You are on page 1of 15

MỤC LỤC

MỤC LỤC.............................................................................................................................1
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................................2
PHẦN I: KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÀ ........................................................3
MỘT SỐ TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA PHẬT GIÁO...........................................................3
I. Khái quát lịch sử phát triển của Phật giáo.............................................................................3
II. Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo...................................................................3
1. Thế giới quan Phật giáo..........................................................................................................................4
2. Nhân sinh quan Phật giáo.......................................................................................................................5
PHẦN II: ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO TỚI NỀN VĂN
HÓA VIỆT NAM..................................................................................................................8
I. Lịch sử hình thành và phát triển Phật giáo Việt Nam...........................................................8
II. Ảnh hưởng của Phật giáo tới nền văn hóa Việt Nam:..........................................................8
1. Phật giáo đã góp phần hình thành và phát triển nhân cách, tư duy của con người Việt Nam................9
2. Ảnh hưởng của Phật giáo tới đời sống chính trị xã hội........................................................................10
3. Ảnh hưởng của Phật giáo tới đời sống văn hóa Việt Nam...................................................................11
a) Văn hóa tín ngưỡng..........................................................................................................................11
b) Kiến trúc chùa tháp..........................................................................................................................11
c) Văn hóa dân gian..............................................................................................................................13
KẾT LUẬN..........................................................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................15

Phạm Thị Minh Thu


1/15
Lớp KTTG 16.2
LỜI MỞ ĐẦU
Phật giáo là một trong những học thuyết Triết học - tôn giáo lớn nhất , tồn tại rất lâu
đời và ngày càng mở rộng tầm ảnh hưởng của mình tới các quốc gia trên thế giới. Hệ thống
giáo lý của Phật giáo rất đồ sộ và số lượng phật tử đông đảo được phân bố rộng khắp. Bên
cạnh các quốc gia có nền Phật giáo phát triển mạnh như Ấn Độ, Trung Quốc, thì Việt Nam
cũng được kể tới như một quốc gia của Phật giáo. Bên cạnh các tôn giáo khác như Nho
giáo, Thiên chúa giáo…, Phật giáo – Đạo Phật ở Việt Nam không chỉ là một học thuyết
triết học hay một tôn giáo đơn thuần mà đã ăn sâu và ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống xã
hội, tinh thần của con người Việt Nam. Quá trình Phật giáo phát triển, truyền bá ở Việt
Nam gắn liền với quá trình hình thành, phát triển tư tưởng, đạo đức của con người. Vì vậy
khi nghiên cứu lịch sử, tư tưởng, đạo đức Việt Nam không thể không đề cập đến Phật giáo
và những mối quan hệ, tác động qua lại giữa chúng.
Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên CNXH ở Việt Nam, tư tưởng triết học
Phật giáo không còn giữ vai trò chủ đạo như thời kỳ thế kỷ thứ X – XIV, thay vào đó Chủ
nghĩa Mác – Lenin là tư tưởng chủ đạo, là vũ khí lý luận của chúng ta. Nhưng bên cạnh đó,
bộ phận kiến trúc thượng tầng của xã hội cũ vẫn có sức sống dai dẳng, trong đó giáo lý nhà
Phật đã ít nhiều in sâu vào tư tưởng tình cảm của một số bộ phận lớn dân cư Việt Nam.
Những tư tưởng của Phật giáo tuy tồn tại những điểm hạn chế, song cũng có rất nhiều tác
động tích cực, bởi vậy việc xoá bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của nó là không thể thực hiện
được và cũng không nên thực hiện. Vì vậy, nghiên cứu lịch sử, giáo lý, và sự tác động của
đạo Phật đối với thế giới quan, nhân sinh quan của con người là hết sức cần thiết để vận
dụng những tư tưởng của Phật giáo một cách hợp lý, góp phần đạt được mục đích của thời
kỳ quá độ cũng như sau này. Việc đi sâu nghiên cứu, đánh giá những mặt hạn chế cũng
như tiến bộ, nhân đạo của Phật giáo giúp ta hiểu rõ tâm lý nhân dân hơn và qua đó tìm ra
được một phương cách để hướng đạo cho nhân dân, theo đạo để làm điều thiện, tránh cái ác,
hình thành nhân cách con người tốt hơn, từ đó đóng góp xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.
Lĩnh vực nghiên cứu Phật giáo hiện nay tương đối được mở rộng, ngoài việc nghiên
cứu giáo lý, kinh điển, lịch sử ... của Phật giáo ra còn đề cập đến các lĩnh vực Triết học, Sử
học, Tâm lý học, Khảo cổ học, Xã hội học, Dân tộc học, Văn học, Nghệ thuật ... Phật học
đã trở thành một trong những khoa học tương đối quan trọng trong khoa học xã hội, trước
mắt có quan hệ mật thiết với xã hội học.
Chính vì ý nghĩa và vai trò to lớn của Phật giáo đối với tiến trình phát triển xã hội của
Việt Nam, tôi đã chọn đề tài “Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo và ảnh
hưởng tới nền văn hóaViệt Nam” để nghiên cứu cho tiểu luận môn học. Ngoài phần mở
đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung đề tài bao gồm 2 phần:
Phần I: Khái quát lịch sử phát triển và một số tư tưởng cơ bản của Phật Giáo
Phần II: Ảnh hưởng của Phật giáo tới nền văn hoá Việt Nam.

Phạm Thị Minh Thu


2/15
Lớp KTTG 16.2
PHẦN I: KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÀ
MỘT SỐ TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA PHẬT GIÁO
I. Khái quát lịch sử phát triển của Phật giáo

Phật giáo là một tôn giáo được Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) truyền giảng ở miền bắc
Ấn Độ vào thế kỷ 6 trước công nguyên. Phật là tên ghi âm Hán Việt của Buddba, có nghĩa là
giác ngộ. Phật giáo là hình thức tổ chức giáo đoàn được xây dựng trên một niềm tin từ đức
Phật, tức từ biển lớn trí tuệ và từ bi của Siddbada. Do được truyền bá trong một thời gian dài
ra nhiều nơi đến nhiều chủng tộc nên lịch sử phát triển của đạo Phật khá đa dạng về các bộ
phái cũng như các nghi thức hay phương pháp tu học. Sau khi ra đời ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ
9 đến thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, Phật giáo được lưu hành rộng rãi ở các quốc gia
trong khu vực Á - Phi, gần đây được truyền tới các nước Âu - Mỹ. Trong quá trình truyền bá,
đạo Phật đã kết hợp với tín ngưỡng, tập tục, dân gian, văn hoá bản địa để hình thành rất
nhiều tông phái và học phái, có tác động vô cùng quan trọng với đời sống xã hội và văn hoá
của rất nhiều quốc gia.

Trong lịch sử triết học Phật giáo, có thể xác lập nên ba thời kỳ lớn. Thời kỳ được gọi là
thời kỳ của Tiểu thừa thuần tuý và các nhánh của nó, tức Phật giáo nguyên thủy; Thời kỳ
xuất hiện Đại thừa và đấu tranh giữa Đại thừa và Tiểu thừa; Thời kỳ chiến thắng và hưng
thịnh của Đại thừa.

Thuộc thời kỳ nguyên thủy có tác phẩm Mahavibasa đồ sộ và một loạt những bản luận
ngắn hơn. Dựa vào các tài liệu này, có thể tìm ra những khái niệm rõ ràng về cuộc tranh
luận giữa các tông phái thuộc thời kỳ kinh viện cổ xưa của Phật giáo.

Thời kỳ thứ hai bắt đầu vào khoảng đầu công nguyên. Vào thời gian này, tồn tại nhiều
khuynh hướng triết học rất khác nhau, triết học Tiểu thừa tiếp tục phát triển hưng thịnh,
Đại thừa vẫn chưa át được Tiểu thừa và chủ nghĩa thần bí chưa thắng được chủ nghĩa duy
lý. Cùng một lúc, ở một số trường phái này thì đi vào lôgic, còn các trường phái khác lại
phát triển những học thuyết thuần túy thần bí về thiền định.

Những người đặt nền tảng giáo điều cho thời kỳ thứ ba là Asanga và Vasubandu, giai
đoạn đã chuyển từ Tiểu thừa sang Đại thừa. Thời kỳ này bắt đầu bằng chiến thắng của Đại
thừa và tiếp tục bằng sự phát triển của Đại thừa thành các nhánh, các tông phái.

Ngay từ buổi đầu, Thích Ca, người sáng lập đạo Phật, đã tổ chức được một giáo hội với
các giới luật chặt chẽ. Nhờ vào sự uyển chuyển của giáo pháp, đạo Phật có thể thích nghi
với nhiều hoàn cảnh xã hội, nhiều dạng người, nhiều tập tục ở các thời kỳ khác nhau, và do
đó ngày nay Phật giáo vẫn tiếp tục tồn tại và ngày càng phát triển ngay cả trong các nước
có nền khoa học tiên tiến như Hoa Kỳ và Tây Âu.

II. Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo

Những nguyên lý cơ bản của Phật giáo được thể hiện trong giáo lý. Hệ thống giáo lý của
Phạm Thị Minh Thu
3/15
Lớp KTTG 16.2
Phật giáo là một hệ thống rất đồ sộ nằm chủ yếu trong Tam tạng kinh điển, gồm Kinh tạng
(ghi lời Phật dạy), Luật tạng (các giới luật), và Luận tạng (các bài kinh, tác phẩm luận giải,
bình chú về giáo pháp của các cao tăng và học giả sau này).

Tư tưởng triết học Phật giáo thể hiện trên hai phương diện thế giới quan và nhân sinh quan,
cả hai phương diện này đều chứa đựng những tư tưởng duy vật và biện chứng chất phác.

1. Thế giới quan Phật giáo

Thế giới quan Phật giáo là một thế giới quan có tính duy vật và vô thần, đồng thời có
chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng sâu sắc. Những tư tưởng triết học Phật giáo này được
thể hiện thông qua 4 phạm trù cơ bản: vô tạo giả, duyên khởi, vô thường và vô ngã.

Tính duy vật và vô thần thể hiện rõ nét nhất ở quan niệm về tính tự thân sinh thành,
biến đổi của vạn vật, không do sự chi phối quyết định của một lực lượng thần linh hay
thượng đế tối cao nào. Trái lại vạn vật đều tuân theo tính tất định và phổ biến của luật nhân
quả. Điều này được quán triệt trong việc lý giải những vấn đề của cuộc sống nhân sinh
như: Hạnh phúc, đau khổ, giàu nghèo, thọ,yểu…

- Trong phạm trù “vô tạo giả”, Phật giáo cho rằng vạn vật là vô thủy chung, không có
sự vật đầu tiên vì không có nguyên nhân đầu tiên và cũng không có sự vật cuối cùng. Vạn
vật, kể cả con người đều không do thần linh hay thượng đế sáng tạo ra. Như vậy ngay từ
đầu Phật giáo đã đặt ra mục đích giải quyết vấn đề cơ bản của Triết học một cách biện
chứng và duy vật. Phật giáo đã gạt bỏ vai trò sáng tạo thế giới của các “đấng tối cao” của
“Thượng đế” và cho rằng bản thể của thế giới tồn tại khách quan và không do vị thần nào
sáng tạo ra cả. Cái bản thể ấy chính là sự thường hằng trong vận động của vũ trụ, là muôn
ngàn hình thức của vạn vật trong vận động, nó có mặt trong vạn vật nhưng nó không dừng
lại ở bất kỳ hình thức nào. Tuy nhiên, Phật giáo cũng cho rằng vạn vật, kể cả con người chỉ
là ảo và giả, chỉ do “tâm vô minh” sinh ra.

- Vạn vật tuy muôn hình vạn trạng nhưng đều tuân hành nghiêm ngặt theo quan hệ nhân
quả (nhân quả tương tục và nhân quả vô tạp loạn) thông qua điều kiện nhất định gọi là duyên
– Tư tưởng này được gọi là “duyên khởi”. Từ quan niệm vạn vật không tự nhiên có, không
tự nhiên sinh ra, và cũng không do một thần quyền hay một đấng thiêng liêng nào tạo ra,
Phật cho rằng sự vật sinh ra phải có nhân duyên. Phật giáo lại nhấn mạnh: quả có thể khác
nhân sinh ra nó, quả có thể hơn nhân nếu gặp đủ duyên tốt, trái lại có thể kém nhân nếu gặp
duyên xấu. Nhân gặp đủ duyên thì sẽ thành quả, quả sinh ra nếu hội tủ đủ duyên lại có thể
biến thành nhân rồi lại sinh ra quả khác. Như vậy, sự vật là một chuỗi nhân quả nối tiếp
nhau, ảnh hưởng lẫn nhau không bao giờ đứt quãng, không bao giờ ngừng.

Tính biện chứng sâu sắc của triết học Phật giáo đặc biệt thể hiện rõ qua việc luận
chứng về tính chất “vô ngã” và “vô thường” của vạn vật.

- Phạm trù “vô ngã” bao hàm tư tưởng cho rằng, vạn vật trong vụ trụ vốn không có

Phạm Thị Minh Thu


4/15
Lớp KTTG 16.2
tính thường hằng nó chỉ là sự “giả hợp” do sự hội đủ nhân duyên nên thành ra “có” (tồn
tại). Ngay bản thân sự tồn tại của thực tế con người chẳng qua cũng là do “ngũ uẩn” (năm
yếu tố) hội hợp lại: Sắc (vật chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và thức
(ý thức). Theo cách phân loại khác-“lục tại”: địa (chất khoảng), thuỷ (chất nước), hoả
(nhiệt năng), phong (hơi thở), không (khoảng trống) và thức (ý thức). Nói một cách tổng
quát thì vạn vật chỉ là sự “hội hợp” của hai loại yếu tố là vật chất “sắc” và tinh thần
“danh”. Như vậy thì không có cái gọi là “tôi” (vô ngã).

- Phạm trù “vô thường” gắn liền với phạm trù “vô ngã”. Vô thường nghĩa là vạn vật
biến đổi vô cùng theo chu trình bất tận: Sinh – Trụ – Dị – Diệt…(hay: Sinh – Trụ – Hoại –
Không). Vậy thì “có có” – “không không” luân hồi (bánh xe quay) bất tận: “thoáng có”,
“thoáng không” cái còn mà chẳng còn, cái mất mà chẳng mất. Bản chất sự tồn tại của thế
giới là một dòng biến chuyển không ngừng (vô thường). Không thể tìm ra nguyên nhân
đầu tiên, do vậy không có ai tạo ra thế giới và cũng không có gì vĩnh hằng.

Như vậy, Phật giáo cho rằng các sự vật và hiện tượng trong vũ trụ (chu pháp) là vô
thuỷ, vô chung (vô cùng, vô tận). Tất cả thế giới đều ở quá trình biến đổi liên tục (vô
thường) không có một vị thần nào sáng tạo ra vạn vật cả. Tất cả các Pháp đều thuộc về một
giới (vạn vật đều nằm trong vũ trụ) gọi là Pháp giới. Mỗi một pháp ( mỗi một sự v iệc hiện
tượng, hay một lớp sự việc hiện tượng) đều ảnh hưởng đến toàn Pháp. Như vậy các sự vật,
hiện tượng hay các quá trình của thế giới là luôn luôn tồn tại trong mối liên hệ, tác động
qua lại và qui định lẫn nhau, đều bị chi phối bởi luật nhân quả, biến hoá vô thường, không
có cái bản ngã cố định, không có cái thực thể, không có hình thức nào tồn tại vĩnh viễn cả.
Cái nhân nhờ có cái duyên mới sinh ra được mà thành quả. Quả lại nhờ có duyên mà thành
nhân khác, nhân khác lại thành quả. Quả lại nhờ có duyên mà thành nhân khác, nhân khác
lại nhờ có duyên mà thành quả mới ... Cứ thế nối nhau vô cùng vô tận mà thế giới, vạn vật,
muôn loài, cứ sinh sinh, hoá hoá mãi.

2. Nhân sinh quan Phật giáo

Nhân sinh quan Phật giáo là phần trọng tâm của triết học này. Nội dung triết học nhân
sinh của Phật giáo tập trung ở bốn luận điểm (gọi là Tứ diệu đế hay còn gọi là tứ chân đế
hay tứ thánh đế). Bốn luận điểm này được Phật giáo coi là bốn chân lý vĩ đại về cuộc sống
nhân sinh cho bất cứ cuộc sống nhân sinh nào thuộc đẳng cấp nào, đồng thời cũng là cơ sở
của các thuyết khác trong giáo lý Phật.

Khổ đế giải thích sự thật nơi cuộc sống nhân sinh không có gì khác ngoài sự đau khổ,
ràng buộc hệ luỵ, không có tự do. Đó là 8 nỗi khổ trầm lâm bất tận mà bất cứ ai cũng phải
gánh chịu: Sinh, Lão, Bệnh, Tử, Ái biệt Ly (yêu thương chia lìa), Oán tăng hội (oán ghét
nhau mà phải sống với nhau), Sở cầu bất đắc (cái mong muốn mà không đạt được), và Ngũ
thụ uẩn (5 yếu tố vô thường nung nấu làm khổ).

Nhân đế là những nguyên nhân tạo thành sự khổ. Những nguyên nhân đó không phải
Phạm Thị Minh Thu
5/15
Lớp KTTG 16.2
tìm đâu xa mà ở ngay trong mỗi chúng ta. Do đó, Phật đưa ra lý thuyết thập nhị nhân
duyên để thấy được nguồn gốc của sự vật trong thế gian. 12 nhân duyên là sợi dây liên tục
nối tiếp con người trong vòng sinh tử luân hồi đó là: 1.Vô minh; 2.Hành; 3.Thức; 4.Danh
sắc; 5.Lục nhập; 6.Xúc; 7.Thụ; 8.Ái; 9.Thủ; 10.Hữu; 11.Sinh và 12.Lão Tử. Trong 12 nhân
duyên ấy thì “Vô minh” là nguyên nhân thâu tóm tất cả. Bởi vậy diệt trừ vô minh là diệt
trừ tận gốc rễ sự đau khổ nhân sinh. Dưới góc độ nhận thức, vô minh là “ngu tối”, “không
sáng suốt”, “thiếu giác ngộ chân lý”.

Nhân đế là một chân lý thể hiện tính biểu chứng sâu sắc trong mối quan hệ nhân quả và
đã tìm tới các nguyên nhân rất đa dạng, phong phú. Các nguyên nhân ấy quan hệ với nhau,
cái nào cũng có thể làm nhân làm duyên cho cái khác, như làn sóng trên mặt biển, lớp
trước là lớp nhân là duyên cho lớp sau và cứ thế tiếp diễn. Nhưng cái hạn chế của nhân đế
là chưa đề cập đến nguyên nhân từ xã hội. Đặc biệt là chưa nhắc tới quan hệ giai cấp, bóc
lột trong xã hội. Luận điểm này thể hiện rõ từ trào hướng nội hướng nội trong nhận thức
luận Phật giáo.

Diệt đế bàn về khả năng có thể tiêu diệt được sự khổ nơi cuộc sống nhân sinh, đạt tới
trạng thái Niết bàn, cứu cánh của hành động tự do. Luận điểm này cũng bộc lộ tinh thần lạc
quan tôn giáo của Phật giáo; cũng thể hiện khát vọng nhân bản của nó muốn hướng con
người đến niềm hạnh phúc “tuyệt đối”; khát vọng chân chính của con người tới Chân –
Thiện – Mỹ.

Đạo đế là con đường, là môn pháp hướng dẫn cho chúng sinh diệt khổ, ra khỏi luân hồi
sinh tử, đạt tới giải thoát. Đó không phải là con đường sử dụng bạo lực mà là con đường
“tu đạo”. Thực chất của con đường này là hoàn thiện đạo đức cá nhân. Sự giải phóng mang
ý nghĩa của sự thực hiện cá nhân, không mang ý nghĩa của những phong trào cách mạng
hay cải cách xã hội. Đây là nét đặc biệt của “tinh thần giải phóng nhân sinh” của Phật
giáo. Pháp môn tu dưỡng ra khỏi luân hồi sinh tử rất nhiều, nhưng thường được đề cao là
phương pháp 37 đạo phẩm.

Trong 37 đạo phẩm, bát chính đạo là quan trọng nhất. Nó là con đường giúp người ta
thoát khỏi phiền não, đau khổ đi tới cảnh giới Niết Bàn tự tại, an lạc. Bát chính đạo gồm có:

1. Chính ngữ : là tu nghiệp thanh tịnh, không phát ra lời nói sai trái.

2. Chính nghiệp: hành động chân chính, mang lại lợi ích cho mọi người.

3. Chính mệnh: sống bằng nghề nghiệp chân chính.

4. Chính tịnh tiến : tiến tới trên con đường đạo, không đi vào các đường tà.

5. Chính niệm: tâm trí luôn luôn nghĩ đến đạo lý vô ngã, diệt trừ những kiến chấp mê
lầm, đoạt trừ những tư tưởng, hành động bất chính.

6. Chính định : Giữ tâm vắng lặng không một vọng niệm khởi lên để trí tuệ xuất hiện,
chứng quả tu đà hoàn.
Phạm Thị Minh Thu
6/15
Lớp KTTG 16.2
7. Chính kiến : kết quả của việc sống, tư duy con người phải có ý biến lấy tiêu biểu là
các vị Phật.

8. Chính tư duy: Sau khi có niệm khởi, con người sẽ tư duy, suy nghĩ một cách chân
chính, làm chủ được dòng tư duy.Tám nguyên tắc (hay “bất chính đạo”) có thể thâu tóm
vào ba điều học tập, rèn luyện lớn là: Giới - Định – Tuệ (tức là: Giữ giới luật, thực hành
thiền đinh và khai thông trí tuệ Bát nhã).

Muốn thực hiện được “ Bát chính đạo” thì phải có phương pháp để thực hiện nhằm
ngăn ngừa những điều gian ác gây thiệt hại cho mình và những người làm điều thiện có lợi
ích cho mình và cho người. Nội dung của các phương pháp đó là thực hiện “ Ngũ giới”
( năm điều răn ) và “Lục độ” (Sáu phép tu ).

“Ngũ giới” gồm: Bất sát (Không sát sinh), Bất đạo (Không làm điều phi nghĩa), Bất
dâm (Không dâm dục), Bất vọng ngữ (Không bịa đặt, không vu oan giáo hoạ cho kẻ khác,
không nói dối),

“Lục độ” gồm: Bố thí (Đêm công sức, tài trí, của cải để giúp người một cách thành
thực chứ không để cầu lợi hoặc ban ơn), Trí giới (Trung thành với điều răn, kiên trì tu
luyện), Nhẫn nhục (Phải biết kiên nhẫn, nhường nhịn, chịu đựng để làm chủ được mình),
Tịnh tiến (Cố gắng nỗ lực vươn lên), Thiền định (Tư tưởng phải tập trung vào điều ngay,
chính không để cho cái xấu cho lấp), Bát nhã (Trí tuệ thấy rõ hết, hiểu thấu hết mọi chuyện
trên thế gian).

Tóm lại Phật giáo cho rằng chỉ có bằng sự kiên định để thực hiện “Bát hành đạo”, “Ngũ
giới”, “Lục độ” thì chúng sinh mới có thể giải thoát mình ra khỏi nỗi khổ. Phật giáo không chủ
trương giải phóng bằng cách mạng xã hội. Mặc dù Phật giáo lên án rất gay gắt chế độ người
bóc lột người, chống lại chủ nghĩa duy tâm cua Bàlamôn giáo. Đó là một trong những nhược
điểm đồng thời cũng là ưu điểm nửa vời của Đạo phật. Đứng trước bể khổ của chúng sinh Phật
giáo chủ trương cải tạo tâm linh chứ không phải cải tạo thế giới hiện thực.

Như vậy Phật giáo nguyên thuỷ có tư tưởng vô thần, phủ nhận đấng sáng tạo ( vô ngã,
vô tạo giả) và có tư tưởng biện chứng ( vô thường, lý thuyết Duyên khởi ). Tuy nhiên, Triết
học Phật giáo cũng thể hiện tính duy tâm chủ quan khi coi thế giới hiện thực là ảo giả và
do cái tâm vô minh của con người tạo ra.

Phạm Thị Minh Thu


7/15
Lớp KTTG 16.2
PHẦN II: ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT
HỌC PHẬT GIÁO TỚI NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM
I. Lịch sử hình thành và phát triển Phật giáo Việt Nam
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, ngay từ khoảng thế kỷ II sau Công
Nguyên với truyện cổ tích Chử Đồng Tử học đạo của một nhà sư Ấn Độ. Luy Lâu (thuộc
tỉnh Bắc Ninh) là trụ sở của quận Giao Chỉ sớm trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng.
Các truyền thuyết về Thạch Quang Phật và Man Nương Phật Mẫu xuất hiện cùng với sự
giảng đạo của Khâu Đà La (Ksudra) trong khoảng các năm 168-189.
Do tiếp thu Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ nên từ Buddha (bậc giác ngộ) được phiên âm
trực tiếp thành Bụt, từ Bụt được dùng nhiều trong các truyện dân gian. Phật giáo Việt Nam
lúc ấy mang màu sắc của Tiểu thừa, Bụt được coi như một vị thần chuyên cứu giúp người
tốt, trừng phạt kẻ xấu. Sau này, vào thế kỷ thứ 4-5, do ảnh hưởng của Đại thừa đến từ Trung
Quốc mà từ Bụt bị mất đi và được thay thế bởi từ Phật. Trong tiếng Hán, từ Buddha được
phiên âm thành Phật đà, Phật đồ rồi được rút gọn thành Phật.
Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Đến đời nhà Lý, nhà Trần, Phật giáo
phát triển cực thịnh, được coi là quốc giáo, ảnh hưởng đến tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống.
Đến đời nhà Hậu Lê thì Nho giáo được coi là quốc giáo và Phật giáo đi vào giai đoạn suy
thoái. Đến đầu thế kỷ 18, vua Quang Trung cố gắng chấn hưng đạo Phật, chỉnh đốn xây chùa,
nhưng vì mất sớm nên việc này không có nhiều kết quả. Đến thế kỷ 20, mặc dù ảnh hưởng
mạnh của quá trình Âu hóa, Phật giáo Việt Nam lại phát triển mạnh mẽ khởi đầu từ các đô thị
miền Nam với các đóng góp quan trọng của các nhà sư Khánh Hòa và Thiện Chiếu.
Bốn giai đoạn lịch sử Phật giáo Việt Nam
* Từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hình thành và phát
triển rộng khắp;
* Thời Đại Việt là giai đoạn cực thịnh;
* Từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ 19 là giai đoạn suy thoái;
* Từ đầu thế kỷ 20 đến nay là giai đoạn phục hưng.
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Phật giáo có ảnh hưởng sâu đậm và lâu dài. Trong quá trình
phát triển, Phật giáo với tư cách là một tôn giáo, đã có nhiều đóng góp cho văn hoá Việt Nam.
Cũng giống như tôn giáo ngoại sinh khác như nho giáo, Đạo giáo, Islam giáo, Công giáo
hay Đạo tin lành, Phật giáo khi du nhập vào Việt Nam đã có những va chạm nhất định với văn
hoá bản địa, hình thành cục diện hội nhập khác với sự tiến hoá tự nhiên của một hệ tư tưởng
bản địa. Quá trình hội nhập đó dẫn tới sự hình thành những yếu tố văn hoá mới.

II. Ảnh hưởng của Phật giáo tới nền văn hóa Việt Nam:
Phật giáo sau khi được du nhập vào Việt đã kết hợp với phong tục, tập quán truyền thống
dân tộc Việt Nam hình thành nên Phật giáo Việt Nam. Trải qua một khoảng thời gian dài, Phật

Phạm Thị Minh Thu


8/15
Lớp KTTG 16.2
giáo ở Việt Nam không ngừng phát triển, lớn mạnh và đã tạo nên một dấu ấn sâu đậm trong
việc hình thành đạo đức, nhân cách con người Việt Nam, nền văn hoá Việt Nam. Trong phạm
vi tiểu luận này chỉ bàn đến một số ảnh hưởng cơ bản của Phật giáo tới nền văn hóa Việt Nam.

1. Phật giáo đã góp phần hình thành và phát triển nhân cách, tư duy của con người
Việt Nam
Phật giáo là một tôn giáo, như các tôn giáo khác, Phật giáo cũng gồm có giáo lý và hoạt
động tín ngưỡng. Giáo lý là một hệ thống các quan điểm về thế giới và con người, về cách
thức tu luyện và hoạt động tín ngưỡng, là những hành vi, những nghi lễ cần phải thực hiện để
đạt tới ước nguyện. Cả hai đều có ý nghĩa đối với việc hình thành nhân cách của các tín đồ.
Có thể nhận thấy, người Việt nảy sinh tư duy trừu tượng về phồn thực với hình thức ma
thuật mô phỏng là một dạng tôn giáo tín ngưỡng nguyên thuỷ. Các nhà nghiên cứu đã phân
tích các hình vễ được khắc trên thân trống đồng như cảnh chim bay, cảnh miêu tả các động
vật như trâu, bò để chứng minh cho luận thuyết: Người Việt khi đó đã có quan niệm về vũ
trụ quan với 3 thế giới: Trời - Đất – Nước. Điều đó cho thấy, tư duy củ người Việt đã nhận
thức được sự vận động vòng tròn để từ đó làm cơ sở cho việc tiếp nhận dễ dàng thuyết
luôn hồi của Phật giáo.
Phật giáo là một tôn giáo, nhưng trong đó hai yếu tố tôn giáo và triết học luôn hoà vào
nhau làm cơ sở luận chứng cho nhau. Ở đây yếu tố triết học, về mặt này Phật giáo đã có
ảnh hưởng lớn tới tư duy của người Việt Nam trong đó có những giá trị và nhiều hạn chế
nhất định.
Tiếp thu Phật giáo, tư duy người Việt Nam có thêm một số khái niệm và phạm trù nói
nên bản thể luận là những vấn đề cơ bản của triết học.Trong thế giới quan phức hợp nhiều
thành phần của người Việt Nam thì Phật giáo là có ý nghĩa nhiều nhất. Hơn tất cả các học
thuyết khác của phương đông, Phật giáo chú ý đến mặt phát triển tự nhiên của con người,
đó là sinh, lão, bệnh, tử.Bốn giai đoạn của cuộc đời đã nói lên sự phát triển tất yếu của con
người mà nếu ai đó nhận thức được sẽ không sợ hãi trước sự thay đổi của cuộc đời thậm
chí sống lạc quan bình thản trước cái chết. Nhiều nhà sư trong thời Lý – Trần đã có qua
niệm như thế.
Phật giáo đã đề cập đến vấn đề ngũ uẩn: sắc, thụ, tưởng, thành, thức là những vấn đề có
ý thức luận sâu xa. Tuy đối tượng đó là tâm và tính chất là duy tâm nhưng trong quá trình
ngũ uẩn chứa đựng một quá trình nhận thức hợp lý. Từ sự vật khánh quan (Sắc),con người
cảm thụ được(Thụ), suy nghĩ(Tưởng), rồi thực hiện (Hành), và cuối cùng là biết (Thức).Ở
đây nếu đem bóc cái thần bí ra ta thấy có những hạt nhân hợp lý.
Phật giáo đã đưa vào hệ tư tưởng Việt Nam những qua niêm biện chứng với các khái
niệm ‘vô thường’, ‘vô ngã’ Cho thấy Phật giáo nhìn sự vật trong sự vận động biến đổi liên
tục không có gì là trụ lại mãi, không có ai là tồn tại mãi. Tuy nhận thức đó chỉ nhìn thấy
cái biến đổi mà không nhìn thấy cái ổn định tương đối.
Phật giáo đề cập đến mối nhân duyên đến mối quan hệ nhân quả, đến việc xét sự vật
phải từ kết quả tìm ra nguyên nhân và xem kết quả này là nguyên nhân từ kết quả khác
Phạm Thị Minh Thu
9/15
Lớp KTTG 16.2
trong mỗi qua hệ khác.
Trên đây là những vấn đề mà Phật giáo đã ảnh hưởng đến tư duy Việt Nam, góp phần
làm nên những yếu tố triết học sâu xa trong thế giới quan của người Việt Nam.
Tuy vậy Phật giáo cũng có những hạn chế, ảnh hưởng tiêu cực nhất định đến tư duy
của người Việt Nam. Phật giáo chỉ thấy cá nhân con người mà không thấy xã hội con
người, chỉ thấy cong người nói chung mà không thấy con người của giai cấp đối kháng
nhau trong xã hội trước đây, không thừa nhận đấu tranh trong giai cấp xã hội,do đó không
thấy được nguyên nhân khổ ải của con người, không thấy được sự cần thiết phải chống áp
bức, bóc lột vì thế quan niệm từ bi bác ái trong một số trường hợp bất lợi cho đấu tranh
giải phóng giai cấp, chống áp bức.
Phật giáo không bàn tới lĩnh vực chính trị, vì thế mỗi khi nhà sư bước sang lĩnh vực
chính trị-xã hội phải sử dụng các tư tưởng Nho hay Lão -Trang. Nhà sư Viễn Thông cho
rằng “Lòng dân là gốc trị loạn”,trong đó “lòng dân” là khái niệm và tư tưởng của nhà Nho;
nhà sư Đỗ Phát Nhuận nói “nếu vô vi ngự trị trong triều đình thì nơi nơi sẽ tắt chiến tranh”
trong đó vô vi là khái niệm của Lão- Trang mặc dù khái niệm đó được giải thích theo quan
niệm nhà Phật.
Hạn chế lớn nhất của Phật giáo đối với tư duy của người Việt Nam là quan điểm duy
tâm thần bí. Quan điểm này không hướng người ta vào hiện thực mà hướng vào quả báo,
hướng vào nghiệp, vào thần linh để mong được phù hộ, độ trì.Và một khi tư duy như vậy
thì không cần khám phá tìm tòi, sáng tạo và hành động.

2. Ảnh hưởng của Phật giáo tới đời sống chính trị xã hội
Kể từ khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo có ảnh hưởng không nhỏ vào đời sống
chính trị xã hội. Ngày nay, người ta nhấn mạnh vai trò chính trị của các nhà sư thời Lý,
Trần, nhấn mạnh ý nghĩa chính trị xã hội trong một số hoạt động của phật tử hiện đại.
Đạo Phật là tôn giáo thịnh đạt nhất trong xã hội thời Lý Trần được coi như một quốc
giáo. Thời Lý Trần có rất nhiều nhà sư nổi tiếng trong cả nước, có uy tín và đìa vị chính trị
xã hội. Có thể kể đến các nhà sư Vạn Hạnh, Mãn Giác, Viên Thông, Minh Không, Giác
Hải, Pháp Loa, Huyền Quang.
Nhà nước Lý ,Trần tôn chuộng đạo Phật, trong bối cảnh của sự khoan dung, hoà hợp
tôn giáo “Tam giáo đồng nguyên”, chủ yếu là sự kết hợp giữa Phật Giáo và Nho giáo, giữa
giáo lí và thực tiễn đời sống. Đạo Phật thời Lý Trần đã ảnh hưởng đến đường lối cai trị của
nhà nước, là đối trọng tư tưởng của Nho giáo. Như vậy, rõ ràng rằng, Phật giáo đã đào tạo
ra một tầng lớp trí thức mang tư tưởng yêu nước, ủng hộ cho nền độc lập của dân tộc và
ủng hộ cho nhà nước phong kiến. Trong khi đó, cùng với sự du nhập của chữ Hán Nho
giáo đã đào tạo ra một tầng lớp trí thức để làm quan cho chính quyền đô hộ.
Ngày nay, các nhà sư giữ những chức vụ cao trong Giáo hội cũng tham gia vào hoạt
động chính trị.
Nhưng bên cạnh những công tác phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước thì cũng có
Phạm Thị Minh Thu
10/15
Lớp KTTG 16.2
một số phần tử đã lợi dụng chức vụ của mình để gây rối. Hay trường hợp của Lê Đình
Nhàn (tức Thích Huyền Quang) thường xuyên gây phiền nhiễu với các nhà sư khác cùng tu
trong chùa. Thêm vào đó, nhiều vụ tự tử của các nhà sư với những nguyên nhân ngoài đạo
đã bị cách phe phái phản động đưa tin xấu, coi đó là những hành vi tử vì đạo. Và khi
những người đại diện pháp luật can thiệp thì chúng cho đó là hành vi bắt bố sư sãi, đàn áp
Phật giáo, đem lại thông tin phản động cho dân chúng. Tuy nhiên, nhà nước Việt Nam là
nhà nước chủ trương tự do tôn giáo, trong khuôn khổ pháp luật Việt Nam, bởi vậy những
trường hợp tiêu cực luôn bị xử lý một cách thích đáng, trả lại sự trong sáng và ý nghĩa của
Phật giáo đối với nền chính trị, văn hóa, xã hội của Việt Nam.

3. Ảnh hưởng của Phật giáo tới đời sống văn hóa Việt Nam
Nhìn vào đời sống văn hóa của Việt Nam, có thể thấy những dấu ấn đậm nét của Phật
giáo, từ văn hóa tín ngưỡng, đến các lĩnh vực kiến trúc, văn học nghệ thuật, từ những thói
quen rất dân gian đến những lĩnh vực bác học.
a) Văn hóa tín ngưỡng
Một điều thể hiện đặc biệt phổ quát mà nhiều người đã nhắc đến là Phật giáo vốn dễ
hoà hợp với tín ngưỡng dân gian ở những nơi nó được truyền bá đến. Có thể nói rằng,
trong suốt nghìn năm Bắc thuộc, Đạo Phật đã thấm vào lòng dân như nước thấm vào lòng
đất. Ở miền bắc Việt Nam, đặc điểm đó càng nổi bật. Nếu đặc điểm tôn giáo truyền thống
của Việt Nam là sự thờ cúng tổ tiên (linh hồn người thân đã khuất ) thì trong tâm thức dân
gian, Phật hay Quan âm cũng được coi là một thứ tổ tiên. Nếu đặc điểm của tôn giáo Việt
Nam là sự thờ thần (thế lực siêu nhiên ) mà con người thờ cúng để mong được “phù hộ độ
trì” thì Phật hay Quan âm cũng trở thành một loại thần, Phật điện cũng trở thành một thứ
Thần điện, tính tâm linh Ấn Độ cổ xưa nhường bước cho tính tâm linh Việt Nam (hơn đâu
hết, tôn giáo Việt Nam nặng về tính tình cảm hơn là giáo lý, giới luật, đoàn thể, tôn giáo).
b) Kiến trúc chùa tháp
Một ảnh hưởng khác của Phật giáo đó chính là về kiến trúc. Kiến trúc là sản phẩm nhân
tạo cho nên cũng chính là văn hoá và sự phát triển của nó đánh dấu bước tiến của văn
minh. Đặc biệt, ở thời nhà Lý, nghệ thuật kiến trúc Phật giáo đã đạt tới đỉnh cao với những
công trình mang tính quy mô to lớn, vượt hẳn thời trước và cả những thời sau đó.
Cho đến khi ngôi chùa xuất hiện, dù thuộc niên đại muộn hơn buổi đầu Phật giáo ít
nhiều, thì xóm làng Việt Nam vẫn còn là một quần thể nhà tranh với những đền thờ đơn
giản ở gốc đa. Ngôi chùa chiếm ngay đến địa vị trung tâm của làng và trở thành nơi quần
tụ văn hoá. Chùa cao thành ba bậc tượng trưng tam giới, Phật điện nhiều bậc bệ cao dần
lên tượng trưng núi Tu Di, những chư vị Phật ngồi trên những tầng bậc từ thấp đến cao,
những biểu tượng mà người dân Việt Nam không biết, là một cách bài trí hoàn toàn khác
bàn thờ trong nghè, trong nhà của họ.
Chùa Việt có nhiều kiến trúc rất đa dạng, không hoàn toàn giống như chùa Trung
Quốc. Ngôi chùa Việt điển hình do hai nhà sư Trung Quốc là Chuyết Chuyết và Minh

Phạm Thị Minh Thu


11/15
Lớp KTTG 16.2
Hành xây dựng là chùa Bút Tháp, ở đó mang dấu ấn của chùa Trung quốc khá đậm nét.
Buổi đầu chùa Việt mô phỏng chùa hang Ấn Độ cho nên hình thành kiến trúc chuôi vồ rất
phổ biến trong các chùa làng. Một số ngôi chùa tiêu biểu ở Hà Nội hiện nay thuộc mô hình
này như chùa Hồng Phúc (chùa Hoè Nhai), chùa Liên Phái, Chùa Linh Quang…
Phật điện phát triển để chùa có một kiến trúc mới - chùa chữ “công”. Có thể thấy chùa
Diên Ứng (Bắc Ninh) là một tiêu biểu. Dạng kiến trúc này thường thấy có tường bao quanh
và trở thành kiểu nội công ngoại quốc như chùa Chiêu Thiền (chùa Láng) ở Hà Nội. Thông
thường loại hình kiến trúc này của chùa thuộc loại hình chùa quy mô lớn.
Chùa chữ “Tam” là một kiến trúc khác của chùa Việt có ảnh hưởng của chế độ viện lạc
Trung Quốc, như chùa Thiên Phúc (chùa Thầy), chùa Sùng Phúc (chùa Tây Phương) ở Hà
Tây, chùa Một cột ở Hà Nội trong đó một sản phẩm tiêu biểu không thể không đề cập.
Có thể khẳng định ngay rằng, loại hình kiến trúc tháp cũng cực kỳ phong phú. Phật tử
cũng như ngoại đạo đều biết đến tên tuổi của chùa Báo Thiên vòi vọi, tháp Sùng Thiện
Diên Linh gắn với tấm bia về múa rối, chùa tháp Chương Sơn với nét kiến trúc đặc trưng
của hai tay vịn vũ nữ tạc theo tư thế tribhanga mang dấu ấn Chăm rõ rệt.
Không thể nói đến kiến trúc chùa, tháp với những tên tuổi nổi tiếng mà không thể đề
cập đến một hệ thống tượng Phật vô cùng phong phú trong đóng góp về vật chất của Phật
giáo ở Việt Nam. Nói đến chùa tháp là nói đến Tam Thế, Tam Thân, những pho tượng
Thích Ca, Phổ Hiền, Văn Thù, những pho Di Lặc, Đại Diệu Tường, Pháp Hoa Lâm; A Di
Đà, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí; Tuyết Sơn, Ca Diếp, A Nan; những bộ tượng Cửu Long,
tượng Quán Thế Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn; tượng phật bát La Hán; tượng thập điện
Diêm Vương; tượng Hộ Pháp… Ngoài các tượng Phật còn có các tượng Tổ hay tượng
Hậu. Phật điển trong mỗi vùng, mỗi ngôi chùa cụ thể khác nhau hoàn toàn. Tuy nhiên có
thể thấy rằng, Phật giáo đã để lại những pho tượng đẹp nổi tiếng như tượng Quán Thế Âm
Thiên Thủ Thiên Nhãn (ở Phú Thị, Khoái Châu, Hưng Yên; Bút Tháp, Thuận Thành, Bắc
Ninh) đã được đánh giá là “pho tượng đẹp nhất trên phật điện”, tượng A Di Dà chùa Phật
Tích, tượng Tuyết Sơn chùa Tây Phương (Hà Tây) …
Nói đến chùa còn phải nói đến Phật điện với những trang trí nghệ thuật trên các chất
liệu gỗ, đá, tạo nên những y môn, đồ khí tự, kiệu vàng, cuốn thư, đại tự… Bia đá, câu đối
và thậm chí tháp mộ trong nhiều chùa đã để lại những dấu ấn mĩ thuật đặc thù.
Kiến trúc chùa Phật ở Việt Nam còn là kiến trúc sinh thái, hoà hợp cùng thiên nhiên.
Những ngôi chùa trở thành danh lam thắng cảnh nổi tiếng được xây dựng trên những núi
non, sông nước kỳ vĩ. Hệ thống quần thể chùa Hương, Yên Tử, Tây Phương, chùa Thầy,
chùa Chấn Quốc, chùa Non Nước v.v… là ngôi chùa được ẩn hiện trong môi trường thiên
nhiên càng làm tăng thêm sự linh thiêng của không gian nơi đất Phật.
Ngày nay, những nghệ thuật, kiến trúc đó vẫn còn tồn tại và được trùng tu, sửa sang để
làm nơi du lịch của khách thập phương và nơi lễ bái của nhân dân trong vùng. Những công
trình đó tuy mang đậm dấu ấn Phật giáo nhưng vẫn là sáng tạo nghệ thuật dân gian phản
ánh đời sống tinh thần của con người Việt Nam xưa.
Phạm Thị Minh Thu
12/15
Lớp KTTG 16.2
c) Văn hóa dân gian
Có thể nói Phật giáo đã góp phần làm phong phú thêm nền văn hoá dân tộc. Phật giáo lại
biết bám lấy làng xã bằng nhiều hoạt động cụ thể có tổ chức, kết hợp với tín ngưỡng bản địa,
hội hè. Nho giáo về mặt nào đó làm cho tư tưởng văn hoá khô cứng thì Phật giáo có phần
làm mềm hơn, phong phú và sinh động hơn. Hội chùa cũng như hội làng là tiêu biểu cho sự
hồ hởi của công xã, là một dịp để con người được giải phóng tình cảm, hoà cái ta của mình
vào cái ta của làng xã, không bị giáo lý khuôn phép gò bó và toả chiết tâm hồn.
Phật giáo đã thổi vào tâm hồn người Việt một làn gió mát từ bi. Chất từ bi của nhà Phật
thấm sâu không những trong những nghệ sĩ dân gian vô danh mà còn góp phần hình thành
nên nhân cách của những người dân bình dị. Đó là độ thấm sâu của tư tưởng Phật giáo vào
văn hoá Việt Nam chứ không phải tất cả tư tưởng Tứ Diệu Đế của Phật giáo.
Giáo lý của nhà Phật thấm sâu vào tâm hồn của người Việt, đi vào từng câu ca dao, tục
ngữ hồn hậu, chất phác và trở thành nét văn hóa đặc trưng của làng xã Việt Nam xưa. Tư
tưởng từ bi của phật giáo thấm đẫm trong tâm hồn Việt từ người bình dân đến kẻ trí thức,
thể hiện trong truyện kể dân gian cũng như trong thơ văn bác học. “Lá lành đùm lá rách”,
“bầu ơi thương lấy bí cùng” chẳng phải là hiện thân của tư tưởng từ bi hỷ xả, “gieo gió gặp
bão” chẳng phải thể hiện của luật nhân quả hay sao? Trong truyện kể dân gian, bao giờ
Phật cũng hiện lên để cứu khổ, cứu nạn cho con người. Lấy chuyện Tấm Cám làm ví dụ.
Phật đã hiện lên giúp cho Tấm con cá bống, sai chim tới nhặt thóc, cho áo quần, giầy dép
để đi chơi hội, lấy hoàng tử. Mỗi lần Tấm bị hại, Phật lại hiện ra giúp Tấm, lúc là bụi trúc
đào khi là quả thị. Chuyện kể thấm đẫm tinh thần cứu khổ, cứu nạn của phật giáo với hình
ảnh ông bụt đại từ đại bi, phổ độ chúng sinh. Có thể nói, những tư tưởng của Phật giáo đã
được dân gian hóa, trở thành tư tưởng của dân gian Việt Nam, của người Việt Nam.
Phật giáo có ảnh hưởng với văn hoá Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử đất nước.
Hiện nay Phật giáo vẫn còn là một tác nhân tác động mạnh trong xã hội. Phật giáo đã mang
đến cho người Việt những ngôi chùa cổ kính, những pho tượng bề thế rải khắp xóm làng
làm tăng lòng từ bi và hướng thiện của người bình dân. Phật giáo đã đưa đến một trung tâm
văn hoá làng một thời sôi động. Phật giáo cũng đã mang đến trong tâm hồn người Việt một
đời sống tâm linh sâu đậm từ khi du nhập cho đến nay. Trong lịch sử, Phật giáo cũng luôn
gắn liền với vận mệnh của dân tộc.
Ngày nay, mặc dù có rất nhiều tôn giáo xuất hiện ở Việt Nam như Thiên chúa giáo,
Đạo Cao Đài, Hoà Hảo, Cơ đốc giáo, ... ngoài ba tôn giáo chính từ xưa. Nhưng Phật giáo
vẫn giữ một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội và tinh thần người Việt Nam.
Nhìn vào đời sống xã hội và tinh thần người Việt Nam trong thời gian qua, ta thấy qua
nhiều biểu hiện Phật giáo đang được phục hồi và phát triển. Ở nhiều vùng đất nước số
người theo Phật giáo ngày càng đông, số gia đình Phật tử xuất hiện ngày càng nhiều, lễ hội
Phật giáo và sinh hoạt Phật giáo ngày một có vị trí cao trong đời sống tinh thần xã hội, số
sư sãi được đào tạo từ các trường Phật học ngày càng nhiều, số kinh sách xuất bản hàng
năm cũng tăng mạnh.

Phạm Thị Minh Thu


13/15
Lớp KTTG 16.2
KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu đề tài này chúng ta phần nào hiểu thêm được nguồn gốc ra đời
của Phật giáo, hệ tư tưởng của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến xã hội và người dân ta,
đồng thời hiểu thêm về lịch sử nước ta. Đặc biệt đề tài này cho chúng ta thấy rõ vấn đề có
ý nghĩa quan trọng, đó là vấn đề xây dựng hình thành nhân cách và tư duy con người Việt
Nam trong tương lai với sự hỗ trợ của những giá trị đạo đức nhân văn của Phật giáo.
Dù còn những khuyết điểm, hạn chế song chúng ta không thể phủ nhận những giá trị
đạo đức to lớn mà Phật giáo đã mang lại. Đặc trưng hướng nội của Phật giáo giúp con
người tự suy ngẫm về bản thân, cân nhắc các hành động của mình để không gây ra đau khổ
bất hạnh cho người khác. Nó giúp con người sống thân ái, yêu thương nhau, xã hội yên
bình. Tuy nhiên, để giáo dục nhân cách đạo đức của thế hệ trẻ thì như thế vẫn chưa đủ.
Bước sang thế kỷ XXI, chuẩn mực nhân cách mà một thanh niên cần có đòi hỏi phải hoàn
thiện cả về mặt thể xác lẫn tinh thần, phải có đủ khả năng chinh phục cả thế giới khách
quan lẫn thế giới nội tâm. Đạo đức thế kỷ XXI do vậy có thể khai thác sự đóng góp tích
cực của Phật giáo để xây dựng đạo đức nhân văn toàn thiện hơn, tự giác cao hơn vì sang
thế kỷ XXI, bên cạnh sự phát triển kỳ diệu của khoa học, những mâu thuẫn, chiến tranh
giành quyền lực rất có thể sẽ nổ ra và dưới sự hậu thuẫn của khoa học, các loại vũ khí sẽ
được chế tạo hiện đại, tàn nhẫn hơn, dễ dàng thoả mãn cái ác của vài cá nhân và nguy cơ
gây ra sự huỷ diệt sẽ khủng khiếp hơn. Khi đó đòi hỏi con người phải có đạo đức, nhân
cách cao hơn để nhận ra được cái ác dưới một lớp vỏ tinh vi hơn, “sạch sẽ” hơn.
Như vậy trong cả quá khứ, hiện tại và tương lai, Phật giáo luôn luôn tồn tại và gắn liền
với cuộc sống của con người Việt Nam. Việc khai thác hạt nhân tích cực hợp lý của Đạo
Phật nhằm xây dựng nhân cách con người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ, là một mục tiêu
chiến lược đòi hỏi sự kết hợp giáo dục tổng hợp của xã hội - gia đình - nhà trường - bản
thân cá nhân, một sự kết hợp tự giác tích cực cả truyền thống và hiện đại. Chúng ta tin
tưởng vào một thế hệ trẻ hôm nay và mai sau cường tráng về thể chất, phát triển về trí tuệ,
phong phú về tinh thần, đạo đức tác phong trong sáng kế thừa truyền thống cha ông cũng
như những giá trị nhân bản Phật giáo sẽ góp phần bảo vệ và xây dựng xã hội ngày càng ổn
định, phát triển.

Phạm Thị Minh Thu


14/15
Lớp KTTG 16.2
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Duy Cần - Tinh hoa Phật giáo


2. Thích Nữ Trí Hải dịch - Đức Phật đã dạy những gì
3. PGS Nguyễn Tài Thư
- Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay
- Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 1
4.Thích Thiện Siêu (dịch) - Lời Phật dạy
5. PTS. Phương Kỳ Sơn - Lịch sử Triết học
6. Lý Khôi Việt - Hai nghìn năm Việt Nam và Phật giáo.
7. Viện triết học - Lịch sử Phật giáo Việt Nam
8. Nhiều tác giả - Mười tôn giáo lớn trên thế giới

Phạm Thị Minh Thu


15/15
Lớp KTTG 16.2

You might also like