You are on page 1of 30

Đoàn kết quốc tế

MỤC LỤC
MỤC LỤC.....................................................................................................................1
I. VÔ SẢN TẤT CẢ CÁC NƯỚC ĐOÀN KẾT LẠI................................................2
1. Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản ...........................................................................2
2. Toàn cầu hóa với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.................................3
2.1 Chủ nghĩa quốc tế vô sản.................................................................................3
2.2 Tác động tích cực và tiêu cực...........................................................................4
2.3 Kết luận............................................................................................................7
II. TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHƯƠNG ĐÔNG...............................................................7
1. Giới thiệu chung.....................................................................................................7
2. Nguyễn Ái Quốc vào học trường Đại học Phương Đông......................................9
III. KINH NGHIỆM ĐOÀN KẾT, HỢP TÁC QUỐC TẾ CỦA CÁCH MẠNG
VIỆT NAM.................................................................................................................12
1. Đoàn kết, hợp tác quốc tế giữa các nước là một vấn đề tất yếu lich sử...............12
2. Thực hiện đoàn kết, hợp tác quốc tế trong cách mạng Việt Nam .......................13
2.1 Từ khi Đảng ra đời đến Cách mạng tháng Tám 1945....................................13
2.2 Thời kỳ tiến hành hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược (1945-1975)..........................................................................................14
2.3 Thời kỳ cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội..................................................15
3. Những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn xây dựng đoàn kết, hợp tác quốc tế của
cách mạng Việt Nam................................................................................................17
3.1 Đặt cách mạng Việt Nam trong thế chung của cách mạng thế giới, kết hợp lợi
ích dân tộc với lợi ích chung của nhân dân các nước...........................................17
3.2 Chǎm lo giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính, kết hợp với chủ nghĩa
quốc tế của giai cấp công nhân.............................................................................18
3.3 Đoàn kết, hợp tác quốc tế trên cơ sở nâng cao ý chí tự lực, tự cường...........19
IV. VIỆT NAM ỦNG HỘ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ VÌ HÒA BÌNH VÀ PHÁT
TRIỂN.........................................................................................................................20
V. TƯ TƯỞNG ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ TRONG DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH
HỒ CHÍ MINH...........................................................................................................22
VI. CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ.............................25
1. Sự khởi đầu của tư tưởng đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh....................................26
2. Tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng, thêm bạn bớt thù....................................27
3. Bốn phương vô sản đều là anh em.......................................................................28

Trang 1
Đoàn kết quốc tế

I. VÔ SẢN TẤT CẢ CÁC NƯỚC ĐOÀN KẾT LẠI


1. Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” kết thúc bằng khẩu hiệu “Mặc cho giai cấp
thống trị run sợ khi nghĩ tới một cách mạng cộng sản chủ nghĩa! Trong cuộc cách
mạng ấy, những người vô sản không mất gì hết, ngoài những xiềng xích trói buộc họ.
Trong cuộc cách mạng ấy, họ giành được cả một thế giới cho mình.Vô sản tất cả các
nước, đoàn kết lại!” biểu hiện cho ý chí và tinh thần của giai cấp vô sản. Sau này được
Lenin mở rộng “Giai cấp vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết
lại!”. Khẩu hiệu chiến đấu có ý nghĩa quan trọng trong việc đoàn kết giai cấp công
nhân trên toàn thế giới để chống lại “liên minh” của giai cấp tư sản các nước và hoàn
thành sứ mệnh lịch sử của mình. Bản tuyên ngôn ra đời vào thời kỳ phát triển như vũ
bão của chủ nghĩa tư bản, xã hội đã được thiết lập một cách vững chắc trong hàng loạt
các nước châu Âu và Bắc Mỹ, thời kỳ phát triển của một giai cấp mới - giai cấp vô
sản công nghiệp, thời kỳ mà giai cấp đó bước lên con đường đấu tranh cách mạng.
Giai cấp tư sản đã thắng chế độ phong kiến, tin tưởng ở thắng lợi và tính vững vàng
của những nguyên tắc về chế độ tư hữu mà nó thiết lập. Đó là sự tuyên án đối với chủ
nghĩa tư bản, trong đó Mác và Ăngghen đã chứng minh rằng xã hội tư bản chủ nghĩa
dựa trên tư hữu và bóc lột phải nhường chỗ cho một xã hội mới - xã hội không có bóc
lột và nô lệ, rằng nhân loại đang tiến tới cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Trang bìa “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”


Đứng trên lập trường của giai cấp bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất trong xã hội tư
bản, Mác đã phát hiện được lực lượng xã hội có thể và cần phải đóng vai trò chủ đạo
trong công cuộc đổi mới cách mạng toàn bộ xã hội .Về điểm này đã được Lênin
khẳng định: “Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trò
lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa”. Sự
phân tích khoa học của Mác về các quy luật phát triển xã hội đã chỉ ra rằng trong xã
hội có giai cấp đối kháng, trên cơ sở của chế độ tư hữu, đã hình thành hai loại người
thuộc hai cực xã hội: người bóc lột và người lao động bị bóc lột. Trong xã hội tư bản,
sự phân cực ấy biểu hiện đặc biệt rõ nét: giai cấp tư sản quan hệ với người lao động
như đối tượng để bòn rút lợi nhuận. Tư bản cố biến người lao động thành cái đinh ốc
không có quyền hành gì trong guồng máy kinh tế. Như vậy, để con người phát triển tự
do và toàn diện đòi hỏi phải giải phóng con người, giải phóng lao động khỏi quan hệ
sở hữu tư bản chủ nghĩa – đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Giai cấp
công nhân chính là lực lượng xã hội do chính chủ nghĩa tư bản sinh ra có sứ mệnh

Trang 2
Đoàn kết quốc tế

thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa và bằng việc đó giành lại con người, giải phóng
nó khỏi áp bức và bóc lột.
Từ đó, người công nhân nảy sinh và phát triển sự giác ngộ giai cấp, ý muốn
thống nhất lại không chỉ trong phạm vi của ngành sản xuất, mà cả trong phạm vi dân
tộc, quốc tế. Sự thống nhất của phong trào và cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân
không bó hẹp trong khuôn khổ các dân tộc, mà mang tính quốc tế. Bởi lẽ, bản chất
của giai cấp công nhân là họ không có lợi gì trong việc gây ra sự thù địch giữa các
dân tộc. Họ đem sự đoàn kết quốc tế, cuộc đấu tranh chung của các dân tộc chống lại
xã hội có chế độ tư hữu và bóc lột để đối lập với giai cấp tư sản thống nhất trên quy
mô thế giới. Chính điều đó đã đưa đến kết luận trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản” – vô sản tất cả các nước đoàn kết lại.
2. Toàn cầu hóa với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân
2.1 Chủ nghĩa quốc tế vô sản
Chủ nghĩa quốc tế vô sản là sự thống nhất hành động của giai cấp công nhân với
đông đảo các giai cấp, các tầng lớp nhân dân lao động trên thế giới trong cuộc đấu
tranh chung chống giai cấp tư sản, chủ nghĩa đế quốc, bảo vệ hòa bình, dân chủ, vì
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tình đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân và
quần chúng nhân dân lao động thế giới được thể hiện trong thực tiễn đấu tranh nhằm
giải quyết các nhiệm vụ trước mắt cũng như những nhiệm vụ lâu dài vì sự thắng lợi
của chủ nghĩa xã hội - chủ nghĩa cộng sản; trong sự thống nhất tư tưởng - lấy chủ
nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động thực tiễn;
trong quan niệm đúng đắn về mối quan hệ biện chứng giữa lợi ích dân tộc và lợi ích
giai cấp; trong sự thống nhất lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân ở tất cả các quốc
gia, các châu lục, các khu vực khác nhau trên thế giới. Trên phương diện đạo đức, tình
đoàn kết quốc tế vô sản được thể hiện ở hệ chuẩn mực, hệ quy tắc thực sự nhân đạo
chi phối quan hệ giữa những người lao động thuộc mọi cộng đồng dân tộc, tôn giáo
trên hành tinh. Chính điểm chung về lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân là yếu tố
khách quan gắn kết, thống nhất giai cấp công nhân thuộc các dân tộc khác nhau. Đây
là cơ sở quan trọng nhất bảo đảm cho tình đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân thế
giới.
Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân được thể hiện một cách cô đọng ở
khẩu hiệu nổi tiếng, do C. Mác và Ph. ăng-ghen nêu ra trong Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản: "Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!". Các ông cũng chỉ rõ điểm khác biệt
giữa các đảng cộng sản và các tổ chức chính trị - xã hội khác của giai cấp công nhân
là ở chỗ: trong cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản thuộc các dân tộc khác nhau, những
người cộng sản xác định và bảo vệ lợi ích chung của toàn bộ giai cấp vô sản thế giới,
không phụ thuộc vào đặc thù dân tộc. Lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân gắn liền
với sứ mệnh lịch sử của nó là giải phóng mình và các tầng lớp nhân dân lao động khỏi
mọi hình thức bóc lột tư bản chủ nghĩa, mọi sự áp bức chính trị thông qua việc thực
hiện quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội; phù hợp với tiến trình phát triển
khách quan của xã hội loài người, thống nhất với nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích căn
bản của tất cả các tầng lớp nhân dân lao động khác trên toàn thế giới. Với tư cách lực
lượng tiên phong không chỉ trong nước, mà còn trên trường quốc tế, giai cấp công
nhân là đồng minh chiến lược triệt để, đáng tin cậy nhất của các dân tộc thuộc địa và
nửa thuộc địa, của tất cả những ai đấu tranh chống lại ách áp bức, đô hộ của chủ nghĩa
thực dân, của các thế lực đế quốc hiếu chiến. Do vậy, tình đoàn kết, sự ủng hộ, hỗ trợ
của giai cấp công nhân thế giới đối với các dân tộc thuộc địa là nhu cầu, trách nhiệm
tất yếu của giai cấp công nhân. Tình đoàn kết, sự gắn bó hữu cơ giữa giai cấp công

Trang 3
Đoàn kết quốc tế

nhân và các dân tộc thuộc địa trên thế giới được thể hiện sâu sắc, đầy đủ trong khẩu
hiệu mà V. I. Lê-nin đưa ra: "Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết
lại!".
Sự phát triển của chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với các sự kiện lịch sử vĩ
đại, như thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga, sự ra đời và
phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ở nửa sau thế kỷ XX, sự phá sản của
hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ và mới.
Một hình thái phát triển điển hình của chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân
nửa sau thế kỷ XX là chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa. Nó thể hiện bản chất mối
quan hệ hữu nghị đoàn kết, tương trợ lẫn nhau giữa các quốc gia xã hội chủ nghĩa;
được bảo đảm bởi sự tương đồng về kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa giữa các
nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, bởi nhu cầu, nhiệm vụ bảo vệ thành
quả cách mạng và sự nghiệp xây dựng chế độ xã hội mới ở tất cả các quốc gia xã hội
chủ nghĩa; thể hiện trong quan hệ hữu nghị, ủng hộ lẫn nhau giữa các đảng cộng sản,
công nhân cầm quyền và nhân dân lao động ở các nước xã hội chủ nghĩa với các đảng
cộng sản, công nhân và nhân dân lao động, bị áp bức, bóc lột ở các nước tư bản chủ
nghĩa.
2.2 Tác động tích cực và tiêu cực
Toàn cầu hóa với tư cách một xu thế vận động tất yếu, khách quan trong tiến
trình phát triển của lịch sử nhân loại mang nội dung cốt lõi là sự gia tăng mạnh mẽ
tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia dân tộc, giữa các khu vực, châu lục, giữa
các cộng đồng cư dân thế giới trên tất cả mọi lĩnh vực đời sống xã hội, trước hết là
trên lĩnh vực kinh tế, thương mại. Xu thế vận động khách quan trên đây đang bị các
nước tư bản phát triển, các thế lực tư bản độc quyền toàn cầu chi phối nhằm phục vụ
nhu cầu, lợi ích của họ, ít hoặc không quan tâm tới, thậm chí đi ngược lại lợi ích, nhu
cầu của người lao động. Tiến trình toàn cầu hóa, như nó đang diễn ra trong thực tế
hiện nay, cũng tác động mạnh đến mọi tầng lớp nhân dân lao động trên thế giới, trong
đó có giai cấp công nhân tại các quốc gia tư bản phát triển. Tác động của nó đối với
chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực.
Nó vừa tạo cơ hội, vừa đặt ra thách thức không nhỏ đối với mọi hoạt động chung, mọi
nỗ lực thống nhất quan điểm, phối hợp hành động của giai cấp công nhân, của các
đảng cộng sản và các tầng lớp nhân dân lao động trên thế giới.
Về tác động tích cực của toàn cầu hóa đối với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp
công nhân:
Thứ nhất, toàn cầu hóa tạo điều kiện thuận lợi để giai cấp công nhân, các tầng
lớp nhân dân lao động ở mọi quốc gia, mọi khu vực, mọi châu lục nhận biết nhanh
chóng, đầy đủ, sát thực hơn về nhau. Sự phát triển mạnh mẽ và xu thế rút ngắn
khoảng cách giữa phát minh, sáng chế với việc ứng dụng chúng vào thực tiễn hoạt
động sản xuất, hoạt động sống của xã hội loài người, mà biểu hiện điển hình là sự
phát triển, lan tỏa nhanh chóng của công nghệ thông tin, viễn thông đã tạo cơ hội, làm
đa dạng hóa các hình thức, kênh trao đổi thông tin giữa các quốc gia, giữa các cộng
đồng dân cư. Nhờ vậy, giờ đây mọi sự kiện xảy ra ở bất cứ nơi nào trên thế giới đều
nhanh chóng được truyền đi khắp toàn cầu. Điều này cho phép mọi người dân, mọi
tầng lớp xã hội, mọi cộng đồng người ở bất cứ nơi nào trên thế giới có cơ hội theo
dõi, nhanh chóng nắm bắt, hiểu được cuộc sống, hoạt động của các cộng đồng khác.
Điều này có tác dụng tăng cường sự hiểu biết, cảm thông, chia sẻ, ủng hộ giữa những
người lao động ở các quốc gia, khu vực khác nhau. Bằng chứng rõ nhất là các phong

Trang 4
Đoàn kết quốc tế

trào, chiến dịch quyên góp, ủng hộ nạn nhân các vụ thiên tai ở hàng loạt quốc gia, khu
vực những năm vừa qua. Nhờ có chương trình truyền hình trực tiếp, liên tục về các vụ
thiên tai, về nạn nhân của chúng, người dân ở các quốc gia, khu vực khác nhau, dù
sống xa nơi xảy ra thảm họa hàng chục ngàn cây số, vẫn có thể theo dõi một cách sát
sao, vẫn cảm nhận một cách trực tiếp mức độ khủng khiếp, những gian truân, nhọc
nhằn, những khó khăn hiểm nguy mà cộng đồng dân cư nơi xảy ra thảm họa phải chịu
đựng, từ đó họ cảm thông, chia sẻ, hành động thiết thực để ủng hộ, giúp đỡ những nạn
nhân của thiên tai.
Thứ hai, toàn cầu hóa giúp cho giai cấp công nhân, các tầng lớp nhân dân lao
động ở những nước khác nhau ý thức đầy đủ, sâu sắc hơn về điểm chung trong lợi ích
cơ bản của giai cấp, tầng lớp mình, từ đó tăng cường đoàn kết, cùng nhau hành động,
đấu tranh để bảo vệ lợi ích chung đó. Tăng cường trao đổi thông tin, giao lưu, gặp gỡ
tạo cơ hội để giai cấp công nhân, nhân dân lao động ở các nước, trước hết ở những
quốc gia, nơi nhà nước không phải là đại diện cho lợi ích của người lao động, nhận
thức đầy đủ hơn về những điểm tương đồng trong nhu cầu, lợi ích của mình: đều là
những lực lượng lao động làm thuê, trực tiếp tạo ra của cải vật chất chủ yếu của xã
hội, bị bóc lột, nguồn sống chính là do bán sức lao động, trực tiếp phải gánh chịu mọi
hậu quả, tác động tiêu cực do những biến động kinh tế, chính trị, xã hội, sinh thái gây
ra. Những điểm chung trong lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, các tầng lớp nhân
dân lao động thế giới đã được trình bày một cách cô đọng, khúc triết trong học thuyết
Mác - Lê-nin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, về sự cần thiết, tính tất yếu
của liên minh giai cấp trong cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân thế giới.
Tuy nhiên, trước đây, người công nhân, người lao động ở các nước khác nhau mới chỉ
hiểu, ý thức về điểm chung đó trên phương diện lý thuyết. Giờ đây, nhờ sự phát triển
của toàn cầu hóa, nhờ tăng cường giao lưu, trao đổi, tiếp xúc... họ đã tiến tới mức cảm
nhận, trải nghiệm cái chung đó trong hoạt động thực tiễn. Đây là bước chuyển rất
quan trọng về chất của phong trào công nhân thế giới.
Thứ ba, toàn cầu hóa tạo cơ hội cho người lao động - công dân của các nước
khác nhau trực tiếp cùng nhau làm việc trong một dây chuyền, xí nghiệp sản xuất nhất
định. Một trong những biểu hiện nổi bật của toàn cầu hóa là sự gia tăng luân chuyển
các nguồn nhân lực giữa các quốc gia, khu vực. Điều này đồng nghĩa với việc, người
lao động có cơ hội lớn hơn trong lựa chọn nơi, địa điểm làm việc. Về lý thuyết, giờ
đây người lao động có thể đến làm việc ở bất cứ nơi đâu, cho bất cứ công ty, xí
nghiệp nào trên thế giới. Và thực tế cho thấy, không ít công ty, xí nghiệp, cơ sở sản
xuất kinh doanh thu hút lao động từ rất nhiều quốc gia, khu vực khác nhau. Thực tế
này giúp cho công nhân, người lao động mang quốc tịch khác nhau, với những giá trị
văn hóa, tín ngưỡng khác nhau không chỉ nhận thức sâu sắc hơn, mà còn trải nghiệm
cái chung về lợi ích, cái chung về địa vị xã hội của giai cấp mình, từ đó họ đoàn kết
chặt chẽ hơn, hành động nhất quán hơn trong cuộc đấu tranh bảo vệ lợi ích chung, vì
mục tiêu chiến lược chung.
Bên cạnh những cơ hội mà toàn cầu hóa có thể tạo ra cho quá trình củng cố,
tăng cường tình đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân, thì nó cũng đặt ra không ít
thách thức đối với quá trình này.
Thứ nhất, toàn cầu hóa phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh hệ thống xã hội chủ
nghĩa thế giới bị lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng, đổ vỡ. Biến cố lịch sử này làm
cho phong trào cộng sản, công nhân quốc tế nói riêng, phong trào cách mạng thế giới
nói chung lâm vào thời kỳ thoái trào. Không ít các lý luận gia cố gắng biện luận cho
cái gọi là "sự tất yếu diệt vong" của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, về "sự

Trang 5
Đoàn kết quốc tế

lỗi thời" của chủ nghĩa quốc tế vô sản của giai cấp công nhân. Trong bối cảnh các
quốc gia tập trung phát triển kinh tế, coi lợi ích kinh tế của quốc gia mình là ưu tiên số
một trong quan hệ với thế giới bên ngoài, khi mà chính phủ ở phần lớn các nước chủ
trương và tiến hành thực hiện đường lối đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa trên
nguyên tắc cùng có lợi, khi mà các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau, thậm
chí đối lập nhau, tích cực triển khai chính sách cùng tồn tại hòa bình, thì tình đoàn kết
quốc tế truyền thống của giai cấp công nhân quả thực phải đối mặt với không ít thử
thách, cam go. Sự suy giảm mối quan hệ giữa các nước xã hội chủ nghĩa, sự trầm
lắng, lúng túng của phong trào cách mạng thế giới cuối những năm 80, đầu những
năm 90 thế kỷ XX là dấu hiệu rõ rệt nhất về những thách thức, khó khăn mà chủ
nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân thế giới gặp phải.
Thứ hai, thực tế vận động, phát triển của toàn cầu hóa những thập niên vừa qua
cho thấy, các nước tư bản phát triển, các công ty tư bản độc quyền xuyên quốc gia, do
nắm trong tay những ưu thế về khoa học - công nghệ, về vốn, về kinh nghiệm, kỹ
năng quản lý điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh trong cơ chế thị trường hiện
đại, đang là những chủ thể nắm quyền chủ động đối với toàn cầu hóa. Họ ra sức lợi
dụng toàn cầu hóa nhằm phục vụ cho lợi ích, tham vọng ích kỷ của mình, coi nhẹ,
thậm chí phớt lờ lợi ích của các lực lượng xã hội khác, bỏ qua quyền lợi của các quốc
gia dân tộc nghèo, kém phát triển. Để thực hiện mục tiêu này, họ sẵn sàng thỏa hiệp,
tạm thời gác lại những bất đồng, mâu thuẫn nội bộ, hợp sức, cố kết với nhau trên quy
mô khu vực và toàn cầu. Trong khi đó, vì những nguyên nhân chủ quan và khách
quan, bản thân các nước nghèo đang và kém phát triển, bản thân các lực lượng cộng
sản, công nhân thế giới lại có dấu hiệu suy giảm sự phối hợp về quan điểm và hành
động chung, đôi khi lâm vào tình trạng phân liệt về tư tưởng, tổ chức, thiếu sự thống
nhất, hợp tác trong hành động, lúng túng, bị động trước những chuyển biến nhanh
chóng của thế giới. Thực trạng bất lợi này ngày càng được các đảng cộng sản, công
nhân, các lực lượng cánh tả tiến bộ trên thế giới nhận ra. Do vậy, những năm gần đây
họ đang nỗ lực hành động để khắc phục tình hình tiêu cực đó.
Thứ ba, xu thế gia tăng mạnh mẽ các dòng lưu chuyển vốn, công nghệ và lao
động trên quy mô toàn cầu, bên cạnh tác động tích cực như đã phân tích ở trên, cũng
có ảnh hưởng tiêu cực, gây bất lợi cho tình đoàn kết quốc tế trong nội bộ giai cấp
công nhân, nhân dân lao động ở các quốc gia khác nhau. Tác động tiêu cực của các xu
hướng này được biểu hiện ở hai thực tế sau. Một là, triển khai đường lối đối ngoại đa
dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới, đảng cộng sản cầm quyền, nhà nước ở các nước xã hội chủ nghĩa đang nỗ lực
thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, trước hết và chủ yếu từ các nước tư bản phát
triển, cố gắng xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, lao động của mình ra nước ngoài. Trong
khi đó, các đảng cộng sản, công nhân, các lực lượng cánh tả tiến bộ ở các nước tư bản
phát triển lại chỉ trích chính sách của chính phủ nước mình trong việc mở cửa thị
trường, xuất khẩu tư bản ra nước ngoài, vì theo họ (các đảng cộng sản, công nhân, các
lực lượng cánh tả tiến bộ ở khu vực các nước tư bản phát triển) chính sách đó của
chính phủ sẽ đe dọa nền sản xuất trong nước, thu hẹp công ăn việc làm của người lao
động. Do vậy, ở đây có nguy cơ nảy sinh mâu thuẫn giữa người lao động đến từ các
nước xã hội chủ nghĩa và người lao động ở các nước tư bản phát triển. Hai là, sự tự
do lưu chuyển nguồn nhân lực tạo điều kiện thuận lợi để công nhân, người lao động
từ các nước kém phát triển chuyển đến tìm việc làm với hy vọng có thu nhập cao hơn
ở các nước tư bản phát triển, làm nảy sinh xung đột giữa lao động nước sở tại và lao
động di cư từ nước khác tới. Những xung đột này là nguy cơ tiềm ẩn phá vỡ tình đoàn
kết quốc tế của giai cấp công nhân thế giới. Nó đã và đang bị các thế lực dân tộc chủ

Trang 6
Đoàn kết quốc tế

nghĩa, cánh hữu cực đoan lợi dụng để kích động thái độ phân biệt chủng tộc, bài ngoại
trong nội bộ giai cấp công nhân, người lao động ở không ít quốc gia Tây Âu, Bắc Mỹ,
Đông - Bắc á những năm vừa qua.
2.3 Kết luận
Trước những tác động tích cực và tiêu cực, thời cơ và thách thức do toàn cầu
hóa tạo ra, giai cấp công nhân, các tầng lớp nhân dân lao động, các đảng cộng sản,
công nhân, các lực lượng cánh tả tiến bộ trên thế giới phải làm gì để củng cố, tăng
cường tình đoàn kết quốc tế của mình? Câu hỏi chưa có lời giải đáp thỏa đáng, triệt
để. Song, những cố gắng, nỗ lực của các đảng cộng sản, công nhân, các lực lượng
cánh tả tiến bộ, của toàn bộ giai cấp công nhân, các tầng lớp nhân dân lao động khắp
thế giới những năm vừa qua nhằm tìm kiếm phương thức, hình thức trao đổi ý kiến,
phối hợp hoạt động phù hợp hơn, thích ứng hơn với tương quan lực lượng mới, với
bối cảnh mới của thế giới hiện nay là một thực tế không thể phủ nhận. Dù còn muôn
vàn khó khăn, thách thức, nhưng với tư cách một lực lượng chính trị xã hội tiên phong
của thời đại, người đại diện cho xu hướng phát triển tiến bộ, hợp quy luật của lịch sử,
với bản chất cách mạng và chủ nghĩa quốc tế, giai cấp công nhân thế giới chắc chắn
sẽ vượt qua những khó khăn, thử thách; tìm ra phương thức, hình thức mới phù hợp
với bối cảnh mới của thời cuộc để tiếp tục củng cố, phát huy tình đoàn kết quốc tế của
mình.
II. TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHƯƠNG ĐÔNG
1. Giới thiệu chung
Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính
quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn
giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi
thôi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống
và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra. Cách mạng Nga hiểu rất rõ điều đó. Vì thế nó
không vừa lòng với việc đọc những bài diễn văn rỗng tuếch và viết ra những quyết
định "nhân đạo" đối với các dân tộc bị áp bức, mà cách mạng Nga dạy cho họ đấu
tranh, giúp đỡ họ bằng tinh thần và vật chất như Lênin đã tuyên bố trong luận cương
của Người về vấn đề thuộc địa. Cách mạng Nga đã triệu tập Đại hội Bacu51; hai mươi
mốt dân tộc phương Đông đã phái đại biểu tới dự Đại hội đó. Những đại biểu của các
đảng công nhân phương Tây cũng tham gia công việc của Đại hội. Đó là lần đầu tiên
trong lịch sử, giai cấp vô sản ở các nước phương Tây đi xâm chiếm và giai cấp vô sản
các nước bị xâm chiếm ở phương Đông đã thân mật nắm tay nhau và cùng nhau tìm
cách đấu tranh có hiệu quả chống chủ nghĩa tư bản là kẻ thù chung của họ.
Sau cuộc Đại hội lịch sử ấy, mặc dầu đang vấp phải những khó khăn trong nước
và ngoài nước, nước Nga cách mạng không hề một chút do dự trong việc giúp đỡ các
dân tộc mà nó đã thức tỉnh bằng cuộc cách mạng anh dũng và thắng lợi. Một trong
những việc quan trọng đầu tiên của nó là thành lập Trường đại học phương Đông.
Trường đại học phương Đông gồm có 1.025 sinh viên, trong đó có 151 nữ sinh. Trong
số sinh viên ấy, có 865 đảng viên cộng sản. Thành phần xã hội của học sinh như sau:
547 nông dân, 265 công nhân, 210 trí thức vô sản. Nếu người ta chú ý rằng các nước
phương Đông đều là những nước hầu như hoàn toàn nông nghiệp thì sẽ dễ hiểu vì sao
số sinh viên nông dân chiếm tỷ lệ cao hơn. Ở Ấn Độ, ở Nhật, ở Trung Quốc - nhất là
ở Trung Quốc, phần nhiều là các trí thức trung thành với sự nghiệp của giai cấp công
nhân đang lãnh đạo giai cấp này trong cuộc đấu tranh, điều đó giải thích vì sao số trí
thức chiếm tỷ lệ một thiểu số tương đối quan trọng; và tỷ lệ công nhân ít là do công

Trang 7
Đoàn kết quốc tế

nghiệp và thương nghiệp tương đối kém phát triển trong các vùng phương Đông, trừ
nước Nhật. Ngoài ra, còn có 75 học sinh thiếu niên, từ 10 đến 16 tuổi,150 giáo sư phụ
trách giảng dạy về khoa học xã hội, về toán học, về duy vật lịch sử, về lịch sử phong
trào công nhân, về khoa học tự nhiên, về lịch sử các cuộc cách mạng, về khoa kinh tế
chính trị, v.v.. Trong lớp học, thanh niên của 62 chủng tộc khác nhau cùng thân mật
sát cánh bên nhau.
Trường đại học phương Đông có 10 ngôi nhà to để cho sinh viên dùng. Trường
có một rạp chiếu bóng cho sinh viên xem không mất tiền vào ngày thứ năm và ngày
chủ nhật; còn những ngày khác trong tuần lễ thì để cho một người thầu. Có hai tủ sách
với 47.000 quyển sách giúp cho các nhà cách mạng trẻ tuổi đi sâu vào việc nghiên
cứu của mình và bồi dưỡng thêm tư tưởng. Mỗi dân tộc hay "nhóm", có một tủ sách
riêng, gồm sách báo bằng tiếng mẹ đẻ của họ. Phòng đọc sách được sinh viên trang trí
một cách có nghệ thuật và có đầy đủ báo chí. Các học sinh cũng cho ra một tờ báo chỉ
có một bản duy nhất dán vào cái bảng to đặt trước cửa phòng đọc sách. Những người
đau ốm được vào chữa trong bệnh viện của nhà trường. Một trại điều dưỡng ở Crimê
dành riêng cho sinh viên cần được dưỡng sức. Chính phủ Xôviết đã tặng cho Trường
đại học hai trại hè mỗi trại có 9 ngôi nhà. Mỗi trại hè có một chỗ cho sinh viên học
chăn nuôi. Người "bí thư nông nghiệp" của Trường đại học đã tự hào nói: "Chúng tôi
đã có 30 con bò cái và 50 con lợn". Một trăm hécta ruộng đất cấp cho các trại hè ấy là
do sinh viên tự cày cấy lấy. Trong kỳ nghỉ hè và sau giờ làm việc và tập luyện, sinh
viên đi giúp đỡ nông dân. Nhân đây cũng nói qua rằng một trong những trại hè ấy
trước kia là thái ấp của một quận công. Thật là một cảnh đáng ghi nhớ khi trông thấy
lá cờ đỏ tung bay kiêu hãnh trên ngọn tháp có mang tước huy quận công, và thấy
những người nông dân trẻ tuổi Triều Tiên hay ácmêni vui đùa trong lễ điện của quận
công không kiêng nể gì cả.Sinh viên ăn, ở và mặc không phải mất tiền. Mỗi tháng mỗi
sinh viên còn được lĩnh 5 đồng rúp vàng để tiêu vặt.Để học sinh có một quan niệm
đúng đắn về việc giáo dục trẻ em, Trường đại học có một nhà nuôi trẻ và một nhà gửi
trẻ rất kiểu mẫu gồm 60 em nhỏ.Mỗi năm Trường đại học chi tiêu đến 516.000 đồng
rúp vàng.Các đại biểu của 62 chủng tộc trong Trường đại học lập thành một "Công
xã". Chủ tịch và các cán sự của Công xã do phổ thông đầu phiếu bầu ra ba tháng một
lần.Một đại biểu sinh viên tham gia việc quản trị kinh tế và hành chính của Trường
đại học. Tất cả các sinh viên đều phải thay phiên nhau lần lượt làm công việc nhà bếp,
thư viện, câu lạc bộ, v.v.. Tất cả mọi vụ "phạm pháp" hoặc tranh chấp đều do một toà
án được bầu ra xét xử trước mặt toàn thể các đồng chí. Công xã họp mỗi tuần một lần
để thảo luận tình hình chính trị và kinh tế quốc tế. Thỉnh thoảng người ta tổ chức
những cuộc hội họp và những buổi dạ hội trong đó những sinh viên có khiếu về nghệ
thuật trình bày nghệ thuật và văn học của khắp các miền ở phương Đông.
Một điểm đặc biệt nhất biểu hiện sự "dã man" của những người Bônsêvích là
không những họ coi "những người dân thuộc địa thấp kém" ấy như anh em, mà còn tổ
chức cho họ tham gia đời sống chính trị của nước Nga nữa. Trong kỳ bầu cử các
Xôviết, những sinh viên mà khi còn ở trong nước của họ thì chỉ là những "kẻ dân
lành", những "người được bảo hộ", nghĩa là những người không có quyền gì khác hơn
là quyền nộp thuế, những người không hề có quyền ứng cử và bầu cử ở nước họ,
những người không được phép bàn bạc chính trị, thì nay ở nước Nga Xôviết những
người đó được tham gia bầu cử và cử đại biểu của họ vào Xôviết. Mong rằng những
anh em ở các thuộc địa đang cầu xin đổi quốc tịch mãi mà không được, hãy thử so
sánh nền dân chủ tư sản với nền dân chủ vô sản.Tất cả những sinh viên ấy đều đã từng
đau khổ và đã thấy người khác đau khổ. Tất cả đều đã sống dưới "nền văn minh khai
hoá cao cả" và dưới ách bóc lột và áp bức của chủ nghĩa tư bản nước ngoài. Vì thế tất

Trang 8
Đoàn kết quốc tế

cả đều ham mê và khao khát học tập và hiểu biết. Họ vừa hăng hái vừa nghiêm túc.
Họ không hề chơi bời phóng túng như những thanh niên phương Đông ở Pari, ở
Ôxpho, ở Béclin. Người ta có thể nói không ngoa rằng Trường đại học phương Đông
ôm ấp dưới mái trường mình tất cả tương lai của các dân tộc thuộc địa.Miền Cận
Đông và miền Viễn Đông, từ Xyri đến Triều Tiên - Chỉ xin nói đến những nước thuộc
địa và nửa thuộc địa có một diện tích rộng hơn 15 triệu km2, với số dân hơn 1.200
triệu người, tất cả những nước rộng lớn ấy ngày nay đều đang ở dưới ách của chủ
nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc. Và mặc dù số lượng của họ đáng lẽ phải làm cho
họ có sức mạnh, các dân tộc bị áp bức đó vẫn chưa thực sự mưu đồ tự giải phóng khỏi
ách đó, và vì họ chưa hiểu giá trị của sự đoàn kết quốc tế, nên họ chưa biết đoàn kết
nhau lại để đấu tranh. Họ chưa có những sự liên hệ giữa các nước họ với nhau, như
các dân tộc châu Âu và châu Mỹ. Họ có sẵn một sức mạnh to lớn mà họ chưa biết!
Việc thành lập Trường đại học phương Đông, tập hợp những người lãnh đạo trẻ tuổi
tích cực, thông minh của các nước thuộc địa, đã làm được một công cuộc to lớn là:
 Trường đã huấn luyện cho các chiến sĩ tiên phong tương lai ấy nguyên lý đấu
tranh giai cấp, nguyên lý mà một mặt các cuộc đấu tranh chủng tộc và mặt
khác các tập tục của chế độ gia trưởng đã làm lẫn lộn trong đầu óc họ.
 Trường đã làm cho đội tiên phong của giai cấp vô sản các nước thuộc địa tiếp
xúc mật thiết với giai cấp vô sản phương Tây để dọn đường cho một sự hợp
tác thật sự sau này, chỉ có sự hợp tác đó mới có thể bảo đảm cho giai cấp công
nhân quốc tế giành được thắng lợi cuối cùng.
 Trường đã làm cho các dân tộc thuộc địa - từ trước đến nay rời rạc với nhau -
hiểu biết nhau, và đoàn kết với nhau, do đó đặt cơ sở cho một khối liên hợp
tương lai giữa các nước phương Đông, khối liên hợp đó là một trong những
cái cánh của cách mạng vô sản.
 Trường đã nêu lên cho giai cấp vô sản các nước mà giai cấp tư sản có thuộc
địa, một tấm gương về những điều họ có thể và phải làm cho những anh em
của họ đang bị áp bức.
2. Nguyễn Ái Quốc vào học trường Đại học Phương Đông
Nguyễn Ái Quốc được giới thiệu sang Liên Xô để dự Đại hội Quốc tế Cộng sản
nhưng Đại hội hoãn họp. Trong thời gian ở Matxcơva,Nguyễn Ái Quốc được giới
thiệu vào lớp học ngắn hạn tại đây. Học viên ở đây gồm các dân tộc khác nhau, nhưng
đoàn kết thống nhất. Nguyễn Ái Quốc được học những nguyên lý đấu tranh giai cấp,
được trang bị những phương pháp, tổ chức làm cách mạng một cách khoa học và thực
sự trường đã trở thành nơi đào tạo những cán bộ tuyên truyền đầu tiên cho các nước
phương Đông. Ngày 21-4-1924, Nguyễn Ái Quốc viết thư cho Pêtrốp, Bí thư Ban
phương Đông đề nghị lập nhóm Châu Á tại trường. Anh tập hợp các học viên Châu Á,
trong đó phần lớn là các bạn Trung Quốc, để sinh hoạt trao đổi những vấn đề liên
quan đến thực tế đấu tranh của các nước thuộc địa, cùng nhau giúp đỡ học tập, sinh
hoạt.
Ở đất nước Xô Viết, Nguyễn Ái Quốc có điều kiện tập trung học tập hơn ở
Pháp. Trong quá trình sinh hoạt trong nhóm Châu Á, Nguyễn Ái Quốc đã tập hợp tư
liệu của các bạn học viên người Trung Quốc để viết cuốn sách : Trung Quốc và thanh
niên Trung Quốc. Năm 1921 được Nhà xuất bản Matxcơva Mới công bố và cuốn sách
đã trở thành sách tiêu biểu trong tủ sách của Thành đoàn Thanh niên Matxcơva.

Trang 9
Đoàn kết quốc tế

Chân dung Nguyễn Ái Quốc, chụp tại Liên Xô năm 1923


Thời kỳ đang học ở trường Đại học Phương Đông, có một sự kiện gây tiếng
vang lớn. Nhân dịp nhà thơ Liên Xô Ôxíp Mandenstam đến trường và gặp người
thanh niên Việt Nam Nguyễn Ái Quốc, giữa hai người đã có một cuộc trao đổi chân
tình cởi mở những vấn đề về quê hương, tình trạng bóc lột ở các nước thuộc địa, về
Phương Đông học, về quá trình tự học và hoạt động cách mạng v.v... Tất cả được
Nguyễn Ái Quốc trình bày một cách khúc chiết, sâu sắc và mang một tâm hồn trong
sáng nhiệt tình của người thanh niên phương Đông tài năng và lịch thiệp. Sau cuộc
chuyện trò, trên báo “Ngọn lửa nhỏ” đã đăng bài "Thăm một chiến sĩ Quốc tế Cộng
sản - Nguyễn Ái Quốc" của Mandenstam, trong đó có đoạn : "Từ Nguyễn Ái Quốc tỏa
ra một nền văn hóa, không phải văn hóa Châu Âu, mà có lẽ là văn hóa tương lai. Dân
tộc Việt Nam là một dân tộc giản dị và lịch sự. Qua cử chỉ cao thượng và tiếng nói
trầm lắng của Nguyễn Ái Quốc, tôi thấy được ngày mai, thấy được viễn cảnh trời yên
biển lặng của tình hữu ái toàn thế giới bao la như đại dương". Bài báo đã gây một
tiếng vang lớn trên công luận . Mọi người chú ý và tỏ thái độ ủng hộ, giúp đỡ cuộc
đấu tranh của nhân dân Việt Nam.
Năm 1924 một sự kiện nữa đến với Nguyễn Ái Quốc. Khi nghe tin Lênin từ
trần, tuy cái rét dưới 30 độ âm, Nguyễn Ái Quốc trong dòng người đến viếng Lênin,
anh quên cả giá lạnh. Vừa nhích từng bước vào phòng tang lễ, anh trầm ngâm suy
nghĩ về con người và sự nghiệp vĩ đại của Lênin. Anh hết sức ngưỡng mộ, kính phục
Lênin - Người đã mang đến cho anh ánh sáng chân lý. Từ ngày đọc “Luận cương về
cách mạng thuộc địa”, anh hoàn toàn theo Lênin. Ước ao khi đến Liên Xô sẽ được
gặp Lênin và nghe trực tiếp những lời chỉ huấn của Người. Nhưng tiếc rằng khi anh
sang đây thì Lênin đang ốm nặng. Vượt trên giá rét và bị cảm lạnh, tối đó, trong tâm
trạng xúc động dâng tràn, Nguyễn Ái Quốc thưc trọn đêm viết bài "Lênin và các dân
tộc thuộc địa". Báo Pravđa, cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Liên Xô đăng
bài viết của Nguyễn Ái Quốc đúng vào ngày tang lễ trọng thể của Lênin. Bên cạnh tin
về tang lễ là bài "Lênin và các dân tộc thuộc địa". Bài báo đã ca ngợi Lênin là lãnh tụ
của toàn thế giới, đặc biệt đối với các dân tộc thuộc địa. Lênin đã thắp sáng ngọn đèn
chân lý, anh sáng soi rọi tương lai. Lênin, một con người ở nước Nga đã dũng cảm
đấu tranh cho các dân tộc thuộc địa.
Nguyện vọng thiết tha nhất của Nguyễn Ái Quốc là được trở về Đông Dương,
trở về phương Đông, nơi đó là quê hương đang rên xiết dưới gông xiềng nô lệ. Nhưng
vì lý do khách quan,anh chưa thể đủ điều kiện để về được. Nguyễn Ái Quốc được bố
trí làm việc tại Ban Phương Đông, Quốc tế Cộng sản từ ngày 14 tháng 4 năm 1924.
Nhờ có những hoạt động tích cực nên uy tín và ảnh hưởng của anh trong bạn bè, đồng

Trang 10
Đoàn kết quốc tế

chí và công việc ngày càng cao. Anh thường được mời đi nói chuyện, tuyên truyền
trong các buổi mít-tinh. Đặc biệt trong ngày Quốc tế Lao động ngày 1 tháng 5 năm
1924, anh được Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản ủy nhiệm đến Hồng Trường nói
chuyện với đoàn biểu tình và được cấp Giấy đặc biệt tự do ra vào Hồng Trường.
Từ ngày 17-6 đến ngày 8-7-1924 tại Matxcơva diễn ra một sự kiện trọng đại :
Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản. Nguyễn Ái Quốc được mời tham dự Đại hội.
Ngày khai mạc Tổng bí thư đọc dự thảo Nghị quyết lời kêu gọi của Đại hội. Nguyễn
Ái Quốc xin được phát biểu bổ sung lời kêu gọi thêm mấy chứ "Gửi các dân tộc thuộc
địa". Đề nghị hợp lý đó được Đại hội nhất trí tán thành. Nguyễn Ái Quốc được bố trí
phát biểu tại phiên họp thứ tám: "Tôi đến đây để không ngừng lưu ý Quốc tế Cộng
sản đến một sự thật là : thuộc địa vẫn đang tồn tại và vạch ra để Quốc tế Cộng sản
thấy rằng : Cách mạng, ngoài vấn đề tương lai của thuộc địa, còn có cả nguy cơ của
các thuộc địa. Song tôi thấy rằng, hình như các đồng chí chưa hoàn toàn thấm nhuần
tư tưởng cho rằng vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của
giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp
bị áp bức bóc lột ở các thuộc địa. Vì vậy tôi sẽ tận dụng mọi cơ hội có được, sẽ gợi ra
những vấn đề và nếu cần tôi sẽ thức tỉnh các đồng chí về vấn đề thuộc địa". Nguyễn
Ái Quốc thẳng thắn phê bình một số Đảng Cộng sản xem thường vấn đề thuộc địa,
anh đã mạnh dạn vạch ra những sai lầm trong nhận thức của các Đảng đó "đánh rắn
chỉ đánh đằng đuôi" mà sức sống của rắn là ở các thuộc địa - nơi vơ vét của cải, sức
người đã làm giàu tư bản. Tại phiên họp sau, anh tiếp tục được mời phát biểu. Anh
nhắc lại luận điểm của V.I.Lênin : "Chủ nghĩa Mác ở phương Tây muốn thắng lợi thì
nó phải liên hệ chặt chẽ với phong trào giải phóng chống chủ nghĩa đế quốc ở các
nước thuộc địa và các nước nô dịch". Chính những ý nghĩa đó đã có ảnh hưởng rất lớn
đến văn kiện Đại hội. Tại phiên họp thứ 25, Nguyễn Ái Quốc phát biểu về vấn đề
ruộng đất và nông dân ở các nước thuộc địa của Pháp. Trung tuần tháng 7 năm 1924,
Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ ba Quốc tế Công hội đỏ. Anh được mời đọc
tham luận về tình trạng kinh tế và lao động của giai cấp công nhân việt Nam. Để khắc
phục tình trạng bất công của giai cấp công nhân ở các nước thuộc địa, yêu cầu nhân
dân lao động và giai cấp công nhân quốc tế ngày càng phải tích cực giúp đỡ có hiệu
quả phong trào công nhân thuộc địa. Sau khi tham dự Đại hội Quốc tế Công hội đỏ
Nguyễn Ái Quốc được mời tham dự Đại hội quốc tế Cộng sản Thanh niên và Hội
nghị của Tổ chức Quốc tế giúp đỡ các chiến sĩ cách mạng (MOPR).
Trên đất nước Lênin, vầ học tập, sau này vừa đi làm ở Ban Phương Đông, Quốc
tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc tích cực hoạt động tuyên truyền chính trị ở dưới nhiều
hình thức phong phú, tham gia nói chuyện ở các cuộc mít tinh, biểu tình, tham dự các
đại hội, hội nghị quan trọng của các cơ quan cao nhất của Quốc tế cộng sản. Đặc biệt
viết nhiều bài báo, đăng tải trên các báo cáo hàng ngày và các tạp chí chuyên đề
khách nhau. Những hoạt động đó tập trung vào chủ đề: làm thế nào để thế giới biết
đến và ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của các nước thuộc địa nói chung, Việt
Nam nói riêng. Nội dung các bài viết của Nguyễn Ái Quốc cung cấp những tư liệu
cần thiết để tố cáo tội ác dã man của chế độ hai tầng áp bức ở các nước thuộc địa. Ở
đó người lao động bị bóc lột, nhưng qua thông tin báo chí tư sản thì bị bóp méo, che
đậy bản chất. Do đó đã làm sai lệch hoàn toàn nhận thức về tình cảnh người lao động.
Thậm chí còn hiểu sai là ở đó được sự "khai hóa văn minh” của các nước chính quốc.
Nguyễn Ái Quốc yêu cầu phải đoàn kết lại phong trào công nhân toàn thế giới, mà các
Đảng Cộng sản là ngọn cờ dẫn dắt phong trào. Ngoài ra, Nguyễn Ái Quốc còn đề cập
đến những vấn đề lý luận và chỉ đạo hoạt động thực tiễn phong trào cách mạng giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Từ những kinh nghiệp hoạt động thực tiễn với sự

Trang 11
Đoàn kết quốc tế

nhạy bén sâu sắc tiếp thu tri thức học được cộng với trí tuệ mẫn tiệp, nắm bắt nhanh
các vấn đề thời sự chính trị nên Nguyễn Ái Quốc đã đóng góp vào kho tàng lý luận
chủ nghĩa Mác - Lênin ngày một phong phú. Đặc biệt bổ sung những luận điểm,
những kinh nghiệm quý báo về phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa.
III. KINH NGHIỆM ĐOÀN KẾT, HỢP TÁC QUỐC TẾ CỦA
CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Đoàn kết các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới là xu hướng khách
quan của thời đại, mở ra khả nǎng và điều kiện thuận lợi cho cách mạng mỗi nước kết
hợp được sức mạnh của dân tộc mình với sức mạnh của thời đại để giành thắng lợi.
Đảng ta luôn nhận thức và thực hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa phong trào cách mạng
nước ta với phong trào cách mạng và lực lượng tiến bộ trên thế giới. Đó là truyền
thống quý báu của Đảng ta.
1. Đoàn kết, hợp tác quốc tế giữa các nước là một vấn đề tất yếu lich sử
Liên minh, hợp tác giữa các quốc gia, dân tộc là một hiện tượng lịch sử - xã hội
phát triển có quy luật. Nội dung, tính chất và hình thức liên minh, hợp tác mang dấu
ấn thời đại và giai cấp rõ rệt, giữ vị trí trung tâm của thời đại. Xu thế phát triển của
lịch sử xã hội loài người là các nước, các dân tộc ngày càng xích lại gần nhau, có
quan hệ ngày càng sâu rộng. Xu thế đó bắt nguồn từ những tiền đề, điều kiện khách
quan. Nền kinh tế thế giới ngày nay phát triển vượt khỏi khuôn khổ quốc gia, phá vỡ
hàng rào dân tộc, mở rộng quan hệ quốc tế. Chủ nghĩa tư bản ra đời, sản xuất hàng
hoá và công nghiệp phát triển, chuyên môn hoá ngày càng sâu, đòi hỏi sự hợp tác,
trao đổi. Nhiều phương tiện giao thông và thông tin liên lạc hiện đại như hàng hải,
hàng không, điện tín, điện báo... mà một thời chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc độc
quyền sử dụng làm công cụ đi chinh phục, xâm lược các nước, ngày nay đã và đang
trở thành phương tiện chung của các dân tộc để thực hiện mối quan hệ quốc tế ngày
càng phát triển. Nền vǎn minh nhân loại đã phát triển vượt khỏi khuôn khổ một nước,
tạo điều kiện mở rộng quan hệ quốc tế giữa các dân tộc. Cùng với sự phát triển của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản và giai cấp vô sản ra đời, hai
lực lượng có tính chất quốc tế. Giai cấp vô sản muốn chiến thắng giai cấp tư sản thì
phải bằng sức mạnh đoàn kết vô sản toàn thế giới. Mác nêu khẩu hiệu: "Vô sản toàn
thế giới, liên hiệp lại!". Trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa, hệ thống thuộc địa bao trùm
cả thế giới, Lênin phát triển khẩu hiệu trên thành: "Vô sản tất cả các nước và các dân
tộc bị áp bức, đoàn kết lại!". Ngay từ những nǎm 20 của thế kỷ này, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nhận thức sâu sắc chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân trong tư tưởng lý
luận của Mác và của Lênin. Người đã dùng hình tượng hai cánh chim và hình tượng
con đỉa hai vòi để nêu lên sự kết hợp chặt chẽ giữa hai trào lưu cách mạng vô sản và
cách mạng giải phóng dân tộc. Người khẳng định công cuộc giải phóng của các dân
tộc bị áp bức "chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của chính bản thân mình" và
"muốn người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp mình đã". Đồng thời với việc
khẳng định sự nỗ lực "của chính bản thân mình", Người hết sức coi trọng sự liên minh
quốc tế, đoàn kết giữa các dân tộc để đấu tranh cho hoà bình. Người nói: "Vì nền hoà
bình thế giới, vì tự do và ấm no, những người bị bóc lột thuộc mọi chủng tộc cần đoàn
kết lại và chống bọn áp bức". Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Mười Nga nǎm
1917 mở ra một thời đại mới - thời đại cách mạng của giai cấp vô sản và các dân tộc
bị áp bức đoàn kết đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, đế quốc. Cuộc đấu tranh diễn ra
quyết liệt đòi hỏi phải thực hiện đoàn kết quốc tế giữa các nước xã hội chủ nghĩa, các
lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Đặc điểm nổi bật của thời đại ngày nay

Trang 12
Đoàn kết quốc tế

là cuộc cách mạng khoa học - công nghệ mới đang diễn ra mạnh mẽ, tạo bước phát
triển nhảy vọt về lực lượng sản xuất và đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá lực lượng sản
xuất, tǎng cường xu thế quốc tế hoá nền kinh tế, hình thành một thị trường thế giới,
trong đó các hệ thống kinh tế cạnh tranh với nhau. Mặt khác, sự hợp tác kinh tế là một
yêu cầu phát triển tất yếu của tất cả các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau.
Đúng như Lênin đã chỉ rõ: "Có một sức mạnh lớn hơn nguyện vọng, ý chí và sự quyết
tâm của bất cứ chính phủ hay giai cấp thù địch nào, sức mạnh đó là những quan hệ
kinh tế chung của toàn thế giới, chúng bắt buộc họ phải tiếp xúc với chúng ta". Thế
giới là một thể thống nhất có mâu thuẫn. Các nước vừa độc lập, vừa phụ thuộc lẫn
nhau. Các quốc gia dân tộc sống trên hành tinh đều cần duy trì sự sống. Nhưng những
mâu thuẫn cơ bản của xã hội loài người trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại; đồng thời lại xuất hiện những mâu thuẫn mới có tính
toàn cầu như mâu thuẫn giữa hoà bình và chiến tranh. Các dân tộc đều có quyền độc
lập, song không thể sống biệt lập với cộng đồng quốc tế, không thể không có sự hợp
tác quốc tế mà giải quyết được những yêu cầu nhiệm vụ phát triển của dân tộc mình.
Trong thế giới hiện đại, nhiều vấn đề đặt ra có liên quan đến vận mệnh của các dân
tộc. Đó là giữ gìn hoà bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hạt nhân huỷ diệt, bảo vệ môi
trường sống, bảo vệ và tái tạo tài nguyên thiên nhiên, hạn chế sự bùng nổ dân số,
phòng ngừa và đẩy lùi những bệnh tật hiểm nghèo. Con đường giải quyết có hiệu quả
nhất các vấn đề trên là phối hợp sức lực và tài nǎng với ý thức trách nhiệm cao của tất
cả các dân tộc trên thế giới. Không một nước nào, dù đó là nước lớn, có thể tự giải
quyết được những vấn đề trên.
2. Thực hiện đoàn kết, hợp tác quốc tế trong cách mạng Việt Nam
2.1 Từ khi Đảng ra đời đến Cách mạng tháng Tám 1945
Trên hành trình tìm đường cứu nước, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã sớm nhận
thấy tính chất thời đại mới, mở đầu từ Cách mạng tháng Mười Nga (1917). Người nói:
"Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách
mạng vô sản", đó là con đường mà Cách mạng Tháng Mười Nga đã đi qua. Sự nghiệp
Cách mạng Tháng Mười đang đứng trước những thử thách to lớn. Lịch sử thế giới
đang trải qua những bước quanh co. Song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới
chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định
hướng chiến lược đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Những vǎn kiện thành lập
Đảng ta đã chỉ rõ, nhân dân Việt Nam phải đoàn kết, bênh vực Liên bang Xôviết là
nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên, đoàn kết với giai cấp công nhân, nhân dân Pháp, đoàn
kết với phong trào giải phóng dân tộc các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, nhất là
Trung Quốc, ấn Độ. Đảng chủ trương thực hiện đoàn kết quốc tế rộng lớn với tất cả
các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ
vạch hướng, chỉ đường mà bằng những hoạt động thực tiễn phong phú, sinh động đã
gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Tháng 12-1920, tại Đại hội lần thứ
XVIII Đảng xã hội Pháp ở Tua, Người đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng
sản và là người tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp. Bằng những việc làm đó,
Người đã gắn bó chặt chẽ hơn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào cách
mạng thế giới, cách mạng Việt Nam với cách mạng Pháp, đặt nền móng cho tình đoàn
kết chiến đấu giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Pháp cùng các đảng
cộng sản và công nhân trên thế giới. Tháng 7-1921, ở Pari, Người đã cùng một số nhà
hoạt động cách mạng của nhiều nước thuộc địa lập ra Hội liên hiệp thuộc địa" nhằm
đoàn kết các lực lượng yêu nước của các dân tộc thuộc địa chống chủ nghĩa đế quốc
xâm lược. Nǎm 1925, Người lại cùng với những nhà cách mạng Trung Quốc, Triều
Tiên, Inđônêxia, Malaixia, Thái Lan, ấn Độ lập ra Hội các dân tộc bị áp bức ở á Đông.

Trang 13
Đoàn kết quốc tế

Hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn ái Quốc đồng thời là hành trình tìm kiếm
bạn đồng minh và thiết lập mối quan hệ đoàn kết, hợp tác quốc tế của cách mạng Việt
Nam. Lịch sử ngày càng ghi nhận công lao to lớn đầu tiên của Người đã gắn phong
trào cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới, đưa nhân dân ta đi theo
con đường mà chính Người đã trải qua - từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa quốc tế
của giai cấp công nhân. Trong các thời kỳ cách mạng, Đảng biết gắn mục tiêu đấu
tranh của nhân dân ta với mục tiêu đấu tranh của nhân dân thế giới, tranh thủ được
điều kiện thuận lợi và sự giúp đỡ quốc tế để đẩy mạnh cách mạng trong nước. Cao
trào dân chủ (1936-1939), Đảng đề ra mục tiêu trước mắt của cách mạng Việt Nam là
chống phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh, đòi dân sinh dân chủ. Mục
tiêu đó không chỉ đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng bức thiết của nhân dân ta mà còn
thống nhất với mục tiêu đấu tranh của nhân dân thế giới như Đại hội lần thứ VII Quốc
tế cộng sản (7-1935) đề ra. Do đó, nhân dân ta tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ
của nhân dân thế giới, nhất là nhân dân Pháp. Lợi dụng tình hình Chính phủ nhân dân
Pháp ban hành một số sắc lệnh như thả chính trị phạm, quyết định thành lập Uỷ ban
điều tra tình hình thuộc địa ở Bắc Phi và Đông Dương, thi hành một số cải cách về lao
động và xã hội, Đảng đã phát động hàng loạt cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân,
diễn ra sôi nổi ở cả nông thôn và thành thị. Trong cao trào giải phóng dân tộc (1940-
1945), Đảng và lãnh tụ Nguyễn ái Quốc chǎm chú theo dõi sự tiến triển của cuộc
Chiến tranh thế giới lần thứ hai, đặc biệt là những bước tiến của Hồng quân Liên Xô.
Hồng quân Liên Xô đánh tan đội quân mạnh nhất của phát xít Nhật, chúng phải đầu
hàng vô điều kiện. Đây là thời cơ vô cùng thuận lợi cho cách mạng Việt Nam giành
thắng lợi. Tranh thủ thời cơ ngàn nǎm có một đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta
đã kịp thời phát động toàn dân nổi dậy giành chính quyền cả nước trong thời gian
ngắn. Thành công của Cách mạng Tháng Tám nǎm 1945 có ý nghĩa lịch sử và thời đại
sâu sắc. Thành công đó do nhiều yếu tố tạo nên, trong đó có sự kết hợp đúng đắn sức
mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã
nhạy bén trước xu thế phát triển của cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai và phong
trào cách mạng thế giới, từng bước bổ sung, cụ thể hoá đường lối với những quyết
định sát đúng, kịp thời và tích cực chuẩn bị lực lượng về mọi mặt, do đó đã tranh thủ
phát huy được những điều kiện khách quan thuận lợi. Ngay từ khi mới ra đời, vấn đề
đoàn kết quốc tế được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng, đặc biệt là xây
dựng sự đoàn kết giữa ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia. Ba dân tộc trên bán đảo
Đông Dương có lịch sử lâu dài gắn bó với nhau về địa lý, kinh tế, vǎn hoá, xã hội,
thường phải chống những kẻ thù chung là thực dân, đế quốc lớn. Điều đặc biệt là ba
Đảng có chung nguồn gốc là Đảng Cộng sản Đông Dương và lãnh tụ Hồ Chí Minh,
một nhân tố quan trọng tạo nên mối quan hệ đoàn kết quốc tế kiểu mới giữa ba nước,
ba dân tộc. Đoàn kết cách mạng ba nước Đông Dương dưới sự lãnh đạo của một Đảng
thống nhất (1930 - 1951) là nét độc đáo của lịch sử liên minh, đoàn kết của ba nước
Việt Nam, Lào, Campuchia. Trong thời gian không dài, đồng chí Nguyễn ái Quốc và
Đảng Cộng sản Đông Dương đã truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, giác ngộ tinh thần
yêu nước và cách mạng, huấn luyện, đào tạo được những lớp cán bộ nòng cốt đầu tiên
để xây dựng Đảng và phong trào cách mạng ở ba nước dần dần đủ sức lãnh đạo nhân
dân ba nước giành được những thắng lợi cơ bản. Những thành công trên đặt nền móng
cho việc xây dựng đoàn kết lâu dài giữa ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia.
2.2 Thời kỳ tiến hành hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ xâm lược (1945-1975)
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta diễn ra trong
tình hình các nước xã hội chủ nghĩa lần lượt ra đời, và trở thành một hệ thống thế

Trang 14
Đoàn kết quốc tế

giới, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ. Nhưng trong những nǎm đầu
của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Việt Nam còn ở trong vòng vây của chủ
nghĩa đế quốc, nên chưa có điều kiện tranh thủ được sự đoàn kết, giúp đỡ rộng rãi của
thế giới. Lúc đầu, nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp chủ
yếu với sức mạnh của dân tộc, với ý chí "Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu
mất nước, không chịu làm nô lệ". Đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, tự lực
cánh sinh, dựa vào sức mình là chính, là nguồn gốc làm nên sức mạnh chiến thắng của
nhân dân ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta quyết định đặt cao nhiệm vụ phản đế,
còn nhiệm vụ phản phong rải ra thực hiện từng bước, phục vụ cho nhiệm vụ phản đế.
Khi có điều kiện thực hiện cải cách ruộng đất, chia ruộng đất cho nông dân, giải
phóng nông dân khỏi ách áp bức, bóc lột của địa chủ phong kiến là cách tạo ra sức
mạnh mới về vật chất và tinh thần cho cuộc kháng chiến. Sau chiến dịch Biên giới
nǎm 1950, nhân dân ta có điều kiện quan hệ và được sự ủng hộ giúp đỡ về tinh thần
và vật chất của nhân dân Trung Quốc, Liên Xô, nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa
và sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới, nhất là nhân dân Pháp. Nhiều phong
trào đấu tranh của nhân dân Pháp phản đối cuộc chiến tranh phi nghĩa của thực dân
Pháp. Hành động anh hùng của chị Raymôngđiêng ngǎn đoàn xe lửa chở vũ khí sang
Việt Nam, anh Hǎngri Máctanh vận động binh lính Pháp không sang Việt Nam tham
chiến, mãi mãi là những biểu tượng sáng ngời tinh thần đoàn kết chiến đấu giữa nhân
dân Việt Nam và nhân dân Pháp. Chiến cuộc Đông - Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là
chiến dịch Điện Biên Phủ là kết quả của sự kết hợp đúng đắn sức mạnh chiến đấu của
quân, dân ta, với sự giúp đỡ có hiệu quả của nhân dân các nước, trực tiếp là Trung
Quốc. Chiến thắng Điện Biên Phủ dẫn đến kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp, mở đầu quá trình tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới. Trong
cuộc đụng đầu lịch sử với đế quốc Mỹ, nhân dân ta cần được sự ủng hộ của Liên Xô,
Trung Quốc và các nước trên thế giới. Nhưng mâu thuẫn Xô - Trung nảy sinh gay gắt,
đế quốc Mỹ đã lợi dụng và tìm mọi cách khoét sâu mâu thuẫn đó để tiến hành cuộc
chiến tranh xâm lược Việt Nam với quy mô lớn. Song nhân dân ta vẫn nhận được sự
viện trợ to lớn có hiệu quả của nhân dân Liên Xô, nhân dân Trung Quốc. Trên thực tế
đã hình thành mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm
lược. Trong những nǎm 1960 không có vấn đề nào trên thế giới được sự ủng hô rộng
rãi như cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam. Cả loài người
tiến bộ đứng về phía Việt Nam. Các nước Thế giới thứ ba ủng hộ mạnh mẽ sự nghiệp
của chúng ta. Ngay ở Mỹ, đã diễn ra nhiều cuộc biểu tình, đốt thẻ quân dịch, tự thiêu
phản đối "Lầu nǎm góc" và "Nhà trắng" tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt
Nam. Sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của nhân dân ba
nước Việt Nam - Lào - Campuchia gắn bó mật thiết với nhau. Đầu nǎm 1951, do yêu
cầu phát triển của cách mạng ba nước, Đại hội lần thứ II Đảng Cộng sản Đông Dương
quyết định thành lập chính Đảng cách mạng riêng ở mỗi nước trên cơ sở tổ chức của
Đảng Cộng sản Đông Dương ở nước mình. Từ một Đảng thống nhất, nay đoàn kết
trên cơ sở ba đảng, đó là biểu hiện sự phát triển tốt đẹp của sự đoàn kết về cả bề rộng
lẫn chiều sâu của cách mạng ba nước. Nhân dân ba nước dưới sự lãnh đạo của Đảng
cách mạng ở nước mình đã cùng nhau đoàn kết chiến đấu và chiến thắng trong hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
2.3 Thời kỳ cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội
Đây là thời kỳ những diễn biến quốc tế phức tạp đã tác động xấu đến tình hình
chính trị, kinh tế và xã hội nước ta. Quan hệ kinh tế với một số nước bị đảo lộn, sự
giúp đỡ và hợp tác kinh tế với Liên Xô và các nước Đông Âu bị đảo lộn. Đế quốc Mỹ
và một số thế lực bên ngoài tiếp tục bao vây về kinh tế và cô lập ta về chính trị. Tình

Trang 15
Đoàn kết quốc tế

hình Liên Xô, Đông Âu và sự kiện vùng vịnh Pécxích gây cho chúng ta những đảo
lộn về thị trường xuất khẩu và nhập khẩu, về nhiều chương trình hợp tác liên doanh và
các hiệp định về lao động. Cùng với khó khǎn khách quan, về mặt chủ quan, Đảng
cũng phạm sai lầm về chỉ đạo chiến lược và chưa chuyển hướng kịp thời đường lối
đối ngoại. Trong khoảng thời gian 10 nǎm (1975-1986), Đảng ta chưa tranh thủ được
điều kiện quốc tế thuận lợi ở mức cao nhất và chưa sử dụng tốt sự hợp tác giúp đỡ của
các nước để xây dựng đất nước sau mấy chục nǎm bị chiến tranh tàn phá. Với tinh
thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI của Đảng đề ra đường lối đổi mới, mở ra bước phát triển mới trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội và quan hệ quốc tế của nước ta. Dưới ánh sáng Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI, Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị (tháng 5-1988), Nghị quyết Hội
nghị Trung ương lần thứ sáu (6-1989) đã đặt cơ sở cho việc đổi mới công tác đối
ngoại và hoạt động ngoại giao của nước ta. Đảng cho rằng, chúng ta có cơ hội lớn để
giữ vững hoà bình và phát triển kinh tế, rằng lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta
là phải củng cố hoà bình để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế. Đó là nhân tố
quyết định củng cố an ninh và giữ vững độc lập. Đảng quyết định chuyển mạnh hoạt
động ngoại giao từ quan hệ chính trị là chủ yếu sang quan hệ chính trị - kinh tế, mở
rộng quan hệ kinh tế phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước. Thực hiện chính sách "mở
cửa" với những bước đi thích hợp. Trong khi hợp tác nhiều mặt với Liên Xô, Lào,
Campuchia, Cuba, v.v., phải đa dạng hoá quan hệ với các nước khác, với các tổ chức
và cá nhân, không phân biệt chế độ chính trị, xã hội, trên nguyên tắc tôn trọng độc
lập, chủ quyền, đôi bên cùng có lợi. Đảng xác định: tǎng cường quan hệ hợp tác với
Lào và Campuchia, tích cực ủng hộ cách mạng Campuchia và góp phần phấn đấu cho
một giải pháp chính trị về vấn đề Campuchia, thúc đẩy quá trình bình thường hoá với
các nước láng giềng. Những quyết định trên của Đảng đáp ứng bước đi tất yếu của
dân tộc, nguyện vọng chính đáng của nhân dân ta sau 30 nǎm chiến tranh, phù hợp
với xu thế của thế giới và khu vực. Trong những nǎm qua, quan hệ giữa nước ta với
Liên Xô được đổi mới phù hợp với lợi ích của mỗi nước. Tǎng cường đoàn kết và hợp
tác với Liên Xô là nội dung nhất quán trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà
nước ta. Tình hữu nghị và đoàn kết chặt chẽ giữa Đảng và nhân dân ba nước Việt
Nam - Lào - Campuchia không ngừng được phát triển, nâng cao hiệu quả hợp tác.
Bằng những việc làm cụ thể, nhất là việc rút hết quân tình nguyện Việt Nam khỏi
Campuchia, chúng ta đã và đang góp phần rất quan trọng vào tiến trình giải quyết hoà
bình vấn đề Campuchia. Lấy lợi ích cơ bản, lâu dài của hai dân tộc làm trong, chúng
ta kiên trì thúc đẩy quá trình bình thường hoá với Trung Quốc, quan hệ Việt - Trung
sau hơn 10 nǎm không bình thường, nay đã và đang tiến tới bình thường hoá về mọi
mặt. Cuộc sống ngày càng có nhiều điều kiện và khả nǎng mới cho nhân dân Việt
Nam mở rộng quan hệ nhiều mặt với các nước, mở rộng thị trường, thu hút vốn và kỹ
thuật, học hỏi kinh nghiệm các nước. Tính đến cuối nǎm 1990, Nhà nước ta đã cấp
giấy phép cho gần 200 dự án với tổng số vốn còn khiêm tốn khoảng 1,4 tỷ đôla. Các
công ty kinh doanh của nhiều nước vào Việt Nam ngày càng nhiều với nhiều dự án
lớn. Trong bối cảnh thế giới và trong nước cực kỳ phức tạp, nhân dân ta với lòng yêu
nước nồng nàn và niềm tin vào sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng đã
vượt qua muôn vàn thử thách, kiên trì đổi mới, từng bước phá thế bao vây về kinh tế,
cô lập về chính trị, tǎng thêm bè bạn, nâng cao uy tín của nước ta trên trường quốc tế,
tạo ra môi trường thuận lợi hơn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

Trang 16
Đoàn kết quốc tế

3. Những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn xây dựng đoàn kết, hợp tác
quốc tế của cách mạng Việt Nam
3.1 Đặt cách mạng Việt Nam trong thế chung của cách mạng thế giới, kết hợp
lợi ích dân tộc với lợi ích chung của nhân dân các nước
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì cách mạng Việt Nam cũng là một bộ phận của
cách mạng thế giới. Và khi tuyên truyền khẩu hiệu nước Việt Nam độc lập, phải đồng
thời tuyên truyền và thực hành liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế
giới, nhất là với giai cấp vô sản Pháp. Từ ngày ra đời đến nay, trong quá trình lãnh
đạo cách mạng, Đảng ta luôn quán triệt tư tưởng của Hồ Chí Minh - người sáng lập,
rèn luyện Đảng ta. Luận cương chính trị tháng 10-1930 đã khẳng định mối quan hệ
giữa cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam. Đảng luôn đặt cách mạng Việt Nam
trong sự vận động, phát triển của các trào lưu cách mạng của thời đại, kết hợp đúng
đắn yếu tố dân tộc và yếu tố quốc tế. Trong chỉ đạo xây dựng đoàn kết, hợp tác quốc
tế, Đảng ta đã tìm thấy sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế. Trên cơ
sở đường lối chiến lược đúng đắn, nắm vững mục tiêu chiến lược lâu dài, Đảng đã đề
ra mục tiêu cụ thể trước mắt phù hợp với mục tiêu cách mạng thời đại. Đảng nắm
vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, phân tích từng hoàn cảnh lịch sử
cụ thể, nhận rõ mâu thuẫn cơ bản của thời đại, nhận rõ kẻ thù và bạn đồng minh cùng
xu thế phát triển của thời đại. Đảng ta cho rằng, ngày nay bức tranh toàn cầu rất phức
tạp và đầy mâu thuẫn, giữa đấu tranh và hợp tác, hoà hoãn và đối đầu, bản chất của
chủ nghĩa đế quốc không thay đổi, cuộc đấu tranh để giải quyết vấn đề "ai thắng ai"
giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế giới vẫn tiếp diễn
phức tạp. Quan điểm cho rằng "trái đất là ngôi nhà chung", "cả thế giới đều ngồi trên
một con thuyền" là mơ hồ, ảo tưởng, rất dễ phạm sai lầm hữu khuynh trong cuộc đấu
tranh với các thế lực đế quốc. Thừa nhận lợi ích chung của loài người không có nghĩa
là xoá bỏ lợi ích và lập trường giai cấp. Lợi ích giai cấp công nhân hoàn toàn phù hợp
và nhất trí với lợi ích chung của loài người trên vấn đề bảo vệ hoà bình và giải quyết
các vấn đề khác mang tính toàn cầu. Bảo vệ hoà bình, ngǎn chặn thảm hoạ chiến tranh
hạt nhân, điều đó không có nghĩa là từ chối sự nghiệp đấu tranh giải phóng, là từ bỏ
chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Lợi ích cao nhất, mục tiêu chiến lược của
nhân dân ta là giữ vững hoà bình, tranh thủ thời gian và điều kiện quốc tế thuận lợi để
tập trung sức lực vào phát triển kinh tế, xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
nêu rõ: "Mục tiêu của chính sách đối ngoại là tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần vào sự nghiệp
đấu tranh chung của nhân dân thế giới, vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội". Mục tiêu đó đáp ứng nguyện vọng chính đáng, thiết tha của nhân dân ta
sau ba chục nǎm chiến tranh chịu bao hy sinh, tàn phá, muốn hoà bình xây dựng đất
nước. Mục tiêu đó phù hợp với xu hướng chung là tranh thủ hoà bình và ổn định để
phát triển của thế giới cũng như của các nước trong khu vực trước cuộc chạy đua toàn
cầu về kinh tế và khoa học - công nghệ đang diễn ra quyết liệt. Điều đó cho phép
chúng ta tranh thủ những điều kiện thuận lợi của thế giới để đẩy mạnh công cuộc đổi
mới, xây dựng đất nước, hạn chế đến mức thấp nhất những tác động bất lợi của tình
hình thế giới đối với cách mạng nước ta. Đảng ta không những nhận rõ sứ mệnh đối
với dân tộc, đất nước, mà còn ý thức đầy đủ trách nhiệm góp phần vào sự nghiệp đấu
tranh của nhân dân thế giới. Thực tiễn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cho
thấy, Đảng đã giải quyết thành công mối quan hệ giữa chiến tranh cách mạng và hoà
bình. Đảng ta nhận thức sâu sắc rằng, thắng lợi của cách mạng Việt Nam không chỉ là
thành quả riêng của mình, mà là sản phẩm chung của thời đại, rằng thắng lợi của cách

Trang 17
Đoàn kết quốc tế

mạng Việt Nam góp phần vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới. Đảng ta không
bao giờ đặt lợi ích của dân tộc mình lên trên lợi ích của các dân tộc khác. Đảng ta coi
thắng lợi của bạn như thắng lợi của chính mình. Đảng đã biết kết hợp sức mạnh của
nhân dân ta với sức mạnh của nhân dân Lào, nhân dân Campuchia. Gắn cuộc chiến
đấu của nhân dân Việt Nam với cuộc đấu tranh và ủng hộ của các lực lượng cách
mạng và tiến bộ trên thế giới để đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, thống nhất
Tổ quốc, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phấn đấu cho độc lập, tự do, hạnh
phúc thật sự của mỗi dân tộc là điều kiện cho sự đoàn kết, hợp tác giữa các dân tộc
trên thế giới.
3.2 Chǎm lo giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính, kết hợp với chủ nghĩa
quốc tế của giai cấp công nhân
Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn kết hợp và thường xuyên chǎm lo giáo
dục chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân cho
cán bộ, đảng viên và nhân dân. Các thế hệ người Việt Nam đã tiếp tục đi theo con
đường mà lãnh tụ Hồ Chí Minh đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước chân chính tiến lên
tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, từ giác ngộ dân tộc tiến lên giác ngộ giai cấp và đoàn
kết quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Tinh thần yêu nước chân chính khác hẳn với
tinh thần "vị quốc" của bọn đế quốc phản động. Nó là một bộ phận của tinh thần quốc
tế". Đảng ta hiểu rằng, không có tinh thần yêu nước chân chính thì không thể có lập
trường quốc tế đúng đắn. Trái lại, không có lập trường quốc tế đúng đắn thì cũng
không thể có được đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn. Đó là hai mặt thống nhất
của một đường lối cách mạng. Đảng ta luôn luôn tìm thấy sự thống nhất đó, do đó
cách mạng nước ta có được sức mạnh to lớn, vượt qua mọi trở lực, chiến thắng mọi kẻ
thù. Tǎng cường đoàn kết quốc tế, đoàn kết ba nước: Việt Nam, Lào, Campuchia, phải
cảnh giác và đấu tranh chống mọi âm mưu chia rẽ và thủ đoạn xảo quyệt của chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực phản động. Những lúc tình hình thế giới có những diễn
biến phức tạp, với sự nhạy cảm chính trị Đảng đã kịp thời có nghị quyết về tình hình
và nhiệm vụ quốc tế, phân tích sâu sắc những mâu thuẫn cơ bản của thời đại, chỉ rõ
bản chất và âm mưu của chủ nghĩa đế quốc, khẳng định con đường xã hội chủ nghĩa.
Điều đó không chỉ nhằm thống nhất quan điểm, tư tưởng trong toàn Đảng, toàn dân
mà còn cảnh giác trước những chiêu bài "đa đảng, đa nguyên" của các thế lực phản
động. Đứng vững trên lập trường cách mạng của giai cấp công nhân, trung thành với
chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta kiên quyết chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa cơ
hội tả, hữu khuynh, chủ nghĩa dân tộc, v.v.. Bản chất của chủ nghĩa dân tộc là đem đối
lập dân tộc với quốc tế, đặc điểm dân tộc với quy luật phổ biến. Chủ nghĩa dân tộc và
chủ nghĩa cơ hội là bạn đường của nhau. Đó là kẻ thù nguy hại nhất của chủ nghĩa
Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa dân tộc cực
đoan, tư tưởng dân tộc lớn, kỳ thị dân tộc, là trở ngại đối với việc thực hiện quyền
bình đẳng giữa các dân tộc, là nguy cơ phá vỡ sự đoàn kết giữa các dân tộc. Chống
chủ nghĩa dân tộc cực đoan, tư tưởng dân tộc lớn, kỳ thị dân tộc là điều kiện quan
trọng để quán triệt chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề giai cấp và dân tộc, dân tộc và
quốc tế. Đó cũng là điều kiện quan trọng để giữ vững, tǎng cường đoàn kết, hợp tác
giữa các nước trên thế giới cũng như giữa ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia. Lịch
sử đấu tranh cách mạng mấy thập kỷ qua chứng tỏ Đảng ta đã làm đúng lời Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Đảng luôn giáo dục cho cán bộ, đảng viên và cho quần chúng nhân dân
lòng yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản, luôn luôn tǎng cường đoàn kết
hữu nghị với Liên Xô, nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa và các nước anh em khác.
Đảng ta chủ trương dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ và giúp

Trang 18
Đoàn kết quốc tế

đỡ tích cực của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của nhân dân yêu chuộng hoà bình
và công lý trên toàn thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ.
3.3 Đoàn kết, hợp tác quốc tế trên cơ sở nâng cao ý chí tự lực, tự cường
Dân tộc ta thường phải đương đầu với những kẻ thù lớn mạnh, có khi cùng một
lúc với nhiều kẻ thù. Chúng có tiềm lực kinh tế, quân sự, khoa học - kỹ thuật mạnh
hơn ta gấp nhiều lần. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội vốn là thuộc
địa nửa phong kiến, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa. Đất nước lại trải qua mấy chục nǎm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề.
Thực tiễn đất nước và đấu tranh cách mạng đòi hỏi phát huy cao độ sức mạnh dân tộc,
đồng thời tǎng cường đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại để chiến thắng kẻ thù, giành độc lập, tự do và xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh
phúc. Đó là một tất yếu khách quan, là vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt
Nam. Sự giúp đỡ quốc tế là rất to lớn, quan trọng, là yếu tố không thể thiếu đối với
thắng lợi của Cách mạng Việt Nam. Song, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và tǎng
cường đoàn kết quốc tế, hợp tác quốc tế là hai mặt thống nhất trong đường lối chiến
lược nhất quán của Đảng ta. Trong cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng nêu cao tinh
thần "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta", trong kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược là "trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính",
trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thấm nhuần chân lý "không có gì quý hơn độc
lập, tự do"; hoà bình xây dựng đất nước theo định hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội,
"chúng ta phải tiếp tục nâng cao ý chí tự lực, tự cường phát huy mọi tiềm nǎng vật
chất và trí tuệ của dân tộc đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi,
hình thức và biện pháp thích hợp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội". Kinh
nghiệm cho thấy độc lập trước hết về đường lối. Khi nào không đề cao tinh thần độc
lập, sáng tạo mà rập khuôn, máy móc là khi đó cách mạng gặp khó khǎn, sai lầm, tổn
thất. Suốt trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn luôn nêu cao tinh thần
sáng tạo trong việc vận dụng những quy luật phổ biến vào hoàn cảnh cụ thể của đất
nước. Ngày nay, khi thế giới trở nên hết sức đa dạng thì đường lối độc lập tự chủ lại
càng cần thiết. Trong bối cảnh quốc tế đầy biến động, càng nổi lên yêu cầu tư duy
sáng tạo và độc lập, đồng thời trân trọng tiếp thu những thành tựu về lý luận của các
Đảng và các nước khác. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
của Đảng viết: "phải giữ vững tư duy độc lập và sáng tạo" trong việc đề ra đường lối,
chính sách đổi mới phù hợp với đặc điểm tình hình của nước ta, đáp ứng đúng lợi ích
và nguyện vọng của nhân dân. Thực tế mấy nǎm qua càng khẳng định bài học kinh
nghiệm lịch sử của Đảng ta là khi nào chúng ta độc lập suy nghĩ, xuất phát từ thực
tiễn của đất nước và tôn trọng quy luật khách quan trong việc xác định các chủ trương
hành động thì lúc đó cách mạng giành được thắng lợi; ngược lại, lúc nào chủ quan
duy ý chí hoặc giáo điều, máy móc sao chép cách làm của nước ngoài thì lúc đó cách
mạng gặp tổn thất. Nắm vững tính cách mạng và khoa học, thuộc tính của chủ nghĩa
Mác - Lênin, thực tiễn đất nước và tình hình thế giới, Đảng đề ra đường lối, phương
pháp cách mạng thích hợp, đưa sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta tiến lên. Trong
cuộc đụng đầu lịch sử giữa Việt Nam và đế quốc Mỹ, thế giới không ít người chỉ thấy
sức mạnh của Mỹ, sợ Mỹ, có người khuyên ta phải trường kỳ mai phục ở miền Nam.
Đảng ta nhận rõ đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh nhất trong phe đế
quốc nhưng sức mạnh của Mỹ không phải là vô hạn, Mỹ đang đứng trước nhiều mâu
thuẫn. Nắm vững chiến lược tiến công, cuối cùng nhân dân ta đã đánh bại đế quốc Mỹ
và chế độ tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Công cuộc đổi mới do
Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo bắt nguồn từ đòi hỏi bức thiết của sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh. Đường lối đổi mới do Đại hội

Trang 19
Đoàn kết quốc tế

đại biểu toàn quốc lần thứ VI đề ra, thật sự có ý nghĩa bước ngoặt, tiêu biểu cho tư
duy độc lập, sáng tạo của Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội mới là một biểu tượng mới của sự hội tụ trí tuệ của toàn Đảng,
toàn dân ta. Cuộc sống ngày càng chứng tỏ quan điểm tư tưởng, đường lối đổi mới
của Đảng ta là đúng. "Công cuộc đổi mới toàn diện ở nước ta hiện nay đang đặt ra
biết bao nhiêu vấn đề phải giải đáp, không ai có thể thay thế chúng ta để làm nhiệm
vụ đó". Chỉ có những người cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam vừa làm, vừa
tìm tòi, suy nghĩ bằng đầu óc của mình mới có thể vạch đường lối, lựa chọn hình thức,
bước đi thích hợp đưa sự nghiệp đổi mới tới đích. Độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường
không phải là đóng cửa khép kín, biệt lập với bên ngoài, là từ chối sự giúp đỡ nhau
của các nước theo nguyên tắc các bên cùng có lợi, mà phải "mở cửa", mở rộng quan
hệ với các nước. Ngày nay, không một nước nào có thể tách biệt khỏi các quan hệ
quốc tế mà có thể phát triển bình thường và không một nền kinh tế nước nào có thể tự
túc, tự cấp được hoàn toàn như trong xã hội chậm phát triển trước đây. Gắn liền việc
xây dựng kinh tế trong nước với thiết lập và ngày càng mở rộng quan hệ kinh tế với
nước ngoài là một hiện tượng tất yếu khách quan. Mỗi dân tộc phải tự mình vươn lên,
phải xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, với tinh thần tự lực, tự cường. Ra sức khai
thác tiềm nǎng trong nước đi đôi với hợp tác, trao đổi kinh tế với các nước thì mới
phát triển được. Đưa nền kinh tế nước ta tham gia vào kinh tế thế giới, tranh thủ sự
phát triển nhảy vọt của khoa học công nghệ và tính quốc tế hoá đời sống kinh tế thế
giới để đẩy nhanh công cuộc phát triển kinh tế đất nước là con đường làm cho dân
giàu, nước mạnh. Tranh thủ sự giúp đỡ nhiều mặt của quốc tế, của các nước xã hội
chủ nghĩa nhưng không trông chờ, ỷ lại. Trông chờ, ỷ lại hoàn toàn xa lạ với tinh thần
độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường. Sự giúp đỡ quốc tế là rất to lớn, quý báu và không
thể thiếu, nhưng điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là sự phát triển bên trong của
nền kinh tế nước ta, là từ thực tế của nước ta phải biết cách đi lên cho đúng và vững
chắc, là phải xuất phát từ những đặc điểm kinh tế, xã hội nước ta mà tìm ra những
hình thức, bước đi phù hợp với quy luật tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí
Minh nói: cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng nhưng không được ỷ
lại, không được ngồi mong chờ người khác. Sự giúp đỡ cho ta của các nước bạn cũng
chỉ có hạn, cǎn bản là ta phải tự lực cánh sinh, cố gắng sản xuất. Phải bằng tiềm nǎng
lao động và trí tuệ của nhân dân ta- công nhân, nông dân, trí thức - dưới sự lãnh đạo
của Đảng, phải bằng tài nguyên của đất nước, cùng với sự hợp tác giúp đỡ nhiều mặt
của quốc tế, chúng ta sẽ xây dựng được một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ và giàu mạnh. Lịch sử đấu tranh 60 nǎm qua chứng tỏ Đảng ta là Đảng
của chủ nghĩa quốc tế cao cả của giai cấp công nhân trên cả nhận thức lẫn hành động.
Đảng và nhân dân ta không chỉ tranh thủ sự ủng hộ to lớn của quốc tế mà còn có
những đóng góp xứng đáng vào các phong trào cách mạng và tiến bộ trên thế giới và
xây dựng sự đoàn kết hợp tác giữa các nước. Bằng kinh nghiệm lịch sử, với chính
sách đối ngoại rộng mở, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã nêu rõ:
Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà
bình, độc lập và phát triển, tǎng cường đoàn kết hợp tác quốc tế trong điều kiện mới.
IV. VIỆT NAM ỦNG HỘ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ VÌ HÒA BÌNH VÀ
PHÁT TRIỂN
Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết nêu rõ nội dung này trong bài phát biểu
tại Hội nghị cấp cao lần thứ 15 Phong trào Không liên kết đang diễn ra tại thành
phố Sharm El Sheikh, Ai Cập

Trang 20
Đoàn kết quốc tế

Tối 15/7 (theo giờ Hà Nội), Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết có bài phát biểu
tại Hội nghị cấp cao lần thứ 15 Phong trào Không liên kết đang diễn ra tại thành phố
Sharm El Sheikh, Ai Cập.
Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết hoan nghênh hội nghị chọn chủ đề “Đoàn kết
quốc tế vì hoà bình và phát triển”, thể hiện mong muốn thiết tha vì hoà bình của
Phong trào Không liên kết. Chỉ có hoà bình, duy trì môi trường hoà bình, ổn định mới
đảm bảo điều kiện để phát triển kinh tế, nhân dân mới có cuộc sống tốt đẹp hơn.
Chủ tịch nước nêu rõ, trong bối cảnh tình hình quốc tế hiện nay, Việt Nam cho
rằng, cần tăng cường đoàn kết hơn nữa để cùng nhau phấn đấu cho những mục tiêu
cao cả trên cơ sở kiên trì các nguyên tắc của Phong trào Không liên kết. Đó là, tôn
trọng bình đẳng chủ quyền, không can thiệp công việc nội bộ, tăng cường hữu nghị,
không sử dụng và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ giữa các quốc gia, giải quyết
hòa bình các tranh chấp quốc tế.
Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết nói: “Việt Nam luôn ủng hộ mạnh mẽ những
nỗ lực nhằm sớm có giải pháp hòa bình cho các bất đồng quốc tế và xung đột khu
vực. Trên cương vị là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc,
Việt Nam dành ưu tiên cao nhất cho việc góp phần ngăn ngừa xung đột, giải quyết
một cách hòa bình các cuộc tranh chấp. Chúng tôi kiên trì lập trường là Hội đồng cần
hoạt động phù hợp với Hiến chương Liên Hợp Quốc và các nguyên tắc cơ bản của
luật pháp quốc tế”.
Trên tinh thần đó, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết khẳng định, Việt Nam
hoàn toàn ủng hộ những sáng kiến của Liên Hợp Quốc, Liên đoàn A-rập và các nước
khác trong và ngoài khu vực nhằm tìm kiếm một giải pháp hòa bình toàn diện, công
bằng và lâu dài cho cuộc xung đột Trung Đông trên cơ sở đảm bảo các quyền dân tộc
cơ bản của nhân dân Palestine, bao gồm cả việc thành lập một Nhà nước Palestine độc
lập, vì lợi ích chính đáng của các quốc gia liên quan. Việt Nam cũng ủng hộ mạnh mẽ
những nỗ lực nhằm sớm có giải pháp hòa bình cho bất đồng và xung đột ở các khu
vực khác nhau như châu Phi, vấn đề hạt nhân ở bán đảo Triều Tiên và Iran. Việt Nam
cũng phản đối việc sử dụng đơn phương các biện pháp trừng phạt kinh tế chống lại
các nước đang phát triển và kêu gọi chấm dứt việc bao vây cấm vận đối với Cuba.
Đề cập vấn đề nhân quyền, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết nhấn mạnh, Việt
Nam chia sẻ quan điểm chung của các nước Không liên kết là ủng hộ quyền con
người như những giá trị phổ cập của nhân loại.
Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết nói: “Chúng tôi cho rằng không có một mô
hình dân chủ duy nhất đối với mọi quốc gia, phản đối việc sử dụng các vấn đề dân
chủ, quyền con người làm công cụ chính trị can thiệp vào công việc nội bộ của các
quốc gia, coi đó là biểu hiện của chủ nghĩa thực dân, vi phạm thô bạo quyền con
người cơ bản nhất là quyền dân tộc tự quyết và cản trở hợp tác quốc tế trên cơ sở đối
thoại, tôn trọng lẫn nhau”.
Nêu lên thách thức lớn hiện nay đối với thế giới, nhất là các nước đang phát
triển, đó là khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu nghiêm trọng nhất trong 60 năm
qua kết hợp với sự bùng phát của các cuộc khủng hoảng lương thực, năng lượng và
biến đổi xấu của khí hậu, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đề nghị các nước Không
liên kết tăng cường phối hợp lập trường chặt chẽ hơn nữa tại Liên Hợp Quốc và các
thể chế quốc tế khác để triển khai có hiệu quả các biện pháp kích cầu, chống chủ
nghĩa bảo hộ, cải cách hệ thống kinh tế và tài chính quốc tế, hỗ trợ nguồn lực và tạo

Trang 21
Đoàn kết quốc tế

thêm các điều kiện thuận lợi cho các nỗ lực ứng phó khủng hoảng, thực hiện Các mục
tiêu Phát triển Thiên niên kỷ ở các nước đang phát triển.
Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết nhấn mạnh: “Việt Nam cho rằng hợp tác
Nam-Nam cần đi vào các hoạt động thiết thực, mở rộng quan hệ thương mại, sử dụng
các cơ chế xử lý chung về tài chính, tiền tệ giữa các nước đang phát triển trong khuôn
khổ khu vực và liên khu vực, trao đổi kinh nghiệm về xử lý những thách thức mới
trong quá trình phát triển.
Việt Nam ủng hộ sự tham gia tích cực của Phong trào vào quá trình trao đổi,
thương lượng để xây dựng các chiến lược, chương trình và cơ chế quốc tế vì sự phát
triển bền vững thông qua việc đồng thời xử lý thách thức của khủng hoảng năng
lượng, lương thực, dịch bệnh, biến đổi khí hậu”.
Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết khẳng định, Việt Nam coi trọng quan hệ với
Phong trào Không liên kết trên tinh thần đoàn kết và hợp tác vì lợi ích chung. Việt
Nam chú trọng mở rộng quan hệ kinh tế, triển khai các hình thức giúp đỡ lẫn nhau với
các nước Không liên kết anh em trong các lĩnh vực nông nghiệp, y tế, giáo dục và sẵn
sàng trao đổi kinh nghiệm phát triển, trong đó có các biện pháp đối phó khủng hoảng
kinh tế-tài chính, duy trì tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội.
Cũng trong đêm 15/7 (theo giờ Hà Nội), Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết có
cuộc gặp với Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh và Thủ tướng Phần Lan Matti
Vanhanen.
V. TƯ TƯỞNG ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ TRONG DI CHÚC CỦA
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
Bốn mươi năm trước đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc Việt
Nam bản Di chúc lịch sử. Đây là một văn kiện quý giá với sự kết tinh và hòa quyện
những giá trị cao đẹp nhất của văn hóa phương Đông, văn hóa phương Tây, văn
hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam và chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đã tỏa sáng
qua các mốc son của tiến trình cách mạng Việt Nam.
Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghiên cứu lịch sử đấu tranh dựng
nước, giữ nước của dân tộc và lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng để tổng kết
thành một phương châm sâu sắc: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công,
thành công đại thành công”. Dù đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời mình để mưu cầu tự
do, hạnh phúc cho nhân dân, nhưng trước lúc đi xa, Người vẫn trăn trở và căn dặn
trong Di chúc: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn
kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và
giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Tư tưởng
đoàn kết của Người biểu hiện nhãn quan chính trị của một vĩ nhân, sự minh triết của
nhà tổ chức cách mạng luôn đặt yếu tố đoàn kết lên hàng đầu. Theo những di huấn
của Người, chỉ có “đoàn kết, đại đoàn kết” mới tập hợp được lực lượng, hình thành
được tổ chức cách mạng, mới tạo được sức mạnh to lớn để biến lý luận khoa học,
đường lối, quan điểm của Đảng thành hiện thực và mới đạt được “đại thành công”.
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến vấn
đề “trước hết” - vấn đề tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Đó chính là ngọn
nguồn để xây dựng Đảng ta thật trong sạch, vững mạnh, để Đảng luôn ngang tầm với
yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn. Nhưng tư tưởng đoàn kết của
Người không chỉ bó hẹp trong phạm vi nội bộ Đảng, trong bộ máy chính quyền nhà
nước và trong toàn dân tộc, mà đã được thể hiện trên bình diện rộng lớn hơn, đó là

Trang 22
Đoàn kết quốc tế

đoàn kết quốc tế. Thực tiễn lịch sử cho thấy, dân tộc Việt Nam chiến thắng được
những kẻ thù hùng mạnh cũng bởi nhờ toàn dân luôn đoàn kết một lòng; đồng thời, đã
nhận được sự đoàn kết, ủng hộ, giúp đỡ quý báu cả về tinh thần và vật chất của các
nước anh em, của bạn bè khắp thế giới. Vì thế, Người đã bày tỏ mong muốn đến ngày
thắng lợi “sẽ thay mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã
hội chủ nghĩa, và các nước bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc
chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta”. Đó là biểu hiện truyền thống đoàn kết, thủy
chung của dân tộc Việt Nam, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của chủ nghĩa
yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Những lời di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tình đoàn kết quốc tế bắt nguồn
từ tình yêu thương đối với con người, với nhân loại và đoàn kết toàn nhân loại vì mục
tiêu giải phóng các dân tộc bị áp bức, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người luôn đặt cách mạng Việt
Nam trong mối quan hệ khăng khít với phong trào cách mạng thế giới. Tại Đại hội lần
thứ XVIII Đảng xã hội Pháp ở Tua (tháng 12-1920), Người đã bỏ phiếu tán thành gia
nhập Quốc tế Cộng sản, trở thành một thành viên sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Từ
đây, Người đã đặt nền móng cho tình đoàn kết chiến đấu giữa Đảng Cộng sản Việt
Nam và Đảng Cộng sản Pháp, tạo sự gắn bó chặt chẽ hơn giữa phong trào cách mạng
Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới.
Trong những năm tháng nhân dân Việt Nam đấu tranh bảo vệ nền độc lập, tự do
của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chăm lo xây dựng, giữ gìn và phát triển tình
đoàn kết gắn bó giữa Việt Nam với Trung Quốc, Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa anh em khác; với nhân dân và các dân tộc Á, Phi, Mỹ La-tinh… Người chủ
trương tăng cường đoàn kết quốc tế, thêm bạn bớt thù, “giúp bạn là tự giúp mình”; coi
trọng thắt chặt tình đoàn kết, giúp đỡ của nhân dân thế giới và các tổ chức quốc tế đối
với Việt Nam; gắn cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam với cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Nhân dân ta
chiến đấu hy sinh chẳng những vì tự do, độc lập riêng của mình mà còn vì tự do, độc
lập chung của các dân tộc và hòa bình thế giới. Ngay đối với Mỹ là nước đưa quân
sang xâm lược Việt Nam, Người cũng nhắc nhở mỗi chúng ta phải biết phân biệt sự
khác nhau giữa những người Mỹ xâm lược và nhân dân Mỹ, được biểu hiện thông qua
bức thư gửi nhân dân Mỹ tháng 1-1962, trong đó nêu rõ: “Nhân dân Mỹ và nhân dân
Việt Nam không thù oán gì nhau. Nhân dân Việt Nam kính trọng các bạn là nước đầu
tiên phất cờ chống chủ nghĩa thực dân và chúng tôi mong muốn có quan hệ hữu nghị
với các bạn”.
Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất
chú trọng đến đoàn kết giữa các đảng cộng sản anh em trên toàn thế giới, với khẩu
hiệu nổi tiếng: “Bốn phương vô sản đều là anh em”. Tại một số diễn đàn quốc tế,
Người đã có cảnh báo về sự bất đồng, chia rẽ trong phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, mà theo đó, không chỉ làm suy giảm sức mạnh cuộc đấu tranh giải phóng giai
cấp, giải phóng con người, giải phóng xã hội, mà còn chia rẽ sâu sắc khối đoàn kết,
thống nhất của các lực lượng dân chủ, yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới; tạo
điều kiện để các loại kẻ thù của cách mạng gây chiến tranh xâm lược, phá hoại môi
trường hòa bình thế giới. Không phải ngẫu nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong
bản Di chúc: “Là một người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn
mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng
bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh em”. Biết rằng không thể tiếp tục
làm vị “thiên sứ cách mạng”, vì vậy trước lúc đi xa, Người đã căn dặn: “Đảng ta sẽ ra

Trang 23
Đoàn kết quốc tế

sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng
anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có
tình”. Cảm phục về Hồ Chí Minh, Báo Quyền lợi đỏ (Pra-ha, Tiệp Khắc cũ), ngày 9-
9-1989, có bài viết về bản Di chúc lịch sử của Người, trong đó nhấn mạnh: “Bác Hồ
cùng với bản Di chúc của Người là thuộc về tất cả phong trào cộng sản, công nhân và
cách mạng trên thế giới. Người được liệt vào những bậc mà thân thế và sự nghiệp đã
vượt ra ngoài phạm vi biên giới của Tổ quốc mình”.
Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, 40 năm qua,
Đảng ta luôn phát huy chủ nghĩa quốc tế trong sáng, cao cả, thủy chung, làm hết sức
mình để góp phần quan trọng xây dựng tình đoàn kết giữa các đảng cộng sản và công
nhân, giữ gìn và củng cố sự đoàn kết trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế;
đồng thời, tăng cường xây dựng và phát triển các quan hệ quốc tế trong tình hình mới,
coi đó là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo cho thắng lợi của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Cùng với quá trình đổi mới đất nước, Đảng
ta đã đề ra và thực hiện nhất quán đường lối, chính sách đối ngoại “độc lập tự chủ,
rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn,
là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập
và phát triển”. Nước ta đã chủ động và tích cực hội nhập vào nền kinh tế quốc tế trong
bối cảnh thế giới có nhiều biến động phức tạp, khó lường, các quan hệ chính trị - kinh
tế đan xen.
Thực tiễn hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới cho thấy, từ chỗ Việt Nam bị
Mỹ áp dụng chính sách bao vây cấm vận, đến nay nước ta đã tham gia hợp tác ngày
càng sâu, toàn diện vào nền kinh tế thế giới. Trong các lĩnh vực kinh tế then chốt như
thương mại, dịch vụ, lao động, đầu tư, khoa học và công nghệ, chúng ta đã đạt được
những thành tựu quan trọng. Việt Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á (ASEAN), không ngừng mở rộng các quan hệ kinh tế song phương, tiểu vùng,
vùng, liên vùng và toàn cầu; thiết lập quan hệ ngoại giao với 167 nước, trong đó có tất
cả các nước lớn và cả 5 nước ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và
các trung tâm kinh tế lớn của thế giới. Việt Nam cũng là thành viên của hàng trăm tổ
chức quốc tế; có quan hệ thương mại với hơn 220 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế
giới; ký 90 hiệp định thương mại song phương, trong đó nổi bật là Hiệp định Thương
mại với Mỹ, tạo điều kiện mở rộng giao lưu hàng hóa với nước ngoài; gia nhập Khu
vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình
Dương (APEC), Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), thiết lập được quan hệ tài
chính với các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế, như: Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ
tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB). Bên cạnh đó, tranh thủ
ODA, thu hút FDI, mở rộng thị trường ngoài nước, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
và khu vực; trở thànhỦy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp quốc;
tham gia giải quyết những vấn đề của khu vực và thế giới; xác định quan hệ ổn định
với các nước láng giềng, nước lớn; giải quyết hòa bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ,
biển đảo với các nước liên quan... Những thành tựu đó đã góp phần giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định trong khu vực; tăng cường sức mạnh quốc gia để xây dựng
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc và nâng cao vị thế của Việt Nam trên thế giới.
Bối cảnh tình hình thế giới và khu vực những năm gần đây vẫn tiềm ẩn và nảy
sinh nhiều vấn đề phức tạp, ảnh hưởng đến môi trường an ninh và phát triển của các
quốc gia, dân tộc. Hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn của thời đại,
nhưng ở một số nơi, xung đột cục bộ, tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên vẫn xảy ra; một
số khu vực trên thế giới, khủng bố, ly khai có chiều hướng gia tăng... Đặc biệt, cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay đã đẩy nền kinh tế thế giới vào thời kỳ khó

Trang 24
Đoàn kết quốc tế

khăn nhất kể từ đại suy thoái năm 1929 - 1933, làm cho các nước đều phải hợp tác để
đối phó. Cục diện thế giới tiếp tục có những chuyển biến quan trọng với xu thế “đa
cực” ngày càng rõ nét hơn. Sự tập hợp lực lượng quốc tế diễn ra phức tạp trong khuôn
khổ “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”; các nước đang phát triển có vai trò ngày càng tăng
trong xử lý những mối quan hệ quốc tế. Xu thế tự lực, tự cường, chống áp đặt cường
quyền được thúc đẩy ở nhiều quốc gia, dân tộc. Vị thế của khu vực châu Á - Thái
Bình Dương trên “bàn cờ” chiến lược quốc tế ngày càng được coi trọng.
Hiện nay, khi những điều kiện quốc tế có sự thay đổi khá nhiều so với bốn mươi
năm trước, việc nghiên cứu Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề đoàn kết quốc tế
sẽ mở ra khả năng rộng lớn để vận dụng, thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ đối
ngoại mà Đại hội X của Đảng đề ra. Vì vậy, trong thời kỳ mới, Đảng và Nhà nước ta
cần tiếp tục đẩy mạnh việc mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam với
các nước, các dân tộc, các tổ chức quốc tế, trên tinh thần giữ vững độc lập, tự chủ,
bình đẳng, kết hợp giữa lợi ích quốc gia với lợi ích quốc tế, cùng nhau thực hiện
những mục tiêu lớn của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định trên thế giới để tạo sự phát triển bền
vững.
Với chủ trương khép lại quá khứ, hướng tới tương lai, đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ quốc tế, Đảng và Nhà nước ta đã và tiếp tục mở rộng quan hệ hữu nghị
và hợp tác nhiều mặt với các nước, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa anh em.
Đây vừa thể hiện mong ước cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc Người đi xa,
vừa là sự kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân
ta đã lựa chọn. Trong tăng cường xây dựng, củng cố tình đoàn kết, hữu nghị và hợp
tác với các nước láng giềng, cần coi trọng cả ở ba tầng nấc: các nước có chung biên
giới; các nước trong khu vực Đông Nam Á; các nước trong khu vực châu Á - Thái
Bình Dương, đặc biệt là hết sức chú trọng các nước “láng giềng gần” như Trung
Quốc, Lào và Cam-pu-chia. Đối với các nước trong khối ASEAN, việc mở rộng quan
hệ hữu nghị và hợp tác càng làm cho bạn hiểu rõ và tin cậy Việt Nam hơn; đồng thời,
thông qua đó để cùng nhau đóng góp tích cực thúc đẩy xây dựng cộng đồng ASEAN
vào năm 2015 với ba trụ cột: Cộng đồng Kinh tế, Cộng đồng An ninh và Cộng đồng
Văn hóa - Xã hội.
Kế thừa và phát huy tư tưởng đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong
thời kỳ mới của cách mạng, Đảng, Nhà nước và toàn dân ta nhất định sẽ tiếp tục tăng
cường tình đoàn kết quốc tế, quan hệ hợp tác cùng có lợi, chủ động, tích cực hội nhập,
thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng đa phương hóa, đa
dạng hóa các quan hệ quốc tế. Tư tưởng đoàn kết quốc tế trong Di chúc của Người
cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị và mãi mãi tỏa sáng, đồng hành cùng dân tộc và
thời đại.
VI. CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ
Hồ Chí Minh là người đầu tiên đã gắn phong trào cách mạng Việt Nam với
cách mạng thế giới đưa nhân dân ta đi đúng quỹ đạo của thời đại. Người chỉ rõ:
"Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản"; xác định rõ các mối quan hệ mới của cách mạng Việt Nam:
quan hệ với cách mạng vô sản, quan hệ với phong trào giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa, phụ thuộc.

Trang 25
Đoàn kết quốc tế

1. Sự khởi đầu của tư tưởng đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh


Như ta đều biết, trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã đến nhiều
nước trên thế giới, các nước tư bản cũng như thuộc địa. Người đã chứng kiến cảnh
cùng cực của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đồng thời cũng thấy rõ cảnh
sống xa hoa của bọn tư sản. Thực tế sinh động đã giúp Người đồng cảm và nhận thức
rõ: Nơi đâu cũng có người nghèo như ở xứ mình, dù ở các nước thuộc địa hay chính
quốc, họ đều bị áp bức, bóc lột tàn nhẫn bởi chủ nghĩa thực dân tàn ác. Người đi tới
kết luận: "Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống
người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tính hữu ái là thật
mà thôi: tình hữu ái vô sản" (Bài Đoàn kết giai cấp của Nguyễn Ái Quốc đăng trên
báo Le Paria số 25 tháng 5-1924). Kết luận này cho thấy nhận thức của Hồ Chí Minh
về ý thức dân tộc và ý thức giai cấp đã từ tầm nhìn quốc gia tới tầm nhìn quốc tế. Kết
luận trên cũng là sự khởi đầu của tư tưởng đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh - đoàn kết
với những người lao khổ, cần lao trên thế giới, luôn gắn liền lợi ích dân tộc với lợi ích
giai cấp, lợi ích quốc gia với lợi ích quốc tế.

Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội Tua 1920


Từ kết luận trên, Người đã phân biệt rõ hơn bọn thực dân đế quốc với nhân dân
lao động ở chính quốc. Người nêu lên: thực dân đế quốc là kẻ thù chung của nhân dân
thuộc địa và cũng là kẻ thù của nhân dân lao động chính quốc. Bởi vậy, đòi hỏi sự
đoàn kết liên minh nhân dân lao động ở thuộc địa và chính quốc để chống lại kẻ thù
chung. Trong lời kêu gọi nhân dân các nước thuộc địa Pháp, Người đã nêu: "Những
người gây ra sự lầm than cho các bạn và giữ các bạn trong cảnh khổ đó để lợi dụng
chỉ là một số ít, chúng có quyền hành vì chúng giàu. Chúng tôi là số đông và đang đấu
tranh chống lại chúng vì chúng tôi cũng như các bạn là nạn nhân của sự tàn bạo của
chúng, mối quan hệ giữa chúng tôi với các bạn, sẽ là những mối quan hệ đoàn kết và
liên minh". Trong Tuyên ngôn của Hội Liên hiệp thuộc địa Người nêu: "Hỡi các bạn
bị áp bức ở chính quốc! Giai cấp tư sản trong nước các bạn đã lừa dối các bạn, dùng
các bạn làm công cụ đi xâm lược đất nước chúng tôi. Ngày nay, vẫn dùng các chính
sách quỷ quyệt ấy, giai cấp tư sản nước các bạn lại định dùng chúng tôi để đàn áp mọi
cố gắng tự giải phóng của các bạn. Đứng trước chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc
quyền lợi của chúng ta là thống nhất, các bạn hãy nhớ lời kêu gọi của Các Mác: "Vô

Trang 26
Đoàn kết quốc tế

sản tất cả các nước đoàn kết lại". Nguyễn ái Quốc đã nêu lên hình tượng chủ nghĩa tư
bản là con đỉa hai vòi. Một vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc, một vòi bám
vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Muốn giết con vật ấy, phải đồng thời cắt cả hai vòi,
nếu chỉ cắt một vòi thì vòi còn lại tiếp tục hút máu và vòi bị cắt tiếp tục mọc ra. Điều
đó cho chúng ta thấy nhiệm vụ chống chủ nghĩa tư bản đánh đổ chúng là nhiệm vụ
của nhân dân lao động chính quốc và thuộc địa. Nhiệm vụ đó đòi hỏi phải đoàn kết cả
hai lực lượng nói trên. Về sự liên minh đoàn kết đấu tranh của nhân dân lao động ở
các nước thuộc địa, phụ thuộc, Nguyễn ái Quốc chỉ rõ: chủ nghĩa đế quốc hiện tại đặt
nền móng trên sự bóc lột hàng triệu người lao động ở các nước thuộc địa và nửa thuộc
địa. Bởi thế, nó chỉ tan rã hoàn toàn và vĩnh viên khi nào chúng ta phá bỏ được nền
móng đó của lâu đài đế quốc chủ nghĩa. Vì lẽ đó, các nước thuộc địa và phụ thuộc
muốn được giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản thì chỉ bằng cách
đoàn kết chặt chẽ để chống kẻ thù chung.
2. Tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng, thêm bạn bớt thù
Trong quá trình tìm đường cứu nước, đi nhiều nơi, Người đã chứng kiến cảnh
cùng cực của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Dù ở các nước thuộc địa hay
chính quốc, họ đều bị bóc lột tàn nhẫn bởi chủ nghĩa thực dân tàn ác. Giữa họ tất nảy
sinh tình hữu ái vô sản. Đó là tình yêu thương giữa những con người cùng cực với
nhau. Vì lẽ đó Người đã luôn thúc đẩy tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức,
với nhân dân lao động các nước trong cuộc đấu tranh giải phóng con người khỏi ách
áp bức, bóc lột.
Trong những năm tháng nhân dân Việt Nam đấu tranh giành độc lập và bảo vệ
độc lập của mình, Bác Hồ đã luôn hết sức chăm lo phát triển tình hữu nghị giữa Việt
Nam với các nước Á, Phi, Mỹ Latinh, để mở rộng quan hệ quốc tế và tranh thủ sự ủng
hộ của các nước đồng thời Bác luôn nhắc nhở nhân dân Việt Nam vừa tiến hành sự
nghiệp bảo vệ độc lập tự do của dân tộc mình, vừa quan tâm giúp đỡ những dân tộc
này giành độc lập.
Xác định chủ trương đoàn kết quốc tế, thêm bạn bớt thù, giúp bạn là tự giúp
mình, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã tăng cường đoàn kết với Trung
Quốc, Liên Xô, các nước XHCN khác và các nước dân chủ. Đồng thời phát triển mối
quan hệ đoàn kết, liên minh chiến đấu với nhân dân và các lực lượng vũ trang của hai
nước bạn Lào và Campuchia trên tinh thần quốc tế cao cả, coi giúp bạn là tự giúp
mình, thực hiện sự giúp đỡ vô tư, chí tình, chí nghĩa đối với các dân tộc anh em. Từ
đó, đã nhanh chóng hình thành một thế trận vững chắc của ba nước Đông Dương
nhằm đánh thắng kẻ thù chung là thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ.
Vun đắp tình hữu nghị với các nước láng giềng, sau Hiệp nghị Genève 1961-
1962 về Lào được ký kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ ta đã mời Nhà vua Lào
Xri Xavang Vatthana, Hoàng thân Thủ tướng Chính phủ Liên hiệp Lào Xuvana
Phuma và các vị trong Chính phủ Lào sang thăm hữu nghị nước ta (3-1963).
Bác đã yêu cầu các bộ phận tổ chức đón tiếp rất chu đáo, trọng thị. Trong các
văn kiện, Bác nhấn mạnh tình cảm “tình nghĩa láng giềng anh em Việt – Lào thắm
thiết không bao giờ phai nhạt”. Cùng các đồng chí Lào đi thăm tại Trường Đại học
Bách khoa Hà Nội, Bác nhắc nhở sinh viên “cố gắng học tập, trau dồi đạo đức cách
mạng để góp phần vào việc giúp đỡ lẫn nhau giữa hai dân tộc Việt – Lào”, tại Nhà
máy Cơ khí Hà Nội, Bác cũng căn dặn công nhân đoàn kết giúp đỡ công nhân và nhân
dân Lào anh em.
Điều mọi người không quên là tại lễ tiễn đoàn Bác đã ứng khẩu đọc bài thơ:

Trang 27
Đoàn kết quốc tế

Thương nhau mấy núi cũng trèo,


Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.
Việt – Lào hai nước chúng ta,
Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long.
Bằng việc làm cho thế giới hiểu rõ Việt Nam yêu chuộng hòa bình, sự tàn ác của
cuộc chiến xâm lược của thực dân, đế quốc, Việt Nam đã tạo được sự đồng tình trong
dư luận thế giới. Làn sóng phản chiến lan rộng, ở Mỹ, ở Pháp và nhiều nước, trở
thành một mặt trận trong cuộc đấu tranh giành độc lập của Việt Nam.
3. Bốn phương vô sản đều là anh em
Ngày 5-9-1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc diễn văn khai mạc Đại hội III của
Đảng Lao Động Việt Nam. Để cảm ơn sự có mặt của các đoàn đại biểu quốc tế, Bác
vận câu thơ:
Quan sơn muôn dặm một nhà
Bốn phương vô sản đều là anh em.
Câu nói trên có nguồn gốc Nho giáo với tư tưởng “Tứ hải giai huynh đệ” của
Khổng Tử. Những lời dạy của người có đã khéo léo đưa chân lý cách mạng đến với
người dân bình thường bằng cách nói thân thuộc. Câu này được dân gian hoá vừa là
danh ngôn vừa là ca dao. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dùng những từ ngữ, những mệnh
đề của Khổng Tử vốn rất thân thuộc với truyền thống văn hoá Đại Việt để thức tỉnh
dân tộc, truyền cho nhân dân ý thức tự cường để đứng lên làm chủ đất nước.
Người hay nhắc đến thế giới Đại đồng với thuộc tính cơ bản của nó là “Tứ hải
giai huynh đệ”. Chúng ta đầu biết Đại đồng là một nội dung quan trọng trong tư tưởng
chính trị, tư tưởng đạo đức và tư tưởng giáo dục. Tư tưởng chính trị của Khổng Tử
được thể hiện ở lý tưởng về một thế giới Đại đồng. Tư tưởng này được nói rõ trong
thiên Lễ vận thuộc Kinh lễ. “Đạo đức lớn được thực hành thì thiên hạ là của chung.
Kén chọn kẻ có tài đức ra làm việc. Giảng giải điều tín nghĩa, sửa trị điều hoà mục.
Cho nên mọi người không riêng thân cha mẹ mình, không riêng yêu con cái mình,
khiến người già cả có chỗ sử dụng năng lực, các thiếu niên được nuôi dạy khôn lớn.
Thương người goá bụa, thương kẻ mồ côi và những người già không nơi nương tựa.
Người tàn tật phải có chỗ nuôi dưỡng, con trai đều có nghề nghiệp, con gái đều có
chồng con. Như vậy thì của cải vứt bỏ dưới đất cũng không ai nhặt mà cũng không
cần thiết phải cất giữ cho riêng mình. Còn về năng lực thì e không có cách gì để thi
thố mà không cần phải giữ làm của riêng. Do đó mọi âm mưu đều bị mai một mà
không thể xảy ra, mọi hành vi trộm cắp, gây rối, giặc cướp đều không thể nổi dậy, cửa
ngõ không cần đóng. Như thế gọi là “Đại đồng”.
Người phân tích sâu sắc mối quan hệ gắn bó giữa cách mạng Việt Nam và cách
mạng thế giới, khẳng định cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà của nhân dân ta không
thể tách rời cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới chống chủ nghĩa đế quốc .
Người cũng nhiệt liệt hoan nghênh tình nghĩa quốc tế vô sản giữa các nước xã hội chủ
nghĩa, giữa các đảng Cộng sản và Công nhân thế giới đang chung sức trong sự nghiệp
đấu tranh vì hòa bình và an ninh của các dân tộc: “Thắng lợi của cách mạng Việt Nam
còn là do nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa anh em, nhất là Liên Xô và Trung Quốc
đã hết lòng giúp đỡ. Nhân dịp này, chúng ta bày tỏ lòng biết ơn các nước xã hội chủ
nghĩa…”.

Trang 28
Đoàn kết quốc tế

“Quan sơn muôn dặm một nhà”, suốt 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, đặt
chân đến hơn 30 nước trên khắp thế giới mang theo nỗi đau lòng khi đồng bào mình
còn rên xiết lầm than, nhưng những gì được tận mắt chứng kiến trên mỗi chặng đường
đời đã làm anh thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc thấu hiểu được hết nỗi tủi nhục
của cảnh sống nô lệ, mất tự do cho dù ở bất kỳ phương trời xa xăm nào trên trái đất
này chăng nữa. Chính vì lý do ấy, với xuất phát điểm nhận thức từ chủ nghiã yêu
nước truyền thống đến với chủ nghĩa Mác – Lênin , Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra
kết lụân trên. Đó là phương châm biểu hịên tinh thần đoàn kết quốc tế rộng lớn nhằm
giúp đỡ ủng hộ lẫn nhau giữa các dân tộc và nhân dân lao động các nước trên thế giới.
Ngày trước, Người đã bày tỏ lòng thương cảm xót xa đối vói đồng bào các chủng tộc.
màu da khác nhau cùng chung cảnh bị áp bức bóc lột. Ngày nay, bằng hoạt động cách
mạng thực tiễn của bản thân và vì lợi ích mai sau của cả dân tộc, tinh thần đoàn kết
quốc tế của Người nhằm đạt tới những mục tiêu lớn của thời đại là hoà bình, dân tộc
độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội cho nên độc lập dân tộc trong tư tưởng của Người
phải gắn liền với CNXH và hợp tác hữu nghị giữa các nước không phân bịêt chế độ
màu da, tôn giáo. Đó chính là chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng cao cả.
Từ những năm hai mươi của thế kỷ 20, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-
nin, từ thành quả của Cách mạng Tháng Mười Nga, Nguyễn Ái Quốc đã nhận ra giữa
các quốc gia, giữa các dân tộc ở các châu lục cần có sự hợp tác giúp đỡ và học hỏi lẫn
nhau. Sức mạnh của mỗi nước có một phần quan trọng tùy thuộc vào các mối liên kết
và hiểu biết lẫn nhau. Từ đó Người luôn khẳng định những cuộc cách mạng của các
dân tộc bất kỳ gần hay xa, to hay nhỏ đều có quan hệ chặt chẽ với nhau. Từ năm
1924, Người đã trở thành một trong những cán bộ châu Á đầu tiên thực thi nhiệm vụ
liên kết giữa các dân tộc châu Á với phong trào cách mạng vô sản thế giới. Trong
những năm tháng nhân dân Việt Nam đấu tranh giành độc lập và bảo vệ nền độc lập
của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm chăm lo phát triển tình hữu nghị
giữa Việt Nam với các nước ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ La-tinh để mở rộng quan
hệ quốc tế của Việt Nam và tranh thủ, khẳng định sự ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân
dân các nước vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Ðồng thời, Người còn luôn nhấn
mạnh những nhiệm vụ đối với cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân các
nước này.
Hồ Chí Minh tha thiết với độc lập, tự do của dân tộc mình, cho nên cũng rất trân
trọng độc lập tự do của các dân tộc khác. Bởi thế, Người hết sức căm giận trước bất
cứ một hành động xâm lược nào và cho rằng: Giúp đỡ một dân tộc khác bảo vệ độc
lập tự do của họ cũng chính là bảo vệ lợi ích của đất nước mình, "giúp bạn là tự giúp
mình". Ðây chính là một bước phát triển mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết
quốc tế. Vì lẽ đó, Người luôn động viên nhân dân Việt Nam vừa tiến hành sự nghiệp
bảo vệ độc lập tự do của dân tộc mình, vừa thực hiện sự giúp đỡ vô tư chí tình, chí
nghĩa đối với các dân tộc anh em. Sự đoàn kết ấy là nhằm những mục tiêu lớn của
thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là hợp tác hữu nghị
với tất cả các nước, các dân tộc. Sự đoàn kết ấy dựa trên cơ sở bình đẳng và kết hợp
giữa lợi ích quốc gia với lợi ích quốc tế.
Hai câu thơ của bác là thể hiện đạo đức của thời đại. Tình anh em là tình thương
yêu giai cấp, dù người ở châu nào, dù da trắng, da vàng hay da đen, da đỏ nếu là vô
sản đều là anh em một nhà. Ngược lại, người trong một nước, thậm chí người trong
một gia đình nếu là kẻ thù của giai cấp nghĩa là kẻ thù của cách mạng phải đấu tranh
không khoan nhượng. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ
nghĩa yêu nước. Trong bài "Tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế" (1953), Người
đã nhấn mạnh: "Tinh thần yêu nước và tinh thần Quốc tế liên hệ khăng khít với nhau.

Trang 29
Đoàn kết quốc tế

Vì lẽ đó, ta vừa ra sức kháng chiến, vừa tham gia phong trào ủng hộ hòa bình thế
giới". Nếu tinh thần yêu nước không chân chính và tinh thần quốc tế không trong sáng
thì có thể dẫn đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, hoặc chủ nghĩa bành trướng bá quyền,
kỳ thị chủng tộc... Những khuynh hướng sai lệch ấy có thể dẫn đến chỗ phá vỡ một
quốc gia dân tộc hay một liên bang đa quốc gia dân tộc, phá vỡ tình đoàn kết quốc tế
trong cuộc đấu tranh chung, thậm chí có thể đưa đến tình trạng đối đầu đối địch. Ðây
là một thực tế đã diễn ra ở châu Âu và nhiều khu vực trên thế giới hiện nay.
Có thể nói tinh thần quốc tế trong sáng trong đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ
tình thương yêu đối với con người; vì mục tiêu giải phóng các dân tộc bị áp bức, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người, mang lại tự do và bình đẳng thật sự cho con
người. Từ chủ nghĩa quốc tế trong sáng đó, Hồ Chí Minh đã đặt nền móng và xây
dựng nên tình đoàn kết quốc tế rộng lớn của nhân dân Việt Nam với các dân tộc trên
thế giới, góp phần vào những thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam và nhân dân thế
giới.
Trong thời kỳ mới của cách mạng, nguồn lực quan trọng để xây dựng và phát
triển đất nước chính là mở rộng tình đoàn kết quốc tế, quan hệ hợp tác cùng có lợi,
chủ động, tích cực hội nhập, như Ðảng ta đã khẳng định: "Thực hiện nhất quán đường
lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng
mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế... Việt Nam là bạn, đối tác tin
cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác
quốc tế và khu vực".

Trang 30

You might also like