Professional Documents
Culture Documents
Viện Enrico Fermi, Tổ chức nghiên cứu Đại học Kyoto Sangyo;
Đại học Chicago, máy gia tốc năng lượng Viện Vật lí lí thuyết
Chicago, IL, USA cao (KEK), Yukawa (YITP),
Tsukuba, Nhật Bản Đại học Kyoto,
Kyoto, Nhật Bản
Sự đối xứng bị phá vỡ không giải thích được lúc khai sinh ra vũ trụ. Trong Big Bang, nếu như vật chất
và phản vật chất được tạo ra nhiều như nhau, thì chúng phải hủy lẫn nhau. Nhưng sự dư thừa nhỏ xíu của
một hạt vật chất trong mỗi 10 tỉ hạt phản vật chất đủ để làm cho vật chất thắng thế so với phản vật chất. Vật
chất dư thừa này lấp đầy vũ trụ với các thiên hà, các sao, hành tinh, và cuối cùng là sự sống.
Trong đối xứng gương, tất cả các sự kiện sẽ xảy ra theo kiểu giống hệt nhau cho dù là
chúng được nhìn trực tiếp hay nhìn qua gương. Không có sự khác biệt nào giữa bên trái và bên
phải và không ai có thể quả quyết chúng đang ở trong thế giới riêng của họ hay đang ở trong thế
giới gương soi. Đối xứng điện tích phát biểu rằng các hạt phải hành xử giống hệt như các bản
ngã thay thế của chúng, các phản hạt, chúng có những tính chất giống hệt nhưng điện tích thì
ngược lại. Theo sự đối xứng thời gian, các sự kiện vật lí ở cấp độ vi mô sẽ độc lập như nhau cho
dù là chúng xảy ra tiến về trước hay lùi ra sau trong thời gian.
Các đối xứng không chỉ có giá trị thẩm mĩ trong vật lí học. Chúng đơn giản hóa nhiều
phép tính bất tiện và do đó giữ một vai trò quyết định trong sự mô tả toán học của thế giới vi mô.
Một thực tế còn quan trọng hơn là những sự đối xứng này bao hàm một số lượng lớn các định
luật bảo toàn ở cấp độ hạt vật chất. Ví dụ, có một định luật rằng năng lượng không thể mất đi
trong va chạm giữa các hạt sơ cấp, nó phải bằng nguyên trước và sau va chạm, điều đó hiển
nhiên trong sự đối xứng của các phương trình mô tả các va chạm hạt. Hay có định luật bảo toàn
điện tích liên quan đến sự đối xứng trong lí thuyết điện từ.
Mô hình xuất hiện ngày càng rõ hơn
Khoảng giữa thế kỉ 20, sự đối xứng bị phá vỡ lần đầu tiên xuất hiện trong nghiên cứu về
những nguyên lí cơ bản của vật chất. Lúc này, vật lí học đã hoàn toàn bị cuốn vào việc đạt tới
giấc mơ lớn nhất của nó - hợp nhất tất cả những viên gạch cấu trúc nhỏ nhất và tất cả các lực của
tự nhiên trong một lí thuyết thống nhất. Nhưng bắt tay vào thực hiện, ngành vật lí hạt càng lúc
càng trở nên phức tạp hơn. Các máy gia tốc mới được xây dựng sau Thế chiến thứ hai tạo ra một
Bên trong vật chất. Electron và quark là những viên gạch cấu trúc nhỏ nhất của toàn bộ vật chất.
Mô hình Chuẩn ngày nay. Nó hợp nhất toàn bộ những viên gạch cấu trúc cơ bản của vật chất và ba trong
số bốn lực cơ bản. Trong khi toàn bộ vật chất đã biết được xây dựng với những hạt thuộc họ thứ nhất, thì
những hạt kia tồn tại nhưng chỉ trong những khoảng thời gian cực kì ngắn. Để hoàn chỉnh Mô hình, cần
một hạt mới – hạt Higgs – mà cộng đồng vật lí hi vọng tìm thấy trong cỗ máy gia tốc mới xây dựng LHC
tại CERN gần Geneva.
Ngày nay, hầu như toàn bộ các mảnh của nan đề đã rơi vào cùng một nơi; một Mô hình
Chuẩn cho các bộ phận không thể chia cắt của vật chất gồm ba họ hạt (xem hình). Các họ hạt này
tương tự nhau, nhưng chỉ những hạt trong họ thứ nhất và họ nhẹ nhất là đủ bền để cấu thành nên
vũ trụ. Các hạt thuộc hai họ nặng hơn sống dưới những điều kiện rất không bền và phân hủy
ngay tức thì thành những hạt thuộc loại nhẹ hơn.
Mọi thứ được điều khiển bởi các lực. Mô hình Chuẩn, ít nhất là trong thời gian tồn tại,
bao gồm ba trong số bốn lực cơ bản của tự nhiên cùng với các đối tượng trung chuyển của chúng,
các hạt vận chuyển tương tác giữa các hạt sơ cấp (xem hình). Hạt trung chuyển của lực điện từ là
photon với khối lượng zero; lực yếu gây ra sự phân rã phóng xạ và làm cho Mặt trời và các ngôi
sao tỏa sáng được mang bởi các hạt boson nặng W và Z; còn lực mạnh được mang bởi các hạt
gluon, cái giữ hạt nhân nguyên tử lại với nhau. Lực hấp dẫn, lực thứ tư, lực đảm bảo cho chúng
ta được giữ chân trên mặt đất, cho đến nay chưa được hợp nhất vào mô hình này và có một thách
thức rất lớn đối với các nhà vật lí ngày nay.
Vật lí lượng tử nằm đằng sau hoạt động chuyển hóa kì lạ này. Một kaon có thể chuyển giữa bản thân nó
và phản hạt của nó – từ kaon sang phản kaon và chuyển ngược trở lại. Tất cả các họ quark được biết tới
ngày nay phải đóng góp cho quá trình trong đó một vài trường hợp sự đối xứng sẽ bị phá vỡ. Lời giải thích
làm thế nào điều này xảy ra đã mang lại cho Kobayashi và Maskawa giải thưởng Nobel Vật lí của năm nay.
Sự đối xứng bị phá vỡ tự phát. Thế giới của cái bút chì này hoàn toàn đối xứng. Mọi hướng là hoàn toàn
như nhau. Nhưng sự đối xứng này không còn khi cái bút chì ngã xuống. Sự đối xứng tồn tại trước đó bị ẩn
giấu đằng sau cái bút chì ngã xuống.
Chân không có mức năng lượng khả dĩ thấp nhất trong vũ trụ. Thật vậy, chân không
trong vật lí chính xác là một trạng thái với năng lượng thấp nhất có thể có. Nhưng nó không
trống rỗng theo mọi ngữ nghĩa. Kể từ khi ra đời vật lí lượng tử, chân không được định nghĩa là
chứa đầy thứ súp sủi bọt của các hạt xuất hiện bất ngờ, chỉ lập tức biến mất trở lại trong các
trường lượng tử không nhìn thấy nhưng có mặt ở khắp nơi. Chúng ta bị vây quanh bởi nhiều
trường lượng tử khác nhau trong toàn không gian; bốn lực cơ bản của tự nhiên cũng được mô tả
dưới dạng các trường. Một trong số chúng, trường hấp dẫn, là cái tất cả chúng ta đều biết. Nó là
trường đã giữ chúng ta ở trên Trái đất và xác định cái gì hướng lên và cái gì hướng xuống.
Nambu đã thấy rõ ngay từ rất sớm rằng các tính chất của chân không thật hấp dẫn cho
nghiên cứu sự đối xứng bị phá vỡ tự phát. Chân không, tức là trạng thái năng lượng thấp nhất,
không tương ứng với trạng thái đối xứng nhất. Như cái cái bút chì ngã, sự đối xứng của trường
lượng tử bị phá vỡ và chỉ có một trong số nhiều hướng trường khả dĩ được chọn. Trong những
thập niên gần đây, các phương pháp của Nambu xem xét sự vi phạm đối xứng tự phát trong Mô
hình Chuẩn đã được trau chuốt; chúng được sử dụng thường xuyên ngày nay để tính các hiệu
ứng của lực mạnh.
Higgs mang lại khối lượng
Câu hỏi về khối lượng của các hạt sơ cấp cũng đã được trả lời sự đối xứng bị phá vỡ tự
phát của trường Higgs giả thuyết. Người ta cho rằng lúc Big Bang, trường đó hoàn toàn đối xứng
và tất cả các hạt có khối lượng zero. Nhưng trường Higgs, giống như cái bút chì đứng trên đầu
nhọn của nó, là không bền, cho nên khi vũ trụ lạnh đi, trường đó rơi xuống mức năng lượng thấp
nhất của nó, tức chân không riêng của nó theo định nghĩa lượng tử. Sự đối xứng của nó biến mất
và trường Higgs trở thành một loại xi rô cho các hạt sơ cấp; chúng hấp thụ những lượng khác
nhau của trường và có khối lượng khác nhau. Một số, như các photon, không bị hút vào và vẫn
Các giải thưởng Nobel trước đây trong cùng lĩnh vực:
Giải Nobel Vật lí 1999: http://nobelprize.org/nobel_prizes/physics/laureates/1999/index.html
Giải Nobel Vật lí 1980: http://nobelprize.org/nobel_prizes/physics/laureates/1980/index.html
Giải Nobel Vật lí 1969: http://nobelprize.org/nobel_prizes/physics/laureates/1969/index.html
Giải Nobel Vật lí 1957: http://nobelprize.org/nobel_prizes/physics/laureates/1957/index.html
Yoichiro Nambu: http://physics.uchicago.edu/research/areas/particle_t.html#Nambu
Makoto Kobayashi: www.kek.jp/intra-e/press/2007/EPSprize2_e.html
Toshihide Maskawa: www.yukawa.kyoto-u.ac.jp/english
nghiemth17617@kiengiang.edu.vn
H eJ e A
trong đó e (điện tích) là hằng số ghép đôi trong QED. Nếu trường điện từ ghép đôi với các
trường khác, thì dòng sẽ gồm tổng các số hạng như phương trình ở trên, và tất cả các phần của
dòng của một tích cho trước sẽ ghép đôi với cường độ e bằng nhau. Sự ghép đôi này là phổ quát.
Trong sự tái chuẩn hóa, đó là hằng số ghép đôi bị tái chuẩn hóa. Nếu sự ghép đôi phổ quát được
tìm thấy đối với các hạt khác nhau, nó có thể được hiểu là một dấu hiệu của một lí thuyết tải
chuẩn hóa cơ sở với một đối xứng vô hạn dẫn tới một dòng bảo toàn.
Kể từ khi QED đặt nền tảng cho việc mô tả các lí thuyết nhiều vật tương đối tính, thật tự
nhiên là cố gắng tử một cách tiếp cận tương tự cho lí thuyết đã được đề xuất đối với các tương
tác mạnh, bởi Hideki Yukawa [23] vào năm 1935 (Giải Nobel 1949). Ông đề xuất rằng tương tác
giữa các nucleon dược trung chuyển bởi các pion với khối lượng nhỏ nhưng khác không, dẫn đến
một tương tác tầm ngắn. Lí thuyết này cũng được tìm thấy là có khả năng tái chuẩn hóa được,
nhưng cường độ ghép đôi được tìm thấy là lớn hơn 1, nên một triển khai xáo trộn là vô nghĩa, vì
nó có bán kính phân kì zero. Thất bại của lí thuyết Yukawa đưa cộng đồng vật lí tới chỗ nghi ngờ
sự thích đáng của lí thuyết trường lượng tử tương đối tính, và nhiều nỗ lực tìm những cơ chế thay
thế cho tương tác mạnh đã được thực hiện trong những năm 1950.
Sự không bảo toàn tính chẵn lẻ và các tương tác yếu
Cơ sở cho một thiết lập lí thuyết trường của các tương tác yếu được thực hiện bởi Enrico
Fermi [24] (Giải Nobel 1938) vào năm 1934. Quan sát phổ electron liên tục trong phân rã của
các nucleon đã thuyết phục Pauli [25] rằng quá trình cơ bản là
Z X Z 1 X e
J e N
1
2
1 3 N
Sau đó, họ yêu cầu rằng vector dòng yếu cũng được bảo toàn, giả thuyết Vector Dòng
Bảo toàn, CVC, và chỉ ra rằng nó phải có một nguồn gốc chung với dòng điện từ. Ở đây, người
ta có thể tìm thấy những tư tưởng về một lí thuyết thống nhất. Đồng thời phải có một sự đối xứng
ẩn đằng sau dòng yếu. Feynman và Gell-Mann đã trình bày nó theo kiếu cái gọi là Mô hình
Sakata [35]. Shoichi Sakata đã đề xuất vào năm 1956 rằng có ba hadron cơ bản, p, n và , cùng
ba lepton cơ bản e, và . Khi đó, người ta đã nhận ra proton, neutron và hạt cùng electron,
muon và neutrino. Kiến thức học đường Nagoya này khá thuyết phục và các hạt Sakata cuối
cùng trở thành các quark của Gell-Mann, mặc dù với một mục đích phần nào đó khác. Giả thuyết
CVC đã từng được đưa ra sớm hơn bởi Zel‟dovich và Gerstein [36] nhưng nó không thu được
bất kì sự chú ý nào ở phương Tây.
Một vài nhà khoa học bấy giờ đề xuất một tương tác phổ quát Fermi thứ tư cho lực yếu
có dạng
HV GJ J
với
J J h J l
trong đó J h là dòng hadron tính. Có hai vấn đề phát sinh với mô tả này. Thứ nhất, không có
ghép đôi G phổ quát nào được tìm thấy khi nghiên cứu các phân hủy hadron tính. Số hạng vector
trục A trong V-A ghép đôi với một sự ghép đôi mạnh hơn 26%, ghép đôi Gamow-Teller GA, so
với số hạng vector V. Thứ hai, có một sự không nhất quán trong sự ghép đôi vector khi đo phân
hủy của oxygen phóng xạ, 14O. Nó không bằng G mà bằng 0,97G. Vấn đề thứ nhất được nêu ra
trong hai bài báo nổi bật, một của Gell-Mann và Lévy [37] và một của Yoichiro Nambu [38], đệ
trình trước sau nhau 4 ngày trong năm 1960. Cả hai đề xuất rằng vector dòng trục chỉ được bảo
toàn một phần, PCAC. Trước khi bàn về những bài báo này, chúng ta nói ra ngoài lề một chút.
Sự siêu dẫn
Năm 1956, John Bardeen, Leon Cooper và Robert Schrieffer [39] (Giải Nobel 1972) tìm
ra lời giải đã tìm kiếm từ lâu cho câu đố siêu dẫn. Lời giải dựa trên việc các electron hình thành
cặp, cặp Cooper, thông qua tương tác với phonon. Các cặp là boson khi đó có thể hóa đặc và lập
thành một dải khe. Lí thuyết này dựa trên điện từ học, vậy thì làm thế nào bất biến chuẩn bị vi
phạm và cái gì của nó vẫn còn lại ? Đây là điểm xuất phát cho Nambu [40] khi ông muốn tìm
hiểu lí thuyết mới trong một khuôn khổ lí thuyết trường. Ông mất chừng hai năm để tìm hiểu vấn
đề này và để chỉ ra rằng bất biến chuẩn vẫn có mặt ở đó nhưng được nhận thấy là phi tuyến tính.
Vấn đề là ở chỗ trạng thái chân không là một sự hóa đặc của các cặp Cooper với tích -2 và vì thế
trên nguyên tắc là có tích. Nikolay Bogoliubov [41] đưa ra vào năm 1958 các giả trạng thái là
Bất biến lạ ứng với dòng trục và Nambu lần đầu tiên sử dụng quan niệm này để giải bài
toán PCAC trong một bài báo đã đề cập ở trên [34]. Đồng thời, bằng cách giả sử một sự phá vỡ
hiển nhiên nhỏ của bất biến lạ, ông kết luận rằng pion có một khối lượng nhỏ, nhỏ hơn nhiều bậc
so với các hạt khác trong bài toán, và ông đã trình bày rõ ràng về PCAC và sau đó có thể tính
được cái gọi là liên hệ Goldberger-Treiman [45] là một liên hệ giữa vector ghép đôi trục GA,
hằng số phân hủy của pion và ghép đôi giữa hai nucleon và một pion. Goldberger và Treiman
suy luận ra nó từ lí thuyết tán sắc từ một số giả thuyết rất táo bạo. Ở đây, nó xuất hiện tự nhiên từ
quan điểm của Nambu. Ông đã theo đuổi ý tưởng của ông trong hai bài báo cùng với Giovanni
và tương tự cho phần trục. Phương trình này rốt cuộc là một phép biến đổi đơn nhất của các
trạng thái n và . Với giá trị 2 = 0,06 họ đã tìm thấy một giá trị đúng cho cường độ ghép đôi của
phân rã. Đây là một đề xuất tài tình dựa trên chỉ một thí nghiệm. Những người khác trước đấy đã
đề xuất rằng các hiệu ứng tái chuẩn hóa có thể tác dụng, nhưng Gell-Mann và Lévy muốn giữ
tính phổ quát ghép đôi và tìm những con đường khác nữa. Họ tin rằng một lí thuyết có khả năng
tái chuẩn hóa phải nằm đằng sau, với một hằng số ghép đôi phổ biến.
sin
1 2 1/2
Sau đó ông có thể sử dụng dạng tổng quát này cho dòng hadron tính sử dụng ngôn ngữ
SU(3)
Biểu thức này được viết theo ngôn ngữ SU(3) của Gell-Mann. Các ma trận V và A là ma
trận của Gell-Mann, chúng là tám ma trận 3 x 3 biểu diển cho nhóm. Chúng là một sự khái
quát hóa của các ma trận của Pauli. Ông đã sử dụng dòng này để so sánh tỉ số phân nhánh của
kaon và pion và tìm được một giá trị phù hợp với một giá trị do Gell-Mann và Lévy tìm ra. Sau
đó, ông tiếp tục tính tỉ số phân nhánh cho các baryon lạ và nhận thấy giá trị của góc dường như
là phổ quát. Lí thuyết Cabibbo với góc Cabibbo nhanh chóng trở thành một khuôn khổ chuẩn
cho các tương tác yếu. Hóa ra nó là phổ quát và vô số dữ liệu không ngừng bổ sung thêm có thể
phù hợp với nó. Nó là một cột trụ của các tương tác yếu.
Dòng hadron bây giờ trông lại giống như dòng của Gell-Mann và Lévy. Ông sử dụng các
dòng này để rút ra các mối quan hệ đảo cho các dòng vật lí và điều này dẫn đến nhiều kết quả
đưa tới Mô hình Chuẩn. Một khi được khám phá ra, những mối liên hệ này có thể đặt trên một cơ
sở vững chắc.
Kaon trung hòa và bất biến CP
Sau khi đưa ra số lượng tử lạ, Gell-Mann, cùng với Abraham Pais [68] vào năm 1955, đã
chỉ ra rằng các kaon phải có những tính chất bất thường. (Họ trình bày theo các hạt và , nhưng
ở đây chúng ta sử dụng ngôn ngữ hiện đại). Các kaon xuất hiện dạng hai cặp đôi iso (K+, K0) và
phản hạt của chúng ( K , K 0 ) với số lạ + 1 và – 1. Dưới các tương tác mạnh, hai hạt trung hòa đó
khác nhau, vì lực này tôn trọng tính lạ, nhưng dưới lực yếu chúng có thể bị trộn lẫn vì lực này
không tôn trọng tính lạ. Gell-Mann và Pais nhận thấy thật tiện lợi hơn là sử dụng một hỗn hợp
của những hạt này. Vì người ta tin rằng phép liên hợp điện tích được tôn trọng bởi tất cả các lực,
cho nên trạng thái eigen của toán tử C phải được sử dụng. Họ đưa ra các trạng thái
K 0
1
2
K0 K0
K 0
1
2
K0 K0
Những trạng thái này là trạng thái eigen với giá trị eigen +1 và – 1 nếu như pha tùy ý
trong toán tử C được chọn là K 0 CK 0 .
Hai trạng thái trung hòa này có các mode phân rã khác nhau và vì thế có thời gian sống
khác nhau. Trong phân rã K0 2, các pion phải có một mômen động lượng tương đối giống
như spin của kaon, vì các pion không có bất kì spin nào. Một cặp trung hòa hai pion là một trạng
thái eigen của C. Do đó chỉ một trong K 0 có thể phân rã thành hai pion, đó là K 0 . Còn kaon
trung hòa kia, K 0 , khi đó có thời gian sống lâu hơn vì không gian pha để phân rã thành ba pion
nhỏ hơn không gian pha cho phân rã thành hai pion. Kết quả này dẫn tới một loạt hiện tượng có
thể phát hiện được [69]. Một tên gọi mới của K 0 và K 0 là K S0 và K L0 bây giờ được chấp nhận.
Bức tranh rất thành công này đã bị nghi vấn sau đề xuất của Yang và Lee rằng lực yếu không bảo
toàn tính chẵn lẻ. Họ còn đề xuất rằng bất biến C bị phá vỡ trong các phân rã yếu. Tuy nhiên,
Landau [32] đã cứu nguy cho bức tranh này bởi việc chỉ ra rằng CP là một đối xứng tốt và bằng
cách tráo đổi toán tử C với toán tử CP, các kết quả vẫn giữ được.
K S0
1
2 1 2
1 i K 0
1 i K 0
K L0
1
2 1 2
1 i K 0
1 i K 0
Nhanh chóng có một vài đề xuất cách giải thích hiệu ứng mới này. Lincoln Wolfenstein
[71] đưa ra một tương tác siêu yếu S = 2 có thể giải thích hiệu ứng đó. Nó chỉ tác động đến
phân hủy của các kaon, cho nên bất kì phân hủy nào khác vi phạm bất biến CP cũng sẽ bác bỏ đề
xuất này. Mất thêm chừng 35 năm nữa điều này mới được phát hiện ra trong các phân hủy B.
Các phép biến đổi CP trong một lí thuyết trường lượng tử
Chúng ta thấy từ công thức ở trên là để có các hiệu ứng vi phạm CP trong một lí thuyết
trường lượng tử, chúng ta phải có các thông số phức. Chúng ta thật sự có các trường phức nhưng
đồng thời yêu cầu các hằng số ghép đôi phức. Một phép biến đổi CP của một trường phức có thể
viết là
UCPUCP 1 ei *
trong đó là một góc bất kì. Bây giờ giả sử số hạng tương tác có dạng
HV gO g * *O*
trong đó g là một hằng số ghép đôi và O là toán tử ba tuyến tính trong trường. Bây giờ chúng ta
hãy tiến hành một phép biến đổi CP trên số hạng này
UCP HVUCP 1 gei *O* g *eiO
Bằng cách chọn góc sao cho
2arg g
người ta nhận thấy tương tác đó bất biến cho dù là chúng ta bắt đầu với một hằng số ghép đôi
phức. Vì thế, để có một sự vi phạm CP, đòi hỏi có thêm nhiều trường và nhiều sự ghép đôi nữa.
Chúng ta phải kiểm tra xem các ghép đôi có còn là phức không khi chúng ta tiến hành định nghĩa
lại trường và sử dụng sự tự do trong các phép biến đổi CP. Từ đây, chúng ta thấy chúng ta không
thể có sự vi phạm CP trong lí thuyết Gell-Mann-Lévy-Cabibbo. Phải có thêm những trường khác
nữa.
Sau đó, họ nhận thấy rằng qua một phép biến đổi đơn nhất của các quark d, s và q3, một
sự ghép đôi với một pha tự do thu được không thể hấp thụ trong số hạng khác đó.
Thật ra, đây là kết quả đã biết tới trong toán học kể từ khoảng năm 1950, nhưng tiếp xúc
giữa toán học và vật lí không lớn như trong khoảng năm 1970. Giả sử có hai vector với các thành
phần N
liên kết qua một ma trận đơn nhất U là QUq . Khi đó người ta có thể thực hiện cái gọi là phân
tích Iwasawa [73] sao cho U D1VCKM D2 . Các ma trận D1 và D2 là ma trận chéo, và mỗi ma trận
chứa n pha. Các pha này có thể bị hấp thụ trong các trường quark. Một trong số chúng là pha
chung không thể quan sát được. Tổng mức độ tự do khi đó là VCKM và U có n2 độ tự do. Các ma
trận chéo D lấy đi 2n – 1 độ tự do. Vì thế, độ tự do còn lại cho VCKM là n2 2n 1 n 1 .
2
Khi n = 2, kết quả bằng 1 như trong trường hợp lí thuyết Gell-Mann-Lévy-Cabibbo. Trong
trường hợp n = 3, có bốn mức độ tự do có thể biểu diễn là ba góc và một pha. Trong không gian
trong đó s1 sin 1 , c1 cos1 … và pha được thấy rõ ràng. Góc 1 là góc Cabibbo. Khi trình
bày về hỗn hợp quark, ma trận đó thường được gọi tên là ma trận Cabibbo-Kobayashi- Maskawa
(CKM). Ngày nay, ma trận này được viết ở dạng hơi khác một chút, do Nhóm dữ liệu Hạt đề
nghị [58]
trong đó sij sin ij , cij cosij , i, j 1, 2,3. Một lần nữa, thực tế lí thuyết ba họ chứa sự vi phạm
CP được chứng kiến bởi sự có mặt của một góc pha không thể nào biến đổi ra ngoài. Một biểu
thức tiện lợi tổng kết điều kiện cho sự vi phạm CP sử dụng một toán tử đảo tích của các ma trận
khối lượng được đưa ra vào năm 1985 bởi Cecilia Jarlskog [74].
Sự xác nhận thực nghiệm của lí thuyết Kobayashi-Maskawa
Bài báo của Kobayashi-Maskawa được công bố vào hôm 01/09/1972. Lúc đó, chỉ có ba
quark được biết tới. Lí thuyết của họ chứa sáu quark và không được chú ý cho lắm vào khi ấy.
Có bằng chứng mạnh mẽ cho một quark thứ tư đã được nêu ra hồi năm 1970 bởi Sheldon
Glashow, Jean Iliopoulos và Luciano Maiani [75]. Có một vấn đề phát sinh với lí thuyết tồn tại
khi đó cho các tương tác yếu. Nó dẫn tới dòng trung hòa biến thiên lạ không nhìn thấy trong các
thí nghiệm. Ba tác giả đã đề xuất đưa ra một quark thứ tư gọi là quark duyên, c. Bằng cách đưa
ra quark này, người ta thu được hai họ đầy đủ và các dòng trung hòa biến thiên lạ thật sự ẩn kín.
Năm 1974, một hạt mới, khá nặng, hạt J/, thật sự được tìm thấy bởi Samuel Ting [76] và
Burton Richter [77] (Giải Nobel cho Richter và Ting năm 1976). Nó khá nhanh chóng được hiểu
là một trạng thái cc . Các hạt với một số lượng tử duyên đã được phát hiện ra vài năm sau đó.
Dấu hiệu của một lepton nặng mới bắt đầu xuất hiện năm 1975 và khám phá đã được thiết lập
vào năm 1977 [78] (Giải Nobel cho Martin Perl 1995). Kết quả này ngụ ý một họ nhà thứ ba của
các lepton. Ở giai đoạn này, bài báo của Kobayashi-Maskawa bắt đầu đi vào tiêu điểm chú ý, lúc
bắt đầu cho việc xây dựng mô hình nhưng đồng thời còn sớm cho các mục đích hiện tượng học.
Lúc này, bằng chứng cho thấy Mô hình Glashow-Salam-Weinberg thật sự là mô hình đúng cho
tương tác yếu và tương tác điện từ cũng đang được tích lũy. Đồng thời, năm 1977, Leon
Lederman (Giải Nobel 1988) và nhóm của ông đã tìm ra quark thứ năm, quark-b [79]. Mãi cho
đến năm 1994 thì quark thứ sáu, quark t, mới được khám phá [80].
Việc khám phá ra quark b và thời gian sống lâu của nó đưa đến những khả năng mới
kiểm tra sự vi phạm CP và chọn lựa giữa Mô hình KM và đề xuất của Wolfenstein. Quark b có
số lượng tử bằng như quark s, ngoại trừ số lượng tử cố hữu của nó. Các meson B trung hòa (có
một quark b) khi đó phải có tính chất CP giống như các kaon. Thật vậy, người ta cho rằng sự vi
phạm sẽ khá lớn đối với các phân hủy phi lepton tính trong Mô hình KM. Điều này dẫn tới việc
nghiemth17617@kiengiang.edu.vn