Professional Documents
Culture Documents
HHC được thành lập năm 1960, với tiền thân là xưởng sản xuất nước mắm và magi. Cho
đến nay, HHC đã trở thành một trong những doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo lớn nhất Việt
Nam với sản lượng trung bình hàng năm trên 15.000 tấn.
Năm 2003 Công ty Bánh Kẹo Hải Hà được cổ phần hóa chuyển thành công ty cổ phần
bánh kẹo Hải Hà theo Quyết định số 191/2003/QĐ-BCN ngày 14/11/2003 của Bộ Công
nghiệp (nay là Bộ Công thương).
Năm 2007 Công ty CP bánh kẹo Hải Hà chính thức niêm yết giao dịch trên thị trường
chứng khoán với tên giao dịch là HAIHACO, mã giao dịch là HHC.
Từ đó đến nay HAIHACO luôn khẳng định được vị trí của mình trong ngành bánh kẹo,
đang nỗ lực cạnh tranh với các doanh nghiệp trong cũng như ngoài nước để khẳng định
thương hiệu của mình, tạo lòng tin đối với người tiêu dung, là nơi tạo ra nhiều nhãn hàng ưa
thích đối với người tiêu dùng.
II. Phân tích môi trường ngành và chiến lược kinh doanh của công ty:
1. Phân tích môi trường ngành bánh kẹo:
- cạnh tranh từ các DN hiện có
- đe dọa từ các đối thủ mới
- đe dọa từ các sản phẩm thay thế
tuy nhiên nhóm mình chủ yếu phân tích về cạnh tranh từ các DN hiện có
a. Cạnh tranh từ các doanh nghiệp hiện có:
- Tăng trưởng ngành:
Cách đây 10 năm, phần lớn bánh kẹo lưu thông trên thị trường nước ta đều là hàng
của Trung Quốc, Thái Lan và Malaysia nhập về. Tuy nhiên 7-8 năm trở lại đây, các
thương hiệu bánh kẹo trong nước đã bắt đầu phát triển và khẳng định được tên tuổi tại thị
trường nội địa lẫn xuất khẩu nhờ chât lượng tốt, giá thành ổn định hơn so với hàng nhập
Như vậy, trước những lợi thế về giá rẻ, về chất lượng và minh bạch về thông tin, nguồn gốc
rõ ràng, bánh kẹo nội đang có ưu thế trong cuộc chiến giành thị phần.
Triển vọng về giá bánh kẹo
Có thể thấy rằng, giá bánh kẹo tại Việt Nam ít biến động thường xuyên như các sản
phẩm khác mà thường được giữ cố định trong một thời gian từ 3-6 tháng, và có xu hướng
tăng lên chứ rất hiếm khi giảm xuống. Trong bối cảnh giá các nguyên vật liệu đầu vào chủ
yếu là đường và bột mì có xu hướng tăng cao vào cuối năm 2010 và đầu năm 2011
Ngành bánh kẹo có mức tăng trưởng là 5,43% năm 2009 và 6,12% năm 2010. Dự kiến
tăng trưởng về doanh số năm 2011 sẽ cao hơn 2 năm trước, tăng tới con số là 10%. Có thể thấy,
ngành bánh kẹo tuy có mức tăng trưởng ổn định nhưng lại ở mức thấp do vậy mức độ cạnh tranh
trong ngành cao.
- Mức độ tập trung: nhìn biểu đồ: Kinh đô: 28%, Bibica 8%, Hải Hà 6,5%, các công ty
trong nước khác 38%, nhập khẩu 20%.. Cho đến nay, HHC chiếm 6,5% thị phần cả nước tính
theo doanh thu, sau KDC và BBC; và là doanh nghiệp sản xuất kẹo lớn thứ 2 Việt nam, chiếm
14% thị phần kẹo cả nước, chỉ sau BBC. Có thể thấy rằng mức độ tập trung của ngành bánh kẹo
khá cao, 42,5% nằm trong 3 công ty bánh kẹo trong nước là Kinh Đô, Bibica và Hải Hà. Kinh đô
là đối thủ mạnh, có thể thấy Bibica là đối tượng trực tiếp đối với Hải Hà, khi Hải Hà và Bibica
có tỷ lệ gần tương đương hơn cả. Kinh Đô tuy chiếm tỷ trọng cao hơn các công ty khác nhưng
cũng chưa chiếm tới 1/3 nên không thể dễ dàng chi phối ngành bánh kẹo Việt Nam, do vậy điều
này cũng tạo nên tính cạnh tranh khá cao với ngành bánh kẹo.
-Mức độ khác biệt và chi phí chuyển đổi: bánh kẹo vừa mang tính chung lại có đặc trưng
riêng, tức là một loại bánh kẹo thì có thể có nhiều công ty cùng sản xuất nhưng mỗi công ty lại
mang lại hương vị bánh kẹo riêng biệt, chính hương vị riêng biệt này tạo ra sự ưa thích, gắn bó
của người tiêu dùng đối với một hãng nào đó, vì nhu cầu bánh kẹo phụ thuộc khá nhiều vào thị
hiếu người tiêu dùng.
Nói tóm lại, hiện nay Hải Hà kinh doanh trong ngành bánh kẹo gặp phải cạnh tranh cao.
Trong môi trường như vậy để có thể tồn tại và phát triển thì mỗi công ty lại cần phải có chiến
lược kinh doanh phù hợp. và theo đánh giá của nhóm mình thì công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà
đang theo đuổi chiến lược kinh doanh nghiêng về khác biệt hóa sản phẩm.
Tại sao nhóm mình lại đưa ra kết luận như vậy??
2. Chiến lược kinh doanh:
Dựa vào những tuyên bố trong báo cáo thường niên năm 2009 và thực tế kinh doanh của công ty
ta có thể thấy chiến lược canh tranh của công ty nghiêng về hướng làm khác biệt hóa sản phẩm.
Xác định sản phẩm kẹo Chew, kẹo Jelly, kẹo xốp, bánh kem xốp, bánh mềm cao cấp, bánh phủ
sôcôla và các sản phẩm dinh dưỡng là những sản phẩm chủ lực của HAIHACO. Tiếp tục cơ cấu
danh mục sản phẩm, chú trọng các mặt hàng đem lại lợi nhuận cao.
Xét về dòng kẹo Chew, đã từ lâu người tiêu dùng quen với thương hiệu kẹo Chew, theo cá nhân
mình mà nói kẹo Chew Hải Hà ngon nhất. ^^.
HAIHACO giữ vị trí số 1 về công nghệ, uy tín và thương hiệu trên thị trường. Hiện nay, sản
phẩm của các đối thủ cạnh tranh như Bibica, Perfectti Van Melle sẽ chưa phải là thách thức lớn
nhất đối với HAIHACO. Sản phẩm kẹo chew Hải Hà có mười hai hương vị: nhân dâu, nhân
khoai môn, nhân sôcôla, nhân cam….với công suất 20 tấn/ngày. Như vậy trên thị trường ngành
bánh kẹo, kẹo Chew với ưu thế của mình là loại kẹo đặc trưng của HAIHACO.
Chi phí nguyên vật liệu (đường, sữa bột, bột mỳ, và gluco) chiếm 65-70% giá thành sản phẩm,
trong đó đường là nguyên liệu chiếm tới 25% tổng chi phí nguyên liệu đầu vào của các sản phẩm
kẹo Hải Hà. Trong khi HHC không thể điều chỉnh ngay giá bán ra sản phẩm trong ngắn hạn, việc
giá nguyên vật liệu biến động sẽ ảnh hưởng tới kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty.