Professional Documents
Culture Documents
Khoa Kinh Tế
PHẦN I CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Sản phẩm và các cấp độ của sản phẩm
1.1.1 Sản phẩm là gì?
Theo quan niệm của Marketing, sản phẩm là tất cả những cái, những yếu tố
có thể thoả mãn nhu cầu hay ước muốn được đưa ra chào bán trên thị trường với
mục đích thu hút sự chú ý mua sắm, sử dụng hay tiêu dùng.
Sản phẩm bao hàm cả những vật thể hữu hình và vô hình (các dịch vụ), bao
hàm cả những yếu tố vật chất và phi vật chất. Ngay cả những hàng hoá hữu hình thì
cũng bao hàm cả các yếu tố vô hình. Ví dụ như khi khách hàng mua một chiếc quần
bò hiệu Levi’s, đó là một vật để che thân đồng thời đem lại sự thoải mái, tự tin, thời
trang… Một sản phẩm thành công khi nó giải quyết được một vấn đề cho khách
hàng, hay thoả mãn các nhu cầu của họ.
1.1.2 Các cấp độ sản phẩm
Theo quan điểm của Marketing sản phẩm có cả các yếu tố vô hình và hữu
hình và nó được chia làm 3 cấp độ:
a)Cấp độ cơ bản - Sản phẩm cốt lõi
Cấp độ này sẽ trả lời câu hỏi: Về thực chất sản phẩm này sẽ mang lại lợi ích
gì cho khách hàng? Cùng một sản phẩm có thể mang lại lợi ích cơ bản khác nhau
cho các khách hàng khác nhau. Muốn xác định được các lợi ích cơ bản nào cần cho
khách hàng nào, công ty phải nghiên cứu thị trường để xác định. Đôi khi bản thân
khách hàng cũng không biết được một sản phẩm mang lại lợi ích cơ bản gì cho
mình. Ví dụ khách hàng có thể không biết được dùng một loại mỹ phẩm làm trắng
da, bảo vệ da khỏi bắt nắng, dùng kem đánh răng để răng trắng và chắc khoẻ…
Những lợi ích này đều do quảng cáo mang đến cho khách hàng.
b) Cấp độ hai - Sản phẩm hiện thực
Đó là những yếu tố phản ánh sự có mặt trên thực tế của sản phẩm như: Các
chỉ tiêu phản ánh chất lượng, các đặc tính, bố cục bên ngoài, nhãn hiệu, tên nhãn
Nhóm SVTH: nhóm 12 3
GVHD: Vũ Thị Tuý
Trường ĐHSPKT Hưng Yên Lớp Q1K5
Khoa Kinh Tế
hiệu, bao bì. Thông qua các yếu tố này công ty có thể giúp khách hàng phân biệt
được sản phẩm của mình với sản phẩm cạnh tranh. Khách hàng cũng căn cứ vào
các yếu tố của cấp độ này để lựa chọn trong các sản phẩm cùng loại (các sản phẩm
cùng mang lại một lợi ích cơ bản)
c) Cấp độ ba - Sản phẩm bổ sung (sản phẩm hoàn thiện)
Cấp độ này bao gồm các yếu tố dịch vụ khách hàng và cao hơn nữa là chăm
sóc khách hàng nhằm giúp cho khách hàng thuận tiện hơn, hài lòng hơn. Đó là các
dịch vụ như: Sửa chữa, bào hành, hình thức thanh toán, giao hàng tại nhà, lắp đặt,
huấn luyện…Cũng như thái độ thân thiện, cởi mở, nhiệt tình… Cấp độ này chính là
vũ khí cạnh tranh của công ty. Qua đó khách hàng có thể đánh giá, nhận thức về
mặt hàng, nhãn hiệu cụ thể.
H1 – Các cấp độ của sản phẩm
Sản phẩm có thể được tung ra với tên hiệu người sản xuất. hay tên hiệu của
người phân phối (trung gian). Thậm chí người ta có thể mướn tên hiệu. Khi khách
hàng lưỡng lự giữa hai sản phẩm tương tự thì hầu như sẽ chọn sản phẩm có tên hiệu
quen thuộc.
Chất lượng là một trong những công cụ định vị chủ yếu của nhà làm
marketing, chất lượng thể hiện: tính bền, tính tin cậy, tính an toàn, dễ sử dụng, dễ
sửa chữa. Có 4 mức chất lượng: thấp, trung bình, cao và hảo hạng. Mức lời tăng
theo mức chất lượng của sản phẩm. Công ty nên nhắm vào chất lượng cao. Chất
lượng hảo hạng chỉ làm mức lời tăng nhẹ chút ít mà chi phí lại lớn.
Chúng ta có thể lựa chọn một trong hai hướng, tên hiệu riêng hoặc tên hiệu có
kèm theo tên công ty.Tên hiệu riêng không ảnh hưởng đến uy tín của công ty. Còn
tên hiệu có kèm tên công ty: có nhiều thuận lợi khi công ty nổi tiếng, có uy tín. Tuy
nhiên nếu sản phẩm chất lượng yếu ảnh hưởng đến uy tín công ty.
Các công ty có thể sử dụng một tên hiệu đã thành công để tung ra những sản
phẩm mới hay sản phẩm cải tiến.Ví dụ: Hãng Honda dùng tên của mình để tung ra
mặt hàng máy xén cỏ. Trong khi đó hãng Gillette sử dụng tên Gillette để tung ra
các mặt hàng vệ sinh nam giới.
Đây là quyết định triển khai nhiều nhãn hiệu trong cùng một loại sản phẩm.
Công ty tăng nhanh được doanh số, lợi nhuận, chiếm được nhiều chỗ trên kệ bày
hàng.
Việc triển khai một bao bì hữu hiệu cho một sản phẩm mới đòi hỏi nhiều
quyết định. Nhiệm vụ của bao bì là bảo vệ, giới thiệu sản phẩm. Kích cỡ, hình
dáng, chất liệu, màu sắc, chữ nghĩa và dấu hiệu trên bao bì. Những yếu tố này phải
hài hoà để làm nổi bật giá trị bổ sung của sản phẩm cho khách hàng thấy và hỗ trợ
cho việc định vị sản phẩm và chiến lược marketing. Bao bì phải nhất quán đối với
việc quảng cáo, định giá, phân phối và các chiến lược marketing khác.
Quyết định về nhãn hiệu trên bao bì: Nhãn hiệu trên bao bì có thể mô tả vài
điều về sản phẩm. Ai sản xuất? Sản xuất ở đâu? Khi nào? Chứa cái gì? Sử dụng
như thế nào? Sử dụng sao cho an toàn? Nhãn hiệu có thể lỗi thời theo thời gian nên
cần làm mới.
Một yếu tố cấu thành sản phẩm hoàn chỉnh là dịch vụ khách hàng. Tuỳ vào
từng loại hàng mà tầm quan trọng của dịch vụ khách hàng sẽ khác nhau. Một số sản
phẩm không hề có dịch vụ đi kèm (ví dụ như xà phòng, kem đánh răng…), có
Khái niệm: Chủng loại hàng hoá là một nhóm sản phẩm có liên quan chặt
chẽ với nhau do giống nhau về các chức năng hay do bán chung cho cùng một
nhóm khách hàng, hay thông qua cũng những kiểu tổ chức thương mại, hay trong
khuôn khổ cùng một dãy giá.
Quyết định bề rộng của chủng loại sản phẩm: bề rộng của chủng loại sản
phẩm là sự phân giải về số lượng các mặt hàng thành phần theo một tiêu thức nhất
định, ví dụ như theo kích cỡ, theo công suất…
Mỗi doanh nghiệp có cách thức lựa chọn bề rộng chủng loại sản phẩm khác
nhau. những lựa chọn này tuỳ thuộc vào mục đích mà doanh nghiệp theo đuổi.
Các doanh nghiệp thiên về mục tiêu cung cấp một chủng loại đầy đủ hay
phấn đấu để chiếm lĩnh phần lớn thị trường hay mở rộng thị trường thường có
chủng loại hàng hoá rộng. Ngược lại có những doanh nghiệp quan tâm trước hết
đến sinh lãi cao của hàng hoá.
Để mở rộng và duy trì bề rộng của chủng loại sản phẩm doanh nghiệp có hai
hướng lựa chọn:
Hai là, bổ sung mặt hàng cho chủng loại sản phẩm
Bề rộng của danh mục sản phẩm là tổng thể số các chủng loại hàng hoá do
công ty sản xuất.
Theo quan niệm Marketing, sản phẩm mới có thể là những sản phẩm mới về
nguyên tắc, sản phẩm mới cải tiến từ các sản phẩm mới hiện có hoặc những nhãn
hiệu mới do kết quả nghiên cứu, thiết kế, thử nghiệm của công ty.
Thiết kế, sản xuất sản phẩm mới là một việc làm cần thiết nhưng có thể là
mạo hiểm đối với doanh nghiệp bởi chúng có thể thất bại do những nguyên nhân
khác nhau. Để hạn chế rủi ro, các chuyên gia - những người sáng tạo ra sản phẩm
mới phải tuân thủ nghiêm ngặt các bước trong quá trình tạo ra sản phẩm mới và
đưa nó vào thị trường.
Việc thiết kế sản phẩm mới thường trải qua 3 giai đoạn hết sức quan trọng là:
hình thành ý tưởng, lựa chọn ý tưởng, soạn thảo và thẩm định dự án.
• Khách hàng, qua thăm dò ý kiến họ, trao đổi với họ, thư từ và đơn khiếu nại
họ gửi đến, các thông tin họ phản ánh trên báo chí và phương tiện thông tin
đại chúng…
• Nhân viên bán hàng và những người của công ty thường xuyên tiếp xúc với
khách hàng
• Những người có bằng sàng chế phát minh, các trường đại học, các chuyên
gia công nghệ và quản lý, các nhà nghiện cứư marketing...
Ý tưởng về sản phẩm mới thường hàm chứa những tư tưởng chiến lược tỏng
hoạt động kinh doanh và hoạt động marketing của công ty, chẳng hạn như: tạo ra
ưu thế đặc biệt nào đó so với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh, cống hiến một sự
hài lòng hay thoả mãn nào đó cho khách hàng…
b) Lựa chọn ý tưởng
Mục đích: cố gắng phát hiện , sàng lọc và loại thải những ý tưởng không phù
hợp, kém hấp dẫn để chọn đựơc những ý tưởng tốt nhất.
Các tiêu chuẩn thẩm định lựa chọn ý tưởng và phương án sản phẩm mới: bản
mô tả sản phẩm, thị trường mục tiêu, các đối thử cạnh tranh, ước tính sơ bộ quy mô
thị trường, các chi phí liên quan đến thiết kế, chi phí sản xuất sản phẩm, mức độ
ohù hợp với doanh nghiệp về phương diện công nghệ, tài chính…
c) Soạn thảo và thẩm định dự án sản phẩm mới
Sau khi đã có những ý tưởng được chọn lựa, mỗi ý tưởng phải được xây
dựng thành những dự án sản phẩm mới.
Ý tưởng là những tư tưởng khái quát về sản phẩm, còn dự án là sự thể hiện
tư tưởng khái quát đó thành các phương án sản phẩm mới với các tham số về đặc
tính hay công dụng hoặc đối tượng sử dụng khác nhau của chúng.
Sau khi đã có dự án về sản phẩm, cần phải thẩm định từng dự án này. Thẩm
định dự án là tử nghiệm quan điểm và thái độ của nhóm khách hàng mục tiêu đối
với các phương án sản phẩm đã được mô tả.
d) Soạn thảo chiến lược Marketing cho sản phẩm mới
Chiến lược Marketing cho sản phẩm mới bao gồm ba phần:
Nhóm SVTH: nhóm 12 12
GVHD: Vũ Thị Tuý
Trường ĐHSPKT Hưng Yên Lớp Q1K5
Khoa Kinh Tế
Phần thứ nhất: mô tẳ quy mô, cấu trúc thị trường và thái độ của khách hàng
trên thị truờng mục tiêu, dự kiến xác lập vị trí sản phẩm, chỉ tiêu về khối lưọng bán,
thị phần, lợi nhuận trong những năm trước mắt
Phần thức hai: Trình bày quan điểm chung về phân phối sản phẩm và dự
đoán chi phí Marketing cho năm đầu
Phần thứ ba: trình bày những mục tiêu tương lai về các chỉ tiêu: tiêu thụ, lợi
nhuận, quan điểm chiến lược lâu dài về các chỉ tiêu: tiêu thụ, lợi nhuận, quan điểm
chiến lược lâu dài về các yếu tố marketing – mix.
e) Thiết kế sản phẩm mới
Trong giai đoạn thiết kế các dự án: sản phẩm phải đựoc thể hiện thành những
sản phẩm hiện thực, chứ không chỉ là những mô tả khái quát như các bước trên. Để
làm đựoc việc này, bộ phận nghiên cứu thiết kế sẽ tạo ra một hay nhiều phương án
hay mô hình sản phẩm. Theo dõi và kiểm tra các thông số kinh tế - kỹ thuật, các
khả năng thực hiện vai trò của sản phẩm và từng bộ phận , chi tiết cấu thành ra nó.
Tạo ra sản phẩm mẫu, thử nghiệm chức năng của nó trong phòng thí nghiệm, kiểm
tra thông qua khách hàng hay người tiêu dùng để biết ý kiến của họ.
g) Thử nghiệm trong điều kiện thị truờng
Nếu sản phẩm mới đã qua được việc thử nghiệm chức năng và sự kiểm tra
của ngừơi tiêu dùng thì doanh nghiệp sẽ sản xuất một lạot nhỏ để thử nghiệm trong
điều kiện thị trừong. Ở bước này người ta vừa thử nghiệm sản phẩm vừa thử
nghiệm các chương trình marketing. Bước này thăm dò khả năng mua và dự báo
chung về mức tiêu thụ.
f) Triển khai sản xuất hàng loạt và quyết định tung sản phẩm mới ra thị trường
Sau khi thử nghiệm thị trường, doanh nghiệm đã có căn cứ rõ nét hơn để
quyết định có sản xuất đại trà sản phẩm mới hay không. Nếu việc sản xuất đại trà
hay hàng loạt được thông qua hay doanh nghiệp phải thực sự bắt tay vao triển khai
1.6 Chu kỳ sống của sản phẩm và các chiến lược Marketing
Chu kỳ sống của sản phẩm là thuật ngữ mô tả sự biến đổi doanh số tiêu thụ
kể từ khi hàng hoá được tung ra thị trường cho đến khi nó phải rút lui khỏi thị
trường.
Chu kỳ sống của sản phẩm gồm 4 giai đoạn: Giai đoạn tung sản phẩm vào thị
trường; giai đoạn phát triển; giai đoạn chín muồi; giai đoạn suy thoái
Sự tồn tại của chu kỳ sống sản phẩm là hiển nhiên, hy vọng về sự tồn tại lâu
dài với doanh số cao đối với một sản phẩm, chủng loại sản phẩm hoặc nhãn hiệu
sản phẩm là chính đáng. Nhưng hy vọng đó chỉ đạt đựơc khi doanh nghiệp biết
Đây là giai đoạn mở đầu của việc đưa sản phẩm ra bán chính thức trên thị
trường. nó đòi hỏi phải có thời gian và sự chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt.
Trong giai đoạn này lợi nhuận âm hay thấp bởi mức tiêu thụ thấp, các chi phí
phân phối và khuyến mại rất lớn. Các chi phí khuyến mại chiếm tỷ lệ lớn nhất trong
doanh số bán ra “vì cần có nỗ lực khuyến mại ở mức độ cao nhằm: thông tin cho
người tiêu dùng tiềm ẩn về sản phẩm mới và chưa biết đến, kích thích dùng thử sản
phẩm, đảm bảo phân phối đến các cửa hàng bán lẻ”.
Khuyến mại
Cao Thấp
chiến lược hớt váng chớp chiến lược hớt váng
Cao
nhoáng chậm
Giá
chiến lược xâm nhập chớp chiến lược xâm nhập
Thấp
nhoáng từ từ
Chiến lược hớt váng chớp nhoáng: Tung sản phẩm ra với giá cao, khuyến
mại cao.
Thích hợp cho giả thiết: Phần lớn thị trường tiềm ẩn chưa biết đến sản
phẩm,những người biết đến đều thiết tha với sản phẩm và có thể trả theo giá chào
Chiến lược hớt váng chậm: Tung sản phẩm ra với giá cao, mức khuyến mại
thấp
Chiến lược xâm nhập chớp nhoáng: tung sản phẩm ra thị trường với giá thấp
và chi phí nhiều cho khuyến mại.
Thích hợp cho thị trường lớn, chưa biết đến sản phẩm, hầu hết người mua
nhạy cảm với giá, tiềm ẩn khả năng cạnh tranh quyết liệt, chi phí sản xuất 1 đơn vị
sản phẩm của công ty giảm dần khi quy mô sản xuất tăng.
Chiến lược xâm nhập từ từ: Tung sản phẩm mới ra thị trường với mức giá
thấp và mức khuyến mại thấo
Thích hợp khi: thị trường lớn, thị trường đã biết rõ sản phẩm, thị truờng nhạy
cảm với giá, có sự cạnh tranh tiềm ẩn.
Mức tiêu thu tăng nhanh. Các đối thủ cạnh tranh xâm nhập thị trường. Giá cả
giữ nguyên hoặc giảm đôi chút. Lợi nhuận tăng nhanh.
• Nâng cao chất lượng sản phẩm, bổ sung thêm những tính chất mới cho sản
phẩm, cải tiến kiểu dáng.
• Chuyển quảng cáo mức độ biết đến sản phẩm sang quảng cáo mức độ ưa
thích sản phẩm
• Giảm giá thu hút số người mua nhạy cảm giá tiếp sau
Nhịp độ tăng trưởng mức tiêu thụ sản phẩm chững lại, sản phẩm bước vào
giai đoạn sung mãn tương đối
Cải biến thị trường: Công ty có thể cố gắng mở rộng thị trường cho những
nhãn hiệu sung mãn của mình bằng cách sử dụng hai yếu tố hợp thành khối lượng
tiêu thụ:
Khối lượng = số người sử dụng nhãn hiệu x mức sử dụng trên một người
• Cải biến chất lượng nhằm nâng cao tính năng của sản phẩm
Duy trì mức đầu tư đến khi giải quyết xong tình trạng không chắc chắn của
ngành.
Loại bỏ những nhóm khách hàng không có lời, đồng hotìư củng cố vốn đầu
tư ở những mẫu thị trường sinh lời.
Thu hoạch vốn đầu tư của công ty để trang trải nhanh các khoản tiển mặt
Giải thể nhanh chóng doanh nghiệp đó bằng cách bán tài sản của nó một
cách có lợi nhất
Quyết định loại bỏ một sản phẩm. Nếu sản phẩm đó được phân phối rất
mạnh và vẫn còn tín nhiệm thì chắc chắn công ty có thể bán nó cho một công ty
nhỏ hơn.
2.2 Thực trạng về chiến lược sản phẩm của cà phê trung nguyên
Sản phẩm
cà phê
Trung
Nguyên
Cà phê
Cà phê Cà phê
Trung Cà phê 777
hoà tan G7 Passiona
Nguyên
G7 capuccino - hazelnut: hương vị nồng nàn của hạt dẻ và cà phê hảo hạng
vùng đất Buôn Ma Thuột.
G7 capuccino - irish cream: mùi rượu liqueur, thoảng nhẹ, vị kem thơm
ngon cúng tinh chất cà phê tươi.
G7 capuccino - mocha: hương vị socola và cà phê.
G7 2 in 1 - mạnh chưa đủ phải đúng gu
2.2.5 Cà phê Trung Nguyên tăng xâm nhập thị trường thế giới
Cà phê Trung Nguyên vừa cho biết đã có kế hoạch cụ thể trong chiến lược
phát triển mở rộng thị trường quốc tế vào năm 2012 với các thị trường trọng điểm
là Mỹ, Trung Quốc và Singapore, trong đó thành lập hai trung tâm điều hành tại
Mỹ và Singapore.
Với thị trường Mỹ, qua vị thế và sự ảnh hưởng của Mỹ, thì một khi cà phê
trung nguyên vào được thị trường Mỹ và thành công tại Mỹ sẽ là minh chứng mạnh
mẽ nhất giúp dễ dàng mở toang tất cả các cánh cửa thị trường còn lại của thế giới.
Với thị trường Trung Quốc, cà phê Trung Nguyên có lợi thế là vị trí gần,
tương đồng về văn hóa, thị trường đông dân, dân số trẻ và xu thế dịch chuyển từ trà
sang cà phê đang tăng mạnh.
Ở Việt Nam, triết lý cà phê mới manh nha. Để có được triết lý ấy, cần dựa
trên quan điểm của địa phương, dân tộc và thế giới về loại sản phẩm này. Nó sẽ
được bồi đắp bởi những người uống và đam mê cà phê theo thời gian, ngay một lúc
không thể hoàn tất được.
Công ty cần nhìn nhận đây là vấn đề nghiêm túc và phải có công trình nghiên
cứu cẩn thận. Cà phê là mẫu số chung để quy tụ 2 triệu tín đồ uống cà phê ở nhiều
quốc gia, sắc tộc, màu da, quan điểm chính trị và tôn giáo khác nhau. Do đó, cần
phải nghiên cứu nó với tư cách một công trình khoa học. Nếu có được triết lý ấy,
Việt Nam sẽ có một cơ hội quá lớn. Lần đầu tiên Việt Nam sẽ trở thành nhà tư
tưởng, có thể xuất khẩu và quy tụ được những người khác nhau trên thế giới
Trong chiến lược marketing, muốn xây dựng thương hiệu, doanh nghiệp bao
giờ cũng phải là người đi đầu ở một khía cạnh nào đó. Luật dẫn đầu áp dụng cho tất
cả các sản phẩm kể từ thể rắn như xe cộ và máy tính đến thể mềm như các trường
đại học và các thức uống. Đừng cố thay đổi một vị trí dẫn đầu của sản phẩm nào đó
mà nên tạo ra một sản phẩm mới khiến cho doanh nghiệp có thể đứng ở vị trí đầu
tiên.
Xây dựng thương hiệu là tìm ra điểm mới, mới như thế nào. Mỗi thương hiệu
nên phát ngôn được hai vấn đề: giá trị cốt lõi và sự khác biệt hấp dẫn thế giới người
Phải nắm được khâu phân phối và thương hiệu. Như Starbucks, họ đến sau
nhiều hãng cà phê, nhiều hệ thống khác nhưng vì sao họ chiến thắng? Đó là vì họ
có phương pháp và những quan điểm đúng trong vấn đề định vị trong não trạng của
từng người tiêu dùng. Việt Nam nếu xét góc độ nào đó hơn các đất nước khác về
gốc, bởi những thương hiệu như Nestlé, Kraft, Sara Lee, P&G, và các hàng cà phê
đặc biệt như Starbucks, Tullys... tất cả đều đến từ những nước Âu - Mỹ - những
nước hầu như không trồng cà phê. Công ty có gốc nhưng lại không phát huy xây
dựng được một thương hiệu toàn cầu. Hiện nay, thương hiệu của Trung Nguyên
vẫn chưa nổi bật vẫn còn mờ nhạt với thế giới.
Nhưng nếu nhận thức được vấn đề này, tính toán lại và thực hiện một cách
nghiêm túc, Trung Nguyên sẽ có vị trí nhất định.
Theo thống kê đo lường tại sáu thành phố lớn (chỉ tính sản phẩm có nhãn
hiệu), hiện tại thị phần của cà phê hòa tan chiếm 62% về số lượng và 65% về giá trị
so với 38% số lượng và 34% về giá trị của cà phê rang xay có nhãn hiệu. Riêng tại
thị trường Hà Nội và bốn thành phố chính (Hải phòng, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần
thơ) , tỷ trọng cà phê hòa tan còn chiếm đa số so với cà phê rang xay tương ứng
91%, 73%.
Trong thị trường cà phê hòa tan, lực lượng phân tán khá đồng đều cho ba đối
thủ Vinacàphê (38%), Nescafe (32%) và G7 (23%). Thị trường này đang có bước
Nhóm SVTH: nhóm 12 35
GVHD: Vũ Thị Tuý
Trường ĐHSPKT Hưng Yên Lớp Q1K5
Khoa Kinh Tế
chuyến biến khá nguy hiểm cho đối thủ Vinacafe khi mức độ tặng trưởng chỉ đạt
27% so với 51% và 88% của Nescafe và G7 trong năm gần đây.
Trong thị trường cà phê rang xay, Trung Nguyên đang dẫn đầu cách biệt so
với các đối thủ khác (>80%).
Hiện tại thị trường cà phê của Việt Nam chưa phân hóa rõ ràng hai thị trường
cà phê là cà phê đại trà và cà phê đặc biệt. Cà phê đại trà có thể kể đến như Trung
Nguyên ở Việt Nam hay cà phê Taster’s choice của Nestlé tại Mỹ. Cà phê đặc biệt
có thể kể đến như HighLand ở Việt Nam hay Starbucks ở Mỹ. Vì cà phê đặc biệt
tại Việt Nam còn rất nhỏ nên chưa tạo nên ảnh hưởng lớn so với thị trường chiếm
hơn 40% tại Mỹ để họ có thể thành lập nên hiệp hội cà phê đặc biệt của Hoa Kỳ
(SCAA).
Trong tương lai với sự tham gia của nhiều thương hiệu cà phê đặc biệt, thị
trường sẽ phân chia lại và định hình rõ ràng hơn. Đặc biệt nếu Starbucks xem xét
lại ý định đầu tư vào thị trường Việt Nam. Vậy vấn đề đặt ra cho Trung Nguyên là
cần có những bước đi tích cực hơn khẳng định thương hiệu của mình trên thị
trường nhằm giành lấy lợi thế đi trước đón đầu trước các đối thủ cạnh tranh mạnh.
KẾT LUẬN
Với những nỗ lực,cố gắng không ngừng trong sản xuất và kinh doanh, công
ty cổ phần Trung Nguyên trong thời gian qua đã đạt được nhiều thành tích, tạo ra
bước tăng trưởng đáng kể về doanh thu, lợi nhuận, khẳng định vị thế sản phẩm của
mình trên thị trường.
Ban đầu Trung Nguyên chỉ là một nhãn hiệu cà phê non trẻ của Việt Nam
nhưng đã nhanh chóng trở thành thương hiệu cà phê quen thuộc với người tiêu
dung trong và ngoài nước. Nhờ đi tiên phong trong việc áp dụng mô hình kinh
doanh nhượng quyền tại Việt Nam chỉ trong vòng mười năm từ một hãng cà phê
nhỏ bé nằm giữa thủ phủ cà phê Buôn Mê Thuột, Trung Nguyên đã trỗi dậy thành
một tập đoàn hùng mạnh với sáu công ty thành viên : Công ty cổ phần Trung
Nguyên, Cong ty cổ phần cà phê hòa tan Trung Nguyên, Công ty TNHH cà phê
Trung Nguyên, Công ty CPTM và dịch vụ G7, Công ty liên doanh Việt Nam
Global Gateway(VGG) với các ngành nghề chính: sản xuất, chế biến, kinh doanh
trà, cà phê, nhượng quyền thương hiệu và dịch vụ phân phối, bán lẻ hiện đại .Trong
tương lai tập đoàn Trung Nguyên sẽ phát triển với mười công ty thành viên đồng
thời kinh doanh nhiều ngành nghề đa dạng.
MỤC LỤC