You are on page 1of 76

Phân tích một số bài văn lớp 9

Chuyện người con gái Nam Xương

Đề 1:

Trong truyện “Người con gái Nam Xương”, nhân vật Trương Sinh vội tin
câu nói ngây thơ của con trẻ đã nghi oan cho Vũ Nương ruồng rẫy và
đánh đuỗi nàng đi. Vũ Nương bị oan ức nên nhảy xuống sông tự vẫn.

Em hãy đọc kĩ lại tác phẩm và tìm xem có những chi tiết nào trong
truyện tác giả muốn hé mở khả năng có thể tránh được thảm kịch đau
thương cho Vũ Nương. Những nguyên nhân nào làm cho thảm kịch đó
vẫn diễn ra dẫn đến cái chết đau thương cũa người phụ nữ đức hạnh?

Em hãy bình luận về nguyên nhân cái chết đó


.

HƯỚNG DẪN

1. Đọc kĩ tác phẩm, nắm vững chi tiết, độc lập suy nghĩ để tìm ra
những chi tiết mà đề yêu cầu. Tài thắt nút và mở nút là ở chỗ ấy. Mỗi
em tìm tòi theo cách của mình miễn là hợp lí.

2. Bình luân về nguyên nhân cái chết của Vũ Nương. Có nguyên nhân
trực tiếp do tính nết cá nhân của Trương Linh và nguyên nhân sâu xa
của chế độ xã hội từ đó tìm ra ý nghĩa tố cáo và nhân đạo của tác
phẩm.

BÀI VIẾT THAM KHẢO

“Truyền kì mạn lục” là một tác phẩm có giá trị của văn học cổ nước ta
thế kỉ XVI, một tập truyện văn thơ đầu tiên bằng chữ Hán ở Việt Nam.
Truyện “Người con gái Nam Xương” là một truyện hay trong tác phẩm.

Truyện kể rằng, Vũ Thị Thiết là một phụ nữ đức hạnh ở Nam Xương,
chồng là Trương Linh, người nhà giàu nhưng không có học, tính lai đa
nghi. Triều đình bắt lính, Trương Linh phải tòng quân trong khi vợ đang
mang thai. Chồng đi xa mới được mười ngày thì nàng sinh con trai đặt
tên là Đản. Năm sau, giặc tan, việc quân kết thúc, Trương Linh trở về
thì con đã biết nói, nhưng đứa trẻ nhất định không nhận Trương Linh
làm bố. Nó nói: “Ơ hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư ? Ông lại biết nói,
chứ không như cha tôi trước kia chỉ thin thít. Trước đây thường có một
ông đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi
nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.”

Tính Trương Linh hay ghen, nghe con nói vậy đinh ninh rằng vợ hư, đã
vu oan cho Vũ Nương, ruồng rẫy và đánh đuổi nàng đi. Vũ Nương bị
oan ức đã nhảy xuống sông tự vẫn.

Đọc kĩ tác phẩm, em thấy truyện không phải không hé mở khả năng có
thể dễ dàng tránh được thảm kịch đau thương đó. Tài kể chuyện của
tác giả là ở chỗ đó, cởi ra rồi lại thắt vào đẩy câu chuyện đi tới, khiến
người đọc hứng thú theo dõi và suy nghĩ, chủ đề của tác phẩm từng
bước nổi lên theo dòng kể của câu chuyện. Lời con trẻ nghe như thật
mà chứa đựng không ít điều vô lí không thể tin ngay được, nếu Trương
Sinh biết suy nghĩ, người cha gì mà lạ vậy: “không biết nói, chỉ nín thin
thít” chẳng bao giờ bế con mình, mà hệt như “cái máy” - “mẹ Đản đi
cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi”. Câu nói đó của đứa trẻ chẳng phải là
một câu đố, giảng giải được thì cái chết của Vũ Nương sẽ không xảy ra.
Nhưng Trương Linh cả ghen, ít học, thiếu suy nghĩ, đã vô tình bỏ dở khả
năng giải quyết tấm thảm kịch, dẫn tới cái chết oan uổng của người vợ
mà chàng không phải không có tình yêu thương. Tất nhiên sự đời có
thế mới thành chuyện, vả lại trên đơì làm gì có sự ghen tuông sáng
suốt.

Bi kịch có thể tránh được khi vợ hỏi chuyện kia ai nói, chỉ cần Trương
Sinh kể lại lời con nói mọi chuyện sẽ rõ ràng. Vũ Nương sẽ chứng minh
cho chồng rõ ở một mình nàng hay đùa với con trỏ vào bóng mình và
nói là cha Đản. Mãi sau này, một đêm phòng không vắng vẻ, ngồi buồn
dưới bóng đèn khuya, chợt người con chỉ vào bóng mình trên vách mà
bảo đó là cha nó, Trương Linh mới tỉnh ngô, thấu hiểu nỗi oan của vợ
thì mọi chuyện đã xong. Vũ Nương không còn nữa trên đời.

Câu chuyện bắt đầu từ một bi kịch gia đình, một chuyện trong nhà,
một vụ ghen tuông. Không ít tác phẩm xưa nay đã viết về cái chuyện
thường tình đầy tai hoạ này. Vũ nương không may lấy phải người chồng
cả ghen, nguyên nhân trực tiếp dẫn nàng đến cái chết bi thảm là “máu
ghen” của người chồng nông nổi. Nhưng sự thực vẫn là sự thực!cái chết
oan uổng quá và người chồng độc đoán quá!

Một phụ nữ đức hạnh, tâm hồn như ngọc sáng mà bị nghi oan bởi một
chuyện không đâu ở một lời con trẻ, một câu nói đùa của mẹ với con
mà phải tìm đến cái chết bi thảm, ai oán trong lòng sông thăm thẳm.
Câu chuyện đau lòng vượt ra ngoài khuôn khổ cuả một gia đình, nó
buộc chúng ta phải suy nghĩ tới số phận mong manh của con người
trong một xã hội mà những oan khuất, bất công, tai hoạ có thể xảy ra
bất cứ lúc nào đối với họ mà những nguyên nhân dẫn đến nhiều khi rất
lạ lùng không thể lường trước được. Đó là xã hội phong kiến ở nước ta,
nhất là ở thời nó đã suy vong. Xã hội đó đã sinh ra những chàng Trương
Sinh, những người đàn ông đặc đầu óc “nam quyền”, chà đạp lên
quyền sống của người phụ nữ. Tính ghen tuông của cá nhân cộng với
tư tưởng “nam quyền” trong xã hội đã làm nên một Trương Sinh độc
đoán đến kỳ cục, khư khư theo ý riêng, nhất thiết không nghe ý kiến
của người khác. Đứa trẻ nói thì tin ngay, còn vợ than khóc giãi bày
thống thiết thì nhất định không tin, họ hàng, làng xóm phân giải công
minh cũng chẳng ăn thua gì. Hậu quả là cái chết thảm thương của Vũ
nương mà nguyên nhân sâu xa là chế độ phong kiến bất công cùng chế
độ “nam quyền” bất bình đẳng của nó đã gây ra bao nhiêu tai hoạ cho
người phụ nữ nói riêng và con người thời đó nói chung.

Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ - Thanh Hải

Mở bài

“Nếu là con chim, chiếc lá,


Con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả,
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.”
(Tố Hữu)

Tố Hữu – nhà thơ cùng quê hương xứ Huế với Thanh Hải – đã viết trong
bài “Một khúc ca xuân” những lời tâm niệm thật chân thành, giản dị và
tha thiết. Đó là “lặng lẽ dâng cho đời”. Còn Thanh Hải khi viết bài thơ
“Mùa xuân nho nhỏ” trước lúc ra đi, không những đã giải bày những
suy ngẫm mà còn mong ước được dâng hiến một mùa xuân nho nhỏ
của mình cho mùa xuân vĩ đại của đất nước Việt Nam.

Sinh ra, lớn lên, hoạt động cách mạng và tham gia công tác văn nghệ
suốt hai thời kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ngay
chính trên quê hương ruột thịt của mình. Ở địa diểm nào, hoàn cảnh
nào ông cũng thể hiện được lẽ sống của mình. Đó là sự giản dị, chân
thành, yêu người và khát vọng dâng hiến sức mạnh cho đời như chính
cuộc sống và tâm hồn ông. Chúng ta có thể coi bài thơ “Mùa xuân nho
nhỏ” là món quà cuối cùng mà Thanh Hải dâng tặng cho đời trước lúc
về cõi vĩnh hằng. Chính vì vậy nó bâng khuâng, tha thiết và sâu lắng
hơn tất cả để cuối cùng thể hiện một Thanh Hải yêu người, yêu cuộc
sống, yêu quê hương đất nước và còn là một Thanh Hải sống cho thơ
và sống cho đời.

Thân bài

Giới thiệu chung

Trước lúc vĩnh viễn ra đi ông cũng để lại cho đời những vần thơ thật
nhân hậu, thiết tha và thanh thản, không hề gợn một nét u buồn nào
của một cuộc đời sắp tắt. Khi cuộc đời mình đã bước vào cuối đông,
nhà thơ vẫn nghĩ đến một mùa xuân bất diệt, muôn thuở và nguyện
dâng hiến cho đời.

Phân tích

Hình ảnh của một mùa xuân rất Huế đã được tác giả mở đầu cho bài
thơ:

“Mọc giữa dòng sông xanh


Một bông hoa tím biếc.
Ơi con chim chiền chiện
Hót cho mà vang trời,
Từng giọt long lanh rơi,
Tôi đưa tay tôi hứng”.

Một nét đặc trưng nơi xứ Huế là hình ảnh màu tím. Một màu tím thật
gợn nhẹ như màu tím hoa sim mọc giữa con sông xanh biếc hay như
những tà áo dài với màu tím thật nhẹ nhàng của những cô gái Huế.
Cảm xúc về mùa xuân mở ra thật ngỡ ngàng, bất ngờ, không gian như
tươi tắn hơn, trẻ trung hơn, thánh thoát hơn:

“Ơi con chim chiền chiện


Hót cho mà vang trời,
Từng giọt long lanh rơi,
Tôi đưa tay tôi hứng”.

Trong không gian vang vang vui tươi của tiếng chim càng đậm đà chất
Huế hơn nhờ dùng đúng chỗ những ngôn từ đặc trưng xứ Huế. Một từ
“Ơi” đặt ở đầu câu, một từ “chi” đứng sau động từ “hát” đã đưa cách
nói ngọt ngào, thân thương của Huế vào nhạc điệu của thơ. Từ “giọt”
được hiểu theo rất nhiều nghĩa: có thể là “giọt nắng bên thềm”, giọt
mưa xuân, giọt sương sớm hay cả tiếng hót của những chú chim chiền
chiện. Nhưng đối với khung sắc trời xuân thì giọt xuân càng làm tăng
thêm vẻ đẹp và sự quyến rũ của nó. Một từ “hứng” cũng đủ diễn tả sự
trân trọng của nhà thơ đối với vẻ đẹp của trời, của sông, của chim
muông hoa lá; đồng thời cũng thể hiện cảm xúc trọn vẹn của Thanh
Hải trước mùa xuân của thiên nhiên đất trời.

Từ mùa xuân của thiên nhiên đất trời, tác giả đã chuyển cảm nhận về
mùa xuân của cuộc sống, nhân dân và đất nước. Với hình ảnh “người
cầm súng” và “người ra đồng”, biểu tượng của hai nhiệm vụ: chiến đấu
bảo vệ tổ quốc và lao động tăng gia để xây dựng đất nước với những
câu thơ giàu hình ảnh và mang tính gợi cảm:

“Mùa xuân người cầm súng,


Lộc giắt đầy trên lưng.
Mùa xuân người ra đồng,
Lộc trãi dài nương mạ.
Tất cả như hối hả,
Tất cả như xôn xao…”

Hình ảnh mùa xuân của đất trời đọng lại trong lộc non đã theo người
cầm súng và người ra đồng, hay chính họ đã đem mùa xuân đến cho
mọi miền của tổ quốc thân yêu.
Tác giả đã sử dụng biện pháp điệp từ, điệp ngữ như nhấn mạnh và kết
thúc một khổ thơ bằng dấu ba chấm. Phải chăng dấu ba chấm như còn
muốn thể hiện rằng: đất nước sẽ còn đi lên, sẽ phát triển, sẽ đến với
một tầm cao mới mà không có sự dừng chân ngơi nghỉ.
Sức sống của “mùa xuân đất nước” còn được cảm nhận qua nhịp điệu
hối hả, những âm thanh xôn xao của đất nước bốn ngàn năm, trải qua
biết bao vất vả và gian lao để vươn lên phía trước và mãi khi mùa xuân
về lại được tiếp thêm sức sống để bừng dậy, được hình dung qua hình
ảnh so sánh rất đẹp:
“Đất nước bốn ngàn năm
Vất và vào gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”

Đó chính là lòng tự hào, lạc quan, tin yêu của Thanh Hải đối với đất
nước, dân tộc. Những giọng thơ ấy rất giàu sức suy tưởng và làm say
đắm lòng người.
Từ cảm xúc của thiên nhiên, đất nước, mạch thơ đã chuyển một cách
tự nhiên sang bày tỏ suy ngẫm và tâm niệm của nhà thơ trước mùa
xuân của đất nước. Mùa xuân của thiên nhiên, đất nước thường gợi lên
ở mỗi con người niềm khát khao và hi vọng; với Thanh Hải cũng thế,
đây chính là thời điểm mà ông nhìn lại cuộc đời và bộc bạch tâm niệm
thiết tha của một nhà cách mạng, một nhà thơ đã gắn bó trọn đời với
đất nước, quê hương với một khát vọng cân thành và tha thiết:

“Ta làm con chim hót,


Ta làm một cành hoa.
Ta nhập vào hoà ca,
Một nốt trầm xao xuyến”

Lời thơ như ngân lên thành lời ca. Nếu như đoạn đầu Thanh Hải xưng
tôi kín đáo và lặng lẽ thì đến đoạn này ông chuyển giọng xưng ta. Vì
sao có sự thay đổi như vậy? Ta ở đây là nhà thơ và cũng chính là tất cả
mọi người. Khát vọng của ông là được làm con chim hót, một cành hoa
để hoà nhập vào “mùa xuân lớn” của đất nước, góp một nốt trầm vào
bản hoà ca bất tận của cuộc đời. Hiến dâng “mùa xuân nho nhỏ” nghĩa
là tất cả những gì tốt đẹp nhất, dù nhỏ bé của mỗi người cho cuộc đời
chung cho đất nước. Điều tâm niệm đó thật chân thành, giản dị và tha
thiết – xin được làm một nốt trầm trong bản hoà ca của cuộc đời nhưng
là “một nốt trầm xao xuyến”.
Điều tâm niệm của tác giả: “lặng lẽ dâng cho đời” chính là khát vọng
chung của mọi người, ở mọi lứa tuổi, chứ đâu phải của riêng ai. Thanh
Hải đã thể hiện hết mình vì lòng tin yêu cuộc sống và khiêm tốn hiến
dâng cho đất nước, cho cuộc đời, bởi vậy, xuất phát từ tiếng lòng thiết
tha, nhỏ nhẹ, chân thành của tác giả nên lời thơ dễ dàng được mọi
người tiếp nhận và chia sẻ cho nhau:

“Một mùa xuân nho nhỏ


Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”.

Đã gọi là cống hiến cho đời thì dù ở tuổi nào đi chăng nữa cũng phải
luôn biết cố gắng hết tâm trí để phục vụ và hiến dâng cho quê hương,
đất nước mến yêu của chính mình. Già - cống hiến tuổi già, trẻ - cống
hiến sức trẻ để không bao giờ thất vọng trước chính bản thân mình.

Thật cảm động và kính phục biết bao khi đọc những vần thơ như lời
tổng kết của cuộc đời. “Dù là tuổi hai mươi” khi mới tham gia kháng
chiến cho đến khi tóc bạc là thời điểm hiện thời vẫn lặng lẽ dâng hiến
cho đời và bài thơ này là một trong những bài thơ cuối cùng. “Một mùa
xuân nho nhỏ” cuối cùng của Thanh Hải dâng tặng cho đời trước lúc
ông bước vào thế giới cực lạc, chuẩn bị ra đi mãi mãi.

Kết thúc bài thơ bằng một âm điệu xứ Huế: điệu Nam ai, Nam Bình
mênh mang tha thiết, là lời ngợi ca đất nước, biểu hiện niềm tin yêu và
gắn bó sâu nặng của tác giả với quê hương, đất nước, một câu chân
tình thắm thiết

“Mùa xuân ta xin hát


Câu Nam ai, Nam Bình
Nước non ngàn dặm tình
Nước non ngàn dặm mình
Nhịp phách tiền đất Huế”

Đánh giá chung


Những lời tâm sự cuối cùng của người sắp mất luôn là những lời thực
sự, luôn chứa chan tình cảm, ước nguyện sâu lắng nhất… và bài thơ
này cũng chính là những điều đúc kết cả cuộc đời của ông. Ông đã giải
bày, tâm tình những điều sâu kín nhất trong lòng, và chính lúc đó
Thanh Hải đã thả hồn vào thơ, cùng chung một nhịp đập với thơ để ông
và thơ luôn được cùng nhau, hiểu nhau và giải bày cho nhau.

Kết bài
Tóm lại bài thơ đã sử dụng thể thơ năm chữ, mang âm hưởng dân ca
nhẹ nhàng tha thiết, giàu hình ảnh, nhạc điệu, cất trúc thơ chặt chẽ,
giọng điệu đã thể hiện đúng tâm trạng, cảm xúc của tác giả. Nét đặc
sắc của bài thơ là ở chỗ nó đề cập đến một vấn đề lớn và quan trọng
“nhân sinh”, vấn đề ý nghĩa cuộc sống của mỗi cá nhân được Thanh
Hải thể hiện một cách chân thành, thiết tha, bằng giọng văn nhỏ nhẹ
như một lời tâm sự, gửi gắm của mình với cuộc đời. Nhà thơ ước
nguyện làm một “mùa xuân” nghĩa là sống đẹp, sống với tất cả sức
sống tươi trẻ của mình nhưng rất khiêm nhường; là “một mùa xuân nho
nhỏ” góp vào “mùa xuân lớn” của đất nước của cuộc đời chung và bài
thơ cũng có ý nghĩa hơn khi Thanh Hải nói về “mùa xuân nho nhỏ”
nhưng nói được tình cảm lớn, những xúc động của chính tác giả và của
cả chúng ta./.
Nguồn: ST
Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác

Sinh thời, Bác Hồ luôn luôn nghĩ đến miền Nam, ngày đêm thương nhớ
miền Nam. Với Bác, miền Nam là niềm vui, là hạnh phúc, là nỗi đau
không lúc nào nguôi: “Miền Nam trong trái tim tôi”. Niềm mong mỏi
thiết tha của Bác là miền Nam mau được giải phóng. Miền Nam cũng
ngày đêm thương nhớ Bác, mong ngày giải phóng để được gặp Bác
kính yêu. Nhưng tiếc thay, khi Bắc Nam sum họp một nhà thì Bác
không còn nữa. Lòng thương nhớ, nỗi niềm đau đớn của đồng bào và
chiến sĩ miền Nam dồn nén bao nhiêu năm đã được nhà thơ Viễn
Phương thể hiện trong bài Viếng lăng Bác. Bài thơ không những chỉ thể
hiện dòng cảm xúc trào dâng của nhà thơ mà còn thể hiện hình tượng
lãnh tụ Hồ Chí Minh bằng những hình ảnh vừa quen thuộc, vừa giàu sức
khái quát, vừa lung linh gợi cảm. Bằng cảm xúc chân thực và ngôn ngữ
thơ gợi cảm, Viễn Phương đã nói hộ chúng ta một chân lý: Bác Hồ vĩ đại
sống mãi trong lòng nhân dân ta.

Bài thơ ra đời năm 1976, khi lần đầu tiên sau giải phóng miền Nam,
Viễn phương ra thăm Lăng Bác. Bài thơ rất ngắn gọn, súc tích nhưng có
sức gợi tạo nên sự xúc động cho người đọc. Ngôn ngữ thơ tuôn trào
theo theo dòng cảm xúc chân thành, tha thiết.

Mở đầu bài thơ, Viễn Phương đã bày tỏ ngay tình cảm sâu nặng, ruột
thịt của mình bằng câu thơ giản dị: Con ở miềm Nam ra thăm lăng Bác.

Tình cảm giữa miền Nam và Bác Hồ luôn luôn là tình cảm ruột thịt “Bác
nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà” (Tố Hữu) và tình cảm của miền Nam đối
với Bác cũng là tình cảm nhớ mong da diết “Miền Nam mong Bác nỗi
mong cha” (Tố Hữu). Tự đáy lòng của người con đến thăm cha, Viễn
Phương nói với Bác: Con ở miền Nam…. Câu thơ giản dị nhưng bao
hàm một ý nghĩa lớn. Trong tim Bác và trong tim miền Bắc, Miền Nam
luôn luôn là nỗi đau chia cắt, nỗi nhớ thương, là niềm tự hào, là biểu
tượng anh hùng, bất khuất, dũng cảm, kiên cường, là thành đồng Tổ
Quốc… Giờ đây, nhà thơ mang theo cả niềm tự hào đó của đồng bào
miền Nam để đến với Bác.

Hình ảnh đầu tiên trong lăng làm nhà thơ xúc động là hình ảnh hàng
tre:

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát


Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng

Hàng tre bát ngát cuốn hút cảm xúc của nhà thơ. Qua hình ảnh hàng
tre quen thuộc tác giả gửi gắm một ý nghĩa tượng trưng nhằm ca ngợi
Bác, ca ngợi dân tộc. Chắc rằng, cũng như mọi người Việt Nam, trong
tâm khảm nhà thơ, cây tre là hình ảnh giản dị, thân thuộc, đời đời gắn
bó với quê hương làng xóm. Hàng tre xanh xanh trong vườn Bác gợi
cho người đọc nhiều liên tưởng. Hàng tre gợi hình ảnh mọi miền quê
hương đất nước, nhất là hình ảnh miền Nam yêu thương. Tre kiên
cường trong bão táp mưa sa như dân tộc ta vững vàng qua phong ba
bão tố, như Bác Hồ suốt đời sống giản dị nhưng kiên cường tranh đấu vì
độc lập tự do của dân tộc.
Hoà vào dòng người thăm lăng, nhà thơ tiếp tục dòng suy tưởng. Lời
thơ bỗng dạt dào một cảm xúc tự hào, thành kính, thương nhớ Bác:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng


Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân

Ai đã từng một lần đi viếng lăng Bác mới hiểu hết hàm ý trong câu thơ
của Viễn Phương. Ngày ngày, mặt trời - chúa tể của thiên nhiên - thán
phục một mặt trời trong lăng rất đỏ. Mặt trời rất đỏ, hình ảnh tượng
trưng cho Bác Hồ - là mặt trời cách mạng, là nguồn ánh sáng rực rỡ
không bao giờ tắt, mãi mãi chiếu rọi con đường đi tới của dân tộc Việt
Nam. Nhiều nhà thơ đã sử dụng hình ảnh mặt trời để thể hiện ánh sáng
của lý tưởng cách mạng, nhưng đối sánh hai hình ảnh mặt trời của Viễn
Phương quả là rất độc đáo. Đây là một sáng tạo nghệ thuật có tác dụng
bộc lộ nội dung rất hiệu quả. Không nhiều lời, chỉ một hình ảnh mặt trời
rất đỏ, nhà thơ đã khái quát được hình ảnh Bác Hồ vĩ đại. Nhà thơ đã
nói hộ chúng rằng: Bác Hồ là mặt trời cách mạng đẹp nhất, rực rỡ nhất,
chói lọi nhất luôn luôn toả sáng trong tâm hồn người Việt Nam.

Cùng với mặt trời ngày ngày đi qua trên lăng là dòng người đi trong
thương nhớ. Nhịp thơ chầm chậm như bước chân của dòng người lặng
lẽ đi trong suy tưởng, bao trùm một một không khí thương nhớ Bác
không nguôi, thành kính kết tràng hoa tình yêu dâng bảy mươi chín
mùa xuân của Người. “Người ta là hoa của đất”, nhà thơ thật sâu sắc
và tinh tế khi tôn quí nhân dân. Mỗi người dân là một bông hoa và
dòng người đi trong thương nhớ chính là tràng hoa dâng lên Bác.

Ngày ngày… ngày ngày …, thời gian không ngừng trôi và lòng người
Việt Nam không bao giờ nguôi tình cảm nhớ thương, yêu quí, kính
trọng đối với Bác.

Đặc biệt xúc động là khi vào trong lăng, thấy Bác nằm nghỉ, nhà thơ
sững sờ, nghẹn ngào, đau đớn:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên


Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền,
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi ,
Mà sao nghe nhói ở trong tim

Bác nằm đó như đang trong giấc ngủ bình yên sau bảy mươi chín mùa
xuân không hề nghỉ. Từ ánh điện mờ ở trong lăng, nhà thơ liên tưởng
đến một hình ảnh rất đẹp: vầng trăng sáng dịu hiền. Hình ảnh đó đã
đưa người đọc vào một thế giới huyền diệu, trong sáng và thanh khiết;
càng gợi ta nghĩ đến tình yêu thiên nhiên, yêu trăng nồng nàn của Bác.
Vầng trăng kia đã bao lần sáng lên trong thơ Người. Cả khi trong ngục:
“Người ngắm trăng soi qua cửa sổ, trăng nhòm khe cửa ngắm nhà
thơ”. Cả những khi bận rộn việc nước việc quân, Bác vẫn thấy “trung
thu trăng sáng như gương”, “rằm xuân lồng lộng trăng soi”, “trăng
ngân đầy thuyền”, “trăng vào cửa sổ đòi thơ”, “trăng lồng cổ thụ bóng
lồng hoa…” Giờ đây, Bác nằm đó, trong giấc ngủ bình yên, giữa vầng
trăng sáng dịu hiền. Vẫn biết rằng Bác như trời xanh, mãi mãi sống
trong sự nghiệp của chúng ta. Nhưng con tim nhà thơ đau đớn vô cùng
khi đứng trước Người. Mà sao nghe nhói ở trong tim, chỉ một chữ nhói
cũng đủ nói lên nỗi quặn đau, thương nhớ không gì bù đắp được vì mất
Bác, vì nỗi thiếu vắng Bác.

Và nỗi đau không còn kìm ném được nữa, nó trào lên dữ dội khi nhà thơ
chia tay với Bác:

Mai về miền Nam, thương trào nước mắt


Muốn làm con chim hót quanh lăng
Muốn làm bông hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

Thương Bác, thương đến trào nước mắt, một tình cảm yêu quý mãnh
liệt, trọn vẹn như tình cảm của người con đối với người cha ruột thịt.
Nhà thơ chia tay Bác trong tiếng khóc nấc nở nghẹn ngào. Làm sao
ngăn được dòng nước mắt thương nhớ Bác-một con người vừa vĩ đại,
thanh cao, vừa gần gũi thân thiết với chúng ta, một con người suốt đời
hy sinh, cống hiến cho dân tộc nay vĩnh viễn nằm lại trong lăng? Nhà
thơ lưu lưyến không muốn rời xa Bác, chỉ ước muốn biến thành con
chim, bông hoa, cây tre, góp tiếng hót, làn hương quanh nơi Bác nghỉ
cho trọn niềm trung hiếu với Người. Đoạn thơ dạt dào tình cảm, nhịp
điệu thiết tha, cùng với hình ảnh cây tre trung hiếu một lần nữa truyền
đến người đọc sự xúc động nghẹn ngào.

Bài thơ ngắn, nhưng tác giả đã thành công khi sử dụng hàng loạt hình
ảnh ẩn dụ mang tính tượng trưng sâu sắc. Các hình ảnh hàng tre xanh
xanh, giữa bão táp mưa sa, đến các hình ảnh mặt trời rất đỏ, tràng
hoa, bảy mươi chín mùa xuân, vầng trăng sáng dịu hiền, trời xanh là
mãi mãi đã gợi cho người đọc thấy trọn vẹn hình tượng Bác Hồ gần gũi,
cao quý, thanh khiết, vĩ đại biết bao. Ngoài ra, nó còn gợi đến hình ảnh
quê hương, đất nước, nhân dân. Nhà thơ đã có nhiều dụng ý khi sử
dụng các hình ảnh rất đẹp, rất lớn lao của vũ trụ: mặt trời, vầng trăng,
trời xanh. Những hình ảnh đó tượng trưng cho cái vĩ đại, lớn lao của
Bác Hồ. Bác như vầng mặt trời rực rỡ, như vầng trăng sáng dịu hiền,
như bầu trời xanh. Ở Bác toả ra ánh sáng của trí tuệ thiên tài và lấp
lánh ánh sáng của một tâm hồn cao đẹp. Còn hình ảnh hàng tre xanh
xanh lại tượng trưng cho cái bình dị, gần gũi của Người. Và hơn thế
nữa, tất cả các hình ảnh ấy đều gợi cho ta thấy sự bất tử của Bác Hồ.
Người sống mãi trong lòng nhân dân ta, trong sự nghiệp của chúng ta.
Mãi mãi là vị cha già thân thiết, yêu quý của chúng ta.

Viếng lăng Bác không những là tiếng khóc đau đớn, nghẹn ngào trước
sự ra đi của Bác, là lòng thương nhớ không nguôi, lòng kính phục vô
hạn của nhà thơ Viễn Phương và của nhân dân ta đối với Bác Hồ mà bài
thơ còn diễn tả thành công hình tượng Bác Hồ vĩ đại bằng những hình
ảnh đẹp, nhịp điệu tha thiết, cảm xúc nồng nàn chân thực. Âm hưởng
của bài thơ ngân vang mãi trong lòng người đọc. Bài thơ được phổ nhạc
càng trở nên truyền cảm sâu xa, làm xúc động hàng triệu trái tim Việt
Nam từ 1976 đến nay.
Trong hai cuộc kháng chiến, nhà thơ Viễn Phương hoạt động ở Nam Bộ,
và đã sáng tác nhiều bài thơ về Bác Hồ. Có bài tác giả viết khi bị địch
giam cầm ở các trại giam Phú Lợi, Lê Văn Duyệt, không có giấy bút,
Viễn Phương sáng tác thầm trong đầu và đọc cho các đồng chí cùng
khám nghe. Kỳ diệu thay, Viễn Phương chỉ đọc một vài lần, mọi người
đều thuộc, rồi những khi bị địch bắt đi lao động, họ lại đọc cho bạn tù ở
khám khác nghe, cứ vậy thơ Viễn Phương được lan truyền trong nhà tù.
Phải đến bài thơ Viếng Lăng Bác, Viễn Phương mới thực sự có một bài
thơ hay về Bác. Dưới đây là cuộc trò chuyện giữa ông và phóng viên
VNQĐ

PV: Thưa nhà thơ Viễn Phương, trong một lần nào đó, tôi được đọc một
bài viết của anh Lê Quang Vịnh trên báo Sài Gòn Giải phóng, kể rằng:
“Lúc tôi 25 tuổi, bị bọn Mỹ – Diệm kết án tử hình rồi chuyển thành
trung thân khổ sai và đày ra Côn Đảo. Trong chuồng cọp, địa ngục trần
gian của nhà tù ấy, tôi bị bắt buộc phải nằm dưới hầm suốt ngày...".
Trên vách chuồng cọp, tôi thấy chi chít những chữ ghi bằng nhiều cách
khác nhau. Có những dòng được khắc trên vôi bằng cái xương cá mắm.
Có những chữ bằng máu, có những ghi bằng than. Tôi đọc được bài thơ
dài, chỗ này ghi một đoạn, chỗ khác ghi một khúc ráp lại rất vần với
nhau.

Hôm nay mười chín tháng năm:

Lòng con sáng tựa đêm rằm trung thu


Con đang chúc thọ dưới mồ
Con đang dựng một rừng cờ trong tim
Đêm nay mộng hóa thành chim
Bay qua lưới sắt con tìm đến cha

Sau này mới biết là thơ Viễn Phương, bài Chúc thọ dưới mồ. Tôi nghĩ
rằng đó cũng là hạnh phúc lớn của nhà thơ: Góp phần mình vào công
cuộc giải phóng đất nước.
Nhà thơ Viễn Phương: Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kiệt xuất của dân tộc ta là
nguồn cảm hứng vô tận của người sáng tạo văn, thơ, nhac, họa. Trong
kháng chiến chống Pháp và Mỹ, các nhà thơ sống ở Nam Bộ đều có
những tác phẩm viết về Bác. Trong nhà tù của giặc, tôi luôn luôn nghĩ
về Bác. Bác là nguồn động viên, cổ các chiến sĩ trong nhà tù. Tôi đã
viết bài thơ Chúc thọ dưới mồ, được các đồng chí trong tù thuộc, truyền
cho nhau. Tuy lời thơ còn mộc mạc nhưng là tấm lòng thành kính của
tôi đối với Người.

PV: Phải đến khi đất nước thống nhất, ra thăm miền Bắc, anh mới có
Viếng Lăng Bác, đầy đủ độ chín và ngôn từ. Anh có thể cho biết bài thơ
ra đời trong hoàn cảnh nào?

Nhà thơ Viễn Phương: Khi Bác còn sống, nhân dân miền Nam mong
muốn đất nước giải phóng để đón Bác vào thăm. Nhưng rồi, ước mơ ấy
không được toại nguyện. Khi miền Nam giải phóng, mọi người đều
muốn ra thăm miền Bắc, viếng lăng Bác. Năm 1976, tôi ra Hà Nội, được
đến viếng Bác.
Sáng hôm ấy mưa phùn, Hà Nội lây phây trong gió rét, tôi được nối vào
dòng người vào lăng Bác. Chúng tôi đi từ hướng chùa Một Cột. Sương
toả mênh mông, những hàng tre xanh sẫm, những gốc đào hoa đỏ
rực… Tất cả đều thiêng liêng. Đến bên Bác, ai cũng muốn dừng thật
lâu. Bác nằm đó, thanh thản, giản dị, hiền từ như đang ngủ. Anh sáng
dịu dàng toả xuống như giữa một đêm trăng thanh miền thôn dã. Tôi
không cầm nổi nước mắt.
Ra khỏi làng, tôi đi như người mộng du và tứ thơ bật ra:

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác


Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát.

Lời thơ thật giản dị. Tôi nghĩ, Bác của chúng ta vốn giản dị, Người ghét
sự cầu kỳ, làm dáng. Giản dị, trong sáng, sâu sắc cũng là bao quát
trong thơ Bác. Tôi viết như là ý nghĩ của mình. Và, đó cũng là tâm tư
của nhân dân và chiến sỹ ở Nam Bộ với Bác.

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng


Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Mặt trời của vũ trụ đối với mặt trời trong lăng. Đó cũng là hàm chứa sự
vĩnh cửu của sự nghiệp Bác Hồ tạo dựng và nhân dân ta, Đảng ta đã
thực hiện: xây dựng một đất nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ và giàu mạnh như di chúc của Bác.

Hoa tươi là nét đẹp của thiên nhiên, hàng ngày dâng lên Bác rất nhiều
nhưng tôi nghĩ đến:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng Bảy mươi chín mùa xuân

Dòng người vây quanh Bác trở thành hoa. Và dâng cho Bảy mươi chín
màu xuân, là hoa tươi của cuộc sống.

Toàn bài Viếng Lăng Bác mang một không khí trang nghiêm, thành
kính. Đoạn kết, tôi muốn nói lên tình cảm của nhân dân, chiến sỹ miền
Nam hứa với Bác:

Mai về miền Nam thương trào nước mắt


Muốn làm con chim hót quanh lăng
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này

(sưu tầm)

Sang thu (Hữu Thỉnh)

Có lẽ vì nàng thu “thơ mộng muôn thủa” luôn có xu hướng “rủ rê” ngòi
bút theo những lối mòn quen thuộc của truyền thống thơ thu. Mà hút
theo những con đường dằng đặc đã định hình trước đó là đến tử lộ của
văn chương…

Nói về đề tài mùa thu, một tác giả đã nhận định: “Đề tài "Mùa Thu" bao
giờ cũng có vẻ là dễ viết. Mùa thu dường như luôn luôn nấp sẵn trong
ngòi bút của chúng ta, nhất là những ngòi bút thơ: hễ động bút là mùa
thu cứ chực đổ ùa ra trên mặt giấy. Tưởng như với đề tài thơ mộng
muôn thuở này có thể dễ dàng chắp bút. Chỉ đến khi bắt đầu cầm bút
ngồi trước mặt giấy, tôi mới thấy đề tài này thật là khó” Tại sao lại có
nghịch lí trong kinh nghiệm của người sáng tác như vậy? Có lẽ vì nàng
thu “thơ mộng muôn thủa” luôn có xu hướng “rủ rê” ngòi bút theo
những lối mòn quen thuộc của truyền thống thơ thu. Mà hút theo
những con đường dằng đặc đã định hình trước đó là đến tử lộ của văn
chương…

Sang thu của Hữu Thỉnh xuất hiện khi trước nó đã có rất nhiều bài thơ
nổi tiếng đông tây kim cổ: Thu hứng (Đỗ Phủ), Chùm thơ thu (Nguyễn
Khuyến), Đây mùa thu tới (Xuân Diệu)… Nhưng nó vẫn có cái hay, cái
độc đáo riêng của một hồn thơ sâu lắng, nhạy cảm khi mùa thu tới.

Ngay từ tiêu đề, tác giả đã tự xác định một thời điểm miêu tả: thời
điểm giao mùa. Đó không phải là chính thu, khi bầu trời xanh ngắt lơ
lửng những tầng cao, không phải cuối thu, khi nắng trời đã nhuộm đỏ
lá bàng, hay khi cái rét mùa đông đã lẩn vào trong gió…Sang thu nghĩa
là mới chớm thu thôi, cái tứ kết buộc hệ thống hình ảnh trong bài cũng
chỉ gói gọn trong chút “chớm” mỏng manh đó.

Đặc biệt ở góc độ miêu tả tạo vật. Không hề có một từ định tính để
miêu tả thế giới thu. Có hương ổi, mùi hương vừa đặc trưng cho mùa
vừa đặc trưng cho làng thôn ngõ xóm. Nhưng hương ổi “thơm” như thế
nào thì thi sĩ hoàn toàn không miêu tả. Có gió, nhưng gió se chứ không
phải là gió lạnh. Se gợi một động thái, hơn là gợi một cảm giác. Làn
sương giăng phủ ngõ thôn chẳng được đặc tả ở mức độ (mù mịt) hay
màu sắc (trắng mờ)... Dòng sông, cánh chim, hay đám mây cũng
không tô điểm cho phong cảnh thu bằng những gam màu đặc trưng
của nó. Truyền thống thơ thường kiến trúc ngôi nhà thu bằng những
chất liệu quen thuộc như cúc, liễu, ngô đồng hay màu trời, sắc nước…
Hữu Thỉnh hầu như khơi gợi cảm giác về mùa trong trạng thái mơ hồ
của tạo vật. Thành công nổi bật nhất của bài cũng là ở một hệ thống
những động từ miêu tả rất giàu cảm giác: “phả”, “se”, “chùng chình”
“dềnh dàng” “bắt đầu vội vã” “vắt nửa mình”… “Chùng chình” trước
hết gợi tả chính xác những làn sương như ngưng lại và nhẹ nhàng tỏa
lan ngõ xóm. Dòng nước thu vốn trong trẻo và sâu hút làm người ta
khó mà thấy rõ được sự chuyển động nó nên cảm giác sông lững lờ trôi
cũng rất hiện thực. Đám mây như tấm khoăn voan của người thiếu nữ,
duyên dáng nối hai mùa là một liên tưởng thực sự độc đáo. Song trên
hết, hệ thống động từ toàn bài còn đặc sắc ở chỗ, nó không chỉ miêu tả
chính xác trạng thái của tạo vật mà còn thổi vào tạo vật những cảm
giác rất người. Tinh tế và sống động sao một buổi sáng chớm thu,
sương như người khách ngập ngừng nơi đầu ngõ, gió se lại bởi chút
lạnh xa xăm, những cánh chim vội vã tìm về phương ấm áp…

Song thời điểm chớm thu không phải chỉ hiển hiện ở những dấu hiệu
mơ hồ trong trạng thái biến chuyển của cảnh vật, mà ở cả chút ngỡ
ngàng bâng khuâng của lòng người: “Bỗng nhận ra hương ổi”; “Hình
như thu đã về”…

Tiếp tục thể hiện những dấu hiệu mùa thu rõ rệt hơn nhưng ý nghĩa
của khổ cuối không chỉ dừng lại ở đó:

Vẫn còn bao nhiêu nắng


Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi

Con người cảm thấy biết bao biểu hiện khác biệt của thời tiết khi mùa
thu tới: mưa và sấm thưa dần, không còn dữ dội nữa. Sang thu, tất cả
các dấu hiệu của mùa hạ vẫn còn nhưng đã giảm dần mức độ, cường
độ… Hàng cây như đã quá quen với nắng lửa mưa giông, được gọi một
cách hình ảnh là “hàng cây đứng tuổi”. Chính các từ “bất ngờ”, “đứng
tuổi” khiến ý nghĩa của câu thơ không dừng lại ở nét nghĩa tả thực mà
có chiều sâu hơn. Nắng, mưa, sấm chớp… hay là những vang động của
cuộc đời? Trong tương quan ấy, hàng cây tượng trưng cho con người
từng trải mà bao dâu bể biến đổi không còn đáng ngạc nhiên. Cảnh
như sâu lắng hơn bởi liên tưởng suy tư về mùa thu đời người.

Không hiểu sao, khi đọc bài thơ này, tôi chợt thấy nhớ rất nhiều những
năm tháng đã qua của mình. Miền kí ức tuổi thơ được đánh thức bởi
mùi hương ổi, bởi ngõ xóm thân quen ấy. Và có lẽ cũng nhờ giọng điệu
êm nhẹ dễ cuốn người đọc vào dòng cảm xúc, suy nghĩ tự nhiên của
tác giả. Nét độc đáo nhất của bài là những hình ảnh chính xác và giàu
sức gợi tạo nên một bức tranh thu giản dị mà sống động. Đây xứng
đáng là một bài thơ thu hay trong thế giới thi ca!

( Sưu tầm đó)

Người ta nói mùa thu là mùa của thi nhận,của tình yêu,của
những bài thơ dịu dàng.Hương thu thấm đẫm ngọt nào trong
vạn vật như đc in dấu lung linh ,huyền ảo qua mỗi vần thơ ở
bài Sang Thu của nhà thơ HỮU THỈNH
"Bỗng nhận ra...
..đã về "
Ngọn jó se ở đây ta có thể hiểu là ngọn gió heo may se se lạnh
ban phát cái hương vị còn sót lại của làng quê.Hình ảnh giọt
sương thu gợi ta và gợi cảm :"giọt sương chùng chình" gợi tả 1
ngõ nhỏ yên ắng,1 không gian sương khói lãng đãng lúc thu
về.Giợt sương thu là hình ảnh mang tâm trạng ngập ngừng ,bịn
rịn,bâng khuâng đang đợi chờ 1 nguời nào đó.
Cảm xúc của nhà thơ :"Bỗng","hình như" là 2 tâm trạng của
nhà thơ:bất ngờ và bối rối,bâng khuâng.Có phải nhà thơ đang
thầm hỏi lòng :thu về từ bao giờ?theo gió hay theo huơng?Thu
đến mà ko báo trước để lòng người xao xuyến bâng khuâng
Khi cả đất trời vào thu
"Sông đựoc lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu "
Nhà thơ đã thổi hồn vào cảnh vật để cho dòng sông đc dịp mà
thanh thản,mà trầm ngâm suy nghĩ.Tuơng phản với hình ảnh
dòng sông à lũ chim :"chim bắt đầu vội vã".Ta cảm nhận lũ
chim như hình dung đc cái lạnh của thu đã về và cuộc hành
trình về phương Nam của chúng bắt đầu với những tiếng gọi
nhau ,những âm thanh,những tiếng đập cánh vội vã,gấp gáp
hơn.Nhà thơ Xuân Diệu khi cảm nhận về mùa thu cũng nói tới
cánh chim : "Chim nghe trời rộng giang thêm cánh"
Đặc sắc nhất là 2 câu thơ :
"Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu"
Trong đám mây của mùa thu vẫn còn vương chút nắng hạ nên
từ "vắt" đc nhà thơ dùng thật sống động,gợi hình,tạo
dáng.Đám mây như 1 dãi lụa mềm tạo thành chiếc cầu nối cho
nhịp thời gian .Liên tưởng của nhà thơ làm bầu trời xanh kia
trờ nên kì diệu .Chút nắng còn sót lại của mùa hạ vàng ,thu êm
đềm vừa chợt đến đám mây vừa ngỡ ngàng như bước qua bờ
bên kia .cám giác như vừa là thực ,vừa là ảo,vừa rõ ràng mà
lung linh.
Nếu như ở khổ 1 là cảm nhận về sự kì diệu của mùa thu ,khổ 2
là những biến đổi của cảnh vật thì khổ 3 là tình thu chan
chứa.Trời đã bớt đi những cơn mưa ,chỉ còn lại những giọt nắng
và vì vậy sự suy nẫm triết lí của nhà thơ đc thể hiện thật đúng
lúc."Vẫn còn bao nhiêu nắng...cây đứng tuổi"
Có thể nhận ra biện pháp tu từ nhân hoá làm câu thơ mang
chiều sâu triết lí .Hàng cây đứng tuổi hay đó chính là những
nguời đã từng trải qua nhiều khó khăn gian nan của cuộc đời.
Các hình ảnh nắg,mưa ,sấm chớp ..tượng trưng cho những bến
đổi,vang động bất thường trong cuộc sống.Thế nhưng tất cả
lắng xuống ,đi vào chừng mực rồi ổn định .Chỉ còn kết lại bài
thơ hình ảnh hàng cây đứng tuổi gợi bao suy nghĩ sâu xa .Hàng
cây đứng tuổi vững vàng trước sấm sét ,phải chăng cũng là sự
điềm tĩnh bình thản của con người khi đã đi qua bao mưa
nắng ,thử thách của cuộc đời .Con nguời đứng tuổi ko còn sôi
nổi như 1 thời trẻ dại mà tâm trạng của họ trờ nên chín chắn
,đằm thắm hơn.hình như ko mong đợi mà thu vẫn về.Bốn mùa
luân chuyển như đời nguời vội vã,lo toan.Lúc ngoảnh lại mới
thấy mái tóc pha sương và mình đã ko còn trẻ.Đời người đã
sang thu từ khi nào.
Thiên nhiên sang thu,con nguời cũng sang thu.Cảnh thu,tình
thu vào nhau thắm thiết.Con người lưu luyến chưa muốn chia
tay với mùa hạ,còn khi bước sang thu,họ trờ nên nghiêm
trang,chững chạc mang vẻ đẹp sâu lắng kín đáo nhưng kiêu
hãnh tự hào.
Bài thơ là bức tranh mùa thu đẹp để ta yêu mến,tự hào về cảnh
sắc quê hương đất trời.Những suy ngẫm trong thơ cho ta ý
thức sâu hơn về trách nhiệm của con người cuộc đời.
^__^[IMG]file:///C:/DOCUME%7E1/TLC/LOCALS
%7E1/Temp/msohtmlclip1/01/clip_image001.gif[/IMG]

Khoảnh khắc giao mùa có lẽ là khoảnh khắc đẹp đẽ nhất của tự


nhiên ,nó gieo vào lòng người những rung động nhẹ nhàng
khiến ta như giao hoà, đồng điệu .Khi chúng ta chưa hết ngỡ
ngàng bởi một Xuân Diệu “tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì ” thì đã
gặp một Hữu Thỉnh tinh tế ,sâu sắc đến vô cùng qua một
thoáng “Sang Thu” .
Bài thơ là những cảm nhận ,những rung động man mác, bâng
khuâng của tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kỳ diệu của
thiên nhiên trong buổi giao mùa .Không phải là sắc “mơ phai”
hay hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác” mà là hương ổi thân
quen nơi vườn mẹ đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất
của nhà thơ :
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se,
Câu thơ có hương vị ấm nồng của chớm thu ở một miền quê
nhỏ .Tín hiệu đầu tiên để tác giả nhận ra mùa thu là “hương
ổi”. Mùi hương quê nhà mộc mạc “phả” trong gió thoảng bay
trong không gian .Cảm giác bất chợt đến với nhà thơ : “bỗng
nhận ra” -một sự bất ngờ mà như đã chờ đợi sẵn từ lâu lắm
.Câu thơ không chỉ tả mà còn gợi liên tưởng đến màu vàng ươm
, hương thơm lựng , vị giòn, ngọt, chua chua nơi đầu lưỡi của
trái ổi vườn quê .Và không chỉ có thế ,cả sương thu như cũng
chứa đầy tâm trạng,thong thả, chùng chình giăng mắc trên
khắp nẻo đường thôn :
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về .
Sương thu đã được nhân hoá ,hai chữ “chùng chình” diễn tả rất
thơ bước đi chầm chậm của mùa thu . Nếu ở câu thơ đầu tiên
nhà thơ “bỗng nhận ra” thu về khá bất ngờ và đột ngột thì sau
khi cảm nhận sương thu ,gió thu, thi sỹ vẫn ngỡ ngàng thốt lên
lời thầm thì như tự hỏi :Hình như thu đã về!? Tâm hồn thi sỹ
nắm bắt những biến chuyển nhẹ nhàng, mong manh của tạo
vật trong phút giao mùa cũng êm đềm, bâng khuâng như bước
đi nhỏ nhẹ của mùa thu .
Không gian nghệ thuật của bức tranh thu được mở rộng hơn
,cái bỡ ngỡ ban đầu vụt tan biến đi nhường chỗ cho những rung
cảm mãnh liệt trước không gian thu vời vợi :
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Sông nước đầy nên mới “dềnh dàng” nhẹ trôi như cố tình chậm
lại ,những đàn chim vội vã bay về phương nam …Không gian
thu thư thái , hữu tình và chứa chan thi vị , đặc biệt là hình ảnh
:
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu .
Câu thơ giúp ta hình dung về đám mây mỏng nhẹ ,trắng xốp
,kéo dài như tấm khăn voan duyên dáng của người thiếu nữ
thảnh thơi , nhẹ nhàng “ vắt nửa mình sang thu”.Câu thơ có
tính tạo hình không gian những lại có ý nghĩa diễn tả sự vận
động của thời gian : thu bắt đầu sang , hạ chưa qua hết , mùa
thu vừa chớm , rất nhẹ , rất dịu , rất êm , mơ hồ như cả đất trời
đang rùng mình thay áo mới …
Khổ thơ thứ ba diễn tả rất rõ sự biến chuyển của không gian và
cũng là một thoáng suy tư của nhà thơ trước cảnh vật, đất
trời :
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi .
Vẫn là nắng, mưa, sấm, chớp của mùa hạ vương lại đâu đây ,
song chỉ là “vẫn còn” , “đã vơi dần”, “ cũng bớt bất ngờ” bởi
mùa thu đã đến .Ý thơ còn gợi liên tưởng đến con người khi đã
lớn tuổi và từng trải thì những giông gió, thăng trầm của cuộc
đời ít làm con người ta bất ngờ, bị động .Những suy tư đó của
tác giả có lẽ đã góp phần làm cho “Sang thu” trở nên giàu ý
nghĩa .
Hình ảnh thơ đẹp , ngôn từ tinh tế , giọng thơ êm đềm và
những rung động man mác ,bâng khuâng của tác giả trong
buổi giao mùa đã tạo nên một dấu ấn không dễ phai mờ trong
lòng bao độc giả . Có lẽ vì vậy mà sau khi đọc “Sang thu” của
Hữu Thỉnh ta càng thấy yêu hơn mùa thu thiết tha, nồng hậu
của quê nhà .
^__^

Phân tích bài thơ Sang Thu

Mùa thu là một đề tài muôn thuở của các thi nhân Việt Nam. Nếu như
Nguyễn Khuyến có chùm thơ thu với ba bài : « Thu vịnh », « Thu điếu
», « Thu ẩm » ; Xuân Diệu có « Đây mùa thu tới » ; Lưu Trọng Lư có «
Tiếng thu », tất cả đều là những bài thơ rất nổi tiếng, thì Hữu Thỉnh
cũng có một chớm « Thu sang » rất nhẹ nhàng êm dịu. Trong đó có hai
khổ thơ rất hay ghi lại cảm xúc của nhà thơ trước cảnh sang thu ở một
miền quê nhỏ :

Bỗng nhận ra hương ổi


Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.

Sông được nước dềnh dàng


Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Mùa thu của Hữu Thỉnh được mở ra không phải với sắc vàng tươi của
hoa cúc, cũng không phải với vị thơm ngon của cốm làng Vòng, mà là
với hương ổi thơm giòn ngọt phả vào trong gió thu. Dường như cái
hương thơm dịu ấy chỉ thoang thoảng quanh quất đâu đây. Nó không
mang cái mùi thơm hăng hắc như hoa sữa, cũng không quá nhẹ để
người ta dễ lãng quên. Hương thơm ấy nhẹ nhàng thoảng qua theo gió,
đề người ta chợt xốn xang trong lòng. Làn gió se se lạnh của mùa thu
cũng rất khác với cái gió tê tái của mùa đông. Nó chỉ khiến ta hơi co
người lại một chút và để rồi thảnh thơi đón nhận cả một lưồng khí thu
mát rượt trong lòng. Có lẽ, sẽ chẳng ở đâu có cái gió se lạnh ấy ngoài
mùa thu của đất Bắc – cái gió se mà từ lâu vẫn được coi là hồn thu Bắc
Bộ. Một hương thơm thu một làn heo may thu đã làm nên cái mở độc
đáo cho bài thơ, thậm chí dường như còn độc đáo đến bất ngờ cho cả
nhà thơ : “Bỗng nhận ra hương ổi”. Thu đến chẳng hề báo trước! Thu
sang từ bao giờ Hữu Thỉnh cũng không biết nữa! Ông chỉ nhận ra một
sự bất ngờ mà như đã đợi từ lâu lắm. Thu sang mang theo hơi thửo của
mình và mang theo cả cái vẻ thu mơ màng mờ ảo:

“Sương chùng chình qua ngõ”

Sương thu cũng có cái nét đặc biệt riêng của nó. Nó không tan nhanh
như sương mùa hạ, cũng chẳng dầy đặc như sương mùa đông. Sương
thu là những làn khói mong manh bay vờn nhẹ trên những nãi nhà,
ngoài vườn. Sương thu không vô cảm, nó cũng mang hồn người . Sương
đang đợi ai, sương đang chờ ai mà sao lưu luyến thế? Từ láy “chùng
chình” tạo cho ta cảm giác “dùng dằng nửa ở nửa về”. Đến sương lúc
này cũng là sương thu mà Hữu Thỉnh vẫn còn ngẩn ngơ mãi:

“Hình như thu đã về”

Ông thờ ơ quá chăng hay bởi lòng ông đang bối rỗi? Thu về tự bao giờ?
Từ hương ổi hay từ làn gió heo may? Thu làm lòng người xao xuyến quá
chừng để đến nỗi không biết thu đến thực hay mơ!

Sau một thoáng bỡ ngỡ, nhà thơ như chợt bừng tỉnh- thu đã về thật rồi!
Khép lại những hoài nghi, Hữ Thỉnh chẳng còn nghĩ gì ngoài cảm xúc
đang dâng trào:

“Sông được nước dềnh dàng,


Chim bắt đầu vội vã”.

Nhịp thơ nhanh và gấp cũng như hơi thở của mùa thu đã bắt đầu đập
mạnh. Sông vào mùa này chẳng có mưa to gió lớn nên nước cứ “dềnh
dàng”. Con sông tràn trề nước mà hình như cứ không chịu chảy, cứ cố
nán lại để đợi chờ ai. Sông chờ nước mùa thu chăng? Một hình ảnh thơ
thật thi vị và lãng mạn. Nhưng đàn chim thì không thể dềnh dàng được
nữa, chúng phải vội vã bay về phương Nam tránh rét. Tất cả đều đang
chuyển mình, đang thay đổi. Thậm chí ngay cả đám mây mùa hạ cũng
thấy sốt ruột, phải “Vắt nửa mình sang thu”. Phải chăng đám mây kia
có hai nửa thì một nửa nằm bên mùa hạ, nửa kia thuộc về mùa thu.
Không biết ở đây là mùa thu lưu luyến mùa thạ hay nhà thơ đang mong
chờ mùa hạ mà vẫn lưu luyến mùa thu đây? Điêu này thì Hữu Thỉnh
thật khác với các nhà thơ khác. Cũng viết về mùa thu, Nguyễn Khuyến
viết: “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” – có nghĩa là thu của Nguyễn
Khuyến đã thực là thu, nó không còn vương vấn chút gì của mùa hè rực
lửa. Còn Hữu Thỉnh, ông viết mùa thu nhưng lại là vào lúc giao mùa.
Chắc hản phải yêu mùa thu lắm Hữu Thỉnh mới vẽ ra được một bức
tranh thu nồng đượm hơi ấm đất trời, nồng đượm hơi ấm quê nhà như
thế.

Trong làng thơ dân tộc, đã và sẽ có nhiều bài thơ thu hay. Nhưng có lẽ
sẽ chẳng ai biết mà lại quên được một chớm “Thu sang” của Hữu Thỉnh
- một mùa thu nhẹ nhàng, nữ tính, trông qua như một cô thôn nữ mộc
mạc mà sao lại đằm thắm khó quên đến thế!
(sưu tầm)

Thuyết minh về chiếc nón lá của người Việt

Chiếc nón lá là người bạn thủy chung, gần gũi của người phụ nữ Việt
Nam . Chiếc nón đã được chạm khắc trên những cổ vật như trống đồng
Ngọc Lũ, trên thạp đồng Đào Thịnh vào 2500-3000 năm về trước.

Theo sự phát triển của lịch sử qua các thời đại, nón cũng có nhiều biến
đổi về kiểu dáng và chất liệu. Lúc đầu khi chưa có dụng cụ để khâu
thắt, nón được tết đan. Còn loại nón khâu như ngày nay xuất hiện phải
nhờ đến sự ra đời của chiếc kim, tức là vào thời kỳ người ta chế luyện
được sắt (khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên).

Nguyên liệu làm nón không phức tạp. Ở nơi nào cũng vậy, muốn làm
được một chiếc nón phải dùng lá của một loại cọ nhỏ mọc hoang để
lợp, dùng một loại sợi rất dai lấy từ bẹ cây móc (ngày nay người ta
thường dùng sợi chỉ nilon) để khâu và tre làm vành. Tàu lá nón khi đem
về vẫn còn xanh nhăn nheo, được đem là bằng cách dùng một miếng
sắt đốt nóng, đặt lá lên dùng nắm giẻ vuốt cho phẳng. Lửa phải vừa độ,
nếu nóng quá thì bị giòn, vàng cháy, nguội quá lá chỉ phẳng lúc đầu,
sau lại nhăn như cũ. Người ta đốt diêm sinh hơ cho lá trắng ra, đồng
thời tránh cho lá khỏi mốc.

Tre chọn ống dài vuốt nhọn, gác lên dàn bếp hong khói chống mối mọt,
dùng làm vòng nón. Nón Chuông (làng nón nổi tiếng Việt Nam ở làng
Chuông, huyện Thanh Oai - Hà Nội) có 16 lớp vòng. Con số 16 là kết
quả của sự nghiên cứu, lựa chọn qua nhiều năm, cho đến nay đã trở
thành một nguyên tắc không thay đổi. Nhưng vẻ đẹp của chiếc nón chủ
yếu nhờ vào đôi bàn tay khéo léo của người thợ tạo nên. Những mũi
kim khâu được ước lượng mà đều như đo. Những sợi móc dùng để khâu
thường có độ dài, ngắn khác nhau. Muốn khâu cho liên tục thì gần hết
sợi nọ phải nối tiếp sợi kia. Và cái tài của người thợ làng Chuông là các
múi nối sợi móc được dấu kín, khiến khi nhìn vào chiếc nón chỉ thấy
tăm tắp những mũi khâu mịn màng.

Các cô gái Việt Nam chăm chút chiếc nón như một vật trang sức, đôi
khi là vật để trao đổi tâm tư tình cảm của riêng mình. Người ta gắn lên
đỉnh của lòng nón một mảnh gương tròn nho nhỏ để các cô gái làm
duyên kín đáo. Công phu nhất là vừa vẽ chìm dưới lớp lá nón những
hoa văn vui mắt, hay những hình ảnh bụi tre, đồng lúa, những câu thơ
trữ tình, phải soi lên nắng mới thấy được gọi là nón bài thơ.

Trong nghệ thuật, tiết mục múa nón của các cô gái với chiếc áo dài
duyên dáng thể hiện tính dịu dàng, mềm mại và kín đáo của người phụ
nữ Việt Nam .

Cùng với áo dài, áo cánh, váy lĩnh, yếm đào, thắt lưng bao... chiếc nón
được coi là một thứ phục trang truyền thống của phụ nữ Việt Nam .
Nón có nhiều loại, nón chóp nhọn đầu, nón thúng rộng vành, nón ba
tầm như nón thúng nhưng mảnh mai hơn... tất cả đều để che chắn cho
những con người sống trên một dải đất nắng lắm mưa nhiều. Ngoài
chức năng che nắng, che mưa, chiếc nón còn hướng tới mục đích làm
đẹp cho con người và phù hợp với cảm quan thẩm mỹ của người Việt:
đẹp một cách tế nhị, kín đáo.

Dưới vành nón, đôi mắt, nụ cười, má lúm đồng tiền, những sợi tóc mai,
cái gáy trắng ngần của cô gái dường như được tôn thêm nét duyên
dáng, kín đáo mà không kém phần quyến rũ... Người ta đội nón làm
đồng, đi chợ, chơi hội.

Con người Việt Nam có tình cảm sâu sắc và gắn bó với chiếc nón lá
giản dị dù gặp nó ở bất cứ đâu trên trái đất này.

(Sưu tầm)

CHIẾC LƯỢC NGÀ


( Trích )
I.Tác giả, tác phẩm
1.Tác giả

Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932 quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An
Giang. Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, ông tham gia bộ đội,
hoạt động ở chiến trrường Nam Bộ. Từ sau năm 1954 ông tập kết ra
Bắc, công tác tại phòng văn nghệ Đài tiếng nói Việt Nam và bắt đầu
viết văn. Từ năm 1958 ông công tác tại Hội nhà văn Việt Nam, làm biên
tập cho tuần báo Văn nghệ của Hội nhà văn. Trong thời kì kháng chiến
chống Mĩ, ông tham gia kháng chiến và tiếp tục sáng tác.

Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng có nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu
thuyết, kịch bản phim và hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người
Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hoà bình. Lối viết
của Nguyễn Quang Sáng giản dị, mộc mạc, nhưng sâu sắc đậm đà chất
Nam Bộ.

2.Tác phẩm
Truyện ngắn Chiếc lược ngà được viết năm 1966, khi tác giả đang hoạt
động ở chiến trường Nam Bộ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ và
được đưa vào tập truyện cùng tên.

II.Truyện ngắn Chiếc lược ngà


1.Tóm tắt truyện
Anh Sáu xa nhà đi kháng chiến. Mãi khi con gái lên tám tuổi anh mới có
dịp về thăm nhà. Bé Thu không nhận ra cha vì cái sẹo trên mặt làm ba
em không giống với người trong bức ảnh chụp với má mà em được biết.
Em đối xử với ba như người xa lạ. Đến lúc thu nhận ra cha, tình cha con
thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc anh Sáu phải ra đi. Ở khu
căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quí, nhớ thương đứa con vào
việc làm một chiếc lược bằng ngà voi để tặng cô con gái bé bỏng.
Trong một trận càn, anh hi sinh. Trước lúc nhắm mắt, anh còn kịp trao
cây lược cho người bạn với lời nhắn gửi không nói lên lời.

2.Tình huống truyện


Truyện đã thể hiện tình cha con sâu sắc của hai cha con anh Sáu trong
hai tình huống:

- Cuộc gặp gỡ của hai cha con anh Sáu sau tám năm xa cách, nhưng
thật trớ trêu là bé Thu không nhận ra cha, đến lúc em nhận ra và biểu
lộ tình cảm thắm thiết thì anh Sáu lại phải ra đi. Đây là tình huống cơ
bản của truyện

- Ở khu căn cứ, anh Sáu dồn hết tình cảm yêu thương và mong nhớ
đứa con vào việc làm một chiếc lược bằng ngà để tặng con gái bé
bỏng. Nhưng ông đã hi sinh khi chưa thể gửi món quà ấy cho con gái.

- Nếu tình huống thứ nhất bộc lộ tình cảm mãnh liệt của bé Thu với
cha, thì tình huống thứ hai lại biểu lộ tình cảm sâu sắc của người cha
đối với con.
3.Phân tích diễn biến tâm lí và tình cảm của bé Thu trong lần đầu gặp
cha cuối cùng, khi ông Sáu được về phép

a.Thái độ và hành động của Thu trước khi nhận ra ông Sáu là cha

- Gặp lại con sau nhiều năm xa cách với bao nỗi nhớ thương nên ông
Sáu không kìm được nỗi vui mừng trong phút đầu nhìn thấy đứa con.
Nhưng thật trớ trêu, đáp lại sự vồ vập của người cha, bé Thu lại tỏ ra
ngờ vực lảng tránh, và ông Sáu càng muốn gần con thì đứacon lại càng
tỏ ra lạnh nhạt, xa cách. Tâm lí và thái độ ấy của bé Thu được biểu
hiện qua hàng loạt chi tiết mà người kể chuyện quan sát và thuật lại
rất sinh động: hốt hoảng, mặt tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên khi
mới gặp ông Sáu; chỉ gọi trống không với ông Sáu mà không chịu gọi
cha; nhất định không chịu nhờ ông chắt nước nồi cơm to đang sôi; hất
cái trứng cá mà ông đã gắp cho ra khỏi bát; cuối cùng khi bị ông Sáu
tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà bà ngoại, khi xuống xuồng còn cố ý
khua dây cột xuồng rổn rảng thật to.

- Sự ương ngạnh của bé Thu hoàn toàn không đáng trách. Trong hoàn
cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá bé nhỏ để có thể
hiểu được những tình thế khắc nghiệt, éo le của đời sống và người lớn
cũng không ai kịp chuẩn bị cho nó những khả năng bất thường, nên nó
không tin ông Sáu là ba nó chỉ vì trên mặt ông có thêm vết sẹo, khác
với hình ba mà nó được biết. Phản ứng tâm lí của em là hoàn toàn tự
nhiên, nó còn chứng tỏ em có cá tính mạnh mẽ, tình cảm của em sâu
sắc, chân thật, em chỉ yêu ba khi tin chắc đó đúng là ba. Trong cái
cứng đầu của em có ẩn chứa cả sự kiêu hãnh trẻ thơ về một tình yêu
dành cho người cha khác-người trong tấm hình chụp chung với má em.

b.Thái độ và hành động của Thu khi nhận ra người cha

- Trong buổi sáng cuối cùng, trước phút ông Sáu phải lên đường, thái
độ và hành động của bé Thu đã đột ngột thay đổi hoàn toàn. Lần đầu
tiên Thu cất tiếng gọi ba và tiếng kêu của nó như xé, rồi “ nó vừa kêu
vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai
tay ôm chặt lấy cổ ba nó”, “ Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn
cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa”, “ hai tay nó
siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, và đôi
vai nhỏ bé của nó run run”

- Trong đêm bỏ về nhà bà ngoại, Thu đã được bà giải thích về vết thẹo
làm thay đổi khuôn mặt ba nó. Sự nghi ngờ bấy lâu được giải tỏa và ở
Thu nảy sinh một trạng thái như là sự ân hận nuối tiếc: “ Nghe bà kể
nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Vì thế
trong giờ phút chia tay với cha, tình yêu và nỗi mong nhớ với người cha
xa cách đã bị dồn nén bấy lâu, nay nay bùng ra thật mạnh mẽ và hối
hả, cuống quýt có xen lẫn cả sự hối hận.

Chứng kiến những biểu hiện tình cảm ấy trong cảnh ngộ cha con ông
Sáu phải chia tay, có người không cầm được nước mắt và người kể
chuyện thì cảm thấy như có bàn tay ai nắm lấy trái tim mình.

c.Một số nét tính cách của Thu biểu hiện qua tâm lí và hành động

- Đó là tình cảm thật sâu sắc, mạnh mẽ, nhưng cũng thật dứt khoát
rạch ròi. Ở Thu còn có nét cá tính là cứng cỏi tưởng như ương ngạnh,
nhưng Thu vẫn là một đứa trẻ với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ của
con trẻ.

- Qua những diễn biến tâm lí của bé Thu được miêu tả trong truyện, ta
thấy tác giả tỏ ra rất am hiểu tâm lí trẻ thơ và diễn tả rất sinh động với
tấm lòng yêu mến và trân trọng những tình cảm trẻ thơ.

4.Phân tích tình cảm cha con sâu nặng ở anh Sáu

- Tình cảm của ông Sáu với con đã được thể hiện phần nào trong
chuyến về phép thăm nhà, nhưng được biểu hiện tập trung và sâu sắc
ở phần sau của truyện, khi ông Sáu ở trong rừng tại khu căn cứ.

- Nỗi day dứt ám ảnh ông suốt nhiều ngày sau khi ông chia tay với gia
đình là việc ông đã đánh con khi nóng giận. Rồi lời dặn của con: “ Ba
về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba” đã thúc đẩy ông nghĩ đến
việc làm một chiếc lược ngà dành cho con.

- Khi kiếm được một khúc ngà, ông đã vô cùng vui mừng, sung sướng,
rồi ông dành hết tâm trí, công sức vào việc làm một cây lược: “ Những
lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như
người thợ bạc”, “ Trên sống lưng lược có khắc một hàng chữ nhỏ mà
anh đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét: “ Yêu nhớ tặng Thu con của
ba”. Chiếc lược ngà đã thành một vật quí giá, thiêng liêng với ông Sáu.
Nó làm dịu đi nỗi ân hận và chứa đựng bao nhiêu tình cảm yêu mến,
nhớ thương mog đợi của người cha đối với đứa con xa cách. Nhưng rồi
một tình cảnh đau thương lại đến với ông Sáu: Ông đã hi sinh khi chưa
kịp trao vào tay đứa con gái chiếc lược ngà.

- Câu chuyện về chiếc lược ngà không chỉ nói lên tình cha con thắm
thiết, sâu nặng của cha con ông Sáu, mà còn gợi cho người đọc nghĩ
đến và thấm thía những đau thương, mất mát, éo le mà chiến tranh đã
gây ra cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình.

5.Nghệ thuật trần thuật của truyện


- Tác giả đã xây dựng được một cốt truyện khá chặt chẽ, có những yếu
tố bất ngờ nhưng hợp lí: bé Thu không nhận cha khi ông Sáu về thăm
nhà, rồi lại biểu lộ những tình cảm thật nồng nhiệt, đầy xúc động với
người cha trước lúc chia tay. Sự bất ngờ càng gây được hứng thú cho
người đọc khi ở phần sau của truyện tác giả còn tạo thêm một bất ngờ
nữa, đó là cuộc gặp gỡ tình cờ của nhân vật người kể chuyện với bé
Thu, bấy giờ đã thành một cô giao liên dũng cảm, trong một lần ông
cùng đoàn cán bộ theo đường dây giao liên, vượt qua một quãng nguy
hiểm ở Đồng Tháp Mười.

- Lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp. Người kể chuyện trong vai
một người bạn thân thiết của ông Sáu, không chỉ là người chứng kiến
khách quan và kể lại mà còn bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với các nhân
vật. Đồng thời qua những ý nghĩ cảm xúc của nhân vật kể chuyện, các
chi tiết và sự việc và nhân vật khác trong truyện bộc lộ rõ hơn, ý nghĩa
tư tưởng của truyện thêm sức thuyết phục.

*Những điểm cần lưu ý


1.Truyện Chiếc lược ngà được Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966, tại
chiến trường Nam Bộ trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ đang
diễn ra ác liệt. Điều đáng chú ý là truyện ngắn này viết trong hoàn
cảnh chiến tranh cá liệt nhưng lại tập trung nói về tình người-cụ thể ở
đây là tình cha con trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh và tình đồng
chí của những người cán bộ cách mạng. Tình cha con được miêu tả
cảm động ở cả hai phía: người cha cán bộ cách mạng và đứa con gái
nhỏ. Đó không chỉ là tình cảm muôn thủa, có tính nhân bản bền vững,
mà còn được được thể hiện trong hoàn cảnh ngặt nghèo và éo le của
chiến tranh và trong cuộc sống nhiều gian khổ, hi sinh của người cán
bộ cách mạng. Vì thế, tình cảm ấy càng đáng trân trọng và đồng thời
nó cũng cho thấy những nỗi đau mà chiến tranh gây ra cho cuộc sống
bình thường của mọi người.

2.Truyện Chiếc lược ngà khá tiêu biểu cho cho những đặc điểm trong
nghệ thuật truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng. Là một nhà văn Nam
Bộ, rất am hiểu và gắn bó với mảnh đất ấy, Nguyễn Quang Sáng hầu
như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong chiến tranh và
sau hòa bình. Truyện của ông thường có cốt truyện hấp dẫn, xoay
quanh những tình huống khá bất ngờ nhưng tự nhiên, hợp lí. Nghệ
thuật kể chuyện, dẫn truyện của tác giả thường thoải mái, tự nhiên với
giọng thân mật dân dã. Ngôn ngữ trong truyện của ông gần với khẩu
ngữ và đậm màu sắc Nam Bộ.
Cảm nghĩ về nhân vật bé Thu trong truyện ngắn “Chiếc lược
ngà’’

Cảm nghĩ về nhân vật bé Thu trong truyện ngắn “Chiếc lược
ngà’’
1. Mở bài:

- Giới thiệu được tác giả, tác phẩm và nhân vật bé Thu với tài năng
miêu tả tâm lý nhân vật.

- Cảm nhận chung về nhân vật bé Thu.

2. Thân bài:

Phân tích diễn biến tâm lý của nhân vật bé Thu - nhân vật chính của
đoạn trích “Chiếc lược ngà’’ một cô bé hồn nhiên ngây thơ, có cá tính
bướng bỉnh nhưng yêu thương ba sâu sắc.

- Khái quát được cảnh ngộ của gia đình bé Thu, đất nước có chiến
tranh, cha đi công tác khi Thu chưa đầy một tuổi, lớn lên em chưa một
lần gặp ba được ba chăm sóc yêu thương, tình yêu Thu dành cho ba chỉ
gửi trong tấm ảnh ba chụp chung cùng má.

- Diễn biến tâm lý của bé Thu trước khi nhận anh Sáu là cha:

+ Yêu thương ba nhưng khi gặp anh Sáu, trước những hành động vội
vã thái độ xúc động, nôn nóng của cha…Thu ngạc nhiên lạ lùng, sợ hãi
và bỏ chạy….những hành động chứa đựng sự lảng tránh đó lại hoàn
toàn phù hợp với tâm lí trẻ thơ bởi trong suy nghĩ của Thu anh Sáu là
người đàn ông lạ lại có vết thẹo trên mặt giần giật dễ sợ.

+ Trong hai ngày sau đó Thu hoàn toàn lạnh lùng trước những cử chỉ
đầy yêu thương của cha, nó cự tuyệt tiếng ba một cách quyết liệt trong
những cảnh huống mời ba vào ăn cơm, xử lí nồi cơm sôi, và thái độ hất
tung cái trứng cá trong bữa cơm…Từ cự tuyệt nó đã phản ứng mạnh
mẽ….nó căm ghét cao độ người đàn ông măt thẹo kia, nó tức giận, và
khi bị đánh nó đã bỏ đi một cách bất cần…. đó là phản ứng tâm lí hoàn
toàn tự nhiên của một đứa trẻ có cá tính mạnh mẽ… Hành động tưởng
như vô lễ đáng trách của Thu lại hoàn toàn không đáng trách mà còn
đáng thương, bởi em còn quá nhỏ chưa hiểu được những tình thế khắc
nghiệt éo le của đời sống. Đằng sau những hành động ấy ẩn chứa cả
tình yêu thương ba,sự kiêu hãnh của trẻ thơ về một tình yêu nguyên
vẹn trong sáng mà Thu dành cho ba.

- Diễn biến tâm lý của Thu khi nhận ba:

+ Sự thay đổi thái độ đến khó hiểu của Thu, không ương bướng mà
buồn rầu nghĩ ngợi sâu xa, ánh mắt cử chỉ hành động của bé Thu như
thể hiện sự ân hận, sự nuối tiếc, muốn nhận ba nhưng e ngại vì đã làm
ba giận.
+ Tình yêu thương ba được bộc lộ hối hả ào ạt mãnh liệt khi anh Sáu
nói “Thôi ba đi nghe con”. Tình yêu ấy kết đọng trong âm vang tiếng
Ba trong những hành động vội vã: Chạy nhanh như con sóc, nhảy thót
lên, hôn ba nó cùng khắp, trong lời ước nguyện mua cây lược, tiếng
khóc nức nở…Đó là cuộc hội ngộ chia tay đầy xúc động, thiêng liêng đã
tác động sâu sắc đến bác Ba, mọi người …

+ Sự lý giải nguyên nhân việc hiểu lầm của bé Thu đựợc tác giả thể
hiện thật khéo léo đó là do vết thẹo trên mặt người ba khi hiểu ra sự
thực Thu “nằm im lăn lộn thở dài như người lớn”. Vết thẹo không chỉ
gây ra nỗi đau về thể xác mà còn hằn nên nỗi đau về tinh thần gây ra
sự xa cách hiểu lầm giữa cha con bé Thu. Nhưng chiến tranh dù có tàn
khốc bao nhiêu thì tình cảm cha con anh Sáu càng trở lên thiêng liêng
sâu lặng.

- Khẳng định lại vấn đề: Ngòi bút miêu tả tâm lý khắc hoạ tính cách
nhân vật tinh tế thể hiện được ở bé Thu một cô bé hồn nhiên ngây thơ,
mạnh mẽ cứng cỏi yêu ghét rạch ròi. Trong sự đối lập của hành động
thái độ trước và sau khi nhân ba lại là sự nhất quán về tính cách về
tình yêu thương ba sâu sắc.

- Những năm tháng sống gắn bó với mảnh đất Nam Bộ, trái tim nhạy
cảm, nhân hậu, am hiểu tâm lý của trẻ thơ đã giúp tác giả xây dựng
thành công nhân vật bé Thu.

- Suy nghĩ về đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh, trân trọng
tình cảm gia đình trong cuộc sống hôm nay.

3. Kết bài:

Khẳng định thành công, đồng thời bộc lộ ấn tượng sâu đậm nhất về
nhân vật cũng như toàn bộ tác phẩm.

(Sưu tầm)

Nhân vật anh thanh niên trong "Lặng lẽ Sa Pa"

Trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”, tác giả Nguyễn Thành Long đã gửi
gắm chủ đề của câu chuyện vào một lời nhận xét ngắn gọn “trong cái
lặng im... đất nước”.Hãy phân tích để làm rõ vẻ đẹp của con người lao
động và ý nghĩa cao quý của những công việc thầm lặng.

Dàn ý chi tiết


I. Mở bài:

- Trong văn học Việt Nam có những cây bút văn xuôi chỉ chuyên về
truyện ngắn và ký – Nguyễn Thành Long là một trong số đó. Ông được
khẳng định như một cây bút truyện ngắn và ký đáng chú ý trong những
năm 60 – 70 với cả gần chục sách đã in. “Lặng lẽ Sa Pa” là kết quả của
chuyến “thâm nhập thực tế” ở Lào Cai của tác giả trong mùa hè năm
ấy.

- Trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”, tác giả Nguyễn Thành Long đã gửi
gắm chủ đề của câu chuyện “trong cái lặng im... đất nước”. Điều ấy sẽ
được thấy rõ qua nhân vật: anh thanh niên; ông...

II. Thân bài:

- Đọc truyện, người đọc thấy vẻ đẹp của Sa Pa hiện lên thật độc đáo,
đầy chất thơ, nhưng truyện còn giới thiệu với chúng ta về vẻ đẹp của
con người Sa Pa. Đó là những con người miệt mài làm việc, nghiên cứu
khoa học, trong lặng lẽ mà rất khẩn trương vì lợi ích của đất nước, vì
cuộc sống của con người.

1. Đó là anh thanh niên:

- Nhân vật chính trong truyện làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa
cầu. Sống một mình trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600m, quanh năm suốt
tháng giữa cỏ cây và mây núi Sa Pa. Công việc của anh là: đo gió, đo
mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, dựa vào công việc báo
trước thời tiết hàng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu.

- Vượt lên hoàn cảnh sống, những vất vả của công việc, anh có những
suy nghĩ rất đẹp:

+ Đối với công việc, anh yêu nó tới mức trong khi mọi người còn ái ngại
cho cuộc sống ở độ cao 2600m của anh thì anh lại ước ao được làm
việc ở độ cao trên 3000m. Vì anh cho như vậy mới gọi là lý tưởng.

+ Anh có những suy nghĩ thật đúng và sâu sắc về công việc đối với
cuộc sống con người: “khi ta làm việc, ta với công việc là một, sao lại
gọi là một mình được” và anh hiểu rằng công việc của anh còn gắn với
công việc của bao anh em đồng chí dưới kia. “Công việc của cháu gian
khổ thật đấy chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”.

+ Quan niệm của anh về hạnh phúc thật là đơn giản nhưng cũng thật
đẹp. Khi biết một lần do phát hiện kịp thời một đám mây khô mà anh
đã góp phần vào chiến thắng của không quân ta bắn rơi được máy bay
Mỹ trên cầu Hàm Rồng, anh thấy mình “thật hạnh phúc”.
+ Cuộc sống của anh không cô đơn buồn tủi như người khác nghĩ. Bởi
anh còn biết tạo niềm vui trong công việc, đó là đọc sách. Vì sách
chính là người bạn để anh “trò chuyện”. Nhờ có sách mà anh chống
trọi được với sự vắng lặng quanh năm. Nhờ có sách mà anh tiếp tục
học hành, mở mang kiến thức.

- Từ những suy nghĩ đẹp về công việc, hạnh phúc và cuộc sống, ở anh
còn có những hành động thật đẹp đẽ biết bao:

+ Mặc dù chỉ có một mình, không người giám sát, anh đã vượt qua
những gian khổ của hoàn cảnh, làm việc một cách nghiêm túc, tự giác
với tinh thần trách nhiệm cao. Nửa đêm, đúng giờ “ốp”, dù mưa tuyết
giá lạnh thế nào anh cũng trở dậy ra ngoài trời làm việc. Ngày nào
cũng vậy, anh làm việc một cách đều đặn, chính xác đủ 4 lần trong
một ngày vào lúc 4 giờ, 11 giờ, 7 giờ tối và 1 giờ sáng.

+ Nhưng cái gian khổ nhất là vượt qua được sự cô đơn, vắng vẻ quanh
năm suốt tháng một mình trên đỉnh núi cao, không một bóng người.
Mới đầu, anh “thèm người” tới mức phải lấy cây chắn ngang đường ô tô
để được nghe tiếng người ! Về sau anh nghĩ: “Nếu đó chỉ là nỗi nhớ
phồn hoa đô thị thì thật xoàng” và anh đã vượt qua để sống, làm việc
một mình với cỏ cây thiên nhiên Sa Pa, để trở thành: “con người cô độc
nhất thế gian” mà bất cứ ai đã một lần gặp anh đều mang theo ấn
tượng đẹp đẽ.

- Anh còn có một nếp sống đẹp: Anh tự sắp xếp cuộc sống một mình ở
trạm một cách ngăn nắp: có một vườn rau xanh tốt, một đàn gà đẻ
trứng, một vườn hoa rực rỡ.

- Ở người thanh niên ấy còn có một phong cách sống rất đẹp:

+ Đó là sự cởi mở, chân thành với khách, rất qúy trọng tình cảm của
mọi người, khao khát được gặp gỡ, được trò chuyện. Dẫu phải sống
một mình nhưng anh vẫn luôn quan tâm tới người khác: anh gửi biếu
gói tam thất cho vợ bác lái xe vừa bị ốm, tặng hoa cho cô gái, mời bác
lái xe và ông hoạ sĩ uống trà, tặng cho người đi xa một giỏ trứng gà
tươi.

+ Anh còn là người khiêm tốn, thành thực cảm thấy công việc và
những đóng góp của mình chỉ là nhỏ bé. Khi ông hoạ sĩ muốn vẽ chân
dung anh, anh nhiệt tình giới thiệu với ông những người khác mà anh
cho rằng đáng cảm phục hơn anh.

2) Ta còn bắt gặp ở đất Sa Pa những con người làm việc âm thầm, lặng
lẽ cho đất nước qua lời kể của anh thanh niên:
A) Đó là ông kỹ sư vườn rau: Ngày này qua ngày khác ngồi trong vườn,
chăm chú rình xem cách lấy mật của ong để rồi tự tay thụ phấn cho
hàng vạn cây su hào để hạt giống làm ra tốt hơn, để xu hào trên toàn
miền Bắc ta ăn được to hơn, ngọt hơn trước.

B) Đó là anh cán bộ nghiên cứu sét: Đã “11 năm không một ngày xa cơ
quan” luôn “trong tư thế sẵn sàng, suốt ngày chờ sét” để lập bản đồ
tìm ra tài nguyên trong lòng đất. Những con người ấy làm cho anh
thanh niên thấy “cuộc đời đẹp quá” đâu còn buồn tẻ “cô độc nhất thế
gian”. Đúng như tác giả đã viết: “Trong cái lặng im... cho đất nước”.

3) Nhân vật anh thanh niên, ông kỹ sư vườn rau, anh cán bộ nghiên
cứu sét giúp ta hiểu thêm ý nghĩa của những công việc thầm lặng:

- Sống cống hiến cho dân tộc, cho nhân dân, sống có ý nghĩa sẽ mang
đến cho con người niềm vui và hạnh phúc.

- Cuộc sống lao động giản dị nhưng cao đẹp làm nên vẻ đẹp đích thực
của mỗi con người, có sức thuyết phục lan toả với những người xung
quanh.

III. Kết bài:

Qua phần phân tích trên ta thấy “Lặng lẽ Sa Pa” đang ngân vang trong
lòng ta những rung động nhẹ nhàng mà thú vị về những con người âm
thầm lặng lẽ nhưng thật đáng yêu. Họ đã dệt lên bài ca về tình yêu tổ
quốc, tình yêu đất nước.
Sưu tầm

Phân tích những phẩm chất cao đẹp, đáng quý ở anh thanh
niên.

Hướng dẫn: Phân tích những phẩm chất cao đẹp, đáng quý ở
anh thanh niên.

Anh thanh niên có những suy nghĩ và quan niệm đúng đắn về công
việc và cuộc sống.

+ Công việc là niềm vui, niềm đam mê cháy bỏng.

+ Cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi mang lại niềm vui, hạnh phúc cho mọi
người.

Anh thanh niên có những hành động cao đẹp.


+ Vượt qua mọi khó khăn thử thách để làm quen với cuộc sống chỉ có
một mình trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2.600 m.

+ Dồn tất cả thời gian công sức, tự nguyện tự giác hoàn thành xuất sắc
công việc vốn hết sức vất vả và đơn điệu.

Anh thanh niên có phong cách sống rất đáng quý, đáng trân trọng.
+ Tổ chức cuộc sống ngăn nắp, khoa học, phong phú cả về vật chất và
tinh thần.

+ Khiêm tốn, cởi mở, chân thành với mọi người.

Đánh giá nhân vật, phát biểu cảm nghĩ.

Nhân vật anh thanh niên tiêu biểu cho những con người lao động mới,
sống có lý tưởng, vô tư, lặng thầm, cống hiến hết mình cho đất nước.
Nhân vật anh thanh niên giúp ta hiểu thêm về thế hệ cha anh đi trước
trong một giai đoạn lịch sử của dân tộc.

Trân trọng, khâm phục những nhân vật đáng quý, đáng mến trong
“Lặng lẽ Sa Pa”, ta nghĩ tới trách nhiệm, hành động của thanh niên
chúng ta trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước thời kỳ đổi mới.

(Nguồn: Internet)

Phân tích truyện ngắn Làng (Kim Lân)

Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài sinh năm 1921, quê ở Hà Bắc. Là
nhà văn chuyên viết truyện ngắn, ông đã có sáng tác đăng báo từ
trước cách
mạng tháng 8. Là nhà văn am hiểu sâu sắc, gắn bó với nông dân và
nông thôn, Kim Lân hầu như chỉ viết về sinh hoạt nông thôn và cảnh
ngộ của người nông dân. Truyện ngắn “Làng” là một trong những
truyện ngắn hay nhất của Kim Lân được viết trong thời kì đầu của cuộc
khánh chiến chống Pháp (1948). Đây là một tác phẩm độc đáo viết về
lòng yêu nước của ông Hai Tu, lòng yêu nước này xuất phát từ tình yêu
quê hương, yêu làng sâu sắc của ông. Tình cảm và ý nghĩa này đã trở
thành phổ biến ở mỗi người nông dân VN ta trong những ngày đầu
chống Pháp.

Ông Hai yêu cái làng chợ Dầu của ông thật đậm đà, tha thiết , yêu đến
nỗi đi đâu ông cũng khoe về cái làng của ông. Kể về làng chợ Dầu, ông
nói một cách say sưa mà không cần biết người nghe có chú ý hay
không. Ông khoe làng ông có nhà ngói san sát, sầm uất, đường trong
làng lát toàn bằng đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng đến cuối xóm bùn
không dính đến gót chân. Tháng 5 ngày 10 phơi rơm và thóc tốt thượng
hạng, không có lấy một hạt thóc đất. Ông còn tự hào về cái sinh phần
của tổng đốc làng ông. Ông tự hào, vinh dự vì làng mình có cái nét độc
đáo, có bề dày lịch sử. Nhưng khi cách mạng thành công, nó đã giúp
ông hiểu dc sự sai lầm của mình. Và từ đó, mỗi khi khoe về làng là ông
khoe về những ngày khởi nghĩa dồn dập, những buổi tập quân sự có cụ
râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập. Ông còn khoe cả những hố ,
những ụ, những hào,... lắm công trình không để đâu hết.

Chính cái tình huống ngặt nghèo khi giặc tràn vào làng, ông buộc phải
xa làng. Xa làng ông mang theo tất cả nỗi niền thương nhớ. Vì vậy, nên
lúc tản cư, ông khổ tâm day dứt khôn nguôi. Quả thật, cuộc đời và số
phận của ông Hai thật sự gắn bó với buồn vui của làng. Tự hào và yêu
nơi “ chôn rau cắt rốn” của mình trở thành một truyền thống và tâm lý
chung của mọi người nông dân thời bấy giờ. Có thể tình yêu nước của
họ bắt nguồn từ cái đơn giản, nhỏ : cây đa, giếng nướ, sân đình… và
nâng cao lên đó chính là : tình yêu đất nước. Tới đây, là chợt nhớ đến
câu nói bất hủ của nhà văn I-li-a Ê-ren-bua : “lòng yêu nhà, yêu làng
xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu TQ “. Những ngày ở làng Thắng,
ông Hai suốt ngày ra trụ sở để nghe ngóng tin tức về làng chợ Dầu và
ông nghe tin cả làng ông Việt gian theo tây. Cổ ông lão “ nghẹn ắng
lại, da mặt tê rân rân” ông lão lặng đi, tưởng như không thể thở được.
Ông cảm thấy đâu đớn và nhục nhã vì cái làng chợ Dầu yêu quý của
mình theo giặc. Ông nguyền rủa bọn theo Tây : “chúng bay ăn miếng
cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để
nhục nhã thế này”. Cũng chình từ lúc ấy, ông không dám đi đâu hết,
suốt ngày ru rú trong nhà và nghe ngóng tin tức. Đến khi mụ chủ nhà
đến báo không cho gia đình ông ở nữa, ông thấy tuyệt đường sinh sống
và ông nảy ra ý định: “hay là quay về làng ?” nhưng rồi ý nghĩ đó lập
tức bị ông lão phản đối ngay vì : “ làng thì yêu thật, nhưng làng theo
Tây thì phải thù.” Có thể nói với ông Hai, làng và nước bay giờ đã trở
thành đối địch. Hai tình cảm này đã dẫn đến cuộc xung đột nội tâm
trong lòng ông. Nhưng trong đó, tình yêu đất nước được ông Hai đặt lên
trên hết.

Phải thực sự am hiểu sâu sắc về con người, nhất là tâm lí của người
dân thì Kim Lân mới diễn tả đúng tâm trang nhân vật như vậy. trong
những ngày này, nỗi niềm và tâm sự của ông được thể hiện trong
những lời trò chuyện của ông với đứa con út. Trò chuyện với con như là
để thanh minh cho làng mình. Ông hỏi con: “con ủng hộ ai?” Thằng bá
giơ tay mạnh bạo và rành rọt: “ Ùng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm”.
Cái lòng của bố con ông là thế đấy “chết thì chết có bao giờ dám đơn
sai”.

Thế rồi, một tin khác lại đính chính rằng làng ông không theo giặc.
Những nỗi lo âu, xấu hổ tan biến. Thay vào đó là nỗi vui mừng, sung
sướng. Ông đi từ đầu làng đến cuối xóm khoe cái tin làng mình không
theo giặc, khoe cả cái việc nhà ông bị đốt cháy một cách sung sướng,
hả hê: “ bác Thứ đâu rồi ! Bác Thứ làm gì đấy ? Tây nó đốt nhà tôi rồi
bác ạ. Đốt nhẵn ! ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính,
ông ấy cho biết… cái tin, cái tin làng chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy
mà. Láo ! Láo hết ! toàn là sai sự mục đích cả” Qua lời khoe củ ông Hai,
điều làm ta cảm động đó là ông không hề tiếc hay buồn khi ngôi nhà
của ông bị đốt . Niềm vui vì làng không theo giặc đã choáng hết tâm trí
ông. Mọi đau khổ, buồn tủi đã được rũ sạch.

Quả thật, Kim Lân rất thành công trong việc khắc họa hình ảnh của ông
Hai, một trong những người dân bấy giờ, đơn giản, chất phác, tiêu biểu
cho tầng lớp nông dân VN sau cách mạng tháng 8. Họ đã đặt tình yêu
đất nước lên trên tình yêu làng. Kim Lân thật thành công trong nghệ
thuật xây xựng truyện, nhất là nghệ thật sử dụng ngôn ngữ nhân vật
mà ông Hai là điển hình. Lời nói của ông hai đúng là lời nói của những
người nông dân thời bấy giờ, kể cả những từ dung sai: “bác Thứ đâu
rồi… Láo ! Láo hết ! toàn là sai sự mục đích cả”. Bên cạnh đó Kim Lân
còn thành công trong việc miêu tả tâm lý nhân vật. Diễn biến tâm lý
của ông Hai từ đầu đến cuối truyện thật cảm đông. Yêu làng đến nỗi đi
đâu cũng khoe về làng. Khi biết làng bị tình nghi theo giặc thì ông đau
khổ, tủi nhục, và khi biết làng mình không theo giặc, ông sung sướng,
thậm chí còn khoe cả tin nhà mình bị đố cháy một cách vui sướng, hả
hê. Xây dựng được những chi tiết ấy, miêu tả sự phát triển tâm lý nhân
vật như vậy, Kim Lân đã chứng tỏ được tài nghệ của mình.

Truyện “Làng” là một tác phẩm khá thành công khi viết về lòng yêu
nước, yêu làng của người nông dân VN thời kháng chiến chống Pháp.
Kim Lân đã thể hiện được tài năng của mình qua tác phẩm này. Đọc
tác phẩm giúp ta hình dung được một thời kỳ chống Pháp sôi nổi của
nhân dân, mọi người một lòng theo Bác, theo Đảng khánh chiến đến
cùng, có lẽ vì vẫy mà cuộc chiến của ta đã dành được thắng lợi vẻ
vang.

Dàn ý:

A.Mở bài

Kim Lân thuộc lớp các nhà văn đã thành danh từ trước Cách mạng
Tháng 8 – 1945 với những truyện ngắn nổi tiếng về vẻ đẹp văn hoá xứ
Kinh Bắc. Ông gắn bó với thôn quê, từ lâu đã am hiểu người nông dân.
Đi kháng chiến, ông tha thiết muốn thể hiện tinh thần kháng chiến của
người nông dân
- Truyện ngắn Làng được viết và in năm 1948, trên số đầu tiên của tạp
chí Văn nghệ ở chiến khu Việt Bắc. Truyện nhanh chóng được khẳng
định vì nó thể hiện thành công một tình cảm lớn lao của dân tộc, tình
yêu nước, thông qua một con người cụ thể, người nông dân với bản
chất truyền thống cùng những chuyển biến mới trong tình cảm của họ
vào thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

B- Thân bài

1. Truyện ngắn Làng biểu hiện một tình cảm cao đẹp của toàn dân tộc,
tình cảm quê hương đất nước. Với người nông dân thời đại cách mạng
và kháng chiến thì tình yêu làng xóm quê hương đã hoà nhập trong
tình yêu nước, tinh thần kháng chiến. Tình cảm đó vừa có tính truyền
thống vừa có chuyển biến mới.

2. Thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lí chung ấy
trong sự thể hiện sinh động và độc đáo ở một con người, nhân vật ông
Hai. ở ông Hai tình cảm chung đó mang rõ màu sắc riêng, in rõ cá tính
chỉ riêng ông mới có.

a. Tình yêu làng, một bản chất có tính truyền thông trong ông Hai.

- Ông hay khoe làng, đó là niềm tự hào sâu sắc về làng quê.

- Cái làng đó với người nồn dân có một ý nghĩa cực kì quan trọng trong
đời sống vật chất và tinh thần.

b. Sau cách mạng, đi theo kháng chiến, ông đã có những chuyển biến
mới trong tình cảm.

- Được cách mạng giải phóng, ông tự hào về phong trào cách mạng
của quê hương, vê việc xây dựng làng kháng chiến của quê ông. Phải
xa làng, ông nhớ quá cái khong khí “đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân
đá…”; rồi ông lo “cái chòi gác,… những đường hầm bí mật,…” đã xong
chưa?

- Tâm lí ham thích theo dõi tin tức kháng chiến, thích bìh luận, náo nức
trước tin thắng lợi ở mọi nơi “Cứ thế, chỗ này giết một tí, chỗ kia giết
một tí, cả súng cũng vậy, hôm nay dăm khẩu, ngày mai dăm khẩu, tích
tiểu thành đại, làm gì mà thằng Tây không bước sớm”.

c. Tình yêu làng gắn bó sâu sắc với tình yêu nước của ông Hai bộc lộ
sâu sắc trong tâm lí ông khi nghe tin làng theo giặc.

- Khi mới nghe tin xấu đó, ông sững sờ, chưa tin. Nhưng khi người ta kể
rành rọt, không tin không được, ông xấu hổ lảng ra về. Nghe họ chì
chiết ông đau đớn cúi gầm mặt xuống mà đi.

- Về đến nhà, nhìn thấy các con, càng nghĩ càng tủi hổ vì chúng nó
“cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi”. Ông giận những người ở lại làng,
nhưng điểm mặt từng người thì lại không tin họ “đổ đốn” ra thế. Nhưng
cái tâm lí “không có lửa làm sao có khói”, lại bắt ông phải tin là họ đã
phản nước hại dân.

- Ba bốn ngày sau, ông không dám ra ngoài. Cai tin nhục nhã ấy choán
hết tâm trí ông thành nỗi ám ảnh khủng khiếp. Ông luôn hoảng hốt
giật mình. Khong khí nặng nề bao trùm cả nhà.

- Tình cảm yêu nước và yêu làng còn thể hiện sâu sắc trong cuộc xung
đột nội tâm gay gắt: Đã có lúc ông muốn quay về làng vì ở đây tủi hổ
quá, vì bị đẩy vào bế tắc khi có tin đồn không đâu chứa chấp người
làng chợ Dầu. Nhưng tình yêu nước, lòng trung thành với kháng chiến
đã mạnh hơn tình yêu làng nên ông lại dứt khoát: “Làng thì yêu thật
nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Nói cứng như vậy nhưng thực lòng
đau như cắt.

- Tình cảm đối với kháng chiến, đối với cụ Hồ được bộc lộ một cách
cảm động nhất khi ông chút nỗi lòng vào lời tâm sự với đứa con út
ngây thơ. Thực chất đó là lời thanh minh với cụ Hồ, với anh em đồng
chí và tự nhủ mình trong những lúc thử thách căng thẳng này:

+ Đứa con ông bé tí mà cũng biết giơ tay thề: “ủng hộ cụ Hồ Chí Minh
muôn năm!” nữa là ông, bố của nó.

+ Ông mong “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu
trên cổ xét soi cho bố con ông”.

+ Qua đó, ta thấy rõ:

Tình yêu sâu nặng đối với làng chợ Dầu truyền thống (chứ không phải
cái làng đổ đốn theo giặc).

Tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng với kháng chiến mà biểu
tượng của kháng chiến là cụ Hồ được biẻu lộ rất mộc mạc, chân thành.
Tình cảm đó sâu nặng, bền vững và vô cùng thiêng liêng : có bao giờ
dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai.

d. Khi cái tin kia được cải chính, gánh nặng tâm lí tủi nhục được trút
bỏ, ông Hai tột cùng vui sướng và càng tự hào về làng chợ Dầu.

- Cái cách ông đi khoe việc Tây đốt sạch nhà của ông là biểu hiện cụ
thể ý chí “Thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước” của người nông
dân lao động bình thường.

- Việc ông kể rành rọt về trận chống càn ở làng chợ Dầu thể hiện rõ
tinh thần kháng chiến và niềm tự hào về làng kháng chiến của ông.

3. Nhân vạt ông Hai để lại một dấu ấn không phai mờ là nhờ nghệ
thuật miêu tả tâm lí tính cách và ngôn ngữ nhân vật của người nông
dân dưới ngòi bút của Kim Lân.

- Tác giả đặt nhân vật vào những tình huống thử thách bên trong để
nhân vật bộc lộ chiều sâu tâm trạng.

- Miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua ý nghĩ, hành vi,
ngôn ngữ đối thoại và độc thoại.

Ngôn ngữ của Ông Hai vừa có nét chung của người nông dân lại vừa
mang đậm cá tính nhân vật nên rất sinh động.

C- Kết bài:

- Qua nhân vật ông Hai, người đọc thấm thía tình yêu làng, yêu nước
rất mộc mạc, chân thành mà vô cùng sâu nặng, cao quý trong những
người nông dân lao động bình thường.

- Sự mở rộng và thống nhất tình yêu quê hương trong tình yếu đất
nước là nét mới trong nhận thức và tình cảm của quần chúng cách
mạng mà văn học thời kháng chiến chống Pháp đã chú trọng làm nổi
bật. Truyện ngắn Làng của Kim Lân là một trong những thành công
đáng quý.

(sưu tầm)Cảm nhận về tình cha con trong truyện "Chiếc lược
ngà"

Cảm nhận về tình cha con trong truyện "Chiếc lược ngà"

Truyện “Chiếc lược ngà” (Nguyễn Quang Sáng) được viết trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ nhưng chủ yếu tập trung nói về tình người trong
cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Đoạn trích “Chiếc lược ngà” (Sgk Văn
9, tập I) thể hiện tình cha con thắm thiết, sâu nặng của ông Sáu và bé
Thu.

Ông Sáu về thăm nhà sau bao năm ở chiến khu với cái tình của người
cha nôn nao, cháy bỏng khát khao được gặp con. Nhưng ngay từ giây
phút đầu, điều mà ông bấy lâu mong đợi được nghe con gái gọi tiếng
“Ba !” không được đền đáp. Đứa trẻ hoàn toàn ngơ ngác, lạnh lùng, đối
xử với ông như người xa lạ. Với lòng mong nhớ con, ông càng đón chờ
tình cảm của con, nó càng cố tình cự nự. Điều đó, khiến ông đau đớn
“hai tay buông xuống như bị gãy”. Có những tình huống, tưởng chừng
thế nào nó cũng chịu thua, không ương ngạnh được nữa, phải gọi tiếng
“Ba”. Nhưng nó vẫn không chịu cất tiếng “Ba” mà ông Sáu chờ đợi.

Hành động trẻ con, nói năng cộc lốc, ngang ngạnh của Thu dành cho
Ba khiến ông Sáu, bạn ông Sáu và cả người đọc đau lòng và suy nghĩ.
Khi có gia đình, hạnh phúc được làm cha, tiếng gọi “Ba” của đứa con
gái yêu chưa dành cho ông khiến ông “khổ tâm đến nỗi không khác
được, chỉ biết nhìn con vừa khẽ lắc đầu vừa cười”.

Phản ứng tâm lí của Thu là hoàn toàn tự nhiên. Thu còn quá bé để có
thể hiểu tình thế éo le xảy ra trong chiến tranh. Bản thân người lớn
cũng chưa ai chuẩn bị cho Thu ứng phó với bất thường. Điều đó, người
đọc cảm được tình cảm chân thật, sâu sắc, mãnh liệt Thu dành cho ba -
người mà Thu biết trên ảnh, người cha được cô bé ghi sâu trong lòng từ
tấm ảnh, không phải người đàn ông xưng là "ba".

Đến khi được bà ngoại tháo gỡ thắc mắc trong lòng, về lai lịch vết
thẹo, Thu vỡ lẽ đó thực là ba mình. Trăn trở dằn vặt, cùng tình yêu,
khát khao bấy lâu mong gặp mặt cha dồn nén, bùng nổ dữ dội, quyết
liệt vào giờ phút trước khi người cha lên đường. Tiếng “Ba... a... a...
ba !” vỡ ra từ sâu thẳm lòng cô bé. Tiếng kêu mà ba nó chờ đợi bao
năm ròng. Tiếng kêu làm nhói tim mọi người. Ông Sáu sung sướng,
hạnh phúc nghẹn lời, không cầm được nước mắt. Thu vồ vập, cuống
quít, níu giữ cha, níu giữ yêu thương bấy lâu nó mong đợi. “Nó hôn ba
nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên
má của ba nó nữa”, “hai tay nó xiết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay
không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó,
và đôi vai nhỏ bé của nó run run”.

Đối với người cha, đó là tiếng “ba” đầu tiên và cũng là tiếng yêu
thương cuối cùng ông được nghe từ con ! Ở chiến khu, ông cố gắng hết
sức, thận trọng, tỉ mỉ làm cho con chiếc lược ngà. Ông đặt vào đấy tất
cả tình cảm cha con. Chiếc lược trở thành vật thiêng, an ủi ông “gỡ rối
phần nào tâm trạng”, nuôi dưỡng tình cha con. Ông thường xuyên “lấy
cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm
mượt”. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ thành một nghệ nhân -
nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trong đời. Trước khi
nhắm mắt xuôi tay, ông Sáu vẫn nhớ chiếc lược, nhờ bạn chuyển lại
cho con - cử chỉ chuyển giao đó là một ước nguyện giữ gìn muôn đời
tình cảm cha con, ruột thịt.

Truyện “Chiếc lược ngà” đã diễn tả một cách cảm động tình cha con
thắm thiết, sâu nặng của cha con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của
chiến tranh. Hình ảnh cây lược được gắn vào đó một trái tim thổn thức
tình ruột thịt, khẳng định giá trị nhân bản sâu sắc, cao đẹp thiêng liêng
!

(Sưu tầm)

Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du và "Truyện Kiều"

Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du và "Truyện Kiều"

I.Nguyễn Du

1.Nguyễn Du ( 1765 – 1820 ), tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên;


quê làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; sinh trưởng trong
một gia đình đại quí tộc có truyền thống văn học và nhiều đời làm
quan.

2.Nguyễn Du sinh trưởng trong một thời đại có nhiều biến động dữ
dội: Xã hội phong kiến Việt Nam bước vào thời kì khủng hoảng sâu sắc,
phong trào nông dân khởi nghĩa nổ ra liên tục mà đỉnh cao là cuộc khởi
nghĩa nông dân Tây Sơn. Phong trào nông dân Tây Sơn thất bại, chế độ
phong kiến triều Nguyễn được thiết lập.

3.Trong hoàn cảnh ấy, Nguyễn Du đã sống nhiều năm phiêu bạt
trên đất Bắc( 1786 – 1796 ) rồi về ở ẩn tại quê nội Hà Tĩnh ( 1796 –
182). Sau khi Nguyễn ánh lên ngôi, Nguyễn Du ra làm quan bất đắc dĩ
với triều Nguyễn. Năm 1813 – 1814, ông được cử làm chánh sứ sang
Trung Quốc, năm 1820 khi chuẩn bị làm chánh sứ sang Trung Quốc lần
thứ hai, nhưng chưa kịp đi thì ông bị bệnh và mất tại Huế.

4.Nguyễn Du là người có kiến thức sâu rộng, am hiểu văn hoá dân
tộc và văn chương Trung Quốc. Cuộc đời từng trải, đi nhiều, tiếp xúc
nhiều đã tạo cho ông một vốn sống phong phú và niềm cảm thông sâu
sắc với những đau khổ của nhân dân. Nguyễn Du là một thiên tài văn
học, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.

5.Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du gồm những tác phẩm có giá
trị lớn bằng chữ Hán và chữ Nôm. Về chữ Hán Nguyễn Du có ba tập thơ
( Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục ) với tổng
số 243 bài. Về chữ Nôm xuất sắc nhất là Đoạn trường tân thanh,
thường gọi là Truyện Kiều, ngoài ra còn có Văn chiêu hồn.

II.Truyện Kiều

1.Nguồn gốc Truyện Kiều: Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du có dựa theo
cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân ( Trung
Quốc ). Nhưng phần sáng tạo của Nguyễn Du là hết sức lớn, mang ý
nghĩa quyết định đến sự thành công của tác phẩm.

2.Tóm tắt Truyện Kiều

Truyện Kiều bao gồm 3254 câu thơ lục bát và được chia làm 3 phần;
-Gặp gỡ và đính ước
-Gia biến và lưu lạc
-Đoàn tụ

2.Giá trị nội dung và nghệ thuật

a.Nội dung: Truyện Kiều có hai giá trị lớn là giá trị hiện thực và giá trị
nhân đạo. Truyện Kiều là bức tranh hiện thực về một xã hội bất công,
tàn bạo, là tiếng nói thương cảm trước số phận bi kịch của con người,
tiếng nói lên án, tố cáo những thế lực xấu xa, tiếng nói khẳng định, đề
cao tài năng, nhân phẩm và những khát vọng chân chính của con
người như khát vọng về quyền sống, khát vọng tự do, công lí, khát
vọng tình yêu, hạnh phúc…

b.Nghệ thuật: Tác phẩm là sự kết tinh thành tựu nghệ thuật văn học
dân tộc trên các phương diện ngôn ngữ và thể loại. Với Truyện Kiều,
ngôn ngữ văn học dân tộc và thể thơ lục bát đã đạt tới đỉnh cao rực rỡ.
Nghệ thuật tự sự đã có bước phát triển vượt bậc, từ nghệ thuật dẫn
truyện đến nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, khắc họa tính cách và miêu
tả tâm lí con người.

(Sưu tầm)
Truyện ngắn làng của Kim Lân gợi cho em những suy nghĩ gì về
những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt
Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp.

Truyện ngắn làng của Kim Lân gợi cho em những suy nghĩ gì về
những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân
Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp.

A- Mở bài:

- Kim Lân thuộc lớp các nhà văn đã thành danh từ trước Cách mạng
Tháng 8 – 1945 với những truyện ngắn nổi tiếng về vẻ đẹp văn hoá xứ
Kinh Bắc. Ông gắn bó với thôn quê, từ lâu đã am hiểu người nông dân.
Đi kháng chiến, ông tha thiết muốn thể hiện tinh thần kháng chiến của
người nông dân

- Truyện ngắn Làng được viết và in năm 1948, trên số đầu tiên của tạp
chí Văn nghệ ở chiến khu Việt Bắc. Truyện nhanh chóng được khẳng
định vì nó thể hiện thành công một tình cảm lớn lao của dân tộc, tình
yêu nước, thông qua một con người cụ thể, người nông dân với bản
chất truyền thống cùng những chuyển biến mới trong tình cảm của họ
vào thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

B- Thân bài

1. Truyện ngắn Làng biểu hiện một tình cảm cao đẹp của toàn dân tộc,
tình cảm quê hương đất nước. Với người nông dân thời đại cách mạng
và kháng chiến thì tình yêu làng xóm quê hương đã hoà nhập trong
tình yêu nước, tinh thần kháng chiến. Tình cảm đó vừa có tính truyền
thống vừa có chuyển biến mới.

2. Thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lí chung ấy
trong sự thể hiện sinh động và độc đáo ở một con người, nhân vật ông
Hai. ở ông Hai tình cảm chung đó mang rõ màu sắc riêng, in rõ cá tính
chỉ riêng ông mới có.

a. Tình yêu làng, một bản chất có tính truyền thông trong ông Hai.

- Ông hay khoe làng, đó là niềm tự hào sâu sắc về làng quê.

- Cái làng đó với người nồn dân có một ý nghĩa cực kì quan trọng trong
đời sống vật chất và tinh thần.

b. Sau cách mạng, đi theo kháng chiến, ông đã có những chuyển biến
mới trong tình cảm.

- Được cách mạng giải phóng, ông tự hào về phong trào cách mạng
của quê hương, vê việc xây dựng làng kháng chiến của quê ông. Phải
xa làng, ông nhớ quá cái khong khí “đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân
đá…”; rồi ông lo “cái chòi gác,… những đường hầm bí mật,…” đã xong
chưa?

- Tâm lí ham thích theo dõi tin tức kháng chiến, thích bìh luận, náo nức
trước tin thắng lợi ở mọi nơi “Cứ thế, chỗ này giết một tí, chỗ kia giết
một tí, cả súng cũng vậy, hôm nay dăm khẩu, ngày mai dăm khẩu, tích
tiểu thành đại, làm gì mà thằng Tây không bước sớm”.

c. Tình yêu làng gắn bó sâu sắc với tình yêu nước của ông Hai bộc lộ
sâu sắc trong tâm lí ông khi nghe tin làng theo giặc.

- Khi mới nghe tin xấu đó, ông sững sờ, chưa tin. Nhưng khi người ta kể
rành rọt, không tin không được, ông xấu hổ lảng ra về. Nghe họ chì
chiết ông đau đớn cúi gầm mặt xuống mà đi.
- Về đến nhà, nhìn thấy các con, càng nghĩ càng tủi hổ vì chúng nó
“cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi”. Ông giận những người ở lại làng,
nhưng điểm mặt từng người thì lại không tin họ “đổ đốn” ra thế. Nhưng
cái tâm lí “không có lửa làm sao có khói”, lại bắt ông phải tin là họ đã
phản nước hại dân.

- Ba bốn ngày sau, ông không dám ra ngoài. Cai tin nhục nhã ấy choán
hết tâm trí ông thành nỗi ám ảnh khủng khiếp. Ông luôn hoảng hốt
giật mình. Khong khí nặng nề bao trùm cả nhà.

- Tình cảm yêu nước và yêu làng còn thể hiện sâu sắc trong cuộc xung
đột nội tâm gay gắt: Đã có lúc ông muốn quay về làng vì ở đây tủi hổ
quá, vì bị đẩy vào bế tắc khi có tin đồn không đâu chứa chấp người
làng chợ Dầu. Nhưng tình yêu nước, lòng trung thành với kháng chiến
đã mạnh hơn tình yêu làng nên ông lại dứt khoát: “Làng thì yêu thật
nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Nói cứng như vậy nhưng thực lòng
đau như cắt.

- Tình cảm đối với kháng chiến, đối với cụ Hồ được bộc lộ một cách
cảm động nhất khi ông chút nỗi lòng vào lời tâm sự với đứa con út
ngây thơ. Thực chất đó là lời thanh minh với cụ Hồ, với anh em đồng
chí và tự nhủ mình trong những lúc thử thách căng thẳng này:

+ Đứa con ông bé tí mà cũng biết giơ tay thề: “ủng hộ cụ Hồ Chí Minh
muôn năm!” nữa là ông, bố của nó.

+ Ông mong “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu
trên cổ xét soi cho bố con ông”.

+ Qua đó, ta thấy rõ:

• Tình yêu sâu nặng đối với làng chợ Dầu truyền thống (chứ không phải
cái làng đổ đốn theo giặc).

• Tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng với kháng chiến mà
biểu tượng của kháng chiến là cụ Hồ được biẻu lộ rất mộc mạc, chân
thành. Tình cảm đó sâu nặng, bền vững và vô cùng thiêng liêng : có
bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai.

d. Khi cái tin kia được cải chính, gánh nặng tâm lí tủi nhục được trút bỏ,
ông Hai tột cùng vui sướng và càng tự hào về làng chợ Dầu.

- Cái cách ông đi khoe việc Tây đốt sạch nhà của ông là biểu hiện cụ
thể ý chí “Thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước” của người nông
dân lao động bình thường.
- Việc ông kể rành rọt về trận chống càn ở làng chợ Dầu thể hiện rõ
tinh thần kháng chiến và niềm tự hào về làng kháng chiến của ông.

3. Nhân vạt ông Hai để lại một dấu ấn không phai mờ là nhờ nghệ
thuật miêu tả tâm lí tính cách và ngôn ngữ nhân vật của người nông
dân dưới ngòi bút của Kim Lân.

- Tác giả đặt nhân vật vào những tình huống thử thách bên trong để
nhân vật bộc lộ chiều sâu tâm trạng.

- Miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua ý nghĩ, hành vi,
ngôn ngữ đối thoại và độc thoại.

Ngôn ngữ của Ông Hai vừa có nét chung của người nông dân lại vừa
mang đậm cá tính nhân vật nên rất sinh động.

C- Kết bài:

- Qua nhân vật ông Hai, người đọc thấm thía tình yêu làng, yêu nước
rất mộc mạc, chân thành mà vô cùng sâu nặng, cao quý trong những
người nông dân lao động bình thường.

- Sự mở rộng và thống nhất tình yêu quê hương trong tình yếu đất
nước là nét mới trong nhận thức và tình cảm của quần chúng cách
mạng mà văn học thời kháng chiến chống Pháp đã chú trọng làm nổi
bật. Truyện ngắn Làng của Kim Lân là một trong những thành công
đáng quý.

(ST)
[IMG]file:///C:/DOCUME%7E1/TLC/LOCALS
%7E1/Temp/msohtmlclip1/01/clip_image002.gif[/IMG]
Bài thơ "Sang thu" của Hữu Thỉnh

"Sang Thu" mang cảm xúc bâng khuâng, vấn vương trước đất trời
trong trẻo đang biến chuyển nhẹ nhàng. "Sang thu" bắt đầu bằng
những cảm nhận của nhà thơ trước tín hiệu giao mùa.

Nếu như thu trong thơ Xuân Diệu bắt đầu với "sắc mơ phai" dệt giữa
muôn ngàn cây.
Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng
(Đây mùa thu tới)
Thì với Hữu Thỉnh, đó là:
Bông~ nhận ra hương ôi?
Phả vào trong gió se
Bất ngờ, ngỡ ngàng biết bao khi nhà thơ phát hiện ra hương vị thơm
đượm, nồng nàn giữa cái nhẹ nhàng, se se lạnh của cơn gió heo may
đương thưở non tơ. Cái hương vị ấy của vườn mẹ cứ ngào ngạt phả vào
không gian, cuốn vào khứu giác thi nhân, thấm đến tâm hồn người đọc
mà gieo vào lòng đọc giả và nhà thơ những cảm xúc riêng, mới lạ và
độc đáo. Nếu như "Thu điếu" của Nguyễn Khuyến đương thú vị ở các
"điệu xanh" thì bỗng buông môt điệu vàng của chiếc lá thu rơi; "Tiếng
thu" của Lưu Trọng Lư long lanh với sắc thu vàng trầm buồn trong thơ
mới; và cả tác phẩm häi họa "Mùa thu vàng" nôi? tiếng của Lêvitan
cũng lấp lánh 1 sắc vàng rực rỡ; thì "Sang thu" mới hơn, lạ hơn. Bởi
Hữu Thỉnh ko chấm lên đó 1 mảng màu vàng nhưng trong cái vị nông`
nàn thơm đượm của hương ôi?, ta vẫn cảm nhận được cái vàng ươm thi
vị ấy. Sương chậm rãi, dềnh dàng, giăng mắc nơi đầu thôn, ngõ xóm
như chào đón thu về. Những cảm nhận tinh tế của nhà thơ cứ thế cuồn
cuộn chảy trên trang giấy.
Sương chùng chình qua ngõ
Sưong "chùng chình" qua ngõ, đủng đỉnh, rề rà như đợi chờ hè qua. Là
làn sương mỏng manh như tơ liễu buông mành, mát mẻ và đậm chất
thu. Sự vật sang thu đậm tình cảm cảm xúc, để thi nhân bất chợt cất
lên tiếng reo khe khẽ:
Hình như thu đã về
1 cảm giác mơ hô`, hoài nghi thấp thoáng trong cảm nhận của nhà thơ
nhưng lại gợi được sự mong đợi, chào đón thu;1 cảm nhận sâu lắng nhẹ
nhàng đọng trong lòng thi nhân. Nhẹ thế mà thu-đang-về.
Trong "th ương nhớ 12" Vũ Băng viết: "Đẹp quá đi, mùa xuân ơi-mùa
xuân của Hà Nôi thân yêu, của Bắc Việt thương mến..." Phải là 1 con
người yêu cuôc sông', gắn bó tha thiết với quê hương và yêu quê
hương nông` nàn thì Vũ Bằng và Hữu Thỉnh mới có những vần thơ rung
động lòng người đến vậy!
Khổ thơ t2 tiếp tục trong cái mạch cảm xúc mênh mang ấy của nhà thơ
Sông đc lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vôi. vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.
Dòng nước thu êm ả trôi, chầm chậm, nhè nhẹ, dịu dàng như chính
chất thu mới đang lan tỏa trong ko gian. Ko còn là dòng nc xoáy hay
dòng sông mùa hạ vùn vụt lao đầu về phía trước, mà đó là dềnh dàng,
là từ tôn'. Nhưng khác hẳn với sự từ tôn' đáng yêu ấy là những cánh
chim thu bắt đầu vôi. vã bay về phương nam tránh rét. Sự đôi' lập giữa
2 hình ảnh tạo nên 1 nét thu chân thực, sinh đông. Những cảm nhận
của nhà thơ về thu bắt đầu rõ nét hơn, tinh tế hơn, tràn ra, hòa vào ko
gian thu.
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Nhà thơ thấy đám mây ấy, sự vật ấy với những nét cựa quậy chuyển
mình sang thu. Tưởng chừng ko gian chính là 1 bức mành mỏng manh,
trong suôt', 1 sự ngăn cách vô hình, chia đám mây làm đôi, 1 nửa rực
nắng mùa hạ, nửa kia dịu mát sắc thu. Những rung cảm tinh tế đến
từng chi tiết nhỏ nhất. Cảm nhận sắc nét ấy còn là những hình ảnh
thực, những cảm nhận dần đi vào lí trí.
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuôi?
Vẫn còn mưa đấy, nắng đấy, sấm vẫn còn ầm ì trên các ngọn cây, vẫn
còn dấu ấn của hạ nắng. Nhưng tất cả đã giảm về sô' lượng. Nắng ấy,
mưa ấy, sấm ấy có lẽ chính là những mưa, những nắng, những sấm,
những giông bão, vất vả lo toan của của cuộc đời mà nhà thơ đã cảm
nhận đc.
2 dòng kết chính là thể hiện bàn tay tài hoa của tác giả.
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuôi
Phải chăng với những con người từng trải với mưa nắng cuộc đời thì họ
đón nhận những thử thách ấy 1 cách vững vàng, bình tĩnh. Hai dòng
thơ vẫn tả cái bước đi êm nhẹ của thiên nhiên, nhưng lại gợi suy nghĩ
về con người.
Đó là 1 khúc sang thu vừa thơ mông, vừa bâng khuâng gợi vẻ triết lí....
Sưu tầm

Có lẽ vì nàng thu “thơ mộng muôn thủa” luôn có xu hướng “rủ rê” ngòi
bút theo những lối mòn quen thuộc của truyền thống thơ thu. Mà hút
theo những con đường dằng đặc đã định hình trước đó là đến tử lộ của
văn chương…

Nói về đề tài mùa thu, một tác giả đã nhận định: “Đề tài "Mùa Thu" bao
giờ cũng có vẻ là dễ viết. Mùa thu dường như luôn luôn nấp sẵn trong
ngòi bút của chúng ta, nhất là những ngòi bút thơ: hễ động bút là mùa
thu cứ chực đổ ùa ra trên mặt giấy. Tưởng như với đề tài thơ mộng
muôn thuở này có thể dễ dàng chắp bút. Chỉ đến khi bắt đầu cầm bút
ngồi trước mặt giấy, tôi mới thấy đề tài này thật là khó” Tại sao lại có
nghịch lí trong kinh nghiệm của người sáng tác như vậy? Có lẽ vì nàng
thu “thơ mộng muôn thủa” luôn có xu hướng “rủ rê” ngòi bút theo
những lối mòn quen thuộc của truyền thống thơ thu. Mà hút theo
những con đường dằng đặc đã định hình trước đó là đến tử lộ của văn
chương…

Sang thu của Hữu Thỉnh xuất hiện khi trước nó đã có rất nhiều bài thơ
nổi tiếng đông tây kim cổ: Thu hứng (Đỗ Phủ), Chùm thơ thu (Nguyễn
Khuyến), Đây mùa thu tới (Xuân Diệu)… Nhưng nó vẫn có cái hay, cái
độc đáo riêng của một hồn thơ sâu lắng, nhạy cảm khi mùa thu tới.
Ngay từ tiêu đề, tác giả đã tự xác định một thời điểm miêu tả: thời
điểm giao mùa. Đó không phải là chính thu, khi bầu trời xanh ngắt lơ
lửng những tầng cao, không phải cuối thu, khi nắng trời đã nhuộm đỏ
lá bàng, hay khi cái rét mùa đông đã lẩn vào trong gió…Sang thu nghĩa
là mới chớm thu thôi, cái tứ kết buộc hệ thống hình ảnh trong bài cũng
chỉ gói gọn trong chút “chớm” mỏng manh đó.

Đặc biệt ở góc độ miêu tả tạo vật. Không hề có một từ định tính để
miêu tả thế giới thu. Có hương ổi, mùi hương vừa đặc trưng cho mùa
vừa đặc trưng cho làng thôn ngõ xóm. Nhưng hương ổi “thơm” như thế
nào thì thi sĩ hoàn toàn không miêu tả. Có gió, nhưng gió se chứ không
phải là gió lạnh. Se gợi một động thái, hơn là gợi một cảm giác. Làn
sương giăng phủ ngõ thôn chẳng được đặc tả ở mức độ (mù mịt) hay
màu sắc (trắng mờ)... Dòng sông, cánh chim, hay đám mây cũng
không tô điểm cho phong cảnh thu bằng những gam màu đặc trưng
của nó. Truyền thống thơ thường kiến trúc ngôi nhà thu bằng những
chất liệu quen thuộc như cúc, liễu, ngô đồng hay màu trời, sắc nước…
Hữu Thỉnh hầu như khơi gợi cảm giác về mùa trong trạng thái mơ hồ
của tạo vật. Thành công nổi bật nhất của bài cũng là ở một hệ thống
những động từ miêu tả rất giàu cảm giác: “phả”, “se”, “chùng chình”
“dềnh dàng” “bắt đầu vội vã” “vắt nửa mình”… “Chùng chình” trước
hết gợi tả chính xác những làn sương như ngưng lại và nhẹ nhàng tỏa
lan ngõ xóm. Dòng nước thu vốn trong trẻo và sâu hút làm người ta
khó mà thấy rõ được sự chuyển động nó nên cảm giác sông lững lờ trôi
cũng rất hiện thực. Đám mây như tấm khoăn voan của người thiếu nữ,
duyên dáng nối hai mùa là một liên tưởng thực sự độc đáo. Song trên
hết, hệ thống động từ toàn bài còn đặc sắc ở chỗ, nó không chỉ miêu tả
chính xác trạng thái của tạo vật mà còn thổi vào tạo vật những cảm
giác rất người. Tinh tế và sống động sao một buổi sáng chớm thu,
sương như người khách ngập ngừng nơi đầu ngõ, gió se lại bởi chút
lạnh xa xăm, những cánh chim vội vã tìm về phương ấm áp…

Song thời điểm chớm thu không phải chỉ hiển hiện ở những dấu hiệu
mơ hồ trong trạng thái biến chuyển của cảnh vật, mà ở cả chút ngỡ
ngàng bâng khuâng của lòng người: “Bỗng nhận ra hương ổi”; “Hình
như thu đã về”…

Tiếp tục thể hiện những dấu hiệu mùa thu rõ rệt hơn nhưng ý nghĩa
của khổ cuối không chỉ dừng lại ở đó:

Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ


Trên hàng cây đứng tuổi

Con người cảm thấy biết bao biểu hiện khác biệt của thời tiết khi mùa
thu tới: mưa và sấm thưa dần, không còn dữ dội nữa. Sang thu, tất cả
các dấu hiệu của mùa hạ vẫn còn nhưng đã giảm dần mức độ, cường
độ… Hàng cây như đã quá quen với nắng lửa mưa giông, được gọi một
cách hình ảnh là “hàng cây đứng tuổi”. Chính các từ “bất ngờ”, “đứng
tuổi” khiến ý nghĩa của câu thơ không dừng lại ở nét nghĩa tả thực mà
có chiều sâu hơn. Nắng, mưa, sấm chớp… hay là những vang động của
cuộc đời? Trong tương quan ấy, hàng cây tượng trưng cho con người
từng trải mà bao dâu bể biến đổi không còn đáng ngạc nhiên. Cảnh
như sâu lắng hơn bởi liên tưởng suy tư về mùa thu đời người.

Không hiểu sao, khi đọc bài thơ này, tôi chợt thấy nhớ rất nhiều những
năm tháng đã qua của mình. Miền kí ức tuổi thơ được đánh thức bởi
mùi hương ổi, bởi ngõ xóm thân quen ấy. Và có lẽ cũng nhờ giọng điệu
êm nhẹ dễ cuốn người đọc vào dòng cảm xúc, suy nghĩ tự nhiên của
tác giả. Nét độc đáo nhất của bài là những hình ảnh chính xác và giàu
sức gợi tạo nên một bức tranh thu giản dị mà sống động. Đây xứng
đáng là một bài thơ thu hay trong thế giới thi ca./.

Sưu tầm
Sang Thu - Hữu Thỉnh

Chu Văn Sơn

[IMG]file:///C:/DOCUME%7E1/TLC/LOCALS
%7E1/Temp/msohtmlclip1/01/clip_image003.jpg[/IMG]

Mùa thu quả nhiên là mùa nhạy cảm bậc nhất trong năm. Con người
cùng Tạo vật thảy đều nhạy cảm. Tuy nhiên, cái thời điểm mà sự nhạy
cảm của hồn tạo vật luôn thách thức với sự nhạy cảm của hồn người
vẫn là thời khắc giao mùa - chớm thu. Các kênh cảm giác và cả tâm
cảm nữa của mỗi hồn thơ dường như đều được huy động tối đa để nắm
bắt những làn sóng, những tín hiệu mơ hồ nhất từ những giao chuyển
âm thầm trong vạn vật.
Chả thế mà, bao đời nay luôn có sự đua ganh giữa hồn thơ với hồn tạo
vật. Chỉ cần điểm sơ qua những tín hiệu từng được hồn thơ từ cổ chí
kim nắm bắt trong những thi ảnh không thôi, cũng khó đủ giấy mực rồi.
Gọn nhẹ hơn, chỉ điểm qua những thi tứ nổi bật dành cho nhịp chuyển
mùa thôi, chắc cũng không xuể. Cho nên, tôi sẽ không nấn ná làm cái
việc rút tỉa những thi ảnh và thi tứ tiêu biểu về thời điểm nhạy cảm ấy
của thơ ca các thời, nghĩa là không tái hiện lại một truyền thống, một
tiền đề nữa. Mà cùng Hữu Thỉnh, bước ngay…Sang thu
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về

Sông được lúc dềnh dàng


Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Vẫn còn bao nhiêu nắng


Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi

Thu, 1977

Tôi mừng cho Hữu Thỉnh và bài thơ, nó vừa giành được một chỗ xứng
đáng trong chương trình Văn và Tiếng Việt của nhà trường. Kể từ nay,
hương ổi của thi phẩm sẽ phả vào tâm hồn của nhiều thế hệ học trò, sẽ
được những tâm hồn ấy mang tới bao nẻo thu, đến cả những miền
chưa từng có mùa thu nữa.

1. Từ cấu trúc …

Trước tiên, thử đi vào cấu trúc của thi phẩm.


Hình thái tổ chức của Sang thu đâu dễ nhận diện. Về bố cục, ai chẳng
thấy chính tác giả đã tự chia bài thơ thành ba khổ khúc chiết. Nhưng về
ý tứ ? Xem chừng ý khổ này cứ “dính” vào khổ kia, chả chịu rành mạch
gì cả. Thì quanh đi quẩn lại vẫn là thế : hương ổi, gió se, sương chùng
chình, sông dềnh dàng, chim vội vã, nắng vẫn còn, mưa đã vơi, sấm
bớt bất ngờ, hàng cây đứng tuổi… chẳng dáng nét thu về, thì hình sắc
thu sang, đấy thay đổi tinh vi, đây đổi thay tinh tế. Ý đâu có khác gì
nhau. Đến nỗi, ngay cả “Sách giáo viên” hướng dẫn người dạy khai
thác và soạn giảng chừng như cũng “ bí” trong việc phân định . Hay
việc chia thành ba khổ thế chỉ hoàn toàn do cảm tính lúc viết của thi sĩ,
còn ý thơ thì vốn thiếu rành mạch, vô tổ chức ? Không hẳn.

Đọc kĩ hơn thì thấy rằng: cùng viết về thiên nhiên lúc giao mùa, nhưng
mỗi khổ thơ vẫn nghiêng về một ý. Về cảnh vật, khổ một nghiêng về
những tín hiệu mách bảo sự hiện diện đây đó của mùa thu, từ góc nhìn
vườn ngõ : Bỗng nhận ra hương ổi /Phả vào trong gió se /Sương chùng
chình qua ngõ /Hình như thu đã về. Khổ hai lại nghiêng về những cảnh
sắc trời mây sông nước đang chuyển mình sang thu, với tầm nhìn rộng
xa vào bầu trời mặt đất : Sông được lúc dềnh dàng / Chim bắt đầu vội
vã/Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu. Trong khi đó, khổ ba
lại nghiêng về những biến đổi bên trong các hiện tượng thiên nhiên và
tạo vật : Vẫn còn bao nhiêu nắng/Đã vơi dần cơn mưa/Sấm cũng bớt
bất ngờ/Trên hàng cây đứng tuổi. Như vậy, ba khổ thơ đã được liên kết
thành một chỉnh thể nhuần nhị nhờ vào một trật tự khá tự nhiên : từ
gần đến xa, từ thấp đến cao, từ hẹp đến rộng, từ ngoài vào trong, với
các lớp cảnh càng ngày càng đi vào chiều sâu… Một trật tự hợp lí tự
nhiên bao giờ cũng là điều sinh tử để một sản phẩm nghệ thuật hiện ra
như một sinh thể !

Nhưng, cả người khờ khạo nhất cũng phải thấy rằng : thơ thiên nhiên
không đơn thuần chỉ có cảnh. Cùng với cảnh, bao giờ cũng là tình, dù
đậm hay nhạt, dù kín hay lộ. Tình trong cảnh, cảnh trong tình. Cho
nên, đồng hành với mạch cảnh sắc trên đây, là tâm tư của thi sĩ. Cụ thể
là mạch cảm nghĩ trước mùa thu. Sự đan xen các mạch này là một khía
cạnh phức tạp không thể thiếu của cấu trúc. Sau một thoáng ngỡ
ngàng ở khổ một (… Hình như thu đã về), là đến niềm say sưa ở khổ
hai (…Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu), và kết lại ở khổ
ba với vẻ trầm ngâm(… Sấm cũng bớt bất ngờ / trên hàng cây đứng
tuổi). Không chỉ có thế. Tương ứng với những cung bậc của mạch cảm,
là các cấp độ của mạch nghĩ. Khổ đầu : bất giác, khổ hai : tri giác, khổ
ba : suy ngẫm. Mạch cảm và mạch nghĩ bao giờ cũng song hành và
chuyển hoá sang nhau trong cùng một dòng tâm tư . Chúng đan bện
với nhau khiến cấu trúc nghệ thuật càng tinh vi phức tạp. Rõ ràng, từ
khổ một đến khổ ba, thi phẩm là sự đồng hành và hoá thân vào nhau
của ba mạch nội dung vừa rõ nét vừa sống động. Có thể nôm na hoá
qua sơ đồ sau :

[IMG]file:///C:/DOCUME%7E1/TLC/LOCALS
%7E1/Temp/msohtmlclip1/01/clip_image005.jpg[/IMG]
Thế đấy, cấu trúc của thi phẩm này, bề ngoài, có vẻ “dính”, nhưng bề
sâu, đâu phải là thiếu rành mạch. Trái lại là đằng khác ấy chứ ! Rõ
ràng, qua phân tích trên đây cũng đủ thấy rằng : một tiếng thơ dù bình
dị hồn nhiên thế nào đi nữa, vẫn là một kiến trúc ngôn từ với một cấu
trúc thật tinh vi.

2. … đến điệu tâm hồn

Cảm nhận tạo vật lúc sang thu, đa phần các thi sĩ nghiêng về vẻ biến
suy một chiều của cảnh. Vì thế, thần thái của cảnh thu thường hiện lên
qua vẻ tiêu sơ. Ví như bài Thu cảm, tiếng thơ khá tinh tế của một thi sĩ
đương thời : Mướp tàn sen cũng đi tu / Lá tre đã thả một mùa heo
may / Con sông không ốm mà gầy / Mắt em chưa tối đã đầy hoàng hôn.
Cảm nhận của Hữu Thỉnh khác, không đơn tuyến. Tôi cho rằng, một
trong những nét đặc sắc của bài Sang thu là có hai hệ thống tín hiệu
báo mùa có vẻ phản trái nhau, song cả hai đều thuộc về thần thái của
mùa thu. Tạm đặt tên là nhịp mạnh và nhịp nhẹ. Nhịp mạnh bao gồm
những động thái, sắc thái dương tính (mạnh, nhanh, nhiều…) : hương
ổi phả - chim vội vã - vẫn còn bao nhiêu nắng… Nhịp nhẹ thì nghiêng
về âm tính (êm, chậm, ít…) : sương chùng chình, sông dềnh dàng, mưa
vơi dần… Lúc bất giác nhận ra hương ổi “phả” vào trong gió se, thì
cũng là lúc bắt gặp sương “chùng chình” qua ngõ. Chính lúc sông
“dềnh dàng” là lúc chim “vội vã”. Khi nắng “còn” cũng là khi mưa
“vơi”. Đừng nghĩ thi sĩ cố ý đặt bày hai mạch tương phản nhằm chơi trò
lạ hoá. Nó chính là hiện tượng trái chiều mà cùng hướng ta vẫn thường
thấy trong mỗi cuộc đổi thay. Chẳng phải thế sao ? Chẳng phải bao
mạch sống đang cần mẫn chuyển lưu trong lòng tạo vật làm nên cõi
sống trường cửu này vốn vẫn tương sinh tương khắc như vậy sao ? Và
chẳng phải những vận động trái chiều mà cùng hướng vẫn thường đem
đến cho sự sống thế quân bình ngay trong lòng mỗi nhịp biến thiên hay
sao ? Cho nên, thật thú vị mà cũng thật hiển nhiên là hai nhịp mạnh -
nhẹ với hệ thống hưng - suy, tiêu - trưởng kia lại đan dệt trong nhau
khá nhuần nhuyễn tạo nên cái bản giao hưởng gợi cảm của đất trời
thu. Có thể xem đó là nét phức điệu trong cảm nhận ngoại giới của hồn
thơ Hữu Thỉnh. Toàn cảnh thu trong bước chuyển mùa, nhờ lối cảm ấy,
đã hiện ra không chỉ có biến thiên, mà đây đó còn cả thế quân bình.
Luôn thấy được thế quân bình ngay giữa những biến thiên thì ít bất ngờ
chao đảo. Trong thiên nhiên đã vậy. Trong cuộc đời cũng thế. Và, tôi
ngờ rằng cảm quan quân bình về đời sống đã ngấm ngầm xui thi sĩ tìm
đến cái kết điềm tĩnh trước ba động, giấu cương sau nhu này :
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi ?

Nói đến câu kết kia, không thể không thêm vài lời về cách lập tứ dẫn
tới kết. Nó rõ nhất ở khổ ba : Vẫn còn bao nhiêu nắng /Đã vơi dần cơn
mưa /Sấm cũng bớt bất ngờ /Trên hàng cây đứng tuổi. Để ý một chút,
sẽ thấy rằng đến đây, tâm thế thi sĩ không còn ngỡ ngàng bất giác như
khổ một, say sưa tri giác như khổ hai, mà lòng đã nặng hơn, đã ra
chiều trầm ngâm với suy ngẫm rồi. Lớp từ mang sắc thái đong đếm ở
đây mách với ta điều đó. Hệ thống các từ còn (-hết), vơi (-đầy), bớt (-
thêm) bảo rằng thi sĩ đang suy xét, đúc kết, chiêm nghiệm. Chiêm
nghiệm điều gì ? Về một lẽ đời trong hai chiều biến đổi trái nhau. Ba
câu trên : nắng “vẫn còn”, tức là đã giảm ; mưa “vơi dần” rõ là giảm ;
sấm “bớt bất ngờ” càng giảm. Cả ba nghiêng về chiều giảm. Nhưng,
khi câu ba nối vào câu kết, thì chiều giảm đột ngột thành chiều tăng,
một chiều tăng kín đáo : Sấm cũng bớt bất ngờ /Trên hàng cây đứng
tuổi. Ấy là sự từng trải tăng lên, là cây đã trưởng thành. Nhờ lối viết
nén, mấy chữ “bớt bất ngờ” như một nút buộc, câu thơ bỗng có “cú
pháp dính”, lời thơ súc tích hẳn nhờ các làn nghĩa giao nhập ràng néo
nhau : sấm bớt gây bất ngờ (sấm đã e cây), hay cây bớt bị bất ngờ (cây
thôi e sấm)? Có lẽ là cả hai, nhưng xem chừng, cái vế sau mới là chốt
hạ. Nhờ ngữ pháp ấy mà cái ý cương kia liền được giấu kín nhẹm, thậm
chí được nhu hoá. Có thể nói, đây là lối kết theo kiểu “đảo phách”. Một
cú đảo phách ngoạn mục. Bởi đảo mà cứ như không.

*
Sang thu là bài thơ tinh tế. Điều này khỏi bàn thêm. Chẳng thế mà các
chi tiết gợi cảm của thi phẩm đã cuốn hút nhiều người yêu thơ. Nào
những hương ổi phả vào trong gió se, nào sương chùng chình qua ngõ,
rồi thì sông được lúc dềnh dàng… xem ra, thi ảnh nào cũng tài hoa. Mà
ấn tượng nhất hẳn phải là cảnh tượng Có đám mây mùa hạ/Vắt nửa
mình sang thu. Làm xác định cái không xác định, khiến cái vô hình
thành hữu hình, làm định dạng cái vốn mơ hồ, là lối viết đâu có gì lạ về
thi pháp. Thế mà thi ảnh lại mới, hình sắc lại gợi. Đám mây thực thế
mà ảo thế ! Cái cách “vắt nửa mình” kia sao mà thi vị ! Có thật chăng
một đám mây vốn của mùa hè đang mải mê lấn sân sang mùa thu ? Có
mà không có, thật mà không thật. Cứ y như giữa mùa thu và mùa hè
vẫn có một lằn ranh làm bằng sợi dây vô hình giăng ra giữa thinh
không, khiến đám mây yêu kiều và đỏng đảnh kia có thể vắt nửa mình
qua đó mà khoe sắc phô duyên vậy !

Mà đâu chỉ trong quan sát, ở thi phẩm này, Hữu Thỉnh còn tỏ ra tinh
hơn nữa trong sự đồng điệu với nhịp chuyển mùa. Những hiện tượng
riêng lẻ thì gồm cả hai hệ thống tín hiệu trái chiều, có chậm có nhanh.
Nhưng cái nhịp luân chuyển chung chi phối vạn vật thì bao giờ cũng
khẩn trương và mau lẹ. Nhịp luân chuyển ấy dường như đã nhập vào
mấy chữ tưởng rất không đâu mà lại thần tình này: Sông được lúc dềnh
dàng/Chim bắt đầu vội vã ; Vẫn còn bao nhiêu nắng/Đã vơi dần cơn
mưa”. Mấy chữ ấy đi với nhau thành cặp, hô ứng và tiếp ứng nhau làm
hiển thị cái nhịp luân chuyển trong tạo vật vốn mải mê mà vô hình.

Người đọc cũng dễ say với những nét tài hoa trong việc sử dụng nhuần
nhuyễn yếu tố cổ điển của thi sĩ. Đọc Hữu Thỉnh, có một chất rất dễ
nhận : dân gian. Còn có một chất khác, luôn cặp kè, mà xem ra lại khó
thấy : Đường thi. Sao lại cặp kè ? Thì một trong những chiêu rất Hữu
Thỉnh chẳng phải là chế tác thi liệu dân gian bằng thi pháp Đường ư ?
Cố nhiên, anh không chỉ có chiêu này. Ở Sang Thu, cái súc tích Đường
thi kết hợp với chất hồn nhiên thơ trẻ cứ loáng thoáng đâu đó trong
cách nhìn tạo vật, trong cách kiệm lời, mà hiển lộ nhất là ở phép đối
ngẫu được dùng khá nhuyễn : Sông được lúc dềnh dàng-Chim bắt đầu
vội vã ; Vẫn còn bao nhiêu nắng-Đã vơi dần cơn mưa. Có lẽ khi đọc các
cặp ấy, tâm trí ta bị trôi theo lời thơ bình đạm, ít ai để ý đến nghệ thuật
tổ chức, chỉ lúc chợt ngoái lại, thì mới vỡ lẽ: ồ, ra là phép đối ! Thế là
nhuyễn, là tinh chứ sao !
Tuy nhiên, đó vẫn là những tinh tế tiểu tiết và dễ viết.

Đôi khi quá chú mục vào cái tinh tế trong tiểu tiết có thể quên sự tinh
vi trong đại cục. Tôi muốn nói đến điều khác : ý tưởng bao trùm. Nó
mới là nét tinh vi thuộc về đại cục. Ý tưởng Sang thu được gói kín vào
thi tứ. Một thi tứ đa tầng khiến hình tượng thơ thành đa nghĩa. Nhờ đó,
thi phẩm nhỏ đã mang thi tứ lớn.
Sang thu đa nghĩa, vì ít nhất, có sự chất chồng và giao thoa của ba lớp
nghĩa : trời đất sang thu, đời sống sang thu và đời người sang thu. Lớp
nghĩa thứ nhất dễ thấy. Vì nó ở bề nổi của văn bản thơ. Nó khiến bài
thơ như một bức tranh thiên nhiên. Không. Có lẽ như những thước phim
về cảnh vật thiên nhiên thì phải hơn. Tranh thì tĩnh, phim mới động. Sự
mẫn cảm của tâm hồn thi sĩ đã được dịp phô diễn qua những thi ảnh
giàu mỹ cảm trong việc nắm bắt bao vận động, chuyển động, biến
động âm thầm và sâu kín của thiên nhiên. Nhưng, nếu chỉ thế thôi,
Sang thu cũng mới là thơ tạo vật. Hữu Thỉnh chưa đem đến cái gì mới
hơn so với các tiếng thơ thuộc thi đề thu của những người đi trước.
Đồng thời, cũng chưa phổ được vào đó hơi thở của thời mình, tinh thần
của thế hệ mình.
Hai lớp nghĩa sau mới thật là thứ hương ổi riêng mà Hữu Thỉnh phả vào
trong thi đề này. Tất nhiên, những hàm ý kín đáo kia toát lên trước hết
từ nghĩa bóng đây đó của các thi ảnh. Ai cũng có thể thấy những ẩn ý
nào đó thấp thoáng sau lối viết ẩn dụ trong các thi ảnh rải rác ngay từ
đầu sương chùng chình, sông dềnh dàng, chim vội vã v.v… Nhưng nếu
chỉ có thế thì ý nghĩa của chúng còn lờ mờ, chưa xa gì hơn một lối nói
sinh động về sự vật, chưa đủ tạo hẳn ra một lớp nghĩa khác cho văn
bản. Lớp nghĩa kia chỉ thực sự bật hầm khi hình ảnh cuối cùng đột
hiện : Sấm cũng bớt bất ngờ / Trên hàng cây đứng tuổi. Chữ “đứng
tuổi” bật sáng, phát động một lớp nghĩa khác cho bài thơ. Nó đâu chỉ
nói cây, mà còn nói người. Nhân hoá cây là bề nổi, giấu người vào cây
là bề sâu. Tự dưng, chúng ta thấy từ mạch hình ảnh thiên nhiên rải
khắp bài thơ bỗng bừng dậy một lớp nghĩa khác gắn với con người và
cuộc đời.
Có thể thấy rõ hơn nữa, khi nhìn trong tương quan khác.

Cảm thụ nghệ thuật, căn cứ quan trọng nhất là văn bản. Nhưng, chỉ bó
hẹp trong văn bản không thôi, dễ làm nghèo nghệ thuật. Trong thực tế,
thông điệp nghệ thuật của một tác phẩm không chỉ cất lên từ những gì
thuộc nội bộ văn bản, mà còn vang lên cả từ tương quan giữa văn bản
với những thứ bên ngoài vốn thiết thân với nó nữa. Ví như hoàn cảnh
sáng tác . Tác giả cho biết thời điểm viết Sang thu là mùa thu 1977, ở
nhiều lần in cũng ghi rõ như vậy. Điều này ngẫu nhiên chăng ? vô
nghĩa chăng ? Không hẳn. Bấy giờ, cuộc sống vừa qua khỏi thời chiến
đầy khốc liệt đang chuyển sang thời bình êm ả. Nghĩa là, đời sống cũng
vừa sang thu. Đây là lúc trong lòng đời có bao trăn trở xao động. Nhìn
bài thơ trong tương quan với thời điểm ấy, tự dưng chúng ta thấy các
hình ảnh đó đây nhấp nháy lên những nghĩa khác : nghĩa thế sự. Đặc
biệt từ khổ hai trở đi. Nếu ở khổ đầu, thơ còn nặng về tạo vật, thì từ
khổ thứ hai đã bảng lảng cái bóng đời. Hèn chi, cùng diễn tả nhịp vận
động chầm chậm, nhưng Sương chùng chình qua ngõ thật khác với
Sông được lúc dềnh dàng. “Chùng chình” còn dễ ưa, “dềnh dàng” đã
khó ưa. “Dềnh dàng” đâu chỉ nói về nét riêng của dòng chảy đã chậm
hơn khi con sông vào thu. Dường như nó còn ngầm tỏ thái độ về cái
điệu sống của những đối tượng nào đó hồi mùa hạ hăng hái xông pha
là thế, giờ vào thu đã tự cho phép mình được dềnh dàng, được xả hơi
chăng ? Chả phải vô cớ mà thi sĩ đem chữ “được lúc” gắn với cái thói
“dềnh dàng” ấy của sông. Cũng như thế, Chim bắt đầu vội vã có phải
chỉ đơn thuần nói về các loài chim lúc sang thu đang gấp gáp bay đi
lánh rét không thôi ? Xem ra, nó còn muốn nói tới đối tượng sống tuỳ
thời, xu thời nào đó nữa ấy chứ ? Đến khổ thứ ba, cái lớp nghĩa thế sự
bảng lảng này còn tỏ hơn nữa. Tôi ngờ rằng đây là khổ thơ mà anh
chàng thi sĩ cũng vừa trải qua một mùa hè bỏng rát đang kín đáo nói
về thế hệ mình và chính mình ? Vâng, tuy đã sang thu, nhưng lòng vẫn
còn bao nhiêu nắng. Đồng thời, bao tủi sầu yếu đuối, bao cơn mưa thở
than nay cũng đã vơi dần. Bước sang thu, hàng cây trẻ hồi nào giờ đã
đứng tuổi. Sự từng trải đã giúp cây trưởng thành, đủ vững trãi đối đầu
với mọi ba động, mọi cú giáng của cuộc đời : Sấm cũng bớt bất ngờ
/Trên hàng cây đứng tuổi. Không có chữ “đứng tuổi” cứ như lạc hệ
thống này, mọi suy cảm trên sẽ thành võ đoán, lớp nghĩa thời sự vốn
khuất mình không thể phát sáng được. Không có nó, ý ngầm của kẻ
viết vừa khó phát lộ vừa khó gói ghém.

Một cái kết quá là khôn ngoan.

Thì ra, mùa thu đâu chỉ có chuyện tiêu sơ. Mùa thu còn là chuyện
trưởng thành. Mùa thu đâu chỉ có biến thiên. Mùa thu còn tàng ẩn cả
những quân bình tự tại nữa. Chẳng phải đó là những nét độc đáo mà
Hữu Thỉnh đã đem đến cho một thi đề tưởng đã quá ư quen thuộc hay
sao ?
Từ thơ tạo vật, Sang thu đã lẳng lặng thành thơ cuộc đời !

(Nguồn: Sưu tầm)


Sang thu

SANG THU

I.Tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm


1.Tác giả
- Nhà thơ Hữu Thỉnh tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Thỉnh, sinh năm 1942,
quê ở huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 1963, Hữu thỉnh nhập
ngũ, vào binh chủng Tăng - Thiết giáp rồi trở thành cán bộ văn hóa,
tuyên huấn trong quân đội và bắt đầu sáng tác thơ. ông đã tham gia
Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam các khóa III,IV, V. Từ năm 2000,
Hữu Thỉnh được bầu làm Tổng thư kí Hội nhà văn Việt Nam.

- Hữu Thỉnh là nhà thơ viết nhiều, viết hay về những con người cuộc
sống ở nông thôn, về mùa thu. Nhiều vần thơ thu của ông mang cảm
xúc bâng khuâng, vấn vương trước đất trời trong trẻo đang chuyển
biến nhẹ nhàng.

- Tác phẩm chính: Âm vang chiến hào( in chung ), Đường tới thành phố
( trường ca – 1978 ), Từ chiến hào tới thành phố, Thư mùa đông. Với
tập thơ Thư mùa đông, ông đã được Giải thưởng văn học Đông Nam Á.

2.Hoàn cảnh ra đời:Bài thơ Sang thu được Hữu thỉnh sáng tác cuối
năm 1977, in lần đầu tiên trên báo Văn nghệ, sau đó được in lại nhiều
lần trong các tập thơ.

II.Phân tích bài thơ

1.Những hình ảnh, hiện tượng thể hiện sự biến đổi của đất trời lúc sang
thu ở khổ đầu của bài thơ

- Nhà thơ chợt nhận ra tín hiệu của sự chuyển mùa từ ngọn gió se
( nhẹ, khô và hơi lạnh ) mang theo hương ổi đang vào độ chín.

- Tâm trạng ngỡ ngàng, cảm xúc bâng khuâng qua các từ bỗng, hình
như

2.Biến chuyển trong không gian lúc sang thu được Hữu Thỉnh cảm nhận
qua nhiều yếu tố, bằng nhiều giác quan và sự rung động thật tinh tế

- Hương ổi lan vào không gian, phả vào trong gió se

- Sương đầu thu giăng mắc nhẹ nhàng, chuyển động chầm chậm nơi
đường thôn ngõ xóm.

- Dòng sông trôi một cách thanh thản gợi lên vẻ êm dịu của bức tranh
thiên nhiên, những cánh chim bắt đầu vội vã ở cuối buổi hoàng hôn.

- Cảm giác giao mùa được diễn tả thú vị qua đám mây mùa hạ “ vắt
nửa mình sang thu”

- Nắng cuối hạ còn nồng, còn sáng nhưng nhạt dần. Những ngày giao
mùa này đã ít đi những cơn mưa rào ào ạt, bất ngờ.

- Lúc này cũng bớt đi những tiếng sấm bất ngờ gắn cùng những cơn
mưa rào mà mùa hạ thường có.
3.Về hai dòng thơ cuối bài, cần hiểu với hai tầng nghĩa. Lúc sang thu,
bớt đi những tiếng sấm bất ngờ. Cũng có thể hiểu: hàng cây không còn
bị bất ngờ, bị giật mình vì tiếng sấm nữa. Chính nhà thơ Hữu Thỉnh đã
tâm sự: Với hình ảnh có giá trị tả thực về hiện tượng thiên nhiên này,
ông muốn gửi gắm suy ngẫm của mìh – khi con người đã từng trải thì
cũng vững vàng hơn trước những tác động bất thường của ngoại cảnh
của cuộc đời.
Phân tích hình ảnh "Đầu súng trăng treo" trong bài thơ "Đồng
Chí" của Chính Hữu.

Phân tích hình ảnh "Đầu súng trăng treo" trong bài thơ "Đồng
Chí" của Chính Hữu.

Không biết tự bao giờ ánh trăng đã đi vào văn học như một huyền thoại
đẹp. ở truyền thuyết “Chú cuội cung trăng” hay Hằng Nga trộm thuốc
trường sinh là những mảng đời sống tinh thần bình dị đậm đà màu sắc
dân tộc của nhân dân ta. Hơn thế nữa, trăng đã đi vào cuộc chiến đấu,
trăng bảo vệ xóm làng, trăng được Chính Hữu kết tinh thành hình ảnh
“đầu súng trăng treo” rất đẹp trong bài thơ Đồng chí của mình.

Sau hơn mười năm làm thơ, Chính Hữu cho ra mắt tập “Đầu súng trăng
treo”. Thế mới biết tác giả đắc ý như thế nào về hình ảnh thật đẹp, thơ
mộng, rất thực nhưng không thiếu nét lãng mạn đó.

Đầu súng trăng treo- đó là một hình ảnh tả thực một bức tranh tả thực
và sinh động. Giữa núi rừng heo hút “rừng hoang sương muối” giữa
đêm thanh vắng tĩnh mịch bỗng xuất hiện một ánh trăng treo lơ lửng
giữa bầu trời. Và hình ảnh này cũng thật lạ làm sao, súng và trăng vốn
tương phản với nhau, xa cách nhau vời vợi bỗng hoà quyện vào nhau
thành một hình tượng gắn liền. Nhà thơ không phải tả mà chỉ gợi, chỉ
đưa hình ảnh nhưng ta liên tưởng nhiều điều.

Đêm thanh vắng người lính bên nhau chờ giặc tới, trăng chếch bóng soi
sáng rừng hoang bao la rộng lớn, soi sáng tình cảm họ, soi sáng tâm
hồn họ… Giờ đây, người chiến sĩ như không còn vướng bận về cảnh
chiến đấu sắp diễn ra, anh thả hồn theo trăng, anh say sưa ngắm ánh
trăng toả ngời trên đỉnh núi, tâm hồn người nông dân “nước mặn đồng
chua” hay “đất cày trên sỏi đá” cằn cỗi ngày nào bỗng chốc trở thành
người nghệ sĩ đang ngắm nhìn vẻ đẹp ánh trăng vốn có tự ngàn đời.
Phải là một người có tâm hồn giàu lãng mạn và một phong thái ung
dung bình tĩnh lạc quan thì anh mới có thể nhìn một hình ảnh nên thơ
như thế. Chút nữa đây không biết ai sống chết, chút nữa đây cũng có
thể là giây phút cuối cùng ta còn ở trên đời này nhưng ta vẫn “mặc
kệ”, vẫn say sưa với ánh trăng.
ánh trăng như xua tan cái lạnh giá của đêm sương muối, trăng toả
sáng làm ngời ngời lòng người, trăng như cùng tham gia, cùng chứng
kiến cho tình đồng chí đồng đội thiêng liêng của những ngươì linh.
Trăng truyền thêm sức mạnh cho họ, tắm gội tâm hồn họ thanh cao
hơn, trong sạch hơn, trăng cũng là bạn, là đồng chí của anh bộ đội Cụ
Hồ.

Đầu súng trăng treo- hình ảnh thật đẹp và giàu sức khái quát. Súng và
trưng kết hợp nhau; súng tượng trưng cho chiến đấu- trăng là hình ảnh
của thanh bình hạnh phúc. Súng là con người, trăng là đất nước quê
hương của bốn nghìn năm văn hiến. Súng là hình ảnh người chiến sĩ
gan dạ kiên cường- Trăng là hình ảnh người thi sĩ. Sự kết hợp hài hoà
tạo nên nét lãng mạn bay bổng vừa gợi tả cụ thể đã nói lên lí tưởng,
mục đích chiến đấu mà người lính ấy đang tham gia. Họ chiến đấu cho
sự thanh bình, chiến đấu cho ánh trăng mãi nghiêng cười trên đỉnh núi.
Ta hãy tưởng tượng xem: giữa đêm khuya rừng núi trập trùng bỗng
hiện lên hình ảnh người lính đứng đó với súng khoác trên vai, nòng
súng chếch lên trời và ánh trăng lơ lửng ngay nòng ngọn súng. Đó là
biểu tượng Khát Vọng Hoà Bình, nó tượng trưng cho tư thế lạ quan bình
tĩnh, lãng mạn của người bảo vệ Tổ quốc.

Cái thân của câu thơ “Đầu súng trăng treo” nằm ở từ “treo”, ta thử
thay bằng từ mọc thì thật thà quá, làm sao còn nét lãng mạn? Và hãy
thay một lần nữa bằng từ “lên” cũng không phù hợp, vì nó là hiện
tượng tự nhiên: trăng tròn rồi khuyết, trăng lên trăng lặn sẽ không còn
cái bất ngờ màu nhiệm nữa. Chỉ có trăng “treo”. Phải, chỉ có “Đầu súng
trăng treo” mới diễn tả hết được cái hay, cái bồng bềnh thơ mộng của
một đêm trăng “đứng chờ giặc tới”, chẳng thơ mộng chút nào. Ta nên
hiểu bài thơ dường như được sáng tác ở thời điểm hiện tại “đêm nay”
trong một không gian mà mặt đất là “rừng hoang sương muối” lạnh lẽo
và lòng đầy phấp phỏng giặc sẽ tới có nghĩa là cái chết có thể đến từng
giây từng phút. Thế nhưng người lính ấy vẫn đứng cạnh nhau để tâm
hồn họ vút lên nở thành vầng trăng. Nếu miêu tả hiện thực thì vầng
trăng ấy sẽ có hình khối của không gian ba chiều. ở đây, từ điểm nhìn
xa, cả vầng trăng và súng đều tồn tại trên một mặt phẳng và trong hội
hoạ nó mang tính biểu tượng cao. Tố Hữu cũng có một câu thơ kiểu
này: “ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” và Phạm Tiến Duật thì “Và
vầng trăng vượt lên trên quầng lửa” hay Hoàng Hữu “Chỉ một nửa vầng
trăng thôi một nửa. Ai bỏ quên ở phía chân trời…”. Nhưng có lẽ cô kết
nhất, hay nhất vẫn là “Đầu súng trăng treo”.

Như đã nói ở trên, không phải ngẫu nhiên mà Chính Hun lấy hình ảnh
“Đầu súng trăng treo” làm tựa đề cho tập thơ của mình. Nó là biểu
tượng, là khát vọng và cũng là biểu hiện tuyệt vời chất lãng mạn trong
bài thơ cách mạng. Lãng mạng nhưng không thoát li, không quên được
nhiệm vụ và trách nhiệm của mình. Lãng mạn vì con người cần có
những phút sống cho riêng mình. Trước cái đẹp mà con người trở nên
thờ ơ lãnh đạm thì cuộc sống vô cùng tẻ nhạt. Âm hưởng của câu thơ
đã đi đúng với xu thế lịch sử của dân tộc. Hình ảnh trăng và súng đã có
nhiều trong thơ Việt Nam nhưng chưa có sự kết hợp kì diệu nào bằng
hình ảnh Đầu súng trăng treo của Chính Hữu.

Nếu như Elsa Trioslet – nữ văn sĩ Pháp có nói “Nhà văn là người cho
máu” thì tôi hãnh diện nói với văn sĩ rằng: Chính Hữu đã cho máu để
tạo nên câu thơ tuyệt vời để cống hiến cho cuộc kháng chiến của
chúng ta. Và bạn ơi! Bạn hãy thả cùng tôi những chú chim trắng trên
bầu trời, hãy hát vang lên ca khúc Hoà Bình vì hình ảnh đầu súng trăng
treo mà nhà thơ đã gởi vào đó bao nhiêu khát vọng nay đã thành hiện
thực
(Nguồn - Internet)
Nguồn: Sưu tầm
Truyện ngắn làng của Kim Lân gợi cho em những suy nghĩ gì về
những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt
Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp.

Truyện ngắn làng của Kim Lân gợi cho em những suy nghĩ gì về
những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân
Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp.

A- Mở bài:

- Kim Lân thuộc lớp các nhà văn đã thành danh từ trước Cách mạng
Tháng 8 – 1945 với những truyện ngắn nổi tiếng về vẻ đẹp văn hoá xứ
Kinh Bắc. Ông gắn bó với thôn quê, từ lâu đã am hiểu người nông dân.
Đi kháng chiến, ông tha thiết muốn thể hiện tinh thần kháng chiến của
người nông dân

- Truyện ngắn Làng được viết và in năm 1948, trên số đầu tiên của tạp
chí Văn nghệ ở chiến khu Việt Bắc. Truyện nhanh chóng được khẳng
định vì nó thể hiện thành công một tình cảm lớn lao của dân tộc, tình
yêu nước, thông qua một con người cụ thể, người nông dân với bản
chất truyền thống cùng những chuyển biến mới trong tình cảm của họ
vào thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

B- Thân bài

1. Truyện ngắn Làng biểu hiện một tình cảm cao đẹp của toàn dân tộc,
tình cảm quê hương đất nước. Với người nông dân thời đại cách mạng
và kháng chiến thì tình yêu làng xóm quê hương đã hoà nhập trong
tình yêu nước, tinh thần kháng chiến. Tình cảm đó vừa có tính truyền
thống vừa có chuyển biến mới.
2. Thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lí chung ấy
trong sự thể hiện sinh động và độc đáo ở một con người, nhân vật ông
Hai. ở ông Hai tình cảm chung đó mang rõ màu sắc riêng, in rõ cá tính
chỉ riêng ông mới có.

a. Tình yêu làng, một bản chất có tính truyền thông trong ông Hai.

- Ông hay khoe làng, đó là niềm tự hào sâu sắc về làng quê.

- Cái làng đó với người nồn dân có một ý nghĩa cực kì quan trọng trong
đời sống vật chất và tinh thần.

b. Sau cách mạng, đi theo kháng chiến, ông đã có những chuyển biến
mới trong tình cảm.

- Được cách mạng giải phóng, ông tự hào về phong trào cách mạng
của quê hương, vê việc xây dựng làng kháng chiến của quê ông. Phải
xa làng, ông nhớ quá cái khong khí “đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân
đá…”; rồi ông lo “cái chòi gác,… những đường hầm bí mật,…” đã xong
chưa?

- Tâm lí ham thích theo dõi tin tức kháng chiến, thích bìh luận, náo nức
trước tin thắng lợi ở mọi nơi “Cứ thế, chỗ này giết một tí, chỗ kia giết
một tí, cả súng cũng vậy, hôm nay dăm khẩu, ngày mai dăm khẩu, tích
tiểu thành đại, làm gì mà thằng Tây không bước sớm”.

c. Tình yêu làng gắn bó sâu sắc với tình yêu nước của ông Hai bộc lộ
sâu sắc trong tâm lí ông khi nghe tin làng theo giặc.

- Khi mới nghe tin xấu đó, ông sững sờ, chưa tin. Nhưng khi người ta kể
rành rọt, không tin không được, ông xấu hổ lảng ra về. Nghe họ chì
chiết ông đau đớn cúi gầm mặt xuống mà đi.

- Về đến nhà, nhìn thấy các con, càng nghĩ càng tủi hổ vì chúng nó
“cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi”. Ông giận những người ở lại làng,
nhưng điểm mặt từng người thì lại không tin họ “đổ đốn” ra thế. Nhưng
cái tâm lí “không có lửa làm sao có khói”, lại bắt ông phải tin là họ đã
phản nước hại dân.

- Ba bốn ngày sau, ông không dám ra ngoài. Cai tin nhục nhã ấy choán
hết tâm trí ông thành nỗi ám ảnh khủng khiếp. Ông luôn hoảng hốt
giật mình. Khong khí nặng nề bao trùm cả nhà.

- Tình cảm yêu nước và yêu làng còn thể hiện sâu sắc trong cuộc xung
đột nội tâm gay gắt: Đã có lúc ông muốn quay về làng vì ở đây tủi hổ
quá, vì bị đẩy vào bế tắc khi có tin đồn không đâu chứa chấp người
làng chợ Dầu. Nhưng tình yêu nước, lòng trung thành với kháng chiến
đã mạnh hơn tình yêu làng nên ông lại dứt khoát: “Làng thì yêu thật
nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Nói cứng như vậy nhưng thực lòng
đau như cắt.

- Tình cảm đối với kháng chiến, đối với cụ Hồ được bộc lộ một cách
cảm động nhất khi ông chút nỗi lòng vào lời tâm sự với đứa con út
ngây thơ. Thực chất đó là lời thanh minh với cụ Hồ, với anh em đồng
chí và tự nhủ mình trong những lúc thử thách căng thẳng này:

+ Đứa con ông bé tí mà cũng biết giơ tay thề: “ủng hộ cụ Hồ Chí Minh
muôn năm!” nữa là ông, bố của nó.

+ Ông mong “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu
trên cổ xét soi cho bố con ông”.

+ Qua đó, ta thấy rõ:

• Tình yêu sâu nặng đối với làng chợ Dầu truyền thống (chứ không phải
cái làng đổ đốn theo giặc).

• Tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng với kháng chiến mà
biểu tượng của kháng chiến là cụ Hồ được biẻu lộ rất mộc mạc, chân
thành. Tình cảm đó sâu nặng, bền vững và vô cùng thiêng liêng : có
bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai.

d. Khi cái tin kia được cải chính, gánh nặng tâm lí tủi nhục được trút bỏ,
ông Hai tột cùng vui sướng và càng tự hào về làng chợ Dầu.

- Cái cách ông đi khoe việc Tây đốt sạch nhà của ông là biểu hiện cụ
thể ý chí “Thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước” của người nông
dân lao động bình thường.

- Việc ông kể rành rọt về trận chống càn ở làng chợ Dầu thể hiện rõ
tinh thần kháng chiến và niềm tự hào về làng kháng chiến của ông.

3. Nhân vạt ông Hai để lại một dấu ấn không phai mờ là nhờ nghệ
thuật miêu tả tâm lí tính cách và ngôn ngữ nhân vật của người nông
dân dưới ngòi bút của Kim Lân.

- Tác giả đặt nhân vật vào những tình huống thử thách bên trong để
nhân vật bộc lộ chiều sâu tâm trạng.

- Miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua ý nghĩ, hành vi,
ngôn ngữ đối thoại và độc thoại.
Ngôn ngữ của Ông Hai vừa có nét chung của người nông dân lại vừa
mang đậm cá tính nhân vật nên rất sinh động.

C- Kết bài:

- Qua nhân vật ông Hai, người đọc thấm thía tình yêu làng, yêu nước
rất mộc mạc, chân thành mà vô cùng sâu nặng, cao quý trong những
người nông dân lao động bình thường.

- Sự mở rộng và thống nhất tình yêu quê hương trong tình yếu đất
nước là nét mới trong nhận thức và tình cảm của quần chúng cách
mạng mà văn học thời kháng chiến chống Pháp đã chú trọng làm nổi
bật. Truyện ngắn Làng của Kim Lân là một trong những thành công
đáng quý.

Bài Viết Số 03 : Kể lại cuộc gặp gỡ người lính lái xe trong


BTVTĐXKK của PTD...

DÀN Ý: (dàn ý chi tiết chung ^^)

I.Mở Bài:

_Tình huống truyện (Nhân một chuyến đi.....gặp người sĩ quan...qua trò
chuyện biết anh chính là người lính lái xe trong "BTVTĐXKK" của PTD...)

II.Thân Bài:

1.Tính chất gian khổ khốc liệt mà những người lính lái xe Trường Sơn
(TS) phải chịu đựng trong những năm tháng của cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước.

2.Những nhân phẩm cao đẹp của người lính(dũng cảm hiên ngang đầy
lạc quan,có chút ngang tàng trẻ trung,sống có lí tưởng,có mục đích,có
trách nhiệm với Tổ Quốc,với nhân dân).

III.Kết Bài:

_Kết thúc câu chuyện

_Suy nghĩ về thế hệ cha anh,về người lính,về trách nhiệm của bản thân
đối với gia đình,đất nước,nhân dân

BÀI LÀM: ( đây là bài tương đối hoàn chỉnh ^^)


Nhân một chuyến đi thăm nghĩa trang liệt sĩ,tôi gặp người sĩ quan đang
đứng thắp hương cho người đồng đội đã mất.Tôi và người sĩ quan đó
trò chuyện rất vui vẻ và thật tình cờ tôi biết được người sĩ quan này
chính là anh lính lái xe trong "Bài Thơ Về Tiểu Ðội Xe Không Kính" của
Phạm Tiến Duật năm xưa.

Người sĩ quan kể với tôi rằng cuộc kháng chiến của dân tộc ta vô cùng
ác liệt,những con đường huyết mạch nối giữa miền Nam và miền Bắc
lại là nơi ác liệt nhất.Bom đạn của giặc Mỹ ngày đêm dội xuống những
con đường này nhằm cắt đứt sự tiếp viện của miền Bắc cho miền
Nam.Trong những ngày tháng đó anh chính là người lính lái xe làm
nhiệm vụ vận chuyển lương thực,vũ khí,đạn dược...trên con đường TS
này.Bom đạn của giặc Mỹ đã biến cho những chiếc xe của các anh
không còn kính nữa.Nghe anh kể,tôi mới hiểu rõ hơn về sự gian khổ ác
liệt mà những người lính lái xe phải chịu đựng ngày đêm.Nhưng không
phải vì thế mà họ lùi bước,họ vẫn ung dung lái những chiếc xe không
kính đó băng băng đi tới trên những chặn đường.Họ nhìn thấy đất,nhìn
thấy trời,thấy cả ánh sao đêm,cả nhưng cánh chim sa,họ nhìn thẳng về
phía trước,phía ấy là tương lai của đất nước được giải phóng,của nhân
dân được hạnh phúc,tự do.Người sĩ quancòn kể với tôi rằng không có
kính cũng thật bất tiện nhưng họ vẫn lái những chiếc xe đó,bụi ùa vào
làm những mái tóc đen xanh trở nên trắng xóa như người già,bọn họ
cũng chưa cần rửa rồi nhìn nhau cất tiếng cười ha ha.Ôi! tiếng cười của
họ sao thật nhẹ nhõm.Gian khổ ác liệt,bom đạn của kẻ thù đâu có làm
họ nãn chí,sờn lòng.Những chiếc xe không kính lại tiếp tục băng băng
trên những tuyến đường ra trận,gặp mưa thì phải ướt áo thôi.Mưa cứ
tuôn cứ xối
nhưng họ vẫn chưa cần thay áo và cứ ráng lái thêm vài trăm cây số
nữa,vượt qua những chặng đường ác liệt,đảm bảo an toàn cho những
chuyến hàng rồi họ nghĩ mưa sẽ ngừng,gió sẽ lùa vào rối áo sẽ khô
mau thôi.Khi được học "Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính" tôi cứ luôn
suy nghĩ rằng những khó khăn gian khổ ác liệt đó chỉ có nhân vật trong
bài thơ mới vượt qua được nhưng đó là những suy nghĩ sai lầm của tôi
bởi được gặp,được trò chuyện với người chiến sĩ lái xe năm xưa,tôi mới
hiếu rõ hơn về họ.Họ vẫn vui tươi,tinh nghịch.Bom đạn của giặc Mỹ
ngày đêm nổ sát bên tai phá hủy con đường,cái chết luôn rình rập bên
họ nhưng họ vẫn là những con người lạc quan,yêu đời.Anh sĩ quan lại
kể cho tôi nghe trên những cung đường vận chuyển đó anh luôn được
gặp những người bạn,những người đồng đội của anh.Có những người
còn,có những người đã hy sinh...Trong những giây phút gặp gỡ hiểm
hoi đó,cái vắt tay qua ô cửa kính vỡ đã làm cho tình đồng đội của họ
thấm thiết hơn rồi những bữa cơm bên bếp Hoàng Cầm với những cái
bát,đôi đũa dùng chung,quây quần bên nhau như một đại gia đình của
những người lính lái xe TS.Rồi những giây phút nghỉ ngơi trên chiếc
võng đu đưa,kể cho nhau nghe sự ác liệt của những cung đường đã đi
qua.Sự dũng cảm của các cô gái thanh niên xung phong luôn đảm bảo
cho những chuyến xe thông suốt.Đúng là con đường của họ đang
đi,nhiệm vụ của họ đang làm vô vùng nguy hiểm.Bom đạn Mỹ hạ
xuống bất cứ lúc nào,cả ngày lẫn đêm.Anh sĩ quan còn nói cho tôi biết
những chiếc xe ấy không chỉ mất kính mà còn mất cả đèn,rồi không có
mui xe,thùng xe rách xước,những thiếu thốn này không ngăn cản được
những chiếc xe vẫn chạy băng băng về phía trước,phía trước ấy là
miền Nam ruột thịt.Nghĩ đến hình ảnh những chiếc xe băng băng về
phía trước tôi lại nghĩ đến những người lính lái xe.Họ thật dũng
cảm,hiên ngang,đầy lạc quan,có chút ngang tàng nhưng họ sống và
chiến đấu vì Tổ Quốc,vì nhân dân.Những chuyến hàng của họ đã góp
phần tạo nên chiến thắng của dân tộc ta:chiến thắng mùa xuân năm
1975,giải phóng miền Nam,thống nhất đất nước.

Tôi và anh sĩ quan chia tay nhau sau cuộc gặp gỡ và nói chuyện rất
vui.Tôi khâm phục những người lính lái xe bởi tình yêu nước,ý chí kiên
cường của họ và tôi hiểu rằng thế hệ chúng tôi luôn phải ghi nhớ công
ơn của họ,cần phải phấn đấu trở thành công dân gương mẫu,nắm vững
khoa học,kĩ thuật để xây dựng một đất nước văn minh,hiện đại.
Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong tác phẩm “Làng ”của Kim
Lân

Kim Lân là nhà văn có vốn sống vô cùng phong phú và sâu sắc về nông
thôn Việt Nam.Các sáng tác của ông đều xoay quanh cảnh ngộ và sinh
hoạt của người nông dân. Văn bản “Làng” đươc sáng tác vào thời kỳ
đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ,với nhân vật chính là
ông Hai ,một lão nông hiền lành ,yêu làng ,yêu nước và gắn bó với
kháng chiến .
Ông Hai cũng như bao người nông dân quê từ xưa luôn gắn bó với làng
quê của mình.Ông yêu quí và tự hào về làng Chợ Dầu và hay khoe về
nó một cách nhiệt tình, hào hứng.Ở nơi tản cư ông luôn nhớ về
làng,theo dõi tin tức kháng chiến và hỏi thăm về Chợ Dầu .Tình yêu
làng của ông càng được bộc lộ một cách sâu sắc và cảm động trong
hoàn cảnh thử thách . Kim Lân đã đặt nhân vật vào tình huống gay gắt
để bộc lộ chiều sâu tình cảm của nhân vật.Đó là tin làng chợ Dầu lập tề
theo giặc.Từ phòng thông tin ra,đang phấn chấn,náo nức vì những tin
vui của kháng chiến thì gặp những người tản cư,nghe nhắc đến tên
làng,ông Hai quay phắt lại,lắp bắp hỏi,hy vọng được nghe những tin tốt
lành,nào ngờ biết tin dữ:“Cả làng Việt gian theo Tây ”.Tin bất ngờ ấy
vừa lọt vào tai đã khiến ông bàng hoàng, đau đớn :“Cổ ông lão nghẹn
ắng hẳn lại,da mặt tê rân rân ,ông lão lặng đi tưởng như đến không thở
được,một lúc lâu ông mới rặn è è nuốt một cái gì vướng ở cổ.Ông cất
tiếng hỏi,giọng lạc hẳn đi ”nhằm hy vọng điều vừa nghe không phải là
sự thật.Trước lời khẳng định chắc chắn của những người tản cư,ông tìm
cách lảng về.Tiếng chửi văng vẳng của người đàn bà cho con bú khiến
ông tê tái :“cha mẹ tiên sư nhà chúng nó ,đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt
được người ta còn thương,cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi
đứa một nhát”.Về đến nhà ông chán chường “nằm vật ra giường”,nhìn
đàn con nước mắt ông cứ giàn ra “ chúng nó cũng là trẻ con làng Việt
gian đấy ư?Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?”.Ông căm
thù những kẻ theo Tây,phản bội làng,ông nắm chặt hai tay lại mà rít
lên: “chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái
giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này ”.Niềm tin,nỗi ngờ giằng
xé trong ông.Ông kiểm điểm lại từng người trong óc, thấy họ đều có
tinh thần cả “có đời nào lại cam tâm làm cái điều nhục nhã ấy ”.Ông
đau xót nghĩ đến cảnh “người ta ghê tởm,người ta thù hằn cái giống
Việt gian bán nước”.Suốt mấy ngày liền ông chẳng dám đi đâu,“chỉ ở
nhà nghe ngóng binh tình”,lúc nào cũng nơm nớp tưởng người ta đang
để ý,đang bàn tán đến cái chuyện làng mình.Nỗi ám ảnh,day dứt,nặng
nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông.Ông đau đớn,tủi hổ
như chính ông là người có lỗi...
Tình thế của ông càng trở nên bế tắc,tuyệt vọng khi bà chủ nhà có ý
đuổi gia đình ông với lý do không chứa người của làng Việt gian.Trong
lúc tưởng tuyệt đường sinh sống ấy,ông thoáng có ý nghĩ quay về làng
nhưng rồi lại gạt phắt ngay bởi “về làng tức là bỏ kháng chiến,bỏ Cụ Hồ
”,là “cam chịu quay trở lại làm nô lệ cho thằng Tây”. Tình yêu làng lúc
này đã lớn rộng thành tình yêu nước bởi dẫu tình yêu,niềm tin và tự
hào về làng Dầu có bị lung lay nhưng niềm tin và Cụ Hồ và cuộc kháng
chiến không hề phai nhạt.Ông Hai đã lựa chọn một cách đau đớn và
dứt khoát:“Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải
thù!”.Dù đã xác định thế nhưng ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm của
mình đối với quê hương.Bởì thế mà ông càng xót xa,đau đớn... Trong
tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy,ông chỉ còn biết tìm niềm an ủi
trong lời tâm sự với đứa con trai nhỏ.Nói với con mà thực ra là đang
trút nỗi lòng mình.Ông hỏi con những điều đã biết trước câu trả
lời:“Thế nhà con ở đâu?”,“thế con ủng hộ ai ?”…Lời đứa con vang lên
trong ông thiêng liêng mà giản dị:“Nhà ta ở làng Chợ Dầu”,“ủng hộ Cụ
Hồ Chí Minh muôn năm !”…Những điều ấy ông đã biết,vẫn muốn cùng
con khắc cốt ghi tâm.Ông mong “anh em đồng chí biết cho bố con ông,
tấm lòng bố con ông là như thế đấy,có bao giờ dám đơn sai,chết thì
chết có bao giờ dám đơn sai ”.Những suy nghĩ của ông như những lời
nguyện thề son sắt.Ông xúc động,nước mắt “chảy ròng ròng trên hai
má”.Tấm lòng của ông với làng,với nước thật sâu nặng,thiêng
liêng.Dẫu cả làng Việt gian thì ông vẫn một lòng trung thành với kháng
chiến,với Cụ Hồ …
May thay,tin đồn thất thiệt về làng Chợ Dầu được cải chính .Ông Hai
sung sướng như được sống lại.Ông đóng khăn áo chỉnh tề đi với người
báo tin và khi trở về “cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui rạng rỡ
hẳn lên ”.Ông mua cho con bánh rán đường rồi vội vã,lật đật đi khoe
với mọi người.Đến đâu cũng chỉ mấy câu“Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ !
Đốt sạch !Đốt nhẵn ! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải
chính.Cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng tôi Việt gian theo Tây ấy mà
.Láo!Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả .” “Ông cứ múa tay lên mà
khoe với mọi người”.Ông khoe nhà mình bị đốt sạch,đốt nhẵn như là
minh chứng khẳng định làng ông không theo giặc. Mất hết cả cơ
nghiệp mà ông không hề buồn tiếc,thậm chí còn rất sung sướng,hạnh
phúc.Bởi lẽ,trong sự cháy rụi ngôi nhà của riêng ông là sự hồi sinh về
danh dự của làng chợ Dầu anh dũng kháng chiến.Đó là một niềm vui kỳ
lạ,thể hiện một cách đau xót và cảm động tình yêu làng,yêu nước,tinh
thần hy sinh vì cách mạng của người dân Việt Nam trong cuộc kháng
chiến chống kẻ thù xâm lược .
Cách miêu tả chân thực,sinh động,ngôn ngữ đối thoại,độc thoại và độc
thoại nội tâm đa dạng,tự nhiên như cuộc sống cùng với những mâu
thuẫn căng thẳng,dồn đẩy, bức bối đã góp phần không nhỏ tạo nên
thành công của câu chuyện, đồng thời còn thể hiện sự am hiểu và gắn
bó sâu sắc của nhà văn với người nông dân và công cuộc kháng chiến
của đất nước.
Qua nhân vật ông Hai ta hiểu thêm về vẻ đẹp tâm hồn của người nông
dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược :Yêu
làng,yêu nước và gắn bó với kháng chiến.Có lẽ vì thế mà tác phẩm
“Làng ” xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc của văn
học Việt Nam hiện đại

Suy nghĩ về nhân vật Nhĩ trong tác phẩm "BQ"

Là một trong những cây bút tiêu biểu của nền văn học kháng chiến
chống Mỹ ,Nguyễn Minh Châu có nhiều những tìm tòi quan trọng góp
phần đổi mới văn học nưu?c nhà .Truyện ngắn của ông thưuờng chứa
đựng những suy ngẫm trải nghiệm sâu sắc về con ngưuời và cuộc đời .
“Bến quê ” là tác phẩm tiêu biểu cho đề tài đó .
Toàn bộ câu chuyện xoay quanh nhân vật Nhĩ trong những ngày cuối
đời .Chuỗi nghịch lý bắt đầu chính trong những ngày ấy .Bị cột chặt
trên giuờng bệnh ,Nhĩ phát hiện ra vẻ đẹp lạ lùng của bãi bồi bên kia
sông .Cảnh vật nơi ấy đẹp nhưu thơ nhưu hoạ :Những bông bằng lăng
cuối mùa thưua thớt nhung đậm sắc ,con sông Hồng màu đỏ nhạt ,ánh
nắng sớm ,vùng phù sa lâu đời của bãi bồi bên kia sông …Những cảnh
sắc vốn quen thuộc gần gũi nhưung duường nhuư rất mới mẻ đối với
anh .Chính vào lúc nhận ra vẻ đẹp và sự giàu có của bến quê cũng là
lúc Nhĩ hiểu ra một cách đau xót ,bởi một ngưuời “đã từng đi tới không
sót một xó xỉnh nào trên trái đất ” lại chưua từng đặt chân lên “cái bờ
bên kia sông Hồng ngay truước cửa sổ nhà mình ”.
Căn bệnh liệt gắn chặt Nhĩ vào giưuờng bệnh .Mọi sinh hoạt của anh
trông cả vào sự chăm sóc của vợ con . Sáng hôm ấy ,bằng trực giác
,anh nhận ra thời gian của mình chẳng còn bao lâu nữa ,anh mới cảm
nhận thấm thía về nguười vợ của mình .Nhĩ để ý “thấy Liên mặc áo vá
”, “những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai anh ”,anh nói với
vợ những lời xót xa, ân hận : “Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm ”.Giờ
đây Nhĩ mới thực sự thấu hiểu và biết ơn vợ sâu sắc bởi “tâm hồn Liên
vẫn giữ nguyên vẹn những nét tảo tần và chịu đựng hy sinh từ bao đời
xưa và cũng chính nhờ điều đó, mà sau nhiều tháng ngày bôn tẩu tìm
kiếm, Nhĩ đã tìm thấy được nơi nưưuơng tựa là gia đình trong những
ngày này ”.Nhĩ -con ngưuời của một thời huy hoàng, cho đến khi không
còn khả năng đi lại mới phát hiện ra vẻ đẹp của bến quê cũng nhưu sự
tảo tần và đức hy sinh của vợ .Trưuớc khi ốm anh chỉ biết đến những
chân trời xa ngát với những công việc cao sang mà thờ ơ ,vô tình với
tất cả những gì gần gụi xung quanh ,kể cả nguười vợ suốt một đời yêu
thuương và tận tuỵ .Sự thấu hiểu muộn màng trong những ngày cuối
đời dù sao cũng đem lại cho anh sự bình yên, tin cậy sau cả một đời
bôn tẩu ,kiếm tìm .
Song nghịch lý của câu chuyện không chỉ có thế .Cũng trong buổi sáng
hôm ấy, khi nhận ra vẻ đẹp qua ô cửa sổ ,Nhĩ bừng dậy nỗi khát khao
cháy lòng và vô vọng là một lần đuược đặt chân lên bãi bồi bên kia
sông .Khát khao đó mang ý nghĩa sâu sắc bởi đó chính là sự thức tỉnh
về những giá trị bền vững ,bình dị mà sâu xa của cuộc sống ,những giá
trị dễ bị ta vô tình ,bỏ qua và quên lãng nhất là lúc còn trẻ khi những
khát vọng xa vời vẫy gọi , cuốn nguười ta đi .Sự nhận thức này chỉ đến
đưưuợc với ta khi đã từng trải .Với Nhĩ ,đó là lúc cuối đời khi phải nằm
liệt trên giưuờng bệnh.Vì thế đó là sự thức tỉnh pha lẫn niềm ân hận xót
xa : “Hoạ chăng chỉ có anh đã từng trải ,đã từng in gót chân khắp mọi
chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết mọi sự giàu có lẫn vẻ đep của bãi bồi
sông Hồng ngay bờ bên kia cả trong những nét tiêu sơ và cái điều riêng
anh khám phá thấy giống nhuư một niềm say mê pha lẫn nỗi ân hận
đau đớn ” . Với anh, bây giờ đó thực sư? là miền đất xa lắc vì Nhĩ “lực
bất tòng tâm ” ” . Không thể tự làm điều mình khao khát,Nhĩ nhờ con
trai thay mình sang sông ,đặt chân lên bãi phù sa màu mỡ .Oái oăm
thay ,đứa con không hiểu ưuớc muốn của cha ,đã đi một cách miễn
cưưuỡng và bị cuốn vào trò chơi phá cờ thế trên hè phố .Cậu con trai
có thể lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày.Từ đó Nhĩ nghiệm ra một qui
luật khá phổ biến của đời ngưuời “Con nguười ta trên đưuờng đời thật
khó tránh đuợc những điều vòng vèo hoặc chùng chình”.Anh không
trách con vì “nó đã thấy gì hẫp dẫn bên kia sông đâu ”.
ở cuối chuyện ,khi Nhĩ tuưởng tuượng chính mình như một nhà thám
hiểm đang chậm rãi đặt từng bưuớc chân lên mặt đất dấp dính phù
sa .Nhĩ xúc động mạnh ,chân dung anh khác thưuờng “mặt mũi đỏ
rựng ,hai mắt long lanh chứa môt nỗi say mê đầy đau khổ ”.Khi con đò
sắp chạm vào bờ đất bên này ,Nhĩ thu hết tàn lực ,đu nguười lên cửa sổ
,giơ cánh tay gầy guộc “khoát khoát y nhuư đang khẩn thiết ra hiệu
cho một ngưuời nào đó ”.Phải chăng anh đang nôn nóng thúc giục con
trai hãy mau hơn kẻo lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày ?Và duờng
nhưu nó còn có ý nghĩa khái quát hơn :Muốn thức tỉnh mọi ngưuời
vưuợt lên những cái vòng vèo hoặc chùng chình trên đưuờng đời để
hứơng tới những giá trị đích thực vốn rất gần gũi bình dị mà bền vững !
Bằng cách tạo dựng chuỗi nghịch lý để nhân vật tự nhận thức,suy
ngẫm và cách xây dựng nhiều hình ảnh ,chi tiết mang ý nghĩa biểu
tưuợng tác giả đã tạo nên ý nghĩa sâu xa cho tác phẩm.Ngòi bút miêu
tả thiên nhiên đẹp ,tinh tế ,giọng văn thầm trầm ẩn chứa những chiêm
nghiệm ,suy ngẫm của tác giả đã góp phần không nhỏ tạo nên những
ấn t?ương riêng cho tác phẩm .
Những dòng cuối cùng của “Bến quê” khép lại nhuưng dưu âm từ
những trải nghiệm sâu sắc của nhà văn về cuộc đời và con ngưuười
dưuờng nhưu vẫn còn lan toả đâu đây,thức tỉnh trong ta sự trân trọng
vẻ đẹp về những gì bình dị ,gần gũi của gia đình ,quê hưuơng ,xứ sở .

Suy nghĩ về nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm “Chuyện người
con gái Nam Xương”của Nguy

Trong văn học Việt Nam đã có không ít tác phẩm mang tên gọi truyền
kỳ hoặc có tính chất truyền kỳ song được tôn vinh là “ thiên cổ kỳ bút”
thì cho đến nay chỉ có một “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn
Dữ .“Chuyện người con gái Nam Xương” được rút trong tập những câu
chuyện kỳ lạ đó .Nhân vật chính của tác phẩm là Vũ Nương đã để lại
trong lòng người đọc niềm cảm thương sâu sắc.
Tác phẩm là tiếng nói đồng cảm,trân trọng,ngợi ca của tác giả đối với
con người đặc biệt là người phụ nữ.Toàn bộ câu chuyện xoay quanh
cuộc đời và số phận bi thảm của người con gái xinh đẹp,nết na tên là
Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương.Phải nói rằng Nguyễn Dữ không có ý
định cho Vũ Nương mang đức tính của một phụ nữ yêu nước hay một
mỹ nhân nơi gác tía lầu son .Vũ Nương là người phụ nữ bình dân vốn
con kẻ khó có một khát khao bao trùm cả cuộc đời-Đó là thú vui nghi
gia nghi thất.Nàng mang đầy đủ vẻ đẹp của một người phụ nữ lý tưởng
“tính đã thuỳ mỵ nết na lại thêm có tư dung tốt đẹp ”.Càng đi sâu vào
câu chuyện ta càng thấy vẻ đẹp của nàng được tác giả tập trung thể
hiện rõ nét.Trong những ngày đoàn viên ít ỏi,dù Trương Sinh con nhà
hào phú tính vốn đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá sức nhưng
nàng khéo léo cư xử, giữ gìn khuân phép nên gia đình không khi nào
phải thất hoà.Khi tiễn chồng đi lính,mong ước lớn nhất của nàng không
phải là công danh phú quí mà là khao khát ngày chồng về “mang theo
hai chữ bình yên thế là đủ rồi”.Những ngày chồng đi xa, nàng thực sự
là một người mẹ hiền,dâu thảo,chăm sóc thuốc thang tận tình khi mẹ
chồng đau yếu,ma chay tế lễ chu tất khi mẹ chồng qua đời.Nguyễn Dữ
đã đặt những lời ca ngợi đẹp đẽ nhất về Vũ Nương vào miệng của chính
mẹ chồng nàng khiến nó trở nên vô cùng ý nghĩa “sau này trời xét lòng
lành ban cho phúc đức ,giống dòng tươi tốt con cháu đông đàn,xanh
kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.Người thiếu
phụ tận tuỵ ,hiếu nghiã ấy còn là một người vợ thuỷ chung đối với
chồng .Trong suốt ba năm chồng đi chinh chiến,người thiếu phụ trẻ
trung xinh đẹp đó một lòng một dạ chờ chồng,nuôi con:“cách biệt ba
năm giữ gìn một tiết,tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng ,ngõ liễu
tường hoa chưa hề bén gót”.Dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ,Vũ Nương
được mọi người yêu mến bằng tính tình,phẩm hạnh của nàng.Trong cái
nhìn nâng niu trân trọng của ông,Vũ Nương là con người của gia
đình,đức hạnh của nàng là đức hạnh của một người vợ hiền,dâu
thảo,một người yêu mến cuộc sống gia đình và làm mọi việc để giữ
gìn,vun vén cho hạnh phúc.
Người phụ nữ dịu dàng ,hiếu nghĩa ,tận tuỵ và chung tình đó đáng ra
phải được đền bù xứng đáng bằng một gia đình êm ấm, phúc lộc đề
huề.Nhưng tai ác thay ,một ngày kia chồng nàng đi chinh chiến trở
về,nghe lời con trẻ đinh ninh là vợ hư,mắng nhiếc,đánh đập và đuổi
nàng đi bất chấp sự can ngăn của xóm giềng và lời than rớm máu của
người vợ trẻ.Không có cơ hội để thanh minh,trái tim tan nát,tuyệt vọng
bởi “bình rơi,trâm gãy,mây tạnh,mưa tan,sen rũ trong ao,liễu tàn trước
gió ”.Đến bến Hoàng Giang,người thiếu phụ đau khổ nguyền rằng:“Kẻ
bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu chồng con rẫy bỏ,điều đâu bay
buộc tiếng chịu nhuốc nhơ,thần sông có linh xin ngài chứng giám,thiếp
nếu đoan trang giữ tiết,trinh bạch gìn lòng,xuống nước xin làm ngọc
Mỵ Nương,vào đất xin làm cỏ Ngu Mĩ…” Với nàng ,cái chết là hành
động quyết liệt cuối cùng cần phải có để bảo toàn danh dự .Nhịp văn
dồn dập ,lời văn thống thiết như cực tả nỗi niềm đồng cảm,xót thương
của tác giả đối với người thiếu phụ chung tình mà bạc mệnh! Thương
nàng ông sáng tạo ra một thế giới thần tiên êm đềm trong chốn làng
mây cung nước để Vũ Nương được sống như một nàng tiên .Phải chăng
đó cũng chính là dụng ý của tác giả:người tốt sẽ được được đền bù
xứng đáng, ở hiền ắt sẽ gặp lành?
Điều gì đã khiến người phụ nữ đẹp người,đẹp nết đó phải tìm đến cái
chết bi thảm?Đó chính là do chiến tranh phong kiến phi nghĩa đã làm
cho gia đình phải li tán. Đó còn là lễ giáo phong kiến hà khắc với tư
tưởng nam quyền độc đoán đã biến Trương Sinh thành một bạo chúa
gia đình… Để ngàn đời trên bến Hoàng Giang, khắc khoải niềm thương
và nỗi ám ảnh dai dẳng về một người thiếu phụ trẻ trung,xinh đẹp ,
hiếu nghĩa, chung tình mà bạc mệnh !
Câu chuyện về nàng Vũ Nương khép lại nhưng dư âm về sự bất bình,
căm ghét xã hội phong kiến bất lương, vô nhân đạo thì còn mãi.Có lẽ vì
thế mà em càng yêu mến, trân trọng xã hội tốt đẹp mà em đang sống
hôm nay.

Suy nghĩ về nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm “Chuyện người
con gái Nam X
Trong văn học Việt Nam đã có không ít tác phẩm mang tên gọi truyền
kỳ hoặc có tính chất truyền kỳ song được tôn vinh là “ thiên cổ kỳ bút”
thì cho đến nay chỉ có một “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn
Dữ .“Chuyện người con gái Nam Xương” được rút trong tập những câu
chuyện kỳ lạ đó .Nhân vật chính của tác phẩm là Vũ Nương đã để lại
trong lòng người đọc niềm cảm thương sâu sắc.
Tác phẩm là tiếng nói đồng cảm,trân trọng,ngợi ca của tác giả đối với
con người đặc biệt là người phụ nữ.Toàn bộ câu chuyện xoay quanh
cuộc đời và số phận bi thảm của người con gái xinh đẹp,nết na tên là
Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương.Phải nói rằng Nguyễn Dữ không có ý
định cho Vũ Nương mang đức tính của một phụ nữ yêu nước hay một
mỹ nhân nơi gác tía lầu son .Vũ Nương là người phụ nữ bình dân vốn
con kẻ khó có một khát khao bao trùm cả cuộc đời-Đó là thú vui nghi
gia nghi thất.Nàng mang đầy đủ vẻ đẹp của một người phụ nữ lý tưởng
“tính đã thuỳ mỵ nết na lại thêm có tư dung tốt đẹp ”.Càng đi sâu vào
câu chuyện ta càng thấy vẻ đẹp của nàng được tác giả tập trung thể
hiện rõ nét.Trong những ngày đoàn viên ít ỏi,dù Trương Sinh con nhà
hào phú tính vốn đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá sức nhưng
nàng khéo léo cư xử, giữ gìn khuân phép nên gia đình không khi nào
phải thất hoà.Khi tiễn chồng đi lính,mong ước lớn nhất của nàng không
phải là công danh phú quí mà là khao khát ngày chồng về “mang theo
hai chữ bình yên thế là đủ rồi”.Những ngày chồng đi xa, nàng thực sự
là một người mẹ hiền,dâu thảo,chăm sóc thuốc thang tận tình khi mẹ
chồng đau yếu,ma chay tế lễ chu tất khi mẹ chồng qua đời.Nguyễn Dữ
đã đặt những lời ca ngợi đẹp đẽ nhất về Vũ Nương vào miệng của chính
mẹ chồng nàng khiến nó trở nên vô cùng ý nghĩa “sau này trời xét lòng
lành ban cho phúc đức ,giống dòng tươi tốt con cháu đông đàn,xanh
kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.Người thiếu
phụ tận tuỵ ,hiếu nghiã ấy còn là một người vợ thuỷ chung đối với
chồng .Trong suốt ba năm chồng đi chinh chiến,người thiếu phụ trẻ
trung xinh đẹp đó một lòng một dạ chờ chồng,nuôi con:“cách biệt ba
năm giữ gìn một tiết,tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng ,ngõ liễu
tường hoa chưa hề bén gót”.Dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ,Vũ Nương
được mọi người yêu mến bằng tính tình,phẩm hạnh của nàng.Trong cái
nhìn nâng niu trân trọng của ông,Vũ Nương là con người của gia
đình,đức hạnh của nàng là đức hạnh của một người vợ hiền,dâu
thảo,một người yêu mến cuộc sống gia đình và làm mọi việc để giữ
gìn,vun vén cho hạnh phúc.
Người phụ nữ dịu dàng ,hiếu nghĩa ,tận tuỵ và chung tình đó đáng ra
phải được đền bù xứng đáng bằng một gia đình êm ấm, phúc lộc đề
huề.Nhưng tai ác thay ,một ngày kia chồng nàng đi chinh chiến trở
về,nghe lời con trẻ đinh ninh là vợ hư,mắng nhiếc,đánh đập và đuổi
nàng đi bất chấp sự can ngăn của xóm giềng và lời than rớm máu của
người vợ trẻ.Không có cơ hội để thanh minh,trái tim tan nát,tuyệt vọng
bởi “bình rơi,trâm gãy,mây tạnh,mưa tan,sen rũ trong ao,liễu tàn trước
gió ”.Đến bến Hoàng Giang,người thiếu phụ đau khổ nguyền rằng:“Kẻ
bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu chồng con rẫy bỏ,điều đâu bay
buộc tiếng chịu nhuốc nhơ,thần sông có linh xin ngài chứng giám,thiếp
nếu đoan trang giữ tiết,trinh bạch gìn lòng,xuống nước xin làm ngọc
Mỵ Nương,vào đất xin làm cỏ Ngu Mĩ…” Với nàng ,cái chết là hành
động quyết liệt cuối cùng cần phải có để bảo toàn danh dự .Nhịp văn
dồn dập ,lời văn thống thiết như cực tả nỗi niềm đồng cảm,xót thương
của tác giả đối với người thiếu phụ chung tình mà bạc mệnh! Thương
nàng ông sáng tạo ra một thế giới thần tiên êm đềm trong chốn làng
mây cung nước để Vũ Nương được sống như một nàng tiên .Phải chăng
đó cũng chính là dụng ý của tác giả:người tốt sẽ được được đền bù
xứng đáng, ở hiền ắt sẽ gặp lành?
Điều gì đã khiến người phụ nữ đẹp người,đẹp nết đó phải tìm đến cái
chết bi thảm?Đó chính là do chiến tranh phong kiến phi nghĩa đã làm
cho gia đình phải li tán. Đó còn là lễ giáo phong kiến hà khắc với tư
tưởng nam quyền độc đoán đã biến Trương Sinh thành một bạo chúa
gia đình… Để ngàn đời trên bến Hoàng Giang, khắc khoải niềm thương
và nỗi ám ảnh dai dẳng về một người thiếu phụ trẻ trung,xinh đẹp ,
hiếu nghĩa, chung tình mà bạc mệnh !
Câu chuyện về nàng Vũ Nương khép lại nhưng dư âm về sự bất bình,
căm ghét xã hội phong kiến bất lương, vô nhân đạo thì còn mãi.Có lẽ vì
thế mà em càng yêu mến, trân trọng xã hội tốt đẹp mà em đang sống
hôm nay.
Suy nghĩ về tình mẹ qua 2 đoạn thơ ...

Khi viết về người mẹ Chế Lan Viên đã viết :

“Con zù lớn vẫn là con của mẹ


Đy hết đời lòng mẹ vẫn theo con”
(Con cò – Chế Lan Viên)

Nguyễn Duy cũng đã viết :

“Ta đy trọn kiếp con người


Cũng không đy hết mấy lời mẹ ru”
( Nỗi buồn nhớ mẹ ta xưa – Nguyễn Duy)

Em hãy nêu suy nghĩ về tình mẹ.

Bài làm
Mỗi khi nhắc về mẹ, chắc hẳn trong lòng mỗi con người chúng ta ko ai
là ko khỏi xao xuyến, bồi hồi. Bởi mẹ chính là người đã chăm sóc, nuôi
nấng ta khôn lớn từng ngày vượt qua bao gian lao, vất vả, vượt qua tất
cả những khó khăn, thử thách của cuộc đời. Vì vậy mà khi viết về mẹ
Chế Lan Viên có câu :
“Con zù lớn vẫn là con của mẹ
Đy hết đời lòng mẹ vẫn theo con”
Hay như Nguyễn Duy đã viết :

“Ta đy trọn kiếp con người


Cũng không đy hết mấy lời mẹ ru”

Tình mẹ cao cả và bao la, một thứ tình cảm đẹp đến mãnh liệt. Mẹ hi
sinh tất cả để giành cho con những gì tốt đẹp nhất, mẹ thức trắng đêm
trông nom khi con ốm, mẹ lận đận sớm hôm để lo cho cuộc sống con
đc trọn vẹn, mẹ long đong sớm chiều vì công việc để lo cho con đủ
miếng cơm, manh áo…sự vất vả, tận tụy ấy ko thể kể hết đc bằng lời.
Vậy mà trong xã hội hiện nay, một số người con ko hiểu đc điều ấy, đối
xử tệ bạc với cha mẹ, bất hiếu, làm những điều mà ko ai có thể ngờ tới,
vấn đề đang được xã hội lên án gay gắt. Những con người đó liệu có
còn lương tâm hay ko khi họ đối xử như vậy với chính ruột thịt của
mình. Đâu có khác nào tự lấy dao cứa vào da thịt mình ?

Mẹ là thân cò lặn lội qua bao sóng gió, khó khăn để cho kon khôn lớn
nên người. Cho zù con có khôn lớn nhường nào, thay đổi ra sao thỳ con
vẫn là con của mẹ, con là do mẹ sjnh ra, suốt cuộc đời mẹ sẽ luôn ở
bên con, che chở, bảo vệ cho con. Để “Con zù lớn vẫn là con của mẹ”
và “Đy hết đời lòng mẹ vẫn theo con”.

Con có “đy trọn cả kiếp người” , niếm trải bao cay đắng, ngọt bùi thỳ
“cũng không đy hết đc những lời ru của mẹ”. lời ru của mẹ là những
giai điệu êm dịu, trìu mến, đẹp đẽ nhất của đời người. Niềm mong ước,
sự yêu thương của mẹ đều được gửi gắn vào những lời ru thiết tha ấy.

Mẹ theo từng bước chân ta từ khi còn bé cho tới lúc trưởng thành. Mẹ
nuôi nấng, chăm bẵm ta từ khi ta mới chạp chững những bước đầu tiên
cho đến khi ta bước những bước đy vững chắc trên con đường đời. Mẹ
yêu con hơn cả bản thân mình, sẵn sàng hy sinh tất cả cho kon đc h.p.
Mẹ như biển cả ôm lấy những ngọn sóng bé bỏng là con. Công ơn của
mẹ ko j` có thể sánh bằng.

Hãy để ý những đứa trẻ bé bỏng còn phụ thuộc nhiều vào mẹ ta sẽ
thấy đy đâu chúng cũng chỉ theo mẹ, sợ hãi hay vui mừng chúng cũng
chỉ gọi mẹ, đối với chúng mẹ là tất cả. “Mẹ ơi” hai từ thiết tha ấy luôn
đc chúng thốt lên mỗi khj vui hay buồn. Như R.Ta-go đã viết “ Con sẽ là
sóng và mẹ sẽ là bến bờ kì lạ, con lăn, lăn, lăn mãi rồi sẽ cười vang vỡ
tan vào long mẹ. Và ko ai biết mẹ con ta ở chốn nào”. Tình mẹ thiêng
liêng và bất diệt như vậy đó, mẹ chính là bến bờ vô tận luôn mở rộng
lòng để con sà vào đó.

Mẹ và con có một sự liên kết mật thiết, luôn có một sợi dây vô hình nối
chặt con với mẹ từ khj con được sinh ra, và sợi dây vô tình ấy chính là
tình yêu thương mẹ giành cho con sẽ bên con đến suốt cuộc đời.

Con người chúng ta ai cũng đều có rất nhiều thứ tình cảm đẹp như tình
bạn, tình đồng đội, đồng chí… nhưng ko có thứ tình cảm nào có thể
vượt qua đc sự thiêng liêng và ấm áp của tình mẫu tử, một thứ tình
cảm bất diệt. Bỏi con người ta có thể gạt bỏ những tình cảm kja bởi
một lý do nào đó nhưng đối với tình mẫu tử thỳ cho zù có bất cứ lý do
j` đy chăng nữa, người con cũng ko thể gạt bỏ đc. Làm sao có thể gạt
bỏ một thứ tình cảm gắn chặt với cuộc đời ta kể từ khj ta bắt đầu làm
quen với cuộc đời. Hãy cảm ơn vì điều đó, cảm ơn mẹ đã sinh ra ta, cho
ta đc niếm trải hương vị của cuộc đời.

Phật tổ có câu: “ Nếu ai còn mẹ xin đừng làm mẹ khóc


Đừng để vương buồn lên mắt mẹ nghe không !”
Những ai còn mẹ, còn đc ở bên mẹ, còn đc mẹ yêu thương che trở thỳ
hãy hiếu thảo với mẹ, đừng để mẹ phải buồn long, hãy làm sao cho
xứng với những j` mẹ đã làm cho ta.
Các nhà văn giành hết tình cảm của mình vào các tác phẩm để tặng
mẹ , còn với mỗi chúng ta thỳ long hiếu thảo luôn là những tác phẩm
đẹp đẽ, quý giá và sâu sắc nhất mà chúng ta có thể tạo ra để tặng cho
mẹ của mình.

Tình mẫu tử ấp áp, đẹp đẽ, thiêng liêng và bất diệt sẽ theo ta đến suốt
cuộc đời. Hãy luôn gìn giữ nó bởi nó chính là nguồn động lực lớn nhất
giúp ta vượt qua những khó khăn, sóng gió của cuộc đời.

Bay từ cửa phủ, bay về đồng đăng.


Câu ca dao khá quen thuộc với người Việt Nam. hình ảnh con cò cũng
được mươn để ví cho hình ảnh những người phụ nữ. Đặc biệt là hình
ảnh người mẹ, tình mẹ. cũng có lẽ vì thế mà năm 1962, nhà thơ trữ
tình Chế Lan Viênđã sử dụng hình ảnh cánh có trong những câu ca dao
để ca ngợi tình mẹ thiêng liêng, cao cả qua bài thơ "Con cò"- một trong
những bài thơ tiêu biểu và nổi tiếng của ông.
con còn bế trên tay
........
sữa mẹ nhiều con ngủ chẳng phân vân.
những dòng thơ thật nhẹ nhàng, êm ái, thấm đẫm tình thương của mẹ.
khi con còn nằm trong vòng tay của mẹ, con nào biết đến "con cò",
"con vạc", con nào biết đến "những cành mềm mẹ hát" nhưng mẹ đã
mang cánh cò đến với con trong những lời ru ấm êm của mẹ. ở các câu
bốn và câu tám chữ, điệp ngữ "con cò" được nhắc đi nhắc lại như là lời
ru ngân nga, dịu dàng, như là lời mẹ muốn kể cho con nghe về hình
ảnh con cò bằng chất giọng mượt mà, êm ái.
hình ảnh con cò đã được chế lan viên sử dụng làm hình tượng bao trùm
lên toàn bài thơ mà đâu đó thấp thoáng có hình ảnh của mẹ, có hình
ảnh của một người một đời tần tảo sớm khuya nuôi con khôn lớn. hình
ảnh con cò "ăn đêm", cò "xa tổ", cò "sợ gặp cành mềm", cò "sợ xáo
măng" gợi lên cho ta biết bao hình ảnh. hình ảnh cò lẻ loi một mình
kiếm ăn trong đêm tối nhưng phải chăng đó cũng lả hình ảnh của mẹ,
của người phụ nữ một đời vất vả với cuộc sống miêu sinh đầy khó
khăn, gian khổ. thế nhưng mẹ vẫn luôn muốn hát cho con nghe về tình
yêu quê hương, đất nước và rồi con sẽ hiểu được tình yêu mà mẹ dành
cho con bao la, vô tận đến nhường nào. mẹ luôn muốn con yên tâm
chìm vào giấc ngủ, mẹ muốn con hãy ngủ ngon để luôn nhìn thấy cánh
cò bay lượn không biết mỏi vì đã có mẹ mãi ở bên vỗ về, che chở: "Sữa
mẹ nhiều con ngủ chẳng phân vân".
mẹ luôn mong con được hưởng trọn tình yêu thương của tuổi ấu thơ.
trong lời ru của mẹ không chỉ mang đến cho con những cánh cò mà nó
còn mang đến cho con hơi xuân ấm áp, dòng sữa trắng trong ngọt
ngào của mẹ đưa con vào giấc ngủ say nồng. Và mẹ lại vỗ về và chắp
cánh cho những ước mơ của con trong câu hát ru ấy và trong cả những
suy nghĩ của con.
ngủ yên! ngủ yên! ngủ yên
cho cò trắng đến làm quen
…….
cánh của cò hai đứa đắp chung đôi.
mẹ nâng niu con trong từng câu hát và cũng là ấp iu nâng giấc con thơ.
Một sự nhân hoá ở cánh cò để diễn tả cho sự chăm chút, ân cần của
mẹ đối với con. Con và cò là bạn và cũng là con của mẹ, sẽ cùng nhau
sánh bước trên đường đời tương lai.
Mai khôn lớn con theo cò đi học
……..
………
trước hiên nhà và trong hơi mát câu văn.
mẹ là người cho con sự sống, nuôi con lớn khôn cả về thể xác lẫn tâm
hồn: “Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ” - và cánh cò ở đây lại là
khát vọng sáng tạo, ý chí vươn lên. Cánh cò trong những lời ru lại mang
những suy nghĩ triết lý sâu sắc. con sẽ lớn lên và đi trên con đường của
chính mình. Con sẽ không ở bên mẹ nữa nhưng con biết có 1 chân lý
cuộc đời không bao giờ thay đổi:
dù ở gần con
dù ở xa con
…….
Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con.

ôi! tình mẹ bao la biết mấy. cho dù khi con còn tấm bé cho đến lúc
trưởng thành, mẹ vẫn luôn dõi theo những bước đi của con trên đường
đời. mỗi lần con vấp ngã, mẹ sẽ luôn ở bên con, sẽ là động lực để con
đứng dậy và tiếp tục bước đi trên chính đôi chân của mình.
nhưng dù con có khôn lớn, con có đi hết trăm núi, ngàn khe nhưng có
bao giờ con hiểu hết lòng của mẹ:
con đi trăm núi ngàn khe
chưa bằng muôn nỗi tái tê lòng bầm.
trước tình mẹ bao la vô tận đến thế, ta đã cảm động biết bao. nhưng
bất chợt lại cảm thấy hối hận biết bao. hối hận vì những lần đã hiểu
lầm mẹ. thật ra, trong mỗi chúng ta cũng đã không ít lần hiểu lầm mẹ.
vậy mà mẹ luôn vì con. vì con mà mẹ phải chịu đựng tất cả. vì con mà
đã nhiều đêm mẹ khóc thầm không ngủ. nhưng chúng ta ai nào có biết
tâm trạng mẹ lúc ấy, ai nào có biết mẹ đã khóc nhiều như thế. lại một
lần nữa ta đã hiểu được sự chịu đựng của mẹ như thế nào.
rồi có những ngày con đau ốm, mẹ luôn túc trực suốt đêm không chợp
mắt. mẹ lại khóc, mẹ khóc vì thương cho đứa con bé bỏng, tội nghiệp.
mẹ luôn mong người bị ốm hôm nay không phải là con mà chính là mẹ.
mẹ luôn muốn nhận những gì đau khổ và vất vả nhất về mình vì con.
thế nhưng, ai đã biết, ai đã hiểu cho tình thương của mẹ.
không chỉ có thế, mẹ luôn là người có tấm lòng bao dung và độ lượng
nhất. mẹ luôn tha thứ cho những lỗi lầm của con để mong con có thể
vững bước trên đường đời. tất cả, tất cả những gì mẹ mang đến cho
con đều là những tình thương sâu thẳm tận đấy lòng của mẹ.
Cho dù con đã trưởng thành, đã từng nếm trải nhiều lẽ của cuộc đời thì
bao giờ con cũng là con của mẹ và mẹ luôn mong muốn che chở, bao
dung con như khi con còn thơ bé. một triết lý của cuộc sống nhưng sao
vẫn rất nhẹ nhàng.
À ơi!
một con cò thôi
…….
đến hát
quanh nôi.
Hai tiếng “à ơi” quen thuộc trong những lời ru được cất lên thật mượt
mà. chỉ là một con cò trong lời mẹ hát thôi thế nhưng có biết bao điều
vừa gần gũi vừa sâu xa. Khi cất lên những lời hát ru, là lúc mẹ gửi gắm
trong cánh cò cả cuộc đời mẹ, có những cay đắng lẫn ngọt bùi. mặc dù
CLV không nhắc đến những nếm trải của cuộc đời mẹ song những câu
thơ của ông cho ta hiểu thêm rằng trong cánh cò kia chất chứa những
nỗi nông sâu của cuộc đời mẹ.
lời ru là một khúc hát yêu thương mà mẹ dành cho con. m ẹ đã hoá
thân thành cánh cò mang nhiều ý nghĩa sâu xa, kết tụ sự hi sinh, gian
khổ để những lời yêu thương càng thêm sâu sắc. và hình ảnh cò đã dần
đi vào tầm thức của tuổi thơ con, nó sẽ theo con suốt cuộc đời bởi vì
đâu đó trong hình ảnh cánh cò kia đó là hình ảnh của người mẹ con
kính yêu

thế đấy, tình mẹ thật thiêng liêng, cao đẹp. hình ảnh mẹ luôn đẹp nhất
và rực rỡ trong lòng chúng con.
hình ảnh những con cò thật giản dị nhưng nhờ sự khéo léo của mình,
chế lan viên đã mượn hình ảnh ấy ví cho hình tượng của người mẹ,
người phụ nữ việt nam - một hình tượng bất tử.
sưu tầm

TLV số 6 suy nghĩ của em về tình mẫu tử trong "trong lòng mẹ"
của Nguyên Hồng

Nói đến Nguyên Hồng, người ta nhớ ngay một giọng văn như trút cả
bao xúc động đắng đót vào trong những câu chuyện của ông. Hồi ký
“Những ngày thơ ấu” là kỷ niệm xót xa của cậu bé Hồng, mang theo
cái dư vị đắng chát của tuổi thơ khát khao tình mẹ. Cho đến tận bây
giờ, khi đọc lại những trang viết này, người đọc vẫn lây lan cảm giác
của cậu bé sớm phải chịu thiếu thốn tình cảm, để rồi chợt nhận ra: tình
mẫu tử là nguồn sức mạnh thiêng liêng và diệu kỳ, là nguồn an ủi và
chở che giúp cho đứa trẻ có thể vượt lên bao đắng cay tủi nhục và bất
hạnh.
Đoạn trích Trong lòng mẹ là hồi ức đan xen cay đắng và ngọt ngào của
chính nhà văn - cậu bé sinh ra trong một gia đình bất hạnh: người cha
nghiện ngập rồi chết mòn, chết rục bên bàn đèn thuốc phiện, người mẹ
cùng túng phải đi tha phương cầu thực, cậu bé Hồng đã phải sống
trong cảnh hắt hủi ghẻ lạnh đến cay nghiệt của chính những người
trong họ hàng. Cậu bé phải đối mặt với bà cô cay nghiệt, luôn luôn
“tươi cười” – khiến hình dung đến loại người “bề ngoài thơn thớt nói
cười – mà trong nham hiểm giết người không dao”. Đáng sợ hơn, sự tàn
nhẫn ấy lại dành cho đứa cháu ruột vô tội của mình. Những diễn biến
tâm trạng của bé Hồng trong câu chuyện đã được thuật lại bằng tất cả
nỗi niềm đau thắt vì những ký ức hãi hùng kinh khiếp của tuổi thơ. Kỳ
diệu thay, những trang viết ấy lại giúp chúng ta hiểu ra một điều thật
tự nhiên giản dị: Mẹ là người chỉ có một trên đời, tình mẹ con là mối
dây bền chặt không gì chia cắt được.
Trước khi gặp mẹ: Nói một cách công bằng, nếu chỉ nhìn vào bề ngoài
cuộc sống của cậu bé Hồng, có thể nói cậu bé ấy vẫn còn may mắn
hơn bao đứa trẻ lang thang vì còn có một mái nhà và những người ruột
thịt để nương tựa sau khi cha mất và mẹ bỏ đi. Nhưng liệu có thể gọi là
gia đình không khi chính những người thân – mà đại diện là bà cô ruột
lại đóng vai trò người giám hộ cay nghiệt. Tấm lòng trẻ thơ ấy thật
đáng quí. Đối với bé Hồng, bao giờ mẹ cũng là người tốt nhất, đẹp
nhất. Tình cảm của đứa con đã giúp bé vượt qua những thành kiến mà
người cô đã gieo rắc vào lòng cậu
“Vì tôi biết rõ, nhắc đến mẹ tôi, cô chỉ có ý gieo rắc vào đầu óc tôi
những hoài nghi để tôi khinh miệt và ruồng rẫy mẹ tôi, một người đàn
bà đã bị cái tội là goá chồng, nợ nần cùng túng quá, phải bỏ con cái đi
tha phương cầu thực. Nhưng đời nào lòng thương yêu và lòng kính mến
mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến…”
Nhưng ta cũng nhận ra những vết thương lòng đau nhói mà bé Hồng đã
sớm phải gánh chịu. Sự tra tấn tinh thần thật ghê gớm. Sức chịu đựng
của một cậu bé cũng có chừng mực. Ta chứng kiến và cảm thương cho
từng khoảnh khắc đớn đau, cậu đã trở thành tấm bia hứng chịu thay
cho mẹ những ghẻ lạnh, thành kiến của người đời: “Tôi lại im lặng cúi
đầu xuống đất: lòng tôi thắt lại, khoé mắt tôi đã cay cay”
Dù đã kìm nén hết mức nhưng những lời độc ác kia vẫn đạt được mục
đích khi đã lấy được những giọt nước mắt tủi nhục của một đứa trẻ
không đủ sức tự vệ . Ta chợt ghê sợ trước loại người như bà cô – họ vẫn
lẩn quất đâu đó quanh ta, với trò tra tấn gặm nhấm dần niềm tin con
trẻ. Liệu ta có hoà chung giọt nước mắt này chăng: “Nước mắt tôi ròng
ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hoà đầm đìa ở cằm và cổ”.
Càng thương cho cậu bé Hồng, ta lại càng căm uất sự ghẻ lạnh của
người đời trước những số phận bất hạnh. Từ nhận thức non nớt, cậu bé
ấy cũng đã kiên quyết bảo vệ mẹ mình, bất chấp những thành kiến ác
độc: “Chỉ vì tôi thương mẹ tôi và căm tức sao mẹ tôi lại vì sợ hãi những
thành kiến tàn ác mà xa lìa anh em tôi, để sinh nở một cách giấu
giếm… Tôi cười dài trong tiếng khóc”. Dường như khoảnh khắc cười dài
trong tiếng khóc kia chứa chất sự phẫn nộ và khinh bỉ không cần giấu
giếm Trong thâm tâm, liệu rằng cậu bé ấy có khi nào oán trách mẹ
mình đã nhẫn tâm bỏ con không? Có lẽ không bao giờ, bởi lẽ niềm
khao khát được gặp lại mẹ lúc nào cũng thường trực trong lòng cậu bé.
Ta xúc động biết bao nhiêu trước khoảnh khắc hồi hộp lo lắng của cậu
bé khi sợ mình nhận nhầm mẹ. Linh cảm và tình yêu dành cho mẹ đã
không đánh lừa cậu, để đền đáp lại là cảm giác của đứa con trong lòng
mẹ - cảm giác được chở che, bảo bọc, được thương yêu, an ủi. Hình
ảnh mẹ qua những trang viết của nhà văn thật tươi tắn sinh động, là sự
diệu kỳ giúp cậu bé vượt lên nỗi cay đắng của những ngày xa mẹ. Mỗi
khi đứng trước mẹ, có lẽ mỗi một người trong chúng ta cũng sẽ cảm
nhận được tình me giống như cậu bé Hồng: “Mẹ tôi vừa kéo tay tôi, xoa
đầu tôi hỏi thì tôi oà lên khóc rồi cứ thế nức nở”. Không khóc sao được,
khi những uất ức nén nhịn có dịp bùng phát, khi cậu bé có được cảm
giác an toàn và được chở che trong vòng tay mẹ. Thật đẹp khi chúng ta
đọc những câu văn, tràn trề cảm giác hạnh phúc:“Phải bé lại và lăn vào
lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ, để người
mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm, và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy
mẹ có một êm dịu vô cùng”. Mẹ đã trở về cùng đứa con thân yêu, để
cậu bé được thoả lòng mong nhớ và khát khao bé nhỏ của mình. Có lẽ
không cần phải bình luận thêm nhiều
__________________
suy nghĩ của em về tình mẫu tử trong "trong lòng mẹ" của
Nguyên Hồng

Nói đến Nguyên Hồng, người ta nhớ ngay một giọng văn như trút cả
bao xúc động đắng đót vào trong những câu chuyện của ông. Hồi ký
“Những ngày thơ ấu” là kỷ niệm xót xa của cậu bé Hồng, mang theo
cái dư vị đắng chát của tuổi thơ khát khao tình mẹ. Cho đến tận bây
giờ, khi đọc lại những trang viết này, người đọc vẫn lây lan cảm giác
của cậu bé sớm phải chịu thiếu thốn tình cảm, để rồi chợt nhận ra: tình
mẫu tử là nguồn sức mạnh thiêng liêng và diệu kỳ, là nguồn an ủi và
chở che giúp cho đứa trẻ có thể vượt lên bao đắng cay tủi nhục và bất
hạnh.
Đoạn trích Trong lòng mẹ là hồi ức đan xen cay đắng và ngọt ngào của
chính nhà văn - cậu bé sinh ra trong một gia đình bất hạnh: người cha
nghiện ngập rồi chết mòn, chết rục bên bàn đèn thuốc phiện, người mẹ
cùng túng phải đi tha phương cầu thực, cậu bé Hồng đã phải sống
trong cảnh hắt hủi ghẻ lạnh đến cay nghiệt của chính những người
trong họ hàng. Cậu bé phải đối mặt với bà cô cay nghiệt, luôn luôn
“tươi cười” – khiến hình dung đến loại người “bề ngoài thơn thớt nói
cười – mà trong nham hiểm giết người không dao”. Đáng sợ hơn, sự tàn
nhẫn ấy lại dành cho đứa cháu ruột vô tội của mình. Những diễn biến
tâm trạng của bé Hồng trong câu chuyện đã được thuật lại bằng tất cả
nỗi niềm đau thắt vì những ký ức hãi hùng kinh khiếp của tuổi thơ. Kỳ
diệu thay, những trang viết ấy lại giúp chúng ta hiểu ra một điều thật
tự nhiên giản dị: Mẹ là người chỉ có một trên đời, tình mẹ con là mối
dây bền chặt không gì chia cắt được.
Trước khi gặp mẹ: Nói một cách công bằng, nếu chỉ nhìn vào bề ngoài
cuộc sống của cậu bé Hồng, có thể nói cậu bé ấy vẫn còn may mắn
hơn bao đứa trẻ lang thang vì còn có một mái nhà và những người ruột
thịt để nương tựa sau khi cha mất và mẹ bỏ đi. Nhưng liệu có thể gọi là
gia đình không khi chính những người thân – mà đại diện là bà cô ruột
lại đóng vai trò người giám hộ cay nghiệt. Tấm lòng trẻ thơ ấy thật
đáng quí. Đối với bé Hồng, bao giờ mẹ cũng là người tốt nhất, đẹp
nhất. Tình cảm của đứa con đã giúp bé vượt qua những thành kiến mà
người cô đã gieo rắc vào lòng cậu
“Vì tôi biết rõ, nhắc đến mẹ tôi, cô chỉ có ý gieo rắc vào đầu óc tôi
những hoài nghi để tôi khinh miệt và ruồng rẫy mẹ tôi, một người đàn
bà đã bị cái tội là goá chồng, nợ nần cùng túng quá, phải bỏ con cái đi
tha phương cầu thực. Nhưng đời nào lòng thương yêu và lòng kính mến
mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến…”
Nhưng ta cũng nhận ra những vết thương lòng đau nhói mà bé Hồng đã
sớm phải gánh chịu. Sự tra tấn tinh thần thật ghê gớm. Sức chịu đựng
của một cậu bé cũng có chừng mực. Ta chứng kiến và cảm thương cho
từng khoảnh khắc đớn đau, cậu đã trở thành tấm bia hứng chịu thay
cho mẹ những ghẻ lạnh, thành kiến của người đời: “Tôi lại im lặng cúi
đầu xuống đất: lòng tôi thắt lại, khoé mắt tôi đã cay cay”
Dù đã kìm nén hết mức nhưng những lời độc ác kia vẫn đạt được mục
đích khi đã lấy được những giọt nước mắt tủi nhục của một đứa trẻ
không đủ sức tự vệ . Ta chợt ghê sợ trước loại người như bà cô – họ vẫn
lẩn quất đâu đó quanh ta, với trò tra tấn gặm nhấm dần niềm tin con
trẻ. Liệu ta có hoà chung giọt nước mắt này chăng: “Nước mắt tôi ròng
ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hoà đầm đìa ở cằm và cổ”.
Càng thương cho cậu bé Hồng, ta lại càng căm uất sự ghẻ lạnh của
người đời trước những số phận bất hạnh. Từ nhận thức non nớt, cậu bé
ấy cũng đã kiên quyết bảo vệ mẹ mình, bất chấp những thành kiến ác
độc: “Chỉ vì tôi thương mẹ tôi và căm tức sao mẹ tôi lại vì sợ hãi những
thành kiến tàn ác mà xa lìa anh em tôi, để sinh nở một cách giấu
giếm… Tôi cười dài trong tiếng khóc”. Dường như khoảnh khắc cười dài
trong tiếng khóc kia chứa chất sự phẫn nộ và khinh bỉ không cần giấu
giếm Trong thâm tâm, liệu rằng cậu bé ấy có khi nào oán trách mẹ
mình đã nhẫn tâm bỏ con không? Có lẽ không bao giờ, bởi lẽ niềm
khao khát được gặp lại mẹ lúc nào cũng thường trực trong lòng cậu bé.
Ta xúc động biết bao nhiêu trước khoảnh khắc hồi hộp lo lắng của cậu
bé khi sợ mình nhận nhầm mẹ. Linh cảm và tình yêu dành cho mẹ đã
không đánh lừa cậu, để đền đáp lại là cảm giác của đứa con trong lòng
mẹ - cảm giác được chở che, bảo bọc, được thương yêu, an ủi. Hình
ảnh mẹ qua những trang viết của nhà văn thật tươi tắn sinh động, là sự
diệu kỳ giúp cậu bé vượt lên nỗi cay đắng của những ngày xa mẹ. Mỗi
khi đứng trước mẹ, có lẽ mỗi một người trong chúng ta cũng sẽ cảm
nhận được tình me giống như cậu bé Hồng: “Mẹ tôi vừa kéo tay tôi, xoa
đầu tôi hỏi thì tôi oà lên khóc rồi cứ thế nức nở”. Không khóc sao được,
khi những uất ức nén nhịn có dịp bùng phát, khi cậu bé có được cảm
giác an toàn và được chở che trong vòng tay mẹ. Thật đẹp khi chúng ta
đọc những câu văn, tràn trề cảm giác hạnh phúc:“Phải bé lại và lăn vào
lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ, để người
mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm, và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy
mẹ có một êm dịu vô cùng”. Mẹ đã trở về cùng đứa con thân yêu, để
cậu bé được thoả lòng mong nhớ và khát khao bé nhỏ của mình. Có lẽ
không cần phải bình luận thêm nhiều

"Tri thức là sức mạnh"

You might also like