ và du lịch; cũng có hơn 5 triệu người
Ai Cập đang làm việc ở nước ngoài, đa số tại Ả rập Xê út, vùng Vịnh như UAE, và
Châu Âu. Hoa Kỳ cũng có một lượng lớn dân nhập cư Ai Cập.Ai Cập có thu nhập
GDP đầu người ở mức 5800 USD, đứng thứ 133 trên thế giới.Ngoài ra, hiện tại Ai
Cập cung cấp khoảng 55% sản lượng vải cotton trên thế giới.
 Các giai đoạn phát triển của các đơn vị tiền tệ tại Ai Cập:
Đồng tiền của Ai Cập được phát
hành ở hai dạng:
Tiền giấy:

Năm 1834, đồng bảng Ai Cập


đã được giới thiệu, thay thế piastre Ai
Cập là đơn vị trưởng của tiền tệ dựa
trên một Nghị định Hoàng gia về việc
ban hành một Bill Quốc hội, tuy nhiên
các piastre tiếp tục lưu hành, như là 1 /
100 của một pound, với piastre chia
thành 40 đoạn.
Năm 1885, các đoạn đã không còn được phát hành và piastre được chia
thành các phần mười.
Người đầu tiên phát hành tờ tiền giấy Pound Ai Cập là vào năm 1899.
Đồng bảng Ai Cập được lưu hành vào năm 1989, tuy nhiên, trôi nổi nhưng
vẫn được quản lý chặt chẽ bởi Ngân hàng Trung ương của Ai Cập và việc kiểm
soát ngoại hối vẫn đang có hiệu lực.
Đến ngày 03 tháng 04 năm 1899, các Ngân hàng quốc gia của Ai Cập mới
chính thức ban hành tiền giấy lần đầu tiên. Các Ngân hàng quốc gia của Ai Cập đưa
ra các ghi chú với các mệnh giá của 50 Piastres, 1 5, 10, 50 và 100 Pounds Ai Cập
đã được giới thiệu. Giữa năm 1916 và năm
1917, 25 ghi chú Piastres đã được thêm vào,
cùng với các ghi chú tiền tệ của chính phủ
cho 5 và 10 Piastres. Ban hành liên tục, 5 và
10 Piastres ngày nay được sản xuất bởi Bộ
Tài chính .
Sau đó, Ngân hàng Quốc gia của Ai
Cập đã được thống nhất vào Ngân hàng
Trung Ương của Ai Cập trong năm 1961 và

- 1
Trang - 129 -
Gv:
phát hành giấy bạc mệnh giá 25 và 50 Piasters, 1, 5 Pounds, 10 và 20 Pounds ghi
chú đã được giới thiệu vào năm 1976, theo sau bởi 100 gineih năm 1978, 50 bảng
Anh trong Ai Cập năm 1993 và 200 Pounds trong năm 2007.

20 EGP tờ tiền giấy - 1976 100 EGP tờ tiền giấy - 1978

1 EGP tờ tiền giấy - 1924 10 EGP tờ tiền giấy - 1937

50 EPT tờ tiền giấy - 1951 5 EGP tờ tiền giấy - 1958

1 EGP tờ tiền giấy - 1971 25 EPT tờ tiền giấy - 1974

20 EGP tờ tiền giấy - 1976 100 EGP tờ tiền giấy - 1978

- 1
Trang - 130 -
Gv:

- 1
Trang - 131 -
Gv:

Tất cả tiền giấy của Ai Cập là song ngữ , bằng tiếng Ả Rập văn bản và Đông
Ả Rập trên Mặt chính và tiếng Anh và tiếng Ả Rập Hindu chữ số trên đảo ngược.
Mặt chính có xu hướng thiết kế tính năng một Hồi giáo xây dựng với thiết kế có
tính năng đảo ngược của Ai Cập cổ đại họa tiết (các tòa nhà, tượng và chữ viết).
Đến năm 2007, có 200 Pound ghi chú lưu hành tại Ai Cập và sau đó là 500
Pound ghi chú sẽ bắt đầu lưu hành.
Đến mùa hè năm 2009, tiền giấy của một pound và một nửa đang được loại
bỏ, thay thế bằng sử dụng rộng rãi hơn của đồng tiền.
Tiền xu:

1 1
/ 40 EPT Coin -1839 / 40 EPT Coin -1909

- 1
Trang - 132 -
Gv:

10 EPT Coin -1909 20 EPT đồng xu -1915

1
2 Millieme Coin -1916 2 / 2 Millieme Coin -1933

1
/ 2 Millieme Coin -1938 1 EGP vàng Coin -1938

10 millieme đồng xu -1943 2 EPT đồng xu -1944

1 đồng xu millieme -1954 25 EPT đồng xu -1970

Giữa năm 1834 và 1836, đồng 1 và 5 đoạn , bạc 10 và đoạn 20, 1, 5, 10 và


piastre 20, vàng 5, 10 và piastre 20 và 1 đồng tiền pound đã được giới thiệu, với 50
xu piastre vàng sau năm 1839. ( 1 đoạn = 1 / 40 piastre).
10 đồng tiền xu đoạn đã được giới thiệu vào năm 1853, mặc dù đồng tiền bạc
vẫn tiếp tục được phát hành. 10 đồng tiền xu đã được một lần nữa giới thiệu đoạn
năm 1862, tiếp theo đoạn 4 đồng và 2 1 / 2 tiền xu piastre năm 1863. Giá vàng 25
xu piastre đã được giới thiệu vào năm 1867.

- 1
Trang - 133 -
Gv:
Năm 1885, một đúc tiền mới đã được giới thiệu bao gồm đồng 1 / 4, 1 / 2, 1, 2
và millieme 5, bạc 1, 2, 5, 10 và 20 xu piastre. Việc đúc tiền vàng thực tế đã không
còn, chỉ có số lượng nhỏ của 5 và 10 xu piastre ban hành.
Năm 1916 và 1917, một cơ sở đúc tiền kim loại mới được giới thiệu bao gồm
1
đồng / 2 millieme và đục lỗ, đồng kền 1, 2, 5 và 10 xu millieme. 2 Bạc, 5, 10 và
20 xu piastre tiếp tục được ban hành, và một đồng tiền vàng 1 bảng Anh được giới
thiệu lại. Giữa năm 1922 và 1923, đúc tiền vàng đã được mở rộng để bao gồm 20
và piastre 50 và 1 và 5 xu pound. Trong năm 1924, đồng thay thế đồng kền trong
xu millieme 1 và các lỗ đã được gỡ bỏ từ những đồng xu đồng kền khác. Năm
1938, đồng 5 và 10 xu millieme đã được giới thiệu, tiếp theo vào năm 1944 bởi bạc,
lục giác 2 xu piastre.
Giữa năm 1954 và 1956, một đúc tiền mới đã được giới thiệu, bao gồm đồng,
nhôm 1, 5 và millieme 10 và bạc 5, 10 và 20 xu piastre, với kích thước của các đúc
tiền bạc giảm đáng kể. An nhôm-đồng 2 đồng xu millieme được giới thiệu vào năm
1962. Năm 1967 đúc tiền bạc đã bị bỏ và cupro-nickel 5 và 10 xu piastre đã được
giới thiệu.
Nhôm thay thế đồng trong các đồng tiền 1, 5 và 10 millieme năm 1972, tiếp
theo là đồng trong 5 và 10 xu millieme năm 1973. Nhôm-đồng 2 piastre và đồng
kền 20 xu piastre đã được giới thiệu vào năm 1980, tiếp theo là đồng-nhôm 1 và 5
xu piastre vào năm 1984. Trong năm 1992, đồng 5 và 10 xu piastre đã được giới
thiệu, tiếp theo là đục lỗ, niken-đồng kền 25 xu piastre vào năm 1993. Kích thước
của 5 xu piastre đã giảm trong năm 2004, 10 và 25 xu piastre - trong năm 2008.
Ngày 01 Tháng Sáu 2006, 50 piastre và 1 đồng xu pound với ngày năm 2005
là giới thiệu, với tương đương tiền giấy được loại bỏ sau đó. Các đồng tiền mang
gương mặt của Cleopatra VII và Tutankhamun , và các £ 1 đồng xu là lưỡng kim .
Các kích thước của 50 đồng tiền piastre đã giảm trong năm 2007.

5 piastres coin
Kích thước - 23 mm (1984), 21 mm (1992) or 17 mm (2004)
Khối lượng - 4.9 g (1984) , 3.2 g (1992) or 2.4 g (2004)

- 1
Trang - 134 -
Gv:

10 piastres coin
Kích thước - 25 mm (1984), 23 mm (1992) or 19 mm (2008)
Khối lượng - 5.2 (1984), 4.9 g (1992) or 3.2 g (2008)

20 piastres coins

Kích thước - 27 mm (1984) or 25 mm (1992)


Khối lượng - 6 g (1984) or 5.2 g (1992)

25 piastres coin

Kích thước - 25 mm
Khối lượng - 5.2 g

- 1
Trang - 135 -
Gv:

50 piastres coin

Kích thước - 25 mm (2005) or 23 mm (2007)


Khối lượng - 5.2 g (2005) or 6.5 g (2007)

1 pound coin

Kích thước - 25 mm
Khối lượng - 8.5 g

Nhận xét:
- Đồng bảng Ai Cập tuy không được sử dụng rộng rãi nhưng nó vẫn mang
một giá trị nhất định của một quốc gia phát triển như Ai Cập. Nó thể hiện sự tồn tại
lâu dài của một quốc gia với những giá trị riêng của một quốc gia như Ai Cập, và
đến nay nó vẫn tồn tại trong khi một số đồng tiền của các quốc gia khác trên thế
giới đã bị lãng quên.
- Hiện nay, đồng bảng Ai Cập đã thực sự thể hiện giá trị của nó trên thị
trường quốc tế, đó là nhờ sự phát triển của nền kinh tế tại Châu phi nói chung và Ai
Cập nói riêng

- 1
Trang - 136 -
Gv:

- 1
Trang - 137 -

You might also like