You are on page 1of 6

IMF – International Monetery Fund .

Quỹ tiền tệ Quốc tế .

1. Lịch sử hình thành và các giai đoạn phát triển:

• Bối cảnh lịch sử:


Vào năm 1930, khi hoạt động kinh tế ở những nước công nghiệp chính thu
hẹp, nhiều nước bắt đầu áp dụng tư tưởng trọng thương, cố gắng bảo vệ nền
kinh tế của họ bằng việc hạn chế nhập khẩu. Để khỏi giảm dự trữ vàng,
ngoại hối, một vài nước cắt giảm nhập khẩu, một số nước phá giá đồng tiền
của họ, và một số nước áp đạt các hạn chế đối với tài khoản ngoại tệ của
công dân. Những biện pháp này có hại đối với chính bản thân các nước đó vì
như lý thuyết lợi thế so sánh tương đối của Ricardo đã chỉ rõ mọi nước đều
trở nên có lợi nhờ thương mại không bị hạn chế. Lưu ý là, theo lý thuyết tự
do mậu dịch đó, nếu tính cả phân phối, sẽ có những ngành bị thiệt hại trong
khi các ngành khác được lợi. Thương mại thế giới đã sa sút nghiêm trọng,
khi việc làm và mức sống ở nhiều nước suy giảm. Nhu cầu lúc này là cần có
một tổ chức Quốc tế đứng ra trợ giúp các nước phục hồi kinh tế và IMF đã
ra đời để đáp ứng nhu cầu đó. Tòa nhà trụ sở chính của Quỹ tiền tệ quốc tế
tại Washington, D.C.

• Các giai đoạn phát triển từ khi thành lập cho đến nay:

IMF được thai nghén từ phiên họp của Liên Hợp Quốc tháng 7 năm 1944 tại
Bretton Woods, New Hampshire, Hoa Kỳ. 45 quốc gia thành viên có mặt
trong phiên họp đã tìm kiếm một cơ cấu hợp tác kinh tế có thể tránh được sự
lặp lại các chính sách kinh tế sai lầm từng dẫn tới cuộc Đại khủng hoảng
thập kỷ 30.
IMF đã đi vào hoạt động ngày 27 tháng 12 năm 1945, khi đó có 29 nước đầu
tiên ký kết nó là những điều khoản của hiệp ước. Mục đích của luật IMF
ngày nay là giống với luật chính thức năm 1944. Ngày 1 tháng 3 năm 1947
IMF bắt đầu hoạt động và tiến hành cho vay khoản đầu tiên ngày 8 tháng 5
năm 1947.
Từ cuối đại chiến thế giới thứ 2 cho đến cuối năm 1972, thế giới tư bản đã
đạt được sự tăng trưởng thu nhập thực tế nhanh chưa từng thấy. (Sau đó sự
hội nhập của Trung Quốc vào hệ thống tư bản chủ nghĩa đã thúc đẩy đáng kể
sự tăng trưởng của cả hệ thống.) Trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, lợi ích thu
được từ tăng trưởng đã không được chia đều cho tất cả, song hầu hết các
nước tư bản đều trở nên thịnh vượng hơn, trái ngược hoàn toàn với những
điều kiện trong khoảng thời gian trước của những nước tư bản trong thời kỳ
giữa hai cuộc chiến tranh thế giới.
Trong những thập kỷ sau chiến tranh thế giới hai, kinh tế thế giới và hệ
thống tiền tệ có thay đổi lớn làm tăng nhanh tầm quan trọng và thích hợp
trong việc đáp ứng mục tiêu của IMF, nhưng điều đó cũng có nghĩa là yêu
cầu IMF thích ứng và hoàn thiện cải tổ. Những tiến bộ nhanh chóng trong kỹ
thuật công nghệ và thông tin liên lạc đã góp phần làm tăng hội nhập quốc tế
của các thị trường, làm cho các nền kinh tế quốc dân gắn kết với nhau chặt
chẽ hơn. Xu hướng bây giờ mở rộng nhanh chóng hơn số quốc gia trong
IMF.

Ảnh hưởng của IMF trong kinh tế toàn cầu được gia tăng nhờ sự tham gia
đông hơn của các quốc gia thành viên. Hiện IMF có 185 thành viên, nhiều
hơn bốn lần so với con số 45 thành viên khi nó được thành lập.

2. Mục đích và cơ cấu của tổ chức:

• Mục đích của tổ chức:


Thúc đẩy sự hợp tác tiền tệ quốc tế; tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng
và tăng trưởng thương mại quốc tế một cách cân đối; tăng cường ổn định tỷ
giá; hỗ trợ cho việc thành lập hệ thống thanh toán đa phương; cho các nước
hội viên tạm thời sử dụng các nguồn vốn chung của Quỹ với những đảm bảo
thích hợp; và rút ngắn thời gian và giảm bớt mức độ mất cân bằng trong cán
cân thanh toán quốc tế của các nước hội viên.
Như vậy, IMF chịu trách nhiệm đảm bảo ổn định cho hệ thống tài chính và
tiền tệ quốc tế, hệ thống thanh toán quốc tế và tỷ giá hối đoái giữa các đồng
tiền tạo điều kiện giao thương giữa các nước. IMF tìm cách duy trì ổn định
và phòng ngừa khủng hoảng kinh tế; hỗ trợ giải quyết khủng hoảng một khi
xảy ra; thúc đẩy phát triển và giảm đói nghèo. Quỹ sử dụng 3 chức năng
chính là giám sát, hỗ trợ kỹ thuật và cho vay để thưc hiện các mục tiêu này.
IMF thức đẩy phát triển và duy trì ổn định kinh tế toàn cầu, qua đó phòng
ngừa khủng hoảng kinh tế, bằng cách khích lệ các quốc gia thực hiện các
chính sách kinh tế đúng đắn.
Giám sát là hình thức cố vấn chính sách thường xuyên của IMF đối với các
nước thành viên. Mỗi năm, IMF đưa ra đánh giá chi tiết về tình hình kinh tế
mỗi nước. Quỹ sau đó bàn luận với chính phủ các nước về các chính sách có
lợi nhất trong việc duy trì tỷ giá ổn định và một nền kinh tế tăng trưởng và
thịnh vượng. IMF cũng kết hợp thông tin từ các cuộc hội đàm đơn lẻ để đưa
ra đánh giá chung về sự phát triển và triển vọng của từng khu vực cũng như
của thế giới. Các báo cáo của IMF được xuất bản 2 năm một làn trong 2 tài
liệu Tổng quan kinh tế thế giới (World Economic Outlook) và Báo cáo ổn
định tài chính toàn cầu (Global Financial Stability Report).
Việc giám sát bao quát một phạm vi chính sách kinh tế rộng lớn, tuy nhiên
mỗi nước có một trọng tâm riêng tuỳ vào hoàn cảnh hiện tại.- Tỷ giá hối
đoái, tiền tệ và chính sách tài khoá luôn là trọng tâm chính của hoạt động
giám sát. Các nhà nghiên cứu kinh tế của IMF đưa ra lời khuyên từ việc lựa
chọn chế độ điều hành tỷ giá cho đến việc đảm bảo tính tương hợp giữa chế
độ điều hành tỷ giá và lập trường đối với chính sách tài khoá và tiền tệ.
- Các chính sách về cấu trúc được đưa vào các hoạt động giám sát của IMF
từ thập kỷ 80 khi tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước công nghiệp bị chậm lại
do khủng hoảng dầu lửa lần thứ hai. Khủng hoảng nợ ở các nước đang phát
triển và sự thay đổi thể chế chính trị ở một số nước đòi hỏi sự thay đổi lớn
về cấu trúc. Cho đến nay, các cuộc hội đàm về cấu trúc giữa IMF và các
nước thành viên thường xoay quanh thương mại quốc tế, thị trường lao động
và cải cách khu vực năng lượng.
- Các vấn đề về khu vực tài chính được đưa vào các hoạt động giám sát của
IMF từ thập kỷ 90 theo sau chuỗi khủng hoảng ngân hàng ở cả các nước
phát triển và đang phát triển. Năm 1999, IMF và WB quyết định thực hiện
chương trình cùng đánh giá về khu vực tài chính FSAP ((Financial Sector
Assessment Program) nhằm vào ưu nhược điểm của khu vực tài chính ở các
nước. Nếu được thực hiện, FSAP luôn cung cấp các dữ liệu quan trọng trong
việc giám sát của IMF.
- Các vấn đề thể chế như tính độc lập của các ngân hàng, quản lý khu vực tài
chính, điều hành công ty và độ tin cậy và minh bạch của chính sách đã ngày
càng trở nên quan trọng trong các hoạt động giám sát của IMF do các cuộc
khủng hoảng tài chính và sự chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch sang cơ chế thị
trường của một số nước thành viên. Vài năm trở lại đây, IMF và WB đã
đóng vai trò chủ đạo trong việc phát triển, thực hiện và đánh giá các tiêu
chuẩn và quy định được quốc tế công nhận ở các khu vực then chốt của nền
kinh tế hiện đại.
- Đánh giá độ rủi ro và nhạy cảm của nền kinh tế. Việc phòng ngừa khủng
hoảng cũng luôn là trọng tâm chính trong các hoạt động giám sát của IMF.
Bên cạnh việc đánh giá tình trạng của tài khoản vãng lai và duy trì nợ nước
ngoài, độ rủi ro và nhạy cảm của nền kinh tế còn bắt nguồn từ các luồng tài
chính dễ bay hơi.
Các hỗ trợ và đào tạo kỹ thuật cho các nước thành viên thường được IMF
cung cấp miễn phí nhằm giúp những nước này củng cố khả năng thiết lập và
thực hiện các chính sách hiệu quả. Hỗ trợ kỹ thuật được cung cấp trong một
số lĩnh vực bao gồm chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ và tỷ giá hối
đoái, giám sát và điều hành hệ thống tài chính ngân hàng và cuối cùng là số
liệu thống kê.
Các hỗ trợ này được thực hiện bằng nhiều cách: có thể thông qua các nhân
viên dưới hình thức công tác kỳ hạn hoặc bổ nhiệm chuyên gia từ vài tuần
tới vài năm (nếu việc sử dụng chuyên gia kéo dài, các nước có thể được yêu
cầu đóng góp tài chính). IMF cũng cung cấp các hỗ trợ dưới hình thức báo
cáo chẩn đoán kỹ thuật (diagnostic), các khoá đào tạo, hội thảo, thảo luận
chuyên đề, tư vấn trực tuyến từ trụ sở của Quỹ.
Trong trường hợp nước thành viên gặp khó khăn với cán cân thanh toán,
IMF thực hiện chức năng của một Quỹ có thể rót vốn ưu đãi giúp hồi phục
kinh tế.
Các hỗ trợ tài chính nhằm tạo ra cho các nước thành viên một khoảng an
toàn cần thiết để tái ổn định cán cân thanh toán. Một chương trình thực hiện
chính sách do IMF tài trợ được chính phủ nước thành viên thiết lập với sự
hợp tác chặt chẽ của Quỹ. Các quyết định tài trợ tiếp theo được đưa ra với
điều kiện chương trình được thực hiện hiệu quả.
Một nước thành viên có thể đề nghị hỗ trợ tài chính nếu không đủ khả năng
tự tài trợ cho cán cân thanh toán quốc tế. Khoản vay của IMF tạo điều kiện
cho việc điều chỉnh các chính sách và cải cách mà quốc gia đó cần phải làm
để lành mạnh hoá cán cân thanh toán và hồi phục nền kinh tế.
Khoản vay của IMF được thực hiện dưới hình thức dàn xếp (arrangement)
nhằm kiểm soát các chính sách và phương tiện mà nước đi vay đồng ý thực
hiện để giải quyết khó khăn trong cán cân thanh toán. Chương trình kinh tế
theo sau sự dàn xếp đó được nước sở tại xây dựng với sự tư vấn của IMF và
trình cho Hội đồng thường trực của Quỹ dưới dạng thư đề nghị (Letter of
Intent). Khoản vay sẽ được giải ngân cho chương trình nếu thư được Hội
đồng điều hành thông qua.
IMF cũng hoạt động tích cực trong việc giảm đói nghèo cho các quốc gia
trên thế giới một cách độc lập hoặc trong sự hợp tác với Ngân hàng thế giới
WB (World Bank) và các tổ chức khác.
Ngoài ra IMF cũng cung cấp các hỗ trợ khẩn cấp (emergency assistance) đối
với các trường hợp gặp thảm hoạ thiên nhiên và xung đột vũ trang. Một vài
trường hợp có thể được nhận cáck hoản cho vay ưu đãi. Thời hạn hoàn trả từ
3 năm 3 tháng đến 5 năm.

• Nguồn vốn của IMF:


chủ yếu là vốn cổ phần của các nước thành viên và tích luỹ của IMF. Ban
đầu, mức cổ phần đóng góp phụ thuộc vào tỷ trọng kim ngạch xuất nhập
khẩu của nước đó so với kim ngạch xuất nhập khẩu của thế giới, hoặc dựa
trên độ lớn nền kinh tế của mỗi nước. Ngoài ra, trong trường hợp cần thiết,
IMF cũng có thể vay vốn trên thị trường tài chính quốc tế để phục vụ cho
các hoạt động của mình. Đến ngày 31/12/2003, tổng vốn cổ phần của IMF là
316 tỷ USD.

Chi tiêu hàng năm cho các hoạt động của Quỹ chủ yếu bằng hiệu số giữa lãi
thu được từ các khoản cho vay (outstanding loans) và lãi phải trả từ các chỉ
tiêu đóng góp (quota deposits).

Tổng cho vay đối với 87 quốc gia là 107 tỷ, trong đó có từ 10 đến 60 tỷ đang
giải ngân. 356 chuyên gia đã được sử dụng trong các dự án hỗ trợ kỹ thuật,
136 nước được hỗ trợ giám sát trong năm tài khoá 2003 .

Cổ phần: Các nước thành viên có cổ phần lớn trong IMF là Mỹ (17,46%),
Đức (6,11%), Nhật bản (6,26%), Anh (5,05%) và Pháp (5,05%).

• Cơ cấu tổ chức:

Cơ cấu hiện hành của IMF gồm có Hội đồng Thống đốc, Ban Giám đốc
Điều hành, Tổng Giám đốc, các Phó Tổng Giám đốc và các cán bộ Quỹ.

- Hội đồng Thống đốc: Bộ phận ra quyết định cao nhất tại IMF. Hội đồng
Thống đốc bao gồm các Thống đốc (thường là Thống đốc Ngân hàng Trung
ương hoặc Bộ trưởng Tài chính) và một Thống đốc phụ khuyết do từng nước
hội viên IMF bổ nhiệm. Hội đồng thống đốc có một số các quyền hạn cụ thể,
chẳng hạn như kết nạp hội viên mới, quyết định cổ phần, và phân bổ đồng
SDR cũng như các quyền hạn khác không phân cấp cho Ban Giám đốc Điều
hành hoặc Tổng Giám đốc. Hội đồng Thống đốc IMF họp Hội nghị thường
niên kết hợp với Hội nghị thường niên của Hội đồng Thống đốc Ngân hàng
Thế giới.

- Ủy ban Tài chính Tiền tệ Quốc tế: Trước đây gọi là Ủy ban Lâm thời, do
Hội đồng Thống đốc IMF thành lập vào tháng 10/1974 với chức năng là để
tư vấn cho các Thống đốc về các vấn đề tiền tệ quốc tế. Mỗi thành viên trong
số 24 thành viên của Ủy ban Tài chính Tiền tệ Quốc tế cũng là Thống đốc tại
IMF, một Bộ trưởng hay một quan chức có chức vụ tương đương.

- Ban Giám đốc Điều hành: gồm 1 Tổng Giám đốc điều hành và 24 Giám
đốc điều hành, trong đó 5 Giám đốc điều hành đại diện cho 5 nước có cổ
phần lớn nhất tại Quỹ (Mỹ, Nhật, Đức, Anh, Pháp) và 19 Giám đốc điều
hành đại diện cho các nhóm nước có đặc điểm giống nhau về kinh tế địa lý,
văn hóa, trừ Nga và Trung quốc có Giám đốc điều hành riêng.

- Tổng Giám đốc: do Ban Giám đốc Điều hành lựa chọn, với nhiệm kỳ đầu
tiên là 5 năm. Hiện nay người giữ chức Tổng Giám đốc là ông Dominique
Strauss-Kahn (người Pháp). Tổng Giám đốc tham gia vào các buổi họp của
Hội đồng Thống đốc, Ủy ban Tài chính Tiền tệ Quốc tế và Ủy ban Phát triển.
Ngoài ra, Tổng Giám đốc còn phụ trách các cán bộ IMF. Mỗi Phó Tổng
Giám đốc, phụ trách một bộ phận dưới sự chỉ đạo của Tổng Giám đốc, có
nhiệm vụ chủ trì các buổi họp của Ban Giám đốc Điều hành và duy trì các
mối liên hệ với các quan chức chính phủ của nước hội viên, với các Giám
đốc Điều hành, với các cơ quan thông tin và các tổ chức khác.

Cán bộ Quỹ: có khoảng 2700 cán bộ từ hơn 191 nước, được tổ chức thành 5
Vụ khu vực (Vụ Châu Phi, Vụ Châu Âu, Vụ Trung đông và Trung Á, Vụ
Châu Á Thái Bình Dương và Vụ Tây Bán cầu); 9 Vụ chức năng và nghiệp
vụ đặc biệt (Vụ Tài chính, Vụ Các vấn đề ngân sách, Học viện IMF (bao
gồm các học viện tại Washington D.C, học viện Viên, học viện Châu Phi và
học viện Singapore), Vụ Các Thị trường vốn quốc tế, Vụ Pháp luật, Vụ các
Hệ thống Tài chính Tiền tệ, Vụ Xây dựng và Kiểm điểm Chính sách, Vụ
Nghiên cứu, Vụ Thống kê); 3 Vụ về thông tin liên lạc (Vụ Đối ngoại, Văn
phòng thông tin liên lạc khu vực Châu Á Thái Bình Dương, Văn phòng Quỹ
tại Liên Hợp Quốc); 3 Bộ phận giúp việc (Vụ thư ký, Vụ Nguồn nhân lực,
và Vụ Dịch vụ Tổng hợp và Công nghệ). Ngoài ra, IMF có hơn 60 Văn
phòng đại diện tại nhiều nước thế giới có trách nhiệm báo cáo cho các Vụ
khu vực tương ứng.

You might also like