You are on page 1of 23

TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh quốc tế hiện thời, khi mà khoa học đã thực sự trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp với sự phát triển mạnh mẽ của nhiều ngành khoa học và công
nghệ hiện đại, công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH, HĐH) đang được coi là xu hướng
phát triển chung của các nước đang phát triển để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng
nghèo nàn, lạc hậu. Đó cũng là chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam nhằm
hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi nhiều nhân tố quan trọng như:
vốn, khoa học công nghệ, tài nguyên thiên nhiên, song yếu tố quan trọng và quyết định
nhất là con người. Nếu so sánh các nguồn lực khác thì nguồn nhân lực được xem như
yếu tố nội sinh, quyết định sự thành bại trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
mỗi quốc gia. Do vậy, hơn bất cứ nguồn lực nào khác, nguồn nhân lực, đặc biệt là
nguồn nhân lực chất lượng cao luôn chiếm vị trí trung tâm và đóng vai trò quan trọng
hàng đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhận thức rõ vai trò của nguồn nhân lực, báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn
quốc đã chỉ rõ “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, phương hướng chung trong
nhiều năm tới là phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước”. Đó là chiến lược đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, muốn
đạt được điều đó, chúng ta cần nghiên cứu một cách khoa học và chính xác thực trạng
nguồn nhân lực của nước ta hiện nay để từ đó đề ra giải pháp hợp lý nhằm nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực cũng như phát huy một cách cao nhất vai trò của nguồn
nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đó cũng là lý do
nhóm chúng tôi chọn đề tài tiểu luận “Nguồn nhân lực đối với sự nghiệp Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam”.
2. Mục đích nghiên cứu

1/23
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI

Trên cơ sở nghiên cứu vai trò, thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay
cũng như phương hướng, quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong việc đào tạo
và sử dụng nguồn nhân lực để nhóm chúng tôi làm rõ hơn những điểm được và những
điểm còn hạn chế của nguồn nhân lực nước ta trong quá trình công nghiệp hóa, hiên
đại hóa đất nước. Từ đó nhóm cũng xin đưa ra một số ý kiến khuyến nghị nhằm đào
tạo, sử dụng nguồn nhân lực hiệu quả hơn.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là nguồn nhân lực của Việt Nam trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
4. Phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận tập trung nghiên cứu vai trò và thực trạng của nguồn nhân lực của
Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa bắt đầu từ Đại hội Đảng III
(1960).
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong bài tiểu luận này, chúng tôi chủ yếu sưu tầm và tổng hợp các bài viết từ
sách, báo, giáo trình, văn kiện Đại hội Đảng, các bài viết trên mạng internet, các báo
cáo nghiên cứu tại các hội thảo, chuyên đề... sau đó dùng phương pháp phân tích, tổng
hợp kết hợp với liệt kê để làm sáng tỏ vấn đề.
6. Nội dung và kết cấu bài luận
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, bài luận gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về CNH, HĐH và nguồn nhân lực
Chương 2: Thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay và những vấn đề
đặt ra trước yêu cầu CNH, HĐH đất nước
Chương 3: Giải pháp nhằm phát triển và khai thác có hiệu quả nguồn nhân lực
đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước

2/23
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CNH, HĐH VÀ NGUỒN NHÂN LỰC

1.1 Cơ sở lý luận về CNH, HĐH


1.1.1 Khái niệm về CNH, HĐH.
Kế thừa có chọn lọc những kinh nghiệm trong lịch sử tiến hành công nghiệp hóa
và thực tiễn công nghiệp hóa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định:
Công nghiệp hóa là quá trình cuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất
kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là
chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện
và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ
khoa học – công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Như vậy, quan niệm trên cho thấy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta kết hợp chặt chẽ hai nội dung công nghiệp hóa và hiện đại hóa trong quá trình
phát triển. Quá trình ấy không chỉ đơn thuần là chuyển lao động từ thủ công thành lao
động cơ khí như trước đây mà còn phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu trong từng
ngành, từng lĩnh vực và toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo hướng kỹ thuật và công
nghệ hiện đại.
1.1.2 Vai trò của công nghiệp hoá - hiện đại hoá đối với sự phát triển kinh
tế Việt Nam.
Từ thập niên 60 của thế kỷ XX, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra đường lối
công nghiệp hoá và coi công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa hội. Phân tích những tác dụng cơ bản của công nghiệp hoá đối với
nền kinh tế đất nước hiện nay càng làm rõ ý nghĩa vai trò trung tâm của công nghiệp
hoá.
Thứ nhất, công nghiệp hóa tạo điều kiện thay đổi về chất nền sản xuất xã hội,
tăng năng suất lao động, tăng sức chế ngự của con người đối với thiên nhiên, tăng
trưởng và phát triển kinh tế ; ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, nâng cao đời
sống nhân dân.

3/23
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI

Thứ hai, công nghiệp hóa tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố, tăng cường
vai trò kinh tế của nhà nước, nâng cao năng lực quản lý, khả năng tích lũy và phát
triển sản xuất, tạo ra nhiều việc làm, nâng cao thu nhập, giúp cho sự phát triển tự do
toàn diện của con người trong mọi hoạt động kinh tế - xã hội.
Thứ ba, công nghiệp hóa tạo điều kiện thuận lợi cho khoa học công nghệ phát
triển nhanh, đạt trình độ tiên tiến hiện đại. Tăng cường lực lượng vật chất - kỹ thuật
cho quốc phòng, an ninh, đảm bảo đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước
ngày càng được cải thiện. Tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ, đủ sức thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế.
Thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân là nhân tố
quyết định sự thắng lợi của con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã
lựa chọn. Chính vì vậy mà công nghiệp hoá kinh tế được coi là nhiệm vụ trọng tâm
trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1.2 Cơ sở lý luận về nguồn nhân lực
1.2.1 Những nhận thức chung về nguồn nhân lực
Cho đến nay, khái niệm nguồn nhân lực đang được hiểu theo nhiều quan điểm
khác nhau.
Theo Liên Hợp Quốc thì: “Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng,
kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của
mỗi cá nhân và của đất nước”.
Ngân hàng thế giới cho rằng: “nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con người bao
gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… của mỗi cá nhân”. Như vậy, ở đây nguồn
lực con người được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác: vốn
tiền tệ, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên.
Theo tổ chức lao động quốc tế thì: “Nguồn nhân lực của một quốc gia là toàn
bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động”. Như vậy nguồn nhân
lực là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, bao
gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia vào lao động, sản

4/23
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI

xuất xã hội, tức là toàn bộ các cá nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng
thể các yếu tố về thể lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình lao động.
Dưới góc độ của Kinh tế Chính trị có thể hiểu: “Nguồn nhân lực là tổng hoà thể
lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong
đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch
sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu
hiện tại và tương lai của đất nước”. Nguồn nhân lực theo quan niệm trên tập trung
phản ánh ba vấn đề: Thứ nhất, xem xét nguồn nhân lực dưới góc độ nguồn lực con
người-yếu tố quyết định sự phát triển của xã hội; Thứ hai, nguồn nhân lực bao gồm số
lượng và chất lượng, trong đó mặt chất lượng thể hiện ở trí lực, nhân cách, phẩm chất
đạo đức, lối sống và sự kết hợp giữa các yếu tố đó; Thứ ba, nghiên cứu về nguồn nhân
lực và phát triển nguồn nhân lực nhất thiết phải gắn liền với thời gian và không gian
mà nó tồn tại.
Từ những luận điểm trình bày trên, phát triển nguồn nhân lực của một quốc gia
chính là sự biến đổi về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trên các mặt thể lực, trí
lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần cùng với quá trình tạo ra những biến đổi tiến bộ về
cơ cấu nguồn nhân lực. Nói một cách khái quát nhất, phát triển nguồn nhân lực chính
là quá trình tạo lập và sử dụng năng lực toàn diện con người vì sự tiến bộ kinh tế- xã
hội và sự hoàn thiện bản thân mỗi con người.
1.2. 2Vai trò của nguồn nhân lực đối với sự nghiệp CNH, HĐH
Thứ nhất, nguồn nhân lực vừa là động lực, vừa là mục tiêu của quá trình CNH,
HĐH.
Con người không ngừng tìm tòi, học hỏi, phát triển khoa học kĩ thuật nhằm tìm
ra những phương thức hiệu quả nhất tác động vào thiên nhiên, cải tạo thiên nhiên, tạo
ra những giá trị mới cho xã hội.
Con người là lực lượng tiêu dùng của cải vật chất và tinh thần của xã hội, nó thể
hiện rõ nét nhất mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng. Mặc dù mức độ phát triển của
sản xuất quyết định mức độ tiêu dùng song nhu cầu tiêu dùng của con người lại tác
động mạnh mẽ đến sản xuất thông qua quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường.

5/23
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI

Phát triển kinh tế – xã hội nhằm mục tiêu phục vụ con người, làm cho cuộc sống con
người ngày càng tốt hơn, xã hội ngày càng văn minh.
Thứ hai, nguồn nhân lực là nguồn lực chính trong sự nghiệp CNH,HĐH đất
nước.
Để thành công trong sự nghiệp CNH,HĐH thì chúng ta cần kết hợp rất nhiều
nguồn lực như: tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực, vốn đầu tư, khoa học công
nghệ… Trong các nguồn lực đó thì nguồn nhân lực được xem là yếu tố nội sinh chi
phối các yếu tố còn lại. Các nguồn lực như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý…
tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng và chúng chỉ phát huy tác dụng khi có ý thức của
con người tác động vào. Bởi lẽ, con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ
và ý chí biết tận dụng, gắn kết chúng lại với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp cùng
tác động vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nguồn nhân lực còn là nhân tố
quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác. Các nguồn
lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố có hạn và chỉ phát huy được tác dụng khi
kết hợp với nguồn nhân lực một cách có hiệu quả. Các nguồn lực khác là có hạn, có
thể bị cạn kiệt khi khai thác. Trong khi đó nguồn lực con người mà cốt lõi là trí tuệ lại
là nguồn lực vô tận. Tính vô tận, trí tuệ con người biểu hiện ở chỗ nó không chỉ có
khả năng tái sinh mà còn tự sản sinh và đổi mới không ngừng nếu biết chăm lo, bồi
dưỡng và khai thác hợp lý. Nhờ vậy con người đã từng bước làm chủ tự nhiên, khám
phá ra những tài nguyên mới và sáng tạo ra những tài nguyên vốn không có sẵn trong
tự nhiên.
Thứ ba, nguồn nhân lực là yếu tố quyết định sự thành công của sự nghiệp CNH,
HĐH.
Một đất nước có khoa học kỹ thuật hiện đại thì sẽ là điều kiện lớn để phát triển
nền kinh tế. Tuy nhiên, con người lại là người phát minh, tạo ra khoa học công nghệ.
Trí tuệ của con người càng cao thì sẽ tạo ra một nền khoa học hiện đại, có khả năng
khai thác một cách tối đa nguồn tài nguyên thiên nhiên và mở rộng ra nhiều ngành,
nhiều lĩnh vực, phục vụ cho sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của đất nước.

6/23
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI

Bên cạnh đó, kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chính nước ta cho
thấy sự thành công của công nghiệp hoá hiện đại hoá phụ thuộc chủ yếu vào hoạch
định đường lối chính sách cũng như cách thức tổ chức thực hiện các nhiệm vụ. Điều
này phụ thuộc vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Đây là
yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy khoa học kỹ thuật trong các ngành sản xuất phát
triển, qua đó tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế được đi đúng hướng.
Thứ tư, nguồn nhân lực, đặc biệt là chất lượng cao là điều kiện để rút ngắn
khoảng cách tụt hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước.
Nguồn nhân lực mà có trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn kỹ thuật cao thì
khả năng tư duy sáng tạo, tinh thần làm việc cũng như tinh thần trách nhiệm và tính
tự giác sẽ cao, khả năng tiếp thu khoa học công nghệ cũng cao hơn. Nước ta tiến hành
công nghiệp hóa trong xu thế khu vực hóa và toàn cấu hóa về kinh tế đang phát triển
mạnh mẽ, trong điều kiện cách mạng khoa học – kỹ thuật và công nghệ hiện đại trên
thế giới phát triển rất nhanh chóng. Vì vậy, chúng ta cần phải có nguồn nhân lực chất
lượng cao, năng động sáng tạo để chủ động nắm lấy thời cơ, phát huy những lợi thế
sẵn có để đấy nhanh quá trình công nghiệp hóa, tạo ra thế và lực mới để vượt qua
những thách thức, đẩy lùi nguy cơ, đưa nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững.

7/23
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRƯỚC YÊU CẦU CNH – HĐH ĐẤT
NƯỚC

2.1 Về số lượng
Tổng số dân của Việt Nam tính đến 01/04/2009 là 85.789.753 người, Việt Nam
là nước đông dân thứ 3 ở khu vực Đông Nam Á và đứng hàng thứ 13 trong số những
nước đông dân nhất thế giới. Tỷ lệ tăng dân số trung bình hàng năm là 1,2%, như vậy
mỗi năm dân số nước ta sẽ tăng 10.294.770 người.
Việt Nam hiện có một đội ngũ nhân lực khá dồi dào so với nhiều nước trong
khu vực và trên thế giới. Đến hết năm 2007, cả nước có trên 44 triệu lao động trên
tổng số 85,3 triệu dân. Mỗi năm Việt Nam có hơn 1,2 triệu người đến tuổi lao động và
được bổ sung vào lực lượng lao động của đất nước. Nguồn nhân lực trẻ gắn với những
điểm mạnh như sức khỏe tốt, năng động, dễ tiếp thu cái mới, nắm bắt công nghệ
nhanh, di chuyển dễ dàng. Nếu được học văn hóa, đào tạo nghề, họ sẽ phát huy tác
dụng trong quá trình CNH, HĐH đất nước. Đây là yếu tố rất thuận lợi để phát triển
kinh tế - xã hội.
2.2 Về chất lượng
2.2.1 Thể trạng, sức khoẻ nguồn nhân lực Việt Nam

Thể lực của người Việt Nam nhìn chung còn thấp kém, phần lớn chưa đáp ứng
yêu cầu cường độ làm việc của xã hội công nghiệp hiện đại và các chuẩn quốc tế. Theo
đánh giá của Viện Khoa học Thể dục-Thể thao (Uỷ ban Thể dục-thể thao), so với thể
lực của thanh thiếu niên các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Singapore,
Inđônêsia thì thể chất người Việt Nam từ 6-20 tuổi còn kém hơn về chiều cao, cân
nặng, sức mạnh, sức bền và chỉ tương đương về sức nhanh, sự khéo léo và mềm dẻo.
Theo kết quả điều tra năm 2000 số người lao động không đủ tiêu chuẩn về cân nặng là
48,7%, số người suy dinh dưỡng là 28%, số phụ nữ thiếu máu là 40%. Tỷ lệ suy dinh
dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi theo chiều cao (tỷ lệ thấp còi) còn cao (năm 2005 là

8/23
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI

26%), cao hơn nhiều so với các nước Trung Quốc (17%), Philippin (11%) và Thái Lan
(16%); và điều này sẽ còn tiếp tục tác động tiêu cực đến thể trạng và thể lực của người
lao động trong tương lai.
Bảng 2.1: Một số chỉ tiêu về sức khoẻ, y tế của các nước ASEAN.
Việt Thái
Chỉ tiêu Thời gian Brunây Inđônêxia Malaixia Philippin Xingapo
Nam Lan
Tuổi thọ bình quân 1992 63,4 74 62 70,4 64,4 68,7 74,2

Cung cấp calo bình quân/người 1988-1990 2220 2860 2610 2670 2340 2280 3210
Tỷ lệ cung cấp calo/người so _
1988-1990 102 112 124 108 100 144
với nhu cầu tối thiểu(%)
Tỷ lệ được dịch vụ y tế(%) 1985-1990 90 96 80 90 75 70 100

Tỷ lệ được dùng nước sạch(%) 1988-1991 27 95 51 72 82 76 100


Nguồn: chỉ số và chỉ tiêu phát triển con người. NXB Thống Kê. Hà Nội 1995.
Qua bảng trên ta thấy các chỉ số của Việt Nam luôn ở mức thấp, có những chỉ
số ở mức thấp nhất trong khu vực. Những chỉ tiêu liên quan và ảnh hưởng trực tiếp
đến sự phát triển thể chất, thể lực của người lao động Việt Nam rất thấp. Cung cấp
calo bình quân đầu người chỉ có 2220 calo, thấp nhất trong khu vực. Một loạt các chỉ
tiêu khác liên quan đến y tế, chăm sóc sức khoẻ của Việt Nam cũng còn ở mức thấp,
điều đó lý giải phần nào sự hạn chế về mặt thể lực của nguồn nhân lực Việt Nam.
Như vậy tình trạng sức khoẻ người Việt Nam ở mức trung bình kém, điều này
làm giảm chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hoá của đất nước và giảm sức cạnh tranh của lao động Việt Nam trên thị trường lao
động thế giới.
2.2.2 Trình độ giáo dục của nguồn nhân lực Việt Nam
Trình độ giáo dục của nguồn nhân lực ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng nguồn
nhân lực, nó phản ánh khả năng tiếp thu và vận dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật
vào sản xuất. Tuy nhiên, trình độ giáo dục nguồn lao động của Việt Nam chưa đáp
ứng được những đòi hỏi phát triển trong giai đoạn hiện nay thông qua nhiều thông số.
Tính trong cả nước, vào năm 2004 dân số hoạt động kinh tế có 32,8% mới tốt
nghiệp tiểu học; 19,7% tốt nghiệp trung học phổ thông; tỷ lệ mù chữ là 5,01%.

9/23
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI

Trình độ học vấn của lao động nước ta trong những năm gần đây đã được nâng
lên đáng kể. Nếu như năm 2003, lao động có trình độ trung học phổ thông chiếm
62,2% thì đến năm 2005 con số này tăng lên đến 69,3%. Tuy nhiên, so với yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và so với trình độ của lao động các nước
trong khu vực và quốc tế thì trình độ học vấn của lao động nước ta còn thấp.
Bảng 2.2: Trình độ giáo dục dân số hoạt động kinh tế của các nước Châu Á 1996 (%).
Việt Hồng
Trình độ Singapore Malaixia Hàn Quốc Đài loan
Nam Kông
Giáo dục đại học 5,1 23 5 50 40 40
Giáo dục trung học 9,8 30 48 20 20 23
Giáo dục tiểu học 85,1 47 47 30 40 37
Nguồn: Báo cáo của Bộ Lao Động, Thương binh và Xã hội Việt Nam 1996
2.2.3 Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của nguồn nhân lực Việt Nam.
Chất lượng về mặt trí lực của nguồn nhân lực không chỉ thể hiện ở trình độ học
vấn, quan trọng hơn là trình độ chuyên môn kỹ thuật, thông qua số lượng và chất
lượng của lao động đã qua đào tạo.

Bảng 2.3: Chuyển dịch cơ cấu lao động theo trình độ CMKT (%)

Các chỉ tiêu 1979 1989 1999 2003 2005


1. Không có trình độ CMKT 95,03 92,7 91,9 78,78 75,21
2. Công nhân kỹ thuật và nhân viên
nghiệp vụ có bằng 3,39 2,2 2,4 12,65 15,22
3. Trung học chuyên nghiệp 1,06 3,2 3,0 4,01 4,3
4. Cao đẳng trở lên 0,52 1,9 2,7 4,77 5,27
Tổng 100 100 100 100 100
Nguồn: Kết quả điều tra mẫu H.2000.; Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Số liệu
thống kê lao động việc làm ở Việt Nam năm 2005, Hà Nội 11-2005.

Trong những năm vừa qua, tỷ lệ lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật có xu hướng tăng lên. Năm 1999, có 8,1% tổng lực lượng lao động cả nước có
chuyên môn kỹ thuật; năm 2003 là 21,22% và đến năm 2005, tỷ lệ lao động cả nước
có trình độ chuyên môn kỹ thuật tăng lên 24,79%.

10/23
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI

Tuy nhiên, con số này còn thấp so với yêu cầu. Tính đến 2005, lao động qua đào
tạo ở Việt Nam chiếm một tỷ lệ rất thấp (24,79%), lao động chưa qua đào tạo còn
chiếm một tỷ lệ rất cao (75,21%).
Bên cạnh đó, trình độ giáo dục và đào tạo chuyên nghiệp nguồn lao động của
Việt Nam còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn: Một mặt, thiếu hẳn đội ngũ lao động có
chuyên môn cao; mặt khác, việc đào tạo sinh viên tốt nghiệp chưa đáp ứng với yêu
cầu của xã hội phát triển trong giai đoạn hiện nay. Điều tra của Bộ Giáo dục và Đào
tạo năm 2006 cho thấy cả nước có tới 63% số sinh viên ra trường không có việc làm,
37% số còn lại có việc làm thì hầu hết phải đào tạo lại và có nhiều người không làm
đúng nghề mình đã học, trong khi đó nhiều doanh nghiệp, kể cả những doanh nghiệp
có FDI và nhiều dự án kinh tế quan trọng khác rất thiếu nguồn lực chuyên nghiệp.
Việt Nam thiếu trầm trọng đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật có tay nghề cao trong các
lĩnh vực như quản lý, thương mại và công nghệ cao. Đặc biệt trong những năm qua,
nhiều sinh viên, chuyên gia được nhà nước cho đi đào tạo ở nước ngoài, sau khi tốt
nghiệp không quay trở về để làm việc. Trong khi đó ở các doanh nghiệp và công sở
nhà nước những lao động dư thừa bởi không có chuyên môn, kỹ thuật chiếm tỷ lệ khá
cao. Nước ta hiện cần có khoảng 250 – 300 ngàn người lao động có tay nghề cao như
kỹ sư, các nhà quản lý cho các khu công nghiệp, khu chế xuất ở trong các vùng kinh tế
trọng điểm bắt đầu hoạt động từ năm 2000, nhưng chúng ta chỉ mới đáp ứng được
khoảng 30 – 40%.
Thêm vào đó, những công nhân qua đào tạo ở các trường trung học chuyên
nghiệp, các trường dạy nghề, về cơ bản, không thoả mãn các nhu cầu của các doanh
nghiệp trong các khu công nghiệp, khu chế xuất.
2.2.4 Thói quen, nếp nghĩ, tác phong của người lao động
Nếp nghĩ và tác phong của người lao động vẫn còn mang nặng thói quen của
nền sản xuất nhỏ, một bộ phận lớn lao động làm việc ở nông thôn, nên tính tổ chức, kỷ
luật còn yếu, tác phong công nghiệp chưa cao, tùy tiện về giờ giấc và hành vi, trình độ
văn hóa công nghiệp còn thấp. Sự kiện rất nhiều người lao động làm việc tại các khu
công nghiệp, khu chế xuất ở các khu công nghiệp trong vùng Đông Nam Bộ về quê ăn

11/23
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI

Tết rồi bỏ việc diễn ra thường xuyên hàng năm trong mấy năm gần đây là một minh
chứng, làm cho nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn về lao động, ảnh hưởng đến việc
thực hiện các hợp đồng giao hàng.
Tinh thần hợp tác, kỹ năng làm việc theo nhóm còn thấp (vốn là đặc trưng của
người làm nông.)
Một bộ phận không nhỏ nguồn nhân lực bị nghèo đói, thất nghiệp đang là thách
thức rất lớn hiện nay ở nước ta. Bên cạnh đó, một bộ phận khác lại sa vào tệ nạn xã
hội, nhất là nghiện hút, mãi dâm và tội phạm.
Mặc dù còn những điểm hạn chế, yếu kém như trên, song nhìn chung, nguồn
nhân lực Việt Nam có được những phẩm chất vượt trội như: hiếu học, thông minh, cần
cù, chịu khó, khéo tay, khả năng nắm bắt các kỹ năng lao động, đặc biệt là kỹ năng sử
dụng các công nghệ hiện đại tương đối nhanh. Đây là yếu tố quan trọng của nguồn
nhân lực nước nhà trong quá trình CNH, HĐH đất nước.
2.3 Về cơ cấu nguồn nhân lực
2.3.1 Cơ cấu nguồn nhân lực theo ngành kinh tế
Về cơ bản, nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu. Chính vì vậy lực lượng lao
động chủ yếu tập trung trong các lĩnh vực sản xuất truyền thống là nông - lâm - ngư
nghiệp. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, cơ cấu lao động
theo ngành kinh tế của nước ta đang chuyển đổi mạnh theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Tỷ lệ lao động trong ngành nông – lâm – ngư nghiệp đã giảm từ 73,02%
(1990) xuống còn 55,7% (2006); cùng thời gian đó tỷ lệ lao động trong ngành công
nghiệp và xây dựng tăng lên, từ 11,24% lên 19,1%; trong ngành dịch vụ tăng từ
15,74% lên 25,2%.
2.3.2 Cơ cấu nguồn nhân lực theo vùng, thành thị và nông thôn
Lực lượng lao động nước ta hiện nay chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn
nhưng ngày càng có xu hướng tăng dần ở khu vực thành thị, giảm dần ở khu vực
nông thôn. Xu hướng thay đổi lao động giữa thành thị và nông thôn nước ta trong thời
gian qua thể hiện cả về tuyệt đối và tương đối.

12/23
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI

Bảng 2.4: Chuyển dịch cơ cấu lao động khu vực thành thị và nông thôn
Lao động độ tuổi 15 - 19
Thành thị Nông thôn
Năm
Số lượng Số lượng
Tăng/giảm Tỷ lệ Tăng/giảm
(nghìn (nghìn Tỷ lệ (%)
TB năm (%) TB năm
người) người)
1979 5.113 - 19,24 21.459 - 80,76
1989 7.620 +5,16 21,74 27.431 +2,93 78,26
1999 11.614 +5,24 26,06 32.952 +2,01 73,94
2005 11.071 - 24,94 33.313,8 - 75,06
2009 (dự báo) 34-35
Nguồn: Kết quả điều tra mẫu. H.2000; Kết quả điều tra lao động – việc làm
năm 2005. H.11-2005 [5, tr.54].
Theo bảng trên, lao động ở khu vực thành thị, trong vòng 10 năm (1979 – 1989)
tăng thêm 2,507 triệu, tốc độ tăng trung bình năm là 5,16%. Trong 10 năm tiếp theo
(1989 – 1999) tăng gần 4 triệu, tốc độ tăng bình quân là 5,24%, cao hơn thời kỳ trước.
Ngược lại, ở khu vực nông thôn, lượng lao động dịch chuyển theo xu hướng giảm nhẹ,
bình quân năm 2,93% (1979 – 1989) và 2,01% (1989 – 1999). Vì thế, tỷ lệ lao động ở
khu vực thành thị tăng lên. Năm 2005, quy mô lực lượng lao động nước ta là 44,385
triệu người, trong đó ở thành thị là 11,071 triệu, chiếm 24,94% và ở nông thôn chiếm
75,06%. Dự báo trong những năm tới, tỷ lệ lao động ở khu vực thành thị còn tiếp tục
tăng nhanh hơn cùng với sự phát triển của quá trình đô thị hoá. Sự chuyển dịch đó
đang tạo ra áp lực cung lao động tăng lên ở khu vực thành thị trong khi cầu lao động
còn hẹp mà lại yêu cầu chất lượng cao hơn.
Sự phân bố lực lượng đã qua đào tạo từ sơ cấp/học nghề trở lên cũng như từ
công nhân kỹ thuật có bằng trở lên chủ yếu tập trung ở khu vực thành thị, đặc biệt là
các khu đô thị trọng điểm. Lực lượng lao động ở nông thôn chiếm hơn 70% nhưng lao
động đã qua đào tạo từ sơ cấp/học nghề trở lên chỉ chiếm 46,26% trong tổng số lao
động đã qua đào tạo của cả nước; với lao động có trình độ từ công nhân kỹ thuật có
bằng trở lên tỷ lệ này chỉ có 40,96%.

13/23
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI

2.3.3 Cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn kỹ thuật


Cơ cấu giữa công nhân kỹ thuật, trung cấp và cao đẳng, đại học trở lên trong
thời gian 1979 đến 2005 được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.5: Cơ cấu đào tạo nghề nghiệp hợp lý và thực tế ở Việt Nam

Công nhân kỹ
Đại học Trung học chuyên nghiệp
thuật

Cơ cấu đào tạo hợp


1 4 10
lý của thế giới
Cơ cấu đào tạo của Việt Nam
Năm 1979 1 2.25 7.10
Năm 1995 1 1.60 3.60
Năm 2002 1 0.98 2.66
Năm 2005 1 1.13 0.92
Nguồn: Báo cáo của Bộ Lao dộng, Thương binh và Xã hội tại hội thảo “Phát
triển thị trường lao động ở Việt Nam, HN 2002. Văn kiện đại hội Đảng X, Nxb CTQG,
H. 2006, tr.146.
Ở Việt Nam cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học có 1,13 cán bộ tốt nghiệp trung cấp
và 0,92 công nhân kỹ thuật, trong khi đó tỷ lệ này của thế giới là 1, 4 và 10. Các con
số này chỉ ra một hiện tượng “thầy” nhiều hơn “thợ”, nói lên sự mất cân đối nghiêm
trọng trong cơ cấu trình độ lao động trong nền kinh tế giai đoạn công nghiệp hóa hiện
nay.
Hiện nay cũng có quan điểm cho rằng, để bắt kịp nền kinh tế tri thức cần phải
phát triển số lượng cán bộ có trình độ Đại học. Nhưng cần phải thấy rằng, nước ta có
cơ sở hạ tầng và dịch vụ còn thấp kém. Vì vậy, dù muốn “đi tắt”, “đón đầu” trong quá
trình công nghiệp hóa để tiến tới nền kinh tế tri thức thì trước hết nước ta phải thực
hiện tuần tự những bước đi cơ bản, vững chắc, tạo nền tảng ban đầu, từ đó mới có
thực lực cho những “bước nhảy” tiếp sau quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Về cơ cấu cán bộ khoa học công nghệ trình độ cao: tính đến 2006, Việt Nam đã
đào tạo ra được trên 1,8 triệu cán bộ đại học, cao đẳng trở lên. Số lượng cán bộ khoa
học công nghệ trên đại học đã tăng từ 23,500 nghìn (2000) lên trên 20 nghìn (2006).

14/23
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI

Mối tương quan giữa các loại trình độ ở thời điểm năm 2006 là: 1 tiến sỹ : 1,14 thạc
sỹ : 128 đại học. Tuy nhiên, khoảng 2/3 số người có học vị tiến sĩ trong cả nước không
làm khoa học mà đang làm công tác quản lý; số bài báo khoa học được công bố hằng
năm chỉ bằng khoảng 1/4 của Thái Lan và bằng 0,00043% của thế giới, mặc dù số
người nhận bằng tiến sỹ hằng năm của ta thường nhiều hơn của Thái Lan, có năm cao
gần gấp đôi.
Hơn nữa, đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ trẻ kế cận có trình độ cao, chuyên
gia giỏi, cán bộ đầu đàn giỏi ngày càng thiếu, đặc biệt là chuyên gia về công nghệ.
Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, tỷ lệ số người có trình độ trên đại học trên tổng số
cán bộ giảng dạy hiện mới đạt 12,7% (cần đạt 30%).
2.4 Nhận xét chung về nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay
Từ việc phân tích thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay, nhóm chúng
tôi có những nhận xét như sau:
Về mặt tích cực, Việt Nam có nguồn lao động trẻ và dồi dào. Đây là lực lượng
dễ tiếp thu kiến thức, kỹ thuật mới nhằm đáp ứng nhu cầu CNH, HĐH đất nước. Thêm
vào đó, nguồn nhân lực Việt Nam còn có những phẩm chất hiếu học, thông minh, cần
cù, chịu khó, khéo tay, khả năng nắm bắt các kỹ năng lao động, đặc biệt là kỹ năng sử
dụng các công nghệ hiện đại tương đối nhanh... Do đó, nếu được đào tạo tốt họ sẽ phát
huy tác dụng trong quá trình CNH, HĐH đất nước
Trong thời gian qua, chất lượng nguồn nhân lực thể hiện trên các mặt thể lực và
trí lực cũng được cải thiện một cách đáng kể. Trình độ giáo dục của lao động Việt
Nam được nâng cao hơn, tỷ lệ mù chữ ngày càng giảm. Số lượng lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật ngày càng nhiều. Đội ngũ cán bộ khoa học cũng ngày một tăng
lên.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đó, nguồn nhân lực Việt Nam vẫn còn
nhiều hạn chế.
Thứ nhất, mặc dù thể lực lao động Việt Nam đã có sự cải thiện nhưng nhìn
chung vẫn còn thấp kém, phần lớn chưa đáp ứng yêu cầu cường độ làm việc của xã
hội công nghiệp hiện đại và các chuẩn quốc tế.

15/23
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI

Thứ hai, trình độ tay nghề và chuyên môn kỹ thuật còn thấp, tạo nên sự chênh
lệch trong cung cầu nguồn nhân lực chất lượng cao.
Thứ ba, nếp nghĩ và tác phong của người lao động vẫn còn mang nặng thói quen
của nền sản xuất nhỏ, tính tổ chức, kỷ luật còn yếu, tác phong công nghiệp chưa cao,
tùy tiện về giờ giấc và hành vi, trình độ văn hóa công nghiệp còn thấp.
Thứ tư, cơ cấu nguồn nhân lực theo thành thị - nông thôn, trong các thành phần
kinh tế và đặc biệt là cơ cấu theo trình độ chuyên môn kỹ thuật còn nhiều điểm bất
cập, chưa phù hợp với thực trạng kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay.
Quá trình CNH, HĐH muốn đi đến thắng lợi đòi hỏi nguồn nhân lực phải đủ về
số lượng, đạt về chất lượng và được phân bổ một cách phù hợp giữa các vùng, các
thành phần kinh tế. Thực tế cho thấy, để đạt được yêu cầu trên vẫn là một thách thức
không nhỏ đối với Đảng và Nhà nước ta trong việc phát triển và phân bổ nguồn nhân
lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước.

16/23
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN


LỰC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CNH, HĐH

Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng cho sự nghiệp CNH – HĐH,
Nhà nước ta phải tác động cả trên các phương diện: thể lực, trí lực, cơ cấu và sử dụng
nguồn nhân lực.
3.1 Về phương diện thể lực
CNH - HĐH gắn liền với việc áp dụng phổ biến các phương pháp sản xuất công
nghiệp, các thiết bị và công nghệ hiện đại, do đó đòi hỏi sức khỏe và thể lực cường
tráng của người lao động trên các khía cạnh: sức chịu đựng dẻo dai, đáp ứng những
quá trình sản xuất liên tục, kéo dài. Vì vậy, cần có các giải pháp để tăng cường thể lực
người lao động, đáp ứng những yêu cầu tổ chức lao động khoa học và cường độ làm
việc của xã hội công ngiệp như:
Nâng cao số lượng và chất lượng bữa ăn của cư dân ( đặc biệt là nguồn nhân lực
trẻ) bằng việc tạo ra nhiều việc làm để tăng thu nhập, nâng cao mức sống cho người
lao động. Cần có chế độ tiền lương hợp lý phù hợp với công sức người lao động.
Phát triển mạnh mẽ dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe cho người dân tạo điều kiện
để mọi người dân đều được khám chữa bệnh đầy đủ, nâng cao chất lượng khám chữa
bệnh ở mọi vùng miền, địa phương.
Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục về sức khỏe dinh dưỡng cho cộng
đồng, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em. Cần trau dồi thêm kiến thức đối với phụ nữ
mang thai và cho con bú, nhằm đề phòng các bệnh còi xương, suy dinh dưỡng…
Phát triển các hoạt động thể dục thể thao, rèn luyện sức khoẻ cộng đồng.
Ban hành các chính sách triệt để bài trừ tệ nạn xã hội và phòng ngừa dịch bệnh.
Cải thiện môi trường sống: các dự án đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội phải
tuân thủ luật bảo vệ môi trường; các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường trầm
trọng cần mạnh dạn đóng cửa hoặc phải thay đổi quy trình công nghệ.

17/23
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI

3.2 Về phương diện trí lực


Ta thấy nguồn lao động ở nước ta hiện nay thiếu về số lượng lẫn chất lượng đối
với lao động có trình độ cao, có chuyên môn nghiệp vụ. Đi vào CNH - HĐH thì không
có lĩnh vực nào lại không đòi hỏi người lao động phải có trình độ văn hóa, chuyên
môn, kỹ thuật cao, nhất là lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ tin học, tự động hóa và
công nghệ sinh học hiện đại. Vì vậy, đòi hỏi mặt bằng dân trí của nguồn nhân lực phải
cao và phải được đào tạo về chuyên môn kỹ thuật. Cụ thể:
Tăng cường phổ cập trung học cơ sở và giáo dục phổ thông bằng cách hỗ trợ
cho các địa phương khó khăn, vùng sâu, vùng xa.
Định hướng nghề nghiệp cho học sinh sau THCS và THPT. Tuyên truyền, tư
vấn cho học sinh lựa chọn con đường phù hợp với bản thân và xã hội. Áp dụng chính
sách ưu tiên đối với học sinh có chứng chỉ nghề, tôn trọng nguyện vọng và quyền lợi
tiếp tục được học lên (liên thông).
Hiện đại hoá chương trình và nội dung, phương pháp dạy, học theo hướng gắn
với nhu cầu thực tế của thị trường lao động và lấy người học làm trung tâm, áp dụng
rộng rãi công nghệ thông tin trong dạy và học, gắn giáo dục, đào tạo với thực tiễn. Mở
rộng việc dạy và nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ ngay từ cấp giáo dục phổ
thông, hướng tới đạt được mục tiêu sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông, phần lớn
học sinh có thể sử dụng ngoại ngữ trong giao tiếp thông thường hoặc tiếp tục theo học
tiếp ở trình độ cao hơn bằng ngoại ngữ.
Xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên, giáo viên các cấp từ giáo dục phổ
thông đến dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp và cao đẳng, đại học, đảm bảo về số
lượng, giỏi chuyên môn nghiệp vụ và có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp.
Tăng cường cơ sở vật chất, đổi mới công tác quản lý giáo dục.
Khuyến khích đầu tư nước ngoài trong giáo dục đào tạo nghề. Hợp tác quốc tế
về đào tạo nghề như liên kết đào tạo, trao đổi kinh nghiệm, cử giảng viên ra nước
ngoài học tập, mời giáo viên nước ngoài về giảng dạy.

18/23
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI

3.3 Về phát triển hài hòa cơ cấu nguồn nhân lực


Phân bổ nguồn nhân lực theo khu vực địa lý để giảm lượng lao động di chuyển
vào khu vực nội thành bằng cách phát triển công nghiệp ở khu vực ngoại thành. Phối
hợp với các tỉnh lân cận trong giải quyết việc làm và phát triển kinh tế đồng bộ trong
chỉnh thể cơ cấu ngành nghề chung của cả nước.
Điều chỉnh cơ cấu nghề nghiệp và phân công lao động xã hội trên cơ sở dựa vào
các chương trình phát triển các ngành và lĩnh vực theo hướng CNH, HĐH. Tập trung
phát triển bốn ngành kinh tế mũi nhọn:
- Công nghiệp cơ – kim khí – điện
- Công nghiệp dệt – da – may
- Công nghiệp chế biến lương thực
- Công nghiệp điện tử
Phát triển khu vực kinh tế tư nhân, phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ bằng
cách quan tâm hỗn trợ về tài chính, công nghệ và thị trường, bình đẳng trong cạnh
tranh cho các doanh nghiệp cả khu vực nhà nước và tư nhân để người lao động an tâm
khi làm việc trong khu vực này.
Quan tâm quy hoạch đào tạo, chuyển đổi nghề và tạo việc làm cho nông dân.
Quan tâm xây dựng khu dân sinh ngoài khu công nghiệp: nhà ở, nhà trẻ, khu
văn hóa vui chơi giải trí...
Chính sách tiền lương và bảo hộ lao động hợp lý để hạn chế chuyển dịch lao
động.
3.5 Về chính sách sử dụng nhân lực
Những năm qua, chúng ta mới chú trọng đến giáo dục đào tạo (giải pháp đầu
vào) mà chưa quan tâm đúng mức đến sử dụng đãi ngộ (giải pháp đầu ra). Vì vậy, theo
chúng tôi, định hướng chính sách cần theo hướng kích thích sử dụng nguồn nhân lực
chất lượng cao, cụ thể là :
Cải cách chế độ tiền lương, thưởng bằng cách trả lương theo hiệu quả công việc.
Chú trọng chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của người lao động.

19/23
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI

Trẻ hoá đội ngũ cán bộ KH-CN, xoá bỏ quan niệm phải có thâm niên công tác
mới được đề bạt các chức danh quan trọng. Đây đang là tư duy cản trở sự phát triển
nhân lực KH-CN chất lượng cao.
Thực hiện cơ chế đấu thầu rộng rãi các chương trình, đề tài nghiên cứu. Giao
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho cán bộ chủ trì thực hiện các đề tài, công trình
nghiên cứu KH-CN.

20/23
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI

KẾT LUẬN

Đất nước ta đang bước vào một thời kỳ phát triển mới, với những cơ hội thách
thức chưa từng có. Vì vậy, Đảng ta đã xác định: “Con người là vốn quý nhất, chăm lo
hạnh phúc con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của đất nước ta, coi việc nâng cao
dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố
quyết định thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa”.
Qua toàn bộ phân tích trên, có thể khẳng định rằng, bước sang thời kỳ phát triển
mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng XHCN chúng
ta phải lấy việc phát huy nguồn lực con người Việt Nam hiện đại làm yếu tố cơ bản
cho sự phát triển nhanh và bền vững, phải gắn tăng trưởng kinh tế với cải thiện đời
sống nhân dân, phát triển văn hoá, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Đồng thời công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải là vì sự phát triển con người Việt Nam
toàn diện, con người phải được coi là giá trị tối cao và là mục đích của sự nghiệp đầy
khó khăn, phức tạp nhưng tất yếu này.

21/23
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đoàn Thị Ba, Vai trò nguồn nhân lực đối với phát triển kinh tế - xã hội, Nội san
trường ĐH Cần Thơ, Cần Thơ.

2. Phạm Đức Chính (2005), Thị trường lao động: cơ sở lý luận và thực tiễn ở Việt
Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Thế Nghĩa, Đặng Hữu Toàn, Công nghiệp hóa
hiện đại hóa ở Việt Nam – Lý luận và thực tiễn.

4. Tô Đức Hạnh, Phạm Quang Phan (2010), Kinh tế chính trị Mác – Lênin, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Lê Thị Ái Lâm (2003), Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo
– kinh nghiệm Đông Á, NXB KHXH, Hà Nội.

6. Đại học kinh tế TP.HCM (2000), Kinh tế học lao động, Bản dịch.

7. Nguyễn Chí Tân, Trần Mai Ước (2010), Nguồn nhân lực chất lượng cao đối với
sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân
Hà Nội, Hà Nội.

8. Văn Đình Tấn, Nguồn nhân lực trong công cuộc CNH, HĐH ở nước ta, Nội san,
Trường Chính Trị Nghệ An, Nghệ An.

9. http://truongchinhtrina.gov.vn/ArticleDetail.aspx?_Article_ID=212
10. http://www.hids.hochiminhcity.gov.vn

11. http://diendankienthuc.net/diendan/triet-hoc-mac-le-nin/

12. http://www.vocw.edu.vn:9080/content/m11309/latest/

22/23
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ GVHD: TS NGUYỄN CHÍ HẢI

23/23

You might also like