You are on page 1of 53

LỜI MỞ ĐẦU

Cơ chế thị trường đã rung lên hồi chuông cảnh báo bao sự thay đổi của nền kinh tế
Việt Nam trong những thập niên gần đây. Trong nền kinh tế thị trường hoạt động đầy sôi
nổi và cạnh tranh gay gắt, để thu được lợi nhuận cao và đứng vững trên thương trường,
các nhà kinh tế cũng như các doanh nghiệp phải nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt những
vấn đề mới của nền kinh tế mới. Bên cạnh bao vấn đề cần có để kinh doanh còn là những
vấn đề nổi cộm khác trong nền kinh tế. Điển hình là diễn biến của hai chỉ số lạm phát và
lãi suất. Trong khi lãi suất có vai trò quan trọng trong việc quyết định đầu tư thì lạm phát
lại là “kẻ phá hoại” có tác động xấu đến các hoạt động kinh tế. Liệu rằng giữa hai biến số
kinh tế này có mối liên hệ với nhau như thế nào và Chính phủ sẽ hành động như thế nào
trong cuộc chiến chống lạm phát. Tất cả những vấn đề đó đã thôi thúc chúng em đi vào
nghiên cứu đề tài “Phân tích mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất và các biện pháp
kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”
Do trình độ và thời gian có hạn, trong quá trình nghiên cứu đề tài chắc chắn còn
nhiều thiếu sót, chúng em kính mong sự góp ý chân thành của thầy cô và bạn đọc để đề tài
nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

1
Lời cảm ơn

“Chúng em xin chân thành cảm ơn ………đã cho chúng em cơ hội tiến hành
nghiên cứu đề tài khoa học này, qua đó củng cố thêm kiến thức và kỹ năng phục vụ
cho quá trình học tập về sau.
Chúng em cũng xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ ……… với sự hướng dẫn chu đáo,
nhiệt tình đã giúp chúng em hoàn thành đề tài.”

Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU.....................................................................................................................1
2
NỘI DUNG..........................................................................................................................3
Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu...........................................................6
1.1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài..............................................................................6
1.2. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu.........................................................................6
1.3. Các mục tiêu nghiên cứu...............................................................................................6
1.4. Các câu hỏi đặt ra cho nghiên cứu.................................................................................6
1.5. Phạm vi nghiên cứu................................................................................ ............... ......6
1.6. Ý nghĩa của nghiên cứu.................................................................................................7
1.7. Kết cấu của báo cáo.......................................................................................................7
Chương 2: Một số vấn đề lý luận cơ bản về lạm phát và lãi suất, mối quan hệ giữa
lạm phát và lãi suất.............................................................................................................8
2.1. Một số khái niệm, định nghĩa cơ bản............................................................................8
2.1.1. Lạm phát ....................................................................................................................8
2.1.2. Lãi suất.....................................................................................................................10
2.2. Một số lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất và các biện pháp kiềm chế
lạm phát..............................................................................................................................13
2.2.1. Một số lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất.....................................13
2.2.2.Lý thuyết về kiềm chế lạm phát.................................................................................15
2.3. Tổng quan tình hình khách thể nghiên cứu ở Việt Nam và trên thế
giới......................................................................................................................................16
2.4. Những nghiên cứu có liên quan...................................................................................18
2.5. Mô hình nội dung vấn đề nghiên cứu của đề tài......................................................…19
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu và các kết quả phân tích thực trạng mối
quan hệ giữa lạm phát với lãi suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay...................................................................................................20
3.1. Phương pháp hệ nghiên cứu........................................................................................20
3.2. Đánh giá tổng quan tình hình và ảnh hưởng nhân tố môi trường đến mối quan hệ giữa
lạm phát với lãi suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay...............................................................................................................................21
3.2.1. Đánh giá tổng quan tình hình ..................................................................................21
3.2.2. Ảnh hưởng của nhân tố môi trường kinh tế thế giới......... ...................................22
3.2.3. Môi trường kinh tế trong nước.................................................................................23
3.3. Kết quả trắc nghiệm của mô hình nghiên cứu............................................................ 24
3.3.1. Kết quả trắc nghiệm của mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất..............................24

3
3.3.2. Kết quả trắc nghiệm về các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay......................................................................................................................28
3.4. Kết quả tổng hợp đánh giá của các chuyên
gia................................................................................................................ ......................36
3.5. Kết quả phân tích các dữ liệu thứ cấp..........................................................................37
Chương 4: Kết luận, thảo luận và các đề xuất về mối quan hệ giữa lạm phát với
lãi suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
……………………………………………........................................................................39
4.1. Các kết luận và phát hiện qua nghiên cứu...................................................................39
4.2. Các thảo luận về các vấn đề đặt ra qua nghiên cứu.....................................................41
4.3. Các dự báo triển vọng về việc vận dụng mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất trong
việc quản lý kinh tế của Nhà nước và việc hoàn thiện các biện pháp kiềm chế lạm phát
của Việt Nam......................................................................................................................43
4.4. Các đề xuất kiến nghị..................................................................................................45
4.5. Những hạn chế nghiên cứu và vấn đề đặt ra tiếp tục nghiên cứu................................46
KẾT LUẬN.......................................................................................................................48
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………........49

DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ HÌNH VẼ

Hình 2.1. Mô hình tổng cung và tổng cầu


Hình 2.2. Mô hình IS - LM
4
Hình 2.3. Mô hình AD - AS
Hình 3.1. Đồ thị biểu thị mối quan hệ giữa tỷ lệ lạm phát và lãi suất
Hình 3. 2. Sự dịch chuyển đường LM
Hình 3.3 . Đồ thị mô tả sự dịch chuyển tổng cung và tổng cầu trong dài hạn
Hình 3.4. CSTT thu hẹp
Hình 3.5. CSTT thắt chặt
Bảng 1. Chỉ số CPI trong những năm gần đây.

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT.

VN : Việt Nam
NHTU : Ngân hàng Trung ương
NHNN : Ngân hàng nhà nước
NHTM : Ngân hàng thương mại
CSTT : Chính sách tiền tệ
CSTK : Chính sách tài khoá
VND : Đơn vị tiền tệ Việt Nam đồng.

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

1.1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài:

5
Lạm phát và lãi suất là hai biến số kinh tế quan trọng của không chỉ của một quốc
gia nào. Lịch sử đã chứng minh sự ảnh hưởng mạnh mẽ của chúng đến sự phát triển kinh
tế Thế giới. Không những lạm phát và lãi suất có thể tác động đến mọi hoạt động kinh tế
mà chúng còn chiụ sự tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động này làm cho diễn biến của
chúng ngày càng biểu hiện khó lường, gây khó khăn cho công tác kiểm soát vĩ mô nền
kinh tế của Chính Phủ.
Trước tình hình thế giới có nhiều thay đổi như hiện nay thì vấn đề ổn định nền
kinh tế luôn là mục tiêu cấp thiết hàng đầu của các quốc gia. Bởi vậy, nắm bắt được quy
luật về mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất sẽ giúp cho chính phủ các nước có những
chính sách kinh tế phù hợp, tạo nên một sự phát triển kinh tế ổn định và tích cực hơn.
Lạm phát gia tăng là vấn đề cố hữu đối với nền kinh tế mới nổi như Việt Nam.
Kiềm chế lạm phát luôn là mục tiêu được chính phủ ưu tiên. Nên việc nghiên cứu và tìm
ra các biện pháp kiềm chế lạm phát sẽ góp phần không nhỏ cho sự phát triển kinh tế Việt
Nam.
1.2. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu trong đề tài:
Từ tình hình bất ổn của nền kinh tế đòi hỏi chính phủ phải có biện pháp quản
lí hiệu quả hơn đối với công cụ lãi suất và điều chỉnh tỷ lệ lạm phát ở mức thích hợp,
chúng em đã quyết định lựa chọn đề tài nghiên cứu là: “Phân tích mối quan hệ giữa lạm
phát với lãi suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay”.
1.3. Các mục tiêu nghiên cứu:
Tìm hiểu về mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất. Biểu hiện cụ thể trong thực
tiễn của mối quan hệ đó.
Đánh giá tình hình lạm phát của Việt Nam trong những năm gần đây. Đưa ra các ý
kiến, đề xuất về các biện pháp kiềm chế lạm phát sao cho phù hợp với tình hình thực tế.
1.4. Các câu hỏi đặt ra cho nghiên cứu:
Lạm phát và lãi suất có mối quan hệ như thế nào? Biểu hiện thực tế của mối quan
hệ này trong nền kinh tế ra sao?
Tình hình lạm phát của Việt Nam trong những năm gần đây có gì biến động? Các
biện pháp cụ thể để kiềm chế lạm phát là gì?
1.5. Phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: lạm phát và lãi suất
Thời gian nghiên cứu: Trong giai đoạn hiện nay.
Không gian nghiên cứu: nền kinh tế Việt Nam
1.6. Ý nghĩa của nghiên cứu:
Bằng việc đi sâu vào nghiên cứu tìm hiểu mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất
cùng với việc đề ra các biện pháp kiềm chế lạm phát, chúng em mong muốn góp chút

6
công sức để người đọc có cái nhìn sâu sắc hơn về nền kinh tế Việt Nam. Và nếu được
đánh giá cao thì có thể đây là tài liệu tham khảo cho việc quản lí kinh tế của Nhà nước.
1.7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mục lục, lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh
mục từ viết tắt đề tài được chia thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu đề tài
Chương 2: Tóm lược một số vấn đề lý luận về lạm phát và lãi suất, mối quan hệ giữa lạm
phát và lãi suất.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu và kết quả phân tích thực trạng mối quan hệ giữa lạm
phát với lãi suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Chương 4: Các kết luận, thảo luận và đề xuất về mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất và
các biện pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

CHƯƠNG 2: TÓM LƯỢC MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT VÀ LÃI


SUẤT, MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VỚI LÃI SUẤT VÀ CÁC BIỆN PHÁP
KIỀM CHẾ LẠM PHÁT
2.1. Một số khái niệm định nghĩa cơ bản:
2.1.1. Lạm phát:
2.1.1.1. Khái niệm về lạm phát:

7
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về lạm phát.
Nhà kinh tế học Samuelson cho rằng: lạm phát biểu thị sự tăng lên trong mức giá
cả chung. Theo ông thì lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và chi phí tăng- giá
bánh mì, dầu xăng, xe ô tô tăng, tiền lương, giá đất, tiền thuê tư liệu sản xuất tăng.
Milton Friedman cho rằng: lạm phát là việc giá cả tăng nhanh và kéo dài. Còn Mác
viết trong bộ tư bản rằng: lạm phát là việc tràn đầy các kênh, các luồng lưu thông các tờ
giấy bạc thừa dẫn đến giá cả tăng vọt. Ông cho rằng lạm phát luôn đồng hành cùng với
chủ nghĩa tư bản, ngoài việc bóc lột chủ nghĩa tư bản bằng giá trị thặng dư, chủ nghĩa tư
bản còn gây ra lạm phát để bóc lột người lao động một lần nữa, do lạm phát làm tiền
lương thực tế của người lao động giảm xuống.
Như vậy mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về lạm phát nhưng các nhà kinh tế
đều thống nhất “lạm phát là một sự tăng lên của giá cả một cách liên tục và khi lạm phát
xảy ra thì có sự dư thừa tiền trong lưu thông”. Tóm lại,, lạm phát là sự tăng lên liên tục
của mức giá trung bình theo thời gian.
2.1.1.2. Nguyên nhân gây ra lạm phát.
+) Lạm phát do cầu kéo: lạm phát do cầu kéo xảy ra khi tổng cầu tăng lên mạnh
mẽ tại mức sản lượng đã đạt hoặc vượt quá tiềm năng. Biểu hiện rõ nhất của lạm phát cầu
kéo là nhu cầu nhập khẩu lương thực trên thị trường thế giới tăng, làm giá xuất khẩu tăng
(giá xuất khẩu gạo bình quân của nước ta năm 2007 tăng trên 15% so với năm 2006) kéo
theo cầu về lương thực trong nước cho xuất khẩu tăng. Trong khi đó, nguồn cung trong
nước do tác động của thiên tai, dịch bệnh không thể tăng kịp. Tất cả các yếu tố nói trên
gây ra lạm phát cầu kéo, đẩy giá một số hàng hoá và dịch vụ, nhất là lương thực thực
phẩm tăng theo.
+) Lạm phát do chi phí đẩy: nếu có một cú sốc về tổng cung (chi phí sản xuất tăng
lên) làm cho đường AS dịch chuyển lên trên dẫn đến giá tăng, sản lượng giảm.Phổ biến
nhất là sự tăng của giá xăng, thép… Giá nguyên liệu, nhiên liệu ( đặc biệt là xăng dầu, các
sản phẩm hoá dầu, thép và phôi thép…) trên thế giới trong những năm gần đây tăng
mạnh. Trong điều kiện kinh tế nước ta phụ thuộc rất lớn vào nhập khẩu ( nhập khẩu chiếm
đến 90% GDP ) giá nguyên liệu nhập tăng làm tăng giá thị trường trong nước.

Đồ thị dưới sẽ minh hoạ cho 2 trường hợp trên.

8
*
EE
AD
A
P
ASLR
LạmSSLyphát
0 1
ychi
cầu
0
yphí
kéo
1
đẩy
y y1 y0 y*
D
ASLR
P
ASSR
1y1
0 00 1

9
Hình 2.1. Mô hình tổng cung và tổng cầu
+) Lạm phát do cung tiền tăng: Cung tiền tăng (chẳng hạn do ngân hàng trung
ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền ngoại tệ khỏi mất giá so với trong nước; hay
chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước) khiến cho
lượng tiền trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân gây ra lạm phát.
+) Lạm phát do dự kiến: lạm phát do dự kiến là tỷ lệ lạm phát hiện tại mà mọi
người dự kiến nó sẽ tiếp tục trong tương lai. Tỷ lệ này thường được đưa vào các hợp đồng
kinh tế, các kế hoạch hay các thoả thuận khác. Và chính vì mọi người đều đưa tỷ lệ lạm
phát vào các hoạt động của mình nên cuối cùng nó trở thành hiện thực. Một ví dụ cụ thể
của hiện tượng lạm phát do quán tính là khi nền kinh tế có lạm phát cao, mọi người có xu
hướng chỉ giữ lại một lượng tiền mặt tối thiểu để chi tiêu hàng ngày, họ đem tiền đổi lấy
các loại tiền mạnh khác, vàng hay các loại hàng hóa để tích trữ giá trị, làm tăng lượng tiền
lưu thông trên thị trường, càng làm đồng tiền mất giá và tăng lạm phát.
Ngoài ra còn có một số nguyên nhân khác liên quan đến xuất nhập khẩu, do thiên tai…

2.1.1.3. Ảnh hưởng của lạm phát đến nền kinh tế:
Lạm phát có lợi không và nó có thể gây ra những tác động gì tới nền kinh tế? Có thể nói
lạm phát tác động đến từng cá nhân, từng doanh nghiệp và cả chính phủ. Lạm phát có thể
làm sụp đổ cả một nền kinh thế vững mạnh cũng như có thể giúp cho một nền kinh tế đi
lên nếu biết cách kiềm chế và giữ cho nó ở mức ổn định. Nói chung lạm phát có cả điểm
mạnh và điểm yếu.
+) Ảnh hưởng tích cực: lạm phát ở mức độ vừa phải có tác động tích cực đến sự
phát triển của nền kinh tế xã hội. Khi lạm phát vừa phải xảy ra nó làm cho đồng nội tệ
mất giá nhẹ so với đồng ngoại tệ. Đây là một lợi thế để các doanh nghiệp đẩy mạnh việc
xuât khẩu hàng hóa, tăng thu ngoại hối, khuyến khích sản xuất trong nước phát triển…
Lạm phát ở Việt Nam trong những năm qua, dưới sự quản lý vĩ mô của nhà nước đã kiềm
chế được lạm phát ở mức 1 con số: năm 2003 là 3%, 2004 là 9,5%, 2005 là 8,4%, 2006 là
6%, với mức độ lạm phát như vậy nền kinh tế của nước ta trong những năm qua đã có
những bước phát triển đáng kể, tốc độ tăng trưởng cao.
+) Ảnh hưởng tiêu cực: bên cạnh những tác động tích cực của lạm phát thì lạm
phát cũng có những tác động không tốt nếu lạm phát ở mức độ quá cao (lạm phát phi mã
và siêu lạm phát)
Ảnh hưởng đến đời sống của các tầng lớp dân cư: Người dân nhất là những người làm
công ăn lương, những hộ nghèo phải chiụ sự tác động trực tiếp nhất của lạm phát trong
cơn bão tăng giá. Lạm phát cũng làm giảm việc làm cho người dân trong trung và dài hạn.
Đời sống dân cư ngày càng trở nên khó khăn. Ảnh hưởng đến sự phân phối lại thu nhập
và của cải: do tác động của lạm phát làm mất cân đối giữa nợ và tài sản mà những người
lao động sống bằng tiền lương thì tiền lương thực tế giảm trong khi mức giá cả tăng lên
làm cho nền kinh tế suy giảm.
10
Ảnh hưởng nhiều đến khối doanh nghiệp: Lạm phát cũng gây ra tình trạng thiếu tiền vì
các doanh nghiệp không khai thác được nguồn tín dụng cho việc duy trì sản xuất của
mình. Do đó, số lượng công việc cho người dân làm cũng giảm thiểu trong trung và dài
hạn.
Ảnh hưởng đến lĩnh vực tài chính Nhà nước: lạm phát làm cho nguồn thu ngân sách
Nhà nước ngày càng bị thu hẹp dẫn đến tình trạng bội chi ngân sách ngày càng tăng.
2.1.2.Lãi suất:
2.1.2.1.Khái niệm lãi suất
Lãi suất là tỷ lệ tổng số tiền phải trả so với số tiền cho vay trong một khoảng thời
gian nhất định. Lãi suất là giá mà người vay phải trả để sử dụng tiền không thuộc sở hữu
của họ vì lợi tức người cho vay có được do việc trì hoãn chi tiêu.
Lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế :
Lãi suất danh nghĩa (với hàm ý chưa điều chỉnh ảnh hưởng của lạm phát ) là lãi
suất đã bao gồm cả những tổn thất do lạm phát gây ra do sự gia tăng của mức giá chung.
Quan hệ giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế được biểu thị bằng các công thức sau:
(1 + r)(1 + i) = (1 + R) trong đó: r là lãi suất thực tế, i là tỷ lệ lạm phát và R là lãi suất
danh nghĩa.
Trên thực tế, tỷ lệ lạm phát sau đó có thể khác với tỷ lệ lạm phát dự kiến nên không
thể biết trước một cách chắc chắn được lãi suất thực tế còn lãi suất danh nghĩa thì có thể
biết trước được một cách chắc chắn khi công bố.
Lãi suất danh nghĩa (với hàm ý chưa điều chỉnh ảnh hưởng của việc tính lãi gộp là lãi
suất được công bố cho một kỳ nào đó của đơn vị thời gian cơ sở (đơn vị thời gian cơ sở
thường là năm). Lãi suất được công bố sẽ không có ý nghĩa đầy đủ nếu không đi kèm với
số kỳ được tính gộp lãi. Hai mức lãi suất danh nghĩa được công bố với kỳ hạn khác nhau
sẽ không thể so sánh được với nhau nếu không quy về cùng một kỳ được tính gộp lãi. Lãi
suất hiệu quả cho phép làm điều đó bằng cách quy đổi lãi suất danh nghĩa về lãi suất kép
của một năm theo công thức sau:
Trong đó: r là lãi suất hiệu quả, i là lãi suất danh nghĩa và n là số kỳ được tính gộp lãi
trong năm.
Cách tính toán này khác về căn bản với cách tính lãi suất đơn giản hay thường
được gọi là lãi suất đơn ở chỗ nó tính gộp cả lãi suất tính trên phần lãi được hưởng (lãi mẹ
đẻ lãi con). Công thức trên cũng cho thấy khi số kỳ được tính gộp lãi lớn thì sự khác biệt
giữa lãi suất hiệu quả và lãi suất danh nghĩa sẽ rất lớn. Về bản chất, lãi suất hiệu quả cho
biết tỷ lệ lãi thực tế trên một khoản cho vay hoặc đầu tư mà người cho vay hoặc nhà đầu
tư thu được trên giá trị của khoản vay hoặc đầu tư đó. Trong thực tế, các ngân hàng đều
công bố lãi suất danh nghĩa và tính toán lãi suất hiệu quả dựa trên số kỳ tính gộp lãi.
2.1.2.2.Một số loại lãi suất:
Lãi suất cơ bản

11
Lãi suất cơ bản prime rate, còn gọi là prime được các ngân hàng thương mại tầm
cỡ tại các trung tâm tài chính chủ lực của một nền kinh tế công bố và áp dụng đối với các
khoản nợ dành cho các doanh nghiệp là khách hàng lớn.
Lãi suất cơ bản được xem là một loại lãi suất tham khảo quan trọng trong thị
trường. Nhìn chung nó thay đổi chậm hơn hầu hết các lãi suất khác, do nó nằm trong tầm
kiểm soát của các tổ chức cho vay.
Lãi suất tiết kiệm
Lãi suất tiết kiệm là lãi suất được xác lập bởi hoạt động tiết kiệm giữa khách hàng
ký thác với ngân hàng hoặc các tổ chức phát triển gia cư. Các định chế tài chính này được
lập ra chủ yếu huy động vốn để cho vay phục vụ cho mục đích phát triển bất động sản.
Lãi suất huy động nóng
Lãi suất huy động nóng hay có thể gọi là lãi suất qua đêm (federal funds rate) là
loại lãi suất được xác lập bởi thị trường cho vay tạm thời các khoản nợ để đáp ứng cân đối
dự trữ theo luật định mà các ngân hàng thương mại phải duy trì tại Ngân hàng Trung
ương. Những ngân hàng có cân đối dự trữ vượt yêu cầu có thể sử dụng khoản vượt này để
cho các ngân hàng bị hụt vay tạm.
Lãi suất chiết khấu của Ngân hàng Trung ương
Lãi suất chiết khấu discount rate là lãi suất được thu trên các khoản tiền mà Ngân
hàng Trung ương cho các ngân hàng thành viên trong hệ thống vay. Đây là công cụ điều
tiết vĩ mô thường được Mỹ và các nước phương tây sử dụng rất hiệu quả. Các khoản vay
đó được cầm cố bằng các chứng khoán của chính phủ hoặc các giấy tờ có giá đủ hiệu lực
khác theo quy định. Thỉnh thoảng Ngân hàng Trung ương có thể điều chỉnh lãi suất chiết
khấu để khuyến khích hoặc hạn chế các ngân hàng thành viên vay mượn. .
(Lãi suất tái cấp vốn là lãi suất mà ngân hàng nhà nước áp dụng khi cấp vốn cho các ngân
hàng thương mại.)
Một số loại lãi suất cơ bản của ngân hàng nhà nước VN:
- Lãi suất cơ bản: 8.25%/năm
- Lãi suất tái cấp vốn: 6.5%/năm
- Lãi suất chiết khấu: 4.5%/năm
2.1.2.3.Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế
Vậy lãi suất ảnh hưởng đến tình hình của một nền kinh tế nói chung như thế nào?
Lãi suất cho vay thể hiện tình trạng của nền kinh tế bằng cách ảnh hưởng đến nguồn
và nguồn cầu về số lượng tiền gửi ngân hàng.
Lãi suất là biến số kinh tế nhạy cảm, sự thay đổi của lãi suất sẽ tác động làm thay
đổi hành vi sản xuất và tiêu dùng của xã hội. Về phương diện lý thuyết cũng như thực tiễn
các nước đã chứng minh, sự thay đổi lãi suất thực sẽ có tác động nhạy cảm đến sản lượng
và giá cả. Vì vậy, Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) đã rất coi trọng việc điều tiết lãi suất
nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ (CSTT) là kiềm chế lạm phát và
góp phần tăng trưởng kinh tế.
Lý thuyết kinh tế học đã chứng minh, lãi suất thực tác động đến:
12
- Chi tiêu dùng và đầu tư: Một sự tăng lãi suất làm giảm sức hấp dẫn trong việc chi
tiêu hiện tại hơn là chi tiêu trong tương lai của cá nhân và công ty. Tín dụng trong nước,
tổng lượng tiền và cầu thực tế đều giảm (nếu lãi suất giảm sẽ có tác động ngược lại): Khi
lãi suất thực tăng lên, đối với hộ gia đình sẽ giảm nhu cầu mua sắm nhà ở hoặc các hàng
tiêu dùng lâu bền do chi phí tín dụng để mua các hàng hoá này tăng lên. Cùng với lãi suất
cho vay, lãi suất tiền gửi thực cũng tăng lên. Sự gia tăng lãi suất này tác động tới quyết
định tiêu dùng của khu vực hộ gia đình theo hướng giảm tiêu dùng hiện tại và tăng tiết
kiệm để cho tiêu dùng trong tương lai. Đối với khu vực doanh nghiệp, sự gia tăng lãi
suất làm tăng chi phí vốn vay ngân hàng. Điều này đòi hỏi dự án đầu tư sử dụng vốn vay
ngân hàng phải có tỷ lệ lợi nhuận lớn hơn và kết quả là số dự án đầu tư có thể thực hiện
với mức lãi suất cao hơn này có thể giảm hay nói cách khác, đầu tư cố định có thể giảm.
Ngoài ra, lãi suất cao cũng làm tăng chi phí lưu giữ vốn lưu động (ví dụ như hàng trong
kho) và do vậy, tạo sức ép các doanh nghiệp phải giảm đầu tư dưới dạng vốn lưu động.
- Phân phối lại thu nhập: Lãi suất tăng cao hơn sẽ phân phối lại thu nhập từ người vay
tiền sang người gửi tiền. Điều này làm tăng sức chi tiêu của người tiết kiệm, nhưng sự chi
tiêu này bị hạn chế bởi mức tiêu dùng cận biên (phần chi tăng thêm cho tiêu dùng trong
mỗi giá trị thu nhập tăng thêm), do vậy người tiết kiệm có xu hướng tăng chi tiêu dùng
thấp hơn sự hạn chế chi tiêu đầu tư của người đi vay, nhất là khi lãi suất tăng cao vượt tỷ
suất lợi nhuận đầu tư và các danh mục đầu tư và dự án, làm thu nhập của người đi vay
giảm. Do vậy, dẫn đến tổng chi tiêu giảm, GDP giảm. Mặt khác, đối với các hộ gia đình
nắm giữ nhiều cổ phiếu, trái phiếu, lãi suất tăng sẽ làm giảm giá tài sản tài chính, do đó,
giảm thu nhập, từ đó tạo sức ép giảm tiêu dùng của các hộ gia đình.
Tuy nhiên, tác động của lãi suất đến hành vi tiêu dùng và sản xuất của xã hội
nhiều hay ít, nhanh hay chậm tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế xã hội của mỗi quốc gia,
trong từng quốc gia thì mỗi giai đoạn phát triển của thị trường tài chính thì mức độ tác
động của lãi suất cũng khác nhau.
Đối với Việt Nam từ năm 2000-2007, tác động của lãi suất đến tăng trưởng và lạm
phát có thể thấy được qua việc xem xét ảnh hưởng của lãi suất trên thị trường tiền tệ Việt
Nam đối với hành vi của cá nhân và các doanh nghiệp, từ đó đánh giá ảnh hưởng của lãi
suất đến tăng trưởng kinh tế và lạm phát.
2.2. Một số lí thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất và các biện pháp kiềm
chế lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
2.2.1. Các lí thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất
2.2.1.1.Hiệu ứng Fisher
Hiệu ứng Fischer do nhà kinh tế học người Mỹ Irving Fisher đưa ra vào thời kì đại
khủng hoảng 1930-1939. Đây là một nội dung quan trọng trong thuyết số lượng tiền tệ
của ông, nhằm mục đích lí giải hiện tượng khủng hoảng của nền kinh tế. Ông cho rằng
nguyên nhân chủ chốt gây ra Đại khủng hoảng là tín dụng dễ dãi dẫn đến sự nợ nần quá
mức, gây ra nận đầu cơ và các bong bong tài sản, và khi bong bong tài sản vỡ dẫn đến tài
sản giảm giá trị, đói tín dụng, ảnh hưởng đến các ngành sản xuất, dẫn đến giảm phát.

13
Hiệu ứng Fisher mô tả mối quan hệ giữa tỉ lệ lạm phát và hai loại lãi suất là lãi suất
danh nghĩa và lãi suất thực tế: Khi tỉ lệ lạm phát tăng lên thì tỉ lệ lãi suất danh nghĩa cũng
tăng lên cùng một tỉ lệ, trong khi tỉ lệ lãi suất thực tế không thay đổi.
Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực tế + Tỷ lệ lạm phát.
Ví dụ, nếu ngân hàng trả cho khoản tiền tiết kiệm mà bạn gửi trong một năm với
lãi suất danh nghĩa là 8%, và tỉ lệ lạm phát trong thời gian đó là 6% thì lãi suất thực tế mà
bạn nhận được sẽ chỉ là 2%. Bởi vì theo hiệu ứng Fisher 8%- 6%=2%
Như vậy khi mà tỷ lệ lạm phát tăng 1% thì lãi suất danh nghĩa cũng tăng 1%, mối
tương quan một- một giữa tỷ lệ lạm phát với lãi suất danh nghĩa được gọi là hiệu ứng
Fisher.

2.2.1.2 Sự ảnh hưởng của lãi suất đến tỷ lệ lạm phát thông qua cơ chế lan truyền
tiền tệ
Lãi suất là một công cụ quan trọng bậc nhất của chính sách tiền tệ. Nó được áp
dụng nhất quán trong một lãnh thổ và được ngân hàng nhà nước điều hành chặt chẽ và
mềm dẻo tuỳ theo từng thời kì cho phù hợp với nhu cầu huy động vốn và cung ứng vốn .
Như vậy chúng ta có thể thấy rằng lãi suất tác động làm thay đổi cầu tiền tệ trong
dân cư, và làm thay đổi tỷ lệ lạm phát. Thật vậy, khi có lạm phát Ngân hàng nhà nước sẽ
tăng lãi suất tiền gửi. Chính vì thế người dân và các công ty sẽ đầu tư vào ngân hàng ( gửi
tiền vào ngân hàng) có lợi hơn là đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Như vậy cầu tiền giảm
do đó tổng đầu tư giảm, làm cho tổng cầu giảm dẫn tới giá giảm. Nhưng theo hiệu ứng
Fisher, chúng ta biết rằng :
Tỷ lệ lãi suất danh nghĩa = tỷ lệ lãi suất thực tế + tỷ lệ lạm phát
Do đó khi có lạm phát cao, áp dụng chính sách lãi suất ở đây chính là việc tăng tỷ
lệ lãi suất danh nghĩa cao hơn hẳn tỷ lệ lạm phát (để duy trì lãi suất thực dương ) qua đó
mới tạo được cầu tiền danh nghĩa tương ứng với cầu tiền thực tế. Tóm lại khi lãi suất tiền
gửi cao thì động viên được nhiều người gửi tiền vào Ngân hàng thương mại ( NHTM ) và
ngược lại NHTM mua tín phiếu NHNN với lãi suất kinh doanh có lãi thì sẽ giảm được
khối lượng tín dụng. Nếu lãi suất tiền cho vay cao thì sẽ làm nản lòng người đi vay vì
kinh doanh bằng vốn vay NHTM không có lợi nhuận. Như vậy dùng công cụ lãi suất có
thể tăng hoặc giảm khối lượng tín dụng của NHTM để đạt mục đích của chính sách tiền tệ
- ổn định lạm phát. Ở Việt Nam đã áp dụng rất thành công chính sách lãi suẩt vào những
năm cuối thập kỷ 80 trong việc giảm tỉ lệ lạm phát từ 3 con số xuống còn một con số do
nền kinh tế ở nước ta lúc đó là nền kinh tế tuy đã mở cửa nhưng chưa mở hẳn, do đó chỉ
có tác động trong nước bằng đầu tư vào. Chính vì thế ngày nay không thể áp dụng chính
sách lãi suất với tỷ lệ lãi suất rất cao để giảm tỷ lệ lạm phát mà phải quan tâm đến mối
quan hệ giữa lãi suất trong nước và lãi suất thế giới. Trong việc kiểm soát lạm phát đây là
công cụ phổ điển, các nước ngày càng ít sử dụng hơn. Tuy đây là một công cụ rất quan
trọng trong việc kiểm soát lạm phát, huy động vốn và cung cấp vốn.

14
2.2.1.3. Tác động gián tiếp của lạm phát đối với lãi suất thông qua lĩnh vực tín dụng
và tiền tệ .
Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng , thương mại và ngân hàng bị thu hẹp. Số tiền
gửi vào ngân hàng giảm đi rất nhiều do giá trị đồng tiền bị giảm xuống. Về phía hệ thống
ngân hàng, do lượng tiền gửi vào ngân hàng bị giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu
cầu của người đi vay, cộng với việc sụt giá quá nhanh của đồng tiền, sự điều chỉnh lãi suất
tiền gửi sao cho phù hợp với tỷ lệ lạm không làm an tâm những cá những cá nhân, doanh
nghiệp đang có lượng tiền mặt nhàn rỗi trong tay. Như vậy ngân hàng gặp khó khăn trong
việc huy động vốn, hệ thống ngân hàng phải cố gắng duy trì mức lãi suất ổn định. Mà lãi
suất thưc = lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát, khi tỷ lệ lạm phát tăng cao, muốn lãi suất
thực ổn định thì lãi suất danh nghiã phải tăng lên cùng với tỷ lệ lạm phát.
Trong khi đó người đi vay là những có lợi lớn nhờ sự mất giá đồng tiền nhanh
chóng. Do vậy hoạt động của hệ thống của ngân hàng không còn bình thường nữa. Chức
năng kinh doanh tiền tệ bị hạn chế, không còn nguyên vẹn bởi khi có lạm phát thì chẳng
có ai tích trữ tài sản dưới hình thức tiền mặt.

2.2.2.Lý thuyết về kiềm chế lạm phát.


Do lạm phát tăng cao và kéo dài đã gây nên những hậu quả lớn trong đời sống của
nhân dân lao động và cho tăng trưởng kinh tế, Chính phủ các quốc gia cần phải có những
biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa và khắc phục lạm phát. Lịch sử chống lạm phát của
các nước cho thấy: Trong hoàn cảnh cụ thể, Chính phủ phải cần thiết áp dụng những biện
pháp mang tính chiến lược.
2.2.2.1. Kiềm chế lạm phát bằng cách giảm tổng cầu.
a) Chính sách tài khoá thu hẹp:
Có hai cách thức áp dụng chính sách tài khóa thu hẹp là giảm tiêu dùng Chính phủ
hay tăng thuế trực thu. Nếu áp dụng chính sách giảm tiêu dùng Chính phủ thì sẽ trực tiếp
ảnh hưởng tới tổng cầu về hàng hóa, dịch vụ; còn việc tăng thuế trực thu thì sẽ làm giảm
thu nhập khả dụng, gián tiếp làm giảm tiêu dùng và kết quả là giảm tổng cầu
b) Chính sách tiển tệ thu hẹp:
Thực hiện chính sách này bằng cách bán các loại giấy tờ có giá, tăng tỷ lệ dự trữ
bắt buộc, tăng lãi suất chiết khấu.
Khi chính phủ bán các loại giấy tờ có giá như trái phiếu Chính phủ, thì một lượng
tiền trên thị trường được rút về, làm giảm lượng cung tiền, qua đó làm giảm tiêu dùng và
đầu tư, hạn chế lạm phát. Tuy nhiên trên thực tế hiện nay, việc bán trái phiếu Chính phủ
để hút tiền trong lưu thông về rồi lại đầu tư vào các dự án, các doanh nghiệp nhà nước rất
lâu thu hồi vốn và kém hiệu quả, mặt khác rất có thể biến Ngân hàng nhà nước thành con
nợ của các Ngân hàng trung gian và phải trả lãi.
Khi Ngân hàng trung ương tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc hoặc tăng tỷ suất chiết khấu
sẽ làm giảm lượng cung tiền trong các ngân hàng trung gian, từ đó làm giảm đầu tư, hạn

15
chế lạm phát. Mặt khác, nếu áp dụng chính sách này một cách cứng nhắc sẽ làm ảnh
hưỏng xấu đến sản xuất và xuất khẩu, có thể làm giảm đáng kể tốc độ tăng trưởng.
2.2.2.2. Chống lạm phát bằng cách tác động lên cung:
a) Phương pháp cắt giảm chi phí sản xuất:
Thực hiện phương pháp này tức là tìm mọi cách để giảm chi phí bỏ ra cho các yếu
tố đầu vào nhằm hạ giá thành sản phẩm. Ví dụ như cắt giảm số lao động, sử dụng một
cách tiết kiệm và có hiệu quả nguyên nhiên vật liệu dùng trong sản xuất…giá cả thị
trường sản xuất giảm xuống sẽ kiềm chế có hiệu quả lạm phát.
b) Phương pháp gia tăng năng lực sản xuất trên cơ sở nâng cao hiệu quả sản xuất:
Thực hiện phương pháp này tức là tiến hành đầu tư nâng cao khoa học công nghệ,
ứng dụng trong sản xuất, nâng cao hiệu quả quản lý sản xuất…nhằm tăng sản lượng sản
phẩm trong khi không tăng giá thành sản phẩm.
Cả hai biện pháp này đang có ý nghĩa hết sức quan trọng trong các biện pháp kiềm
chế lạm phát ở nước ta hiện nay, nhất là trong tình trạng giá xăng dầu trên thị trường thế
giới tăng cao, nhưng tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC quyết định không tăng
sản lượng làm giá hầu hết các yếu tố đầu vào đều tăng. Đối với một số nước như Trung
Quốc, Singapore…, năng lượng của họ không phụ thuộc vào nhiều vào dầu, bởi họ có
nguồn năng lượng thay thế như năng lượng hạt nhân, năng lượng mặt trời, năng lượng sức
gió…trong khi đó ở Việt Nam không có, cộng với ý thức sử dụng năng lượng chưa cao
gây lãng phí. Mặt khác, trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn nhiều hạn
chế, chính là nguyên nhân đẩy giá thành lên cao. Chính vì thế, đầu tư trang thiết bị hiện
đại, học tập cách quản lý từ các nước tiên tiến, chính là cách giảm tác động của lạm phát
tới nền kinh tế.
2.2.2.3. Chống lạm phát do quán tính:
Sử dụng các thông tin đại chúng, các động thái của Chính phủ đúng lúc, và đúng
mức nhằm chấn an các thành phần kinh tế, làm cho họ tin tưởng vào sự phát triển bền
vững của nền kinh tế, tin rằng lạm phát sẽ được khống chế có hiệu quả trong tương lai
gần. Do đó, họ loại bỏ trong kế hoạch của mình các yếu tố liên quan đến tốc độ lạm phát
cao, và hạn chế được phần nào lạm phát. Tất nhiên, việc sử dụng biện pháp này phải dựa
trên những thành công của công tác phòng chống lạm phát bằng cách làm giảm cầu hay
tác động lên cung.

2.3.Tổng quan tình hình khách thể và những nghiên cứu có liên quan ở Việt Nam và
trên thế giới.
Liên quan đến vấn đề lãi suất, lạm phát đã có không ít các học giả, các cơ quan ban
ngành quan tâm và đi sâu vào nghiên cứu. Thông thường khía cạnh thu hút được nhiều sự
quan tâm nhất là cơ chế điều hành lãi suất và tình hình lạm phát cũng như nguyên nhân,
biện pháp kiềm chế lạm phát.
Bàn về mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất thì chỉ có số ít công trình được công
bố. Hầu hết các nghiên cứu liên quan đưa ra cách phân tích ít mang tính lí luận mà chú
16
trọng vào tình hình thực tế thông qua nghiên cứu các số liệu về tỉ lệ lạm phát và lãi suất
cụ thể.
2.3.1. Tình hình khách thể nghiên cứu trong nước.
Nói đến mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất có lẽ không có nhiều ý kiến khác
nhau và cũng không phải tranh luận nhiều nếu tất cả đều hiểu lãi suất là giá danh nghĩa
của tiền tệ, nhưng sẽ có quy luật vận động ngược chiều với lạm phát. Hiện nay các nhà
nghiên cứu trong nước thường chỉ đưa ra các nhìn nhận đánh giá về diễn biến của hai biến
số kinh tế quan trọng này trong thực tế chứ hầu như không đi sâu vào nghiên cứu lí luận.
Các báo cáo, nghiên cứu được liên tục cập nhật trên các phương tiện thông tin đại
chúng, hoặc được xuất bản dưới dạng sách, báo, tạp chí tham khảo. Ngoài ra một số
nghiên cứu được công bố từ các tổ chức nghiên cứu khác nhau như tổng cục thống kê;
ngân hàng Nhà nước hay bộ kế hoạch và đầu tư...
2.3.2. Tình hình khách thể nghiên cứu trên thế giới.
Lạm phát và lãi suất không còn là vấn đề mới mẻ trên thế giới nữa mà nó đã thu
hút được sự quan tâm của các học giả từ nhiều thế kỷ trước. Nhận thấy tầm quan trọng và
sự ảnh hưởng mạnh mẽ của hai chỉ số này đến nền kinh tế, đã có không ít các nhà kinh tế
học, các nhà khoa học và các nhà triết học đi sâu vào nghiên cứu và chuyển thành các
trường phái, các tư tưởng nổi tiếng.
Người đầu tiên khái quát mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất một cách có hệ
thống và đặt tiền đề cho các nghiên cứu về sau, đó là Irving Fisher với hiệu ứng Fisher mà
chúng tôi đã trình bày ở trên. Qua hiệu ứng Fisher, ta có thể thấy mối quan hệ tuyến tính
giữa tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ lãi suất. Khi tỷ lệ lạm phát tăng lên thì lãi suất cũng tăng lên
với cùng tỷ lệ.
Bước tiếp theo tư tưởng của Irving Fisher, John Maynard Keynes, đã tiếp tục
nghiên cứu mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất. Nhưng ông lại trình bày mối quan hệ
này một cách gián tiếp khi cho rằng lãi suất là một công cụ quan trọng của chính sách tiền
tệ và thông qua chính sách tiền tệ , Chính phủ sẽ tác động đến tổng cầu từ đó ảnh hưởng
đến mức giá chung của nền kinh tế, tức là điều chỉnh tỷ lệ lạm phát.
Ngoài các tư tưởng chủ đạo kể trên thì còn không ít các nhà kinh tế học tiếp tục
xây dựng và hoàn thiện lý luận về mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất, như Milton
Friedman với việc hoàn thiện lý thuyết tiền tệ hay các đóng góp lớn về học thuật trong các
lý luận về chính sách tiền tệ và tài chính của James Tobin...
Còn về nội dung kiềm chế lạm phát, có thể nói đây là lĩnh vực thu hút được không
ít sự quan tâm của các các chuyên gia kinh tế.
Theo John Maynard Keynes thì Chính phủ có vai trò quan trọng hàng đầu trong
việc điều tiết lạm phát thông qua các chính sách tiền tệ và tài khoá của mình. Trước
Keynes thì người thầy của ông Alfred Marshall cũng đã đề cập đến vai trò của Chính Phủ
trong việc điều tiết lạm phát. Có thể nói chính Marshall đã chỉ dẫn cho Keynes phát triển
tư tưởng trọng cầu của mình.
Cuối cùng phải kể đến nghiên cứu của nhà kinh tế học hiện đại Milton Friedman
David Begg. Ông là người đúc kết các tư tưởng kinh tế và chuyển hoá thành tác phẩm “
17
Kinh tế học” nổi tiếng. Trong tác phẩm ấy ông đã chỉ ra các nguyên nhân gây ra lạm
phát, chi phí của lạm phát và các biện pháp kiềm chế lạm phát. Đây thực sự là tài liệu
chính thống cho các nhà nghiên cứu sau này…

2.4. Các nghiên cứu có liên quan.


2.4.1. Các nghiên cứu có liên quan về mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất.
Nếu đề cập đến các vấn đề liên quan đến lạm phát và lãi suất nói chung thì có thể
nói đây là vấn đề đã được nghiên cứu từ lâu và rộng khắp.
Trong nước, đã có không ít sách chuyên khảo, tham khảo bàn về lạm phát với lãi
suất được xuất bản. Đó là các công trình nghiên cứu của các chuyên gia kinh tế đầu ngành
trong nước nhằm đem lại một cách nhìn tổng quan và sâu sắc hơn về hai biến số kinh tế
quan trọng này. Nhưng nhìn chung chủ đề liên quan đến mối quan hệ giữa lạm phát với
lãi suất thì không có nhiều. Các nghiên cứu thường chỉ xuất hiện dưới dạng một bài viết,
chưa thật sự phản ánh hết được mọi mặt của tình hình. Ví dụ như các chuyên gia thường
nhận xét về chính sách điều hành CSTT trong nước, các giải pháp kiềm chế lạm phát bằng
con đường lãi suất, hay rộng hơn nữa là mối quan hệ giữa lãi suất với các biến số kinh tế
khác như tỷ giá hối đoái, hay lạm phát với tăng trưởng..
Còn trên thế giới phạm trù lãi suất đã được các nhà kinh tế thời tiểu tư sản đã đề
cập đến từ những thế kỷ XVII-XVIII. Khi đó lãi suất mới chỉ được đề cập bằng cái tên “
lợi tức” đó là “khoản tiền thưởng cho việc nhịn chi tiêu ở hiện tại”. Trải qua chiều dài lịch
sử, các vấn đề liên quan đến lãi suất ngày càng thu hút được sự quan tâm của các nhà kinh
tế học và dần được khái quát thành hệ thống lý luận phục vụ cho việc vận dụng vai trò của
lãi suất vào nền kinh tế. Một đại biểu xuất sắc trong việc nghiên cứu lãi suất là John
Maynard Keynes thông qua tác phẩm nổi tiếng “ Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và
tiền tệ”- xuất bản 1936. Ông cho rằng “ lãi suất là khoản thù lao cho việc mất khả năng
chuyển hoán trong một thời hạn nhất định, là việc đo lường sự tự nguyện của người có
tiền không sử dụng tiền mặt của họ.” Ông đã đi sâu vào nghiên cứu lý thuyết số lượng
tiền tệ. Keynes cho rằng “Lãi suất tỷ lệ nghịch với lượng tiền đưa vào lưu thông”. Và việc
đưa ra lý thuyết sử dụng công cụ lãi suất để thực hiện các chính sách tiền tệ là một thành
tựu đáng kể của ông.
2.4.2. Các nghiên cứu có liên quan về kiềm chế lạm phát.
Lạm phát mới thực sự được mọi người quan tâm kể từ khi xảy ra cuộc đại khủng
hoảng 1929-1933. Sau thời kỳ đen tối ấy, các nước đã đề cao vai trò của việc kiểm soát
lạm phát và do đó các nhà kinh tế học bắt đầu đi sâu vào nghiên cứu lạm phát cũng như
các vấn đề liên quan đến lạm phát. Nhưng từ trước đó, phạm trù lạm phát đã xuất hiện
trong tư tưởng của các nhà khoa học. Có thể kể nghiên cứu của Karl Marx, ông cho rằng
“Lạm phát là hiện tượng tiền giấy tràn ngập các kênh lưu thông, vượt quá nhu cầu của lưu
thông hàng hoá, dẫn tới sự mất giá của đồng tiền và phân lại thu nhập quốc dân.” Nhưng
vì điều kiện lịch sử lúc đó chưa cho phép Ông hiểu được hết nhưng diễn biến phức tạp
18
của lạm phát nên ông mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một cách tổng quan. Đỉnh cao
về nghiên cứu lạm phát thuộc về nhà kinh tế học Paul A.Samuelson. Ông đã phân tích
được đầy đủ các khía cạnh khác nhau của lạm phát như các loại lạm phát, các chi phí của
lạm phát , nguyên nhân gây ra lạm phát và các biện pháp kiềm chế lạm phát. Về sau mọi
nghiên cứu có liên quan đều xuất phát dựa trên lý thuyết về lạm phát của ông.

2.5. Mô hình nội dung nghiên cứu của đề tài.


Để nghiên cứu mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất chúng tôi sử dụng mô hình IS
– LM, trong đó đường LM là đường cân bằng thị trường tiền tệ, là tập hợp các kết hợp
khác nhau giữa lãi suất và thu nhập sao cho cầu tiền thực tế bằng với cung tiền thực tế;
đường IS là tập hợp các kết hợp khác nhau giữa lãi suất và thu nhập sao cho tổng chi tiêu
kế hoạch đúng bằng thu nhập.
Lãi suất là một công cụ của chính sách tiền tệ. Khi chính phủ sử dụng chính sách
tiền tệ nới lòng tổng cung tiền tăng, lãi suất giảm và qua đó kích thích đầu tư. Ngược lại
Chính phủ sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt khi giảm cung tiền, tăng lãi suất .Thông
qua mô hình IS-LM mục đích của chúng tôi là làm rõ được vai trò của lãi suất trong việc
điều chỉnh tổng cầu qua đó có thể làm thay đổi tỷ lệ lạm phát.
IS Yo
L
0Y
M
rro

P0

Hình 2.2. Mô hình IS - LM


Một mô hình nữa được sử dụng nghiên cứu đó là mô hình tổng cung và tổng cầu.
AD và AS. Trong đó tổng cầu AD= C+ I + G + NX với C là chi tiêu của hộ gia đình; I là
tổng đầu tư của các doanh nghiệp; G là chi tiêu của chính phủ và NX là xuất khẩu ròng.

19
Tổng cung biểu thị cho khả năng sản xuất của đất nước trong một giai đoạn nhất
định. Trong dài hạn đường tổng cung là thẳng đứng còn trong ngắn hạn đường tổng cung
dốc lên. Thông qua mô hình tổng cung và tổng cầu chúng tôi muốn chỉ ra nguyên nhân
gây ra lạm phát và dựa vào nguyên nhân đó để tìm cách kiềm chế lạm phát.
PoP
O
Y
ASS
ASL
Y*

AD

Hình 2.3. Mô hình AD – AS

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢ PHÂN TÍCH THỰC
TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VỚI LÃI SUẤT VÀ CÁC BIỆN
PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. Phương pháp hệ nghiên cứu.
3.1.1 Phương pháp thu nhập số liệu
Sử dụng số liệu thu nhập được trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là
trang web chính thức của tổng cục thống kê http://www.gso.gov.vn
Tham khảo các báo cáo định kì hàng quý và hàng năm của các tổ chức nghiên cứu,
các cơ quan làm công tác dự báo và các trang báo điện tử như Tạp chí kinh tế và dự báo :
http://tapchikinhtedubao.mpi.gov.vn ; Bộ kế hoạch và đầu tư : http://www.mpi.gov.vn ;
Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam : http://www.sbv.gov.vn…
3.1.2. Phương pháp phân tích số liệu

20
Đề tài được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng kết hợp với chủ nghĩa duy vật lịch sử và các quan điểm về lạm phát, lãi suất
của các nhà kinh tế hiện đại của nước ngoài và Việt Nam, các quan điểm, đường lối chính
sách của Đảng và Nhà Nước về kiềm chế lạm phát ở Việt Nam để phân tích, lý giải các
chỉ số và đề xuất các giải pháp can thiệp thông qua các phương pháp : Nghiên cứu tài liệu
và sử dụng các phương pháp thống kê khác.
Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi sử dụng chủ yếu là các phương pháp thống kê sau :
1. Phương pháp đồ thị thống kê:
Đồ thị chúng tôi sử dụng là đồ thị đường gấp khúc. Đồ thị đường gấp khúc được
dùng để biểu hiện quá trình phát triển của hiện tượng, biểu hiện tình hình phân phối các
đơn vị tổng thể theo một tiêu thức nào đó, hoặc biểu thị tình hình thực hiện kế hoạch theo
từng thời gian của các chỉ tiêu nghiên cứu.
Trong một đồ thị đường gấp khúc, trục hoành thường được biểu thị thời gian, trục
tung biểu thị mức độ của chỉ tiêu nghiên cứu. Cũng có khi các trục này biểu thị hai chỉ
tiêu có liên hệ với nhau, hoặc lượng biến và các tần số (hay tần suất) tương ứng. Độ phân
chia trên các trục cần được xác định cho thích hợp vì có ảnh hưởng trực tiếp đến độ dốc
của đồ thị. Đồ thị 3.1là đồ thị đường gấp khúc mà chúng tôi đã sử dụng
2. Phương pháp phân tích dãy số biến động theo thời gian.
Căn cứ vào đặc điểm của dãy số biến động theo thời gian ta có thể vạch rõ xu
hướng, tính quy luật phát triển của hiện tượng theo thời gian và từ đó có thể dự đoán khả
năng hiện tượng có thể xảy ra trong tương lai.
3. Phương pháp chỉ số
Chỉ số trong thống kê là chỉ tiêu tương đối biểu hiện quan hệ so sánh giữa các mức
độ của một hiện tượng kinh tế - xã hội. Chỉ số tính được bằng cách so sánh hai mức độ
của hiện tượng ở hai thời gian hoặc không gian khác nhau, nhằm nêu lên sự biến động của
hiện tượng qua thời gian hoặc không gian.
Chỉ số quan trọng nhất sử dụng ở đây là chỉ số CPI biểu thị tỷ lệ lạm phát của Việt
Nam. Đó là một dãy số biến động theo thời gian và được tính theo phương pháp chỉ số
định gốc.

3.2. Đánh giá tổng quan tình hình và ảnh hưởng nhân tố môi trường đến mối quan
hệ giữa lạm phát với lãi suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam
trong giai đoạn gần đây.
3.2.1. Đánh giá tổng quan tình hình.
Lạm phát là chỉ tiêu kinh tế vĩ mô có vị trí quan trọng hàng đầu trong điều hành
hành chính của mỗi quốc gia, nó ảnh hưởng rất lớn đến đời sống con người, đến guồng
máy xã hội, chính trị cũng như nền kinh tế của mỗi nước. Hiểu và nắm rõ được vấn đề
này không phải là điều đơn giản đặc biệt là nền kinh tế Việt Nam đang vận hành theo nền
kinh tế thị trường, có nhiều thay đổi và biến động khôn lường. Giai đoạn vừa qua, đặc biệt
là những năm từ 2000-2008, chúng ta đã được chứng kiến những diễn biến hết sức phức
21
tạp của lạm phát và các biện pháp khắc phục của nước ta để thoát khỏi tình trạng lạm
phát. Đồng thời mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất đang có những biểu hiện cụ thể
trong nền kinh tế. Hai biến số kinh tế này đều chiếm vai trò quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân. Chúng chi phối nhiều đến các hoạt động , các lĩnh vực và các chủ thể kinh tế
khác nhau. Điều này đòi hỏi các nhà kinh tế cần hiểu rõ và vận dụng mối quan hệ này để
thực hiện mục tiêu ổn định vĩ mô nền kinh tế.
3.2.2. Môi trường kinh tế Thế giới.
Thứ nhất: Giá dầu và giá nguyên nhiên vật liệt đầu vào của sản xuất liên tục gia
tăng : Trong 4 năm từ 2003-2006 kinh tế toàn cầu liên tục tăng trưởng cao, đặc biệt là
nhóm các nước mới nổi ở khu vực Châu Á, nhất là Trung Quốc đã đẩy nhu cầu năng
lượng toàn cầu tăng cao đột biến, cùng với những bất ổn và xung đột chính trị quân sự tại
khu vực Trung Đông là các nguyên nhân đẩy giá dầu lên cao chưa từng có trong lịch sử
110 USD/ thùng trong tháng 3/2008, đồng thời giá các nguyên vật liệu đầu vào khác như
sắt thép, phân bón, xi măng cũng liên tục gia tăng. Như vậy giá dầu đã tăng 72%, sắt thép
tăng 114%, phân bón tăng 59,6%, khí hoá lỏng tăng 95% . Điều này làm ảnh hưởng trực
tiếp đến chi phí sản xuất đầu vào của doanh nghiệp. Đây chính là hiện tượng lạm phát do
chi phí đẩy.
Thứ hai : Giá lương thực, thực phẩm liên tục gia tăng : xuất phát từ quá trình biến
đổi khí hậu toàn cầu, thiên tai dịch bệnh diễn ra liên tiếp cùng với những năm tăng trưởng
kinh tế mạnh trên thế giới – là những năm quá trình công nghiệp hoá được đẩy mạnh
khiến diện tích đất sử dụng cho trồng trọt, chăn nuôi bị thu hẹp. Tất cả những điều trên
làm sản lượng lương thực-thực phẩm ngày càng giảm mạnh.
Thứ ba : Cuộc đại khủng hoảng tài chính cuối năm 2008 diễn ra rộng khắp trên
phạm vi toàn thế giới đã đưa đến một hiện tượng là một khối lượng tiền lớn được đưa ra
nền kinh tế toàn cầu. Trước việc giá dầu và lương thực-thực phẩm liên tục tăng đã tạo nên
cú sốc cung rất lớn đẩy lạm phát toàn cầu tăng cao, tình hình này đã buộc các NHTW
phải tăng các mức lãi suất chủ chốt để kiềm chế lạm phát, cụ thể : Nhật Bản tăng 1 lần từ
0,25%- 0,5%/năm; khu vực đồng Euro tăng 2 lần từ 3,5% - 3,75% - 4,0%/năm; Anh tăng
3 lần từ 5%- 5,5%/năm; Trung Quốc tăng 6 lần từ 6,12- 7,47%/năm.
Việc các nước thực hiện thắt chặt tiền tệ thông qua tăng lãi suất chủ đạo cùng với việc
giá dầu, giá lương thực- thực phẩm tiếp tục tăng cao chính là nguyên nhân cơ bản đã đẩy
nền kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái vào những tháng đầu năm 2008, ma biểu hiện là
cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn của Mỹ bắt đầu từ tháng 7/2007. Trước bối cảnh
lạm phát gia tăng và kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái, các NHTW không còn cách nào
khác là phải bơm một lượng tiền khổng lồ để cứu vãn nền kinh tế, trong đó tính riêng Mỹ
từ tháng 8/2007 đến nay đã phải đưa ra nền kinh tế trên 2.300 tỷ USD, trong đó có 800 tỷ
USD tiền mặt để cứu vãn hệ thống ngân hàng, NHTW Châu Âu, Nhật Bản, Anh cũng
phải đưa một lượng tiền lớn để cứư vãn nền kinh tế cũng như hệ thống ngân hàng; cùng
với việc một số NHTW phải thực hiện cắt giảm lãi suất từ tháng 8/2007 trở laị đây như
Mỹ, Anh, Canada. Việc cứu vãn nền kinh tế thế giới rơi vào suy thoái bằng biện pháp đưa
hàng nghìn tỷ USD ra nền kinh tế lại càng đẩy lạm phát toàn cầu tiếp tục tăng cao.

22
3.2.3. Ảnh hưởng từ nội tại nền kinh tế Việt Nam.
Thứ Nhất: Chi phí sản xuất tăng cao. Từ đầu năm 2007 đến hết Quý I/2008 giá
xăng dầu đã phải điều chỉnh tăng 4 lần, tính chung giá xăng dầu đã tăng tới 38%, giá thép
tăng 91%; giá điện tăng 7,6%, giá than tăng 30%, giá xi măng tăng 15%, giá phân bón
tăng 58%.
Thứ hai: Giá lương thực- thực phẩm tăng cao : biến đổi khí hậu toàn cầu trên thế
giới không những tác động đến nhiều quốc gia mà Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nặng nề.
Chỉ trong tháng 10/2007, miền Trung phải hứng chịu 5 cơn bão liên tiếp, trong khi đó
dịch bệnh trong chăn nuôi, trồng trọt như cúm gia cầm, lợn tai xanh, lở mồm long móng ở
lợn, vàng lùn ở lúa cùng với rét đậm, rét hại khiến cho nguồn cung lương thực bị sụt
giảm. Điều này làm giá thực phẩm trong nước tăng cao ở mức 18,92% năm 2007 và
14,45% trong quý I/2008, cao gấp 5 lần so với mức tăng 4,18% của quý I/2007, trong khi
đó nhóm này có quyền số 42,85%, lớn nhất trong rổ hàng hoá CPI, có thể nói đây là nhân
tố ảnh hưởng chủ yếu đến tốc độ gia tăng của lạm phát.
Thứ ba : Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ liên tục được mở rộng từ 2001-
2006 nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong vòng mấy năm gần đây, kinh tế Việt Nam
liên tục tăng trưởng ở mức rất cao trên 8%, và mục tiêu của giai đoạn này đối với Chính
phủ Việt Nam là ưu tiên tăng trưởng kinh tế. Với mục tiêu này đã khuyến khích cho
“chính sách tài chính , tiền tệ nới lỏng đã thực hiện trong nhiều năm liền nhưng quản lý
chưa chặt chẽ “ nhằm mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, và đây cũng là ảnh hưởng
chủ yếu khiến lái suất của NHNN liên tục hạ. Tín dụng ngân hàng cho nền kinh tế tăng
mạnh trong một thời gian dài nhằm phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế là một nguyên
nhân quan trọng làm gia tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế. Các ngân
hàng cũ mở rộng tín dụng bằng việc nới lỏng điều kiện cho vay, cạnh tranh nhau bằng
giảm lãi suất cho vay, tăng lãi suất huy động để tìm kiếm nguồn vốn cho vay, chuyển đổi
mô hình, liên doanh liên kết với các doanh nghiệp, tập đoàn để tăng vốn điều lệ, mở rộng
mạng lưới..càng làm cho tín dụng của ngân hàng tăng cao trong suốt năm 2007 và 2008.
Điều này đã gián tiếp ảnh hưởng gây sức ép rất lơn làm gia tăng lạm phát trong thời gian
qua.
Thứ tư : Luồng vốn nước ngoài vào Việt Nam gia tăng mạnh: bắt đầu từ cuối năm
2006 khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), cùng với những cải cách về cơ chế chính sách và môi trường đầu tư đã tạo điều
kiện cho các luồng vốn nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng mạnh. Năm 2007 luồng vốn
FDI tăng 20.3 tỷ USD vốn đăng ký, cao hơn nhiều so với mức 10,2 tỷ USD của năm
2006, đặc biệt là luồng vốn đầu tư gián tiếp gia tăng mạnh mẽ trên khoảng 6 tỷ, gấp 5 lần
con số của năm 2006 mà chủ yếu đổ vào thị trường chứng khoán, trái phiếu. Đứng trước
bối cảnh này, NHNN đã phai cung ứng một lượng tiền lớn VND để mua ngoạ tệ vào
nhằm mục tiêu ổn định và phá giá nhẹ tỷ giá để hỗ trợ xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và điều này làm cho tổng phương tiện thanh toán tăng cao, lãi suất tăng và lạm
phát gia tăng.

23
3.3.Kết quả trắc nghiệm của mô hình nghiên cứu
3.3.1.Kết quả trắc nghiệm của mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất.
Bước sang giai đoạn 2001-2009, chính sách lãi suất đã từng bước được đổi mới
phù hợp với cơ chế thị trường. Bước đầu lãi suất USD đã được tự do hoá (6/2001), sau đó
đến lãi suất đồng Việt Nam được tự do hoá (6/2002). Mặc dù chính sách lãi suất được coi
là tự do hoá nhưng vẫn tồn tại lãi suất cơ bản do NHNN công bố. Lãi suất cơ bản được áp
dụng từ tháng 8 năm 2000 và được xác định hàng tháng trên cơ sở tham khảo lãi suất cho
vay của 15 NHTM áp dụng với khách hàng tốt nhất. Tuy nhiên, nhiều khi lãi suất này có
thể được quyết định bởi 4 NHTM nhà nước vì thị phần tín dụng của 4 ngân hàng này
chiếm trên 70% thị trường trong nước. Để dễ tính toán và so sánh chúng tôi chọn mức lãi
suất tương đối trung bình, tức là lấy mức lãi suất tiền gửi ba tháng.
Năm 2001, lãi suất thực dương quá cao nên đã đưa đến lạm phát thấp (lãi suất thực
dương lớn gấp 5,75 lần tỷ lệ lạm phát). Năm 2002 tình hình lãi suất thực dương có giảm
xuống, chỉ lớn bằng 0,5 lần tỷ lệ lạm phát nên lạm phát đã nhích lên ở mức hợp lý (4,0%).
Năm 2007, lãi suất thực dương là âm nên tỷ lệ lạm phát tăng cao.
Điều chú ý là năm 2004, khi tình hình kinh tế có biến động không tốt, lạm phát có
dấu hiệu tăng lên nhưng lãi suất lại không tăng lên tương ứng do đó lãi suất thực bị âm và
tỷ lệ giữa lãi suất thực âm này so với tỷ lệ lạm phát là 34,7% thể hiện giá của đồng tiền
giảm xuống đáng kể. Đây chính là một trong những căn nguyên để cho lạm phát tăng
mạnh. Vì người có tiền sẽ thiệt thòi khi gửi ngân hàng do đồng tiền của họ mất giá, do đó
họ cố gắng giữ tiền trong lưu thông nên vòng xoáy lạm phát lãi suất thực âm diễn ra. Hơn
nữa năm 2007, lạm phát tăng cao nên lãi suất thực dương xuống thấp.
Trong những tháng đầu năm 2008, tình hình lãi suất có những biến động, đầu năm
lãi suất lên cao. Đặc biệt là từ đầu tháng 2/2008 lãi suất huy động trên thị trường đã biến
động mạnh do các NHTM liên tục tăng lãi suất huy động VNĐ lên mức 13-14%/năm và
đã đẩy lãi suất cho vay lên đến mức trên 1,5%/tháng vào tháng 3 năm 2008, có nơi còn
cho vay với lãi suất xấp xỉ 20%/năm. Đây là một sự chuyển động theo tín hiệu lãi suất
thực dương. Tuy nhiên, bên cạnh người gửi tiền phấn khởi vì lãi suất tiền gửi lên là người
đi vay phải lo lắng cho việc không thể nào chịu đựng nổi lãi suất đi vay 15-17%/năm. Các
NHTM thì vẫn sử dụng chính sách huy động lãi suất cao và cho vay lãi suất cũng cao
theo, tức là vẫn có lãi lớn trong trước mắt. Thực tế đã có một số NHTM cổ phần với nhận
thức như vậy đã cố tình đẩy lãi suất huy động lên làm cho thị trường tiền tệ có nhiều biến
động mạnh.

24
Hình 3.1. Đồ thị biểu thị mối quan hệ giữa tỷ lệ lạm phát và lãi suất
Lãi suất thực dương cao có tác dụng kiềm chế lạm phát nhưng cao quá mức thì có
thể là một tai hoạ cho nền kinh tế trong các năm tiếp theo. Việc cho vay với lãi suất quá
cao 18-20% của một số NHTM cổ phần là một sự bảo đảm có lợi nhuận lớn cho các ngân
hàng này vì chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động là quá lớn 6-7%, trước
đây ta chỉ cho mức chênh lệch này ở mức không quá 0,35%. Lãi suất cho vay lên cao đã
tạo ra gánh nặng cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh vì không có mấy hoạt động
có thể có lãi trên 20%, tức là đủ trả lãi cho NHTM cổ phần và một phần để cho doanh
nghiệp.
Tuy vậy, tại sao các NHTM cổ phần vẫn thiếu vốn cho vay và NHNN vẫn phải cho
vay tái cấp vốn với lãi suất 0,9%/tháng? Chúng tôi cho rằng điều này NHNN phải nghiên
cứu thật kỹ, kiểm tra thật chặt chẽ vì khả năng vay vốn đầu cơ nhiều hơn là cho sản xuất
kinh doanh, hoặc những dự án đã trót triển khai thì bắt buộc phải vay, lãi suất cao bao
nhiêu cũng chịu nhưng không lường và không tính đến khả năng không trả được nợ. Bài
học hơn 25 ngàn tỷ đồng nợ xấu không thu được phải xử lý của các NHTMNN trước đây
vẫn còn trước mắt.
Việc NHNN tái cấp vốn với lãi suất 0,9%/tháng cho các NHTM cổ phần thiếu vốn
cho vay thực tế là làm cho tiền trong lưu thông lại tăng lên và vòng tiếp theo là lạm phát

25
tăng cao. Hành động này cũng khuyến khích các NHTM cổ phần cứ cho vay ra với lãi
suất cao mà không có điểm dừng, hậu quả lạm phát cao và mất ổn định hệ thống ngân
hàng trong thời gian tới vì đến tháng 4/2008 dư nợ tín dụng cho nền kinh tế vẫn tăng ở
mức 60,2% so với cùng kỳ năm 2007 .
Phần trên chúng tôi đã đề cập sâu đến mối tương quan trực tiếp giữa lạm phát với
lãi suất thông qua kết quả trắc nghiệm trực tiếp trên thị trường tài chính- tín dụng của Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay. Phần tiếp theo, chúng tôi sẽ chỉ ra rằng giữa lãi suất và lạm
phát còn một mối tương quan gián tiếp khác. Đó chính là sự tác động của lãi suất đến lạm
phát thông qua cơ chế lan truyền tiền tệ. Quan sát biểu đồ dưới chúng ta sẽ thấy rõ được
mối tương quan này.

26
rLM1(M1/P1)
IS
LM1 02 (M2/P2) Y Y
1 2
rr Y
2

27
P1 Y
Y
AD 2 2
1
Y
P
12

Hình 3. 2. Sự dịch chuyển đường LM


Ở mức lãi suất r 1, thì đường LM 1 cắt IS tại điểm cân bằng thứ nhất. Tại đó xác
định được mức thu nhập Y1 và tương ứng với đường tổng cầu AD1 với mức giá chung
của thị trường là P1. Giả đinh rằng đây được coi là kỳ gốc do đó tỷ lệ lạm phát = 0.
Khi chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng thông qua việc cắt giảm lãi
suất để kích thích đầu tư thì đường LM 1 sẽ dịch chuyển đến vị trí mới là đường LM 2 cắt
đương IS tại điểm cân bằng thứ 2 với mức lãi suất r 2 và thu nhập Y 2. Tương ứng với sự
dịch chuyển của đường LM, đường tổng cầu từ AD1 sẽ dịch chuyển đến AD 2 kéo theo
mức giá cân bằng mới là P2. Vì P2 > P1 nên có thể kết luận đây là sự tăng lên của mức
giá chung và nền kinh tế đã rơi vào tình trạng lạm phát. Như vậy đi cùng với sự cắt giảm
lãi suất trong việc thực hiện chính sách tiền tệ của Chính phủ vô hình chung đã gây nên
sức ép tăng giá và gây ra lạm phát.
Ngược lại chính phủ hoàn toàn có thể đưa ra biện pháp kiềm chế lạm phát thông
qua cách tương tự. Bằng cách sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt, tăng lãi suất cho vay,
sẽ làm được LM 2 dịch chuyển về vị trí LM 1. kéo theo là sự dịch chuyển AD2 về AD 1
qua đó làm giảm mức giá cân bằng của nền kinh tế và giảm lạm phát.
3.3.2. Kết quả trắc nghiệm về các biện pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam:
3.3.2.1. Thực trạng và nguyên nhân gây ra lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay:
* Tình hình lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay được cho dưới bảng số liệu:
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008

28
Tháng trước = 100%
100, 101, 101, 102.
Tháng 1 100,4 100,3 101,1 9 1 101,1 101,2 1 4
102, 103, 102, 103.
Tháng 2 101,6 100,4 102,2 2 0 102,5 102,1 2 6
100, 103.
Tháng 3 98,9 99,3 99,2 99,4 8 100,1 99,5 99,8 0
100, 100, 100, 102.
Tháng 4 99,3 99,5 100,0 0 5 100,6 100,2 5 2
100, 100, 103.
Tháng 5 99,4 99,8 100,3 99,9 9 100,5 100,6 8 9
100, 100, 102.
Tháng 6 99,5 100,0 100,1 99,7 8 100,4 100,4 9 1
100, 100, 101.
Tháng 7 99,4 99,8 99,9 99,7 5 100,4 100,4 9 1
100, 100, 101.
Tháng 8 100,1 100,0 100,1 99,9 6 100,4 100,4 6 6
100, 100, 100, 100.
Tháng 9 99,8 100,5 100,2 1 3 100,8 100,3 5 2
100, 100,
Tháng 10 100,1 100,0 100,3 99,8 0 100,4 100,2 7 99.8
100, 100, 101,
Tháng 11 100,9 100,2 100,3 6 2 100,4 100,6 2 99.2
100, 100, 102,
Tháng 12 100,1 101,0 100,3 8 6 100,8 100,5 9 99.3
100, 100, 101, 101,
Bình quân tháng 100,0 100,1 100,3 2 8 100,7 100,5 0 5
Tháng 12 năm báo cáo so 103, 109, 112, 119,
với tháng 12 năm trước 99,4 100,8 104,0 0 5 108,4 106,6 6 9
103, 107, 108, 123,
Năm trước =100 98,4 103,9 1 8 108,3 107,5 3 0
107, 115, 146, 179,
Năm 2000 =100 100,0 104,3 6 9 125,5 134,9 3 6

Bảng 1. Chỉ số CPI trong những năm gần đây (nguồn : TCTK)

29
*Nguyên nhân gây ra lạm phát
Sự tăng lên liên tục của tổng cung và tổng cầu trong dài hạn tạo nên tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao, đồng thời đã kéo theo sự tăng lên không ngừng trong mức giá. Mặt
khác, do năng lực sản xuất (tổng cung) tăng chậm hơn so với tốc độ tăng của tổng cầu nên
đã đẩy mức giá tăng cao hơn đáng kể so với tốc độ tăng trưởng kinh tế .
Có thể thể hiện xu hướng này bằng đồ thị dưới đây :

123Năm 1996
2007
P
G
E
A
S
D
P

Hình 3.3 . Đồ thị mô tả sự dịch chuyển tổng cung và tổng cầu trong dài hạn

Trong dài hạn, đường tổng cung dịch chuyển sang phải khi năng lực sản xuất tăng
lên nhờ các yếu tố nguồn lực đầu vào tăng. Ở Việt Nam, các nguồn lực này tăng rất
nhanh, đặc biệt là nguồn vốn (năm 1996 mới chỉ đạt 76,450 nghìn tỷ đồng, đến năm 2006,
đã tăng lên đến 398,900 nghìn tỷ đồng (tăng hơn 5 lần) và lao động (năm 1996, số lao
động thường xuyên có việc làm là 33,978 triệu người, đến năm 2006, đạt 42,542 triệu
người), những năm gần đây, mỗi năm tăng thêm 1,5 triệu việc làm. Đường tổng cầu cũng
dịch chuyển sang phải qua các năm vì: tiêu dùng hộ gia đình (C) tăng (năm 1996 là
202,509 nghìn tỷ đồng; năm 2006, đạt 679,706 nghìn tỷ đồng; năm 2007, đạt 726,1
nghìn tỉ đồng, tăng hơn 3 lần); đầu tư (I) tăng nhanh (như đã đề cập ở trên), chi tiêu chính
phủ (G) tăng với tốc độ rất cao (từ 22,722 nghìn tỷ đồng năm 1996 lên 319,110 nghìn tỷ
đồng năm 2006 và 368.340 nghìn tỉ đồng vào năm 2007, tăng hơn 13 lần) (Tác giả tính
toán dựa vào số liệu thống kê), xuất khẩu ròng (NX) mức độ thâm hụt trong một số năm
gần đây có tăng nhưng chưa tác động đáng kể đến việc làm giảm tổng cầu của cả nền kinh
tế. Như vậy, xét theo quy luật của nền kinh tế thị trường thì lạm phát của những năm gần
đây tăng cao có nguyên nhân tất yếu là do tích luỹ mức giá từ quá trình tăng trưởng liên
tục trong nhiều năm qua.

30
Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây là, do năng lực sản xuất của nước ta tăng chậm hơn
tốc độ tăng của tổng cầu (hay nói cách khác là cung thay đổi không kịp so với cầu) đã đẩy
mức giá tăng nhanh hơn đáng kể so với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Điều này được thể hiện trên biểu đồ đã nêu: Nếu năng lực sản xuất của nước ta
tăng nhanh hơn mức tăng thực tế trong những năm qua thì đường tổng cung AS1 (tổng
cung thực tế của năm 1996) chuyển dịch mạnh hơn sang bên phải tới vị trí AS3 (giả sử đó
là năm 2007) thay vì vị trí AS2 (thực tế của năm 2007). Tại điểm cân bằng E3 (giao điểm
AD2 cắt AS3) với mức giá P3 < P2 mức giá thực tế của nước ta năm 2007.
Điều đặt ra là, nhân tố nào quyết định năng lực sản xuất của nền kinh tế? Các mô
hình định lượng đều đã đưa ra kết luận, trong dài hạn, năng lực sản xuất do các yếu tố
nguồn lực đầu vào là vốn, lao động, tài nguyên thiên nhiên và công nghệ quy định, trong
đó công nghệ đóng vai trò quyết định nhất.
Vận dụng lý thuyết trên rất phù hợp cho việc lý giải nền kinh tế nước ta trong thời
gian qua: do công nghệ sản xuất của Việt Nam xuất phát từ trình độ thấp và rất chậm
được cải thiện, hầu hết công nghệ sản xuất của các doanh nghiệp hiện nay ở mức trung
bình và lạc hậu so với khu vực và thế giới (chỉ có khoảng 20% đạt trình độ tiên tiến) nên
năng lực sản xuất của chúng ta còn rất hạn chế, đặc biệt là các ngành sản xuất cung cấp
sản phẩm trung gian cho nền kinh tế. Điều này đã dẫn đến tổng cung thiếu hụt đáng kể so
với tổng cầu và đã đẩy mức giá lên cao hơn hơn đáng kể so với tốc độ tăng của nền kinh
tế.
Như vậy, lạm phát của nước ta trong thời gian gần đây tăng đột biến không chỉ là
hệ quả tích luỹ của quá tăng trưởng dài hạn mà còn là kết quả của năng lực sản xuất yếu
kém do tích tụ của trình độ công nghệ thấp và chậm được cải thiện trong nhiều năm qua.
Một nguyên nhân quan trọng nữa góp phần tăng tỷ lệ lạm phát, đó là dòng vốn
FDI, FII ồ ạt chảy vào Việt Nam trong thời gian qua (trong 7 tháng đầu năm 2007 tương
ứng là khoảng 7,5 tỷ USD, và 6,2 tỷ USD), khiến cho Ngân hàng nhà nước phải đóng vai
trò người mua ngoại tệ cuối cùng và đưa thêm tiền đồng vào lưu thông một lượng tương
ứng, khiến cho cung tiền tăng, mặt khác đối với nền kinh tế mà nền kiểm soát điều hành
còn yếu, thì lượng vốn ồ ạt sẽ tăng áp lực tăng cung tiền đối với Ngân hàng nhà nước, nơi
có khả năng thanh khoản lớn nhất, vì thế đây cũng chính là nguyên nhân gia tăng lạm
phát.

3.2.2.2. Các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay.
Trong phiên họp thường kỳ cuối tháng 3 năm 2008, qua thảo luận nghiêm túc và
cân nhắc thận trọng trên các mặt, Chính phủ đã thống nhất xác định nhiệm vụ trọng tâm
trong tình hình hiện nay là: phấn đấu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm
an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững. Trong đó, kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên
hàng đầu. Bởi lẽ, nếu không kiềm chế được lạm phát, chẳng những sẽ ảnh hưởng đến phát
triển sản xuất và đời sống của nhân dân, đến ổn định kinh tế vĩ mô mà còn ảnh hưởng đến

31
tăng trưởng kinh tế trong trung và dài hạn, việc làm cũng giảm sút, môi trường đầu tư
kinh doanh cũng sẽ trở nên xấu hơn.
Nói kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu, có nghĩa là không chạy theo
chỉ tiêu tăng trưởng đã đặt ra từ cuối năm 2007 mà phải tập trung sức để kiềm chế bằng
được lạm phát, phấn đấu bảo đảm tốc độ tăng giá giảm dần. Theo tinh thần đó, Chính phủ
dự kiến sẽ trình Quốc hội xem xét giảm chỉ tiêu tăng trưởng và điều chỉnh lại chỉ tiêu lạm
phát cho phù họp với tình hình thực tế. Sự điều chỉnh này là cần thiết nhằm hướng các
giải pháp vào mục tiêu ưu tiên hàng đầu, bảo đảm tiền đề cho tăng trưởng cao và bền
vững những năm tiếp theo. Chính phủ đã và đang tập trung chỉ đạo điều hành để thực hiện
các nhiệm vụ trọng tâm và mục tiêu ưu tiên hàng đầu này.

Bảy giải pháp chủ yếu : Để đạt được những nhiệm vụ và mục tiêu nêu trên, Chính phủ
đã thống nhất chỉ đạo thực hiện quyết liệt và đồng bộ các giải pháp chủ yếu sau đây:

Một là, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt:


Cho dù do nhiều nguyên nhân, nhưng lạm phát luôn có nguyên nhân tiền tệ. Mức
cung tiền trong lưu thông và dư nợ tín dụng tăng liên tục từ năm 2004 qua các năm và
tăng cao trong năm 2007 là nguyên nhân quan trọng gây lạm phát. Nhận thức được tình
hình đó, Chính phủ chủ trương kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư
nợ tín dụng ngay từ đầu năm. Ngân hàng Nhà nước, thông qua việc chủ động, linh hoạt sử
dụng hợp lý các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường để thực hiện bằng
được yêu cầu này.
Đồ thị dưới đã minh hoạ cho trường hợp này.

32
IY
i0Y
E
LMS1 2 1 Y1
LM
2 2

Hình 3.4. CSTT thu hẹp

33
Thông qua việc tăng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc của NHTM và tăng lãi suất cho vay sẽ
làm cho đầu tư giảm qua đó làm giảm tổng cầu ( từ Y2 ->Y1 ) và làm giảm tỷ lệ lạm phát.
Điều cần nhấn mạnh là trong khi kiên quyết thắt chặt tiền tệ, cần bảo đảm tính thanh
khoản của nền kinh tế và hoạt động của các ngân hàng, tổ chức tín dụng, tạo điều kiện cho
sản xuất hàng hoá và xuất khẩu phát triển.

Hai là, cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử
dụng ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng
giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách :
Đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và đầu tư của doanh nghiệp nhà nước hiện
chiếm khoảng 45% tổng đầu tư xã hội. Cắt giảm nguồn đầu tư này sẽ làm giảm áp lực về
cầu, giảm nhập siêu, góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Chính phủ sẽ quy định
cụ thể tỷ lệ vốn đầu tư và chi phí hành chính phải cắt giảm và yêu cầu các bộ, địa phương
xác định các công trình kém hiệu quả, các công trình chưa thực sự cần thiết để có sự điều
chỉnh thích hợp. Điều này sẽ được thực hiện một cách kiên quyết ngay trong việc phân bổ
lại và cân đối nguồn vốn.
Cũng trên tinh thần đó, Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Chủ tịch UBND các
tỉnh, thành phố với tư cách là đại diện chủ sở hữu nhà nước, rà soát chặt chẽ các hạng
mục đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, kiên quyết cắt bỏ các công trình đầu tư kém hiệu
quả. Đồng thời, tạo điều kiện và tập trung vốn cho những công trình sắp hoàn thành,
những công trình đầu tư sản xuất hàng hoá thuộc mọi thành phần kinh tế đẩy nhanh tiến
độ, sớm đưa vào sản xuất.
Như vậy bằng cách giảm đi chi tiêu của mình (giảm G ), chính phủ đã tác động
trực tiếp đến tổng cầu. Làm tổng cầu giảm kéo theo lạm phát giảm. Đồ thị dưới minh hoạ
cho trường hợp này.

34
LM
0Y
IS
E 221
Y1 Y
i2121

Hình 3.5. CSTT thắt chặt


Chính phủ sử dụng chính sách tài khoá thu hẹp làm cho đường IS dịch chuyển từ
IS 1 đến IS 2. Điểm cân bằng mới của nền kinh tế là E2 thay cho E1 với sự sụt giảm của
thu nhập Y từ Y 1 ->Y2. Sự sụt giảm của tổng cầu này làm cho mức giá cân bằng của nền
kinh tế giảm xuống. qua đó có tác dụng kiềm chế lạm phát.

Ba là, tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc phục
nhanh hậu quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực, thực phẩm :
Hiện nay, tiềm năng tăng trưởng của nước ta còn rất lớn, nhất là khi Việt Nam đã
là thành viên đầy đủ của Tổ chức Thương mại thế giới, đầu tư nước ngoài và đầu tư tư
nhân tăng mạnh, thị trường xuất khẩu được mở rộng, vì vậy phát triển sản xuất là giải
pháp gốc, tạo hiệu quả nhiều mặt, vừa tăng nguồn cung cho thị trường trong nước và xuất
khẩu, góp phần kiềm chế lạm phát, giảm nhập siêu, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lại
không gây ra phản ứng phụ.

Để thực hiện yêu cầu này, Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho các bộ trưởng, chủ tịch
UBND các tỉnh và thành phố chỉ đạo quyết liệt, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng
mắc về vốn, về thị trường, về thủ tục hành chính, thúc đẩy sản xuất phát triển.

35
Bốn là, bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm
nhập siêu:

Cân đối cung cầu về hàng hoá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống
nhân dân là tiền đề quyết định để không gây ra đột biến về giá, ngăn chặn đầu cơ.
Thủ tướng chính phủ, các bộ trương đã và sẽ tiếp tục làm việc với các hiệp hội
ngành hàng, các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng thiết yếu như: lương thực, thực
phẩm, thuốc chữa bệnh, xăng dầu, sắt thép, vật liệu xây dựng, phân bón… giao nhiệm vụ
cho các đơn vị này phải đảm bảo nguồn hàng, đồng thời có trách nhiệm cùng chính phủ
kiểm giữ giá cả.

Trong khi kiên trì chủ trương thực hiện cơ chế giá thị trường, xóa bỏ bao cấp qua
giá, nhưng trong tình hình hiện nay, mặc dầu giá thế giới tăng cao, Chính phủ đã quyết
định: từ nay cho đến hết tháng 6/2009, chưa tăng giá điện, giá than, giá xăng dầu; giữ ổn
định gía xi măng, phân bón, nước sạch, thuốc bệnh, vé máy bay, tàu hỏa; giao bộ tài chính
rà soát để cắt, giảm các loại phí thu từ nông dân…
Để bảo đảm nguồn cung trên thị trường nội địa, giữ vững an ninh lương thực và
kiểm chế sự tăng giá quá mức của nhóm hàng này, chính phủ đã quy định lượng xuất
khẩu gạo năm nay ở mức 4 triệu tấn và từ nay đến hết quý 3 không quá 3,2 triệu tấn.
chính phủ cũng đã giao bộ tài chính đề xuất phương án nâng thuế suất khẩu than, dầu thô
và nghiên cứu khả năng áp dụng thuế xuất khẩu gạo.
Trong điều kiện đồng Đô la Mỹ giảm giá so với đồng tiền các nước là thị trường
xuất khẩu lớn của nước ta, việc neo giữ quá lâu tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền Việt Nam
và đồng Đô la Mỹ không phản ánh đúng quan hệ trên thị trường ngoại tệ.Vì vậy, chính
phủ chủ trương áp dụng tỷ giá linh hoạt với biên độ thích hợp,phản ánh quan hệ cung cầu
trên thị trường, giup cho việc kiềm chế lạm phát nhưng không ảnh hưởng lớn đến xuất
khẩu phu, đảm bảo việc mua bán, chuyển đổi ngoại tệ diễn ra thuận lợi.
Cán cân thương mại là một chỉ tiêu vĩ mô rất quan trọng. Nhập siêu tăng trong năm
2007 và tăng cao hơn trong quý một năm nay, đã đe dọa đến cân đối vĩ mô, đòi hỏi phải
áp dụng các biện pháp kiên quyết để hạn chế tình trạng này trên cơ sở đẩy mạnh xuất
khẩu, kiểm soát nhập khẩu.
Để làm việc này, Chính phủ đang chỉ đạo quyết liệt thực hiện nhiều giải pháp:
Ngân hàng Nhà nước bảo đảm đủ vốn và mua hết ngoại tệ cho các doanh nghiệp làm hàng
xuất khẩu, xử lý ngay các ách tắc về tín dụng xuất khẩu cho từng trường hợp cụ thể; tăng
cường hỗ trợ công tác xúc tiến thương mại đối với hàng xuất khẩu; cải cách mạnh thủ tục
36
hành chính liên quan đến hoạt động xuất khẩu để giảm chi phí cho doanh nghiệp, góp
phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam đi đôi với việc áp dụng
các hàng rào kỹ thuật và các biện pháp khác phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta
để giảm nhập siêu, kể cả việc tăng thuế nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu.

Năm là, triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng:
Hiện nay tình trạng lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng diễn ra khá phổ biến ở các
cơ quan, đơn vị. Tiềm năng tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng là rất lớn. Vì vậy, Chính
phủ yêu cầu các cơ quan nhà nước cắt giảm 10% chi tiêu hành chính, các doanh nghiệp
phải rà soát tất cả các khoản chi nhằm hạ giá thành và chi phí lưu thông. Chính phủ kêu
gọi mọi người, mọi nhà triệt để tiết kiệm tiêu dùng, nhất là nhiên liệu, năng lượng. Đây là
giải pháp vừa có tác dụng giảm sức ép về cầu, giảm nhập siêu, vừa góp phần nâng cao
hiệu quả của cả nền sản xuất xã hội.

Sáu là, tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát việc chấp hành
pháp luật nhà nước về giá:
Kiên quyết không để xảy ra tình trạng lạm dụng các biến động trên thị trường để
đầu cơ, nâng giá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và tiêu dùng như: xăng dầu,
sắt thép, xi măng, thuốc chữa bệnh, lương thực, thực phẩm…; ngăn chặn tình trạng buôn
lậu qua biên giới, đặc biệt là buôn lậu xăng dầu, khoáng sản.
Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải thường xuyên kiểm tra giá
bán tại các mạng lưới bán lẻ và các đại lý bán lẻ của doanh nghiệp mình. Chính phủ đã
chỉ đạo các tổng công ty nhà nước phải gương mẫu đi đầu trong việc thực hiện yêu cầu
này và chịu trách nhiệm trước chính phủ về hoạt động của hệ thống bán lẻ và đại lý bán
lẻ của doanh nghiệp. Chính hủ cũng yêu cầu các hiệp hội ngành hàng tham gia tích cực,
ủng hộ các chủ trương và giải pháp bình ổn giá cả.

Bảy là, mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội:
Trước tình hình giá cả tăng cao ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, nhất là vùng
nghèo, hộ nghèo, vùng bị thiên tai, người lao động có thu nhập thấp, chính phủ đã chủ
trương mở rộng các chính sách về an sinh xã hội. Chính phủ quyết định tăng 20% mức
lương tối thiểu cho những người lao động thuộc khối cơ quan nhà nước, lực lượng vũ
trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội từ ngày 1 tháng 1 năm 2008. Chính phủ
cũng quy định điều chỉnh mức lương tối thiểu theo hướng tăng lên đối với lao động Việt
Nam làm việc cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cơ quan tổ chức nước ngoài,
tổ chức quốc tế và cá nhân người nước ngoài tại Việt Nam, lao động làm việc ở công ty,
doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức khác

37
của Việt Nam có thuê mướn lao động. Riêng với người lao động đã qua học nghề ( kể cả
doanh nghiệp tự dạy nghề), mức lương tối thiểu quy định cao hơn ít nhất 7% so với mức
lương tối thiểu vùng. Ngoài ra khoàng 1,8 triệu người về hưu và người hưởng trợ cấp bảo
hiểm xã hội đã được tăng lương 20%, hơn 1,5 triệu người có công đã được điều chỉnh trợ
cấp lên 20% so với mức chuẩn hiện hành.

3.4. Kết quả tổng hợp đánh giá của các chuyên gia về mối quan hệ giữa lạm phát với
lãi suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3.4.1. Ý kiến chuyên gia về mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất.
Tựu chung lại các nhà nghiên cứu và các chuyên gia kinh tế đều khẳng định có một
mối tương quan chặt chẽ giữa lạm phát và lãi suất. Nhưng mối quan hệ đó dừng lại ở mức
độ nào thì còn tuỳ thuộc vào từng ý kiến chuyên gia. Dưới đây là một số luồng tư tưởng
chủ đạo.
Thứ nhất: Nhấn mạnh lãi suất là một công cụ để đối phó với lạm phát.
Lãi suất là phí tổn, là nghĩa vụ tài chính mà người vay phải thực hiện với người cho vay
trong các quan hệ tín dụng, đồng thời cũng là một trong các biểu hiện và thước đo giá trị
của 1 đồng tiền quốc gia. Lãi suất nội tệ tùy thuộc vào chính sách tín dụng - đầu tư của
Chính phủ, vào lượng cung - cầu ngoại tệ, vào tỷ giá chính thức, cũng như vào quy mô
mở rộng thị trường vàng, bạc, đá quý trong nước. Về nguyên tắc, sự lên xuống mạnh của
lãi suất là một tín hiệu và biểu hiện của một cuộc chấn động kinh tế, và khi đó hiệu quả
của chính sách lãi suất sẽ bị suy giảm rất nhiều trong việc thực thi mục tiêu của chính
sách tiền tệ.”
Thứ hai : Đề cao vai trò của chính sách lãi suất thực dương
Như chúng ta đã biết giá cả của hàng hoá được xác định bằng cung cầu thị trường...Khi
lãi suất tăng lên thì đồng nghĩa với việc đồng tiền được coi trọng hơn hay tổng cung tiền
tệ thấp hơn tổng cầu tiền tệ. Khi lãi suất thấp thì khuyến khích các nhà đầu tư dùng nhiều
vốn cho đầu tư phát triển, nhưng khi nhu cầu đầu tư tăng lên sẽ kéo theo tăng lãi suất tiền
tệ vì lúc này với một lượng cung tiền tệ nhất định mà tổng cầu sử dụng tiền tệ tăng lên
đưa đến tiền tệ khan hiếm hay tổng cung tiền tệ bị thấp đi tương đối..Khi lãi suất thấp thì
nhu cầu sử dụng đồng tiền tăng lên và tổng cung tiền tệ cao hơn tổng cầu tiền tệ, trong khi
đó tổng cầu hàng hoá và dịch vụ tăng lên kéo theo tổng cung hàng hoá thấp hơn tổng cầu
hàng hoá và dịch vụ. Kết quả này làm giá cả hàng hoá và dịch vụ tăng lên ( vì khan hiếm
tương đối ) và nếu tiến trình này diễn ra đồng loạt thì kéo theo lạm phát.
Lãi suất là giá của tiền tệ, lạm phát là sự mất giá của tiền tệ, vậy khi sử dụng đồng tiền
một thời gian nhất định nào đó phải cho người ta nhận được lợi nhuận tính theo đồng tiền
tức là lãi suất trừ đi lạm phát phải cho ta một số dương nào đó thì mới có thể nói là sử
dụng đồng tiền hiệu quả. Nói cách khác lãi suất dương mới bảo toàn giá trị đồng tiền và
lãi suất dương là một biện pháp quan trọng để chống lạm phát.
Thông qua hai quan điểm trên đây, có thể khẳng đinh các chuyên gia đều cho rằng lãi
suất và lạm phát có mối liên hệ mật thiết với nhau. Trong đó lãi suất là một công cụ quan

38
trọng để điều chỉnh tỷ lệ lạm phát và lạm phát sẽ lại là nhân tố quyết định mức lãi suất của
thị trường tiền tệ.
3.4.2. Ý kiến chuyên gia về các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
Bàn về các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam-một vấn đề rất nóng và
quan trọng, hầu hết các chuyên gia đều đưa ra ý kiến khá thận trọng. Trong đó ý kiến chủ
đạo là ủng hộ các biện pháp mà chính phủ và Quốc hội đưa ra. Nhưng cũng có không ít ý
kiến trái chiều :
Ý kiến thứ nhất : Nhận định rằng kiềm chế lạm phát ở nước ta là một công việc rất
phức tạp. Nhiều chuyên gia nói rằng các biện pháp chống lạm phát thì đã có đầy trong các
kho sách giáo khoa thế giới, chỉ cần có quyết tâm thì ta sẽ kiểm soát được lạm phát? E
rằng nhận định này có thể không đúng ở nước ta.
Khác với hầu hết các nước, lạm phát có thể được NHTW đánh đổi bằng mục tiêu tăng
trưởng. Nhưng đối với Việt Nam, ngay cả khi chính phủ cũng nhượng bộ phần nào với
mục tiêu không đạt được tăng trưởng bằng mọi giá - để kiềm chế lạm phát - thì vẫn còn
đó nhiều khả năng để lạm phát có thể vượt ngoài tầm kiểm soát của chính phủ.
Ý kiến thứ hai cho rằng lạm phát cao chủ yếu do tăng cung tiền và các biện pháp
kiềm chế lạm phát của Việt Nam thiên về chính sách tiền tệ. Điều này hàm ý rằng chúng
ta đeo đuổi một chính sách tiền tệ (CSTT) nới lỏng. Chính sách này có thể có tác dụng
kích thích tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn. Nhưng trong trung hạn và dài hạn chính nó
lại là yếu tố làm giảm tăng trưởng kinh tế do lạm phát cao thì lãi suất tăng lên, đầu tư
giảm đi, hiệu quả của đầu tư cũng giảm.
Một số ý kiến khác lại cho rằng ở nước ta, kiểm soát giá cả với kỳ vọng sẽ đạt
được hai mục đích: Chống độc quyền và chống lạm phát. Về lý thuyết cũng như kinh
nghiệm thực tế của thế giới đã cho thấy không thể chống độc quyền bằng kiểm soát giá vì
bản chất của độc quyền là lợi dụng vị trí thống lĩnh thị trường để tăng giá, trên cơ sở kiểm
soát cung hàng hoá.
Vì vậy, không thể vừa duy trì độc quyền vừa kiểm soát giá cả mà về cơ bản phải
xoá độc quyền, tăng cạnh tranh để ổn định giá. Còn việc kiểm soát giá để chống lạm phát
chỉ có tác dụng nhất thời, bởi vì giá cả tăng kiểu lạm phát (tăng toàn tuyến) được quyết
định bởi mức tăng tổng cầu cao hơn tổng cung. Chừng nào tổng cầu vẫn còn cao hơn
nhiều so với tổng cung thì giá cả vẫn sẽ tiếp tục tăng, bất chấp kiểm soát giá kiểu gì, đó là
quy luật của kinh tế thị trường...
3.5. Kết quả phân tích các dữ liệu thứ cấp.
3.5.1.Kết quả phân tích thực trạng mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất.
Chính sách lãi suất có quan hệ trực tiếp theo tương quan tỷ lệ nghịch tới xu hướng
và động thái lạm phát của một nước. Lãi suất càng thấp, đồng tiền càng ‘rẻ”, càng kích
thích mở rộng đầu tư và tiêu dùng, do đó, càng làm tăng áp lực lạm phát tiền tệ và lạm
phát cơ cấu. Vì vậy, khi lạm phát gia tăng, chính phủ nào cũng phải có chính sách đề cao
bản tệ, mà tiêu biểu là tuân thủ chính sách lãi suất thực dương (lãi suất tiền cho vay lớn
hơn lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền gửi phải cao hơn mức lạm phát). Việc tăng lãi suất
39
còn được sử dụng như một công cụ để bảo vệ tỷ giá hối đoái trước sự biến động nhanh
chóng của các luồng vốn trên thị trường quốc tế và trước những thiếu hụt trong cán cân
thanh toán quốc tế. Nâng lãi suất sẽ khuyến khích tiết kiệm cả trong đầu tư và trong tiêu
dùng, hạn chế tích trữ - đầu cơ, làm tăng tiền gửi và sử dụng tiết kiệm các khoản vay, làm
tăng cung và giảm cầu tín dụng, thu hẹp nhập khẩu. Mức lãi suất càng cao hơn mức lạm
phát thì tác động tức thời của nó đến việc giảm phát càng rõ rệt.
Tuy nhiên, lãi suất quá cao sẽ thu hẹp đầu tư xã hội, dẫn đến tăng đình trệ, suy
thoái, thất nghiệp và phá sản. Ngoài ra, mức lãi suất cho vay cao "ở đầu vào" sẽ được
người vay - doanh nghiệp tự động chuyển vào giá cả hàng hóa và dịch vụ "ở đầu ra", từ
đó làm tăng mức giá xã hội chung, tức lại làm tăng lạm phát... Thêm nữa, nguyên tắc thị
trường đòi hỏi tiền huy động được phải sinh lợi thông qua cho vay lại hoặc đầu tư, nếu
không muốn gây áp lực lạm phát tương lai bởi gánh nặng nợ lãi huy động cho ngân hàng
và ngân sách nhà nước. Đặc biệt, lãi suất cao còn có thể làm gia tăng lượng cung tiền từ
nước ngoài, từ đó làm tăng áp lực lạm phát tiền tệ ngoại nhập. Điều này càng rõ nét và
nguy hiểm trong bối cảnh tự do hoá tài chính cao theo cam kết hội nhập trong các tổ chức
kinh tế quốc tế (vì nếu lãi suất cao thì dòng vốn nước ngoài đổ vào gửi hoặc cho vay trong
nước càng cao nhằm hưởng chênh lệch lãi suất so với thị trường lãi suất khu vực và quốc
tế).
Vì thế, mức lãi suất thông thường trong nền kinh tế bình thường luôn được khuyến nghị
tuân theo bất phương trình sau: L1<L2<L3<L4, trong đó: L1: mức lạm phát; L2: lãi tiền
gửi; L3: lãi cho vay và L4: lợi nhuận bình quân xã hội trong cùng kỳ hạn lãi suất. Nhiệm
vụ của Nhà nước là lựa chọn mức "trần" lãi suất hoặc sử dụng “lãi suất cơ bản” sao cho
phù hợp điều kiện cụ thể và mục tiêu vĩ mô kinh tế - xã hội của mình, đồng thời, phải
luôn tính đến và có những biện pháp khắc phục hậu quả mặt trái luôn song hành của cả
việc nâng cao hay hạ thấp lãi suất, nếu không, sẽ vấp phải vòng xoáy mới của lạm phát
tuỳ theo mức độ phản ứng cuả các chủ thể kinh tế.
3.5.2. Kết quả của các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay.
Nhóm 7 giải pháp của Chính phủ đưa ra vào những năm đầu quý I năm 2008. Sau
một thời gian dài thực hiện đã thu được kết quả sau đây :
Vượt xa những dự báo lạc quan nhất, chỉ số giá tiêu dùng tháng 12 tiếp tục giảm,
làm cho lạm phát cả năm 2008 chỉ dừng lại ở dưới 20%. Điều này tiếp tục khẳng định
mục tiêu chống lạm phát đã hiệu quả rõ rệt và mục tiêu số một hiện nay là ngăn chặn suy
thoái kinh tế.
Số liệu vừa được Tổng cục Thống kê công bố sáng 25/12 cho biết, chỉ số giá tiêu
dùng (CPI) tháng 12/2008 giảm 0.68% so với tháng 11, và cả năm CPI tăng 19,89% so
với tháng 12/2007.
Tính bình quân, chỉ số giá tiêu dùng năm 2008 tăng 22,97% so với năm 2007. Tất
cả 10 nhóm mặt hàng trong rổ hàng hoá đều tăng giá, trong đó nhóm giáo dục tăng giá
thấp nhất, chỉ 4,16%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng cao nhất, tới 36,57%. Đặc biệt, chỉ
duy nhất dịch vụ bưu chính viễn thông là nhóm nhỏ có sự giảm giá, với mức giảm tới
11,76% so với bình quân năm 2007.

40
Bước sang năm 2009. tình hình tiếp tục có nhiều dấu hiệu khả quan . Sau khi công
bố CPI của tháng 12 tăng ở mức 1,38% so với tháng trước, Tổng cục Thống kê đã công
bố CPI cả nước nước năm 2009 tăng 6,88%. Đây là con số khả quan khi Chính phủ đặt
mục tiêu kiềm chế lạm phát năm 2009 dưới 7%. Tuy nhiên vẫn còn nhiều lo ngại bởi xu
hướng tăng giá nhanh của một số mặt hàng.
Theo quy luật, giá cả một số mặt hàng thiết yếu thường tăng giá trước tết nguyên
đán. Mức tăng này đã đẩy chỉ số giá mặt hàng lương thực tháng 12 tăng6,88 % so với
tháng trước và tăng 4,57% so với năm 2008. Mặt hàng thực phẩm so với tháng trước
không tăng mạnh nhưng so với năm 2008 lại có mức tăng cao 8,39%. Sức tăng của hai
mặt hàng này đã đưa chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống trong tháng 12 tăng
mạnh ỏ mức 2,06%. So với năm ngoái mức tăng này chênh cao 8,71%.
Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng bao gồm: tiền thuê nhà ở, điện, nước, chất đốt và
vật liệu xây dựng tháng 12 cũng tăng ở mức 1,4%. So với năm 2008, mức tăng này thấp
hơn so với một số nhóm hàng khác.
Nhóm đồ uống, thuốc lá tăng 0,97%, nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng
0,81%. Một số nhóm khác có mức tăng không cao, đạt ở mức từ 0,07 đến 0,25% như
nhóm văn hoá, giải trí, thiết bị và đồ dùng gia đình..
Một số chuyên gia nhận định, chỉ số giá năm 2009 đang nằm trong mức như mong
đợi, tuy nhiên vẫn còn một số lo ngại bởi, so với cùng kỳ năm ngoái một số mặt hàng
thiết yếu vẫn đang có xu hướng tăng cao, từ 8,53 đến 9,56% .
Như vậy có thể thấy những thành công trong chính sách vĩ mô kiềm chế lạm phát
của Chính phủ là đáng ghi nhận. Nó đã thể hiện được tính hợp lý và hiệu quả trong thực
tiễn. Tuy nhiên đó đã là giải pháp tối ưu hay chưa? Nó còn những hạn chế nào? Chương 4
sẽ đi vào phân tích cụ thể hơn.
Chương 4. Các kết luận, thảo luận và đề xuất về mối quan hệ giữa lạm phát với lãi
suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
4.1. Các kết luận và phát hiện qua việc nghiên cứu mối quan hệ giữa lạm phát với lãi
suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam.
4.1.1. Các kết luận và phát hiện thông qua việc nghiên cứu mối quan hệ giữa lạm phát
với lãi suất.
Xem xét toàn bộ diễn biến của lãi suất và lạm phát trong suốt quá trình phát triển
kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay có thể cho phép rút ra kết luận như sau:
Lãi suất và lạm phát có mối quan hệ khăng khít với nhau : lãi suất là giá cuả tiền tệ
nên lãi suất phải dương mới không làm đồng tiền mất giá. Muốn có lãi suất thực dương
thì lãi suất danh nghĩa phải lớn hơn tỷ lệ lạm phát. Lãi suất thực dương tăng thì lạm phát
giảm và lãi suất thực dương giảm thì lạm phát tăng. Nếu lãi suất thực dương quá cao sẽ
dẫn đến thiểu phát và làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đây là mối quan hệ nhân quả,
cái này phát triển thì cái khác suy yếu và ngược lại.
Để chống lạm phát thành công phải áp dụng chính sách lãi suất thực dương, đây là
một nguyên tắc cứng trong điều hành nền kinh tế vì chỉ có thế này mới có thể thu hút

41
được vốn vào hệ thống ngân hàng, giảm bớt tiền ngoài lưu thông thì đưa đến tổng cung
tiền tệ trên thị trường nhỏ hơn tổng cầu tiền tệ và kết quả này là lạm phát giảm.
Lãi suất thực dương quá cao dẫn đến làm giảm đầu tư phát triển và có nguy cơ rủi
ro cao đối với an toàn của hệ thống ngân hàng vì lãi suất thực dương cao thì khả năng
kinh doanh có hiệu quả để đủ lãi và trả được nợ của các doanh nghiệp cho ngân hàng là
rất khó khăn. Nguy cơ phá sản và không trả được nợ cho các ngân hàng của các doanh
nghiệp là rất có thể sảy ra nên các ngân hàng cũng nằm trong khả năng phá sản lớn.
Trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô với mục tiêu nền kinh tế tăng trưởng
cao, ổn định vơi tỷ lệ lạm phát ở mức vừa phải thì cần áp dụng lãi suất thực dưong, nhưng
tỷ lệ lãi suất thực dương cần áp dụng ở đây không được quá cao mà ở mức tỷ lệ lãi suất
thực dương với lạm phát khoảng 20%. Tuy nhiên, để điều hành mức này không bị sai lệch
và lạc hậu khi tỷ lệ lạm phát thay đổi thì lãi suất danh nghĩa phải được điều chỉnh linh
hoạt, thường xuyên, có khi một tháng một lần theo chỉ số giá tiêu dùng hàng tháng.
Nguyên tắc lãi suất thực dương bằng 20% tỷ lệ lạm phát một cách ổn định, còn lãi suất
danh nghĩa thì lên, xuống theo mức thay đổi của tỷ lệ lạm phát hàng tháng.
4.1.2. Các kết luận và phát hiện thông qua nghiên cứu các biện pháp kiềm chế lạm
phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Phải kết hợp đồng bộ các chính sách về tiền tệ với chính sách tài khoá và chính
sách tỉ giá để nâng cao hiệu quả đầu tư của kinh tế nhà nước, giảm bớt sức ép của chính
sách tiền tệ đến hoạt động của các ngân hàng thương mại và doanh nghiệp, bảo đảm các
doanh nghiệp có nguồn tín dụng để mở rộng đầu tư, làm cho việc chống lạm phát không
ảnh hưởng nhiều đến tăng trưởng và việc làm.
Thắt chặt tiền tệ: Các biện pháp dành cho chính sách thắt chặt tiền tệ hiện nay cần
phải được áp dụng một cách linh hoạt. Xuất phát từ nhận định lạm phát thường xuất hiện
khi lượng tiền trong lưu thông tăng, chúng ta cần hạn chế lượng tiền trong lưu thông bằng
cách: Tăng lãi suất cho vay vốn và lãi suất tái chiết khấu và hạn chế mức tăng tín dụng.
Quy định dự trữ bắt buộc hợp lí để vừa bảo đảm an toàn hệ thống đồng thời nâng cao
được khả năng thanh khỏan trong hoạt động ngân hàng. Thêm nữa là việc phát hành tín
phiếu và phân hạn mức mua cho các Ngân hàng Thương mại để rút bỏ bớt tiền khỏi lưu
thông
Chính sách tài khóa: Cần phải thực hiện từng bước kế hoạch giảm thâm hụt để tiến
tới cân bằng ngân sách, vì đây cũng là một chỉ tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng. Thắt chặt chi
tiêu của chính phủ; kiểm soát chặt chẽ đầu tư công và đầu tư của các doanh nghiệp nhà
nước; giảm mạnh chi phí hành chính trong các cơ quan nhà nước nhằm giảm bớt sức ép
về cầu nhất là các loại cầu không tạo ra hiệu quả. Với các dự án, cần loại bỏ những dự án
đầu tư kém hiệu quả, thắt chặt những khoản chi chưa thực sự cần thiết nhưng tạo mọi điều
kiện cho đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng.
Sử dụng công cụ tỉ giá: Nên điều chỉnh tăng nhẹ VND so với USD. Điều này cũng
phù hợp với việc đồng đô la Mỹ liên tục bị giảm giá so với các đồng tiền khác. Tăng nhẹ
giá trị VND tuy có ảnh hưởng đến xuất khẩu nhưng không quá lớn. Tăng giá VND sẽ làm
giá hàng nhập khẩu giảm, tăng nguồn cung, có tác dụng giảm mức tăng giá trên thị trường
nội địa, nhất là trong điều kiện nhập khẩu hiện chiếm tỉ lệ cao trong GDP của nước ta.

42
Tăng giá VND cũng góp phần kìm giữ giá luơng thực hiện đang tăng tăng cao và có khả
năng còn tiếp tục tăng trước nhu cầu của thị trường thế giới.

4.2. Các thảo luận về những vấn đề đặt ra qua nghiên cứu.
4.2.1. Thảo luận về mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất.
Trước hết chúng tôi xin khẳng định có một mối tương quan mật thiết giữa lạm phát
với lãi suất. Thực tế cũng đã chứng minh điều này, khi nền kinh tế đang rơi vào tình trạng
lạm phát tăng cao thì Nhà nước sẽ sử dụng chính sách nâng cao lãi suất để kiềm chế lạm
phát. Và trong cuộc sống thường ngày, người dân sẽ so sánh giữa tỷ lệ lạm phát và lãi
suất để quyết định chi tiêu hay tiết kiệm. Chỉ khi nào lãi suất thực dương thì việc gửi tiền
vào Ngân hàng mới đem lại lợi nhuận. Nhưng mối quan hệ giữa hai biến số kinh tế quan
trọng này không chỉ đơn giản như thế.
Có thể thấy lãi suất là biến số kinh tế nhạy cảm, sự thay đổi của lãi suất sẽ tác động
làm thay đổi hành vi sản xuất và tiêu dùng của xã hội. Về phương diện lý thuyết cũng như
thực tiễn các nước đã chứng minh, sự thay đổi lãi suất thực sẽ có tác động nhạy cảm đến
sản lượng và giá cả. Vì vậy NHTƯ đã rất coi trọng việc điều tiết lãi suất nhằm đạt được
mục tiêu cuối cùng của CSTT là kiềm chế lạm phát và góp phần tăng trưởng kinh tế. Lãi
suất tăng cao hơn sẽ phân phối lại thu nhập từ người vay tiền sang người gửi tiền. Điều
này làm tăng sức chi tiêu của người tiết kiệm, nhưng sự chi tiêu này bị hạn chế bởi mức
tiêu dùng cận biên (phần chi tăng thêm cho tiêu dùng trong mỗi giá trị thu nhập tăng
thêm), do vậy người tiết kiệm có xu hướng tăng chi tiêu dùng thấp hơn sự hạn chế chi
tiêu đầu tư của người đi vay, nhất là khi lãi suất tăng cao vượt tỷ suất lợi nhuận đầu tư và
các danh mục đầu tư và dự án, làm thu nhập của người đi vay giảm. Do vậy, dẫn đến tổng
chi tiêu giảm, GDP giảm. Mặt khác, đối với các hộ gia đình nắm giữ nhiều cổ phiếu, trái
phiếu, lãi suất tăng sẽ làm giảm giá tài sản tài chính, do đó, giảm thu nhập, từ đó tạo sức
ép giảm tiêu dùng của các hộ gia đình.
Tuy nhiên, tác động của lãi suất đến hành vi tiêu dùng và sản xuất của xã hội
nhiều hay ít, nhanh hay chậm tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế xã hội của mỗi quốc gia,
trong từng quốc gia thì mỗi giai đoạn phát triển của thị trường tài chính thì mức độ tác
động của lãi suất cũng khác nhau.
Đối với Việt Nam từ năm 2000-2007, tác động của lãi suất đến tăng trưởng và lạm phát
có thể thấy được qua việc xem xét ảnh hưởng của lãi suất trên thị trường tiền tệ Việt Nam
đối với hành vi của cá nhân và các doanh nghiệp, từ đó đánh giá ảnh hưởng của lãi suất
đến tăng trưởng kinh tế và lạm phát.
Ngược lại, lạm phát cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến lĩnh vực tiền tệ nói chung
và lãi suất nói riêng. Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàng bị thu
hẹp. Số người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi đáng kể. Về phía hệ thống ngân hàng, do
lượng tiền gửi vào giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng
với việc sụt giá của đồng tiền quá nhanh, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi không làm an tâm
những người hiện đang có lượng tiền mặt nhàn rỗi trong tay. Về phía người đi vay, họ là
những người có lợi lớn nhờ sự mất giá của đồng tiền một cách nhanh chóng. Do vậy, hoạt
động của hệ thống ngân hàng không còn bình thường nữa. Chức năng kinh doanh tiền tệ
43
bị hạn chế, các chức năng của tiền tệ không còn nguyên vẹn bởi khi có lạm phát thì chẳng
có ai muốn tích trữ của cải dưới hình thức tiền mặt.
4.2.2. Thảo luận về các biện pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ.
Nhà kinh tế học Milton Friendman cho rằng: “ Lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là
một hiện tượng tiền tệ”, tuy nhiên không có nghĩa là để kiềm chế lạm phát hiện nay,
không thể chỉ trông chờ vào chính sách tiền tệ, mà phài là một hệ giải pháp mang tính
chất đồng bộ.
Chính sách tiền tệ:
Đối với chính sách này, chúng ta cần phải xác định, điều hành và kiểm soát tốc độ
tăng trưởng phương tiện thanh toán và cung ứng tín dụng ở mức hợp lý. Trên cơ sở đó áp
dụng chính sách tiền tệ một cách thích hợp, thậm chí là chấp nhận lãi suất dương. Hạn chế
tình trạng khát vốn giả tạo và phát triển tín dụng xấu, đồng thời chủ động mua ngoại tệ dự
trữ đi liền với các biện pháp hút tiền về nhằm vô hiệu lượng tiền vào và lượng tiền ra mua
ngoại tệ cho vay kinh doanh bất động sản và chứng khoán.
Giải pháp mới là phát hành trái phiếu ngoại tệ trong nước, không chỉ là trái phiếu
của Chính phủ mà còn cho phép các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp có uy tín có nhu
cầu ngoại tệ chính đáng, được phép phát hành để huy động ngoại tệ trôi nổi trong nền
kinh tế và cả lượng ngoại tệ mà các ngân hàng thương mại đang coi là thừa. Biện pháp
này có tác dụng kép: vừa hút được USD về, vừa tránh đưa tiền đồng ra lưu thông, vừa ổn
định được tỷ giá. Vấn đề đặt ra là cần có một mức lãi suất trái phiếu đủa sức hấp dẫn và
phải sử dụng có hiệu quả lượng USD thu được từ trái phiếu.
Hiện nay, Ngân hàng nhà nước đang thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ bằng
cách tăng lãi suất cơ bản thêm 2%, và cho các ngân hàng tự ấn định lãi suất huy động ,
tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm giảm lượng cung tiền trên thị trường. Nhưng dường như
chưa có tác động mạnh đối với sự tăng lên của mức giá, đây cững có thể do độ trễ của
chính sách, tuy nhiên điều này đòi hỏi cần kết hợp nhiều chính sách đồng bộ, không thể
chỉ trông chờ vào chính sách tiền tệ.
Chính sách từ phía Bộ tài chính:
Bộ tài chính tiếp tục duy trì chính sách tài chính trong việc điều hành thu chi ngân
sách, mức bội chi ngân sách trong giới hạn mà Quốc hội cho phép, đồng thời kiểm soát
chặt chẽ chi tiêu thường xuyên, đầu tư xây dựng cơ bản. Kiên quyết cắt giảm các dự án
đầu tư không triển khai theo kế hoạch. Tiếp tục phát hành trái phiếu kho bạc, trái phiếu
công trình giao thông thủy lợi theo kế hoạch được duyệt. Thực hiện lộ trình giá trị thị
trường, khuyến khích cạnh tranh về giá đi liền với kiểm soát độc quyền và áp dụng chính
sách hỗ trợ hợp lý đối với các đối tượng sản xuất, bộ phận dân cư nghèo, các đối tượng
chính sách.
Hiện nay, một trong những giải pháp kiềm chế lạm phát đó là cắt giảm 25% vốn
trái phiếu Chính phủ, tuy nhiên đây lại là nguồn đầu tư cho giao thông, thủy lợi, những
công trình cấp bách và cho y tế tuyến huyện và giáo dục, nếu chúng ta không cẩn trọng
trong việc cắt giảm vốn trái phiếu Chính phủ thì sẽ cắt giảm đúng vào những vấn đề thuộc
về an sinh xã hội.

44
Về vấn đề cắt giảm chi tiêu công bao gồm chi đầu tư và chi thường xuyên, Chính
phủ đã thống nhất cắt giảm 10% chi tiêu công, tuy nhiên cần đưa ra tiêu chí rõ ràng để
sàng lọc các dự án cần cắt giảm, không thề áp đặt buộc giảm cái này hay cái kia mà cần rà
soát từ các địa phương phụ thuộc vào từng yêu cầu cụ thể ví dụ như phụ thuộc vào yếu tố
vùng miền.
Nhóm giải pháp tăng cung hàng hóa và dịch vụ:
Như đã phân tích ở trên các nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát tác động tới tổng
cầu đang tỏ ra kém hiệu quả bởi tác động trực tiếp tới mục tiêu tăng trưỏng kinh tế. Vì
vậy, trong dài hạn cần có các chính sách tác động từ phía cung.
Thứ nhất, hỗ trợ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở khu vực tư nhân, cả về thể chế kinh tế
lẫn ưu đãi tín dụng. Khi khu vực nhà nước bị thu hẹp tương đối, sức ép lạm phát sẽ giảm.
Thứ hai, tiếp tục phát triển các thể chế hỗ trợ thị trường nhằm giúp thị trường vận hành tốt
hơn. Thứ ba, việc nới lòng từ từ giá trị đồng USD nên được đi liền với các chính sách tái
cấu trúc nền kinh tế, giúp doanh nghiệp tăng sức cạnh tranh bằng chất lượng thay vì cạnh
tranh bằng giá. Việc tăng lương cơ bản đi liền với tỷ giá USD giảm, tất yếu sẽ khiến lao
động Việt Nam đắt lên tương đối. Để đối phó với tình huống này trong dài hạn, cần có
các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động để tăng sức cạnh tranh thông qua kỹ
năng lao động cao chứ không phải chỉ chờ vào lao động giá rẻ.
4.3. Các dự báo triển vọng về việc vận dụng mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất
trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà nước và về việc hoàn thiện các
biện pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam.
4.3.1. Các dự báo triển vọng về việc vận dụng mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất
trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế của Chính phủ.
Thông qua quá trình đi sâu vào tìm hiểu nghiên cứu, chúng ta đã có thể nắm bắt
được phần nào mối tương quan giữa lạm phát và lãi suất. Qua đó có thể vận dụng để phục
vụ cho các mục tiêu vĩ mô của chính phủ.
Trước hết vì lạm phát và lãi suất có mối quan hệ trực tiếp với nhau và biểu hiện
của mối quan hệ này đã được trình bày trong phần lý thuyết về hiệu ứng Fisher nên đây sẽ
là một dấu hiệu tốt cho việc quyết định mức lãi suất cơ bản của NHNN. Như đã phân tích
thì chính sách lãi suất thực dương là biện pháp quan trọng để chống lạm phát, nên dự báo
đây sẽ tiếp tục là một công cụ quan trọng trong tương lai nhằm hỗ trợ NHNN quy định
các mức lãi suất của mình sao cho lãi suất thực luôn đảm bảo lớn hơn không.
Mặt khác, lãi suất sẽ tiếp tục là một công cụ quan trọng trong các chính sách tiền tệ
của Chính phủ. Trong tương lai, khi mà nền kinh tế thị trường phát triển ngày càng mạnh,
các doanh nghiệp Nhà nước dần được cổ phần hoá thì sự đóng góp của chi tiêu Chính
phủ trong GDP sẽ giảm dần cùng với sức mạnh của các chính sách tài khoá. Khi đó chính
sách tiền tệ sẽ trở thành mũi nhọn hàng đầu trong việc ổn định vĩ mô nền kinh tế. Cùng
với đó là diễn biến khôn lường của lạm phát, gây hậu quả nghiêm trọng cho sự phát triển
kinh tế đất nước đòi hỏi các biện pháp kiềm chế thật sự hiệu quả và nhanh chóng. Và lãi
suất sẽ là “liều thuốc “ tối ưu trong việc ổn định vĩ mô nền kinh tế cũng như trong công
cuộc kiềm chế lạm phát.

45
4.3.2. Các dự báo về các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong thời gian
tới.
Trong thời gian tới, theo các chuyên gia đánh giá thì tình hình lạm phát trong nước
sẽ có nhiều biến động mà xu hướng chủ yếu là lạm phát sẽ gia tăng.
Lạm phát Việt Nam có nguồn gốc từ chiến lược tăng trưởng chạy theo số lượng bắt đầu từ
những năm 2000 đến 2008. Đỉnh điểm đến vào năm 2008 với lạm phát 28%. Nói đến dự
báo lạm phát những năm sau này, phải đặt nó trong mối nhân quả giai đoạn 2000-2008
mới thấy hết những rủi ro khôn lường.
Rất may cho Việt Nam là những sai lầm trong chiến lược tăng trưởng méo mó và do đó
dẫn đến lạm phát phi mã của thập niên đã tạm thời được che đậy bởi cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu. Sang năm 2010, khi kinh tế toàn cầu phục hồi rõ hơn, lạm phát có
"quán tính" từ thập niên trước sẽ chuyển dần sang những năm sau đó - trừ phi ta có những
thay đổi mang tính bước ngoặt trong thể chế.
Bởi vậy trong thời gian tới rất có thể các biện pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ sẽ
phải cải thiện để phù hợp hơn với tình hình thực tế. Chúng tin xin đưa ra một số dự báo
như sau :
Thứ nhất, tập trung tăng năng lực sản xuất trong nước mà trọng tâm hàng đầu là
tăng cường đầu tư để nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế. Các chính sách của
Nhà nước phải hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho khoa học và công nghệ; các
ngân hàng thương mại phải dành ưu tiên cho các khoản vay để nâng cao trình độ công
nghệ và doanh nghiệp phải coi hoạt động đổi mới là vấn đề sống còn của mình.
Thứ hai, phải luôn luôn duy trì sự phối, kết hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ và
tài khoá trong điều hành nền kinh tế. Trước mắt, cả hai chính sách cần tập trung vào mục
tiêu cắt giảm lạm phát. Trong thời gian tới, cần xây dựng lộ trình thực hiện chính sách
lạm phát mục tiêu và nguyên tắc cân đối thu chi ngân sách. Tăng cường hơn nữa vai trò
của Ngân hàng Nhà nước bởi hai lý do: (1) trong điều kiện nền kinh tế mở và tỷ giá ngày
càng nới lỏng theo cơ chế thị trường, chính sách tiền tệ ngày càng có tác động mạnh mẽ
hơn đến các chỉ số kinh tế vĩ mô của nền kinh tế; (2) để tiến tới thực hiện chính sách lạm
phát mục tiêu, Ngân hàng Nhà nước phải thực sự có quyền hạn độc lập trong việc điều
hành chính sách tiền tệ quốc gia.
Thứ ba, các chính sách của Nhà nước, nhất là chính sách tiền lương phải cần
nghiên cứu kỹ lưỡng để đưa ra cách thực hiện phù hợp, nhằm định hướng cho dân chúng
có kỳ vọng hợp lý, nhất là đối với vấn đề giá cả .
4.4. Các đề xuất, kiến nghị về việc vận dụng mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất
trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế và về các biện pháp kiềm chế lạm phát của
Chính phủ trong giai đoạn hiện nay.
4.4.1. Các đề xuất, kiến nghị về việc vận dụng mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất
trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế của Chính phủ.
Trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô với mục tiêu nền kinh tế tăng trưởng
cao, ổn định với tỷ lệ lạm phát ở mức vừa phải thì phải áp dụng lãi suất thực dương nhưng
không quá cao. Tuy nhiên, để điều hành mức này không bị sai lệch và lạc hậu khi tỷ lệ
46
lạm phát thay đổi thì lãi suất danh nghĩa phải được điều chỉnh linh hoạt, thường xuyên, có
khi một tháng một lần theo chỉ số giá hàng tiêu dùng hàng tháng. Nguyên tắc, lãi suất
thực dương bằng 20% tỷ lệ lạm phát một cách ổn định, còn lãi suất danh nghĩa thì lên,
xuống theo mức thay đổi của tỷ lệ lạm phát hàng tháng.
Tình hình thực tế cho thấy lãi suất cho vay nên ở mức 14-15% thì hợp lý vừa cao hơn
mức lạm phát 2007 (12,63%) để kiềm chế lạm phát vừa bảo đảm cho các doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh có thể chịu đựng được. Trong thời gian tới, Chính phủ có thể xem xét
áp dụng một số giải pháp sau:
Một là, mặc dù là nền kinh tế thị trường, nhưng trong thời điểm lạm phát cao như
hiện nay giải pháp khống chế trần lãi suất cho vay là cần thiết. Cũng có thể khống chế
mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động ở mức 2-2,5%. Điều này vẫn
đảm bảo các NHTM có lợi nhuận cao vì họ có thể tổ chức lại bộ máy, giảm chi phí sản
xuất, kinh doanh và tăng các hoạt động dịch vụ ngân hàng khác.
Hai là, cần có chính sách kiểm soát chặt chẽ các NHTM cổ phần để khống chế
việc các ngân hàng này cố tình đẩy lãi suất cho vay lên cao. NHNN phải kiểm soát các dự
án, công trình vay vốn với lãi suất cao về tính hiệu quả, tính khả thi, khả năng trả nợ,
tránh xẩy ra sự đổ bể sau này. Kiểm tra và khống chế hạn mức tín dụng của các NHTM cổ
phần, dư nợ tín dụng trên vốn để bảo đảm các ngân hàng này hoạt động, làm ăn lành
mạnh.
Thứ ba, kiểm tra, kiểm soát và hạn chế việc cho vay kinh doanh và đầu cơ có bất
động sản và kinh doanh chứng khoán. Bảo đảm dư nợ tín dụng ở các loại hình này thấp,
trong tầm kiểm soát được khi nền kinh tế có biến động.
Thứ tư, hạn chế và không cho vay tái cấp vốn đối với những NHTM đã có mức dư
nợ tín dụng cao gần mức khống chế của nhà nước 30%. Đồng thời không cho vay tái cấp
vốn đối với các NHTM cổ phần có tỷ lệ cho vay kinh doanh bất động và chứng khoán
cao.
Lãi suất là giá của tiền tệ, lạm phát là sự mất giá của tiền tệ. Do vậy, khi đồng tiền được
sử dụng một thời gian nhất định nào đó nó phải cho người sử dụng nhận được lợi nhuận
nhất định tính theo đồng tiền, tức là lãi suất trừ đi lạm phát phải cho người sử dụng một số
dương nào đó thì mới có thể nói sử dụng đồng tiền hiệu quả. Nói cách khác, lãi suất thực
dương là sự bảo toàn giá trị đồng tiền và lãi suất dương là giá thực tế của đồng tiền. Việc
áp dụng chính sách lãi suất thực dương là một biện pháp quan trọng để chống lạm phát.
4.4.2. Các đề xuất, kiến nghị về các biện pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ
Thứ nhất : Các biện pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ còn thiếu một PR
chính phủ. Khi đưa ra các chính sách mới, Chính phủ phải cử người giải thích cho công
chúng biết rõ lợi hại của chính sách đó thế nào, tác động đến đời sống người dân ra sao.
Như thế chính sách của Chính phủ sẽ tăng được tính hiệu quả do nhận được sự ủng hộ
một cách chủ động của người dân. Điều này sẽ làm giảm thiểu tình trạng người dân bị bất
ngờ hay hoang mang, gây những ra những phản ứng bất lợi cho nền kinh tế.
Thứ hai : Tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ một cách chặt chẽ, thận trọng; sử
dụng linh hoạt và hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ, xem xét việc tăng dự trữ bắt

47
buộc, tiếp tục áp dụng biện pháp mua tín phiếu NHNN bắt buộc đã công bố, kiểm soát tốc
độ tăng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán một cách hợp lý, trong đó mức tăng
trưởng tín dụng tối đa 30%, kiểm soát cho vay bất động sản, kinh doanh chứng khoán và
cho vay tiêu dùng.
Thứ ba : Thực hiện việc mua ngoại tệ của các nhà đầu tư trên cơ sở nguồn cung
ứng đã được Chính phủ phê duyệt một mặt để bổ sung dự trữ ngoại hối nhà nước, mặt
khác nhằm đáp ứng đủ vốn cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu.Tiếp tục
điều hành tỷ giá giữa đồng tiền Việt Nam với đô la Mỹ và ngoại tệ mạnh khác theo hướng
căn cứ vào cung cầu trên thị trường, với biên độ giao động ±2%.
Thứ tư : Nghiên cứu triển khai phát hành Trái phiếu Chính phủ trong nước bằng
đồng tiền Việt Nam, Trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ để hạn chế tình trạng đô la hóa
trong nền kinh tế, hút bớt tiền nhàn rỗi về, giảm áp lực lạm phát và tăng dự trữ quốc gia
hoặc đầu tư ra nước ngoài.
Thứ năm : Các giải pháp chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng phải tiếp tục tạo
điều kiện phát triển lành mạnh thị trường bất động sản. Cần áp dụng các giải pháp chống
đầu cơ bất động sản thông qua việc kiểm soát tín dụng, chính sách thuế, kết hợp với
những biện pháp hành chính cần thiết .
4.5. Những hạn chế và vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu mối quan hệ giữa lạm
phát với lãi suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay.
4.5.1. Những hạn chế nghiên cứu.
Chưa khái quát được mối liên hệ giữa lạm phát và lãi suất dưới dạng một quy luật
cụ thể. Điều này làm cho công tác dự báo đánh giá gặp nhiều khó khăn.
Chưa xác định được các mức ảnh hưởng của lãi suất đến lạm phát. Các đánh giá
chỉ mang tính tương đối.
Phân tích các biện pháp kiềm chế lạm phát còn mang tính chủ quan, chưa đưa ra
được chứng thực cho các kết luận.
4.5.2. Các vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất
và các biện pháp kiềm chế lạm phát.
Tiếp tục làm rõ mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất thông qua nghiên cứu thực
tế và khái quát thành quy luật biểu hiện cụ thể.
Tìm ra các mức lãi suất thích hợp để vừa có tác dụng kích thích đầu tư, lại vừa là
công cụ hữu hiệu kiềm chế lạm phát.
Nghiên cứu và bổ sung các biện pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ, làm cho
nó trở nên thực sự tối ưu, hiệu quả trong cuộc chiến chống lạm phát.
Đề xuất mức lạm phát hợp lý phù hợp với mục tiêu tăng trưởng và ổn định vĩ mô
kinh tế.

48
KẾT LUẬN
Nắm bắt được quy luật biến động giữa lạm phát và lãi suất sẽ giúp chính phủ điều
hành nền kinh tế một cách hiệu quả hơn. Xuất phát từ nhu cầu của nền kinh tế, đề tài đã
đưa ra một số đề xuất đóng góp một phần nhỏ cho hệ thống các giải pháp về kiềm chế lạm
pháp – vấn đề nóng bỏng không chỉ của một bộ phận, một ngành hay một lĩnh vực kinh tế
mà là của toàn xã hội.
Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất và các biện pháp kiềm chế
lạm phát thông qua các lí thuyết, các mô hình đã giúp chúng em phần nào hiểu được tầm
quan trọng của chúng trong nền kinh tế, có một cách nhìn tổng hợp hơn để từ đó có thể
rút ra được những bài học, những kinh nghiệm đối với bản thân.

49
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO :

1. Giáo trình kinh tế học vĩ mô – NXB Giáo dục


2. Giáo trình kinh tế học – trường ĐH Kinh tế quốc dân
3. Nghị quyết số 10/2008/NQ – CP ngày 17/4/2008 của chính phủ
4. Lê Quốc Lý - Lạm phát - hành trình và giải pháp chống lạm phát của Việt Nam. NXB
Tài Chính 2005.
5. Giáo trình Nhập môn tài chính tiền tệ.ĐH Thương Mại
6. David Begg. Kinh tế học. NXB Thống kê 2008.
7. Nguyễn Văn Công. Bàn về tỷ lệ lạm phát tối ưu ở Việt Nam. Tạp chí Tài chính. Số 3.
2005
8. www.vietbao.vn
9. www.vneconomy.com.vn
10. www.tailieu.vn
11. www.gso.gov.vn
12. www.vietnamnet.vn
13. www.sbv.gov.vn
50
.

PHỤ LỤC

. Biểu 1:Tốc độ tăng GDP và lạm phát

% Tỷ lệ lạm phát&tốc độ tăng GDP

25

20

15 GPD(%)
Lạm phát (%)
10

0
2004 2005 2006 2007 2008
Năm

51
Bảng 2: tốc độ tăng GDP và lạm phát
Năm 2004 2005 2006 2007 2008
GPD(%) 7.79 8.44 8.17 8.48 7.2
Lạm phát (%) 9.4 8.3 7.5 12.6 19.4

Nguồn : Tổng cục thống kê

Đồ thị 3: Diễn biến lãi suất LIBOR kỳ hạn qua đêm (Từ 12/9/2008 đến
12/01/2009)

Nguồn : NHNN

52
Bảng 4: Chỉ số giá tiêu dùng 3 tháng đầu năm 2008 so với cùng kỳ các năm trước và
so với tháng 12 của các năm trước (100%)
CPI so với tháng trước CPI so với tháng 12 năm trước
Năm
tháng 1 tháng 2 tháng 3 tháng 1 tháng 2 tháng 3
2004 101.1 103.0 100.8 101.1 104.1 104.9
2005 101.1 102.5 100.1 101.1 103.6 103.7
2006 101.2 102.1 99.5 101.2 103.3 102.8
2007 101.05 102.17 99.78 101.5 103.24 103.02
2008 102.38 103.56 102.99 102.38 106.02 109.19

Nguồn : Tổng cục thống kê.

53

You might also like