Professional Documents
Culture Documents
HILBERT
đơn giản, xét D1 là tập các đa thức theo
1 biến có nghiệm nguyên. Máy Turing
dưới đây phát hiệnD1:
M1 = “ Input là đa thức p theo một
biến x.
Tính p với x lần lượt có trị là 0, 1,
-1, 2, -2, 3, -3, ...
Nếu tại một thời điểm nào đó, p
TS. Chu Đức Khánh (*) có trị zero thì dừng. Tiếp nhận"
Năm 1900, tại Hội nghị Toán học quốc tế Paris, nhà toán học Chú ý rằng nếu p không có nghiệm
nguyên thì M1 sẽ chạy mãi, không dừng.
người Đức David Hilbert (1862-1943) đã công bố 23 bài toán
Máy Turing M phát hiện D được xây
thách thức cho thế kỷ XX. Hơn 100 năm trôi qua, cho đến nay, dựng tương tự.
vẫn còn vài bài trong số 23 bài toán trên chưa có được lời giải M1 và M đều là recognizers (nghĩa là
thỏa đáng. Bài viết này bàn về các bài toán số 1, 2 và 10. Đó là nếu p ∈ D1 hay D thì M1 hay M sẽ phát
các vấn đề liên quan đến nền tảng cơ sở của toán học. hiện được điều này sau một số hữu hạn
bước) nhưng không là deciders. Ta có
thể sửa đổi M1 để nó trở thành một
BÀI TOÁN THỨ MƯỜI CỦA HILBERT VÀ LUẬN ĐỀ decider (nghĩa là máy sẽ dừng sau một
CHURCH-TURING số hữu hạn bước và cho kết luận đúng là p có nghiệm
nguyên hay không) cho D1 dựa vào nhận xét sau: Nghiệm
Bài toán thứ 10 của Hilbert liên quan đến khái niệm “giải a max
thuật” và phát biểu như sau: Tìm một giải thuật kiểm tra xem nguyên nếu có của đa thức p phải có trị tuyệt đối ≤ k
một đa thức với hệ số nguyên có nghiệm nguyên hay không. trong đó, k là số số hạng, a max là hệ số có trị a0
Hilbert đã không sử dụng thuật ngữ giải thuật (algorithm)
mà dùng cụm từ “a process according to which it can be tuyệt đối lớn nhất, và a0 là hệ số của số hạng có bậc lớn nhất
determined by a finite number of operations”. Rất thú vị là của đa thức p.
trong phát biểu trên, Hilbert hầu như đã giả định rằng giải Định lý Matijasevic chứng minh rằng việc tính toán các
thuật kiểm tra là đã tồn tại, ta chỉ cần tìm ra nó. chận như thế trong trường hợp đa thức nhiều biến là không
Nhưng như ngày nay chúng ta đã biết, giải thuật như thể được.
trên không tồn tại. Tuy nhiên, đối với các toán học gia thời
BÀI TOÁN THỨ HAI CỦA HILBERT VÀ ĐỊNH LÝ
đó, việc chứng minh một giải thuật như thế không tồn tại
KHÔNG HOÀN BỊ CỦA GÖDEL
lại là một công việc hầu như bất khả thi: Muốn làm được
điều này, ta cần có một định nghĩa rõ ràng cho thuật ngữ Logic toán là một ngành của toán học khảo sát chính
“algorithm”. Vậy là bài toán thứ 10 của Hilbert phải chờ một nó. Logic toán tập trung vào những câu hỏi như: Định lý là
định nghĩa. gì? Chứng minh là gì? Tính đúng là gì? Có giải thuật nào
Định nghĩa của thuật ngữ giải thuật đến vào năm 1936 xác định được một phát biểu là đúng? Tất cả các phát biểu
trong các bài báo của Alonzo Church (Mỹ, 1903-1995) và đúng có thể chứng minh được?
Alan Turing (Anh, 1912-1954). Church sử dụng một hệ thống Bài toán thứ hai của Hilbert liên quan đến cơ sở của toán
ký hiệu gọi là λ -calculus để định nghĩa giải thuật, còn Turing học, đề nghị đưa ra một hệ thống gồm hữu hạn các tiên đề
làm điều này với “machines” của ông. Hai định nghĩa này sao cho trong hệ thống này không có mâu thuẫn. Hilbert, và
đã được chứng minh là tương đương với nhau sau đó. sau đó một số người khác như Bertrand Russel , Gotlob Frege
Mối liên hệ giữa khái niệm trực giác và định nghĩa chặt hi vọng có thể xây dựng một hệ thống toán học hoàn chỉnh.
chẽ của thuật ngữ “giải thuật” gọi là luận đề Church-
Turing. Một cách trực quan, luận đề Church-Turing có thể Nhưng vào năm 1902, B. Russel bắt gặp một mâu thuẫn
hình dung như sau: trong lý thuyết tập hợp mà ngày nay ta gọi là nghịch lý
Intutive notion of algorithms = Turing machine algorithms Russel. Nghịch lý này có thể hình dung bằng câu chuyện về
Một bài toán quyết định (decision problem) là một bài một nhân viên thư viện như thế này: Trong thư viện có nhiều
toán mà câu trả lời là có (yes) hoặc không (no). Bài toán gọi tập danh mục sách, có những danh mục liệt kê cả bản thân
là quyết định được (decidable) nếu tồn tại một giải thuật nó, nhưng cũng có những danh mục không như thế. Nhân
để sau một số hữu hạn bước có thể cho ra câu trả lời của viên thư viện làm thêm hai danh mục nữa, danh mục A liệt
bài toán. kê tất cả các danh mục có tự liệt kê bản thân nó và danh
Ký hiệu D là tập các đa thức với hệ số nguyên có mục B liệt kê các danh mục không tự liệt kê nó. Mâu thuẫn
nghiệm nguyên. Bài toán thứ 10 của Hilbert hỏi là D có phát sinh khi ta đặt câu hỏi: Vậy thì danh mục B được liệt kê
quyết định được không? Câu trả lời là không: Năm 1970, ở đâu?
Yuri Matijasevic (Nga, 1947- ) bằng cách sử dụng luận đề Ta có thể lập luận rằng để giải quyết vấn đề này, trong hệ
Church-Turing đã chứng minh rằng không tồn tại giải thuật thống tiên đề của lý thuyết tập hợp cần thêm vào một tiên
xác định một đa thức có nghiệm nguyên hay không. Nhưng