Professional Documents
Culture Documents
MỤC LỤC.............................................................................................................................1
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................................2
PHẦN I: KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÀ ........................................................3
MỘT SỐ TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA PHẬT GIÁO...........................................................3
I. Khái quát lịch sử phát triển của Phật giáo.............................................................................3
II. Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo...................................................................3
1. Thế giới quan Phật giáo..........................................................................................................................4
2. Nhân sinh quan Phật giáo.......................................................................................................................5
PHẦN II: ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO TỚI NỀN VĂN
HÓA VIỆT NAM..................................................................................................................8
I. Lịch sử hình thành và phát triển Phật giáo Việt Nam...........................................................8
II. Ảnh hưởng của Phật giáo tới nền văn hóa Việt Nam:..........................................................8
1. Phật giáo đã góp phần hình thành và phát triển nhân cách, tư duy của con người Việt Nam................9
2. Ảnh hưởng của Phật giáo tới đời sống chính trị xã hội........................................................................10
3. Ảnh hưởng của Phật giáo tới đời sống văn hóa Việt Nam...................................................................11
a) Văn hóa tín ngưỡng..........................................................................................................................11
b) Kiến trúc chùa tháp..........................................................................................................................11
c) Văn hóa dân gian..............................................................................................................................13
KẾT LUẬN..........................................................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................15
Phật giáo là một tôn giáo được Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) truyền giảng ở miền bắc
Ấn Độ vào thế kỷ 6 trước công nguyên. Phật là tên ghi âm Hán Việt của Buddba, có nghĩa là
giác ngộ. Phật giáo là hình thức tổ chức giáo đoàn được xây dựng trên một niềm tin từ đức
Phật, tức từ biển lớn trí tuệ và từ bi của Siddbada. Do được truyền bá trong một thời gian dài
ra nhiều nơi đến nhiều chủng tộc nên lịch sử phát triển của đạo Phật khá đa dạng về các bộ
phái cũng như các nghi thức hay phương pháp tu học. Sau khi ra đời ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ
9 đến thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, Phật giáo được lưu hành rộng rãi ở các quốc gia
trong khu vực Á - Phi, gần đây được truyền tới các nước Âu - Mỹ. Trong quá trình truyền bá,
đạo Phật đã kết hợp với tín ngưỡng, tập tục, dân gian, văn hoá bản địa để hình thành rất
nhiều tông phái và học phái, có tác động vô cùng quan trọng với đời sống xã hội và văn hoá
của rất nhiều quốc gia.
Trong lịch sử triết học Phật giáo, có thể xác lập nên ba thời kỳ lớn. Thời kỳ được gọi là
thời kỳ của Tiểu thừa thuần tuý và các nhánh của nó, tức Phật giáo nguyên thủy; Thời kỳ
xuất hiện Đại thừa và đấu tranh giữa Đại thừa và Tiểu thừa; Thời kỳ chiến thắng và hưng
thịnh của Đại thừa.
Thuộc thời kỳ nguyên thủy có tác phẩm Mahavibasa đồ sộ và một loạt những bản luận
ngắn hơn. Dựa vào các tài liệu này, có thể tìm ra những khái niệm rõ ràng về cuộc tranh
luận giữa các tông phái thuộc thời kỳ kinh viện cổ xưa của Phật giáo.
Thời kỳ thứ hai bắt đầu vào khoảng đầu công nguyên. Vào thời gian này, tồn tại nhiều
khuynh hướng triết học rất khác nhau, triết học Tiểu thừa tiếp tục phát triển hưng thịnh,
Đại thừa vẫn chưa át được Tiểu thừa và chủ nghĩa thần bí chưa thắng được chủ nghĩa duy
lý. Cùng một lúc, ở một số trường phái này thì đi vào lôgic, còn các trường phái khác lại
phát triển những học thuyết thuần túy thần bí về thiền định.
Những người đặt nền tảng giáo điều cho thời kỳ thứ ba là Asanga và Vasubandu, giai
đoạn đã chuyển từ Tiểu thừa sang Đại thừa. Thời kỳ này bắt đầu bằng chiến thắng của Đại
thừa và tiếp tục bằng sự phát triển của Đại thừa thành các nhánh, các tông phái.
Ngay từ buổi đầu, Thích Ca, người sáng lập đạo Phật, đã tổ chức được một giáo hội với
các giới luật chặt chẽ. Nhờ vào sự uyển chuyển của giáo pháp, đạo Phật có thể thích nghi
với nhiều hoàn cảnh xã hội, nhiều dạng người, nhiều tập tục ở các thời kỳ khác nhau, và do
đó ngày nay Phật giáo vẫn tiếp tục tồn tại và ngày càng phát triển ngay cả trong các nước
có nền khoa học tiên tiến như Hoa Kỳ và Tây Âu.
Những nguyên lý cơ bản của Phật giáo được thể hiện trong giáo lý. Hệ thống giáo lý của
Phạm Thị Minh Thu
3/15
Lớp KTTG 16.2
Phật giáo là một hệ thống rất đồ sộ nằm chủ yếu trong Tam tạng kinh điển, gồm Kinh tạng
(ghi lời Phật dạy), Luật tạng (các giới luật), và Luận tạng (các bài kinh, tác phẩm luận giải,
bình chú về giáo pháp của các cao tăng và học giả sau này).
Tư tưởng triết học Phật giáo thể hiện trên hai phương diện thế giới quan và nhân sinh quan,
cả hai phương diện này đều chứa đựng những tư tưởng duy vật và biện chứng chất phác.
Thế giới quan Phật giáo là một thế giới quan có tính duy vật và vô thần, đồng thời có
chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng sâu sắc. Những tư tưởng triết học Phật giáo này được
thể hiện thông qua 4 phạm trù cơ bản: vô tạo giả, duyên khởi, vô thường và vô ngã.
Tính duy vật và vô thần thể hiện rõ nét nhất ở quan niệm về tính tự thân sinh thành,
biến đổi của vạn vật, không do sự chi phối quyết định của một lực lượng thần linh hay
thượng đế tối cao nào. Trái lại vạn vật đều tuân theo tính tất định và phổ biến của luật nhân
quả. Điều này được quán triệt trong việc lý giải những vấn đề của cuộc sống nhân sinh
như: Hạnh phúc, đau khổ, giàu nghèo, thọ,yểu…
- Trong phạm trù “vô tạo giả”, Phật giáo cho rằng vạn vật là vô thủy chung, không có
sự vật đầu tiên vì không có nguyên nhân đầu tiên và cũng không có sự vật cuối cùng. Vạn
vật, kể cả con người đều không do thần linh hay thượng đế sáng tạo ra. Như vậy ngay từ
đầu Phật giáo đã đặt ra mục đích giải quyết vấn đề cơ bản của Triết học một cách biện
chứng và duy vật. Phật giáo đã gạt bỏ vai trò sáng tạo thế giới của các “đấng tối cao” của
“Thượng đế” và cho rằng bản thể của thế giới tồn tại khách quan và không do vị thần nào
sáng tạo ra cả. Cái bản thể ấy chính là sự thường hằng trong vận động của vũ trụ, là muôn
ngàn hình thức của vạn vật trong vận động, nó có mặt trong vạn vật nhưng nó không dừng
lại ở bất kỳ hình thức nào. Tuy nhiên, Phật giáo cũng cho rằng vạn vật, kể cả con người chỉ
là ảo và giả, chỉ do “tâm vô minh” sinh ra.
- Vạn vật tuy muôn hình vạn trạng nhưng đều tuân hành nghiêm ngặt theo quan hệ nhân
quả (nhân quả tương tục và nhân quả vô tạp loạn) thông qua điều kiện nhất định gọi là duyên
– Tư tưởng này được gọi là “duyên khởi”. Từ quan niệm vạn vật không tự nhiên có, không
tự nhiên sinh ra, và cũng không do một thần quyền hay một đấng thiêng liêng nào tạo ra,
Phật cho rằng sự vật sinh ra phải có nhân duyên. Phật giáo lại nhấn mạnh: quả có thể khác
nhân sinh ra nó, quả có thể hơn nhân nếu gặp đủ duyên tốt, trái lại có thể kém nhân nếu gặp
duyên xấu. Nhân gặp đủ duyên thì sẽ thành quả, quả sinh ra nếu hội tủ đủ duyên lại có thể
biến thành nhân rồi lại sinh ra quả khác. Như vậy, sự vật là một chuỗi nhân quả nối tiếp
nhau, ảnh hưởng lẫn nhau không bao giờ đứt quãng, không bao giờ ngừng.
Tính biện chứng sâu sắc của triết học Phật giáo đặc biệt thể hiện rõ qua việc luận
chứng về tính chất “vô ngã” và “vô thường” của vạn vật.
- Phạm trù “vô ngã” bao hàm tư tưởng cho rằng, vạn vật trong vụ trụ vốn không có
- Phạm trù “vô thường” gắn liền với phạm trù “vô ngã”. Vô thường nghĩa là vạn vật
biến đổi vô cùng theo chu trình bất tận: Sinh – Trụ – Dị – Diệt…(hay: Sinh – Trụ – Hoại –
Không). Vậy thì “có có” – “không không” luân hồi (bánh xe quay) bất tận: “thoáng có”,
“thoáng không” cái còn mà chẳng còn, cái mất mà chẳng mất. Bản chất sự tồn tại của thế
giới là một dòng biến chuyển không ngừng (vô thường). Không thể tìm ra nguyên nhân
đầu tiên, do vậy không có ai tạo ra thế giới và cũng không có gì vĩnh hằng.
Như vậy, Phật giáo cho rằng các sự vật và hiện tượng trong vũ trụ (chu pháp) là vô
thuỷ, vô chung (vô cùng, vô tận). Tất cả thế giới đều ở quá trình biến đổi liên tục (vô
thường) không có một vị thần nào sáng tạo ra vạn vật cả. Tất cả các Pháp đều thuộc về một
giới (vạn vật đều nằm trong vũ trụ) gọi là Pháp giới. Mỗi một pháp ( mỗi một sự v iệc hiện
tượng, hay một lớp sự việc hiện tượng) đều ảnh hưởng đến toàn Pháp. Như vậy các sự vật,
hiện tượng hay các quá trình của thế giới là luôn luôn tồn tại trong mối liên hệ, tác động
qua lại và qui định lẫn nhau, đều bị chi phối bởi luật nhân quả, biến hoá vô thường, không
có cái bản ngã cố định, không có cái thực thể, không có hình thức nào tồn tại vĩnh viễn cả.
Cái nhân nhờ có cái duyên mới sinh ra được mà thành quả. Quả lại nhờ có duyên mà thành
nhân khác, nhân khác lại thành quả. Quả lại nhờ có duyên mà thành nhân khác, nhân khác
lại nhờ có duyên mà thành quả mới ... Cứ thế nối nhau vô cùng vô tận mà thế giới, vạn vật,
muôn loài, cứ sinh sinh, hoá hoá mãi.
Nhân sinh quan Phật giáo là phần trọng tâm của triết học này. Nội dung triết học nhân
sinh của Phật giáo tập trung ở bốn luận điểm (gọi là Tứ diệu đế hay còn gọi là tứ chân đế
hay tứ thánh đế). Bốn luận điểm này được Phật giáo coi là bốn chân lý vĩ đại về cuộc sống
nhân sinh cho bất cứ cuộc sống nhân sinh nào thuộc đẳng cấp nào, đồng thời cũng là cơ sở
của các thuyết khác trong giáo lý Phật.
Khổ đế giải thích sự thật nơi cuộc sống nhân sinh không có gì khác ngoài sự đau khổ,
ràng buộc hệ luỵ, không có tự do. Đó là 8 nỗi khổ trầm lâm bất tận mà bất cứ ai cũng phải
gánh chịu: Sinh, Lão, Bệnh, Tử, Ái biệt Ly (yêu thương chia lìa), Oán tăng hội (oán ghét
nhau mà phải sống với nhau), Sở cầu bất đắc (cái mong muốn mà không đạt được), và Ngũ
thụ uẩn (5 yếu tố vô thường nung nấu làm khổ).
Nhân đế là những nguyên nhân tạo thành sự khổ. Những nguyên nhân đó không phải
Phạm Thị Minh Thu
5/15
Lớp KTTG 16.2
tìm đâu xa mà ở ngay trong mỗi chúng ta. Do đó, Phật đưa ra lý thuyết thập nhị nhân
duyên để thấy được nguồn gốc của sự vật trong thế gian. 12 nhân duyên là sợi dây liên tục
nối tiếp con người trong vòng sinh tử luân hồi đó là: 1.Vô minh; 2.Hành; 3.Thức; 4.Danh
sắc; 5.Lục nhập; 6.Xúc; 7.Thụ; 8.Ái; 9.Thủ; 10.Hữu; 11.Sinh và 12.Lão Tử. Trong 12 nhân
duyên ấy thì “Vô minh” là nguyên nhân thâu tóm tất cả. Bởi vậy diệt trừ vô minh là diệt
trừ tận gốc rễ sự đau khổ nhân sinh. Dưới góc độ nhận thức, vô minh là “ngu tối”, “không
sáng suốt”, “thiếu giác ngộ chân lý”.
Nhân đế là một chân lý thể hiện tính biểu chứng sâu sắc trong mối quan hệ nhân quả và
đã tìm tới các nguyên nhân rất đa dạng, phong phú. Các nguyên nhân ấy quan hệ với nhau,
cái nào cũng có thể làm nhân làm duyên cho cái khác, như làn sóng trên mặt biển, lớp
trước là lớp nhân là duyên cho lớp sau và cứ thế tiếp diễn. Nhưng cái hạn chế của nhân đế
là chưa đề cập đến nguyên nhân từ xã hội. Đặc biệt là chưa nhắc tới quan hệ giai cấp, bóc
lột trong xã hội. Luận điểm này thể hiện rõ từ trào hướng nội hướng nội trong nhận thức
luận Phật giáo.
Diệt đế bàn về khả năng có thể tiêu diệt được sự khổ nơi cuộc sống nhân sinh, đạt tới
trạng thái Niết bàn, cứu cánh của hành động tự do. Luận điểm này cũng bộc lộ tinh thần lạc
quan tôn giáo của Phật giáo; cũng thể hiện khát vọng nhân bản của nó muốn hướng con
người đến niềm hạnh phúc “tuyệt đối”; khát vọng chân chính của con người tới Chân –
Thiện – Mỹ.
Đạo đế là con đường, là môn pháp hướng dẫn cho chúng sinh diệt khổ, ra khỏi luân hồi
sinh tử, đạt tới giải thoát. Đó không phải là con đường sử dụng bạo lực mà là con đường
“tu đạo”. Thực chất của con đường này là hoàn thiện đạo đức cá nhân. Sự giải phóng mang
ý nghĩa của sự thực hiện cá nhân, không mang ý nghĩa của những phong trào cách mạng
hay cải cách xã hội. Đây là nét đặc biệt của “tinh thần giải phóng nhân sinh” của Phật
giáo. Pháp môn tu dưỡng ra khỏi luân hồi sinh tử rất nhiều, nhưng thường được đề cao là
phương pháp 37 đạo phẩm.
Trong 37 đạo phẩm, bát chính đạo là quan trọng nhất. Nó là con đường giúp người ta
thoát khỏi phiền não, đau khổ đi tới cảnh giới Niết Bàn tự tại, an lạc. Bát chính đạo gồm có:
1. Chính ngữ : là tu nghiệp thanh tịnh, không phát ra lời nói sai trái.
2. Chính nghiệp: hành động chân chính, mang lại lợi ích cho mọi người.
4. Chính tịnh tiến : tiến tới trên con đường đạo, không đi vào các đường tà.
5. Chính niệm: tâm trí luôn luôn nghĩ đến đạo lý vô ngã, diệt trừ những kiến chấp mê
lầm, đoạt trừ những tư tưởng, hành động bất chính.
6. Chính định : Giữ tâm vắng lặng không một vọng niệm khởi lên để trí tuệ xuất hiện,
chứng quả tu đà hoàn.
Phạm Thị Minh Thu
6/15
Lớp KTTG 16.2
7. Chính kiến : kết quả của việc sống, tư duy con người phải có ý biến lấy tiêu biểu là
các vị Phật.
8. Chính tư duy: Sau khi có niệm khởi, con người sẽ tư duy, suy nghĩ một cách chân
chính, làm chủ được dòng tư duy.Tám nguyên tắc (hay “bất chính đạo”) có thể thâu tóm
vào ba điều học tập, rèn luyện lớn là: Giới - Định – Tuệ (tức là: Giữ giới luật, thực hành
thiền đinh và khai thông trí tuệ Bát nhã).
Muốn thực hiện được “ Bát chính đạo” thì phải có phương pháp để thực hiện nhằm
ngăn ngừa những điều gian ác gây thiệt hại cho mình và những người làm điều thiện có lợi
ích cho mình và cho người. Nội dung của các phương pháp đó là thực hiện “ Ngũ giới”
( năm điều răn ) và “Lục độ” (Sáu phép tu ).
“Ngũ giới” gồm: Bất sát (Không sát sinh), Bất đạo (Không làm điều phi nghĩa), Bất
dâm (Không dâm dục), Bất vọng ngữ (Không bịa đặt, không vu oan giáo hoạ cho kẻ khác,
không nói dối),
“Lục độ” gồm: Bố thí (Đêm công sức, tài trí, của cải để giúp người một cách thành
thực chứ không để cầu lợi hoặc ban ơn), Trí giới (Trung thành với điều răn, kiên trì tu
luyện), Nhẫn nhục (Phải biết kiên nhẫn, nhường nhịn, chịu đựng để làm chủ được mình),
Tịnh tiến (Cố gắng nỗ lực vươn lên), Thiền định (Tư tưởng phải tập trung vào điều ngay,
chính không để cho cái xấu cho lấp), Bát nhã (Trí tuệ thấy rõ hết, hiểu thấu hết mọi chuyện
trên thế gian).
Tóm lại Phật giáo cho rằng chỉ có bằng sự kiên định để thực hiện “Bát hành đạo”, “Ngũ
giới”, “Lục độ” thì chúng sinh mới có thể giải thoát mình ra khỏi nỗi khổ. Phật giáo không chủ
trương giải phóng bằng cách mạng xã hội. Mặc dù Phật giáo lên án rất gay gắt chế độ người
bóc lột người, chống lại chủ nghĩa duy tâm cua Bàlamôn giáo. Đó là một trong những nhược
điểm đồng thời cũng là ưu điểm nửa vời của Đạo phật. Đứng trước bể khổ của chúng sinh Phật
giáo chủ trương cải tạo tâm linh chứ không phải cải tạo thế giới hiện thực.
Như vậy Phật giáo nguyên thuỷ có tư tưởng vô thần, phủ nhận đấng sáng tạo ( vô ngã,
vô tạo giả) và có tư tưởng biện chứng ( vô thường, lý thuyết Duyên khởi ). Tuy nhiên, Triết
học Phật giáo cũng thể hiện tính duy tâm chủ quan khi coi thế giới hiện thực là ảo giả và
do cái tâm vô minh của con người tạo ra.
II. Ảnh hưởng của Phật giáo tới nền văn hóa Việt Nam:
Phật giáo sau khi được du nhập vào Việt đã kết hợp với phong tục, tập quán truyền thống
dân tộc Việt Nam hình thành nên Phật giáo Việt Nam. Trải qua một khoảng thời gian dài, Phật
1. Phật giáo đã góp phần hình thành và phát triển nhân cách, tư duy của con người
Việt Nam
Phật giáo là một tôn giáo, như các tôn giáo khác, Phật giáo cũng gồm có giáo lý và hoạt
động tín ngưỡng. Giáo lý là một hệ thống các quan điểm về thế giới và con người, về cách
thức tu luyện và hoạt động tín ngưỡng, là những hành vi, những nghi lễ cần phải thực hiện để
đạt tới ước nguyện. Cả hai đều có ý nghĩa đối với việc hình thành nhân cách của các tín đồ.
Có thể nhận thấy, người Việt nảy sinh tư duy trừu tượng về phồn thực với hình thức ma
thuật mô phỏng là một dạng tôn giáo tín ngưỡng nguyên thuỷ. Các nhà nghiên cứu đã phân
tích các hình vễ được khắc trên thân trống đồng như cảnh chim bay, cảnh miêu tả các động
vật như trâu, bò để chứng minh cho luận thuyết: Người Việt khi đó đã có quan niệm về vũ
trụ quan với 3 thế giới: Trời - Đất – Nước. Điều đó cho thấy, tư duy củ người Việt đã nhận
thức được sự vận động vòng tròn để từ đó làm cơ sở cho việc tiếp nhận dễ dàng thuyết
luôn hồi của Phật giáo.
Phật giáo là một tôn giáo, nhưng trong đó hai yếu tố tôn giáo và triết học luôn hoà vào
nhau làm cơ sở luận chứng cho nhau. Ở đây yếu tố triết học, về mặt này Phật giáo đã có
ảnh hưởng lớn tới tư duy của người Việt Nam trong đó có những giá trị và nhiều hạn chế
nhất định.
Tiếp thu Phật giáo, tư duy người Việt Nam có thêm một số khái niệm và phạm trù nói
nên bản thể luận là những vấn đề cơ bản của triết học.Trong thế giới quan phức hợp nhiều
thành phần của người Việt Nam thì Phật giáo là có ý nghĩa nhiều nhất. Hơn tất cả các học
thuyết khác của phương đông, Phật giáo chú ý đến mặt phát triển tự nhiên của con người,
đó là sinh, lão, bệnh, tử.Bốn giai đoạn của cuộc đời đã nói lên sự phát triển tất yếu của con
người mà nếu ai đó nhận thức được sẽ không sợ hãi trước sự thay đổi của cuộc đời thậm
chí sống lạc quan bình thản trước cái chết. Nhiều nhà sư trong thời Lý – Trần đã có qua
niệm như thế.
Phật giáo đã đề cập đến vấn đề ngũ uẩn: sắc, thụ, tưởng, thành, thức là những vấn đề có
ý thức luận sâu xa. Tuy đối tượng đó là tâm và tính chất là duy tâm nhưng trong quá trình
ngũ uẩn chứa đựng một quá trình nhận thức hợp lý. Từ sự vật khánh quan (Sắc),con người
cảm thụ được(Thụ), suy nghĩ(Tưởng), rồi thực hiện (Hành), và cuối cùng là biết (Thức).Ở
đây nếu đem bóc cái thần bí ra ta thấy có những hạt nhân hợp lý.
Phật giáo đã đưa vào hệ tư tưởng Việt Nam những qua niêm biện chứng với các khái
niệm ‘vô thường’, ‘vô ngã’ Cho thấy Phật giáo nhìn sự vật trong sự vận động biến đổi liên
tục không có gì là trụ lại mãi, không có ai là tồn tại mãi. Tuy nhận thức đó chỉ nhìn thấy
cái biến đổi mà không nhìn thấy cái ổn định tương đối.
Phật giáo đề cập đến mối nhân duyên đến mối quan hệ nhân quả, đến việc xét sự vật
phải từ kết quả tìm ra nguyên nhân và xem kết quả này là nguyên nhân từ kết quả khác
Phạm Thị Minh Thu
9/15
Lớp KTTG 16.2
trong mỗi qua hệ khác.
Trên đây là những vấn đề mà Phật giáo đã ảnh hưởng đến tư duy Việt Nam, góp phần
làm nên những yếu tố triết học sâu xa trong thế giới quan của người Việt Nam.
Tuy vậy Phật giáo cũng có những hạn chế, ảnh hưởng tiêu cực nhất định đến tư duy
của người Việt Nam. Phật giáo chỉ thấy cá nhân con người mà không thấy xã hội con
người, chỉ thấy cong người nói chung mà không thấy con người của giai cấp đối kháng
nhau trong xã hội trước đây, không thừa nhận đấu tranh trong giai cấp xã hội,do đó không
thấy được nguyên nhân khổ ải của con người, không thấy được sự cần thiết phải chống áp
bức, bóc lột vì thế quan niệm từ bi bác ái trong một số trường hợp bất lợi cho đấu tranh
giải phóng giai cấp, chống áp bức.
Phật giáo không bàn tới lĩnh vực chính trị, vì thế mỗi khi nhà sư bước sang lĩnh vực
chính trị-xã hội phải sử dụng các tư tưởng Nho hay Lão -Trang. Nhà sư Viễn Thông cho
rằng “Lòng dân là gốc trị loạn”,trong đó “lòng dân” là khái niệm và tư tưởng của nhà Nho;
nhà sư Đỗ Phát Nhuận nói “nếu vô vi ngự trị trong triều đình thì nơi nơi sẽ tắt chiến tranh”
trong đó vô vi là khái niệm của Lão- Trang mặc dù khái niệm đó được giải thích theo quan
niệm nhà Phật.
Hạn chế lớn nhất của Phật giáo đối với tư duy của người Việt Nam là quan điểm duy
tâm thần bí. Quan điểm này không hướng người ta vào hiện thực mà hướng vào quả báo,
hướng vào nghiệp, vào thần linh để mong được phù hộ, độ trì.Và một khi tư duy như vậy
thì không cần khám phá tìm tòi, sáng tạo và hành động.
2. Ảnh hưởng của Phật giáo tới đời sống chính trị xã hội
Kể từ khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo có ảnh hưởng không nhỏ vào đời sống
chính trị xã hội. Ngày nay, người ta nhấn mạnh vai trò chính trị của các nhà sư thời Lý,
Trần, nhấn mạnh ý nghĩa chính trị xã hội trong một số hoạt động của phật tử hiện đại.
Đạo Phật là tôn giáo thịnh đạt nhất trong xã hội thời Lý Trần được coi như một quốc
giáo. Thời Lý Trần có rất nhiều nhà sư nổi tiếng trong cả nước, có uy tín và đìa vị chính trị
xã hội. Có thể kể đến các nhà sư Vạn Hạnh, Mãn Giác, Viên Thông, Minh Không, Giác
Hải, Pháp Loa, Huyền Quang.
Nhà nước Lý ,Trần tôn chuộng đạo Phật, trong bối cảnh của sự khoan dung, hoà hợp
tôn giáo “Tam giáo đồng nguyên”, chủ yếu là sự kết hợp giữa Phật Giáo và Nho giáo, giữa
giáo lí và thực tiễn đời sống. Đạo Phật thời Lý Trần đã ảnh hưởng đến đường lối cai trị của
nhà nước, là đối trọng tư tưởng của Nho giáo. Như vậy, rõ ràng rằng, Phật giáo đã đào tạo
ra một tầng lớp trí thức mang tư tưởng yêu nước, ủng hộ cho nền độc lập của dân tộc và
ủng hộ cho nhà nước phong kiến. Trong khi đó, cùng với sự du nhập của chữ Hán Nho
giáo đã đào tạo ra một tầng lớp trí thức để làm quan cho chính quyền đô hộ.
Ngày nay, các nhà sư giữ những chức vụ cao trong Giáo hội cũng tham gia vào hoạt
động chính trị.
Nhưng bên cạnh những công tác phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước thì cũng có
Phạm Thị Minh Thu
10/15
Lớp KTTG 16.2
một số phần tử đã lợi dụng chức vụ của mình để gây rối. Hay trường hợp của Lê Đình
Nhàn (tức Thích Huyền Quang) thường xuyên gây phiền nhiễu với các nhà sư khác cùng tu
trong chùa. Thêm vào đó, nhiều vụ tự tử của các nhà sư với những nguyên nhân ngoài đạo
đã bị cách phe phái phản động đưa tin xấu, coi đó là những hành vi tử vì đạo. Và khi
những người đại diện pháp luật can thiệp thì chúng cho đó là hành vi bắt bố sư sãi, đàn áp
Phật giáo, đem lại thông tin phản động cho dân chúng. Tuy nhiên, nhà nước Việt Nam là
nhà nước chủ trương tự do tôn giáo, trong khuôn khổ pháp luật Việt Nam, bởi vậy những
trường hợp tiêu cực luôn bị xử lý một cách thích đáng, trả lại sự trong sáng và ý nghĩa của
Phật giáo đối với nền chính trị, văn hóa, xã hội của Việt Nam.
3. Ảnh hưởng của Phật giáo tới đời sống văn hóa Việt Nam
Nhìn vào đời sống văn hóa của Việt Nam, có thể thấy những dấu ấn đậm nét của Phật
giáo, từ văn hóa tín ngưỡng, đến các lĩnh vực kiến trúc, văn học nghệ thuật, từ những thói
quen rất dân gian đến những lĩnh vực bác học.
a) Văn hóa tín ngưỡng
Một điều thể hiện đặc biệt phổ quát mà nhiều người đã nhắc đến là Phật giáo vốn dễ
hoà hợp với tín ngưỡng dân gian ở những nơi nó được truyền bá đến. Có thể nói rằng,
trong suốt nghìn năm Bắc thuộc, Đạo Phật đã thấm vào lòng dân như nước thấm vào lòng
đất. Ở miền bắc Việt Nam, đặc điểm đó càng nổi bật. Nếu đặc điểm tôn giáo truyền thống
của Việt Nam là sự thờ cúng tổ tiên (linh hồn người thân đã khuất ) thì trong tâm thức dân
gian, Phật hay Quan âm cũng được coi là một thứ tổ tiên. Nếu đặc điểm của tôn giáo Việt
Nam là sự thờ thần (thế lực siêu nhiên ) mà con người thờ cúng để mong được “phù hộ độ
trì” thì Phật hay Quan âm cũng trở thành một loại thần, Phật điện cũng trở thành một thứ
Thần điện, tính tâm linh Ấn Độ cổ xưa nhường bước cho tính tâm linh Việt Nam (hơn đâu
hết, tôn giáo Việt Nam nặng về tính tình cảm hơn là giáo lý, giới luật, đoàn thể, tôn giáo).
b) Kiến trúc chùa tháp
Một ảnh hưởng khác của Phật giáo đó chính là về kiến trúc. Kiến trúc là sản phẩm nhân
tạo cho nên cũng chính là văn hoá và sự phát triển của nó đánh dấu bước tiến của văn
minh. Đặc biệt, ở thời nhà Lý, nghệ thuật kiến trúc Phật giáo đã đạt tới đỉnh cao với những
công trình mang tính quy mô to lớn, vượt hẳn thời trước và cả những thời sau đó.
Cho đến khi ngôi chùa xuất hiện, dù thuộc niên đại muộn hơn buổi đầu Phật giáo ít
nhiều, thì xóm làng Việt Nam vẫn còn là một quần thể nhà tranh với những đền thờ đơn
giản ở gốc đa. Ngôi chùa chiếm ngay đến địa vị trung tâm của làng và trở thành nơi quần
tụ văn hoá. Chùa cao thành ba bậc tượng trưng tam giới, Phật điện nhiều bậc bệ cao dần
lên tượng trưng núi Tu Di, những chư vị Phật ngồi trên những tầng bậc từ thấp đến cao,
những biểu tượng mà người dân Việt Nam không biết, là một cách bài trí hoàn toàn khác
bàn thờ trong nghè, trong nhà của họ.
Chùa Việt có nhiều kiến trúc rất đa dạng, không hoàn toàn giống như chùa Trung
Quốc. Ngôi chùa Việt điển hình do hai nhà sư Trung Quốc là Chuyết Chuyết và Minh