Professional Documents
Culture Documents
Vi khuẩn Tảo
Chất hữu cơ CO2 O2 .
Độ kiềm cao ảnh hưởng đến sự sống của vi sinh vật trong nước, là
nguyên nhân gây nên độ cứng cho nước. Trong KSONN, độ kiềm là thông
số để xác định lượng hóa chất trung hòa, làm mềm nước và dung dịch
đệm trong quá trình đông tụ.
4. Độ cứng
Là đại lượng biểu thị hàm lượng các ion KL hóa trị II, chủ yếu là Ca2+ và
Mg2+.
Phân loại theo mức độ cứng:
<75 (mg/L CaCO3) mềm
Từ 75 - 150 cứng trung bình
Từ 150 - 300 cứng
>300 rất cứng
Phân loại theo ion KL tạo nên độ cứng: độ cứng canxi và độ cứng magie
Phân loại theo anion tạo nên độ cứng:
Độ cứng carbonate (độ cứng tạm thời) là tổng nồng độ muối
bicarbonate và carbonate của Ca2+ và Mg2+ trong nước
Độ cứng phi carbonate (độ cứng vĩnh cửu) là tổng nồng độ các muối
chlorur, sulfate, nitrat của Ca2+ và Mg2+ trong nước
Độ cứng tổng cộng = độ cứng carbonate + độ cứng phi carbonate
4. Độ cứng
Độ cứng cao làm nước có vị chát và ảnh hưởng đến chất lượng thức ăn
được nấu, đóng cặn gây hỏng nồi. Ion tạo độ cứng tác dụng với xà phòng
tạo kết tủa và tác dụng với ion âm tạo váng làm tiêu hao đáng kể chất tẩy
rửa khi tắm giặt
Nước cứng phản ứng và đóng cặn trong đường ống, trên thành thiết bị
của các thiết bị truyền nhiệt như nồi hơi, thiết bị phản ứng, làm giảm khả
năng truyền nhiệt và hao tốn nhiệt năng, tắc đường ống tạo thành khe
nứt, chỗ phình thiết bị, gây nguy hiểm cho thiết bị và dễ nổ.
Nước cứng cũng làm tăng độ ăn mòn do tăng H+:
Mg2+ + 2H2O Mg(OH)2 + H+
5. Oxy hòa tan - DO
Oxy có khả năng hòa tan kém trong nước và độ hòa tan phụ thuộc vào
áp suất riêng phần. Oxy hòa tan thấp dần theo độ sâu nước trong tự
nhiên
Lượng oxy bão hòa là lượng oxy tối đa có thể hòa tan trong nước ở
một điều kiện nhiệt độ và áp suất nhất định. Hàm lượng oxy bão hòa
được xác định theo định luật Henry
DO trong nước phụ thuộc vào các yếu tố: nhiệt độ, áp suất, đặc tính
của nguồn nước (thành phần hóa học, vi sinh, thủy sinh sống trong
nước)
Các nguồn cung cấp DO trong nước gồm có:
Khuếch tán oxy từ không khí vào nước
Bỏ sung oxy do quang hợp
Mất lượng DO do phân hủy sinh học, đây là cơ chế mất DO lớn nhất
Tiêu hao oxy do hô hấp của sinh vật nước, quá trình này diễn ra
liên tục trong tự nhiên
Giảm lượng oxy do các phản ứng hóa học
5. Oxy hòa tan - DO
DO rất quan trọng, nó duy trì điều kiện hiếu khí trong nguồn nước tự
nhiên, tham gia vào các quá trình trao đổi chất, duy trì năng lượng cho
quá trình phát triển và sinh sản của vi sinh vật nước.
Dòng chảy cần duy trì hàm lượng DO thích hợp cho các loài thủy sinh,
đảm bảo điều kiện thuận lợi cho quá trình tự làm sạch
Oxy trong nước là yếu tố gây ăn mòn cho cấu trúc sắt thép như trong hệ
thống phân phối nước, nồi hơi
Hàm lượng Do giúp đánh giá chất lượng nước trong quá trình kiểm soát ô
nhiễm và kiểm tra hiệu quả xử lý
Chỉ số DO thấp nghĩa là có nhiều chất hữu cơ, nhu cầu oxy hóa tăng nên
tiêu thụ nhiều oxy trong nước. DO cao chứng tỏ nước có nhiều rong tảo
tham gia quá trình quang hợp giải phóng oxy
DO là cơ sở để đo BOD trong đánh giá mức độ ô nhiễm chất hữu cơ của
nước. DO là thông số cơ bản để xác định tốc độ oxy hóa sinh học
DO là thông số quan trọng trong quá trình xử lý nước để điều khiển điều
kiện hiếu khí cho quá trình phân hủy sinh học
6. Độ oxy hóa
Độ oxy hoá là một đại lượng để đánh giá sơ bộ mức độ nhiễm
bẩn của nguồn nước. Đó là lượng oxy cần có để oxy hoá hết
các hợp chất hữu cơ trong nước. Chất oxy hóa thường dùng
để xác định chỉ tiêu này là pecmanganat kali (KMnO4).
Trong thực tế, nguồn nước có độ oxy hoá lớn hơn 10 mgO2/l
đã có thể bị nhiễm bẩn. Nếu trong quá trình xử lý có dùng clo ở
dạng clo tự do hay hợp chất hypoclorit sẽ tạo thành các hợp
chất clo hữu cơ [trihalomentan(THM)] có khả năng gây ung
thư. Tổ chức Y tế thế giới quy định mức tối đa của THM trong
nước uống là 0,1mg/l.
6. Độ oxy hóa
Ngoài ra, để đánh giá khả năng ô nhiễm nguồn nước, cần cân nhắc
thêm các yếu tố sau đây:
Độ oxy hoá trong nước mặt, đặc biệt nước có màu có thể cao hơn
nước ngầm.
Khi nguồn nước có hiện tượng nhuộm màu do rong tảo phát triển,
hàm lượng oxy hoà tan trong nước sẽ cao nên độ oxy hoá có thể
thấp hơn thực tế.
Nếu sự thay đổi oxy hoá theo dòng chảy chậm thì lượng chất hữu
cơ có trong nguồn nước chủ yếu là các axit humic. Nếu độ oxy
hoá giảm nhanh, chứng tỏ nguồn ô nhiễm là do các dòng nước
thải từ bên ngoài đổ vào nguồn nước.
Cần kết hợp với các chỉ tiêu khác như hàm lượng ion clorua,
sunfat, photphat, DO, các hợp chất nitơ, hàm lượng vi sinh vật gây
bệnh để có thể đánh giá tổng quát về mức độ nhiễm bẩn của
nguồn nước.
7. Nhu cầu oxy sinh hóa – Bichemical oxygen demand – BOD (mg/L)
Nhu cầu oxy sinh hóa (BOD) là lượng oxy cần cho vi khuẩn để
phân hủy chất hữu cơ có khả năng oxy hóa dưới điều kiện hiếu
khí. Trong quá trình phân hủy, chất hữu cơ được dùng làm thức
ăn cho vi khuẩn và giải phóng năng lượng.
BOD là đại lượng đánh giá lượng chất hữu cơ ô nhiễm trong nước
thải được xác định thông qua khối lượng oxy cần thiết để phân
hủy hoàn toàn trong điều kiện hiếu khí. Oxy sử dụng trong quá
trình này là oxy hòa tan – DO.
Chất hữu cơ phân hủy đến sản phẩm cuối cùng là nước và CO2
Vi khuẩn
Chất hữu cơ + O2 CO2 + H2O
Vi khuẩn
CnHm + (n+m/4)O2 nCO2 + m/2H2O
Vi khuẩn
2NH3 + 3O2 2NO2- + 2H+ +2H2O
Vi khuẩn
2NO2- + O2 2NO3-
Trong nước thiên nhiên, nitơ tồn tại dưới dạng NO2-, NO3-, NH3
và NH4+ hay nitơ tự do là sản phẩm phân từ quá trình phân hủy
sinh học của các chất hữu cơ.
Enzym urease
NH2-CO-NH2 + 2H2O (NH4)2CO3
Vi sinh vật
(NH4)2CO3 2NH3 + CO2 + H2O
Nitrosomonas
2NH3 + 3O2 2NO2- + 2H+ 2H2O
Nitrosomonas
2NO2- + O2 2NO3-
Khử nitrat:
NO3- + carbon hữu cơ NO2- + CO2 + H2O
Nitơ trong hồ thường ở dạng NO3- do dòng chảy từ bên ngoài
hay từ nước ngầm. Nitơ bị khử thành amino-nitơ (NH2-) trong
các hợp chất hữu cơ trong quá trình tăng trưởng của tảo. Tảo
chết nitơ hữu cơ giải phóng ra dưới dạng NH3 và oxy hóa tiếp
thành NO3- nhờ vi khuẩn
Chu trình nitơ (NO3- N hữu cơ NH3) diễn ra trong đk hiếu
khí. Trong bùn lắng yếu khí, tầng dưới hồ phú dưỡng, NO3- bị
khử bởi vi khuẩn kỵ khí thành nitơ và ra khỏi hệ thống
Tóm tắt quá trình chuyển hóa các hợp chất nitơ như sau:
Nồng độ NH3 cao gây độc cho cá, NH3 thấp hay nitrat cao là
môi trường dinh dưỡng tốt cho rong, tảo phát triển dễ gây
hiện tượng phú dưỡng hóa, chuyển hóa amonium thành nitrat
tiêu hao lượng lớn DO trong nguồn nước.
Việc sử dụng rộng rãi các loại phân bón cũng làm cho hàm
lượng nitrat trong nước tự nhiên tăng cao. Ngoài ra do cấu
trúc địa tầng tăng ở một số đầm lầy, nước thường nhiễm
nitrat.
Hàm lượng nitrit và nitrat trong nước ăn uống cao gây tác hại
đến hệ vi sinh ở dạ dày và đường ruột làm kém tiêu hóa. Trẻ
em uống nước có nồng độ nitrat cao có thể ảnh hưỏng đến
máu - chứng methaemoglo binaemia (NO3- NO2- kết hợp
với hồng cầu, ngăn cản sự liên kết và vận chuyển oxy gây
bệnh thiếu oxy trong máu).
Nitrit thực hiện các phản ứng trong cơ thể tạo thành tác nhân
gây ung thư và sinh quái thai (hợp chất nitro amin).
Theo quy định của WHO, nồng độ NO3- trong nước uống
không được vượt quá 10 mg/l (tính theo N).
Các số liệu phân tích nitơ nằm ở 4 dạng chủ yếu như N-tổng
cộng, N-NO2, N-NO3, N-NH4.
11. Các hợp chất phospho và phosphate (mg/L)
Trong nước tự nhiên, phospho thường gặp dưới dạng phosphat vô
cơ
PO43-, HPO42-, H2PO4- orto phosphat
Na3(PO4)6 meta/poly phosphat
Na5P3O10, tripoly phosphat
Na4P2O7 pyrophosphat
và hữu cơ (là thành phần chính của các ATP hay ADP trong sinh vật).
Phospho là sản phẩm của quá trình phân huỷ sinh học các chất hữu
cơ. Cũng như nitrat, phosphat là chất dinh dưỡng cho sự phát triển
của rong tảo. Nguồn phosphat đưa vào môi trường nước là từ nước
thải sinh hoạt, nước thải một số ngành công nghiệp và lượng phân
bón dùng trên đồng ruộng.
Nước thải sinh hoạt khá giàu hợp chất phospho, phospho vô cơ từ
chất thải con người là do quá trình tiêu hóa protein.
Chất tẩy rửa tổng hợp ra đời (chứa 12 – 50% phosphat làm chất
tạo bọt) làm tăng đáng kể lượng phosphat trong nước thải sinh
hoạt.
Trong tự nhiên, phosphat hữu cơ hầu hết là chất có độc tính mạnh
như thuốc diệt côn trùng, chất độc trong vũ khí hóa học
Vì hiện diện trong chu trình sống sinh vật nên phosphat còn được
sử dụng để bón cây, kích thích tăng trưởng dưới dạng phân lân.
Hầu hết phosphat dần bị thủy phân trong nước và chuyển về dạng
orto ban đầu. Tốc độ chuyển hóa tăng theo T0 và giảm theo pH
Thủy phân phosphat phức tạp và cũng chịu ảnh hưởng của enzym
vi khuẩn. Tốc độ chuyển hóa rất chậm trong nước tinh khiết và
tăng nhanh trong nước thải. Pyrophosphat bị thủy phân nhanh
hơn nhiều so với tripolyphosphat. Thời gian chuyển hóa hoàn
toàn thành orto phosphat có thể mất từ vài giờ đến vài ngày
Photphat không thuộc loại hóa chất độc hại đối với con người,
nhưng sự tồn tại của chất này với hàm lượng cao trong nước
sẽ gây cản trở cho quá trình xử lý, đặc biệt là hoạt chất của
các bể lắng.
Đối với những nguồn nước có hàm lượng chất hữu cơ, nitrat
và photphat cao, các bông cặn kết cặn ở bể tạo bông sẽ không
lắng được ở bể mà có khuynh hướng tạo thành đám nổi lên
mặt nước, đặc biệt vào những lúc trời nắng trong ngày.
Phosphat là nguồn dinh dưỡng của thực vật trong nước dễ
gây hiện tượng phú dưỡng hóa ao, hồ. Cùng với nito,
phosphat kích thích tăng trưởng của nhiều loại phiêu sinh vật
Với hàm lượng 0,005 mg/L và ánh nắng mùa hè, môi trường
giàu phosphat là điều kiện tốt cho tảo phát triển nhanh
Tuy nhiên, phosphat lại là yếu tố quan trọng giúp tăng cường
dinh dưỡng cho vi sinh bùn hoạt tính trong quá trình xử lý
nước thải cần phải kiểm soát và duy trì phosphat ở giới hạn
cho phép
12. Các hợp chất silic (mg/L)
Trong nước thiên nhiên thường có các hợp chất silic. Ở pH < 8,
silic tồn tại ở dạng H2SiO3. Khi pH = 8-11, silic chuyển sang
HSiO3–. Ở pH > 11, silic tồn tại ở dạng HSiO3– và SiO32–. Do vậy
trong nước ngầm, hàm lượng silic thường không vượt quá
60mg/l, chỉ có ở những nguồn nước có pH > 9,0 hàm lượng silic
đôi khi cao đến 300mg/l.
Trong nước cấp cho các nồi hơi áp lực cao, sự tồn tại của các
hợp chất silic rất nguy hiểm do cặn silic đóng lại trên thành nồi,
thành ống làm giảm khả năng truyền nhiệt và gây tắc ống.
Trong quá trình xử lý nước, silic có thể được loại bỏ một phần
khi dùng các hoá chất keo tụ để làm trong nước.
13. Chlorine (mg/L)
Chlorine được dùng để khử trùng gồm các dạng chlorine tự
do hay hypochlorite, đây chính là các tác nhân oxy hóa và
thường tự hủy nhanh chóng. Quá trình khử trùng hoàn toàn
khi đưa vào lượng chlor dư với nhu cầu chlorine.
Hypochlorite thường dùng ở dạng dd NaClO (thường dùng
khi yêu cầu lượng tiêu thụ lớn – khử trùng nước thải) hay
dạng khô Ca(ClO)2 (phổ biến trong trường hợp yêu cầu lượng
giới hạn hay hệ thống xử lý gián đoạn). Chlor có khuynh
hướng làm giảm pH trong nước còn ClO- lại làm tăng pH
Chlorine và acid hypochlorơ có thể phản ứng với NH3 tạo
thành NH2Cl, NHCl2, NCl3, phản ứng với H2S, các halogen và
các hợp chất hữu cơ khác tạo ra các sản phẩm phụ gây phức
tạp cho quá trình sử dụng chlorine trong mục đích khử trùng
14. Chloride (mg/L)
Chloride có mặt trong nước tự nhiên do hòa tan chloride từ đất
mặt và tầng sâu, từ những hạt tinh thể muối trong nước mưa do
quá trình bốc hơi. Hàm lượng chloride tăng khi hàm lượng
khoáng tăng. Nhiều loại nước thải công nghiệp có chứa một
lượng đáng kể chloride và thông số chloride cần sử dụng trong
KSON nước mặt do nước thải công nghiệp.
Chlor làm cho nước có vị mặn. Ion này thâm nhập vào nước qua
sự hoà tan các muối khoáng hoặc bị ảnh hưởng từ quá trình
nhiễm mặn các tầng chứa nước ngầm hay ở đoạn sông gần
biển.
Chloride ở nồng độ hợp lý không độc với con người nhưng khi
dùng nước có hàm lượng clorua cao có thể gây ra bệnh về thận.
Ngoài ra, nước chứa nhiều clorua có tính xâm thực đối với
bêtông.
Chloride cản trở trong việc xác định COD, để loại ảnh hưởng của
chúng cần xác định lượng chloride trong mẫu hay thêm tác nhân
tạo phức HgSO4 vào
14. Sulfate (mg/L)
Ion sunfat thường có trong nước có nguồn gốc
khoáng chất hoặc nguồn gốc hữu cơ, cũng là một chỉ
tiêu tiêu biểu của vùng nước nhiễm phèn.
Trong khai thác khoáng sản và than, nước thải
thường có pH thấp và hàm lượng sulfate cao dễ
sinh H2SO4 (do tác động của các vi sinh vật và các tác
nhân hóa học).
Nước cấp có hàm lượng sulfate > 250 mg/L có tính
độc hại với người do tính nhuận tràng nên gây mất
nước trong cơ thể và làm tháo ruột.
Sulfate gây các tác động chủ yếu là vấn đề mùi do tạo
khí H2S (trong điều kiện kỵ khí) và ăn mòn đường ống.
Ngoài ra, nước có nhiều ion clorua và sunfat sẽ làm
xâm thực bêtông.
15. Fluor (mg/L)
Nước ngầm từ các vùng đất chứa quặng apatit, đá alkalic, granit
thường có hàm lượng florua cao đến 10mg/l. Trong nước thiên
nhiên, các hợp chất của florua khá bền vững và khó loại bỏ
trong quá trình xử lý thông thường. Ở nồng độ thấp, từ 0,5mg/l
đến 1mg/l, florua giúp bảo vệ răng. Tuy nhiên, nếu dùng nước
chứa florua lớn hơn 4mg/l trong một thời gian dài thì có thể gây
đen răng và huỷ hoại răng vĩnh viễn. Các bệnh này hiện nay
đang rất phổ biến tại một số khu vực ở Phú Yên, Khánh Hoà.
16. Các hợp chất sắt và mangan (mg/L)
Chỉ tiêu sắt và mangan dùng để chỉ hàm lượng các hợp chất
của sắt và mangan tan và ít tan trong nước.
Trong nước ngầm, sắt thường tồn tại dưới dạng ion Fe2+, kết
hợp với các gốc bicacbonat, sunfat, clorua; đôi khi tồn tại
dưới keo của axit humic hoặc keo silic. Khi tiếp xúc với oxy
hoặc các tác nhân oxy hoá, ion Fe2+ bị oxy hóa thành ion Fe3+
và kết hợp tủa thành các bông cặn Fe(OH)3 có màu nâu đỏ.
Nước mặt thường chứa sắt (Fe3+), tồn tại ở dạng keo hữu cơ
hoặc cặn huyền phù. Trong nước thiên nhiên, chủ yếu là nước
ngầm, có thể chứa sắt với hàm lượng đến 40 mg/l hoặc cao
hơn (100 mg/l).
NƯỚC
Thực hiện lấy mẫu và bảo quản mẫu đúng quy cách
và tuân theo một cách nghiêm ngặt các quy tắc lấy
mẫu. Thông thường mẫu phải được chứa trong các
bình polyethylene
Phải chọn phương pháp phân tích thích hợp
Phải sử dụng đúng quy cách các dụng cụ và hóa
chất
1.3 Phương pháp lấy và bảo quản
mẫu nước
1. Xác định vị trí lấy mẫu
Thông thường nước có thể lấy ngẫu nhiên từ bề mặt vào
thời gian buổi sáng để xác định tính chất thông thường
Khi nghiên cứu chi tiết cần đặt kế hoạch và xác định các vị
trí lấy mẫu trước
Vùng nước rộng như ao, hồ mẫu lấy phải đại diên cho nước
toàn bộ vùng, phải lấy nước tại đầu vào và đầu ra khỏi hồ
cũng như các vị trí có tác động của con người đến nguồn
nước
Tùy theo vùng nước nông hay sâu mà có thể lấy mẫu theo
tầng, theo chiều dọc dòng nước và theo chiều ngang nếu đủ
rộng. Với nước thải, phải lấy các điểm trước và sau nguồn
thải
2. Lấy mẫu nước
Vị trí lấy mẫu phụ thuộc vào mục đích nghiên cứu
Thời gian và tần suất lấy mẫu phụ thuộc vào mức độ biến
động của các chất, có thể theo các thời gian trong ngày
Thường lấy mẫu vào buổi sáng vì lúc đó sự biến động của
các chất diễn ra chậm. Có thể lấy mẫu theo triều, ngày, tuần,
tháng, quý, mùa mưa, mùa khô tùy thuộc vào mục đích, quy
mô hay kinh phí của các nghiên cứu.
Trường hợp nước đồng nhất chỉ cần lấy 1 mẫu đơn lẻ cũng
đủ đại diện cho môi trường nước tại thời điểm lấy mẫu. Tuy
nhiên tính đồng nhất giữa các tầng nước cũng cần được
khẳng định bằng việc lấy nhiều mẫu ở các độ sâu khác nhau
để kiểm tra sơ bộ trước
Nếu lấy qua máy bơm, ống dẫn, vòi nước phải để chảy
khoảng vài lít trước khi lấy mẫu
2. Lấy mẫu nước
Nếu nước bị biến đổi chất lượng theo thời gian thì mẫu
cũng cần được lấy theo thời gian thích hợp. Trường hợp có
sự thay đổi của dòng chảy, nguồn nước thải... Mẫu phải
được lấy ở các nguồ khác nhau tùy thuộc vào nguồn nước.
Tránh lấy mẫu ở các khu vực đặc biệt như vùng nước đọng,
cỏ dại mọc nhiều hoặc có nước ngầm xâm nhập.
Lượng nước cần lấy tối thiểu để đảm bảo cho các phép
phân tích, thường từ 1 – 2 lít. Dụng cụ đựng mẫu cần phải
được làm sạch bằng cách rửa với các chất tẩy rửa hoặc
dung dịch acid. Đối với phân tích vi sinh thì dung cụ đựng
mẫu phải được vô trùng.
Có thể giảm tác động của các quá trình xảy ra trong mẫu
bằng cách thêm hóa chất cần thiết, điều chỉnh pH hoặc giữ
mẫu ở nhiệt độ thấp (khoảng 40C)
3. Lấy và bảo quản mẫu
Mục tiêu chính nhằm lấy và chuyển mẫu đến nơi phân tích
với đảm bảo sự biến đổi của mẫu là tối thiểu, hàm lượng
chất phân tích không có sự thay đổi đáng kể. Có một vài
trường hợp tính chất nước bị thay đổi đáng kể như pH, Mo
và các vitamin trong khi Na+ hay Ca+ biến đổi ít.
Khi lấy mẫu nước phải tránh làm xáo trộn các tầng nước,
người ta thường sử dụng 4 loại dụng cụ lấy mẫu nước
nước sau:
Loại Ruttner và Kemmerer: có dạng hình
trụ mở, dung tích 1 – 3 L, có nắp đậy mỗi
đầu. Nắp được mở nhờ hệ thống dây. Khi
nắp mở, nước sẽ đi qua ống, đến độ sâu
cần thiết nắp sẽ được đóng lại để giữ nước
ngay độ sâu đó. Loại Friedinger gần giống
với Ruttner nhưng nắp được mở 900 và có
gắn nhiệt kế.
Loại lấy mẫu có thoát khí, cổ
hẹp (Dussart) là loại dụng cụ
đơn giản có thể tự chế. Thả
đến độ sâu cần thiết kéo ống
chữ U nước sẽ tràn vào bình,
đầy không khí thoát ra. Dụng
cụ Valas giống như Dussart
nhưng sau khi mở lấy mẫu
nắp sẽ được đậy kín lại
Loại lấy mẫu bằng bơm: Dùng ống cao su hoặc nhựa thả
xuống độ sâu cần thiết, dùng bơm để hút lấy mẫu nước. Sử
dụng bơm tay để tránh bị nhiễm bẩn KL vào mẫu nước.
Dụng cụ này thích hợp lấy mẫu hỗn hợp với độ sâu khác
nhau
Dụng cụ lấy mẫu nước đa chức năng (Vondorn): gồm một
ống hình trụ bằng chất dẻo, 2 van cao su đóng lại khi thả
ống đến độ sâu cần thiết, mẫu được chuyển sang bình
chứa từ ỗ nhỏ bên thành ống.
4. Một số chỉ dẫn khi lấy mẫu
Nên lấy mẫu ở vị trí chảy mạnh nhất với nguồn chảy như
sông, suối
Lấy mẫu ở nhiều vị trí và các độ sâu khác nhau khi lấy tại
ao, hồ, đầm...
Mẫu lấy từ các mạch nước, giếng, hồ chứa nhân tạo thì nên
lấy ở độ sâu cần thiết
Mẫu từ các tạm và vòi nước sinh hoạt được lấy trực tiếp tại
các ống dẫn ra
Mẫu nước thải nên lấy mẫu ngay tại miệng xả và lấy lúc
nước triều thấp để bảo đảm thành phần mẫu chính xác
5. Bảo quản mẫu trước khi phân tích
Từ khi lấy đến khi phân tích thành phần mẫu có thể bị thay
đổi với mức độ khác nhau. Nhiệt độ và pH là các đại lượng
biến đổi nhanh nhất nên phải được đo ngay tại hiện trường.
Một số khí cũng cần đo ngay tại chỗ như O2, CO2, H2S, Cl2.
Nếu phân tích KLN thì phải thêm hóa chất vào 1 L mẫu để
bảo quản cụ thể như:
Ag thêm 5ml HNO3 đđ
As thêm 5ml HCl
Hg thêm 1ml HNO3 đđ
Zn thêm 1ml H2SO4 đđ
Cr thêm 2 – 4 ml CHCl3
SCN- phải xác định ngay không để quá 1 đêm
Phenol thêm vào 4g NaOH nếu hàm lượng < 100 mg/L
Các phương pháp đo đạc và phân tích các
thông số chất lượng môi trường