Professional Documents
Culture Documents
Văn hiến Chuyên đề kinh tế - số 5 năm 2011
Văn hiến Chuyên đề kinh tế - số 5 năm 2011
CULTURE OF VIETNAM
Tạp chí xuất bản 03 kỳ/tháng
Giấy phép hoạt động báo chí số 397/GP-BVHTT
và số 41/GP-SĐBS
Giấy phép quảng cáo số 1187/BC
Chủ nhiệm
GS Hoàng Chương
Đ/C Trương Tấn Sang trao tặng báo Nhân Dân bức trướng chúc mừng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
6
0 năm qua, kế tục sự nghiệp vẻ vang của các tờ tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại, Người
báo Thanh Niên, Tranh Đấu, Cờ giải phóng, Sự sáng lập, Người thầy của báo chí cách mạng Việt Nam;
Thật, báo Nhân Dân đã hoàn thành tốt vai trò cơ sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của Bộ Chính trị, Ban Bí
quan Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam, thư Trung ương Đảng và nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng
tiếng nói của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, và Nhà nước qua các thời kỳ; sự cộng tác, ủng hộ nhiệt
là tờ báo hàng đầu của đất nước. Trong hai cuộc kháng tình của đông đảo cộng tác viên và bạn đọc. Trong đó,
chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, giải phóng dân trực tiếp và quan trọng nhất là do sự rèn luyện, nỗ lực
tộc, thống nhất đất nước, tập thể những người làm Báo phấn đấu của các thế hệ cán bộ, phóng viên, công nhân
Nhân Dân đã đem hết sức lực và trí tuệ, vượt qua muôn viên của Báo, xây dựng nên truyền thống tốt đẹp tuyệt
ngàn gian lao, thử thách, như một đội quân chiến đấu, đối trung thành, kiên định với sự nghiệp cách mạng của
góp phần xứng đáng vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Đảng, của dân tộc; đoàn kết, đổi mới, sáng tạo của báo
Nhiều tác phẩm báo chí đã ghi lại, phản ánh kịp thời Nhân Dân. Thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung
những chiến dịch, những trận đánh, những thời khắc lịch ương Đảng, tôi nhiệt liệt chúc mừng và biểu dương các
sử quan trọng trên chiến trường, ở hậu phương, trên mặt thế hệ cán bộ, phóng viên, công nhân viên báo Nhân Dân
trận đấu tranh chính trị, ngoại giao. Nhiều bài báo được đã bền bỉ phấn đấu, trưởng thành, xây đắp nên truyền
các nhà báo - chiến sĩ viết trong bom đạn, trong khói lửa thống vẻ vang trong 60 năm qua.
của cuộc chiến đấu làm xúc động lòng người. Trong sự Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh công cuộc đổi
nghiệp đổi mới đất nước 25 năm qua, báo Nhân Dân đã mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập
thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, tích cực tuyên truyền, quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư trưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa trong bối cảnh có những thời cơ và thuận
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; tuyên lợi hết sức to lớn, song những thách thức và khó khăn
truyền, cổ vũ các cuộc vận động lớn, các phong trào thi cũng không nhỏ. Thực hiện thắng lợi sự nghiệp đó đòi
đua, những mặt tích cực trong đời sống xã hội. Đồng hỏi sự phấn đấu rất cao của toàn Đảng, toàn dân, toàn
thời, có nhiều bài phê phán, đấu tranh chống quan liêu, quân ta, trong đó có sự góp sức của báo chí cả nước nói
tham nhũng và các hiện tượng tiêu cực, chống sự phá chung, báo Nhân Dân nói riêng. Báo chí với chức năng
hoại của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn là người “tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể, tổ chức
hóa, có tác dụng tốt. tập thể” như V.I Lênin từng chỉ rõ, phải góp phần tạo nên
Báo Nhân Dân đạt được những thành tựu to lớn đó sự thống nhất về tư tưởng, sự đồng thuận trong xã hội,
là do được sự chăm sóc, giáo dục, rèn luyện, chỉ đạo trực tạo nên sức mạnh to lớn của đất nước. Báo chí là công cụ
T
ừ năm 1923, nhà thơ Xô
Viết Mandenxtam với
đôi mắt “tinh đời” đã
“giữa trần ai” nhận ở Hồ
Chí Minh con người của nền văn
hóa ngày mai.
Văn hóa ngày mai đang đến
với nhân loại. Lịch sử sẽ thực sự
kết thúc cuộc sống đen tối của bạo
tàn để bước sang cuộc sống rực rỡ
của văn hóa.
Ngày mai thế giới không
còn bóc lột và áp bức. Ngày mai
khoa học trở thành sức mạnh kỳ
diệu để đổi mới cả thiên nhiên
và xã hội. Ngày mai của cải vật
chất và tinh thần sẽ dồi dào như
suối chảy. Trong ngày mai ấy, con
người sẽ sống ra sao và văn hóa sẽ
như thế nào?
Tôi không nghĩ rằng bước vào
thế kỷ XXI nhân loại sẽ không còn
gặp những khó khăn, vất vả và
trong cuộc sống sẽ không còn ưu
tư. Tuy nhiên, ưu tư ngày mai sẽ
chẳng còn giống như ưu tư hôm
nay. Cuộc sống đổi mới sẽ đề ra
những nhiệm vụ mới còn vẻ vang
hơn nữa. Con người lúc đó vẫn
phải có đầy đủ sức mạnh và nghị
lực để vượt qua những trở ngại
mới.
Có lẽ Hồ Chí Minh đã nhìn
trước được những diễn biến phức
tạp trên những chặng đường sắp
tới của nhân loại, nhìn trước được
những đòi hỏi của nền văn hóa
sau này nên đã chuẩn bị cho mình
những phẩm chất và tinh thần mà
cả hôm nay và ngày mai cần tới.
1. Văn hóa ngày mai là văn
hóa của một xã hội thực sự bình
đẳng, dân chủ và nhân đạo. Cách
mạng xã hội chủ nghĩa về nguyên
tắc phải đảm bảo độc lập của dân
5 Vùn Hiïën
viïåt Nam
Vùn Hiïën 5
viïåt Nam
tộc, đem lại tự do hạnh phúc cho mê phấn đấu cho tương lai của cả gần gũi với thiên nhiên giữa ao cá,
con người. Để bảo vệ thành quả dân tộc và nhân loại. vườn cây, trăng trong, gió mát...
của cách mạng, việc xây dựng một 3. Văn hóa ngày mai là văn 4. Điểm nổi bật trong nền văn
nhà nước mới là tất yếu nhưng hóa của những con người được hóa của ngày mai, theo Hồ Chí
nhà nước ấy phải khác về bản chất phát triển về mọi mặt. Minh, có lẽ là tình yêu thương
với mọi kiểu nhà nước trước đây. Con người ngày mai là con giữa người và người.
Hồ Chí Minh xuất phát từ người sáng suốt nhất trong suy Sự phát triển về mọi mặt của
quyền tự do của nhân dân, luôn nghĩ và hành động. Ngày mai, khoa học kỹ thuật và kinh tế xã
luôn nhấn mạnh tính chất dân khoa học sẽ hòa nhập vào cuộc
hội ở thời đại ngày nay đã chuẩn
chủ của nhà nước mới. Người sống của họ. Khoa học trở thành
bị những điều kiện khách quan
luôn lo lắng về khả năng nảy sinh nhân tố bên trong của sản xuất vật
cho sự gần gũi và thống nhất của
những thói hư tật xấu như tham chất, của tổ chức xã hội và của mọi
ô, lãng phí quan liêu, sản phẩm tất hoạt động tinh thần. toàn nhân loại. Mọi sự thù địch,
yếu của các nhà nước trước đây. Chủ nghĩa Mác – Lênin sẽ chia cắt giữa người và người, giữa
Người luôn luôn nhắc nhở cán không ngừng đổi mới để mãi mãi dân tộc sẽ dần dần được xóa bỏ
bộ phải là “đầy tớ của nhân dân” là thế giới quan tiến bộ nhất. để chuẩn bị cho một tương lai mà
chứ không phải là “ông quan cách Với sự phát triển của khoa tình thương và tiếng hát sẽ trùm
mạng”. Suốt đời, Người đã chiến học, loài người sẽ chứng kiến lên thế giới.
đấu cho một xã hội mà mọi quyền sức mạnh ngày một kỳ diệu của Hồ Chí Minh ngay từ bước
lực phải thực sự thuộc về nhân kỹ thuật. Một mặt, nó nâng cao đầu hoạt động đã đặt hết trí tuệ
dân. Thương nhân dân thì mọi tôn đời sống vật chất của con người, và nhiệt tình vào cuộc chiến đấu
giáo, mọi đạo đức đều có. Nhưng một mặt nó phá hoại cuộc sống cho những mục tiêu nói trên. Có lẽ
tôn trọng nhân dân, tin tưởng đó. Nó tạo ra hai khả năng: hoặc vì thế mà ngay từ thời còn trẻ, Hồ
tuyệt đối vào nhân dân đó là đặc nó thống trị con người hoặc con Chí Minh đã xuất hiện trước Man-
điểm của Hồ Chí Minh, là nét nổi người thống trị nó. Từ mấy chục denxtam như một nhà văn hóa
bật của xã hội có văn hóa. năm nay, các xã hội phương Tây của ngày mai. Có lẽ Mandenxtam
2. Trong xã hội ngày mai bên cạnh những thành tựu của kỹ
đã thấy ở Người không chỉ nghị
những giá trị văn hóa sẽ được nêu thuật đã lên án những biểu hiện
lực kiên cường của một chiến sĩ
lên hàng đầu. Sự dư thừa trong tiêu cực của nó. Kỹ thuật thúc đẩy
đấu tranh cho tự do mà còn thấy
đời sống vật chất chưa đủ để đem sự phát triển vô chính phủ của xã
lại hạnh phúc cho con người. hội tư bản tạo ra sự ô nhiễm môi ở trong cái nhìn của Người, tấm
Nếu như con người không trường, sự tàn phá thiên nhiên. Nó lòng bao la đối với cả nhân loại.
còn những hoài bão để theo đuổi, đe họa về sự huỷ diệt của bom hạt “Ôi! Người Cha, đôi mắt mẹ
không có những vấn đề cần giải nhân, nó dẫn đến một cuộc sống hiền sao!” (Tố Hữu)
quyết thì sự tê liệt của đầu óc đô thị chật chội về nhà ở, trì trệ về Ôi! Đôi mắt Hồ Chí Minh với
sẽ biến con người thành cái xác giao thông. Nhiều thanh niên và cái nhìn bất diệt!
không hồn chỉ biết có hưởng thụ. trí thức phản ứng cuộc sống trên Cái nhìn xóa đi mọi sự ngờ
Hồ Chí Minh đã sớm đánh giá cơ sở kỹ thuật này bằng cách trở vực, lật đổ đi mọi sự chia ngăn!
cao những giá trị văn hóa trong về thời gần gũi với thiên nhiên, Cái nhìn tin cậy làm tiêu tan
cuộc sống. Suốt mấy chục năm trở lại với quá khứ, luyến tiếc thời mọi điều phiền muộn!
làm nguyên thủ một quốc gia, tiền công nghiệp. Cái nhìn gắn bó yêu thương
Người có đầy đủ mọi điều kiện để Hồ Chí Minh như đã nhìn rõ với mọi người làm mở rộng những
xây dựng một cuộc sống vật chất những điều đó. Sống giữa những trái tim, nở tươi những nụ cười.
cao nhất. Nhưng Người đã sống đô thị lớn nhất của thế giới, như Ôi cái nhìn từ con người của
thanh đạm trong một nhà sàn, với Paris, London, New York...Hồ Chí
nền văn hóa ngày mai!
một bộ quần áo kaki và đôi dép Minh đã trực tiếp nhìn thấy mặt
Năm nay kỷ niệm 100 năm
lốp. Người gạt bỏ mọi thứ cám dỗ trái của cái xã hội gọi là văn minh
ngày Hồ Chí Minh lên đường
về vật chất đã từng nô dịch bao kỹ thuật. Trong các cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước (1911 – 2011), chúng
nhiêu người đứng đầu nhà nước
từ xưa đến nay. Ở con người tự do cũng như đi vào xây dựng đất ta không chỉ quay về quá khứ
ấy, cuộc sống giản dị về vật chất nước, Người đòi hỏi phải nhanh để tưởng nhớ người Anh hùng
lại vô cùng phong phú về tinh chóng nắm vững và vận dụng giải phóng dân tộc, Danh nhân
thần. Người tìm thấy hạnh phúc được những thành tựu cao nhất văn hóa thế giới, mà còn nhìn về
hoàn chỉnh trong sự hiểu biết và của khoa học kỹ thuật. Nhưng tương lai để thấy Người từ đỉnh
say mê sáng tạo, trong tình yêu trong cuộc sống, Người lại tạo cao của Tự do và văn hóa, mỉm
thương rộng lớn, trong niềm say cho mình một cuộc sống riêng, cười và vẫy gọi chúng ta.
T
hấm thoát đã hơn 35 năm, Lăng Bác được khánh
thành, đón nhân dân trong nước và khách Quốc tế
đến viếng Người.
Năm 2010, Hà Nội cùng cả nước chào đón Đại lễ
1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Lăng Bác – Công trình kiến
trúc có ý nghĩa chính trị, văn hóa to lớn, sâu sắc, một biểu
tượng của thời đại Hồ Chí Minh giữa Ba Đình lịch sử, càng nổi
bật, càng như thiêng liêng, cuốn hút.
Nhớ lại những ngày đầu đón Bác về Lăng, sự nghiệp bảo
vệ, giữ gìn tuyệt đối an toàn và lâu dài thi hài Bác chuyển sang
một giai đoạn mới, với những yêu cầu mới, chưa có tiền lệ ở
Việt Nam. Thi hài Bác được bảo vệ và giữ gìn trong một khu
Vùn Hiïën 7
viïåt Nam
vực rộng lớn, hàng ngày có hàng nghìn lượt người từ thời bắt đầu thi công công trình Lăng. Với truyền
đến viếng Bác. Đồng thời, phải tổ chức lực lượng thống và kinh nghiệm đã tích luỹ được trong 6 năm
quản lý, vận hành các thiết bị kỹ thuật phục vụ công chiến tranh phải sơ tán, đơn vị vừa ổn định tổ chức và
tác y tế đặc biệt và phục vụ thăm viếng, bảo đảm an đời sống vừa tích cực triển khai học tập nghiên cứu
ninh khu vực, tổ chức gác tiêu binh danh dự. cùng với các chuyên gia Liên Xô bảo đảm nghiệp vụ
Trước yêu cầu nhiệm vụ nặng nề đặt ra, Quân ủy kỹ thuật công trình Lăng và nhiệm vụ y tế giữ gìn
Trung ương thấy cần phải có một tổ chức có đủ năng tuyệt đối an toàn thi hài Bác.
lực và quyền hạn để lãnh đạo, chỉ huy thống nhất Ngày 11 tháng 7 năm 1976, Bộ Chính trị ra Quyết
các lực lượng quân đội làm nhiệm vụ tại Lăng Chủ định số 14 – TB/ TW về tổ chức bảo đảm nhiệm vụ
tịch Hồ Chí Minh. Trong phiên họp ngày 18 tháng 12 giữ gìn lâu dài thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quản
năm 1975, sau khi nghe đồng chí Lê Quang Đạo, Ủy lý Lăng và Quảng trường Ba Đình; Quyết định thành
viên dự khuyết Trung ương Đảng, Ủy viên Thường lập Ban Phụ trách Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh (Sau
vụ Quân ủy Trung ương, Phó Chủ nhiệm Tổng cục này được đổi tên là Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ
Chính trị báo cáo về phương án tổ chức bảo vệ Lăng, Chí Minh). Ban Phụ trách Lăng trực thuộc Hội đồng
Thường vụ Quân ủy Trung ương đã quyết định thành Chính phủ. Các lượng lượng thuộc Ban Quản lý Lăng
lập Bộ Tư lệnh bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, gồm: Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh,
lấy phiên hiệu là Bộ Tư lệnh 969. Nhiệm vụ của Bộ Đoàn 375 (Bộ Công an), Ban Quản lý Quảng trường
Tư lệnh 969 được Thường vụ Quân ủy Trung ương Ba Đình (Ủy Ban nhân dân thành phố Hà Nội). Các
xác định: Trước hết là trực tiếp chăm lo giữ gìn thi hài đồng chí được Thủ tướng bổ nhiệm: Thiếu tướng
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thứ hai, quản lý, sử dụng các Trần Kim Chi, Trưởng ban; Lê Hòa và Nguyễn Việt
thiết bị máy móc và các công trình kỹ thuật ở khu vực Dũng, Phó trưởng ban.
Lăng. Thứ ba, tổ chức gác danh dự và bảo vệ an toàn Ban Phụ trách Lăng có nhiệm vụ thống nhất kế
khu vực Lăng. Thứ tư, hướng dẫn các đoàn khách và hoạch hoạt động, điều hòa phối hợp công tác của
nhân dân vào viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thứ năm, các đơn vị làm nhiệm vụ quản lý, vận hành thiết bị
quản lý điều hành sở chỉ huy, các hệ thống kỹ thuật. của Lăng, Quảng trường và các công trình có liên
Căn cứ vào nhiệm vụ Bộ Chính trị giao cho Quân quan nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ và giữ gìn
ủy Trung ương và Bộ Quốc Phòng, trên cơ sở Quyết nguyên vẹn, lâu dài thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh, bảo
định vủa Thường vụ Quân ủy Trung ương, ngày 14 đảm tốt mọi hoạt động trong khu vực Lăng và Quảng
tháng 5 năm 1976 Bộ Quốc Phòng đã ra Quyết định trường Ba Đình.
số 109/ QĐ – QP thành lập Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Nhiệm vụ bảo vệ giữ gìn tuyệt đối an toàn và lâu
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bộ Tư Lệnh gồm các đồng chí: dài thi hài Bác là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, là sợi
Lương Soạn, quyền Tư lệnh; Lưu Công Tiền, quyền chỉ đỏ xuyên suốt mọi hoạt động của đơn vị. Từ lãnh
Chính ủy. đạo, chỉ đạo đến tổ chức thực hiện cụ thể, từ xây dựng
Sự ra đời của một đơn vị quân đội làm nhiệm đội ngũ cán bộ chủ chốt, cán bộ khoa học kỹ thuật đến
vụ chính trị đặc biệt là một sự kiện lịch sử đánh dấu việc đầu tư trang thiết bị phục vụ nhiệm vụ chuyên
bước trưởng thành quan trọng và là sự tin cậy, đánh môn đều phải tập trung vào thực hiện nhiệm vụ trung
giá rất cao của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với tâm và phải tiến hành theo một quy trình nghiêm
quân đội ta, đó cũng là một vinh dự to lớn, một sứ ngặt, không được phép xảy ra một sơ suất nhỏ nào.
mệnh thiêng liêng cao cả, hết sức vẻ vang của Quân Bằng ý chí độc lập tự chủ, chúng ta đã vượt qua
đội nhân dân Việt Nam. được những chặng đường khó khăn ban đầu. Từ chỗ
Lực lượng cán bộ, chiến sĩ, công nhân kỹ thuật lực lượng chỉ có 3 bác sĩ với những hiểu biết bước đầu
sau thời kỳ xây dựng Lăng được lựa chọn ở lại phục về nhiệm vụ y tế đặc biệt, quy trình khoa học hoàn
vụ tại Lăng làm nhiệm vụ quản lý, vận hành các hệ toàn do chuyên gia nắm giữ bí mật, đến nay ta đã có
thống máy móc, thiết bị kỹ thuật đảm bảo thông số một đội ngũ cán bộ khoa học có khả năng nghiên cứu
nhiệt ẩm và quản lý phần kiến trúc. Nhiều cán bộ, chuyên sâu. Từ chỗ cơ sở vật chất thiếu thốn, đến nay
chiến sĩ có vinh dự bảo vệ Bác từ những ngày đầu ở ta đã có một cơ sở nghiên cứu với những trang thiết bị
Đoàn 69 nay được lựa chọn cùng với số cán bộ, chiến tương đối hiện đại. Những kết quả nghiên cứu khoa
sĩ ưu tú, nòng cốt của Trung đoàn 144 thành lập Đoàn học đã cho phép ta rút ra những kết luận làm sáng tỏ
tiêu binh danh dự làm nhiệm vụ tại Lăng. nhiều vấn đề liên quan tới nhiệm vụ y tế giữ gìn thi
Từ căn cứ K84 trở về, Đoàn 69 tổ chức thực hiện hài Bác.
nhiệm vụ trong điều kiện vô cùng thiếu thốn. Cán bộ, Đầu những năm 90 của thế kỷ XX, đơn vị đứng
chiến sĩ vẫn phải ăn ở trong những căn nhà tạm có trước những khó khăn thử thách lớn trong tổ chức
S
Sự kiện UNESCO ra quyết inh thời, Hồ Chủ Tịch rất kịch Ôtenlô, Bác Hồ đã có những
định công nhận Hồ Chủ yêu thích sân khấu. Thời nhận xét rất sâu sắc.Với tâm hồn
thơ ấu, Bác đã từng tắm nghệ sỹ phong phú, với lòng yêu
Tịch là anh hùng giải mình trong cái biển dân sân khấu tha thiết, nên Bác Hồ
phóng dân tộc của Việt ca Nghệ Tĩnh, trong cái nôi của ca đã làm quen với nhiều nghệ sỹ
Nam và là danh nhân văn nhạc dân gian ở Huế - Trị Thiên. nổi danh ở Châu Âu, trong đó có
hoá thế giới, đã làm cho Đặc biệt, Bác còn theo cha, là cụ nghệ sỹ S.Sáp – lin, ông vua hề mà
phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc, làm cả thế giới biết tiếng và vừa tưng
chúng ta, những con cháu quen, tiếp cận với người nghệ bừng kỷ niệm 100 năm ngày sinh
của Bác Hồ vô cùng phấn sỹ tuồng lỗi lạc – Quan thượng của ông.
khởi, niềm tự hào dân tộc thư Đào Tấn, Bác không những Từ khi trở về nước lãnh đạo
lại được nhân lên. Các nhà đã xem tuồng Đào Tấn ở Vinh, ở cách mạng, dù bận trăm công
Huế mà còn đến tận quê hương nghìn việc, Hồ Chủ Tịch vẫn dành
nghiên cứu trong nước và của Đào Tấn để xem… (theo tài sự quan tâm đặc biệt tới sự nghiệp
thế giới đang cố gắng làm liệu của Sơn Tùng trong tác phẩm phục hồi và phát triển sân khấu
sáng rõ hơn nữa bức chân “Búp sen xanh”), Bác Hồ đã từng dân tộc.
dung của danh nhân văn viết kịch bản “Con Rồng tre” và Ai cũng biết, nếu Bác Hồ
nhiều truyện ngắn mang đầy chất không có tầm nhìn xa, trông rộng,
hoá Hồ Chí Minh. Một con sân khấu như chuyện “Vi hành” không thật sự coi các di sản văn
người đã hoà quyện giữa đăng trên báo Nhân đạo. Bác Hồ hóa dân tộc là tài sản quý của
hai con người mà tưởng cũng đã từng là diễn viên trong nhân dân thì các loại hình nghệ
chừng như khác biệt, đó là đội kịch câu lạc bộ ngoại ô Par- thuật sân khấu truyền thống như
is. Bác rất thích kịch cổ điển của Tuồng, Chèo đã xếp vào “bảo
lãnh tụ cách mạng và nhà Pháp, của Anh, của Ý, đặc biệt là tàng” theo nhận thức ấu trĩ và
văn hoá, nhà nghệ sỹ lớn, kịch của Sêchxpia. Sau khi xem vở sai lầm của một số cán bộ lãnh
đồng thời Bác Hồ cũng
là một con người đã kết
hợp hài hoà giữa hai nền
văn hoá phương Đông và
phương Tây. Ở đây, trên
lĩnh vực riêng của mình,
chúng tôi chỉ tách biệt trên
một khía cạnh khác trong
con người vĩ đại Hồ Chí
Minh. Đó là chất nghệ sỹ,
tâm hồn nghệ sỹ của Bác,
hoặc nói cụ thể hơn là sự
quan tâm của Bác Hồ với
nghệ thuật sân khấu.
Bác Hồ lên sân khấu với các nghệ sỹ Nhà hát Cải lương TW sau khi xem xong vở diễn
Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài (năm 1955)
Vùn Hiïën 11
viïåt Nam
đạo ở Trung ương và địa phương trong thời kỳ đầu rộng lớn trên thế giới.
cách mạng. Bác Hồ luôn luôn coi trọng và khuyến Một đặc điểm rất đáng chú ý ở tâm hồn nghệ sĩ và
khích các loại hình sân khấu dân tộc và rất quý trọng lòng yêu thích nghệ thuật sân khấu của Hồ Chủ Tịch
các nghệ sĩ dân tộc. Theo ông Lê Văn Hiến, nguyên là ở đâu Bác cũng giành thì giờ tiếp xúc, thăm hỏi các
Bộ trưởng Bộ Tài chính, vốn là một kép hát tuồng nghệ sĩ sân khấu. Tôi đã làm một bản thống kê khá dài
ở Quảng Nam cho biết là trong những năm ở chiến về những cuộc tiếp xúc của Bác Hồ với các nghệ sĩ sân
khu Việt Bắc mỗi lần họp TƯ, họp chính phủ, trong khấu. Không những ở Hà Nội mà cả ở các địa phương
lúc giải lao, Bác Hồ đều bảo ông Hiến lên diễn tuồng. và trong quân đội. Chúng tôi cũng đã sưu tầm và
Ông Hiến kể: “Cũng có khi tôi dè dặt vì thấy có người lưu giữ hàng chục bức ảnh có giá trị của Bác gặp gỡ,
thích, kẻ không thích. Nhưng Bác lại thích nghe và tiếp xúc với các đoàn nghệ thuật sân khấu. Hầu như
nghe rất hào hứng khiến tôi mạnh dạn trình diễn với không có một nghệ sĩ nổi tiếng nào không được gặp
tất cả nhiệt tình đối với Bác. Tôi hát cho Bác nghe khá Bác ít nhất là một lần. Từ Tú Mỡ, Trùm Thịnh, Cả
nhiều lần, thậm chí làm cho Bác nhớ một đoạn Trại Ba Tam, Diệu Hương, Kim Liên, Lê Huệ… (chèo), đến
Hoa tự đấu tranh với bản thân để theo chồng là Địch Nguyễn Nho Túy, Nguyễn Lai, Ngô Thị Liễu, Bạch
Thanh. Trà, Minh Đức, Đàm Liên (Tuồng), Ái Liên, Thanh
Trại Ba: Thà đó đành phụ nghĩa Hương, Tám Danh, Ngọc Thạch…(Cải lương), Lệ Thi,
Đây há dám vong tình Khánh Cao, Nguyễn Tường Nhẫn, Bích Liên…(Bài
Giục vó lừa chỉ dặm non xanh chòi), Song Thao, Xuân Năm…(Dân ca Nghệ Tĩnh)
Cắp bửu kiếm dò lần dặm tía đều được diễn cho Bác xem và đều được nghe những
Dặm tía hiểm nguy nào ngại ý kiến của Bác. Ví dụ, khi xem vở tuồng “Chị Ngộ”
(Đó có vong ân bội nghĩa thì (do đoàn Tuồng LK5 diễn năm 1954), Bác đã xúc động
mặc đó, chứ lòng em đây) đến ứa nước mắt. Cuối buổi diễn, Bác khen các nghệ
Giữ niềm trọn nghĩa tòng phu. sĩ diễn tốt, nhưng dặn diễn viên đóng vai quan tây lần
Nữ tỳ: thấy thầy, tớ cũng đeo sầu sau không được đánh thật để người đóng vai du kích
Chim cưu ngao ngán, Hà Châu một mình đỡ đau. Bác nói đại ý, sân khấu là thật nhưng lại giả,
Hát đến đó, tôi ngừng lại vì cho là đã dài rồi. Bác đóng giả, nhưng phải làm cho người xem tin như thật,
liền hát tiếp theo, cũng lời của Trại Hoa: không nên tự nhiên chủ nghĩa…
Hữu tình mà hóa vô tình Một lần khác, sau khi xem vở cải lương “Lương
Bơ vơ thân thiếp, linh đinh nỗi chàng... Sơn Bá – Chúc Anh Đài” (do Đoàn Cải lương TƯ
Cử chỉ của Bác đã làm cho mọi người hết sức ngạc diễn). Bác đứng dậy vỗ tay rồi bước nhanh lên sàn
nhiên và khâm phục. Từ đó trong các hội nghị khác, diễn, vui vẻ hỏi các nghệ sĩ:
nhiều người lại yêu cầu tôi lên diễn vào các giờ giải - Các cô, các chú, các cháu diễn hay rồi… Bây giờ
lao... các cô, các chú muốn biết ý kiến của Bác về vở này
Cũng theo ông Lê Văn Hiến kể thì khi Bác Hồ đi không?
thăm các nước xã hội chủ nghĩa (năm 1956), ông Hiến - Có ạ! – mọi người đồng thanh trả lời và nín lặng
là thành viên trong đoàn của Bác. Đến đâu, sau khi chờ nghe ý kiến của Bác. Bác đi lại mấy bước rồi cất
các nghệ sĩ của nước bạn biểu diễn chào mừng Đoàn, tiếng đọc rõ từng câu:
thì Bác Hồ lại bảo ông Hiến đáp lại bằng diễn tuồng “Một đôi Sơn Bá – Anh Đài”
và ông luật sư Phan Anh lên ngâm thơ. Chữ tình đáng trọng, chứ tài đáng thương
Ở Hà Nội, trong những cuộc tiếp các đoàn khách Chỉ vì ông già dở dở ương ương…
quốc tế, Bác Hồ thường cho mời các nghệ sĩ sân khấu Bác dừng lại, chỉ tay vào chị Hồng Liên, người
dân tộc tới biểu diễn. Bác muốn cho bạn bè ở năm đóng vai Chúc ông, bố Chúc Anh Đài:
châu được làm quen, được thưởng thức những đặc Làm cho đôi lứa uyên ương không thành!
sắc nghệ thuật dân tộc Việt Nam. Đồng thời Bác cũng Bác ngừng đọc, đi đi, lại lại, rồi một tay nắm chặt
muốn chứng minh rằng ở Việt Nam, có một nền văn giơ lên, nghiêm giọng đọc tiếp:
hóa nghệ thuật lâu đời và phong phú không kém gì Đánh cho phong kiến tan tành
các nước khác. Những điều suy nghĩ và tiên đoán của Cho bao nhiêu Anh Đài, Sơn Bá được thành lứa đôi…
Bác về giá trị của nghệ thuật dân tộc ngày càng sáng Rõ ràng cách góp ý kiến của Bác cũng thể hiện
tỏ và chính xác, nhất là trong những năm gần đây, các tâm hồn và phong cách của Bác, vừa vui vẻ, có đôi
chính khách, các nhà văn hóa và khán giả phương Tây chút dí dỏm vừa sâu sắc làm cho người nghe dễ tiếp
đã bị cuốn hút bởi các thể loại Tuồng, Chèo và Múa nhận và nhớ lâu.
rối. Nghệ thuật sân khấu dân tộc Việt Nam đã hiện Cũng phong cách đó, một lần tại Đại sứ quán ta
diện gần hầu khắp các nước xã hội chủ nghĩa trước ở Bắc Kinh (năm 1956) trên đường công tác. Bác Hồ
đây ở nhiều nước Tây Âu và đã gây được tiếng vang gặp đoàn nghệ thuật dân tộc của ta gồm các nghệ sĩ
Vùn Hiïën 13
viïåt Nam
Đoàn múa rối Ra – đốt (Tiệp Khắc) tại Hà Nội, Bác (Tuồng)… hoặc khi một số vở mới ra đời được đông
Hồ liền nói với các đồng chí lãnh đạo Bộ Văn hóa ta đảo người xem hoan nghênh như: nàng Sita, Ngọc Hân
là: “Vì niềm vui và tiếng cười của các cháu thiếu niên, công chúa, Đêm hội Long Trì…(Chèo).
nhi đồng mà nên thành lập Đoàn múa rối”. Thế là từ Trong những lúc nổ ra các cuộc tranh luận về hai
đó Đoàn múa rối chuyên nghiệp đầu tiên ở Việt Nam khuynh hướng “bảo thủ” và “cách tân” các nhà lý luận
ra đời, để mấy năm sau các tỉnh và thành phố khác thường nhắc lại lời dạy của Bác Hồ đối với sân khấu
noi theo, thành lập nhiều đoàn múa rồi cạn và múa rối dân tộc là “Cần phải cải tiến nhưng không gieo vừng
nước. Cũng chính Bác Hồ là người đến thăm nghệ sĩ ra ngô”. Và rõ ràng, ở đâu thấm nhuần câu nói của
Xiếc Tạ Duy Hiền tận nhà riêng và động viên ông nên Bác là ở đó có những hướng đi đúng đắn. Việc khán
đào tạo và phát triển ngành Xiếc Việt Nam. Sự quan giả thích và chấp nhận những vở diễn như: Quang
tâm của Bác Hồ đã thúc đẩy ông Tạ Duy Hiền cùng Trung đại phá quân Thanh, Mặt trời đêm Thế Kỷ, Nàng Sơ
các nghệ sĩ khác phát triển ngành Xiếc rất nhanh, để
– Kun – Tơ – La, Thanh Gươm hát Bội, Hoàng Hôn Đen,
đến hôm nay, ngành Xiếc Việt Nam đã vững mạnh và
Người con gái kinh Bắc…(Tuồng). Những người nói thật,
đã có tiếng vang trên thế giới.
Đêm hội Long Trì, Hồ Xuân Hương, Cô gái làng Chèo, Lý
Trong những thập kỷ 60,70, nhờ có sự quan tâm
Nhân Tông kế nghiệp…(Chèo) bởi vì trong những vở
đặc biệt của Bác Hồ mà hầu hết các nghệ sĩ sân khấu
diễn này đã thể hiện sự kết hợp khéo léo, hài hòa giữa
dân tộc có tài năng trong khắp đất nước đều được
tập hợp về thủ đô Hà Nội để khai thác các vốn vô truyền thống và hiện đại, giữa kế thừa và phát triển,
cùng phong phú và quý giá của Tuồng, Chèo, Cải có cải tiến nhưng không “gieo vừng ra ngô”.
lương và việc khai thác gắn liền với đào tạo. Các nghệ Dĩ nhiên cũng có những hiện tượng phá cách
sĩ bậc Thầy như Nguyễn Nho Túy, Nguyễn Lai, Ngô “biến vừng ra ngô”. Ở những vở diễn này người xem
Thị Liễu, Minh Đức, Đinh Quả, Văn Bá Ánh, Ngọc không còn nhận biết nó là hình thức gì do đó các tác
Căn…(Tuồng), Trùm Thịnh, Năm Ngữ, Cả Tam, Diệu giả của nó phải liều đặt cho nó cái tên lập lờ là “ca
Hương, …(Chèo), Tám Danh, Ba Du, Ngọc Thạch, kịch mới”. Tôi tin rằng, nếu Bác Hồ còn sống, khi xem
Ái Liên, Thanh Hương,…(Cải Lương). Sau những những vở diễn biến dạng này chắc chắn Bác sẽ không
lần được gặp Bác, được Bác động viên đã phấn khởi vui.
ngày đêm khai thác và dựng lại được hàng chục vở Tấm lòng yêu thích nghệ thuật sân khấu, quý
cổ, hàng trăm trích đoạn và vai diễn mẫu mực có giá trọng nghệ sĩ sân khấu của Bác thể hiện không chỉ với
trị. Để làm cơ sở cho việc đào tạo diễn viên trẻ, đến nghệ thuật trong nước và nghệ sĩ trong nước mà cả với
nay hàng trăm nghệ sĩ diễn viên xuất sắc đang làm nước ngoài. Bác Hồ đã kết bạn với nghệ sĩ S.Saplin,
nòng cốt trong các đoàn sân khấu dân tộc trong cả Bác nhận nghệ sĩ D.Kirilencô (Liên Xô) là con nuôi. Ở
nước, tiếp tục làm nhiệm vụ bảo tồn và phát huy nghệ Việt Nam cũng như Trung Quốc, Bác đã tiếp thu và
thuật dân tộc. xem nhiều lần Kinh kịch. Đặc biệt Bác rất quý nghệ
Với tầm nhìn xa thấy rộng, Bác Hồ biết trong việc sĩ Hồng Tuyến Nữ, tại Quảng Đông Bác đã khóc khi
phục hồi và phát triển sân khấu dân tộc đang xảy ra xem các nghệ sĩ Trung Quốc biểu diễn tiết mục “Rừng
các khuynh hướng, bảo tồn và cách tân lệch lạc, do dừa căm thù”, nói về cuộc đấu tranh anh dũng của
đó Bác thường nhắc nhở các nghệ sĩ phải thận trọng nhân dân Miền Nam ta. Nhà lý luận sân khấu Cộng
và nắm vững các quy luật các nguyên tắc trong lúc kế hòa DC Đức Chu makhơ, sau hai lần được tiếp xúc
thừa phải phát triển. Có lần gặp nghệ sĩ tuồng Nguyễn
với Bác Hồ đã làm một bài thơ ca ngợi Bác, và tại trụ
Nho Túy (nguyên đại biểu quốc hội khóa III), Bác nói:
sở hội Sân khấu Việt Nam ông đã nói một cách hình
“Tuồng tốt đấy nhưng phải cải tiến, đừng dẫm chân
ảnh rất sân khấu “Hồ Chí Minh là người viết kịch bản
tại chỗ, cũng đừng gieo vừng ra ngô”. Câu nói nổi
và Võ Nguyên Giáp là người đạo diễn trong tác phẩm:
tiếng của Bác đã cho những người làm sân khấu dân
“Việt Nam kháng chiến thần kỳ”.
tộc của chúng ta đã xảy ra hai khuynh hướng “bảo
thủ” và “cách tân” cực đoan. Hai khuynh hướng này Đến đây, tôi có thể tạm kết luận rằng: Phải chăng
có lúc đã mâu thuẫn với nhau gay gắt. Từ trong các Hồ Chủ tịch là một lãnh tụ hiếm thấy trên thế giới từ
nhà hát, trên các diễn đàn, trên các trang báo, những trước đến nay đã quan tâm nhiều tới nghệ thuật sân
từ “phá tuồng”, phá chèo”, hoặc “bảo thủ”, “cổ hủ”, khấu, đã tiếp xúc nhiều với nghệ sĩ sân khấu, đã sáng
“lạc hậu”..v.v. được tung ra từ cửa miệng các nhà nghệ tác và biểu diễn sân khấu. Hướng vào năm 1990, kỷ
thuật: đạo diễn, diễn viên, nhạc sĩ… Cuộc tranh luận niệm 100 năm ngày sinh của Hồ Chủ Tịch, giới sân
sôi nổi và gay gắt này kéo dài cho tới hôm nay. Khi thì khấu Việt Nam mang một khát vọng và dự định lớn
ầm ĩ, khi thì bùng lên, nhất là khi một số vở cổ được lao là thể hiện thật đẹp hình tượng Bác Hồ trên sân
trình chiếu ở các rạp nhưng vắng khách như: Quan khấu để xứng đáng với tầm cỡ vĩ đại của con người
âm Thị Kính, Chu Mã Thần, Lưu Bình Dương Lễ (Chèo), đã trở thành huyền thoại trong lịch sử Việt Nam, cũng
Sơn Hậu, Ngọn lửa Hồng Sơn, Đào Tam Xuân loạn trào… như trong cộng đồng nhân loại hôm nay.
Ngày 18/9/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh trên tàu Duy mông Đuyếc vin trở về Tổ quốc
LTS: Năm 1946, sau khi thăm nước Pháp và dự Hội nghị Phôngtennơblô theo lời mời của
Chính phủ Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh trở về nước trên chiến hạm Duy mông Đuyếc vin
của thuỷ quân Pháp. Theo hải trình, con tầu đã đưa Người đến Vịnh Cam Ranh để hội đàm
với Cao uỷ Pháp tại Đông Dương. Bác sĩ Trần Hữu Tước được Bác chỉ định đi theo Người
trong cuộc đón tiếp và hội đàm này. Mười năm tròn sau ngày Bác đi xa, Giáo sư Trần Hữu
Tước đã viết hồi ký ghi lại sự kiện này. Nhân kỷ niệm 121 năm ngày sinh Bác (19/5/1890-
19/5/2011), Tạp chí Văn hiến Việt Nam xin trân trọng giới thiệu lời kể của GS Trần Hữu
Tước về sự kiện này.
Vùn Hiïën 17
viïåt Nam
NSND Lê Tiến Thọ, Thứ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao và
Du lịch đánh trống khai mạc Liên hoan
Đ
ời con người thì dài, nhưng đời người nghệ làm cơ sở cho việc phong tặng các danh hiệu: NSND,
sĩ trên sân khấu thì ngắn, bởi thanh sắc là NSUT.
yếu tố hàng đầu để thu hút công chúng, vì Với cơ quan quản lý nhà nước về văn hoá nghệ
thế mà những nghệ sĩ có thanh, có sắc, có thuật thì, việc tổ chức liên hoan, hội diễn, ngoài mục
lòng yêu nghề và có nghề thì luôn luôn trăn trở, ước đích khuyến khích lao động sáng tạo, còn để phát hiện
mong được để lại cho đời những dấu ấn đậm nét trên những tài năng, chọn ra những gương mặt nghệ thuật
sân khấu bằng những vai diễn gan ruột của mình qua sáng giá, nhất là tài năng trẻ, đồng thời động viên, cổ
các kỳ liên hoan, hội diễn, vì chỉ có liên hoan hội diễn, vũ thế hệ trẻ trong sự nghiệp kế thừa và phát huy
thì mới có chấm giải, mới có huy chương vàng, bạc để truyền thống, vì nếu không có đội ngũ kế thừa thì
1
Trích lược khảo về tuồng hát An nam của Đạm Phương nữ sử
Vùn Hiïën 19
viïåt Nam
Một điều cũng đáng quan tâm là, trong kho tàng vừa có nội dung hiện đại. Ví dụ, đèn xanh, đèn đỏ, đèn
tuồng truyền thống có hàng trăm vở, chưa kể là có vàng trên các đường phố tuy là công nghệ hiện đại,
hàng chục vở tuồng của Đào Tấn, của Nguyễn Văn nhưng lại mang một hàm lượng thông tin chính xác
Diêu và một số tác giả khác, nhưng không hiểu sao có tính biểu trưng khi phát ra tín hiệu xanh, đỏ, vàng,
liên hoan Tuồng truyền thống lần nào cũng chỉ thấy mà người đang tham gia giao thông bất kỳ ai cũng
có Sơn Hậu, Ngọn Lửa Hồng Sơn, Đào Phi Phụng, Đào đều chấp nhận và thực hiện một cách nghiêm chỉnh.
Tam Xuân loạn trào (hoặc Trảm Trịnh Ân). Đặc biệt, lần Nghệ thuật cách điệu, ước lệ của tuồng đã mang giá
này còn xuất hiện thêm mấy vở thuộc thể loại Tuồng trị thông tin rất cao thì, cần gì phải thay thế bằng tả
dân gian, tuồng tiểu thuyết như “Chung vô Diệm” thực như kịch nói và điện ảnh. Trên sân khấu hội
của Nhà hát Khánh Hoà, “Thất hiền quyến” của Nhà diễn tuồng lần này vẫn thấy những bục bệ cồng kềnh,
hát Tuồng TƯ, “Lưu Kim Đính giải giá thành Thọ những phông cảnh nặng nề tốn kém, kéo ra kéo vào
Châu” của Nhà hát Tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh (Đà liên tục nhưng hiệu ứng lại không cao bằng sân khấu
Nẵng) trong đó cũng có vở được phục hồi một cách ước lệ cách điệu truyền thống. Đôi hia mũi cong chỉ có
tam sao thất bản, lắp ráp có phần tuỳ tiện, nên khó thể xiến, bê, lỉa trên mặt bằng sân khấu, chứ khó có thể
nhận diện được toàn vẹn một tác phẩm cổ xưa? Xem phát huy các trình thức này trên những bục bệ eo hẹp!
tuồng truyền thống cũng giống như xem đồ cổ, xem Vì vậy mà các bậc thầy tuồng xưa đã đúc kết:
những báu vật xa xưa, càng cổ càng nguyên vẹn, càng Thốn thổ thị triều đình châu quận
có giá trị. Người Nhật hiện nay vẫn sắp hàng mua vé Nhất thân kiêm phụ tử quân thần
xem kịch Noh nguyên xi như cách đây bảy tám trăm Nghĩa là: Một mảnh đất (sân khấu) lúc là triều
năm, còn ai muốn xem kịch Noh cải tiến thì đến rạp đình, khi là châu quận
Kabuki. Kabuki là từ kịch Noh phát triển lên thành Một con người (diễn viên) một lúc có thể hoá thân
một thể loại khác nặng về hình thức cách tân. Dĩ nhiên vua, tôi, cha ,con...
những nghệ sĩ Kabuki vẫn giữ được nguyên tắc và Bằng tài nghệ của mình, người diễn viên tuồng có
giới hạn cách tân để đảm bảo tính dân tộc của mình. thể diễn tả được không gian, thời gian, bối cảnh, hoàn
Vì chạy theo thị hiếu tầm thường mà có người đã làm cảnh, đồng thời diễn tả được mọi tính cách nhân vật
mất đi những giá trị nghệ thuật đặc sắc, độc nhất vô bằng những động tác cách điệu ước lệ cùng với câu
nhị là nghệ thuật Tuồng. Nguyên tắc thủ pháp của hát nam: vin cây, chen lá ngại gì/ đèn nên nghĩa khí, non
Tuồng là cách điệu, ước lệ và tượng trưng, lấy nghệ ghi nghĩa tình... mà khán giả hiểu được Kim Lân đang
thuật biểu diễn cách điệu mà tạo ra không gian, thời bế hoàng tử vượt qua đèo tìm về Sơn Hậu với sự dẫn
gian và tạo ra vật thể. Tuồng truyền thống làm gì có đường của ngọn đèn (hồn) Khương Linh Tá. Trong
múa cờ đông người, làm gì có chuyện viết chữ quốc sân khấu tuồng truyền thống, chủ yếu là múa cá thể,
ngữ lên lá cờ xưa và làm gì có những dải lụa dài bọc nhưng ở liên hoan tuồng lần này, lại có nhiều điệu
đầu Trịnh Ân để mà diễn và làm gì có đặc tả hình múa tập thể đông người như múa cờ, múa lửa, múa ra
tượng Trịnh Ân như một anh hùng bất tử ? Xuất phát binh, múa chúc rượu... tuy có “xôm trò” nhưng vượt
từ thủ pháp nghệ thuật ước lệ, cách điệu và tượng quá giới hạn của nghệ thuật tả ý, tả thần, bản chất của
trưng mà các nghệ nhân tiền bối đã sáng tạo ra những nghệ thuật tuồng truyền thống.
miếng diễn điển hình đặc sắc như: Kim Lân biệt mẹ, Ở liên hoan tuồng Truyền thống lần này có đơn
Kim lân qua đèo, Ôn Đình chém Tá, Phạm Định Công đề vị thì dùng trang trí mềm nhiều cảnh, nhưng cũng có
cờ,Cao Hoài Đức rọi đèn, Cao Hoài Đức bê đầu, Đào Tam đơn vị chỉ treo một tấm decor biểu trưng tuồng xuyên
Xuân đề cờ... (tuồng Trảm Trịnh Ân) hoặc Châu Xương suốt từ đầu đến cuối vở. Nhìn chung chưa thấy cái
chắp râu (tuồng Đào Phi Phụng)... đẹp về mỹ thuật sân khấu tuồng. Có lẽ các nhà hát
Ngoài đời làm gì có chuyện Quan Công bảo Châu (đoàn) quan tâm tới nghệ thuật biểu diễn của những
Xương bứt râu mình cắm vào cằm Lý Vạn Chung (tức diễn viên ứng thí mà xem nhẹ khâu trang trí, phục
Đào Phi Phụng) nhưng trên sân khấu qua động tác trang và hoá trang. Ví dụ, vai Du Thị (tuồng Thất hiền
tỉa râu, vuốt râu, bứt râu, cắm râu của diễn viên đóng quyến) ăn mặc gần giống Chèo, vai Phương Cơ vào
vai Châu Xương mà khán giả chấp nhận. Vì vậy đừng dinh Kim Hùng lại mặc áo màu mà không khoác áo
tưởng nghệ thuật tả thật là đẹp hơn, hay hơn nghệ chế trắng, vai Cao Hoài Đức lại đội mão kim khôi
thuật ước lệ, cách điệu. Cách điệu, ước lệ là một thủ có cắm đôi lông trĩ, hoặc vai Hàn Tố Mai trang phục
pháp nghệ thuật vừa có tính cổ điển, đồng thời cũng rất giống tuồng Tàu...v.v. Nghệ thuật hoá trang ở một
2
Đạm Phương nữ sử: Lược khảo hát bội An Nam
Vùn Hiïën 21
viïåt Nam
Suốt chặng đường 60
năm xây dựng và phát
triển trên nền nghệ
thuật dân tộc, Nhà hát
ca múa nhạc Việt Nam
đã gặt hái được rất
nhiều thành công với
những chương trình
tiết mục đạt tới đỉnh
cao nghệ thuật. Nhà
hát được mệnh danh
là cánh chim đầu đàn
của nghệ thuật ca múa
nhạc nưóc nhà.
N
hà hát ca múa nhạc Việt Nam được thành nhân dân Trung ương, Đoàn Ca múa nhân dân Trung
lập năm 1951 tại chiến khu Việt Bắc với ương, Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam (trong đó bao
tên gọi ban đầu là Đoàn Văn công nhân gồm cả Đoàn Nhạc nhẹ, năm 1979 được tách ra thành
dân Trung ương, với sự có mặt của các Đoàn Ca múa nhạc nhẹ Việt Nam) và Nhà hát Ca
nghệ sĩ tên tuổi như: các Nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, múa nhạc Việt Nam hiện nay. Trong công cuộc kháng
Lưu Hữu Phước, Đặng Đình Hưng, Nguyễn Văn chiến chống Mỹ, cứu nước, Nhà hát luôn luôn có mặt
Thương, Mai Khanh, Trọng Bằng, Tô Vũ, Tạ Phước, Lê ở tuyến lửa và các mặt trận, đã có nghệ sĩ hy sinh tại
Yên, Nguyễn Đình Tính, Bùi Đức Hạnh…, các nghệ sĩ chiến trường như liệt sĩ nghệ sĩ múa Phương Thảo.
múa Phùng Nhạn, Thái Ly, Chu Thúy Quỳnh,, Minh Ngoài nhiệm vụ biểu diễn phục vụ sản xuất và chiến
Hiến…; Nhà viết kịch Học Phi, nhà thơ Thế Lữ… đấu ở trong nước, Nhà hát còn biểu diễn ở nhiều nước
Ngay từ những ngày đầu mới thành lập, Đoàn vừa trên thế giới để giới thiệu đất nước và con người Việt
đi sâu vào việc sưu tầm nghiên cứu các làn điệu dân Nam anh hùng chiến đấu và chiến thắng, thể hiện
ca, dân vũ của các dân tộc ở miền núi chiến khu Việt tinh thần “Tiếng hát át tiếng bom”. Những chuyến
Bắc, vừa phục vụ kịp thời hầu hết các chiến dịch, mặt lưu diễn của Nhà hát đã gây tiếng vang lớn trên thế
trận như Tây Bắc, Cao Bắc Lạng, Điện Biên Phủ…, giới, Tốp hát nữ của Nhà hát được mệnh danh “Tốp
hầu hết các công binh xưởng, cơ quan, các đại hội ở hát nữ tên lửa tầm xa”. Nhà hát cũng phục vụ nhiều
chiến khu. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Đoàn trở hội nghị quốc tế quan trọng, trong đó có Hội nghị
về tiếp quản Thủ đô Hà Nội tiếp tục phát triển trong Pa-ri, về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Ghi nhận
thời kỳ mới và trải qua nhiều lần đổi tên: Đoàn Ca vũ những thành tích đó Đảng và Nhà nước đã tặng Nhà
Vùn Hiïën 23
viïåt Nam
Nghệ sĩ giữ vững vị trí chiến sĩ
dưới sự lãnh đạo của Đảng
NSND Chu Thúy Quỳnh
H
ơn 50 năm, kể từ khi tôi những nghệ sĩ đã một thời cống hiến
bước vào hàng ngũ những cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng
người làm nghệ thuật cho dân tộc và xây dựng tổ quốc Việt Nam
đến nay không bao giờ tôi XHCN không ai phải suy tính, băn
phải hỏi mình “Sáng tác và biểu diễn khoăn hoặc xác định đối tượng phục
nghệ thuật cho ai” bởi vì nhân dân, Tổ vụ. Nghệ thuật chỉ một con đường
quốc là đối tượng, hiện thực cách mạng theo Đảng, phục vụ nhân dân, chiến
là sự gắn kết cả tâm hồn, tình cảm, cả sĩ, thể hiện phẩm chất nghệ sĩ-chiến
trái tim nghệ sĩ của tôi. Cũng như tôi, sĩ như Bác Hồ đã từng dạy. Dưói ánh
24 Vùn Hiïën
viïåt Nam
sáng đường lối văn nghệ của Đảng, Bác Hồ nhiều có trình độ chuyên môn cao, trừ số được biên chế
tác phẩm văn học nghệ thuật cách mạng đã đạt trong vài đoàn nghệ thuật Trung ương có sự hấp
tới đỉnh cao vượt thời gian sống mãi đến bây giờ. dẫn thường xuyên của các chuyến đi biểu diễn
Tuy nhiên, trong bối cảnh đất nước mở cửa, hội nước ngoài và các chương trình có quy mô lớn.
nhập kinh tế thế giới hiện nay, nhiều diễn biến Còn hầu hết các đoàn nghệ thuật địa phương,
trong đời sống tinh thần của con người khiến diễn viên “chân ngoài dài hơn chân trong”, sẵn
chúng ta phải xác định chỗ đứng cho nghệ thuật, sàng bỏ hợp đồng biên chế nhà nước để theo vũ
và thái độ của người nghệ sĩ chân chính trước đoàn kiếm sống. Múa nơi vũ trường ít cần đến kỹ
hiện thực đời sống đang diễn ra nhiều chiều cảm xảo, kỹ thuật. Múa trang trí khoe thân đâu cần nội
thụ nghệ thuật và nhận thức hiện thực của người dung biểu hiện sâu sắc. Đào tạo diễn viên múa
thưởng thức. chí ít cũng 3-4 năm tới 7 năm xong thả nổi cho thị
Trong nghệ thuật, bên cạnh chức năng giáo trường. Với hiện tượng ấy vừa hao tốn tiền của
dục, định hướng thẩm mỹ, giác ngộ tình cảm nhà nước vừa không phát triển đúng hướng đề có
thành lý trí, vun đắp hướng tới cái đẹp và nhu những tác phẩm đỉnh cao.
cầu thưởng thức nghệ thuật, trong tình hình hiện Thực hiện Nghị quyết của Đại hội toàn quốc
nay, nghệ thuật cũng phải đáp ứng nhu cầu cảm lần thứ XI của Đảng để các nghệ sĩ biểu diễn có
thụ giải trí của những đối tượng khán giả có đời điều kiện giữ vững vai trò chiến sĩ trên mặt trận
sống khá giả. Nghệ thuật biểu diễn phục vụ nhu tư tưởng văn hóa, chúng tôi mạnh dạn kiến nghị
cầu giải trí diễn ra chủ yếu nơi nhà hàng, khách bốn giải pháp:
sạn…; Bên cạnh đó, nghệ thuật còn phục vụ văn Thứ nhất, các nhà trường, nơi đào tạo cùng
hoá du lịch dành cho đối tượng khán giả nước
với việc đào tạo nghề cần dạy hướng nghiệp, dạy
ngoài có nhu cầu tìm hiểu, thưởng thức nền nghệ
về đạo đức diễn viên. Diễn viên nghệ thuật cần
thuật dân tộc Việt Nam. Từ những đối tượng ấy,
phải thấm sâu tư cách, phẩm chất người làm nghệ
đội ngũ sáng tạo nghệ thuật cũng chia ra nhiều
thuật. Trái tim nghệ sĩ phải tươi thắm, rung cảm
nhánh hoặc bản thân mỗi nghệ sĩ sáng tạo cũng
với sự nghiệp của nhân dân, đất nước. Tiến thân
có nhiều phân định để đáp ứng yêu cầu khán giả
vào con đường nghệ thuật phải có mục tiêu lý
trong mỗi tác phẩm.
tưởng cao cả và trong sáng của nghệ thuật, biết hy
Nghệ thuật múa cũng đang diễn ra như vậy.
sinh khổ luyện không vì những cám dỗ vật chất
Có các hình thức múa biểu diễn phục vụ giải trí
tầm thường của đời sống để có được những đỉnh
sinh hoạt ở nhà hàng, khách sạn, múa phục vụ
cao nghệ thuật.
đám cưới, múa đường phố, khiêu vũ, múa lễ
Thứ hai, khi tuyển diễn viên được đào tạo về
hội,… Trong bối cảnh đó, để có những tác phẩm
các đoàn nghệ thuật nhà nước phải có sự cam kết
nghệ thuật đích thực đạt tới đỉnh cao chúng ta cần
định hướng đúng và có đầu tư kinh phí thỏa đáng thời hạn phục vụ, không thể để tình trạng người
cho nền nghệ thuật múa cách mạng, những tác giỏi vươn ra ngoài, người kém tài bám thắt lưng
phẩm múa chính thống có nội dung đề tài mang nhà nước tránh tình trạng Nhà nước bỏ kinh phí
ý nghĩa giáo dục nhận thức và thẩm mỹ dân tộc. đào tạo xong lại để diễn viên hoạt động tự do
Để có được điều đó, người nghệ sĩ phải phát huy trong cơ chế thị trường, phục vụ cho số ít người
vai trò chiến sĩ như những năm xưa, vượt qua xem có tiền.
khó khăn thử thách, qua những cuộc mưu sinh Thứ ba, để nâng cao đời sống của nghệ sĩ
để toàn tâm toàn ý dốc sức cho nghệ thuật. cũng với nâng chế độ thù lao luyện tập ngoài giờ
Nghệ sĩ thị trường trong khách sạn, nhà hàng cho hợp lý (Diễn viên múa một buổi tập ướt đẫm
đang được khuyến khích, đầu tư theo hướng mồ hôi mà chỉ được được ký nhận 15 nghìn đồng
kinh doanh của tư nhân hoặc của các tập đoàn tiền bồi dưỡng). Bên cạnh đó các danh hiệu cao
thương mại bao giờ cũng nhiều và dễ dàng hơn quý: Nghệ sĩ Nhân dân, Nghệ sĩ Ưu tú cũng cần
kinh phí nhà nước bỏ ra. Thực tế này đã có sức được hưởng các lợi ích vật chất tương xứng.
hút và không thể phủ nhận đó là nguồn nuôi Bên cạnh sự quan tâm của Đảng và Nhà nước
dưỡng không ít nghệ sĩ biểu diễn hiện nay. Đơn thiết nghĩ, mỗi văn nghệ sĩ cũng cần xác định
cử nghệ sĩ múa diễn show cho các tụ điểm kinh đúng vị trí của mình trong bối cảnh hiện nay để
doanh nghệ thuật, thu nhập gấp 7-8 lần so với phấn đấu vươn lên quyết tâm có những tác phẩm
mức lương biên chế. Hệ quả là phần lớn là đội ngang tầm thời đại xứng đáng là chiến sĩ trên
ngũ diễn viên đã được đào tạo chính quy, cơ bản, mặt trận văn hóa tư tưởng trong tình hình mới.
C
hâu Thị Tế (cũng gọi Long Xuyên, Kiên Giang, (một Khmer. Trong vùng còn có người
Châu Vĩnh Tế) có phần) Sa Đéc và Vĩnh Long. Thủa dân tộc thiểu số sinh sống. Đường
chồng là Thoại Ngọc đó, những lưu dân người Việt từ bộ trong vùng chưa có, đều phải
Hầu (tên đầy đủ là các tỉnh phía Bắc vào khai phá đi bằng đường sông rạch quanh
Nguyễn Văn Thoại) - vị quan Trấn vùng đất này, nơi đây vẫn còn rất co, xa lắc; phương tiện duy nhất
thủ Vĩnh Thanh dưới thời vua Gia hoang vu, ẩn chứa bao điều kỳ bí, là con thuyền, mảng. Mọi trao
Long, triều Nguyễn - vị thần "Tiền thách thức, rình rập: đổi hàng hoá giữa miền duyên
hiền khai khẩn" vùng đất Nam Bộ Tiếng chim kêu cũng sợ hải Hà Tiên, Kiên Giang về phía
giáp biên giới Campuchia ngày Tiếng cá vùng cũng kinh đồng bằng sông Cửu Long đều
nay. Vĩnh Thanh dưới quyền Dân cư thưa thớt, chỉ có một ít phải đi vòng đường biển. Trước
Thoại Ngọc Hầu cai quản khi đó người Việt mới vào, ở lác đác ven tình cảnh đó, sau khi nhậm chức,
rất rộng lớn; theo danh xưng địa sông, hoặc ở rải rác trên các gò, các cùng với chấn chỉnh lại các cơ sở
giới ngày nay, gồm: Châu Đốc, giồng xen giữa các sóc của người hành chính, Thoại Ngọc Hầu đã
NGƯỜI PHỤ NỮ
đưỢC sÔng, nÚi mang Tên
Ts. nguyễn minh san
K
hông phải ngẫu nhiên, tôi mượn lời nhận xét lớp với anh Nguyễn Phú Trọng, nay là Tổng Bí thư Đảng
của NSND Đặng Nhật Minh về GS. Hoàng cộng sản Việt Nam). Ra trường, ông được điều về Bộ Văn
Chương, mở đầu cho bài viết này. Mà đó là sự hóa và sau đó lại được cử đi nghiên cứu sinh ở Rumani
chọn lọc, sắp xếp thật kỹ để có được những câu từ 1969 - 1973. Sau khi về nước, ông giữ vị trí là PGĐ
chữ ấy viết về ông. Một con người tài năng, quyết đoán, Nhà hát Tuồng Việt Nam, tiếp là là làm Viện phó rồi Viện
luôn nhiệt huyết, tìm tòi, nghiên cứu và rất tâm huyết trưởng Viện nghiên cứu Sân khấu Việt Nam từ năm (1983
với công việc. Đi đến đâu ông cũng đem lửa lòng thổi - 1999). Với thời gian đó ông được bầu là Phó Chủ tịch
vào cho lớp diễn viên, từ lớp trẻ đến lớp cao tuổi cũng thường trực Trung ương Hội hữu nghị Việt Nam Rumani
như những khán giả công chúng có chung chí hướng yêu và ông được Bộ Giáo dục - Học viện Nghệ thuật Sân khấu
nghệ thuật như ông. Có thể nói ông là "người của công điện ảnh Rumani phong hàm Giáo sư (1996). Một niềm
việc", mà mọi người đã dành cụm từ "cánh chim không vinh dự, tự hào nữa cho chính ông cũng như người thân
biết mỏi" để nói về ông. và bạn bè ông, là vào cuối năm 2005, ông được Nhà nước
Sinh ra và lớn lên trong giai đoạn chiến tranh chống trao tặng Huân chương Lao động hạng nhất tại Đại hội
thực dân Pháp (năm 1936), tại Bình Định - mảnh đất địa Thi đua Toàn quốc - Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật
linh nhân kiệt, được xem là "cái nôi" của võ thuật và nghệ Việt Nam. Và đến Đại hội thi đua toàn quốc Liên hiệp các
thuật Tuồng (Hát Bội) Bài chòi. Có lẽ đó chính là "điểm Hội KHKTVN 2010 ông được tôn vinh một trong 10 nhà
nhấn" đã ăn sâu trong máu thịt ông, để ông chọn và gắn Khoa học xuất sắc nhất.
mình cùng sự nghiệp văn hóa dân tộc Việt Nam từ khi Để có được những mốc thời gian đáng nhớ và đầy
còn là một thiếu niên cho đến hôm nay. tự hào trong suốt bao nhiêu năm đó, GS. Hoàng Chương
Từ nhỏ ông đã được học tư tưởng trọng nhân tài, học không ngừng học tập, lao động và sáng tạo, cũng như ng-
chính sách chiêu hiền đãi sĩ của vua Quang Trung, nên hiên cứu, tìm tòi, bảo tồn và phát huy nền văn hóa dân tộc
ông sớm tập hợp quanh mình được nhiều tài năng, và Việt Nam. Cụ thể, ông có hơn 20 công trình ng-
sống có tâm, có đức. 15 tuổi vào trường âm nhạc tỉnh, hiên cứu đã công bố về lĩnh vực lý luận nghệ thuật, văn
rồi tham gia vào thiếu sinh quân và vào Đoàn văn công hóa dân tộc như: "Những vấn đề sân khấu truyền thống,
Liên khu 5. Vốn là một người siêng năng, chăm chỉ, nên "Bài chòi và dân ca Liên khu 5", "Nghệ thuật tuồng Bắc",
ông đã thi đỗ và được đi học ở trường Đại học Sân khấu "Tuồng và võ thuật dân tộc", “Nghệ thuật tuồng trong
Liên Xô (1962 - 1964). Sau đó, ông tiếp tục học Tổng hợp cuộc sống hôm nay”... Ông còn là người chủ trì, chủ biên
văn khóa 8 (1964 - 1967) trường Đại học Văn khoa (cùng nhiều công trình cấp Bộ về văn hóa dân tộc. Ông cũng
Đắc Phong
N
gôi nhà trong con của gia đình nghệ nhân có nhiều thuật Ca trù và Quan họ được
ngõ thuộc phố Thụy người là ca nương, kép đàn nổi UNESCO công nhận là di sản văn
Khê, Hà Nội luôn tiếng trong cung đình xưa. Trên hóa thế giới tại Văn Miếu Quốc
luôn vang lên tiếng bàn thờ của gia đình đặt trang Tử Giám, Hà Nội, cả gia đình
trống và tiếng hát ca trù từ lâu trọng bức ảnh bà Nguyễn Thị nghệ nhân Nguyễn Văn Mùi
đã trở nên địa chỉ quen thuộc của Tuyết, người được giao trọng đã đến biểu diễn, gây ấn tượng
du khách trong nước và quốc tế. trách trông coi công việc ca vũ mạnh mẽ cho đông đảo người
Đó là nơi cư ngụ của đại gia đình trong cung đình Huế dưới triều xem. Nghệ nhân Nguyễn Văn
nghệ nhân Nguyễn Văn Mùi có Nguyễn. Gia đình vẫn còn lưu Mùi mặc dù đã ở tuổi 80 nhưng
truyền thống bảy đời cha truyền giữ những nhạc cụ cổ lâu đời. ngón trống chầu của ông vẫn xếp
con nối nghề hát Ca trù. Dòng họ Trong đêm tôn vinh nghệ vào loại bậc nhất hiện nay. Tiếng
Vùn Hiïën 31
viïåt Nam
trống chầu của nghệ nhân luôn 80 thế kỷ trước khi Ca trù được Ca trù là bộ môn nghệ thuật đạt
điêu luyện và tinh tế giữ nhịp giới thiệu tại UNESCO và nhiều đến đỉnh cao nghệ thuật ca hát về
chắc chắn cho tiết mục. Các con khách nước ngoài đến Việt Nam văn chương. Lời hát là những câu
trai của họ là Nguyễn Văn Khuê tìm hiểu Ca trù trong sự ngạc thơ hàm súc ý nghĩa. Các nghệ
và Nguyễn Văn Tiến, tỏ ra rất tài nhiên sửng sốt khiến cho gia đình nhân trong gia đình đã dày công
hoa khi chơi đàn đáy, một loại nghệ nhân thêm vững tin giữ lửa giảng nghĩa từng câu hát để thể
nhạc cụ độc đáo trong kho tàng Ca trù. Năm 1987 gia đình nghệ
hiện cách hát phù hợp. Sau năm,
nhạc cụ Việt Nam. Tiếng đàn nhân Nguyễn Văn Mùi thành lập
sáu năm trời khổ công rèn luyện,
đáy tạo ra một không gian mênh Câu lạc bộ Thái Hà không ngừng
hai em đã học được nhiều làn
mông huyền ảo đẩy giọng hát phát huy ảnh hưởng trong việc
truyền dạy nghề. Đến nay câu lạc điệu cổ của ca trù như hát ru, hát
trở nên da diết đi sâu vào lòng
người. Cô em gái Nguyễn Thúy bộ đã tham gia truyền nghề ở 20 giai, xẩm huê tình, gửi thư, hát
Hòa là học sinh xuất sắc của Câu lạc bộ ca trù trong cả nước. nói…Các em đã theo gia đình đi
NSND Quách Thị Hồ trở nên một Đặc biệt, hai cháu nội của nghệ biểu diễn ở nhiều nơi và đoạt giải
ca nương tài sắc vẹn toàn, chị vừa nhân Nguyễn Văn Mùi thuộc đời cao trong các cuộc thi hát dân ca.
có giọng hát mê đắm lòng người, thứ bảy của dòng tộc là Nguyễn Hiện nay Câu lạc bộ Ca trù
vừa có tác phong thần thái rất Kiều Anh và Thu Thảo đang ở độ Thái Hà còn giữ được 30 điệu ca
chuẩn mực của ca trù thể hiện tuổi học sinh phổ thông đã dần trù và đang nỗ lực nghiên cứu
sự dày công theo đuổi khổ luyện dần trở thành những ca nương để khôi phục những điệu hầu
với nghề. Chị đã nhận được giải đầy triển vọng. Các em bắt đầu như đã bị thất truyền, đặc biệt
thưởng cuộc thi âm nhạc dân học Ca trù từ năm lên sáu tuổi là hát múa Bài bông, Bỏ bộ. Câu
gian quốc tế ở Xin-ga-po, Trung với sự dẫn dắt của ông và cô. Học
lạc bộ Ca trù Thái Hà không chỉ
Quốc, Nhật Bản. Có một thời cách hát ca trù rất khó, bắt đầu
nổi danh ở trong nước mà còn
gian dài Ca trù tưởng bị quên từ những câu hát, có khi cả buổi
vang xa ở nhiều nơi trên thế giới.
lãng, nhưng gia đình nghệ nhân tối mới học được một câu. Sau đó
Nguyễn Văn Mùi vẫn lặng lẽ giữ phải vào phách cho những bài Những năm gần đây gia đình có
nghiệp cha ông, cứ mỗi dịp giỗ hát. Sau khi nhuần nhuyễn giọng truyền thống bảy đời theo nghiệp
Tết cả nhà lại quây quần bên bàn hát, tay phách thì phải chuyển Ca trù này thường xuyên đi biểu
thờ tổ để hát ca trù với tất cả tấm sang học cách ém hơi nhả chữ, diễn tại Anh, Pháp, Bỉ, Thụy Sĩ,
lòng thành kính và hy vọng mong nảy hạt đổ con kiến, tròn vành rõ Hà Lan…Ca trù xứng danh được
manh. Mãi đến cuối những năm chữ, tạo độ vang rền nền nảy… tôn vinh là Di sản thế giới.
Nghệ nhân Nguyễn Văn Mùi biểu diễn cùng Câu lạc bộ Ca trù Thái Hà
33 Vùn Hiïën
viïåt Nam
Vùn Hiïën 33
viïåt Nam
T
Trong cuộc đời hoạt động rong những nhà nghiên cứu về nghệ thuật Tuồng, niềm
của tôi, tôi làm việc nhiều ở hãnh diện lớn của truyền thống nghệ thuật VN, thì anh
Mịch Quang có lẽ là một người nghiên cứu toàn diện và sâu
nước ngoài, ít ở trong nước.
sắc hơn cả, chẳng những về lịch sử tuồng mà cả phương
Khi về nước gặp được pháp nghệ thuật tuồng, kỹ thuật biểu diễn tuồng, cách viết tuồng, với
những người nghiên cứu nhiều phát hiện, tổng kết được nhiều người thừa nhận như “hiện thực
trong nước tôi rất thú vị và tả ý”, “sân khấu tổng thể”. Anh không những là nhà lý thuyết mà còn là
một trong những người tri người thực hành, nghiên cứu sâu rộng mà viết tuồng cũng rất nhiều và
âm tri kỷ hiếm có, vừa là hay, đối với tôi anh là một người văn võ toàn tài trong giới nghệ thuật
bậc thầy vừa là người bạn vậy.
tâm đắc của tôi là anh Mịch Việc anh Mịch Quang là một chuyên gia hàng đầu về tuồng thì ai
Quang. cũng biết. Nhưng anh còn là một nhà nghiên cứu âm nhạc truyền thống
dân tộc uyên thâm và sáng tạo. Điều đặc biệt tôi thấy ở anh Mịch Quang
là tuy anh hoàn toàn sống trong nước, chưa đi nước
ngoài bao giờ, lại gần như không học ở trường nghệ
thuật học danh tiếng nào hết, chỉ tự tìm tòi nghiên cứu
mà đã đưa ra được những nhận định khoa học mang
tính quốc tế. Tôi thấy hai anh em chúng tôi, anh Mịch
Quang ở phương Đông tôi ở phương Tây, chúng tôi
có những chuyện rất giống nhau từ trong phong cách,
phương pháp làm việc cho đến những quan điểm về âm
nhạc dân tộc Việt Nam.
Trong thời gian ở nước ngoài, được đọc những bài
anh Mịch Quang viết đã đăng nhiều nơi nhất là đọc đi
đọc lại hai cuốn sách “Âm nhạc với sân khấu dân tộc”
và “Kinh dịch và nghệ thuật truyền thống” của anh, tôi
thấy cảm phục anh trong tình trạng hiếm sách báo nước
ngoài, lại “đơn thương độc mã” giữa rất đông “Lương
Đăng” hiện đại mà Mịch Quang làm được nhiều việc,
viết được nhiều câu khiến tôi không cầm được nước mắt.
Tôi gặp rất nhiều tâm đắc trong hai cuốn sách của Mịch
Quang.
Tôi thích thú nhận xét nhẹ nhàng của anh Mịch
Quang về âm nhạc VN là đàn thì phải nhấn nhá, hát thì
phải luyến láy. Đó là nhận xét thật hay! Chỉ một câu
đã tóm tắt rất tài tình đặc sắc khí nhạc và thanh nhạc
truyền thống VN. Trong khi tôi đã phải dài dòng hơn khi
nói về cái truyền thống của âm nhạc Việt Nam từ cách
đánh đàn tranh như bàn tay mặt thì sanh đẻ ra âm thanh,
bàn tay trái là bàn tay nuôi dưỡng và làm đẹp âm thanh,
bàn tay mặt sanh cái xác mà bàn tay trái cho cái hồn. Cái
nhấn nhá chính là cái hồn của nhạc Việt. Không có nhấn
nhá, tiếng đàn chỉ là thanh chứ chưa phải là âm. Thanh
có trường độ, cao độ, cưòng độ, có màu âm, nhưng chưa
có chất âm nhạc. Chất âm nhạc đến từ bàn tay trái, từ trái
Nhà nghiên cứu Mịch Quang và GS. TS Trần Văn Khê
tim ra, biến thanh thành âm, âm sự phê phán sắc sảo thẳng thắn cấu trúc động - mở trong âm
mới có hồn và âm nhạc mới hình của anh Mịch Quang đối với nhạc VN cũng như âm nhạc châu
thành. Chỉ âm nhạc Việt Nam quan niệm “dân tộc hiện đại” rất Á khác với cấu trúc tĩnh và đóng
và phương Đông mới phân biệt sai lầm của các vị “Lương Đăng” của âm nhạc Phương Tây. Tôi cho
thanh và âm. Thanh chỉ có thuộc tây cho rằng âm nhạc dân tộc đây là lý thuyết tuyệt vời. Khi
tính vật lý, còn âm mới là nghệ đồng nghĩa với lạc hậu lỗi thời đi giảng tại các trường đại học
thuật. Chính nhấn nhá và luyến và hiện đại tiên tiến dường như Âu Mỹ tôi đã đề cập đến đặc sắc
láy như anh Mịch Quang nói đã là thuộc tính đương nhiên của âm thẩm mỹ “chân phương hoa lá”
tạo nên cái màu, cái hồn của nhạc nhạc phương Tây. Tôi cũng luôn của người Việt Nam trong âm
Việt. kiên quyết chống lại việc xem nhạc mà tôi được học trong gia
Tôi rất vui sướng khi đọc các nhạc truyền thống dân tộc cần đình tôi và qua những buổi gặp
đoạn Mịch Quang phân tích về phải được “nâng cao”. Nhận thức gỡ nghệ nhân Việt Nam trong cả
các bài học “học cho chết, dùng thế nào mà coi nhạc truyền thống nước sau này. Đó là quan niệm
cho sống”, “thục giả bất vong tân là thấp để phải “nâng cao”? Ai là học nhạc, học một bài nhạc hay
chế điệu” trong kịch hát truyền người có khả năng “nâng cao” một cách đánh nhạc thì luôn luôn
thống cũng như quan hệ dân chủ, nhạc truyền thống. Mà nâng cao thì phải học theo chân phương
đồng tác giả giữa người sáng tác cái gì, bằng cách nào? Ký âm hò hoa lá. Tức là học thì phải nắm
và người biểu diễn cùng sự phân xự xang là thấp, đồ rê mí mới là cái cơ bản, vuông vắn, chân chất
biệt rất tinh tế các chữ “bài” - cao? Một bè là thấp nhiều bè là nhưng khi sáng tác, biểu diễn
“bản”, “ca” - “hát” và hệ thống cao? Đàn bầu, nhị, nguyệt, tranh không thể đem nó ra nguyên si
kỹ thuật thanh nhạc rất độc đáo là thấp, piano, violon là cao?... mà phải biết sáng tạo cho thêm
trong âm nhạc truyền thống Việt Đặc biệt nhất phải nói là lý hoa thêm lá của mình vào thì
Nam. Tôi rất đồng tình và chia sẻ thuyết của anh Mịch Quang về mới hay, mới đẹp được. Anh
Tôn Nữ Hỷ Khương
37 Vùn Hiïën
viïåt Nam
Vùn Hiïën 37
viïåt Nam
TỪ TRONG DI SẢN
BÁT TRÀNG
ĐIỂM SÁNG VĂN HÓA
THĂNG LONG - HÀ NỘI
Th.S Phạm Ngọc Quang
38 Vùn Hiïën
viïåt Nam
Vùn Hiïën 38
viïåt Nam
- Vương Thì Trung (1537 - phương cho biết, ông làm đến Bạch Sơn, thi đỗ Tiến sĩ khoa Mậu
?), tên hiệu là Chất Trai là người chức Thượng Bảo khanh, Tri Tuất, Minh Mạng thứ 19 (1838).
mở đầu thành tích khoa bảng Bát Thị nội thư, Tả Binh phiên, tước Ông nổi tiếng là tấm gương vượt
Tràng. Năm 53 tuổi, ông đỗ Tiến sĩ Phương Thái bá; khi mất được khó kiên trì học tập. Từ bé, Vũ
khoa Kỷ Sửu, niên hiệu Hưng Trị tặng Hàn lâm viện Thị độc, Đặc Văn Tuấn vóc dáng mảnh khảnh,
2, đời vua Mạc Mậu Hợp (1589). tiến Kim tử vinh lộc đại phu, thuỵ người yếu nhưng lộ tư chất thông
Ông làm quan nhà Mạc tới chức là Hoà Hậu tiên sinh. Ông là anh minh, ham học. Mẹ ông là người
Hình khoa Đô cấp sự trung, tước ruột Nguyễn Đăng Cẩm, anh em phụ nữ tảo tần, quanh năm đi làm
Thuyên lâm hầu. Song, theo các đều đỗ đại khoa và đồng triều. nuôi chồng con mà không có nổi
tài liệu địa phương thì ông làm - Nguyễn Đăng Cẩm (1678- căn nhà, phải đi ở nhờ. Nhà ng-
đến chức Thượng thư Bộ Binh, 1736), là em Tiến sĩ Nguyễn Đăng hèo, sách không có học, Vũ Văn
hàm Trung Trinh đại phu. Liên, đỗ khoa sĩ vọng, được bổ Tuấn phải mượn sách của bạn để
Sang thế kỷ XVII, Bát Tràng có làm tri huyện. Khoa Mậu Tuất, sao lại. Dầu thắp đèn không có,
5 người đỗ đại khoa, trong đó họ niên hiệu Vĩnh Thịnh đời vua Lê ban đêm Vũ Văn Tuấn phải nhờ
Nguyễn và họ Lê có hai anh em Dụ Tông (1718), ông đỗ Tiến sĩ ánh trăng để học. Năm 16 tuổi, Vũ
ruột cùng đỗ Tiến sĩ. Cụ thể: xuất thân, làm quan đến chức Tế Văn Tuấn được thày đưa ra Thăng
- Trần Thiện Thuật (1659 - ?), tửu Quốc Tử Giám, Triều liệt đại Long học ông nghè Lương Đồng,
tự là Trung Mã, đỗ Tiến sĩ khoa phu. Sau khi mất, ông được tặng huyện Đường Hào. Song, phải
thi Hội năm Quý Hợi, niên hiệu Phó Đô đốc ngự sử. đến khoa thi Đinh Dậu đời Minh
Chính Hoà 4, đời vua Lê Hy Tông - Lê Hoàn Viện (1689 - ?), đỗ Mạng (1838), ông mới đỗ cử nhân.
(năm 1683) khi còn rất trẻ, mới Tiến sĩ khoa Ất Mùi, niên hiệu Đến khoa ân khoa Quý Mão, đời
25 tuổi. Ông làm quan đến chức Vĩnh Thịnh 11, đời vua Lê Dụ Thiệu Trị (1843), ông mới đỗ Tiến
Hiến sát sứ, sau bị giáng xuống Tông (năm 1715), khi mới 27 tuổi. sĩ. Năm 1844, ông vào Huế nhận
làm Giám sát Ngự sử. Ông làm quan đến Thừa chính sứ chức Hàn Lâm viện Biên tu, rồi
- Nguyễn Đăng Liên (1676 Sơn Tây. Theo tài liệu địa phương, đổi làm Tri phủ Hà Trung, tỉnh
- ?), đỗ Tiến sĩ khoa Bính Tuất, ông được xếp vào hàng đại phu, Thanh Hoá. Tại đây, ông còn mở
niên hiệu Vĩnh Thịnh, đời vua Lê làm quan đến chức Sơn Tây Tán trị thêm trường dạy học. Ông đã xin
Dụ Tông (năm 1706), làm quan Thừa chính sứ ty. Ông là anh ruột cho dân huyện Tống Sơn được
đến chức Tự Khanh. Tài liệu địa Tiến sĩ Lê Hoàn Hạo. giảm thuế và lính thú, được dân
- Lê Hoàn Hạo (1699-?), em huyện nhớ ơn, dựng bia ở Văn chỉ
Tiến sĩ Lê Hoàn Viện, còn có tên hàng huyện. Năm đầu Tự Đức,
là Hoàn Toản. Năm 29 tuổi, thi Vũ Văn Tuấn được triệu về kinh,
Hương đỗ Giải nguyên, sau thi bổ chức Thị giảng, sung Sử quán
đỗ Tiến sĩ khoa Đinh Mùi, niên Toàn tu, hàm Thị độc. Năm Tự
hiệu Bảo Thái 8, đời vua Lê Dụ Đức thứ sáu (1653), ông được cử
Tông (1727), làm quan đến Học sĩ, làm Phó sứ sang nhà Thanh. Về
tước Gia Trạch Bá, được về trí sĩ. nước, ông được vua Tự Đức ban
Tài liệu địa phương chép, ông làm cho bốn chữ “Cần, lao, khả lục”
đến Đông các Đại học sĩ, sau khi và bảy bài thơ Ngự chế. Được về
mất được tặng Ngự sử đài Thiêm làng nghỉ một tháng, ông bỏ tiền
đô ngự sử, Đặc tiến Kim tử vinh cùng dân làng tu sửa lại đình làng
lộc đại phu. và văn chỉ. Hiện trong đình vẫn
Sang thế kỷ XVIII và XIX, Bát còn bức hoành phi có 4 chữ “Bạch
Tràng có 2 người đỗ đại khoa là: thổ danh sơn” của ông cung tiến.
- Lê Danh Hiển (1757-?) còn có Năm Tự Đức thứ mười (1857),
tên là Lê Hoàn Hiển, Giải nguyên ông được bổ làm Án sát Hưng
trong kỳ thi Hương, đỗ Tiến sĩ Hoá, hàm Thị giảng học sĩ. Ba
xuất thân khoa Ất Tỵ, niên hiệu năm sau, 1860, ông lâm bệnh mất
Cảnh Hưng, đời vua Lê Hiển ở nhiệm sở, được ban tên thuỵ
Tông (1785). Ông làm quan đến hiệu là Đoan Trực. Vũ Văn Tuấn là
Đề hình Giám sát Ngự sử, Đốc người đỗ đại khoa cuối cùng của
đồng Thanh Hoa, sau làm quan làng Bát Tràng.
triều Tây Sơn, đến Lễ bộ Hữu thị Ngoài 8 vị đại khoa kể trên,
lang, tước Gia Phái hầu. Bát Tràng còn có nhiều người
- Vũ Văn Tuấn (1803 - 1860), đỗ trung khoa (Hương cống, Cử
tên tự là Trạch Khanh, hiệu là nhân), trong đó phải kể đến Phạm
Vùn Hiïën 39
viïåt Nam
Văn Bích - một trong “Tứ hổ Bắc tuần phiên làng, ngoài nhiệm vụ hữu. Và, cũng chính vì người phụ
Hà” (gồm: Siêu-Thiều-Bích-Quát) bảo vệ làng, còn có trách nhiệm nữ có công nên Bát Tràng còn có
nổi tiếng từ cuối thế kỷ XVIII đến giúp các kỳ mục, chức dịch đôn một tục lệ đặc biệt khác so với hầu
nửa đầu thế kỷ XIX. Cử Bích đã để đốc việc học của học trò trong hết các làng Việt: phụ nữ được ra
lại nhiều văn tập và thi tập, trong làng. Các tuần phiên phải biết rõ đình làm lễ trong ngày hội, song
đó có bài phú Khóc vợ, hiện nhiều trong làng có những gia đình nào không được vào lễ ở hậu cung.
người Bát Tràng còn biết, với có con em đang đi học, học lớp Từ năm 1945 đến nay, truyền
những lời thống thiết. mấy. Đến trống canh hai, tuần thống học hành khoa bảng ở Bát
Làng Bát Tràng nằm sát mép phiên đi qua nhà các học trò mà
Tràng không bị đứt gãy, mà vẫn
sông Hồng cuộn chảy nên luôn thấy vắng tiếng đọc sách thì phải
tiếp tục được nghiệp học của
bị xói lở. Sống trong doi đất hẹp, báo cáo cho các kỳ mục, hôm sau,
mình. Đến nay, làng có trên 300
người Bát Tràng phải tận dụng người học trò đó bị nhắc nhở. Đấy
từng tấc đất để vừa làm nhà ở, là những thuận lợi, cũng là động người tốt nghiệp đại học, trong đó
vừa có nơi làm nghề. Sở dĩ có cơ để các sĩ tử gắng công dùi mài có tới 30 người có học hàm, học vị
được những con số ấn tượng kinh sử và quyết tâm thi đỗ và đó (họ Trần có 8 người, họ Phùng có 4
trong khoa cử trên, trước hết, Bát cũng là lý do khiến các gia đình người, họ Lê 5 người, họ Nguyễn
Tràng có yếu tố địa lợi “Nhất cận khích lệ, động viên, tạo điều kiện có 6 người). Đây là một thành tích
thị, nhì cận giang”. Làng nằm cho con em ăn học. đáng kính nể, là niềm tự hào của
cận kề kinh thành Thăng Long và Trong sự thành đạt về học Bát Tràng. Hương ước làng Bát
vùng đất học Kinh Bắc là những hành của người Bát Tràng, không Tràng có nêu (Dịch chữ Hán):
nơi có bề dày nghìn năm văn hiến, thể không nhắc đến công lao rất Lấy nhân đức khuyên bảo nhau
kinh tế khá phát triển, nhân tài lớn của những người phụ nữ. Việc chớ kể giầu nghèo
nhiều, con người dễ có điều kiện nuôi chồng, con ăn học thành đạt Lấy điều phải làm lẽ sống phải
ăn học, phát triển tài năng. Quan được coi là niềm tự hào và là “tiêu luôn tự sửa mình
trọng hơn Bát Tràng có chế độ chí” của người phụ nữ Bát Tràng. Đối xử với nhau theo lễ tục không
khuyến học và trọng dụng nhân Họ làm chủ lò gốm, tần tảo ngược được lấn lướt
tài tương đối thoả đáng. Trong xuôi buôn bán để chồng con được
Hoạn nạn giúp nhau không được
ngày hội làng xưa, có 4 chiếu ở chuyên chú vào việc học, không
manh tâm chiếm đoạt.
nơi trang trọng nhất trong đình phải bận tâm vào việc gia đình.
Dưới chế độ xưa, người làm
làng, trong đó chiếu thứ hai dành Sách Bắc Ninh địa dư chí chép :
cho những người đỗ Tiến sĩ, khi “Bát Tràng tục lệ rất văn nhã, trong thợ gốm chỉ được xếp hạng thứ hai
không có người đỗ thì chiếu đó làng thì gác lầu san sát, thuyền trong làng (sau các quan văn võ
vẫn để trống. Những người đỗ bè tụ tập, gái thạo buôn bán, trai và những người giầu có), nhưng
Tiến sĩ (nếu là ngạch võ có hàm quen nếp phong lưu”. Cũng chính hàng năm, vào Rằm tháng Hai âm
quận công), sau khi mất, vào ngày vì thế, phương ngôn có câu “Sống lịch, ngày đầu tiên vào đám, làng
giỗ được lý trưởng thay mặt làng làm trai Bát Tràng, chết làm thành biện lễ ra đình một con trâu tơ
mang một chai rượu đến thắp hoàng Kiêu Kỵ”. Kiêu Kỵ, một thật béo, thui vàng, đặt trên chiếc
hương. Văn chỉ làng Bát Tràng làng thuộc xã Tân Hưng, huyện bàn lớn, kèm theo là 6 mâm cỗ và
có ba điểm khác biệt với Văn chỉ Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh xưa (nay 4 mâm xôi. Khi lễ xong, cỗ được
các làng khác, nhằm cổ xuý và đề thuộc Hà Nội) hay lễ bái. Trai Bát hạ xuống chia đều cho các vách
cao người làng học tập. Một là, tràng phong lưu “Bé thì cơm mẹ (hạng) cùng nhau ăn uống vui
ngoài cổng có đề ba chữ “Ngưỡng cơm cha, nhầng nhầng cơm vợ, vẻ. Điều đó thể hiện sự đổi mới,
di cao” (một ý trong Luận ngữ), về già cơm con”. Tiêu biểu cho bình đẳng, coi trọng lao động của
nhắc nhở người làng phải luôn người phụ nữ Bát Tràng là mẹ của người Bát Tràng. Vì thế, làng Bát
phấn đấu vươn lên cao hơn trong hai Tiến sĩ Nguyễn Đăng Liên và
Tràng vẫn giữ được truyền thống
học tập. Hai là, các sinh hoạt trong Nguyễn Đăng Cẩm. Cả đời bà chỉ
một làng khoa bảng, một làng văn,
văn chỉ bao gồm: Xuân - Thu tế thì đi “vuốt bát” thuê, dành dụm tiền
một làng nghề gốm sứ nổi tiếng
những người đỗ tú tài mới được bạc để nuôi con ăn học. Chính vì
người phụ nữ có công lớn đối với cả trong và ngoài nước. Giờ đây,
vào dự; còn bình thơ, bàn việc học
hành, biểu dương thành đạt thì là gia đình mà ở Bát Tràng có hiện Bát Tràng càng nổi tiếng thế giới
“quyền riêng” của những người tượng tương đối đặc biệt: con dâu hơn qua việc đã có nhiều đóng
có khoa mục. Ba là, ngoài việc thờ luôn được bố mẹ chồng quý trọng, góp xây dựng Con đường gốm
Khổng Tử và các học trò, các vị quan hệ xấu “mẹ chồng, nàng xứ - một Kỷ lục Ghinet của Họa
đại khoa, trung khoa và tiểu khoa, dâu” vốn là cố hữu ở các làng sĩ Nguyễn Thu Thủy trong dịp kỷ
Văn chỉ còn thờ cả những Tiên quê Việt trên vùng châu thổ sông niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà
Nho, tiên hiền của làng. Xưa kia, Hồng song ở Bát Tràng chỉ là hy Nội vừa qua.
và ý nghĩa giáo dục tư tưởng đạo đức Thệ làng Hòa Liễu được tổ chức
vào hạ tuần tháng Chạp (chính
41 Vùn Hiïën
viïåt Nam
Vùn Hiïën 41
viïåt Nam
cũ của Thành hoàng làng trước đây được đặt ở vị nên ngôi chùa Thiên Phúc ở làng Hòa Liễu và mấy
trí cao nhất trên đài thề. Xung quanh có hoa quả, chục chùa khác ở các nơi. Riêng Hòa Liễu, bà xuất
bát hương, một con dao bầu (được bọc vài điều), tiền mua 25 mẫu 8 sào ruộng cúng Tam bảo. Nhiều
một bình rượu lớn (được phủ vải điều) và một con vị trong hoàng tộc hưởng ứng lời kêu gọi của bà đã
gà trống còn sống (được nhốt trong bu gà phủ vải góp phần làm tăng số ruộng cúng chùa lên tới 47
điều). Trước đài thề có một vòng tròn bằng vôi trắng, mẫu 3 sào. Từ số ruộng đó, làng cho nhà chùa 4 mẫu
đường kính khoảng 2m, ở giữa có một ô đất trống, để cày cấy, còn lại làm ruộng công để đảm bảo người
gọi là vòng thiêng. Sau khi chủ tế và các vị bồi tế (là nào trong làng cũng có ruộng. Tương truyền, nhân
các vị có chức sắc trong làng, mặc áo lễ màu đen) đó, Thái hoàng Thái hậu đã đặt ra những lời thề đối
đã yên vị, chủ tế vái lạy, là lúc con dao bầu được với những người sử dụng đất và bản văn Minh Thệ
chuyển từ trên đài thề xuống. Chủ tế cắm mạnh con “không lấy của công làm của tư” đã dần dần định
dao vào điểm giữa vòng thiêng, rồi rút nó lên, vẽ hình.
một vòng tròn theo hình vòng vôi trắng, rồi lại cắm Một điều đáng quý là trải qua bao thăng trầm,
xuống điểm giữa vòng thiêng. Sau đó, chủ tế bắt đầu đến nay lễ hội Minh Thệ vẫn đang lưu truyền và
đọc Văn thề bằng âm Hán - Việt, rồi cầm dao bầu tiến phát triển trong cuộc sống đương đại, trở thành một
đến đài thề cắt tiết gà với sự giúp đỡ của hai lính áo giá trị tinh hoa của một vùng quê lúa ở xứ Đông. Mỗi
đỏ, nhỏ huyết vào bình rượu trên đài thề. Rượu được năm, khi lễ hội Minh Thệ được tổ chức, người ta kéo
chuyền cho chủ tế và các vị bồi tế uống như thể ghi đến chật sân đền - chùa, yên lặng và trật tự quan sát,
nhận lời thề đã tấu lên trước đó. Rượu được chuyển để cùng nhau thụ cảm tư tưởng “chí công vô tư”, ý
ra ngoài cho các vị cao niên trong làng. Lời thề có thức trách nhiệm với cộng đồng “không lấy của công
đoạn: “… lấy của công làm việc công thì được các thành của tư” được truyền đến từ trong bề dày của
thần linh phù hộ. Nhược bằng có lòng tham, lấy của truyền thống văn hóa.
công đem về làm của tư, thì nguyện cầu các vị thần Đại diện một số dòng họ trong làng cho biết, mỗi
linh hãy đả tử!...” là tâm điểm của văn thề. khi có dịp tụ hội đông đủ hay tổ chức cúng giỗ thì
đều tuyên đọc lời văn thề của dòng họ (được soạn
Sức sống đương đại dựa theo nội dung văn thề ở đền - chùa Hòa Liễu).
Theo tài liệu Hán Nôm còn lưu giữ và theo truyền Ở trường cấp I, cấp II trong xã, nhiều thầy cô giáo đã
khẩu của người dân địa phương, người có công xây lồng ghép giảng giải nội dung lễ hội Minh Thệ cũng
dựng nên chùa và đền Hòa Liễu là một Thái hoàng như khuyến khích học sinh tìm hiểu về lễ hội độc
Thái hậu nhà Mạc họ Vũ. Vào thập niên 1650, khi đáo này cũng như chiều sâu triết lý của nó để góp
vương triều Mạc còn thịnh, bà đã kêu gọi các hoàng phần hình thành nhân cách cho các thế hệ học sinh
thân quốc thích khác cùng đóng góp tiền của, dựng tại địa phương.
T
bỏ, thêm, bớt trong mỗi điệu múa
ìm về bản sắc dân tộc màu da, tiếng nói. Tuy nhiên, khi dân gian nào đó được gọi là tiêu
của nghệ thuật múa tức múa thì hoàn toàn khác nhau, bởi biểu, mà cần một phương pháp
là tìm về những cái gì đó cơ thể của con người thuộc mỗi luận khoa học để xử lý các “tư
đã gắn bó với con người tộc người khác nhau có đường liệu” động tác múa dân gian đó,
Việt Nam từ thuở xa xưa, từ địa nét, động tác chân, tay khác nhau để “quy nạp”, “đúc kết” ra những
lý nơi định cư, đến môi trường lao khi bày tỏ cảm xúc của mình. Đó động tác cơ bản chứa đựng những
động sản xuất, và những nhu cầu chính là cái bản sắc riêng của nghệ gì là những giá trị tiêu biểu nhất,
sinh hoạt trong cuộc sống của con thuật múa dân tộc mà nếu để mất bản chất nhất cho hệ thống giáo
người, những bước đi, dáng đứng, đi thì được gọi là “mất gốc”! dục, giảng dạy múa dân gian dân
những cử chỉ, động tác trong biểu Ngày nay mối quan hệ con tộc.
cảm tâm lý, trong giao lưu sinh người với xã hội đã phức tạp lên Nghiên cứu quá trình nhận
hoạt cộng đồng mà từ lâu đã trở rất nhiều. Cái gốc được sinh ra thức về bản sắc dân tộc trong nghệ
thành những thói quen, những qua mỗi sự phát triển của từng thuật múa hiện còn có những
ưa thích, những sở trường và cả thời đại cũng không còn nguyên nhận thức khác nhau. Có người
những khuyết tật, để làm nên cái dạng, nó được nẩy nở bởi sự vun cho những giá trị về bản sắc trong
bản sắc riêng. Cái bản sắc ấy được đắp những tinh hoa của thời đại, múa dân gian là tồn tại lâu dài
chứa đựng trong ý thức, tư tưởng, phát triển từ nội sinh đến tiếp hàng trăm năm, hàng nghìn năm
cảm xúc, thị hiếu, ấn tượng và cả nhận ngoại sinh và cũng tước đi lịch sử, dù có qua những biến cố
niềm vui, nỗi buồn được thể hiện những cái khuyết tật không còn gì của lịch sủ nó vẫn tồn tại không
lên trong những hình thức giao thích hợp. Chính vì thế, cái gốc hề mai một. Có ý kiến cho rằng
lưu mà một trong những hình “dân gian” cũng đòi hỏi một cách bản sắc dân tộc trong múa dân
thức đó là múa dân gian dân tộc, nhìn mới. Không thể có cái gì gian cũng như các hình thái nghệ
và đó cũng là nguồn gốc sinh ra biến mất, nhất là nó sinh ra từ con thuật khác không có những giá trị
các hình thái múa. Bởi về cơ bản, người đã trải qua nhiều thời đại cố hữu và mãi mãi tồn tại. Mọi giá
nghệ thuật múa sáng tạo từ chính như đã nói trên. trị đều là sản phẩm của lịch sử và
cơ thể con người (đầu, mình, chân, Một số nước (theo tôi biết),
phải chịu sự chi phối của quy luật
tay). Mọi người sinh ra trên trái người ta không lấy “nguyên si”
lịch sử, nghĩa là có thay đổi, kể cả
đất đều có thân hình giống nhau, những động tác của từng điệu
các giá trị cho là bản chất nhất nó
sự khác nhau chỉ là kích thước, múa dân gian tổ hợp lại, rút ra
cũng có thể phải nhường bước
Vùn Hiïën 43
viïåt Nam
cho những cái mới phù hợp với sự diễn và giới thiệu với các dân tộc
phát triển của thời đại. Và cũng có trên thế giới được nhân dân thế
người cho rằng nên tìm ra không giới yêu thích và ca ngợi. Trong
phải là từng giá trị riêng lẻ (từng những tác phẩm múa thể hiện đề
động tác cơ bản trong từng điệu tài hiện đại về con người Việt Nam
múa dân gian) mà là cả một giá trị từ sự phát triển của múa dân gian
(système de valeurs) toàn bộ đóng dân tộc, đã khẳng định một nhân
góp nên cái phong cách thể hiện cách, một khát vọng về hoà bình,
vai trò bản sắc của dân tộc thông một tinh thần không khuất phục
qua hình thức nó biểu hiện lên. Hệ trước mọi thế lực xâm lược trong
giá trị có nghĩa là nói đến những cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc vĩ
giá trị đó tác động như một bản đại, với nhiều hình thức lớn, nhỏ
thể toàn bộ, mà chúng có thể hỗ cũng đã khẳng định vị trí vai trò
trợ cùng phát huy tác dụng chứng của múa dân gian dân tộc trong
minh cho sự phát triển của một đời sống tinh thần xã hội. Đến
sản phẩm tất yếu của hoàn cảnh nay, thời đại mở cửa hoà nhập đòi
địa lý, lịch sử và chính trị, chứ hỏi chúng ta trong sáng tác phải
không phải là một sự ngẫu nhiên mang một tinh thần mới, thể hiện
nào đó sinh ra. sức sống mới của một dân tộc
Trong thực tế có những điệu đang kế thừa truyền thống, tiếp
múa được sáng tác, phát triển dựa thu cái mới để tiếp tục vươn lên
trên những động tác dân gian của khẳng định mình trong xây dựng
một dân tộc nào đó, kể cả về hình đất nước công nghiệp hoá, hiện
thức phục trang, nhưng khi diễn đại hoá. Điều đó lại càng xác định
ra, lại thường bị phê phán là không tầm quan trọng có ý nghĩa rất lớn
đúng dân tộc đó. Vì động tác của trong vai trò đóng góp của huấn
dân tộc đó, chân họ không thế này, luyện múa dân gian, góp phần
tay họ không thế kia, vv… Người cho những thành công của những
phê phán đó lại quên rằng tác tác phẩm sáng tác theo dòng múa
giả của nó không nhằm phục hồi dân gian đương đại Việt Nam.
nguyên si múa dân gian dân tộc đó. Sáng tạo chính là hơi thở của
Họ thể hiện con người dân tộc đó cuộc sống ở bất cứ lĩnh vực nào
đang sống ở thể kỷ 21, chứ không trong xã hội. Nếu không có sáng
phải sống ở thế kỷ 19. 20. Vậy cái tạo con người sẽ thui chột về
gọi là bản sắc là thế nào đây? trí tuệ. Nói rộng ra, một sân tộc
Như trên đã nói, múa dân không có sáng tạo cũng có thể trở
gian là cái gốc, đồng thời còn là cái nên hủ bại mặc dầu trước đó họ
“vốn” vô giá đối với sáng tác và đã rất văn minh. Đó cũng là quy
biểu diễn múa. Các nhà biên đạo, luật tiến hoá chung của loài người.
các nghệ sỹ biểu diễn múa để thể Trong lĩnh vực nghệ thuật thì sáng
hiện những điệu múa Việt Nam tạo còn có nghĩa để nghệ thuật đó
mang tâm hồn, bản sắc dân tộc không bị biến mất hoặc không
đều trông mong vào những năm bị tự biến mình thành kẻ làm thí
tháng học tập tại trường mà trước nghiệm cho người khác.
hết là học những động tác múa cơ Có thể nói rằng “bản sắc dân
bản dân gian mang tính cách múa tộc” chỉ có thể ở một dân tộc nào
của mỗi dân tộc trong cộng đồng đó, trong hoàn cảnh môi trường tự
Việt Nam. Ai giàu có về vốn múa nhiên, xã hội cụ thể và trong điều
dân gian cũng sẽ giàu có về sáng kiện đặc thù thì cái bản sắc ấy mới
tạo nghệ thuật. được kết tinh và biểu hiện những
Trong quá khứ nghệ thuật giá trị đặc trưng và trở thành bản
múa Việt Nam cũng đã từng đưa sắc của dân tộc ấy, và nói riêng, tất
những điệu múa dân gian dân tộc cả điều nói trên nó biểu hiện ra đối
đặc sắc như múa nón, sắc bùa, với nghệ thuật múa đó là múa dân
múa sạp, múa chuông … đi biểu gian dân tộc.
Uy tín
quan trọng hơn
lợi nhuận
THU THU
Nghe tiếng chị cười vang trong máy điện thoại, tôi chợt thấy yên tâm hẳn lên. Thông
thường, tôi rất e ngại khi có việc phải tiếp xúc với các “nữ tướng” trong mọi lĩnh vực.
Còn chị, lại là một “nữ tướng” trong kinh doanh. Chị là nữ doanh nhân Nguyễn Thị
Trâm chuyên kinh doanh trong lĩnh vực bất động sản với thương hiệu Công ty cổ phần
Tuấn Trâm.
G
ia đình hạnh phúc,
nhà cửa sang trọng,
công việc thành đạt,
ít người có thể biết
được rằng để có được ngày hôm
nay, chị đã có quãng thời gian dài
vất vả tha hương làm ăn nơi đất
khách xứ người. Sinh ra và lớn
lên trên quê hương Tân Hội, Đan
Phượng, Hà Nội, vốn tươi tắn
xinh đẹp, đảm đang, năm tròn 20
tuổi chị đã “theo chồng bỏ cuộc
chơi” và bắt đầu làm quen với
công việc kinh doanh nhỏ tại gia.
Khi cậu con trai được hai tuổi, địa
phương chị có phong trào xuất
khẩu lao động sang Hàn Quốc.
Cuộc sống đang yên ấm nhưng
chị cũng hiểu rằng, nếu không
có sự bứt phá thì kinh tế gia đình
rất khó có điều kiện để phát triển.
Mà chị thì còn trẻ, còn sức khoẻ
và cả ý chí lẫn nghị lực để tạo nên
sự thay đổi với mong muốn có
điều kiện thật tốt để lo cho con cái
cũng như tương lai sau này cho
gia đình. Rồi chị quyết định gửi
con cho ông bà nội nuôi dưỡng,
cùng chồng sang Hàn Quốc.
Ở nơi đất khách, xa nhà, xa
con, chị đã lao động, làm việc
quên ngày tháng. Vốn thông
minh, chẳng bao lâu chị đã đọc
Doanh nhân Nguyễn Thị Trâm
Vùn Hiïën 45
viïåt Nam
thông, viết thạo tiếng Hàn Quốc, sản - một lĩnh vực rất “hot” trong phát triển của thành phố trong
trở thành một trong những người đời sống xã hội hiện tại. tương lai gần - xa (dự án xây
Việt Nam giỏi tiếng Hàn Quốc Có khả năng kinh doanh, dựng, mở đường xá sắp tới),…
nhất. Nhờ đó, chị đã có điều kiện nhưng chị Trâm cũng hiểu rằng Từ đó, phân tích, nắm bắt cơ hội
tìm hiểu, nắm bắt tình hình kinh để có được thành công bền vững để đầu tư, mua trước, mua sớm.
tế cùng với nhu cầu đời sống xã thì ít nhất cần phải được trang bị Hiện tại, chính sách tài chính thắt
hội của người dân xứ sở Kim kiến thức một cách cơ bản, phải chặt có ảnh hưởng khá lớn đến
Chi. Lúc đầu, chị chọn công việc học. Vậy là, vào tháng 3/2009, thị trường bất động sản. Và mình
kinh doanh, bán hàng trực tiếp. song song với việc thành lập không muốn thua lỗ sâu thì phải
Nhưng rồi chị quyết định đứng Công ty, chị đã không tiếc công nhanh chóng chủ động cắt vốn.
ra mở xưởng sản xuất may mặc sức tham gia các khoá học về kinh
Nếu không sẽ bị ảnh hưởng tới
thời trang, đáp ứng nhanh nhất doanh, bất động sản, tài chính,…
lợi nhuận. Nói vậy để bạn thấy
nhu cầu may mặc, mua sắm của Sự cẩn thận, cầu toàn đã thêm
kinh doanh bất động sản đơn
khách hàng. Công việc thuận lợi, một lần nữa mang lại thành công
giản hay phức tạp”.
kinh doanh phát triển song dù cho chị. Chia sẻ với chúng tôi, chị
Không chỉ là nhà phân phối
tiếc bao công sức gây dựng cơ đồ Trâm cho biết: “Hiện nay, tôi đã
thứ cấp cho các chủ đầu tư như
chị và chồng vẫn chọn ngày trở thành lập được ba Trung tâm giao
về nước. Ở đó, là quê hương, là dịch bất động sản Tuấn Trâm tại Hải Phát,… mới đây, Công ty cổ
gia đình, họ hàng, là cậu con trai khu đô thị Tân Tây Đô, thị trấn phần Tuấn Trâm đã ký hợp đồng
ngày nào còn bé tẹo nay đã vào Phùng và khu đô thị Tân Hội. mua ½ toà chung cư cao cấp Tân
tuổi thiếu niên. Và năm 2008 chị Các trung tâm hoạt động rất tốt Tây Đô 25 tầng, tham gia đầu
đã trở về với Tân Hội. trên cơ sở lấy uy tín làm đầu. Dù tư xây dựng biệt thự nhà vườn
Là trong trong những người mới thành lập nhưng các trung cao cấp tại Đan Phượng, Hoàng
lao động thành đạt nhất trên đất tâm nói trên đã thu hút được Quốc Việt kéo dài,… Về phía
nước Hàn Quốc, nhưng do xa một lượng lớn khách hàng bởi mình, nữ doanh nhân Nguyễn
quê hương quá lâu - 12 năm - nên đã tư vấn giúp khách hàng đạt Thị Trâm cũng không chỉ bận
khi trở lại Việt Nam, vợ chồng chị được khoản lợi nhuận cao. Nhiều rộn với công việc kinh doanh,
không tránh khỏi những bỡ ngỡ người hỏi tôi bí quyết kinh doanh mà còn tham gia rất tích cực các
ban đầu. Bỡ ngỡ nhưng không nhưng nói bí quyết nghe có vẻ to hoạt động từ thiện xã hội ở trung
thể trông chờ, ỷ lại vào số vốn tát quá. Nói thật, đã kinh doanh ương và địa phương. Được biết,
mang về theo, “miệng ăn núi lở”. thì phải có uy tín. Càng tạo dựng đây là một thói quen đã được chị
Hơn nữa, bản chất nhanh nhẹn, được uy tín thì càng thành công. duy trì từ khá lâu. Đó là từ khi
hay lam hay làm, ưa vận động Ở Hàn Quốc tôi luôn đặc biệt chú còn ở đất nước Hàn Quốc. Như
không thể khiến chị ngồi im được trọng xây dựng uy tín. Giờ đây, đã nói ở trên, là người giỏi tiếng
lâu. Vợ chồng chị thống nhất tiếp về Việt Nam, kinh doanh lĩnh vực Hàn nên chị đã không nề hà công
tục công việc kinh doanh. Chỉ bất động sản càng cần uy tín hơn.
sức đi giúp đỡ những người đồng
có điều là kinh doanh gì? Để có Uy tín quan trọng hơn lợi nhuận
hương không may gặp cảnh khó
thể tự trả lời câu hỏi của mình, vì uy tín chính là lợi nhuận, sẽ
khăn như: mất việc làm, mất
hai anh chị đã thực hiện phương mang lại lợi nhuận cho mình”.
lương, ốm đau nằm viện hoặc
pháp thủ công nhất nhưng có lẽ Hỏi chị, nghe nói kinh doanh
tai nạn chết chóc,… Hiện tại, tại
hiệu quả nhất. Hàng ngày, hai bất động sản chỉ cần có vốn? Chị
các cuộc vận động ủng hộ nạn
người bỏ thời gian ra ngồi lỳ ở cười vang: “Đâu có đơn giản thế.
các quán cà phê để nghe ngóng Kinh doanh đương nhiên cần nhân chất độc da cam, trẻ em
xem thiên hạ nói chuyện làm ăn. vốn, phải có vốn nhưng đó mới nghèo, trẻ em tàn tật,… chị
Cứ như vậy mất nửa năm thì anh chỉ là điều kiện cần. Điều kiện đủ thường xuyên có mặt nhằm ủng
chị đã lên được danh mục những là phải có kiến thức. Không làm hộ cả về vật chất và tinh thần để
lĩnh vực có thể đầu tư, kinh sao có được thành công. Chẳng các nạn nhân được chia sẻ động
doanh. Tuy nhiên, sau nhiều lần hạn, kinh doanh bất động sản thì viên nhiều hơn nữa trong cuộc
cân nhắc, suy tính kỹ lưỡng, đặc phải nắm bắt được thông tin tài sống. Đây cũng là cách chị thể
biệt là dựa vào kinh nghiệm đã chính, tiếp đến là nhu cầu xã hội, hiện sự đồng cảm, sẻ chia sâu sắc
được đúc kết của bản thân, anh các chủ trương, chính sách có liên cho những ngày xưa gian khó mà
chị đã chọn kinh doanh bất động quan của Nhà nước, xu hướng chị cũng đã từng phải trải qua.
Việt nam
và công tác
quản lý di sản
văn hóa
Thi làm bánh dày trong Lễ hội Đền Hùng
T
ính đến nay, trong số hàng chục nghìn di giá trị đang được bảo quản, trưng bày tại hệ thống
tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng 125 bảo tàng phân bố ở mọi miền đất nước, tập trung
cảnh ở nước ta, đã có hơn 3.000 di tích và ở những trung tâm văn hóa lớn.
danh thắng được xếp hạng Di sản Văn hóa Cùng với các di sản văn hóa vật thể, Việt Nam
quốc gia. Trong số này, có 5 Di sản Văn hóa và Thiên còn sở hữu một khối lượng vô cùng lớn các di sản
nhiên thế giới tại Việt Nam đã chính thức được công văn hóa phi vật thể tiêu biểu như: tiếng nói, chữ viết,
nhận. Đó là di tích cố đô Huế, thắng cảnh Hạ Long, phong tục tập quán, lễ hội, nghệ thuật trình diễn,
di tích Mỹ Sơn, phố cổ Hội An và vườn quốc gia các nghề thủ công truyền thống, những giá trị nổi
Phong Nha - Kẻ Bàng. Bên cạnh những di tích kiến trội về y học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang
trúc nghệ thuật đặc sắc của quá khứ như: đình, đền, phục truyền thống,… của cộng đồng các dân tộc Việt
chùa, miếu, các cung điện, lăng tẩm, các khu đô thị Nam. Trong số này, Nhã nhạc cung đình Huế, Không
cổ, các làng nghề, phố nghề, trong kho tàng các di gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Dân ca Quan
tích lịch sử và văn hóa Việt Nam còn có những di họ Bắc Ninh, Ca trù, Mộc bản triều Nguyễn và Hệ
tích lịch sử tiêu biểu của sự nghiệp đấu tranh xây thống văn bia tiến sỹ tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám,
dựng và bảo vệ nền độc lập dân tộc như các khu di Hoàng thành Thăng Long, Lễ hội Thánh Gióng cũng
tích Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, Điện Biên Phủ, đã được cộng đồng thế giới tôn vinh là những Di sản
đường Hồ Chí Minh, các khu địa đạo Củ Chi, Vĩnh tiêu biểu của nhân loại.
Mốc,…các nhà tù Côn Đảo, Phú Quốc, hệ thống các Tuy nhiên, từ lâu nay, việc quản lý, khai thác các
di tích về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mặt khác, kho tàng giá trị kho tàng di sản văn hóa ở nước ta vẫn còn rất
các di sản văn hóa vật thể của Việt Nam còn bao gồm nhiều bất cập, dẫn tới hậu quả là việc bảo tồn, gìn
hàng chục triệu di vật, cổ vật và bảo vật quốc gia có giữ chưa thực sự phát huy được hiệu quả. Chẳng
Vùn Hiïën 47
viïåt Nam
hạn, các di sản văn hóa và thiên nhiên, bao gồm các trạng chồng chéo trong quản lý các di sản văn hóa
di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, các cũng diễn ra trong việc xây dựng và thực hiện quy
bảo tàng,… luôn là đối tượng quản lý, khai thác của hoạch phát triển của các ngành, các địa phương.
nhiều Bộ, ngành khác nhau như: Bộ VH-TT&DL Nhìn chung, đa phần những quy hoạch này chưa tạo
quản lý các di sản văn hóa (vật thể và phi vật thể) được sự kế thừa, tôn trọng lẫn nhau để tạo thành
và các hoạt động du lịch; Bộ NN&PTNT quản lý các sự phối kết hợp một cách đồng bộ. Việc nghiên cứu,
khu vườn quốc gia và các khu rừng đặc dụng, khu đánh giá, xác định nội dung giá trị và tiềm năng của
dự trữ sinh quyển; Bộ Công nghiệp quản lý các khu các tài nguyên chưa căn cứ trên các cứ liệu và tiêu chí
di sản có giá trị cao về địa chất, khoáng sản;… một số khoa học mà còn nặng về cảm tính. Việc quản lý khai
bảo tàng quốc gia và bảo tàng chuyên ngành thuộc thác còn phân tán, tùy tiện và chỉ đơn thuần căn cứ
quyền quản lý của các bộ và các cơ quan ngang bộ vào những nguồn lợi cục bộ trước mắt về kinh tế của
như: Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam và hệ thống ngành, đơn vị hoặc địa phương mình. Chính vì vậy,
các bảo tàng của quân đội thuộc Bộ Quốc phòng; Bảo đã và đang có không ít mâu thuẫn nảy sinh trong
tàng Công an thuộc Bộ Công an; Bảo tàng Địa chất, quá trình quản lý, bảo vệ và khai thác, sử dụng các
Bảo tàng Hải dương học thuộc Bộ Công thương;… di sản văn hóa.
Nhưng ngành Du lịch đồng thời vẫn có thể khai Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình
thác, phục vụ khách tham quan du lịch trong và trạng nói trên là mặc dù chúng ta đã có nhiều bộ
ngoài nước. Chính vì vậy, cần phải thẳng thắn thừa luật, luật và pháp lệnh chuyên ngành như Luật Di
nhận một thực tế, trong thời gian qua, sự phối kết sản Văn hóa, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Bảo vệ và
hợp về quản lý nhà nước theo ngành, theo lãnh Phát triển rừng, Luật Du lịch,… nhưng nhìn chung,
thổ đã và đang có những hiệu quả không thể phủ hệ thống pháp luật chưa đồng bộ và thống nhất, ý
nhận. Nhưng, do chưa xác định chức năng, nhiệm thức pháp luật chưa cao ở nhiều cấp, nhiều ngành
vụ và quyền hạn cụ thể giữa các bộ, ngành và các địa trong việc tổ chức thực hiện. Rõ ràng, tình trạng phổ
phương nên vẫn có những tồn tại và bất cập không biến nói trên chẳng những làm ảnh hưởng đến công
nhỏ trong thực tiễn hiện nay ở nước ta. tác bảo vệ di sản văn hóa mà còn dẫn đến hậu quả
Hiện nay, trong lĩnh vực quản lý nhà nước về là di tích bị xâm phạm, tài nguyên bị suy giảm, môi
bảo vệ, khai thác, phát huy giá trị các di sản, phát trường bị ô nhiễm, suy thoái, chất lượng sống của
triển du lịch, tại hầu khắp các khu di sản văn hóa, nhân dân bị tác động, khai thác kinh doanh du lịch
thiên nhiên là tài nguyên du lịch và ngay trong các không cao. Khắc phục tình trạng trên đây, chắc chắn
khu di tích đã được khoanh vùng bảo vệ, các khu sẽ phát huy tốt hơn nữa vai trò quan yếu của kho
di tích đã có ranh giới, vẫn diễn ra tình trạng lộn tàng di sản văn hóa phục vụ phát triển đời sống tinh
xộn, chồng chéo, tranh giành các quyền lợi - đặc biệt thần cũng như vật chất của nhân dân; đồng thời giữ
là các lợi ích vật chất - nhưng lại né tránh, đùn đẩy gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong hội
trách nhiệm quản lý giữa các cấp, các ngành. Tình nhập quốc tế hiện nay.
Vùn Hiïën 49
viïåt Nam
thôi, còn tài năng của họ thì không hề kém, đôi
khi có nghệ sĩ dân gian còn giỏi hơn cả nghệ sĩ
chuyên nghiệp, do họ tích luỹ được một đời sống
lâu dài, họ học một cách bền bỉ và lao động sáng
tạo suốt đời vì nghệ thuật, từ cha truyền con nối
và học mãi đến già. Người nghệ sĩ nhân dân dân
gian không thuộc một tổ chức nào nên không có
quy định nghỉ hưu nên họ lăn lộn với nghề cho
đến chết. Tôi cho rẳng, để quản lý ngành này và
xét phong tặng danh hiệu nghệ sĩ thì phải là Bộ
Văn hoá Thể thao và Du lịch thì hợp lý hơn. Từ
trước đến nay vẫn như vậy, không có chuyện tách
ra để cho ngành khác xét cả cuộc đời và đánh giá
những cống hiến của họ để phong tặng nghệ sĩ
nhân dân dân gian hay ưu tú. Lấy một ví dụ thế
này, như bản thân tôi làm nghệ thuật, nếu bảo
tôi sang bầu những cá nhân tiêu biểu của ngành
công nghiệp, thương mại thì làm sao tôi bầu được,
hơn nữa chúng tôi không thể nào biết được công
nghiệp dầu Dung Quất thế nào hoặc điện hạt
nhân thế nào và thương mại thế nào thì làm sao
chúng tôi bầu cho được. Cũng như ngành của họ
không thể hiểu sâu được lĩnh vực nghệ thuật của
chúng tôi. Nói như vậy để thấy rằng đây là một
sự phân công có phần khiên cưỡng hay nói đúng
hơn là sự phân công nhầm, nếu đây là sự thật!.
- Như vậy ông nghiêng về việc xét tặng sẽ do Bộ
Văn hoá Thể thao và Du lịch đảm nhận? Tuy nhiên chỉ
còn chưa đầy mấy tháng nữa, việc xét tặng này có kịp
không và hiệu quả của nó, theo ông sẽ thế nào?
GS. Hoàng Chương: Tôi không hiểu sao lại
có sự phân công trái khoáy như vậy, nó làm cho Nghệ nhân làm tranh dân gian Đông Hồ
những người hoạt động nghệ thuật chúng tôi
ngạc nhiên và suy nghĩ về quyết định này, và có
lẽ đến người được phong tặng cũng cảm thấy
mình được phong tặng không phải là ngành của
mình. Tôi cho rằng báo chí lên tiếng về vấn đề
này là muốn có sự đồng thuận, hợp lý trong hoạt
động tôn vinh tài năng người làm nghệ thuật, kể
cả chuyên nghiệp và không chuyên. Hơn nữa,
để chỉ ra rằng trước khi làm việc gì cũng phải
đúng ngành, đúng nghề, đúng chuyên môn của
nó, nhất là trong bầu chọn liên quan đến số phận,,
cuộc đời, liên quan đến sự cống hiến của một con
người thì phải là ngành nghề văn hoá bầu mới
đúng.. Tôi mong sao việc bầu chọn này đi đúng
hướng, đúng người, đúng việc để sau đó không
có những hệ luỵ đáng tiếc.
- Theo ông tiêu chí bình chọn nên như thế nào và
có bao nhiêu người xứng đáng được vinh danh trong
đợt đầu thí điểm này?
Nghệ nhân đúc đồng
GS. Hoàng Chương: Theo tôi việc bầu chọn này thể căn cứ như vậy. Làm gì có ai tổ chức cho họ thi
cũng nên dựa theo những tiêu chí của bên ngành Văn thố tài năng quy mô như nghệ thuật chuyên nghiệp
hoá, nghĩa là bên chuyên nghiệp thế nào thì bên dân và làm gì có phương tiện thông tin đại chúng nào
gian thế ấy. Tức là giữa nghệ sĩ nhân dân dân gian tuyên truyền đầy đủ cho họ. Và vì vậy, họ làm gì có
và nghệ sĩ nhân dân về mặt danh hiệu là không có gì huy chương, nếu bảo một người đứng ra bảo ông
khác nhau xa. Nhưng tôi nghĩ việc bình chọn sẽ gặp nghệ nhân này có tài thì ai tin! Trong thực trạng của
không ít khó khăn ở chỗ, đây là lần đầu tiên chúng chúng ta hiện nay, đào tạo ra người giám định nghệ
ta tìm “ứng cử viên” cho danh hiệu này. Bên cạnh đó, thuật không nhiều, mà nghiêng nhiều sang đào tạo
có một thực tế khiến chúng ta không thể phủ nhận, người quản lý chung chung. Nhiều người quản lý
đó là hầu hết nghệ sĩ dân gian đều ẩn trong mỗi văn hoá lại không có nghề, nhưng không biết sử
làng quê hoặc trong thành phố hầu hết họ chưa từng dụng chuyên gia, như vậy làm sao họ biết tài năng
được nêu tên, thậm chí có tài cũng không được đưa của người nghệ sĩ dân gian này là đủ tiêu chuẩn
ra trình diễn hết những tài năng của mình có. Họ âm được bình bầu.
thầm, luyện tập và biểu diễn bằng sự say mê, và sống Phát hiện đã khó, lấy tiêu chí đánh giá thế nào
trong sự bằng lòng, sự ngưỡng mộ của nhân dân tại lại càng khó hơn, nhất là chỉ trong một khoảng thời
địa phương đó. Lâu nay chúng ta đã không quan gian quá ngắn và còn nhiều tranh cãi như hiện nay.
tâm đến họ khiến họ bị thiệt thòi, và điều quan trọng - Nói vậy, việc bầu chọn này là không thể?
hơn, chúng ta đã quên mất rằng, nếu như không có GS. Hoàng Chương: Tôi nghĩ rằng có thể nhưng
họ những nghệ sĩ dân gian tài năng thì không có cần phải có thời gian và cần tổ chức các liên hoan,
nghệ thuật chuyên nghiệp nảy mầm và phát triển, Hội diễn thật nghiêm túc, có tính khoa học để những
nhất là nghệ thuật truyền thống. Chúng ta có nhiều người làm công tác lý luận nghiên cứu như chúng
người tài, nhiều loại hình nghệ thuật, song chúng ta tôi được ngồi nghe, nhìn và thẩm định tài năng thực
đang bỏ quên họ. sự của nghệ nhân, để thấy được ông A hay bà B xứng
- Bị bỏ quên? Tôi không cho là như vậy, bởi mỗi loại đáng được nhận danh hiệu. Dĩ nhiên, việc này cũng
hình nghệ thuật đều có những tổ chức Hội, còn có Sở văn không dễ dàng. Nếu chọn không khéo sẽ rơi vào
hoá của các tỉnh, thành, nói như vậy họ không có vai trò bầu chọn đại trà, nếu không thì sẽ là bỏ sót tài năng.
gì sao, thưa ông? Tháng 9 là đợt đầu sẽ khó khả thi, vì quá ít thời gian
GS. Hoàng Chương: Tôi không phủ nhận vai trò cho việc bầu chọn.
của các tổ chức Hội, các Sở Văn hoá, song đối với các - Để đẩy nhanh tiến độ, giao cho các Sở Văn hoá thì
loại hình nghệ thuật còn có nhiều chỗ , nhiều nơi họ sao?
làm chưa thật đến nơi đến chốn , chính vì vậy mà tôi GS. Hoàng Chương: Cũng chưa chắc đã thuận,
e ngại việc bầu chọn lần này sẽ khó thực hiện. Cái để bởi có Sở có chuyên gia, nhưng cũng có Sở chỉ đơn
làm căn cứ bầu chọn NSND, NSUT, chính là những thuần là những người quản lý, mà đã quản lý chung
huy chương tại các Hội diễn, những năm tháng găn chung thì khi nhìn vào nghệ thuật sẽ rất khó phân
bó với môn nghệ thuật… thì, bên dân gian lại không định chính xác. Còn nếu tổ chức ra một ê kíp thẩm
Vùn Hiïën 51
viïåt Nam
định gồm những chuyên gia thì tôi e rằng chính các danh hiệu cao quý này. Bên cạnh đó chính sách đãi
chuyên gia này cũng chưa chắc đã thâm nhập hết ngộ không đầy đủ, khiến cho nhiều người tỏ ra nghi
vào một biển người với vô vàn những loại hình nghệ ngờ và không mặn mà với danh hiệu. Đối với dân
thuật dân gian. Tóm lại, tôi cho rằng để thực hiện gian cũng vậy, tôi có gặp những nghệ sĩ được phong
bầu chọn vào dịp 2/9 năm 2011 thì công tác chuẩn bị danh hiệu, song họ nói rằng họ không được hưởng
phải tiến hành trước đó ít nhất một năm. gì khác so với những người chưa được công nhận.
- Năm 2004 đã có đợt thí điểm bầu chọn đối với loại Họ vẫn sống lay lắt tại địa phương. Tôi nghĩ rằng
hình nghệ thuật Quan họ, và kết quả thì ai cũng biết, nếu nhà nước đã công nhận họ, thì cần phải tôn
ngoài việc được tôn vinh, họ không được hưởng bất kỳ vinh, nhắc đến họ một cách trân trọng, biến họ trở
một chế độ chính sách nào khác hơn so với trước khi được thành ngôi sao loé sang trong thế giới loại hình nghệ
nhận danh hiệu này. Họ nhanh chóng bị lãng quên, và dư thuật trong cộng đồng người Việt. Cụ thể là những
luận đặt câu hỏi, liệu lần bầu chọn này có lặp lại những địa phương có các nghệ sĩ tài năng được trao tặng
chuyện buồn trên không? danh hiệu phải được chăm sóc, phải tôn vinh , nếu
GS. Hoàng Chương: Trước tiên, xin được nói họ không còn diễn được thì phải tạo điều kiện cho
đến nghệ sĩ chuyên nghiệp. Hiện nay việc bầu chọn họ dạy, truyền nghề. Chúng ta phải chăm sóc chu
các danh hiệu nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú rất
đáo để họ đem những vốn quý báu của mình truyền
nhiều và khi mỗi cá nhân được bầu, họ hầu hết đều
lại cho đời sau. Phải làm cho họ cảm thấy ấm áp
rất phấn khởi. Nhưng sau khi việc bầu chọn ngã ngũ
trong cộng đồng, họ không cảm thấy mình bị lãng
thì việc đối xử với các NSND, NSUT cũng không
quên. Lâu nay chúng ta vốn chỉ biết phong tặng mà
đến đâu . Ra ngoài xã hội, khi ai đó giới thiệu anh là
ít quan tâm đến sự tồn tại của họ thế nào, không cần
một NSND,. NSUT trước bàn dân thiên hạ người ta
cũng cho là thường, coi giá trị một nghệ sĩ nhân dân biết phải có một chính sách đặc biệt cho đến tận lúc
không bằng học hàm giáo sư khoa học. cuối đời, người nghệ sĩ đã cống hiến rất nhiều cho
- Tại sao lại như vậy, phải chăng chúng ta quá dễ dãi đời, thậm chí không tổ chức những cuộc toạ đàm,
khi phong tặng những danh hiệu cao quý này? Hội thảo lúc sinh thời và cả sau khi người ta đã mất.
GS. Hoàng Chương: Có nhiều nguyên nhân, Tóm lại, việc phong tặng danh hiệu nghệ sĩ là cần
trong đó phải thừa nhận rằng do thời gian qua, việc thiết, nhưng đừng làm vội vàng, ào ạt mà phải làm
phong tặng diễn ra có phần ồ ạt, đại trà, khiến nhiều sao cho kín kẽ, chuẩn xác, không nên vì thành tích
người nhìn nhận có được những danh hiệu này là và vì cảm tính.
không hề khó khăn, người ta còn phát hiện ra nhiều Cảm ơn Giáo sư.
trường hợp tài năng hoàn toàn trái ngược. Chính con
sâu làm rầu nồi canh, đã hạ uy tín của chính những Minh Hằng thực hiện
T
ừ khi có chữ viết ra đời, con người đã có khả
năng ghi lại những tri thức của nhân loại qua
các thời đại. Kho tàng tri thức ấy ngày càng lớn
lên vô cùng tận với thời gian. Và từ đó, văn hóa
đọc cũng phát triển theo rất mạnh. Đọc chính là học tập
và truyền bá tri thức của nhân loại. Mỗi con người đứng
trước khối tri thức khổng lồ đó chắc chắn cả đời cũng không đọc
hết. Bởi vậy văn hóa đọc thôi thúc mỗi con người ngày này qua ngày
khác phải đọc để khám phá, để sống và làm việc có ý nghĩa và hiệu
quả. Thời xưa cũng như thời nay phần lớn những người làm được việc
lớn thường phải đọc thiên kinh vạn quyển. Nước ta có nền văn hiến lâu
đời, có truyền thống hiếu học. Văn Miếu Quốc Tử Giám - Trường đại
học đầu tiên của nước ta ghi danh những hiền tài suốt đời đèn sách
cống hiến biết bao tinh hoa văn hóa cho nước nhà. Dưới thời Pháp
thuộc, bọn thực dân đã dùng chính sách ngu dân để dễ bề cai trị,
khiến cho hầu hết nhân dân bị mù chữ, không biết đọc biết viết.
Ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công, Đảng và Bác Hồ đã
chủ trương diệt giặc đói, diệt giặc dốt. Các lớp bình dân học vụ được
mở khắp nơi, mọi tầng lớp nhân dân nô nức đi học viết, học đọc. Xóa
nạn mù chữ để người dân biết viết, biết đọc chính là để nâng cao dân trí, giác
ngộ cách mạng đứng lên kiến thiết và bảo vệ Tổ quốc.
Trong cuộc sống hiện đại hôm nay, với nhịp sống công nghiệp, với
những cuộc mưu sinh vượt đói nghèo, dường như thời gian rỗi của con
người trở nên eo hẹp, có ảnh hưởng rất lớn tới văn hóa đọc nhất là trong
bối cảnh các phương tiện nghe nhìn phát triển, các hình thức giải trí đa
dạng câu khách có ở mọi nơi, mọi chỗ. Người ta dần dần nhiễm thói quen
ngại đọc sách báo, xa rời văn hóa đọc.
Thực ra, dù trong bối cảnh nào, thời đại nào, văn hoá đọc vẫn là vô
cùng cần thiết đối với mỗi con người mà không có hình thức nào có thể
thay thế được nó. Quá trình đọc là quá trình hấp thu tri thức “có tiêu
hóa” của người đọc, trong quá trình đọc người ta phải suy nghĩ, phân
tích tổng hợp, tư duy để biến tri thức của nhân loại thành tri thức riêng
của mình. Chính vì vậy tri thức sẽ hằn sâu trong trí não của mỗi
người chứ không như những tiếng nói thoáng qua, những
hình ảnh lướt qua. Những tri thức đọng lại trở thành vốn
kiến thức để con người vận dụng vào công việc, vào cuộc
sống của chính mình. Văn hóa đọc cũng giúp con người tăng
trí tưởng tượng, nhất là những tác phẩm văn học. Từng dòng
chữ gợi mở trí tưởng tượng của con người, về nhân vật, về
khung cảnh thiên nhiên mênh mông. Cho nên đã có nhận định
đọc các tác phẩm văn học có tác dụng bồi dưỡng tâm hồn, trí
tưởng tượng và sự sáng tạo cho người đọc. Với sự phân tích
trên, chúng ta thấy văn hóa đọc cần thiết, không thể thiếu vắng
Vùn Hiïën 53
viïåt Nam
trong cuộc sống con người. Chính vì vậy ngay cả ở hình thức hoạt động thu hút đông bạn đọc. Những
những nước công nghiệp phát triển, văn hóa đọc vẫn năm gần đây xuất hiện một số cách làm mới như xây
luôn luôn được coi trọng. Trong cuộc sống thường dựng các Bưu điện văn hoá xã kết hợp giải quyết
nhật hối hả, bận rộn chúng ta vẫn chứng kiến cảnh nhu cầu thông tin liên lạc cùng với nhu cầu đọc sách
người ta say mê đọc sách báo trên máy bay, trên tàu báo của nhân dân. Nhiều bưu điện văn hóa xã đã
điện ngầm, những nơi chờ đợi… Hễ có thời gian rỗi tạo được một phong trào đọc sách báo khá rộng rãi.
là người ta lại tranh thủ đọc như một thói quen như
Ở Hưng Yên và Hải Dương đã xuất hiện những thư
một cách để tồn tại.
viện gia đình do những trí thức, cán bộ về hưu lập
Để phát triển văn hóa đọc, việc trước tiên là phải
tuyên truyền giáo dục để mọi ngưòi nhận thức sâu với số lượng sách lớn, đa dạng về chủng loại. Từ
sắc về vai trò và tầm quan trọng của sách, của văn những thư viện gia đình này đã lan toả thành phong
hóa đọc đối với mỗi người. Văn hóa đọc giúp cho con trào đọc sách ở khu dân cư đem lại rất nhiều điều bổ
người hiểu sâu, biết rộng và hoàn thiện nhân cách ích cho việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Một
của mình. Xa rời sách, xa rởi văn hóa đọc sẽ rơi vào vấn đề không kém phần quan trọng để văn hóa đọc
tình trạng “ếch ngồi đáy giếng” u mê trì trệ. Từ nhận phát huy ảnh hưởng của mình là phải có nhiều tác
thức đó của đông người thì xã hội mới có nhu cầu phẩm đọc đa dạng, phong phú, bổ ích và hấp dẫn.
đòi hỏi văn hóa đọc. Bên cạnh đó phải hình thành hệ Muốn cho trẻ em ham đọc sách, thoát nghiện trò
thống thiết chế văn hóa đọc, chủ yếu là mạng lưới chơi điện tử thì phải có nhiều sách hay cho các em
thư viện. Trước đây nhiều tỉnh, thành phố đã xây đọc. Đã có lúc chúng ta đã lưu ý có quá nhiều chuyện
dựng được mạng lưới thư viện cho đến tận cơ sở tranh nhiều tập cuốn hút các em xem tranh hơn là
làng, xã. Tuy nhiên nhân dân chưa nhận thức sâu sắc
đọc những dòng chữ nhắn ngủi, lí nhí. Phải nói công
về văn hoá đọc, các thư viện lại hoạt động kém cỏi
tác xuất bản của ta phát triển mạnh có thể đáp ứng
rơi vào chủ nghĩa hình thức cho nên phần lớn các thư
viện đều vắng bạn đọc, sách báo bụi phủ đầy theo mọi đối tượng bạn đọc. Có nhiều tác phẩm hay, biên
thời gian. Chúng tôi thiết nghĩ cần đưa nội dung soạn công phu hấp dẫn, nội dung bổ ích. Tuy nhiên,
văn hoá đọc vào phong trào toàn dân đoàn kết xây cũng không thiếu những cuốn sách in đẹp, bìa dày
dựng đời sống văn hóa. Văn hóa đọc cần được khơi nhưng nội dung vô bổ khiến cho bạn đọc có cảm giác
dậy ngay từ cơ sở tạo thành phong trào quần chúng, đọc mất thì giờ. Tăng cường văn hóa đọc phải đi đôi
ham đọc sách báo và các thư viện từ cơ sở đổi mới với việc nâng cao chất lượng các tác phẩm đọc.
T
rong đời sống của mỗi cần thiết để họ có điều kiện phát hiện rõ qua các làn điệu dân ca,
cộng động dân tộc Việt huy vai trò bảo tồn và lưu truyền hát giao duyên, hát cọi, si, lượn,
Nam, các nghệ nhân dân các giá trị văn hóa truyền thống then, múa khèn; các trò chơi dân
gian có vai trò rất quan trong cộng đồng. gian như đẩy gậy, đi cà kheo,
trọng, tiếng nói, hành động, việc Nằm ở cửa ngõ phía Tây của đánh yến, đánh sảng. Tuy nhiên,
làm của họ thường có tác động tỉnh Hà Giang, huyện Hoàng Su trong quá trình phát triển tất yếu
lớn đến cuộc sống, sinh hoạt văn Phì có 12 dân tộc sinh sống, như: của nền kinh tế xã hội cũng như
hóa của người dân. Tuy nhiên, từ Mường, Tày, Nùng, La Chí, Kinh, sự giao thoa giữa các nền văn
trước đến nay, các nghệ nhân dân Hoa Hán, Phù Lá, Sán Chay,… hóa, nhiều giá trị văn hóa truyền
gian thường có xu hướng hoạt Trong đó, mỗi dân tộc có nét văn thống của các cộng đồng dân tộc
động riêng lẻ và tự phát nên đã có hóa, tín ngưỡng, tập quán và đã dần bị mai một, cùng với đó
nhiều trường hợp lợi dụng sự tín tập tục canh tác khác nhau. Mỗi là sự lên ngôi của các hoạt động
nhiệm của cộng đồng để tuyên năm, trên địa bàn huyện diễn ra tín ngưỡng không lành mạnh,
truyền những điều xấu, gây lãng nhiều lễ hội đậm bản sắc như: việc thách cưới, nạn tảo hôn, hiện
phí, thiệt hại kinh tế của nhiều lễ hội Cù tề của người La Chí; lễ tượng sinh con thứ ba,… đã gây
gia đình; hoặc mất trị an thôn hội Cấp sắc, Nhảy lửa, Cầu mùa nên những ảnh hưởng lớn đến an
xóm. Vì vậy, việc đưa các nghệ của người Dao; lễ hội Lồng tồng ninh trật tự thôn xóm, nhiều hộ
nhân dân gian vào sinh hoạt dưới của người Tày; lễ hội Cúng rừng gia đình kinh tế suy kiệt, lâm vào
một mái nhà chung, có điều lệ, của người Nùng;… Bên cạnh cảnh đói nghèo, nợ nần. Xuất phát
tôn chỉ, mục đích rõ ràng là điều đó, sự đa dạng văn hóa còn thể từ những bức xúc trên, cách đây
1
. Văn hoá giao thông là thống nhất”, rồi lại cả thập kỷ đói xin chia sẻ với Hội thảo đôi điều
một trong những vấn đề khổ trong khủng hoảng, chẳng (một vài khía cạnh) tâm lý – giáo
bức xúc nhất ở nước ta. nhẽ bây giờ lại chịu bao mất mát dục (cả tự giáo dục) người tham
Hội thảo “Văn hoá giao đau thương bi thảm lớn lao vì tai gia giao thông đường bộ.
thông” trong Tháng an toàn giao nạn giao thông, bởi nhiều lẽ, từ 2. Nói giao thông ngày
thông được mọi tầng lớp nhân đường sá, xe cộ, lái xe… cho đến nay là nói tới khoa học (có khoa
dân rất quan tâm, trong đó có các người quản lý giao thông …, hình học mới có các phương tiện giao
thầy cô giáo và các em học sinh, như ai cũng biết. Thế mà thực tiễn thông, nhất là các phương tiện
sinh viên, với một tâm tư nặng phũ phàng hàng ngày vẫn xảy ra. hiện đại, đường sá, cầu cống),
trĩu “dân ta đã chịu bao đau khổ Với tư cách người công tác trong tới giáo dục – tâm lý (người điều
trong chiến tranh giành độc lập, lĩnh vực tâm lý – giáo dục học, tôi khiển phương tiện, cán bộ quản lý
Tắc đường tại TP. Hồ Chí Minh nhưng mọi chuyện đâu vẫn hoàn
đó – và như thực tế hoạt động mất
K
Nhữ thành bị thương tương tự số chết (10.633
người). Hà Nội có 735 người chết
ẹt xe là tình cảnh Giao thông vận tải – Công an và con số bất hạnh ở TP. Hồ Chí
diễn ra hằng ngày, (Giao thông) – Quản lý đô thị). Vô Minh là 785 nạn nhân! Số người
là chuyện thường số khuyến nghị được đưa ra tại chết tại 2 thành phố này do tai
nhật tại hai thành rất nhiều hội nghị – hội thảo (kể
nạn giao thông chiếm gần 14%
phố lớn Hà Nội cả nhiều, rất nhiều phiên họp của
tổng số người chết trên cả nước
và TP Hồ Chí Minh với tần suất Hội đồng Nhân dân thành phố)
(1.520/11.449). Phải gọi đó là
ngày một dày hơn và năm sau cũng không ít lần tại diễn đàn Nói
thảm họa do hệ lụy của nó là rất
nghiêm trọng hơn năm trước bất và làm (HTV) – cùng bao nhiêu lời
khủng khiếp: Người chết thôi thì
chấp hàng loạt biện pháp được hứa của các vị lãnh đạo, đại biểu
trở thành quá khứ nhưng những
cơ quan chức năng thi thố (Ngành Quốc hội với dân, với cử tri…
người bị thương (trong đó bao
Vùn Hiïën 61
viïåt Nam
và tai nan giao thông. Ở các nước của họ (tất nhiên không phải tất dân không tuân thủ cũng là
tiên tiến không tồn tại những cả mọi cảnh sát giao thông mọi điều… bình thường vậy! Người
bùng binh như ở các thành phố nơi đều như thế ). Còn cái trạm ta làm theo, bắt chước tự động,
– nhất là thành phố 6, 7 triệu dân cân của Ngành giao thông (ở Dầu hợp logic thôi mà! Mà khi vi phạm
như Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Giây, Đồng Nai) thì phù phép suốt luật pháp một cách công khai thì
Bác Hồ từng nhắc những nhiều năm như thế nào để xe chở mọi chuyện sẽ ra sao?
cán bộ thi hành pháp luật phụng nặng thành nhẹ hều, thông xe tuốt Ý thức tôn trọng pháp luật vốn
công, thủ pháp, chí công vô tư tuồn tuột, báo chí đều đã phanh không phải là một phần bản năng
cho nhân dân noi theo! Trong phui, dù chưa thể nói là… tất cả tự nhiên của con người – kể cả
lĩnh vục giao thông, những cơ sự thật. người đó là quan chức - như thực
quan được giao thực thi luật pháp
Những hành động và việc tiễn cuộc sống chứng minh quá rõ
trước hết là cảnh sát giao thông và
làm ấy không chỉ vi phạm đạo và quá sinh động. Vấn đề đặt ra là
bộ phận chuyên trách của ngành
đức, vi phạm pháp luật mà còn là muốn pháp luật được mọi người
giao thông vận tải về quy định tải
một trong những nguyên nhân rất quan tâm và chấp hành nghiêm
trọng của phương tiện chạy trên
quan trọng gây tai nạn, làm cho tai túc thì những công bộc đó trước
các tuyến đường, qua cầu và qua
nạn giao thông tăng lên. Còn bao hết phải là những người thượng
nội thành (đối với xe vận tải – xe
container). nhiêu chuyện Chịu, không biết
tôn pháp luật; kế đến là phải bảo
Nhiều người đặt câu hỏi vì sao nhan nhản, lĩnh vực nào cũng có
đảm quyền giám sát – kiểm soát
nhiều người tham gia giao thông chứ không chỉ trong lĩnh vực giao
của dân đối với cơ quan nhà nước
trong thành phố ngang nhiên thông!
và công chức; dân phải được phản
vi phạm luật, nhất là vào đường Tất cả những hiện tượng và
biện chủ trương, chính sách và cả
cấm, đường ngược chiều (bất kể việc làm nói trên, có cái do yếu
những dự án một cách hợp hiến
là đường hay cầu ở rất nhiều nơi, kém (không nhiều), vi phạm đạo
(nghĩa là thông qua Luật cụ thể
bất cứ phường, quận nào cũng đức công chức, vì chủ nghĩa cá
của ngành lập pháp) chứ không
có) mà ở nhiều nơi không hề thấy nhân (nói trắng ra là tham lam)
cần quá nhiều tổ chức nhiều khi
cảnh sát giao thông, không hề bị tự biến mình thành những tội đồ
chỉ mang… tính hình thức, như ủy
ai xử lý (có những nơi sát ngay cơ coi thường pháp luật, thậm chí
ban nọ, ủy ban kia, diễn đàn này
quan công an phường) và vì vậy vi phạm một cách công khai (tất
diễn đàn khác… thậm chí VOV
người ta ngày càng ngang nhiên nhiên là chưa thể kể hết, đầy đủ)
phát tin thực trạng giao thông các
phạm luật một cách có ý thức, đều là những nguyên nhân trực
thành phố lớn cả ngày nhưng hiệu
thậm chí những người vốn chấp tiếp dẫn đến tình cảnh kẹt xe triển
miên, gây thảm họa tai nạn giao quả được bao nhiêu?
hành nghiêm cũng “phá rào” vì
thông để lại nhiều hệ lụy rất, rất Làm tốt tất cả những nội dung
“chấp hành nghiêm chỉ thiệt cho
nghiêm trọng cho hàng vạn gia này cũng chưa thể khắc phục được
chính mình!”
đình và cho xã hội! những bất cập và nghịch lý và tai
Còn cảnh sát giao thông là
Thực trạng trên đây nói lên nạn giao thông thảm khốc - nhất
những người thực thi công việc
vất vả, luôn phải di chuyển trên điều gì? Đó là hành động thiếu là giao thông đô thị như hiện nay,
những con đường trong bất cứ tôn trọng pháp luật (chứ không mà vấn đề cốt lõi là: Một khi đời
thời tiết cực đoan nào. Họ là thể dùng cụm từ thiếu văn hóa). sống, mức sống của công dân –
những người có trách nhiệm thi Một khi hiện tượng này trở thành đặc biệt là những người lao động
hành nghiêm luật vốn quan hệ phổ biến (thậm chí tràn lan) thì chiếm số đông tuyệt đối trong xã
đến mạng sống của hàng vạn hiển nhiên cuộc sống xã hội hội - được cải thiện về cơ bản và
người, thì sao? Có một sự thật rất không thể diễn ra trật tự, bình yên khi mức sống của thị dân tăng lên
buồn, rất đáng chê trách không (chứ đứng nói gì đến văn minh). rõ rệt, tăng thật sự chứ không phải
thể không nói: Hàng loạt cảnh sát Khi cơ quan công quyền (cơ quan tăng ảo - thì điều chắc chắn có thể
giao thông ở nơi từng trở thành quản lý – điều hành, cơ quan bảo khẳng định là tinh thần thượng
đối tượng phê phán và mổ xẻ vệ pháp luật…) không thượng tôn tôn pháp luật sẽ được coi trọng và
những hành động phi đạo đức pháp luật thì việc người thường chấp hành.