You are on page 1of 66

Giáo dục giá trị sống còn bỏ ngỏ

TT - Vì sao có một bộ phận giới trẻ sống vội, sống "thoáng"? Đó là vì họ bị bao
vây ngày đêm bởi những hình ảnh cổ vũ cái đẹp thể xác, sự "tự tin" bằng chiếc
xe đời mới hay chiếc điện thoại di động đa chức năng.
Người ta thường hay đổ thừa cho văn hóa phương Tây. Thật ra phương Tây đã
sụp đổ từ lâu nếu không xây dựng được những giá trị rất tích cực để chống đỡ
khủng hoảng mấy thế kỷ qua. Ta thường nói "tiếp thu có chọn lọc", nhưng hình
như cái đầu lọc nó chạy ngược, nên chỉ thấy những cái xấu của phương Tây lọt
vào: lối sống hưởng thụ vật chất, khêu gợi xác thịt...
Khủng hoảng xã hội do phát triển kinh tế, hiện đại hóa đã diễn ra hàng trăm
năm trước ở các nước phát triển, và họ đã có nhiều kinh nghiệm ứng phó với
cuộc khủng hoảng này. Đó là sự hình thành các ngành khoa học cơ bản và ứng
dụng để tác động cụ thể vào các đối tượng xã hội là cá nhân, gia đình, tổ chức.
Nếu ta biết đi trước đón đầu mà chữa bệnh bằng những liều thuốc sẵn có thì đỡ
biết bao.
Những chuẩn mực xưa là nhằm bảo vệ trẻ trong bối cảnh cũ. Ngày nay, cha mẹ
vẫn phải biết bảo vệ mà không "cầm tù” trẻ; tình thương của cha mẹ vẫn cần
thiết như thức ăn để trẻ lớn lên, nhưng phải biết cách thương mà không làm con
ngạt thở.
Còn ở VN? Đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài giảng, dịch vụ tham vấn
cho gia đình nhưng còn mang tính rời rạc, lẻ tẻ. Nên cái gọi là "Chiến lược gia
đình" của Chính phủ chỉ là cái sườn nằm trên giấy ít ai biết tới. Những người
có trách nhiệm tính sao đây?
Giáo dục giới tính hay sức khỏe sinh sản không chỉ là dạy sinh lý hay phòng
tránh thai. Giáo dục giới tính còn là giáo dục nhân cách, là dạy người. Chính
qua đây bạn trẻ nhận ra giá trị con người, sự khác biệt và bổ sung nhau giữa
nam và nữ, tình yêu có trách nhiệm. Ngoài ra, cần giúp các em gái vượt mặc
cảm tự ti, nhầm lẫn tình yêu với việc tìm một chỗ dựa, nghĩ rằng phải "cho" để
giữ người yêu. Riêng các em trai, phải dạy để các em thoát khỏi tư tưởng
phong kiến, biết tôn trọng bạn mình, không lợi dụng lợi thế đàn ông để lạm
dụng bạn gái.
Giáo dục trẻ ngày nay không nhằm dạy các em vâng lời ngoan ngoãn mà giúp
các em tự chủ, tự lực. Giáo dục kỹ năng sống để các em biết tự chọn lựa, tự
quyết định. Nhưng không thể chọn lựa mà thiếu cơ sở là hệ thống giá trị sống
phù hợp. Vấn đề giáo dục giá trị sống còn bỏ ngỏ.
Rất mong những "người lớn" ngồi lại với nhau để lên một chương trình hành
động ngay!
Ý thức về giá trị bản thân, nền tảng của một nhân cách sung mãn và lành mạnh
không thể học như học sách vở. Nó hình thành từ nhỏ trong mối tương tác với
người lớn ở gia đình và học đường. Nhiều thầy cô không làm tròn trách nhiệm
cũng dễ hiểu vì họ đâu được chuẩn bị để dạy người.
NGUYỄN THỊ OANH

Rạn nứt

Một vì vua kia thích sưu tầm ngọc quí đủ màu sắc, đủ kích cỡ, đến từ khắp nơi
trên thế giới. Trong số đó, có một viên ngọc to như quả trứng. Mỗi khi đưa ra
ánh sáng, nó phản chiếu đủ màu sắc sặc sỡ làm nhà vua rất say mê.

Nhưng một hôm, trong lúc hãnh diện khoe cùng các vị khách quí, nhà vua đã
nhận ra viên ngọc có một kẽ nứt. Ông vô cùng tiếc xót, buồn bã. Từ hôm ấy,
Ngài truyền cho khắp dân gian ai sửa được viên ngọc đó y như trước sẽ được
trọng thưởng. Các thợ đá quí lành nghề ra vào hoàng cung tấp nập nhưng đều
lắc đầu chịu thua.

Ngày kia, có người vào yết kiến và xin vua cứ để cho mình sửa chữa tùy ý.
Đang lúc tuyệt vọng, nhà vua đồng ý, vì đàng nào viên ngọc cũng mất giá trị
rồi.

Anh thợ đá quí đem viên ngọc về, ngày đêm dùng những đồ nghề tinh xảo để
sửa chữa viên ngọc. Chẳng bao lâu, anh đem viên ngọc dâng lên đức vua. Nhà
vua vô cùng kinh ngạc vì trên viên ngọc điểm một bông hồng rất xinh đẹp,
được trạm trổ một cách công phu, mà cánh hoa xinh tươi chính là dấu nứt của
viên ngọc trước kia. Cánh hoa hồng xinh đẹp đã làm tăng giá trị của viên ngọc
lên gấp bội, bằng chứng là mọi người đều trầm trồ khen ngợi.

Mỗi một lỗi lầm trong đời sống chúng ta là một vết nứt của linh hồn trong
trắng.

Mỗi lần gây gỗ bất hoà trong đời sống hôn nhân là một vết nứt trong tình yêu
nồng nàn ngày thành hôn.

Mỗi một tranh chấp, cãi cọ giữa láng giềng, bạn bè là một vết nứt trong tình
bằng hữu lân bang.

Chúng ta dừng bao giờ nản lòng thất vọng mỗi khi nhìn thấy những vết nứt
trong tâm hồn mình, hay những rạn nứt trong tương quan với tha nhân. Nếu
biết lợi dụng nó thì những vết nứt kia sẽ là khởi điểm cho một cuộc sống mới
tươi đẹp hơn, khi mình biết khéo léo và kiên nhẫn sửa chữa.

Tiếng vỗ tay đặc biệt !!!!!

Có một câu chuyện rất hay về Jimmy Durante , một trong những diễn viên hài
nổi tiếng nhất cách đây hơn hai mươi năm . Ông được mời tham gia một buổi
trình diễn dành cho các cựu chiến binh trong chiến tranh thế giới lần thứ hai .
Ông nói với người tổ chức rằng mình rất bận và chỉ có thể tham gia chừng vài
phút thôi , và nếu như họ không phiền hà chuyện ông sẽ độc diễn trong vài phút
thì ông sẽ nhận lời . Tất nhiên , người tổ chức vui vẻ đồng ý ngay .

Nhưng khi ông bước lên sàn diễn , điều thú vị đã xảy ra . Ông độc diễn một
màn rất ngắn và dừng lại . Tiếng vỗ tay tán thưởng ngày càng to hơn khiến ông
không thể đi xuống . Rồi sau đó ông tiếp tục trên sàn diễn mười lăm , hai mươi
, rồi ba mươi phút . Cuối cùng ông cúi chào lần chót và rời khỏi sân khấu . Phía
sau hậu trường có người chặn ông lại và hỏi : " Chúng tôi nghĩ ông phải đi
ngay sau vài phút diễn thôi . Vậy chuyện gì đã xảy ra ? "

Jimmy trả lời : " Đúng là tôi phải đi gấp , tôi sẽ cho ông thấy tại sao tôi vẫn nán
lại . Ông sẽ biết câu trả lời nếu nhìn vào dãy ghế đầu tiên ."

Ở dãy ghế đầu tiên có hai cựu chiến binh , mỗi người mất một cánh tay trong
chiến tranh . Người thì mất tay phải còn người kia thì mất tay trái . Họ cùng vỗ
tay vào nhau , chính xác là như vậy , thật to và rất phấn khởi !

Tỉnh thức?

-Xin lỗi, nghe không rõ! Bạn nói chi?


-Tỉnh thức.
-Tỉnh thức? À, tỉnh thức. Cái này thì khó đấy…

I. Tỉnh thức: Vật chất dư thừa

Trong những xã hội tiên tiến, tỉnh thức không phải là một điều dễ làm, bởi vì
vật chất dư thừa bao quanh khiến mình khó phân biệt đâu là thần tài, đâu là
thần chết.

Chuyện kể rằng có hai tên tướng cướp một hôm đi ngang qua cánh rừng, bất
ngờ cả hai cùng bắt gặp một người đàn ông tuổi trung niên đang hốt hoảng bỏ
chạy, tay chỉ vào trong rừng, miệng hét to,

-Thần chết! Thần chết!.

Thấy chuyện lạ, hai tên tướng cướp chặn người đàn ông lại, kề dao vào cổ, vặn
hỏi,
-Thần chết ở đâu mà nhà ngươi vừa chạy vừa hét ầm ĩ lên như vậy? Mát hả?
Hay là té giếng sâu mười tám thước?

Lạ thay, mặc dù bị dao sắc chạm ngay cần cổ, người đàn ông vẫn không tỏ vẻ
sợ hãi, nhưng tiếp tục chỉ tay vào rừng, tiếp tục hét to,

-Thần chết! Thần chết!

Thấy người đàn ông có thái độ lạ kỳ, hai tên tướng cướp liền để mặc người đàn
ông một mình, rồi cả hai đi sâu vào bià rừng về hướng tay chỉ của người đàn
ông. Thật bất ngờ, mới lần mò vào bià rừng được khoảng ném một cục đá, hai
tên tướng cướp khám phá ra một cái hang bên trong chất cao đầy vàng bạc và
kim cương. Thấy kho tàng bất ngờ xuất hiện trước mặt, hai tên tướng cướp mắt
sáng ra. Rồi không ai nói ai, cả hai tên cướp thay phiên nhau đào vàng bạc, hốt
kim cương cho vào những bao bố, chuẩn bị mang về thành phố. Cả hai vừa đào
vàng, vừa hốt bạc, tâm hồn lâng lâng nghĩ tới ngày mai, một ngày mai tươi
sáng với một kho tàng trời tặng ban cho thật bất ngờ. Sau một hồi loay hoay
với kho vàng, cả hai tên cướp cùng đói bụng. Một tên mới đề nghị,

-Thôi, để tao vào thành phố. Mi cứ ở đây, đào tiếp, đợi tao mua bánh mì mang
về tụi mình ăn trưa nhé.

Đang đói bụng, nghe bạn nói vậy, tên kia gật đầu đồng ý liền. Trên đường đi
mua bánh mì ăn trưa, tên cướp thứ nhất bất ngờ động lòng tham, hắn nghĩ,
‘Thôi kệ, bây giờ mình ghé vào tiệm thuốc Bắc mua thuốc chuột nhét vào ổ
bánh mì kẹp thịt. Như vậy cả nguyên một kho tàng sẽ thuộc hẳn về mình’.
Nhưng cũng không ai ngờ, trong hang núi, tên cướp thứ hai cũng động lòng
tham y như tên cướp thứ nhất. Cho nên, hắn bậm môi đứng nép ngay cửa hang,
tay giơ cao thanh đao đợi chờ. Bởi không tỉnh thức, không nghi ngờ, tên cướp
thứ nhất không chuẩn bị. Cho nên vừa mới ló đầu vào, đầu hắn rụng xuống, rơi
lăn nghe kêu lông lốc trên nền đất khô. Giết chết bạn xong, tên cướp thứ hai
tỉnh bơ ngồi xuống, lấy bánh mì có ướp thuốc chuột ra ăn. Nhưng bánh mì vừa
kịp trôi qua cổ họng, hắn trợn mắt lên, rồi giãy đành đạch té chết nằm sõng soài
bên cạnh xác đồng nghiệp còn chưa kịp lạnh. Thế là thần tài rớt mặt nạ xuống,
hiện nguyên hình thần chết.

Tỉnh thức? Khó đấy!

II. Tỉnh thức: Giật gấu vá vai

Đối với những cuộc giật gấu vá vai, tỉnh thức cũng không phải là một điều dễ
thực hiện, bởi vì đời sống vật chất thiếu thốn khiến người ta cũng dễ dàng bị
mập mờ lẫn lộn giữa hạnh phúc bây giờ và bất hạnh tương lai.

Chuyện kể rằng tại một thôn làng có một cặp vợ chồng son. Cả hai rất hạnh
phúc, nhưng chỉ tội nghèo. Bởi thế chồng phải ngày ngày vào rừng đốn củi
kiếm tiền. Vợ ở nhà xúc cá bắt tép mang ra chợ bán. Cả hai quần quật làm việc
đầu tắt mặt tối, thế mà vẫn không thoát cảnh cơm trưa trộn sắn, cơm chiều trộn
khoai. Nhưng mặc cho phận nghèo tiếp tục theo đuổi, hai vợ chồng rất thương
yêu nhau. Tối trong khi chồng đang ngồi xếp đống củi chuẩn bị mang ra chợ
bán vào sáng sớm ngày hôm sau, vợ ngồi bên cạnh ướp muối từng chú cá xúc
được trong ngày. Lâu lâu hai vợ chồng nhìn nhau, cười tủm tỉm thương yêu
mặn nồng.

Bất ngờ, vào một ngày kia, trong khi đang vớt tép, vợ khám phá ra trong rổ
lóng lánh một cục đá. Ánh sáng của hòn đá sáng lấp lánh che tối ánh bạc mặt
trời nhiệt đới và cả những chú cá rô đồng lớn bằng bàn tay đang dãy dụa trong
rổ. Mang hòn đá lớn bằng trái trứng chim câu về nhà, vợ nhờ người mang đi
bán. Thế là bắt đầu kể từ đó đời sống của hai vợ chông thay đổi, chồng thôi
phận tiều phu, vợ thôi kiếp xúc tép. Cả hai trở nên giàu có với nhà cao cửa
rộng, người ăn kẻ ở tấp nập. Và cũng bắt đầu từ đó, người chồng một thời tiều
phu bắt đầu đổi tính. Anh không còn tối tối quây quần xum họp với vợ trong
túp lều tranh nữa, nhưng ngày đêm la cà nơi quán rượu nhà chứa… Và cũng
bắt đầu từ đó, người vợ một thời xúc tép đổi hình. Chị ăn mặc sang trọng phấn
son rỡ ràng, thường xuyên xuất hiện nơi sòng bạc casino… Có người còn nói
chị trở nên gái gọi hạng sang… Thực hư chẳng ai biết.

Tỉnh thức? Khó đấy!


III. Tỉnh thức: Chốn thiền môn

Trong đời sống thiền môn, không tỉnh thức cõi thiền sẽ nhập nhằng hóa ra cõi
trần.

Chuyện kể rằng, có nhà tu sĩ thuộc phái hành khất bình bát có lần dừng bước
ngồi ăn xin dưới gốc đa đầu làng. Người trong thôn đi ngang qua, họ nhận ra
gia tài duy nhất người tu sĩ sở hữu là hai cánh áo tăng và cái bình bát làm bằng
gỗ. Tuy nghèo, nhưng nhà tu sĩ rất là hạnh phúc. Khuôn mặt của chàng không
bao giờ thiếu vắng nụ cười. Ngày ngày ngồi dưới gốc đa, chàng lần chuỗi tâm
kinh bình bát, “Xin cho con sống trọn một đời tu hành, chọn Trời làm mền, lấy
đất làm giường, lấy hạnh phúc tha nhân là hạnh phúc của chính con”.

Dân làng đi ngang qua, có người dâng cúng trái chuối sứ, có người dâng tặng
hành khất sĩ cái bánh cam. Trẻ em rắn mặt có tên nhặt đá ném người xuất gia.
Có người không hiểu đạo lý diệt ngã của môn phái hành khất, cho nên đi ngang
qua mở miệng mắng,

-Ơ hay chửa! Thanh niên trai tráng mặt mũi thông minh sáng láng như thế kia,
tay chân vạm vỡ ra dáng người có ăn học như thế, mà lại lười biếng, không
chịu đi làm! Rõ là nằm dưới gốc sung!

Ai cho chi, tăng sĩ trẻ tuổi cúi đầu, tay đưa lên trước ngực theo kiểu khất sĩ,
miệng nói lời cám ơn.
Bị đá ném thẳng vào người, dù là to hay nhỏ, tăng sĩ vẫn yên lặng, thân mình
không di chuyển, vầng trán cao không gợn một nét nhăn, nụ cười tăng sĩ vẫn
nở trên môi, nhưng đầu cúi xuống tránh những hòn đá hiểm ác ném thẳng vào
mặt.

Trước những lời la mắng, cự trách, người tu sĩ cúi xuống, tay chắp theo thế tâm
kinh bình bát, mắt nhìn xuống nền đất, ánh mắt khoan thai tựa như Đức Phật
ngự trên tòa sen.

Người trong làng, có mấy lần ghé tận gốc đa mời tăng sĩ về nhà dùng bữa cơm
chay dưa muối. Nhưng tu sĩ bình bát nhã nhặn cúi đầu miệng nói lời cám ơn.

Ngày ngày trôi qua người tăng sĩ ngồi dưới gốc đa đã trở thành một phần đời
sống của thôn làng. Sáng sáng lũ lượt kéo nhau đi ngang qua đầu làng chuẩn bị
cho một ngày mới, người trong thôn nhận ra nhà tu sĩ vẫn ngồi thiền dưới gốc
cây đa, ánh mắt hiền từ, nụ cười khoan dung.

Nhưng bất ngờ, vào một ngày kia người trong thôn nhận ra hai bộ quần áo tăng
của người tu sĩ bị chuột nhắt gặm cắn nham nhở. Ái ngại cho tình cảnh đơn
chiếc của tăng sĩ, có người quay về nhà mua tặng tăng sĩ hai bộ áo tăng mới.
Nhưng tu sĩ lắc đầu, chỉ xin mượn kim chỉ khâu vá lại những chỗ rách.

Nhận ra những chú chuột nhắt là nguyên nhân chính tạo ra tình trạng cơ hàn lại
thêm cơ hàn của tăng sĩ, có người chạy về nhà kiếm chú mèo mang lại tặng.
Người này thông minh lanh lợi, ông không biếu tặng tăng sĩ một con mèo béo
mập khỏe mạnh, mà là một chú mèo gầy đói ốm yếu nhưng hay bắt chuột.
Dưới gốc cây đa, tăng sĩ nhìn chú mèo, thoạt tiên, chàng từ chối, viện lẽ ông
thuộc về giới hành khất bình bát, không có quyền sở hữu bất cứ điều chi ngoài
hai bộ y phục tăng sĩ và bình bát. Nhưng người chủ nhân của chú mèo ốm đói
nói,

-Bạch thầy! Thầy nói đúng lắm. Nhưng con chỉ gởi tạm thầy chú mèo ốm đói
nhờ phúcc của thầy chăm nom dăm bữa nửa tháng mà thôi. Sau đó, con sẽ quay
lại, xin lại chú mèo.

Nhận ra chú mèo gầy gò, ốm đói, bệnh hoạn, miệng kêu meo meo đói sữa, lòng
từ tâm của tăng sĩ bình bát nổi lên, thế là chàng miễn cưỡng gật đầu.

Từ ngày có sự xuất hiện của chú mèo, chuột nhắt không còn dám lai vãng dưới
gốc đa để cắn xé quần áo của tăng sĩ nữa. Nhưng cũng bởi có sự xuất hiện của
mèo mướp hay chuột, tăng sĩ bắt đầu phải đảo mắt tìm kiếm lương thực cho
chú mèo. Nhận ra điều đó, có người trong thôn sáng chiều ghé vào dâng cúng
thiền môn hai chén sữa cho chú mèo. Thế là xong xuôi một mối lo!

Ngày một ngày hai tiếp tục trôi qua, người biếu sữa cho chú mèo có chuyện
phải rời bỏ thôn làng đi lên kinh đô làm ăn trong vòng một thời gian dài. Thôi
thì cũng là nhất cử lưỡng tiện, ông liền quyết định mang con bò sữa lại gửi
thiền sư gốc đa nhờ trông nom. Như thế chú mèo cũng có sữa, mà tăng sĩ cũng
có thêm miếng sữa tươi uống hằng ngày. Nhìn chú bò, tăng sĩ không nói chi,
miệng tiếp tục lời tâm kinh bình bát.

Bây giờ đã có nguyên một chú bò sữa quẩn quanh bên gốc đa, tăng sĩ bắt đầu
phải đảo mắt nhìn quanh quẩn tìm kiếm cỏ khô. Bởi thế tăng sĩ không còn ngày
ngày ngồi thiền dưới gốc đa nữa, nhưng sáng sớm chiều tối, chàng phải bỏ
những buổi công phu tâm kinh bình bát đi quanh quẩn tìm kiếm cỏ khô cho chú
bò sữa.

Nhận ra tình trạng lúng túng của tăng sĩ, dân làng hội họp lại, và họ quyết định
gửi tới gốc đa một người phụ nữ nhà nghèo cùng đinh khố rách, không công ăn
việc làm để trông coi chú bò sữa cho nhà thiền sư. Thôi, thế cũng coi như là
làm việc bác ái, một công hai việc, vừa là làm phúc cho cô gái, vừa là tiếp tục
giúp nhà tăng sĩ không phải mất thì giờ công phu tu hành đi làm công việc dẫn
bò ăn cỏ. Người trong thôn làng nhận ra đây là lần đầu tiên, khi nhận ra cô gái
chăn bò sữa đang đứng trước mặt, vầng trán tu sĩ cao rộng thoáng gợn lên một
đường hằn. Nhưng chàng không nói chi, tay chỉ ra phía sau. Thôn làng hiểu ý,
người ta liền cất lên một ngôi nhà tranh nho nhỏ cho cô gái chăn bò sữa ở phía
xa xa.

Ngày tháng trôi qua, đời sống của người trong thôn làng và người tăng sĩ gốc
đa quay trở lại những nhịp điệu bình thường. Người trong thôn không còn phải
lo cho tu sĩ nữa, bởi có người một phụ nữ đã được thôn làng cắt cử đặc trách
công việc chăm sóc cho tăng sĩ. Tăng sĩ tiếp tục chăm chú vào những lời tâm
kinh bình bát, bởi chàng không còn phải xao lãng và chia trí bởi những đường
áo rách, bởi những chén sữa sáng chiều cho chú mèo, bởi những bó cỏ khô cho
chú bò. Tất cả những điều đó, cô gái dưới túp lều tranh ở phía xa xa đã làm hộ
chàng.

Tháng năm trôi qua, vào một buổi sáng, người trong thôn làng giật mình khám
phá ra tăng sĩ không còn ngồi dưới gốc cây đa nữa.

-Ủa, tăng sĩ đi đâu rồi?

-Chắc là ông ấy lại cất bước lên đường viễn du với lời kinh bình bát của ông ấy
rồi.

Trong khi người ta đang bàn tán về tăng sĩ bình bát, có người chỉ vào túp lều
tranh,

- Trời ơi! Tưởng ổng đi đâu. Nhìn kìa!

Mọi người quay về hướng tay chỉ, ai cũng nhận ra tăng sĩ bình bát vừa từ trong
túp lều tranh mở cửa đi ra. Chàng không còn mặc áo tăng sĩ nữa, nhưng trên
người là một bộ áo bà ba màu nâu, cổ chàng quấn khăn rằn ri. Người đàn ông
có một thời sống đời tăng sĩ bình bát mỉm cười, giơ tay chào mọi người trong
thôn. Sau đó, chàng chậm rãi đi lại phía con bò, mở dây cột, rồi chậm rãi dẫn
chú bò sữa đi ra ngoài cánh đồng.

Tỉnh thức? Khó đấy!

Suy Niệm

Cuộc đời là một giây chuỗi dài của những giây phút tỉnh thức nhận chân ra
hạnh phúc bây giờ.

Nghiệp

Nghiệp được dịch từ chữ phạn "Karma", nghĩa là hành động lặp đi lặp lại nhiều
lần thành thói quen. Thói quen đó gọi là nghiệp.
Ví dụ giáo viên dạy học, dạy từ năm này qua năm khác, được gọi là nghề giáo
và những người làm cùng nghề thì gọi là bạn đồng nghiệp. Nghiệp là việc làm
của chính mình, mình làm chủ và tạo tác thàng thói quen rồi cũng chính mình
thừa nhận hậu quả do nó đưa tới. Kinh Phật dạy: "Chúng sinh làm chủ tạo
nghiệp và thừa kế cái nghiệp mà mình đã tạo." Không do ai khác ngoài mình.

Chúng ta từ thuở nhỏ sinh lớn dần cho tới chín mười tuổi đâu ai có mắc bệnh
nghiện rượu, ghiền trầu hay ghiền thuốc... Thế mà từ 15-16 tuổi cho đến già do
sự tập tành thành thói quen, người thì nghiện rượu, người thì nghiện thuốc, kẻ
thì ghiền á phiện...

Đứa trẻ 15-16 tuổi thấy người lớn cầm thuốc hút nhả khói phì phà tưởng đó là
oai là sang nên bắt chước hút, thành thói quen rồi ghiền thuốc. Lúc mới tập hút
thì mình làm chủ, thích hút thì hút, không thích hút thì thôi, nhưng hút nhiều
lần dần dần thành thói quen, thiếu thuốc thì khó chịu, ngáp, buồn, phải đi mua
về hút. Vậy khi đã nghiện rồi thì không còn làm chủ nó nữa mà nó làm chủ
ngược lại mình, sai sử mình làm theo thói quen ưa thích đó. Vậy, nghiệp là cái
chúng ta tự tạo, chúng ta làm chủ tạo thành thói quen, khi thói quen thuần thục
thì nó làm chủ dẫn dắt sai sử chúng ta.

Nếu chúng ta tập thói quen làm thiện thì được dẫn dắt tiếp tục làm việc thiện,
nếu chúng ta tập thói quen làm việc bất thiện thì bị dẫn dắt tiếp tục làm việc bất
thiện. Chẳng hạn, người mỗi chiều đi chùa, tụng kinh lâu dần thành thói quen,
một hôm tới giờ tụng kinh không đi cảm thấy thiếu, thấy buồn, có một động lực
thôi thúc bắt phải đi chùa tụng kinh.
Còn người khác, mỗi chiều đi quán uống rượu. lâu ngày thành thói quen nên
ghiền, tới cử đi uống rượu, không đi thì cảm thấy bứt rứt khó chịu, ngáp dài, có
một ma lực cứ thôi thúc sai khiến tới quán để uống rượu. Người đi chùa tụng
kinh tập thành thói quen đó là nghiệp thiện, đưa tới sự an vui lợi ích cho bản
thân mình. Người đi quán uống rượu tập thành là nghiệp ác, đưa tới nghèo
thiếu, bệnh hoạn kém trí tuệ. Vậy, nghiệp phát xuất từ đâu? Nếu thân tạo tác
thiện đó là nghiệp thiện của thân, thân tạo ác đó là nghiệp ác của thân. Miệng
nói điều lành là nghiệp thiện của miệng, miệng nói lời hung dữ là nghiệp ác của
miệng. Ý nghĩ tốt là thiện nghiệp của ý, ý nghĩ xấu là nghiệp ác của ý. Đó là sự
xuất phát từ thân khẩu ý. Như vậy, tạo nghiệp chủ động là mình, hạnh phúc hay
đau khổ do mình chủ động trọn vẹn, chớ không do ai khác, ngay Phật trời cũng
không dự phần trong đó. Như vậy, chúng ta là chủ tự chọn lấy hướng đi cho
chúng ta mai sau, nếu khôn ngoan đã chọn cho mình một hướng đi tốt đẹp thì
cứ theo hướng đó mà đi, chớ có thay đổi. Cũng như các học sinh sau khi đã
chọn nghề và tốt nghiệp ra trường, phải theo cái nghề mình đã chọn mà sống,
sướng hay khổ là tùy theo cái nghề của mình chọn.

Người đời theo thói tục nông nỗi, chỉ cùng tranh chấp những việc không đâu.
Sống giữa cảnh ác, sự khổ kịch liệt, con người lại siêng đem thân lo liệu để tự
chu cấp. Không luận kẻ trên người dưới, kẻ nghèo người giàu, từ nhỏ đến lớn,
từ gái đến trai, cùng nhau chỉ biết lo kiếm tiền của. Dù có hay không, cũng
đồng một niệm ưu tư sầu khổ, chất chứa lo nghĩ mãi miết lâu ngày, bị tâm sai
sử không lúc nào yên. Có ruộng lo ruộng, có nhà lo nhà, trâu ngựa gia súc, của
tiền tôi tớ, y phục, uống ăn, vật này món nọ... Lại cũng cùng nhau khổ tâm lo
lắng, tư lự chất chồng, nghĩ ngợi bông lông, sầu ưu sợ sệt.

Chợt đâu vô thường xảy đến, nào là con hư phá sản, hoặc là chủ nợ phanh phui,
lửa cháy, nước trôi, giặc giã cướp đoạt, sự nghiệp tiêu ma, của cải tan nát, gặp
lúc như thế lòng dạ xốn xang, phần thì lo buồn, phần thì căm tức không lúc nào
nguôi, kết hận trong lòng chẳng lìa lo khổ, tâm tình giữ chặt, buông bỏ không
xong.

Hoặc ăn ngồi không phá nát gia nghiệp, thân hoại mạng chung bỏ lại tất cả ra
đi một mình. Từ người quyến quý đến kẻ phú hào, ai ai cũng có những hoạn
nạn ấy, lo sợ muôn bề, cần khổ biết bao. Bởi vậy kết thành các chứng lạnh
nóng, tự mình đau đớn sống trong cảnh ấy.

Người nghèo hèn kém sự khổ càng hơn, khốn đốn cả đời, túng thiếu quanh
năm, không ruộng ước ruộng, không nhà ước nhà, trâu ngựa gia súc, tôi tớ, tiền
của, áo cơm mọi vật, lo nghĩ ước mong, muốn sao cho có. Lo được thứ này,
thấy thiếu thứ khác, có đó thiếu đó, muốn bằng như người nhưng nào dễ được,
vừa có sơ sài lại tiêu tan hết, thế rồi khổ sở lo âu, nghĩ cách tìm cầu, mong cầu
không được, tư tưởng bâng quơ, thân tâm mệt nhọc, đứng ngồi chẳng yên, lo
nghĩ không thôi, đắng cay là thế. Vì vậy kết thành các chứng lạng nóng, phải
sống với cảnh bệnh hoạn đớn đau, kết thúc cuộc đời khi còn son trẻ.

Lúc còn khỏe mạnh chẳng khứng làm lành, tiến tu đạo đức, thác rồi một mình
đến chốn xa xăm, hoặc lên hoặc xuống, lành dữ đôi đường nào ai hay biết.

Người giữa thế gian, nếu quan hệ nhau trong tình tân thiết, giữa cha với con,
giữa anh với em, giữa vợ với chồng, hoặc giữa bà con nội ngoại với nhau, phải
nên kính mến đừng ganh ghét nhau. Kẻ có người không cùng nhau cảm thông,
cùng nhau san sẻ. Chớ vì của cải mà sanh tham tiếc. Lời nói, sắc mặt thường
nên vui hòa, tránh việc bất hòa chống cãi lẫn nhau.

Khi tâm hơn thua, có chỗ tức giận, thì mầm oán thù ngay đó phát sanh. Đời này
nuôi mối hận hờn ngấm ngầm, ganh ghét lẫn nhau, đời sau càng thêm sâu sắc
quyết liệt, đến nỗi trở thành mối đại oán thù.

Tại sao như vậy?

- Bởi vì sự đời day dưa không dứt. Những điều tai vạ vẫn tái diễn luôn, tuy
chẳng tức thời phá gấp lẫn nhau, nhưng do ngậm độc chứa hờn thắt chặt tinh
thần, tự nhiên khắc ghi vào nơi tiềm thức, chẳng thể bỏ lìa, khi sanh đời khác,
đối đầu gặp nhau, đôi bên trở lai báo cừu phục hận.

Sống giữa thế gian, còn vướng trong vòng yêu thương ham muốn, con người
sống chết một mình qua lại một thân, cảnh khổ cảnh vui tự mình đi đến, tự
mình đương đầu, không người thay thế. Nghiệp lành, nghiệp dữ biến hóa vô
cùng, thì tai ương, phước lộc theo đó thay đổi. Những nghiệp dự trữ từ bao kiếp
trước, lúc nào cũng chờ đưa người một mình đến chốn xa xăm, không ai thấy
biết.

Nghiệp lành nghiệp dữ tự nhiên đuổi theo, dẫn dắt thần thức đến chỗ thác sinh,
mịt mịt mù mù, một bề tăm tối, ly biệt lâu dài, mỗi người một ngã mong gì gặp
lại, khó biết chừng nào!

Ngày nay cùng nhau gặp gỡ, sao không bỏ bớt các việc, giữa lúc sức khỏe dồi
dào, mỗi người gắng tu thiện nghiệp, tinh tấn độ mình độ người, để được sống
lâu vô cực, không tìm đến đạo còn đợi chờ gì, còn thú vui gì?

Người đời nghi nan nhiều nỗi, chẳng tin làm lành được lành, chẳng tin tu hành
được đạo, chẳng tin người chết lại sanh, chẳng tin bố thí được phước, điều lành
điều dữ thảy đều chẳng tin, cho rằng không có lẽ ấy.

Những người như vậy chỉ ngồi một nơi, tự theo tà kiến, còn bắt chước nhau, kẻ
trước người sau, cha truyền con nối. Từ đời tổ phụ vốn chẳng làm lành, chẳng
biết đạo đức. Tinh thần tối tăm, ý chí bít lấp, chẳng thể nhận ra nguồn gốc sống
chết, chẳng biết phân biệt nẻo dữ đường lành, cũng chẳng có người chỉ nói cho
nghe họa phước, lành dữ, đua nhau tạo ác không sợ điều gì. Bởi vậy con đường
sống chết cứ mãi xoay vần tiếp nối, nào cha khóc con, nào con khóc cha, anh
em, vợ chồng khóc kể lẫn nhau, đảo điên một bề từ trên xuống dưới. Vô thường
là gốc, tất cả đều bị lùi về quá khứ, chẳng thể bảo tồn (sự thể là vậy), nhưng dù
dạy nói, mở lối dắt dẫn cũng ít người tin, do đó sống chết trôi chảy mênh mang,
không hề dừng nghỉ.

Những người như thế mù mờ chống chế, chẳng tin kinh giáo, chẳng biết nghĩ
xa, chỉ muốn khoái ỵ Si mê theo ái dục, chẳng hiểu thấu đạo đức, chìm lĩm
trong giận hờn, ham hố theo tài sắc, ngồi dững chẳng được gì, chịu khổ nơi
đường ác, sống chết mãi không thôi, nghĩ thật đáng thương xót!

Đến như những người xuất gia học đạo, gặp khi nhà cửa hư hao, hoặc khi cha
con, anh em vợ chồng ở vào cảng huống kẻ còn người mất, lúc ấy trở lại
thương nhớ không nguôi., luyến lưu ân ái, lo nghĩ buộc ràng, tim đau gan xót,
đắp đổi nhớ nhung, quanh năm suốt tháng, giải tỏa không xong. Dầu nghe đạo
lý, mà tâm không chút sáng tỏ mở mang, nghĩ ngợi ân nghĩa không ngoài tình
dục. Sở dĩ như vậy, là vì si mê che lấp, mờ tối chẳng thông, chẳng siêng thẩm
xét suy tìm phương châm chỉnh đốn thâm tâm, tấn tu đạo hạnh để dứt thế sư.
lay hoay ráo riết mà hết cuộc đời, đến lúc cuối cùng chẳng thể chứng đạo, khi
đó có thể kêu nài được chăng?

Tóm lại những thứ rối rắm thô hèn như thế, đếu do tham luyến ái dục làm gốc.
Phần nhiều những người bỏ tục xuất gia vẫn bị mê hoặc, cho nên ít người ngộ
đạo chứng quả. Dóng đời vội vã, không thể ỷ lại trông chờ.

Tôn ty nam nữ, kẻ trên người dưới, kẻ nghèo người giàu, kẻ sang người hèn,
dầu siêng chịu khổ, cần kíp làm việc, ai cũng ôm lòng giết hại cây độc, hơi độc
mịt mù. Vọng thức nổi dậy hành động ngang tàng, trái nghịch trời đất, chẳng
thuận lòng người. Bản tánh tự nhiên vốn không phải ác, vì theo người trước tạo
các tội dữ, tuổi thọ chưa dứt mà mạng đã tuyệt, chết đọa đường ác, nhiều kiếp
khổ sầu, xoay vần chịu khổ đến ngàn muôn kiếp không hẹn kỳ ra, thật đáng
thương xót, nói không thể cùng!

(Kinh Phật thuyết Vô Lượng Thọ Phật)

Những tờ 500 đồng của mẹ

Lúc tôi còn nhỏ, đi học sáng nào mẹ cũng mua cho 500 đồng xôi để ăn sáng,
còn mẹ chỉ uống căng một bụng nước rồi vội vã gánh hàng đi bán rong. Ăn xôi
hoài tôi chán, phụng phịu không chịu ăn nữa. Mẹ hứa hẹn sẽ đổi món ăn khác
cho tôi. Sáng sớm hôm sau tôi ngửi thấy mùi thơm từ trong bếp. Tôi cằn nhằn
mẹ nhưng vẫn bưng chén cơm ăn ngon lành.

Kể từ đó, ngày nào món ăn sáng của tôi không cơm chiên cũng là vắt xôi nhỏ.
Thấy đám bạn đi học ăn đủ thứ quà vặt tôi rất thèm, đòi mẹ cho tiền để vào
trường mua thức ăn như chúng bạn. Mẹ chỉ phát cho tôi mỗi sáng 500 đồng.
Tôi vô tư không biết mẹ kiếm những đồng 500 ấy khó nhọc như thế nào, mẹ
không dám mua một vắt xôi cho riêng mình mà nhường cả cho tôi.

Mẹ ki cóp từng tờ 500 đồng để nuôi gia đình từ gánh hàng rong nặng trĩu. Tôi
lớn lên một chút, biết đi bỏ mối bánh mì, xách thùng yaourt ra ngồi ở cổng
trường, góp nhặt từng tờ 500 đồng mang về cho mẹ.

Tôi đã biết khóc ròng những hôm trời mưa bán ế, biết tiếc đứt ruột những tờ
500 đồng bị rách do vội vã lấy nhầm. Ngày còn bé, tôi chỉ ao ước có nhiều tiền
để ăn sáng với những thức ăn ngon như chúng bạn, có áo quần đẹp như chúng
bạn.
Bây giờ kiếm được tiền nhưng 500 đồng tôi cũng không dám xài phí. Tôi
phung phí sao được khi mẹ còn rong ruổi ngoài đường giữa trưa nắng như đổ
lửa với gánh hàng nặng trĩu trên vai. Nhiều tờ 500 đồng góp lại mẹ sẽ được về
nhà sớm hơn, con đường mẹ đi sẽ ngắn hơn...

Mẹ nuôi mấy chị em tôi vào đại học, nên danh nên phận bằng những tờ 500
đồng nhọc nhằn, chắt chiu. Đi học xa, mỗi lần nhận giấy báo ra bưu điện lĩnh
tiền, tôi hình dung dáng mẹ gầy gò, ngồi đếm từng tờ 500 đồng góp nhặt gửi
cho con mà trào nước mắt.

Bây giờ khi con cái đã lớn khôn, mẹ tôi cũng đã già. Không còn gánh nổi gánh
hàng rong, mẹ lại mở quán bên đường. Tôi năn nỉ mẹ nghỉ ngơi, mẹ bảo mẹ
làm việc quen rồi, ngồi không sẽ buồn. Mẹ còn nói: “Mẹ ki cóp tiếp những
đồng 500 cho đời sau của con”. Tôi trào nước mắt.

Tôi quyết tâm thay đổi cuộc đời mình và cho mẹ bớt khổ. Tôi dành dụm được
chút vốn, mở cửa hàng kinh doanh. Mẹ tôi lo lắng gọi điện lên: “Làm ăn cẩn
thận nghe con, đừng ham lợi lớn, ki cóp từng đồng 500 mà chắc ăn”.

Tôi cười xòa, tôi kinh doanh lớn mà mẹ làm như bán quán cóc của mẹ không
bằng. Nhưng rồi tôi bị lừa một cú hầu như mất hết tất cả, tôi suy sụp hẳn, muốn
buông xuôi. Những đồng tiền mồ hôi nước mắt dành dụm bao ngày bỗng chốc
tiêu tan. Giữa lúc ấy, mẹ gửi người quen mang lên cho tôi 1 triệu đồng: “Thất
bại rồi sẽ thành công con à! Con hãy bắt đầu lại lần nữa”.

Tôi mở túi tiền của mẹ, toàn những tờ tiền lẻ mẹ góp nhặt từng ngày. Mẹ luôn
bắt đầu từ những tờ tiền lẻ 500 đồng, tại sao tôi không thể, trong khi bây giờ tôi
có cả triệu đồng góp nhặt của mẹ và còn kinh nghiệm, kiến thức và sức trẻ
trong tôi?

Tôi đã đứng lên và làm lại từ đầu. Mỗi lần gặp khó khăn, nản chí, tôi lại nhớ
đến mẹ, đến những tờ 500 đồng của mẹ. Mẹ luôn gửi thư động viên tôi. Bây
giờ tôi đã có một cửa hàng điện máy khang trang, việc kinh doanh tiến triển tốt.

Trong quyển nhật ký của mình, tôi ép một tờ 500 đồng kỷ niệm của mẹ để nhớ
lời mẹ dạy: “Hãy luôn bắt đầu cuộc sống từ những tờ 500 đồng. Nếu cố gắng
con sẽ có tất cả”.

NGUYỄN THỊ THU NGA (Phú Nhuận, TP.HCM)

Bài đoạt giải cuộc thi


Những câu chuyện làm thay đổi cuộc sống (do Tuổi Trẻ và Pantene tổ chức)
Thuật xem tướng

Nước Sở có người xem tướng giỏi, nói câu nào trúng câu ấỵ Trong nước xa gần
đâu cũng biết tiếng.

Vua Trang Vương thấy thế, vời lại hỏi: “Nhà ngươi dùng thuật gì mà xem
tướng giỏi như thế”?

Người xem tướng thưa rằng: “Thần không có thuật gì lạ cả. Thần chỉ xem bạn
của người ta mà biết đươc người ta hay, hay dở. Như thần xem cho thường dân,
mà thấy chơi với những bạn hiếu, đễ, thuần, cẩn biết giữ phép nước, thì thần
đoán người dân ấy là người hay, thân tất một ngày một vẻ vang, nhà tất một
ngày một thịnh vượng.
- Như thần xem cho quan lại mà thấy chơi với những bạn thành, tín, có phẩm
hạnh, thích điều phải thì thần đoán cho ông quan ấy là người tốt, làm quan tất
mỗi ngày một cao thăng, giúp vua tất mỗi ngày một ích lợi - Như thần xem cho
vua chúa, mà thấy quan gần có lắm người hiền, quan xa có lắm người trung, lúc
có lỗi, nhiều người can ngăn, thì thần đoán là ông vua giỏi, vua tất mỗi ngày
một tôn trọng, nước tất mỗi ngày một trì yên, thiên hạ tất mỗi ngày một qui
phục... Thần quả không có thuật gì lạ, chỉ xem người mà biết được người hay,
hay dở ”.

Vua Trang Vương cho là phảị Bấy giờ kíp thu dùng những người tài giỏi, sau
nước Sở thành cường thịnh nhất đời Chiến Quốc.

(Lã Thị Xuân Thu)


Nội lực & nghịch cảnh

Hoạn nạn nung nấu tâm can

“Có con chim hằng ngày nương náu nơi cành khô của một cây đại cổ thụ giữa
cánh rừng hoang.Ngày kia có trận cuồng phong làm bật gốc của cây đại thụ,
bắt buộc con chim đáng thương kia vỗ cánh ngàn dặm đi tìm nơi trú ẩn
khác.Cuối cùng, nó bay đến một cánh rừng khác, với những cây cối nặng trĩu
hoa trái….”

Một đời sống kỷ luật, với những đòi hỏi nơi bản thân và việc đương đầu với
nghịch cảnh giúp chúng ta cố gắng. Thêm vào đó, chúng ta sẽ có thêm sức
mạnh nếu biết tận dụng khả năng sẵn có, và cả những tiềm năng chưa được
khai thác để có thể vượt qua khó khăn và nghịch cảnh – chính khi cố gắng,
xoay xở để vượt qua, mà làm bật lên sức mạnh tự bản thân, đó chính là nội lực.
•Nội lực là sức mạnh bên trong mà mỗi chúng ta cần có để có thể đảm nhận
cuộc đời mình cách thành công .
•Nội lực cũng có thể ví như khung sắt bên trong của những cây cột, chính nhờ
khung sắt này đã giữ cho toà nhà cuộc đời chúng ta đứng vững không sụp đỗ.
•Nội lực là chất liệu giữ cho cuộc đời mình không nghiêng ngữa, trước những
bảo táp cuộc đời
•Nội lực chính là sức mạnh riêng để chúng ta có thể sống độc lập, trong hành vi
cũng như trong suy nghĩ, không để mình bị ai hay những gì bên ngoài cuốn lôi.
•Nội lực là sức mạnh giúp ta giữ được nét độc đáo của riêng mình không đánh
mất căn tính của mình.
•Nội lực cũng chính là sức mạnh giúp chúng ta trỗi dậy sau những sai lầm hay
sự quật ngã của nghịch cảnh.
• Nội lực là sức mạnh tinh thần, nó mang nhiều dáng vẻ : nội lực chính là ý chí,
sự cương quyết, sức chịu đựng, lòng kiên trì , và tính tự chủ…

Nội lực là tài sản tốt nhất mà con người có thể tạo nên và chiếm hữu, không
phải chỉ vì nó bảo đảm cho thành công, nhưng bởi vì một người thiếu nội lực, ý
chí yếu ớt thì xem ra luôn gắn liền với thất bại…

Những người thiếu nội lực là những người bạc nhược, yếu mềm, thiếu năng lực
, nơi họ không có niềm vui, và cũng chẳng có sức sống, họ sống co cụm, sợ hãi
và chẳng dám làm gì. Một cuộc sống như thế thì buồn nản, đơn điệu và vô hồn,
có sống cũng như chết, vì thế mà chúng ta không lạ gì khi Shakespeare nhận
định rằng :

“Người bạc nhược chết nhiều lần trước khi chết”

Chuẩn bị hành trang cho mình vào đời với một sức mạnh tự thân, là bảo đảm
cho chúng ta một tương lai thành công hay ít nhất cũng tránh bớt những thất
bại. Nội lực là thứ tài sản không sợ bị ai cướp mất, như tiền bạc, địa vị và ngay
cả trí thông minh cũng không đánh đổi được nó. Trái lại, với nội lực, con người
có thể vượt khó trong học hành, trong nghề nghiệp, có thể tạo ra tiền, địa vị
cùng uy tín và sự nể trọng.

Làm sao để xây dựng nội lực ?

Trước hết xin các bạn trẻ đừng chấp nhận một đời sống quá dễ dãi, quá tiện
nghi, đầy đủ...

“Kẻ nào tấm thân được nhàn nhã thì ý chí thường yếu ớt, hẹp hòi” Gia Ngữ
Ai cũng có thể nhận thấy rằng “chính trong lửa mà sắt đã được tôi thành thép !”
Nghịch cảnh chính là thầy dạy, nhưng lắm lúc ta lại từ chối cơ hội lớn lên này.

“Sự thịnh vượng là một ông thầy lớn, nhưng nghịch cảnh lại là bậc thầy vĩ đại
hơn. Sự đầy đủ mơn trớn lòng ta, sự thiếu thốn tôi luyện và làm cho lòng ta
cứng cáp.” Hazlitt

Lưu Dung, một nhà giáo, nhà văn và cũng là họa sĩ, nhưng điều nỗi bật nơi ông
chính là sự quan tâm đến việc giáo dục con cái trong từng chi tiết rất cụ thể của
cuộc sống thường nhật, đã có lần ông khuyến dụ con mình. Chúng ta có thể học
thêm từ người cha này :

“Chưa phải là thành tựu trừ phi con có năng lực nội tại, tự mình kích phát chính
mình, một xung lực chủ động,
liên tục vượt qua chính mình và môt tinh thần kiên trì cho tới cùng, kiên định
không lay chuyển.”

Thật vậy, những gì bên ngoài chỉ là tạm bợ, không an toàn và không bảo đảm
cho cuộc sống của chúng ta có giá trị và an vui lâu dài.

Các bạn khi buớc vào đời chúng ta coi chừng bị "sập bẫy" , những cái bẫy rất
hợp với nhu cầu và ước vọng của con người, nhưng không khéo thì chúng ta có
thể tự vùi lấp đời mình đấy ! Cái bẩy của tiền bạc, của chỗ đứng ...

Tiền ? - Tiền có giá trị rất lớn cho cuộc sống , nhưng cũng là con dao hai lưỡi,
nó có thể tạo cho con người sự dễ dãi, ươn lười; có thể đưa chúng ta vào một
cuộc sống hưởng thụ, và rồi có thể sa đoạ, và sau đó là tai hoạ …!!! Nhất là
tiền có thể tạo quyền lực và sức mạnh, vì thế dễ làm cho con người trở nên tự
mãn, và cuộc đời xảy ra nhiều vấp váp cũng bởi cái tính khó trị này. Các bạn sẽ
nói : "đời không có tiền thì còn làm được gì ? Phải, nhưng cái bẩy của nó là :
để có tiền chúng ta rất nhiều khi phải hy sinh những giá trị khác...

Địa vị, chỗ đứng ? – Nhiều bạn trẻ đã cố gắng xây đắp và tìm cho mình một
chỗ đứng trong xã hội ; đó là bằng chứng của sự thành đạt. nhưng có ai dám
bảo đảm rằng một người sẽ ở mãi vị trí cao ? Danh vọng là một cạm bẩy lớn dễ
làm cho người ta bị tha hoá , biến chất đấy các bạn. Chỉ xin được nhắc các bạn
coi chừng thôi !!!

Trí thông minh ? – Đây là món quà rất quý giá của đời người. Tuy nhiên, nếu
có trí cao mà không tận dụng thì có cũng như không. Hoặc dùng trí cao trong
những việc làm bất chính thì lại càng nguy hiểm hơn. Biết bao đau thương và
hũy diệt bản thân cùng người khác đều do những người thông minh gây nên
như Hitler hay các tên trùm khủng bố, các nhóm làm ăn phi pháp, chèn ép đạp
đỗ người khác… Xã hội đầy dẫy những người thông minh hàng ngày ngồi “tán
dốc và lý sự” bên ly cà phê trong những quán cóc bên vệ đường ? Họ đã làm gì
cho bản thân và người khác ?

Nội lực ? - Phải, nội lực chính là gia sản mà chúng ta tự tạo cho mình. Nội lực
như kho tàng được chôn dấu, không bị ai đánh cắp, cũng có thể ví nội lực như
một cái phanh an toàn khi xe cuộc đời xuống dốc.
Nội lực là sức đẩy như nhiên liệu, làm cho xe cuộc đời lăn bánh.
Nội lực luôn giúp con người theo chiều hướng tích cực, vì thế, giá trị của mỗi
người tỉ lệ thuận với nội lực họ có.

Một người cha và đồng thời đã và đang là một vị đại sứ Việt nam ở nhiều nước
khác nhau , có lần tâm sự như sau :

“Khi tôi còn bé, nhà nghèo, mỗi sáng phải dậy thật sớm đi bộ bảy cây số với
một tấm ny lông quấn quanh khi trời mưa để đến trường. Những ngày mùa
đông rét lạnh ở miền Bắc thật khủng khiếp, đường xa, bụng đói, hằng ngày đi
ngang qua thúng xôi của bà bán hàng trên đường đi, tôi thấy thèm quá, mỗi lần
có ai đến mua, thúng xôi được giở lên, sao mùi thơm của nó tuyệt vời thế !!!.
Nhưng nhờ cuộc đời niên thiếu cực nhọc ấy, tôi đã được như ngày nay. Tôi
đang lo lắng cho hai con trai tôi, tôi sợ cuộc sống quá đầy đủ sẽ làm mất đi sức
mạnh vượt khó của chúng… “

Nỗi lo rất chính đáng của một người cha !


“Không có việc gì có giá trị ở đời mà không đổi bằng : thời gian, lao nhọc, bị
hiểu lầm, chịu đau khổ và quyết chí thành công…” V.Cousin

Điều quan trọng là chính ở sự quyết chí đó. Cũng như chú chim nhỏ kia. Nếu
không có trận cuồng phong làm bật gốc cây cổ thụ, mất đi nơi nương náu thì
chắc chú sẽ không chịu khó cất cánh bay xa, và rồi tìm được những kho tàng
mới, bầu trời mới !
Biết bao cuộc đời thành tựu và có giá trị khởi phát từ giới nghèo và giới trung
lưu, từ những người chẳng có chút vốn vật chất nào trừ cái vốn nội lực ?
Ngoài ra, niềm tin vào chính mình, vào người khác, vào cuộc đời hay vào
tương lai, là điều tối cần mà các bạn trẻ cần đầu tư để xây dựng. vì niềm tin
cũng chính là nội lực , là động lực vướn tới, để bắt tay, để lao vào những ước
mơ, những dự tính… Với niềm tin đó, người ta sẽ có hy vọng và không ngại
khó dấn bước vào đời với đôi tay giang rộng, để đón lấy cuộc sống với muôn
màu, muôn vẽ của nó

“Niềm tin tạo nên sự nỗ lực bất khuất. Đây chính là chìa khóa làm nên kỳ tích.”
Chung Ju Yung

Đã đến lúc chúng ta phải bỏ lối chờ đợi những quà tặng bất ngờ của trời đất,
mà phải tự mình làm nên cuộc sống vì :

“Cuộc sống của chúng ta đáng giá như thế nào đều do những cố gắng đã bỏ ra”
Francois Mauriac

Nhà trường đang giáo dục sự phân biệt giàu nghèo

- Không phải vậy sao, khi mà:


1/ Ngay từ tuổi nhà trẻ, trẻ con đã có thể cảm nhận sự khác biệt: trường “nhà
giàu” dành cho trẻ nhà giàu: bé nào cha mẹ quen biết ban giám hiệu, đóng góp,
quà cáp, “bồi dưỡng” tiền nhiều cho trường, cho các cô… thì trẻ nhà giàu được
cưng đặc biệt. Con nhà viên chức, thường dân có vào được trường “nhà giàu”
vì nằm trong tuyến, cha mẹ ắt cũng phải biết cố gắng “bồi dưỡng” cho cô,
nhưng khả năng “yếu” hơn phụ huynh nhà giàu, nên các cô cũng cười, nhưng
không tươi, ánh mắt không sáng như khi đón nhận tiền, quà của phụ huynh nhà
giàu!!!
Bởi vậy mà tình cảm của các cô thiên về trẻ nhà giàu nhiều hơn!
Lên mẫu giáo, trẻ đã có thể tự nhận thức rõ hơn được sự phân biệt của cô giáo
về giàu nghèo: cô hay gọi, hay khen trẻ nhà giàu… Trẻ nhà giàu hay được
“tuyển” vào những cuộc thi và được nhắc tên vào hàng “ưu tú” trong những
buổi họp phụ huynh, còn trẻ nhà nghèo… lắm khi nằm trong danh sách “bị
mắng vốn”! Trong cư xử của cô giáo đối với trẻ: cùng một lỗi, trẻ nhà giàu
được dỗ dành, trẻ nhà nghèo bị mắng, bị phạt…
2/ Tuổi tiểu học: cũng như thế, nhà giàu bỏ tiền ra nhiều, con nhà giàu được
trìu mến. Học sinh đi học thêm với thầy cô được điểm cao, đạt loại giỏi… con
nhà nghèo, học sinh không đi học thêm thì mấy khi được quan tâm… Những
trường điểm, trường chất lượng cao… đa phần con nhà giàu trái tuyến chiếm
chỗ - vì “chi phí” nặng, con nhà nghèo ít dám bon chen (nhờ quy định về tuyến
mà giàu nghèo đều có thể vào chung 1 trường) . Rồi thì cũng chính tiền bạc,
quà cáp… định hình những khen chê, những ấm nồng hay ghẻ lạnh…
Tiền bạc, quà cáp … định hình quyền thế: phụ huynh giàu thường được chỉ
định làm hội trưởng hội cha mẹ học sinh (nay là trưởng ban đại diện cha mẹ
học sinh), vì có thế, những người đó mới là “trợ thủ đắc lực “ cho ban giám
hiệu các trường trong việc móc túi phụ huynh: bắt đóng tiền quỹ trường, quỹ
lớp, tiền xây dựng (cho nên năm nào cũng xây xây sửa sửa, có nhiều trường…
cái vách tường mặt tiền còn tốt chán, đẹp chán… mà cứ đến hè là đập ra xây
sửa), tiền trang bị phòng học, tiền … đủ thứ…Con nhà giàu từ lớp một được
chỉ định làm lớp trưởng, lớp phó… (cán bộ lớp), rồi cứ thế mà các năm sau
được duy trì đề cử… Con nhà giàu làm cán bộ lớp có quyền “hét” bạn, thậm
chí đánh bạn, “tâu” chuyện gì cô thầy cũng nghe… con nhà nghèo đừng có mà
cãi…
Phụ huynh nhà nghèo biết thân, học sinh nhà nghèo cũng biết thân, dù cô giáo
có hỏi: “Có ai muốn tham gia không?” thì sự im lặng được hiểu là không có ý
kiến nào khác.
Vào những ngày lễ lạt, phụ huynh nhà giàu, con nhà giàu tha hồ tung tẩy tiền
quà cho thầy cô… tha hồ được đáp lại những nụ cười (không hẳn thầy cô nào
cũng bằng lòng nhận, cũng cười)… Phụ huynh nhà nghèo ngại gặp thầy cô,
ngại hỏi han… vì cho rằng mình không có quyền “làm phiền” thầy cô…Con
nhà nghèo thì ngại đến trường vào những ngày lễ… vì trên tay mình chẳng có
gì….
3/ Tuổi trung học cơ sở: ngoài tiền bạc, thân thế cũng có vai trò thấy rõ. Tuyển
sinh đầu cấp, lớp 6, là một cuộc đua ngấm ngầm cho những ai muốn vào các
trường có tiếng. Qua bậc tiểu học, có những trẻ biết rằng mình chẳng giỏi đâu,
nhưng nhờ tiền bạc, thế lực, sự quen biết của cha mẹ… mà cứ “giỏi” và lên lớp
trơn tru, học bạ đẹp tuyệt với với điểm 10 ở hai môn Văn Toán . Đến khi
nghiễm nhiên vào lớp 6 một trường danh tiếng, thì nó biết rằng cha mẹ nó chạy
chọt trót lọt. Đứa trẻ đó có thể vênh váo vì biết giá trị của đồng tiền và thế lực
to, mạnh như thế nào!
Rồi cũng những “bổn cũ soạn lại”: thầy cô chủ nhiệm xem lý lịch để “chọn mặt
gửi vàng”… rồi con ông bà hội phụ huynh trường hay chi hội phụ huynh lớp
(gọi theo tên cũ) tiếp tục được ưu ái; rồi nhờ tiền bạc, nhờ cái thế COCC, nhờ
quen thân với ban giám hiệu, nhờ đi học thêm… mà khen chê mặn, ngọt, nhạt,
ấm, lạnh… khác nhau…
Học sinh, nhiều khi đã học cùng nhau suốt từ thời nhà trẻ, mẫu giáo, tiểu học,
nên biết rõ về nhau, cũng như về cha mẹ của nhau… nên nếu trẻ nhà nghèo đã
từng biết đến những bất công, thì nay càng thấm thía: chẳng hạn có thể gặp
trường hợp hai bài như nhau, nhưng 1 bài điểm thấp, 1 bài điểm cao… không
hiểu vì sao (lý bề ngoài là vậy, nhưng lý bề trong là hiểu thấu: điểm thấp vì
không đi học thêm)…
Nhiều thầy cô (không phải tất cả) vung tay cho điểm thấp đối với học sinh
không đi học thêm với mình, không ngần ngại trù dập, mạt sát bằng những lời
thậm tệ đối với học sinh khó ưa … Lý do gì… học sinh đều có thể biết…
nhưng không dám nói… chỉ biết cúi đầu nín lặng, nước mắt có thể nuốt vào
hay ứa ra… Học sinh nói với cha mẹ hay nói với nhau cái nguyên lý của thầy
cô: “ mày không biết đến tao, tao không biết đến mày; mày không cần tao, tao
không cần mày”. Phải phô diễn bằng những từ ngữ như vậy mới thấy hết cái
phũ phàng, đắng cay, chua chát… mà trẻ đã trải qua, thấu hiểu từ trong nhà
trường…
Đừng tưởng học sinh nhà giàu (dốt nát, chạy chọt – nhà giàu chân chính không
nằm trong diện tiêu cực) tôn trọng thầy cô nhé: nó coi thường ra mặt …
Tôi cũng chỉ muốn dừng vấn đề ở lứa tuổi trung học cơ sở mà thôi, vì tính từ
lúc đi nhà trẻ là 1 tuổi, cho đến lúc rời trường trung học cơsở, trẻ đã có 15 năm
được (bị) dạy trong trường. Nhà trường, thầy cô đã góp phần định nên nhân
cách học sinh: học sinh trong nhà trường là “sản phẩm của giáo dục”: sau 15
năm, với lối dạy dỗ như trên, nhà trường có thực sự hài lòng về “sản phẩm” của
mình?
Tất nhiên, ai cũng biết, trẻ như thế nào còn là do gia đình. Mặc dù trẻ sớm sống
trong một môi trường đầy sự thật phũ phàng như thế, nhưng giáo dục gia đình
tốt, vững vàng, cộng thêm tấm gương sống tốt của cha mẹ, tinh thần đấu tranh
vượt khó của cha mẹ, sự gần gũi của cha mẹ cùng những lời phân tích phải trái
của người làm cha mẹ giúp trẻ rất nhiều trong việc cưỡng lại những sai trái, nỗi
buồn, sự mất niềm tin… để vượt lên những tiêu cực đó trong nhà trường. Giáo
dục gia đình có thể làm nền tảng cho bản lĩnh của con người tốt.
Nhà trường, trên lý thuyết, là cùng gia đình, xã hội giáo dục, đào tạo công dân
tốt.
Nhưng nhà trường, trên thực tế, có khi không làm đúng và trọn vẹn nhiệm vụ
của mình: lối giáo dục phân biệt giàu nghèo ít nhiều gây nên sự tàn nhẫn, tạo ra
những con người tàn nhẫn – lộ liễu hay ngấm ngầm … Người ta thường hay ví:
con trẻ, học trò là những trang giấy trắng. Tôi thấy giáo dục nhà trường một
phần đang vẽ - tô - gạch - xóa …lên trang giấy trắng đó. Nhưng khác trang giấy
trắng, nếu vẽ (bằng bút chì) … thì có thể xóa được (có khi không sạch, không
trả lại được tình trạng trắng tinh như lúc đầu), còn ... 15 năm giáo dục nhà
trường đã vẽ - tô- gạch - xóa …khắc sâu những gì trong con người của học sinh
… làm sao xóa được?
Tôi nói vấn đề trên ở góc độ tương đối, vì ở đâu cũng có con người tốt, trong
mỗi con người đều có phần tốt là gốc (“Nhân chi sơ, tính bản thiện”)…Con
người không phải là cái bị để ai muốn nhét cái gì thì nhét, con người có lý trí
soi sáng, có khả năng tự giáo dục … Và tôi luôn tin tưởng cái tốt thắng thế với
niềm lạc quan về xã hội ta đang lột xác, vươn mình lên tầm cao cùng thế giới..
Nhưng tôi cũng không ngần ngại cảnh báo: bởi vì không phải cái tốt tự nhiên
thắng thế, mà cái tốt chỉ thắng khi nó mạnh hơn cái xấu, nó trấn áp được cái
xấu…
VÂN TRINH

Con đường yêu thương

Một người kia rất nghèo và vẫn thường nghĩ mình là người nghèo khổ nhất trên
khắp mặt đất này. Thế rồi, một hôm ông ta lên đường và gặp một người hành
khất khác còn nghèo khổ hơn mình hơn nữa. Ông dừng lại chào hỏi và nói:
- Từ trước tới nay tôi vẫn tưởng mình là người nghèo khổ nhất trong thiên hạ,
thế mà hôm nay gặp anh tôi thấy anh còn nghèo hơn tôi nữa, vì đến cái nón che
nắng che mưa trên đầu anh cũng không có.
Người hành khất đáp:
- Này ông bạn ơi, xin ông đừng quên rằng mỗi người nghèo trên đường đi của
mình đều gặp thấy những người khác còn nghèo khổ hơn nữa. Đó là điều duy
nhất an ủi chúng ta hơn cả, bởi vì mình vẫn còn có thể cho đi người khác một
cái gì đó.
Nghe vậy, người ấy liền giơ tay lên đầu lấy mũ trao cho người nghèo không có
mũ. Dọc đường, người ấy lại gặp một người khác nghèo hơn nữa không có
manh áo che thân, và người ấy liền cởi áo mình ra trao cho người kia. Tiếp tục
con đường hành trình, người ấy lại gặp những người khác nghèo hơn nữa và
trao cho mỗi người một chút cái mình có. Sau cùng, người ấy chỉ còn đôi dép
trong chân và cảm thấy hài lòng sung sướng vì còn có thể tiếp tục bước đi.
Khi hoàn tất cuộc hành trình, người nghèo ấy thấy mình đến trước cửa thiên
đàng và nhận ra mình chỉ còn hai bàn chân đi đất, thân mình hoàn toàn ở trần.

Mẩu chuyện trên đây nói lên ý nghĩa sâu xa của tinh thần nghèo khó là gì. Thật
vậy, chúng ta thường nghe nói: “Không ai nghèo khó đến nỗi không có gì để
cho đi và cũng không ai giàu có đến nỗi không có thể lãnh nhận được gì thêm
nữa”.
Cái phải cho đi khó hơn cả là chính bản thân mình, khi nào chúng ta chưa biết
cho đi chính mình chúng ta vẫn chưa phải là người nghèo khó nhất. Cho đi
chính bản thân mình mới là điều kiện căn bản không thể thiếu sót để nhận lãnh
tất cả, tức là nhận lấy tình yêu và chọn con đường yêu thương.

Xây dựng một xã hội trung thực

Một xã hội, một đất nước thực sự tốt đẹp phải được xây dựng trên nền móng
của một xã hội trung thực. Chúng ta đừng mong xây dựng một xã hội dân chủ,
văn minh thực sự khi mà mỗi thành viên của nó không đặt vấn đề minh bạch và
trung thực lên trên hết.
Khi mà trong cuộc sống hàng ngày con người lại phải ranh ma, luồn lách để tồn
tại và phát triển; hiện tượng gian dối, giả tạo là phổ biến… thì ở đó, những mỹ
từ văn minh, dân chủ, công bằng… chỉ là sự “giả dối” cao siêu hơn mà thôi!
Xã hội tốt đẹp thực sự phải minh bạch từ cấp cao nhất xuống đến thứ dân, phải
tường minh từ pháp luật, đến các thiết chế văn hóa, tôn giáo, đạo đức của xã
hội. Trong xã hội trung thực, mọi người phải bình tĩnh đón nhận cả điều tốt và
thói xấu mà mình đang đối diện, thậm chí phải tôn trọng cả các quan điểm đối
lập với mình vì cuộc sống vốn là như vậy.
Trong xã hội trung thực ấy, người dân “được nói và dám nói” hết những suy
nghĩ, những điều tự thấy là bức xúc và không đồng tình về nhiều vấn đề trong
môi trường xã hội mà họ đang sống. Bản lĩnh của nhà cầm quyền là biết lắng
nghe và chấp nhận có chọn lọc những thông tin đa cực ấy để điều chỉnh chính
sách và hành vi quản lý xã hội của mình.
Một thể chế minh trị là ở đó giai cấp lãnh đạo biết tạo điều kiện thuận lợi và an
toàn cho những người “có quan điểm ngược lại” với quan điểm chính thống
của giai cấp cầm quyền. Các đời vua thịnh trị trước đây đã cho thấy rõ điều đó.
Một đất nước phát triển muốn ổn định, bền vững phải trừng trị nghiêm khắc
mọi sự gian dối, bất kể người đó là ai, vì gian dối chính là “bạn đồng hành” của
tham nhũng. Cần “hình sự hóa” tất cả mọi gian dối, từ 1 lời nói, một lời khai
hoặc 1 chữ ký của công dân. Chúng ta hãy xây dựng bằng được “nền tảng”
trung thực đầu tiên này đã, trước khi bàn đến “đạo” hoặc các mỹ từ xã hội học
khác.
Lê Huệ
Làm điều gì cũng cần có sự bắt đầu hay khởi đầu. Theo tác giả bài viết trên
đây, muốn xây dựng một xã hội văn minh, thật sự dân chủ và công bằng thì
trước hết hãy xây dựng một xã hội trung thực.
Ý tưởng đề xuất ấy bắt nguồn từ việc nhận xét cuộc sống hôm nay còn nhiều sự
giả dối, nói một đằng làm một nẻo hoặc thậm chí người ta chỉ cần nói đúng
đường lối, chính sách nhưng khi làm thì chỉ nhằm mục đích vụ lợi cá nhân. Mà
những người có thói quen gian dối như vậy lại rơi vào không ít người có chức
có quyền, nhiều nhất là ở cấp trung gian, chứ người dân thường, những người
lao động lại không có gì để vụ lợi và cũng không có thói quen ăn gian nói dối.
Tạo ra những thiết chế cần thiết để loại trừ mọi sự gian dối, xây dựng bằng
được cơ chế quản lý dân chủ, công khai, minh bạch từ trung ương đến cơ sở
chính là những việc làm cần thiết để xây dựng một xã hội trung thực.
Đầu tư cho tâm hồn

Đây là bài nói chuyện của Didi Sudesh về “sự giàu có nội tâm”, theo lời mời
của Trung tâm các giá trị cuộc sống ( 85 Phó Đức Chính, Q.Bình Thạnh,
TP.HCM) .
*Thưa bà, nội tâm là gì? Tâm hồn được hiểu như thế nào?
Bà Didi Sudesh: cơ thể tôi không biết cảm nhận vui buồn hân hoan, thất
vọng…mà chính là nội tâm. Cơ thể là chiếc xe, còn nội tâm là tài xế. Năng
lượng sống là chủ nhân cơ thể. Sự giàu có nội tâm là một năng lượng vô hình.
Khi ta đối mặt với một tình huống, nếu ta không có sự thu xếp, chuẩn bị trước,
ta sẽ hoang mang và đặt ra nhiều câu hỏi, lãng phí năng lượng, cạn kiệt “tài
khoản”đầu tư nội tâm. Bạn chi tiêu năng lượng quá nhiều vào bên ngoài để có
nhà cửa, địa vị, chức vụ…thì sẽ là không công bằng nếu bạn không chịu chi
tiêu năng lượng cho tâm hồn của bạn.
Nếu được hỏi “ bạn là ai?”, bạn trả lời thế nào: vị lãnh đạo, giám đốc, hay một
ông bố, người chồng…đó chỉ là những vai diễn của bạn. Còn thật ra, bạn chính
là những gì bạn nghĩ và đó là nội tâm. Nếu không biết mình là ai, bạn sẽ sử
dụng sai nguồn năng lượng sống: bình an trở thành bất an, tự trọng thành kiêu
căng, hài lòng thành tham lam, yêu thương thành sở hữu… “tài sản”của bạn bị
biến chất, gây ra thiệt hại cho bản thân và người khác.
*Nhiều người rất hăm hở đầu tư vào kinh doanh, vào thị trường chứng khoán…
nhưng đối với nội tâm, họ lại thờ ơ?
Bởi họ nhìn thấy rất rõ lợi nhuận của kinh doanh, nhưng không biết trong lòng
họ có tài sản lớn. Nếu họ làm cho khối tài sản này phát triển, họ sẽ bớt nhọc
nhằn tìm kiếm sự giàu có từ bên ngoài. Khi tôi nói chuyện với giới doanh nhân,
họ thường đặt câu hỏi : “Chúng tôi luôn bị căng thẳng và những lúc đó, không
thể nào giữ nỗi bình tĩnh”. Một người lính trước khi ra trận, phải tập bắn vào
bia, chứ không phải đợi đến lúc gặp kẻ thù mới tập bắn. Nếu bạn có sự đầu tư
kĩ lưỡng cho tâm hồn, bạn đâu phải khổ sở vì stress. Thành công thật sự luôn
liên quan đến sự giàu có nội tâm.
*Những điều gì được coi là của cải của nội tâm ?
Đó là kiến thức. Kiến thức tạo cho chúng ta sự hứng thú để ứng dụng những gì
ta biết vào cuộc sống. Mỗi người phải tự biến mình thành “một phòng thí
nghiệm” để tích lũy kinh nghiệm. Kinh nghiệm giúp bạn có năng lực, có kĩ
năng, có nhận thức và không quên kiến thức đã học. Đó là những đức hạnh ở
trong chúng ta . Tuy nhiên, chúng phải được đưa ra sử dụng trong mối quan hệ
xã hội, với thiên nhiên thì mới thành phẩm chất, nếu cứ giữ mãi trong lòng,
chúng cũng chẳng có giá trị gì cả . Bạn có tiền trong ngân hàng, nhưng có lúc
cần tiêu xài bạn không biết cách rút tiền ra, thì bạn vẫn là người nghèo. Một
người giàu có nội tâm là người có khả năng sử dụng bất cứ phẩm chất nào của
mình khi dùng đến. Chỉ có trong giao tiếp với người khác, bạn mới bộc lộ ra
nội tâm của mình tẻ nhạt, nghèo nàn, hay phong phú; bạn mới biết rõ mình yêu
thương , tôn trọng hợp tác… với người khác là chuyện dễ dàng hay khó
khăn.Bạn muốn hiểu sự phong phú của nội tâm, thì trước hết phải nhận thức
được nó, đào xuống tận sâu thẳm trong tâm hồn bạn, như một người đi khai
thác đá quý. Đá quý không bao giờ nằm ngay trên bề mặt mỏ. Những suy nghĩ
“lung tung lộn xộn, tiêu cực , lãng phí” sẽ tràn đến như nhũng lớp đất đá muốn
đè nát bạn. Tâm trí của ta luôn bận rộn, không thể không suy nghĩ, ngay cả lúc
bạn nghĩ là mình “không suy nghĩ gì hết” cũng là một suy nghĩ. Nếu bạn muốn
bình an, bởi đầu óc không chịu được sự trống rỗng, một tâm hồn có đầu tư là
một tâm hồn bình an.
*Nhiều người phụ nữ sẵn sàng ban phát tâm hồn giàu có cho người ngoài,
nhưng ở trong nhà, họ bị người thân làm cho bực bội đến kiệt sức. Họ nhận ra
người mình yêu thương mới làm cho mình đau khổ. Bà nghĩ sao?
Nhưng đừng bao giờ dạy người trong gia đình, vì người trong gia đình không
bao giờ chịu học từ một ngừoi trong gia đình. Nếu bạn cố dạy thì phải bằng tấm
gương, chứ không phải lời nói. Mình như thế nào, thành viên trong nhà biết
hết, hiểu hết rồi…bạn sẽ còn đau khổ khi còn kì vọng vào người thân, mong
đợi họ theo ý mình. Khi mọi người trong nhà nhìn ra thế mạnh, điểm tốt của
nhau, thì thái độ của mỗi người sẽ trở nên tích cực.
*Có không ít bà mẹ khăng khăng: “ Tôi phải lo đủ thứ: học phí cho con, giá cả
tăng, công việc nhà bề bộn, đâu có rảnh để làm giàu nội tâm, phải chờ cho con
tôi lớn đã”. Họ nói vậy có đúng không?
-Nếu không có sức mạnh nội tâm, bà mẹ luôn sống trong tâm trạng sợ hãi, và
cũng không giải quyết được gì. Tâm trí lo âu khiến họ không chắc chắn quyết
định của mình đúng hay sai, lại càng lo lắng hơn. Họ hay hỏi thời gian đâu vì
không biết rằng trong lúc nấu cơm, đi chợ, giặt đồ…họ vẫn tích lũy được cho
mình sự bình an và khám phá những giá trị của bản thân. Nếu họ căng thẳng,
mệt mỏi thì bữa cơm họ dọn lên cho gia đình cũng…mất hết dinh dưỡng.
*Người phụ nữ có chồng ngoại tình, có thể tha thứ nhưng không thể quên
được. Vì sao?
-Khi bạn có một vết thương trên thân xác, bạn nhẹ nhàng với nó hay cào cấu
cho nó lỡ loét ra? Bạn không thể chờ đến lúc kiếm cho mình một ông chồng
chung thủy thì mới yên tâm hưởng hạnh phúc. Hãy học cách chăm sóc vết
thương trong tâm hồn, nhỏ nhẹ với nó, như đối với vết thương thể xác. Nhiều
phụ nữ cảm thấy chịu đựng tích cực là khi bạn biết điểm yếu của ông chồng, và
coi đó là “bệnh”của ông ta.Để sau đó, bạn là một “bác sĩ”chữa lành cho ông ta.
Trường Sơn (thực hiện)

Những đôi dép chuối

Nguyên Hoàng
Tôi sống trong một căn nhà nhỏ, phía Đông giáp với biển. Quanh nhà tôi là một
rừng chuối xanh biếc màu lá. Trường cấp I cách nhà 20 cây số. Mỗi ngày, tôi
đều phải thức dậy từ tờ mờ sáng, đeo cái túi vải cũ Má khâu chéo qua vai, lầm
lũi bắt đầu chặng đường dài đi bộ của mình. Vừa đi, tôi vừa lẩm nhẩm học bài,
có khi hát hay kể chuyện một mình cho đỡ buồn, đỡ sợ. Đi miết rồi cũng quen,
cũng tới.

Nhưng khi tan học, chặng đường về thật khủng khiếp. Mặt trời lúc này đã lên
tới đỉnh sào và trảng cát trắng rộng mênh mông, mát lạnh lúc đi giờ đã trở
thành một cái chảo khổng lồ nóng rát. Để chạy được qua đó, chân tôi phải
phồng rộp lên , mỗi lần bàn chân chạm xuống mặt cát là mỗi lần muốn chảy
nước mắt, đau đớn tưởng kéo dài mãi không thôi.

Ước mơ đầu tiên trong đời, tôi dành mơ một đôi dép nhựa. Nhưng Má tôi
nghèo lắm, người không đủ tiền sắm dép cho tôi. Thay vào đó, người làm cho
tôi một đôi dép chuối. Đôi dép là hai miếng bẹ chuối còn xanh cắt vừa chân,
thêm sợi dây chuối khô chằng qua lại làm quai dép. Má dặn tôi bọc kín đôi dép
lại, buổi sáng đi qua trảng cát, bới cát dưới một bụi cỏ lên, vùi đôi dép ở dưới
để chúng khỏi khô vì nắng nóng. Trưa về, tôi bới dép lên mang, lúp xúp chạy
qua trảng cát. Bẹ chuối giúp chân tôi nguyên lành trên chảo cát nóng. Và sáng
nào Má cũng dậy sớm, cắt bẹ chuối tươi làm cho tôi một đôi dép như thế, nhựa
chuối chát nồng dính đầy vết trên tay Má.

Một ngày, trên đường về, tôi gặp một ông bố đi chân trần cõng đứa con gái nhỏ
băng qua trảng cát. Đứa con gái ríu rít kể chuyện, ông bố cũng tươi cười lắng
nghe, nhưng cái kiểu bước đi dường như muốn nhảy nhổm lên vì nóng của ông
chỉ có tôi hiểu: Nóng và rát chân quá. Bất giác, thay vì lẩm nhẩm hát một mình,
tôi tự hỏi rằng Má tôi có giống ông bố kia không, người chịu rất nhiều vất vả vì
tôi, nhưng lúc nào cũng tươi cười, dịu dàng với tôi. Sớm hôm sau, tôi thức dậy
sớm hơn nữa, phụ Má làm thêm hai đôi dép chuối. Khi đi qua trảng cát, tôi vùi
hai đôi dép sơ sơ để ai cũng nhìn thấy nó trồi lên. Lúc trở về, chợt thấy mừng
vì hai đôi dép đã không còn ở đó. Không biết những người dùng nó có cảm
thấy mát chân hơn không? Những ngày sau, cũng có khi vẫn còn ở đó hai hoặc
một đôi dép, nhưng những đứa nhỏ ở cách trường một trảng cát đã bắt đầu kể
cho nhau nghe về những đôi dép chuối, và rồi, ai cũng làm dép chuối để vượt
cát an toàn. Nhưng dù là ít hay nhiều người đi qua trảng cát đó, bạn tin không,
vẫn có những đôi dép dư được vùi sẵn để tặng cho những người xa lạ. Và bây
giờ, tôi vẫn tin rằng, dù tôi có một mình, dù tôi gặp khó khăn, ở đâu đó vẫn có
những đôi dép chuối của Má tôi hay của những người xa lạ tốt bụng, giúp tôi đi
những bước vữa chãi trong cuộc sống này.

Hãy suy nghĩ lớn hơn

The biggest men and women with the biggest ideas can be shot down by the
smallest men and women with the smallest minds. Think big anyway.
Người có ý tưởng lớn lao có thể bị đánh gục bởi những kẻ suy tính thấp hèn.
Nhưng dù sao đi nữa, hãy luôn nghĩ lớn
Thế giới cần lắm những con người vĩ đại với nhân cách lớn, độ lượng, tận tụy,
sống có nguyên tắc, những con người dám dấn thân theo đuổi những phương
thức hoàn toàn mới, biết trân trọng và nắm bắt cơ hội, những người có khả
năng nhìn thế giới khác hẳn so với hiện trạng của nó … Thế giới cũng rất cần
những cá nhân có khả năng đưa ra ý tưởng có tính đột phá, có thể tạo nên sự
khác biệt để đưa nhân loại tiến thêm những bước mới. Nhưng trớ trêu thay,
những con người có ước vọng mang lại một ngày mai tươi đẹp cho nhân loại
trở thành mối đe dọa và nỗi khiếp sợ đối với những kẻ tầm thường.

Những kẻ tầm thường ấy không hẳn là người xấu, cũng không hẳn là loại người
“cặn bã” cặn bã của xã hội, mà trái lại, họ có thể là những người có học thức,
có địa vị, có một cuộc sống ấm no, thậm chí có người còn được tuyên dương là
những công dân gương mẫu…Nhưng điểm hạn chế ở họ chính là một tầm nhìn
hạn hẹp, thiển cận. Đối với họ, cuộc sống chỉ là những gì xuất hiện trước mắt,
và họ hoàn toàn hài lòng với một cuộc sống như vậy. Chính vì thế mà họ không
hề muốn cuộc sống ấy bị thay đổi hay xáo trộn. Dưới cái nhìn của họ, sự thay
đổi chẳng hứa hẹn điều gì tốt đẹp cả. Tất cả những gì họ nhìn thấy chỉ là bản
thân, công việc và những mục tiêu mà họ đang cố gắng theo đuổi. Họ chỉ bám
vào sự việc dựa trên hiện tượng bên ngoài của nó mà không hề hiểu lý do vì
đâu nó trở nên như vậy. Họ cũng không muốn đề cập đến việc làm thế nào để
mọi thứ tiến triển tốt đẹp hơn, bởi theo họ thì được như hiện tại đã là quá đủ.

Với cái nhìn của một người tầm thường thì những hoài bão lớn chỉ là những ảo
mộng bất thường và những ai ước mơ theo đuổi chúng là những kẻ không có
đủ lý trí và sự sáng suốt để nhận ra điều đó. Người tầm thường hay nhìn nhận
và đánh giá sự việc dưới góc độ cá nhân. Họ luôn tin những gì tốt cho mình thì
cũng sẽ tốt cho gia đình và công việc của mình. Cuộc sống của một kẻ tầm
thường luôn bị chi phối bởi những ý muốn nhất thời cũng như những nhu cầu
và nỗi sợ cá nhân. Chính vì thế mà chúng ta có thể chắc chắn một điều rằng,
những con người tầm thường với suy nghĩ tầm thường sẽ không thể dẫn dắt
chúng ta vươn lên một tầm cao mới của thành công cũng như một cuộc sống
với chất lượng ngày càng cải thiện.

Đáng buồn là số lượng kẻ tầm thường bao giờ cũng nhiều gấp hàng trăm lần so
với những con người vĩ đại trên thế giới này. Họ hiện diện khắp mọi nơi, thuộc
mọi tầng lớp xã hội, mọi ngành nghề và họ có mặt trong cả những tổ chức
chính phủ lẫn tổ chức phi lợi nhuận. Dù ở đâu, làm gì đi nữa, họ cũng đều cố
hạ gục những vĩ nhân với những tư tưởng và ước mơ tầm cỡ chỉ để bảo vệ cho
quyền lợi cá nhân của họ mà thôi.

Điều trớ trêu là tất cả chúng ta, bao gồm cả những người tầm thường đó, cuối
cùng đều được hưởng lợi từ những ý tưởng lớn lao. Chúng ta đều có lợi khi các
khó khăn được giải quyết, sự bế tắc được khai thông, các sản phẩm mới ra đời,
và những phong cách sống mới được hình thành và phát triển.
Tất nhiên, ý tưởng càng lớn thì nguy cơ thất bại càng cao, và thất bại ấy nhất
định sẽ gây nên những hậu quả nghiêm trọng hơn bình thường rất nhiều. Có
thể, chúng sẽ vỡ tung như những bọt bong bóng xà phòng trước khi kịp mang
lại điều gì thật sự tốt đẹp cho cuộc sống. Nhưng có ai biết được việc mình làm
sẽ mang lại kết quả như thế nào, là thành công hay thất bại một khi chúng ta
không dám thực hiện? Chẳng có ý tưởng nào, dù lớn hay nhỏ, có thể hiện thực
hóa bằng một kiểu triển khai thiếu thiện chí, chần chừ và uể oải.

Những ý tưởng táo bạo, lớn lao luôn có một sức hút đối với những con người
sẵn sàng đón nhận thách thức, luôn khát khao học hỏi và nâng cao khả năng
của mình. Đơn giản vì những ý tưởng đó có thể tạo ra sự khác biệt, có thể cho
họ một lý do để hy vọng, một mục tiêu để phấn đấu. Còn những suy tính thấp
hèn quẩn quanh trong một vòng tròn nhỏ bé sẽ không thể khiến chúng ta cống
hiến hết mình, cũng không thể khơi nguồn và phát huy những khả năng tiềm
tàng vẫn còn ẩn chứa bên trong mỗi con người.

Một ý tưởng lớn – một ước mơ táo bạo – sẽ làm cho cuộc sống của bạn ý nghĩa
hơn. Nó sẽ vạch ra một hướng đi và đặt mục tiêu để bạn phấn đấu. Nếu việc
thực hiện những ý tưởng ấy bị “rơi” xuống đất, bạn chỉ cần nhặt nó lên, giũ
sạch bụi bẩn và cố gắng thử lại một lần nữa. Mỗi bước chân hướng về mục tiêu
thực hiện những giấc mơ đều ẩn chứa những ý nghĩ to lớn, mang lại cho chúng
ta niềm tin và hạnh phúc khi được góp mặt trên cõi đời này.

Cổng thiên đàng và địa ngục

Một võ sĩ Samurai có lần đến hỏi một nhà sư tu theo giáo phái Thiền:

– Thưa nhà sư, có thiên đàng không? Có địa ngục không? Nếu có thiên đàng,
địa ngục thì cổng vào ở đâu? Ở đâu tôi có thể bước vào?

Đấy là câu hỏi của một võ sĩ. Mà võ sĩ thì luôn đơn giản. Họ chỉ biết hai thứ:
cuộc sống và cái chết, ngoài ra, ho không cần thứ triết học nào khác. Võ sĩ này
chỉ đơn giản muốn biết cổng vào ở đâu để tránh địa ngục. Nhà sư cũng trả lời
theo lối đơn giản nhất để võ sĩ có thể hiểu được.

– Anh là ai? – nhà sư hỏi.

– Tôi là Samurai.

Samurai ở nước Nhật là một danh hiệu cao quý. Điều này có nghĩa là một
người lính hoàn hảo mà không bao giờ suy nghĩ về cuộc sống. Võ sĩ Samurai
nói: “Tôi là thủ lĩnh của Samurai. Nhật Hoàng cũng kính trọng tôi”. Nhà sư
mỉm cười trả lời:

– Anh mà là Samurai ư? Trông anh có vẻ như một kẻ hành khất!

Câu nói này động chạm đến lòng tự hào của Samurai. Người võ sĩ đã quên mất
rằng mình đi đến đây để làm gì, liền rút kiếm để giết chết nhà sư. Nhà sư cười
bảo:

– Đấy chính là cổng vào Địa ngục. Với kiếm trong tay, trong cơn giận dữ – anh
sẽ mở được nó.

Điều này thì võ sĩ có thể hiểu ra và nhận thức ngay được. Samurai đút kiếm vào
bao, còn nhà sư bảo:

– Còn đây là cổng vào Thiên đàng.

Thiên đàng và Địa ngục ở trong mỗi con người, và những cánh cổng – ở trong
mỗi con người. Nếu ta không nhận thức được – đấy là cổng vào địa ngục. Còn
nếu ta tỉnh táo và nhận thức được – đấy là cổng vào thiên đàng. Trí tuệ là thiên
đàng, trí tuệ là địa ngục và trí tuệ là phương tiện để trở thành địa ngục hoặc
thiên đàng. Người ta vẫn thường nghĩ rằng mọi thứ đều ở đâu đó bên ngoài
mình. Địa ngục và thiên đàng không phải ở bên kia thế giới, địa ngục và thiên
đàng ở đây, ngay lúc này. Những cánh cổng luôn luôn mở. Trong mọi khoảnh
khắc bất kỳ ta có thể tự lựa chọn giữa địa ngục và thiên đàng.
Bề dày cuộc đời

Một năm cũ đã trôi qua, cả thế giới đang háo hức chào đón một năm mới đến
gần.

Sáng nay, cuốn lịch mới đã được dán lên tường. Ta ngẫm nghĩ, bề dày một năm
dai dẳng sắp tới chưa bằng 10 cm?

Giả sử ta sống đến 100 tuổi. Một trăm năm xếp chồng lên nhau cũng chưa đầy
10m. Mà chiều dài của những con đường, của đất nước là bao nhiêu cây số?
Chu vi trái đất là bao nhiêu cây số? Cả vũ trụ bao la kia nữa..?

Nhưng có những cuộc đời đã mang về vũ trụ bao la dồn vào 10m ấy. Mỗi ngày
trôi qua là một ngày không vô vị, họ học hỏi, tìm tòi, khám phá. Suốt cuộc đời
mình, họ đã không lãng phí bất kỳ thời gian nào. Kiến thức của họ từ đó rộng
hơn, bao la hơn. Họ ngước tới những vì sao, hiểu rõ những thiên hà bất tận.

Ngược lại, có những cuộc đời đã biến 10m ấy trở thành một hạt bụi vô nghĩa.
Họ vẫn dậm chân tại chỗ trong khi người khác đã tiến lên xa lắm. Họ vẫn ngồi
đấy trong khi người khác đã biết đứng dậy. Suốt cuộc đời, họ vẫn không hiểu
được phần nào thế giới. Kiến thức của họ chỉ như một giọt nước so với cả đại
dương những gì họ phải biết.

Bạn ơi, chúng ta chỉ có 10m nhỏ nhoi ấy. 10m với duy nhất một lần đi qua thế
giới, một lần bạn sống trong cuộc đời với bề dày chỉ vỏn vẹn 10m. Mỗi một
ngày, khi đưa tay xé từng phiến lịch, là bạn đang thay đổi một phần của 10m
ấy. Đổi lấy gì? Tất cả chọn lựa nằm trong tay bạn đó.

Đừng để ngày hôm qua trở thành vô vị, ngày hôm nay kết thúc trong nhàm
chán và ngày mai vẫn bắt đầu như ngày hôm nay. Nếu biết chắt chiu và yêu
thương từng phiến lịch, là bạn đã bước đầu không muốn làm hạt bụi vô tri.

Về hưu... ở tuổi 20

Phía sau vẻ sôi động của thành thị, có bao nhiêu trí thức trẻ đang bức tử thời
gian sống của chính mình?

1. Số Một đi du học về. Đám phụ nữ trong viện, từ con gái Viện trưởng đến chị
bóc thư đều xao xác, anh ta đi xe bình thường, điện thoại cũng thường chỉ mỗi
laptop là xịn, nhưng quả quyết đó là một @ gần như hoàn hảo.

Số Một không thuộc diện du học vì trượt đại học trong nước nên đương nhiên
thông minh và cấp tiến. Nhưng, ố la la, trong một viện toàn là những thâm niên
lão làng mà một tay vừa trẻ tuổi, vừa ở Tây về, lại còn tỏ ra cấp tiến nữa thì rất
có thể ba lần mất điểm.

Này, cấp cho cậu chức phó phòng, nhé, khỏi mang tiếng chúng tớ không quan
tâm lớp trẻ. Ưu tiên phòng 4C (con cháu các cụ) buôn dưa lê hảo hạng. Nhưng
đề tài nghiên cứu thì nói trước cậu phải xếp hàng, mỗi năm toàn viện chỉ được
trên rót kinh phí cho vài cái. Về đây phải biết uống nước chè và xếp hàng.

Những đề án Số Một đưa lên đều được trang trọng buộc kỹ đặt trên nóc tủ. Số
Một cảm thấy thời gian vừa vô giá, vừa vô giá trị. Một tập tài liệu được chuyển
đến chậm vài phút làm anh giận dữ, nhưng cũng chính anh nhận ra cả tháng
mình chẳng có việc gì làm ở đây.
Giống như vô số những “@ gần như hoàn hảo” khác, Số Một rơi tõm vào thất
vọng. Từ chối hai công ty săn đầu người để trở về xây dựng đất nước là thế này
à?

Một thằng bạn gọi điện thoại đến cười khành khạch. Ông đang mặc áo trắng đi
giữa trời mưa đấy, hoặc là ông khổ sở giữ gìn, hoặc ông cứ để cho nó bẩn, còn
mình thì thưởng thức trời mưa. Anh hiểu. Nhưng anh không thể thưởng thức
nổi những bài phát biểu nhạt, những đề tài không hơn một luận văn tầm tầm
của SV mà tiêu tốn tiền tỷ của ngân sách, cũng không thể thưởng thức những
cuộc tán gẫu xuyên tường. Tóm lại là không thể xực những thứ thiếu văn minh
hoặc không đạt chuẩn, mặc dù biết rằng nếu chấp nhận nó sẽ sống dễ dàng hơn.

Những ngày cuối cùng họp bạn bè anh gặp lại tâm trạng của mình - của những
người “sống một nơi nhớ một nơi”. Một ông anh tiến sĩ ở Đức về lang thang đi
dịch thuê vì không xin được việc. Một bà chị học ở Harvard mở quán cà phê.

Số Một nghĩ đến cái viện nghiên cứu đầy ma lực bên kia đại dương nơi sẵn
sàng đón chào anh trở lại. Để chấm dứt những ngày về hưu leo lét.

2. Số Hai là sinh viên nhạc viện năm cuối. Nhà cực giàu. Chơi violon đủ để
đứng trong dàn nhạc. Nghĩ đến cả đời chìm khuất trong đám đông anh lại muốn
học kèn. Anh đã nghĩ suốt hai năm xem có nên bỏ tám năm violon để chuyển
sang học kèn lại từ đầu không, nhỡ mà vẫn đứng trong dàn nhạc thì sao. Bây
giờ vẫn còn trăn trở. Tuy chưa quyết định, nhưng vì nhà giàu nên số kèn của
anh thì sinh viên khoa kèn cũng phải nghiêng mình. Ban đêm không cần bật
điện nó vẫn hắt đủ ánh sáng để đọc sách.

Bố mẹ Số Hai có một cửa hiệu trên phố Hàng Gai trị giá khoảng nghìn cây
vàng. Lợi tức hàng tháng “bà bô” tự động cho người chuyển vào tài khoản của
hai anh em, thành ra anh thấy chuyện đi đánh đấm ở các quán bar nhạt hoét.

Ngày ngày Số Hai dính chặt ở cà phê Hàng Hành như là nô lệ của nó. Đó cũng
là thời điểm các quá cà phê, nhà hàng ở Hà Nội đầy nghẹt bọn 8X lẫn 7X.
Đừng tưởng ngồi quán toàn vô công rồi nghề. Khối con bộ trưởng thứ trưởng
học hành đàng hoàng nhưng vẫn thấy cuộc đời vô vị quá, vì chẳng biết làm ra
tiền để làm gì.

Có những buổi chiều mùa đông bầu trời màu xám và mưa không có thanh âm
quán cà phê rất đông mà vẫn im lặng. Như bị bốc ra khỏi đô thị. Số Hai không
buồn không vui ngồi ở café Con Ếch Xanh ở Hàng Hành nhìn sang bar Chú
Khỉ Con, Đếm những khách Tây xem menu dựng trước cửa rồi bỏ đi vì chê đắt
hoặc nhìn con chó tai cụp tai xoè đi tìm bạn dọc bức tường xây dở. 5 giờ chiều
mấy em vè vè Dylan đến trình diễn thời trang hè phố thì Số Hai đứng dậy trả
tiền. Bốn góc phòng các vest khác vẫn đang ngồi nhìn khói thuốc bay, đờ đẫn.
Vài năm nữa Số Hai sẽ chọn một em xinh tươi ngoan hiền làm vợ trong một cái
nhà 5 tầng có thang máy. Cuộc đời đã được lập trình có lẽ từ lúc Số Hai chưa ra
đời. Ngoại trừ không biết nên học kèn hay tiếp tục học violon anh chẳng có
điều gì để suy nghĩ. Khổ thế!

2. Số Ba là một phóng viên trong một tờ báo lớn. Chuyên viết những điều tử tế,
nhưng nghèo rớt mùng tơi, nhất là so với mấy tay ăn theo đề tài cướp giết hiếp.
Cứ ở đâu có máu đổ là bài của anh bị bật ra để lấy chỗ. Điều này lý giải vì sao
ở tòa soạn anh làm việc nghiêm túc nhất nhưng cũng là người ít hoàn thành
định mức nhất. Cuối tháng lĩnh lương bao giờ anh cũng được khuyến mại thêm
một cái nguýt của thủ quỹ. Bài đâu chả thấy cứ lĩnh tiền tì tì, ý chắc là thế!

Anh cảm thấy lạc lõng và đơn độc. Người có tài mà vẫn nghèo, có tài mà bị
bọn bất tài khinh như mẻ chứng tỏ xã hội vẫn còn quá nhiều người dốt! Anh kết
luận. Mà dốt gần gũi và điển hình nhất là sếp anh. Có lần anh định lên mạng
lập hẳn một cái forum mới dành riêng cho những người “ghét sếp”. Còn hiện
tại thì anh vẫn chờ thời. Ít nhất là một ông sếp mới. Một ông sếp có thể hiểu
được giá trị thực của những người giỏi. Tóm lại là để có một sự thay đổi anh
sẵn sàng chờ 5 năm 10 năm hoặc lâu hơn nữa.

Công bằng thì đôi khi trong cuộc họp anh định giơ tay định nói một điều gì đó
nhưng anh kịp dừng lại. Bởi vì dù sao anh cũng chỉ là một toa tàu ở giữa đoàn
tàu. Nếu chạy nhanh quá, người ngoài có cớ để so chiếu tất nhiên đầu tàu sẽ
không thích. Mà những toa cuối đang nhởn nhơ bỗng phải co cẳng chạy theo
cũng bực mình. Đó là chưa kể sự xô lệch do anh chạy không đúng tốc độ có thể
gây ra nguy hiểm cho bao nhiêu con người. Sự cố tàu Bắc – Nam 29 tiếng vừa
rồi là một ví dụ nhãn tiền đó.

Trong ba sáu cách tính toán, cách tốt nhất là không cộng tác với kẻ dốt. Thế là
công việc - niềm đam mê của anh bỗng chốc bị hạ bệ xuống thành một chiếc
cần câu cơm. Những cuồng nhiệt ham muốn của anh mủn ra. Bọn dốt nát
quanh anh là thủ phạm huỷ diệt năng lực sáng tạo, hủy diệt cuộc đời anh. Bây
giờ Số Ba vẫn cho là thế.

3. Số Bốn đi làm công sở. Đời công chức mà các em SV bạc mặt mơ hình dáng
thế này: Sáng trang điểm rồi úp khẩu trang vào mặt. Quá trình đi làm đến đoạn
tắc đường phải móc điện thoại ra nghe rồi nhìn đồng hồ nhăn mặt. Bận rộn như
thể công chức mà! Đến văn phòng 8 giờ lượn qua chỗ sếp ngầm điểm danh, bật
máy tính xem offline mess, đọc báo và giết chết buổi sáng bằng game Đế chế.
Thế nào cũng có mấy đứa mặt vàng choé trên YM. Cà phê? Ok chỗ cũ. Sau đó
là ăn trưa, tất nhiên. Bôi son dưỡng chống nẻ môi, sắp xếp lại tài liệu.

Có những tuần những tháng không có sự kiện bất thường nào lọt vào thời gian
biểu, một năm không có kế hoạch gì cả. Chán đọc chán hôn và cuối cùng sự
đều đặn làm tê liệt luôn cảm giác về sự nhàm chán. Mỗi ngày mong đến năm
giờ chiều mỗi tuần mong đến thứ sáu. Không phải để được xả hơi mà để được
sống thực cuộc sống của mình. Sự mẫn cán giả tạo làm người ta kiệt sức. Số
Bốn nghĩ cô được trả lương để chịu đựng. Tệ nhất là xung quanh chẳng ai cảm
thấy điều gì không bình thường.

Chỉ có hai lần Số Bốn cho là mình hơi dũng cảm. Lần thứ nhất dám mơ một
căn hộ trên tầng 21 khu Mỹ Đình giá 700 triệu đồng. Số Bốn sẽ mua những
chậu hoa nho nhỏ đủ màu sắc treo trên ban công. Nhưng hôm sau thì cô không
mơ nữa vì nhớ ra đi làm đã 8 năm, lương hợp đồng vẫn 1,2 triệu trừ mất
400.000 thuê nhà, 600.000 tiền ăn, 200.000 tiền cho 2 đám cưới. Tiền kem
đánh răng P/S, xà phòng Omo và băng vệ sinh Kotex vẫn mẹ gửi ở quê lên.

Lần dũng cảm thứ hai là ý định nhảy việc. Sang một công ty tư nhân để bị "bóc
lột” sức lao động và thấy mình còn có ý nghĩa. Nhưng nghĩ đến cái đận đi xin
việc mặt vàng ệch ra lại hãi.

Hôm nọ về quê Số Bốn buột miệng ao ước “Mẹ, bao giờ con 60 tuổi như mẹ
nhỉ?”. “?”. Để được về hưu thật, không phải giả vờ bận rộn”.

Bi kịch, là khi cả tuổi trẻ và cuộc sống đều không còn làm cho người ta ngây
ngất và muốn hành động nữa.

Sự sợ hãi

Tại sao chúng ta làm tất cả những việc này: tuân lệnh, theo sau, bắt chước?

Tại sao?

Tại vì từ sâu thẳm trong nội tâm, chúng ta sợ hãi, không tự tin. Chúng ta muốn
được ổn định, ổn định về tài chính, ổn định về đạo đức, chúng ta muốn được
chấp nhận, chúng ta muốn có một địa vị ổn định, chúng ta muốn sẽ không bao
giờ phải giáp mặt với chuyện phiền phức, với đau đớn, với khổ sở, chúng ta
muốn được che chở. Cho nên, sự sợ hãi, một cách có ý thức hoặc không, đã
làm cho chúng ta vâng lời bậc Thầy, người lãnh đạo, vị đạo sư, nhà cầm quyền.
Sự sợ hãi cũng khiến cho chúng ta tránh làm những việc có hại cho người khác,
vì sợ bị trừng phạt. Vì thế, đằng sau những hành động này, có ẩn chứa lòng
ham muốn sự an toàn, lòng ham muốn được bảo đảm.

Bởi vậy, nếu không xóa tan được sự sợ hãi, nếu không tự giải thoát ra khỏi sự
sợ hãi, chỉ vâng lời hoặc được vâng lời, thì chả có ý nghĩa là bao. Điều có ý
nghĩa là làm sao để hiểu được sự sợ hãi này một cách sâu sắc, thấy được sự sợ
hãi biểu lộ từ ngày này qua ngày khác, với những kiểu cách khác nhau. Chỉ khi
nào chúng ta thoát ly được khỏi sự sợ hãi, chúng ta mới có được cái phẩm chất
cao quý của sự thâm hiểu, cảm thông, không bị chi phối bởi những kinh
nghiệm và sự hiểu biết chồng chất. Chính đó là phẩm chất trong sạch ngoại
hạng trong công cuộc tìm về thực tại.

Cô gái thông minh

Ngày xưa có hai anh em, một người thì nghèo, một người thì giàu. Người em
nghèo đến cả cái bát ăn cơm, cái vá múc canh, cái chén uống nước cũng chẳng
có. Một lần, người anh giàu có đột nhiên đến nhà người em nghèo khổ, đưa cho
em một con bò sữa và nói:

- Chú hãy làm việc cho tôi ít nhiều, con bò sữa này sẽ là của chú!

Vì thế, người em nghèo đến làm việc cho người anh. Một thời gian sau, người
anh đòi lại con bò:

- Đưa con bò lại cho tôi!

Người em không đồng ý:


- Anh ơi, vì con bò này, em đã làm việc cho anh mà!

- Chú làm cho tôi những gì ? Thật không đáng kể ra ! Thế mà chú hãy xem, đây
là con bò như thế nào? Hãy trả lại bò cho tôi ! Hãy trả lại cho tôi!

Người em nghĩ: Không thể mất toi công sức được. Nói gì mình cũng không
bằng lòng giao trả con bò. Thế là họ đến gặp một cụ già nhờ phân xử. Nhưng
cụ già thì sao ? Cụ cũng không biết phải phân xử ra sao, cuối cùng cụ bèn nói
với hai anh em:

- Ai trả lời đúng câu đố của ta thì con bò sẽ thuộc về người đó.

- Xin cụ hãy đưa ra câu đố, thưa cụ !

- Hãy nghe nhé: trên thế giới cái gì béo nhất, cái gì nhanh nhất, và cái gì đáng
yêu nhất ? Ngày mai hãy cho ta nghe câu trả lời.

Hai anh em đi về. Trên đường về nhà, người anh giàu có nghĩ: Thực là lời mê
sảng hoang đường, đây, thử đoán xem ông cụ đố gì ? Có gì có thể béo hơn con
lợn của ông cụ ? Có gì có thể nhanh hơn con chó săn của ông cụ ? Có gì có thể
đáng yêu hơn tiền bạc ? Con bò là của ta rồi!

Người em nghèo trở về nhà, nghĩ mãi mà vẫn không đoán ra. Anh có một người
con gái tên là Masa, thấy cha mình về nhà với dáng nghĩ ngợi, cô hỏi cha:

- Bố ơi, bố có gì buồn bã thế? Ông cụ đã nói những gì ạ?

- Ông cụ đưa ra những câu đố như thế thật là bảo người ta vắt óc ra suy nghĩ.

- Câu đố gì hả bố?

- Trên thế giới cái gì béo nhất ? Cái gì nhanh nhất ? cái gì đáng yêu nhất?

- Chà, bố ơi ! các câu này dễ thôi mà ! bố cứ yên tâm nói giống lời của con là
được.

Ngày hôm sau hai anh em lại đến chỗ ông cụ. Ông cụ hỏi:

- Thế nào, các anh đã đoán ra chưa?

- Chúng tôi đã đoán ra rồi, thưa cụ.

Người anh chạy đến trước, bật ra câu trả lời.

- Thưa cụ, béo nhất là con lợn nhà cụ, nhanh nhất là con chó săn của cụ, đáng
yêu nhất là tiền bạc.
- Ấy, ấy, ấy ! nói bậy nào ! Nói bậy nào ! - cụ già kêu lên. - Ôi, đáp án của anh
không đúng!

Lúc này người em mới lên tiếng:

- Cụ ơi, là như thế này, không có gì có thể béo hơn mẹ Đất, Người nuôi dưỡng
vạn vật trên thế gian, lại đem vạn vật làm thức ăn cho con người.

- Đúng, đúng ! - ông cụ nói. - Thế cái gì nhanh nhất nào?

- Nhanh nhất là ý nghĩ của con người, ý nghĩ của con người có thể theo gió đến
bất cứ nơi đâu.

- Đúng là như vậy. Còn cái gì đáng yêu nhất?

- Đáng yêu nhất là giất ngủ say. Bất cứ ai, một khi đã ngủ say đều có thể giũ bỏ
tất cả.

- Hoàn toàn đúng! - Cụ già nói. - Con bò là của anh rồi ! Nhưng anh phải nói
cho ta biết anh tự mình nghĩ ra hay đã có ai giúp đỡ anh?

- Thưa cụ. - Người em nghèo khổ nói. - Tôi có một đứa con gái tên Masa, chính
nó đã bảo cho tôi điều đó.

- Có việc này ư? Ta thông minh như thế, còn cô ta chỉ là cô gái bình thường,
thế mà lại đoán được câu đố của ta.

Cụ suy nghĩ và quyết định thử tài cô gái này. Cụ nói với người em:

- Đây là mười quả trứng gà chín, hãy đưa cho con gái anh, bảo cô ấy đem gà
mẹ ấp qua một đêm phải nở ra những con gà. Sau đó đem những con gà đó
nuôi lớn, rồi con gái anh hãy giết ba con quay chín mang đến cho ta ăn sáng.
Sáng mai, trước khi ta ngủ dây, anh hãy mang đến đây. Ta sẽ đợi. Nếu như
không làm được thì anh và con gái anh sẽ gặp rắc rối đấy!

Người em trở về nhà và ân hận vô cùng khi đã đến nhờ ông cụ phân xử dùm.
Nghĩ tới sáng mai, anh bật khóc. Người con gái thấy, chạy ra hỏi:

- Bố ơi, sao bố lại khóc ? Lời giải đáp của con đã sai sao?

- Không phải. Chúng ta gặp rắc rối rồi con ơi ! Ông cụ đưa cho con mười quả
trứng gà chín, con cần phải đem trứng cho gà mẹ ấp ra gà con, yêu cầu sau một
đêm gà phải nở, lại phải nuôi lớn rồi giết ba con quay lên làm bữa sáng cho ông
cụ.
Cô gái sau một hồi suy nghĩ rồi đem ra một chậu cháo nói:

- Bố ơi, bố hãy đem chậu cháo đến đưa cho ông cụ, bảo với ông cụ rằng ông cụ
hãy đào một cái hố, đem chậu cháo trồng xuống đó, cây mạ mọc lên, khi lúa
chín rồi hãy gặt lúa về, xát thành hạt gạo, nghiền vỡ ra rồi đem đến cho những
con gà nở từ những quả trứng chín này ăn.

Người em nghèo mang chậu cháo chín đưa cho ông cụ già và đem những lời
con gái nói với ông cụ.

Ông cụ nhìn đi nhìn lại chậu cháo, rồi đem chậu cháo ra cho con chó nhà mình
ăn. Sau đó, ông cụ tìm một rễ cây gai đưa cho người em nghèo và nói:

- Hãy cầm rễ cây gai này đưa cho con gái anh, bảo nó ngâm thật kỹ rồi phơi
nắng, đập tơi, đem dệt thành một trăm tấm vải, nếu như không làm được thì lời
nói kia khó mà chấp nhận được.

Người em nghèo chạy về nhà, lại khóc. Con gái anh hỏi:

- Chuyện gì nữa vậy bố?

- Con nhìn đây, ông cụ đưa cho con một rễ cây gai, yêu cầu con ngâm vào nước
rồi phơi nắng, đập kỹ và phải dệt ra một trăm tấm vải.

Masa suy nghĩ rồi lấy con dao chặt một cành cây nhỏ đưa cho bố nói:

- Bố ơi, hãy đem cành cây này đưa cho ông cụ, xin ông cụ hãy làm khung cửi
dùng để dệt rễ gai này.

Người em nghèo cầm cành cây đến gặp ông cụ, đem những lời con gái nói lại
với ông cụ. Ông cụ nhìn đi nhìn lại cành cây nhỏ, rồi ném nó đi, trong lòng
thầm nghĩ: “Xem ra đây đúng là một cô gái thông minh”. Ông cụ rất muốn gặp
mặt cô gái, nhưng lại nói với người em nghèo:

- Anh hãy quay trở về nói với con gái anh, bảo cô ấy đến làm khách nhà tôi
sáng mai, nhưng phải nhớ là không được đi bộ cũng không đi xe, không đi
chân không cũng không đi giày, không cần đem theo lễ vật nhưng không thể
thiếu lễ vật. Nếu con gái anh không đến, chắc anh biết chuyện gì sẽ xảy ra.

Người em nghèo lại trở về nhà trong tâm trạng buồn rầu. Đến nhà, anh đem lời
nói của ông cụ nói với con. Nghe xong, sau một hồi suy nghĩ, Masa nói với
cha:

- Bố ơi ! chớ có buồn, tất cả đều tốt. Xin bố đem về cho con một con thỏ sống.

Người em nghèo ra đi, đem về một con thỏ sống.


Sáng sớm hôm sau, Masa xỏ một chân vào đôi giầy rách, còn một chân đi
không. Sau đó cô lại đem theo một con chim sẻ, tìm một cái xe trượt tuyết buộc
vào con dê. Cô giấu con thỏ trong nách áo, con sẻ cầm trên tay, một chân để
dưới đất, một chân đặt trên xe trượt tuyết - rõ ràng con dê đi bộ thay cô. Rồi cứ
như thế, cô đi đến sân nhà ông già.

Từ xa, ông cụ đã nhìn thấy một cô gái đi đến bèn gọi người hầu bảo:

- Hãy thả hai con chó săn ra.

Hai con chó săn của ông cụ chạy tới chổ cô gái, cô nhanh nhẹn thả con thỏ ra,
con chó thấy con thỏ liền bỏ cô gái chạy đuổi theo con thỏ. Lúc này cô gái đã
đến trước mặt cụ già, cung kính vái chào ông cụ và nói:

- Thưa cụ, đây là lễ vật cháu biếy cụ. - Nói rồi cô đưa con chim sẻ cho ông cụ.

Ông cụ vừa đưa tay đón lấy thì cô gái buông tay, con chim sẻ lập tức bay vọt từ
cửa sổ ra ngoài.

Ngay lúc ấy có hai người nông dân đến kiện nhau. Ông cụ hỏi họ:

- Các anh có việc gì thế?

Một người nói:

- Sự việc là như thế này cụ ạ. Hai chúng tôi cùng ở ngoài đồng qua đêm, sáng
sớm thấy con ngựa cái của tôi đã đẻ ra một con ngựa con.

Người kia nói:

- Không đúng, đó là do con ngựa của tôi đã đẻ. Xin cụ hãy sáng suốt phân xử.

Nhớ tới cô gái đang đứng đó, ông cụ bèn bảo cô gái hãy thử phân xử việc này.
Đứng nghe hai người nông dân nói này giờ, cô gái cũng đã nghĩ ra một cách
nên liền nói:

- Hãy buộc con ngựa con lại, đưa con ngựa mẹ từ trên xe xuống, thả ngựa mẹ
ra. Con ngựa mẹ nào chạy về với con ngựa con thì đó chính là con ngựa đã sinh
ra con ngựa con.

Ông cụ nghe phải bèn làm theo lời cô gái. Kết quả là có một con ngựa mẹ chạy
đến với con ngựa con, còn con ngựa kia thì đứng yên không động đậy.

Ông cụ thấy cô gái thật túc trí đa mưu nên rất nể phục, tiếp đãi rất chu đáo và
khi ra về đã thưởng cho cha con cô thật hậu hĩnh
Mẹ lạnh lắm phải không?

Vào một đem Giánh sinh, một thiếu phụ mang thai lần bước đến nhà một người
bạn nhờ giúp đỡ. Con đường ngắn dẫn đến nhà người bạn có một mương sâu
với cây cầu bắc ngang. Người thiếu phụ trẻ bỗng trượt chân
chúi về phía trước, cơn đau đẻ quặn lên trong chị . Chị hiểu rằng mình không
thể đi xa hơn được nữa. Chị bò người phía bên dưới cầu.Đơn độc giữa những
chân cầu, chị đã sinh ra một bé trai. Không có gì ngoài những chiếc áo bông
dày đang mặc, chị lần lượt gỡ bỏ áo quần và quấn quanh mình đưa con bé xíu,
vòng từng vòng giống như một cái kén. Thế rồi tìm thấy được một miếng bao
tải, chị trùm vào người và kiệt sức bên cạnh
con.
Sáng hôm sau, một người phụ nữ lái xe đến gần chiếc cầu, chiếc xe bỗng chết
máy.Bước ra khỏi xe và băng qua cầu, bà mẹ nghe một tiếng khóc yếu ớt bên
dưới. Bà chui xuống cầu để tìm.Nơi đó bà thấy một đứa bé nhỏ xíu,đói lả
nhưng vẫn còn ấm, còn người mẹ đã chết cóng.Bà đem đưa bé về và nuôi
dưỡng. Khi lớn lên, cậu bé thường hay đòi mẹ nuôi kể lại câu chuyện đã tìm
thấy mình. Vào một ngày lễ giáng sinh, đó là sinh nhật lần thứ 12, cậu bé nhờ
mẹ nuôi đưa đến mộ người mẹ tội nghiệp.
Khi đến nơi, cậu bé bảo mẹ nuôi đợi ở xa trong lúc cậu cầu nguyện. Cậu bé
đứng cạnh ngôi mộ, cúi đầu và khóc. Thế rồi cậu bắt đầu cởi quần áo . Bà mẹ
nuôi đứng nhìn sững sờ khi cậu bé lần lượt cởi bỏ tất cả và đặt lên mộ mẹ
mình.
"Chắc là cậu sẽ không cởi bỏ tất cả - bà mẹ nuôi nghĩ - cậu sẽ lạnh cóng!"
Song cậu bé đã tháo bỏ tất cả và đứng run rẩy. Bà mẹ nuôi đi đến bên cạnh và
bảo cậu bé mặc đồ trở lại. Bà nghe cậu bé gọi người mẹ mà cậu chưa bao giờ
biết: " mẹ đã lạnh hơn con lúc này , phải không mẹ?" Và cậu bé oà khóc.
Chiếc hộp kỳ diệu

Jack là một cậu bé mồ côi. Cậu bé sống với người cô , mặc dù không nhận
được sự yêu thương , chỉ là những lời la mắng , và sự keo kiệt của cô , nhưng
Jack vẫn rất vui vẻ , cậu bé rất ngoan . Cậu bé tự nghĩ : " Nếu không có cô ,
chắc chắn cậu đã không còn được đi học rồi , và chắc chắn cậu đã trở thành đứa
trẻ lang thang đầu đường xó chợ "
Trong lớp , các bạn không thích chơi với Jack , một đứa trẻ mồ côi , duy nhất
chỉ có một bạn , cô bé rất dễ thương , cứ mỗi lần tan lớp là cô bé ấy ở lại xếp
bàn ghế lại . Jack cũng ở lại phụ bạn ấy , cả hai không nói gì với nhau nhưng
cứ làm việc như vậy và cảm thấy rất vui.

Giáng sinh sắp đến rồi, mọi người rục rịch chuẩn bị mọi thứ, bàn tán vế những
món quà. Jack không có gì cả. Cô bé không thấy Jack còn ở lại giúp cô, tan học
là cậu lại chạy về vội vã. Một hôm, cô bé hỏi cậu :
-Sao cậu không ở lại nữa, cậu có biết là tớ rất vui nếu có cậu giúp tớ không?
-Thật à? Tớ quan trọng với cậu như thế à?
-Ừ
-Vậy giáng sinh này, cậu ở lại nhé, tớ có món quà tặng cậu
Giáng sinh đến, khi mọi nguời đã về hết. Jack đến bên cô bé , Đưa ra một món
quà nhỏ được gói rất cẩn thận . Cô bé mở ra :
-Xinh quá , chiếc hộp xinh quá. Nó dựng gì bên trong thế
-Bạn cứ mở ra đi.
Jack nhìn cô bạn, cười.
Cô bé tò mò mở ra, thật kỳ lạ, trong hộp không hề có một cái gì hết. Đưa đôi
mắt ngạc nhiên về phía Jack, cô bé hỏi:
-Không hề có gì trong hộp này hết , Jack ạ?
-Bạn sẽ không bao giờ thấy được nó, không nhìn thấy nó , không sờ thấy nó,
không nếm được nó đâu, vì nó là tình yêu đấy, mẹ tớ đã bảo thế, bạn chỉ cảm
nhận được tình yêu thôi , mẹ đã tặng nó cho tớ, giờ tớ tặng lại cậu. Cám ơn vì
tất cả.

Trên chiếc đàn piano của cô bé lúc nào cũng có một chiếc hộp nhỏ nhỏ xinh
xinh , mở chiếc hộp ra ai cũng thắc mắc , là một chiếc hộp rỗng . Cô bé chỉ
mỉm cười và nói : "Sẽ chẳng thể nhìn thấy nó đâu , không cầm được nó đâu ,
nhưng nó rất quan trọng , rất đặc biệt , bởi nó là tình yêu đấy "

Dùng chó bắt chuột

Nước Tề có người xem tướng giỏi. Nhà láng giềng nhờ mua một con chó hay
để bắt chuột. Một nǎm trời anh ta mới mua được, bảo nhà láng giềng: "Con chó
này tốt đấy".
Nhà láng giềng nuôi con chó mấy nǎm mà không thấy nó bắt chuột mới nói
chuyện với anh ta. Anh ta bảo:

"Con chó tốt lắm đấy. Nhưng cái chí nó chǎm bắt hươu, nai, cầy, cáo, chớ
không muốn bắt chuột. Bây giờ, muốn cho nó bắt chuột thì phải cùm chân sau
nó lại".

Nhà láng giềng làm theo như thế, quả sau con chó hay bắt chuột.

Lã Thị Xuân Thu

Lời bàn: Con chó trước không bắt chuột, là vì nó có tài bắt những hươu, nai,
không thèm bắt chuột; sau nó bắt chuột, là vì người ta đã cùm chân, hãm cái tài
nó lại không cho chạy nhanh quá. Cốt ý bài ngụ ngôn này nói kẻ có đại tài, mà
đem dùng vào việc nhỏ, thì không được việc. Muốn cho được việc, thì người
dùng tất phải biết hạn chế cái tài ấy lại. Nên người có tài mà làm được việc,
hay không được việc, là cốt ở người biết dùng hay không biết dùng mà thôi.
Nhưng muốn cho người có tài to làm việc nhỏ, mà phải làm cho mất cái tài to
đi đã, thì chẳng đáng tiếc cho người có tài mà chẳng gặp được tri kỷ

quả chà là

Ngày nọ, có người du mục một minh ở trong sa mạc hoang vắng.Nửa đêm, cái
đói cồn cào đã đánh thức ông ta dậy. Ông ta quyết định thắp lên 1 ngọn nến
và đi lục tìm túi chà là cất nơi góc lều. Ông ta cầm 1 quả và đưa lên miệng
cắn. Bất ngờ,ông ta thấy trong ruột quả chà là có con sâu đang nằm trong
đó.Ông ta liền ném đi và lấy ra quả thứ 2. Quả thứ 2 cũng có sâu,ông ta vất đi
và lấy ra quả thứ 3. Quả ấy vẫn thế, ông ta liền nghĩ: 
"Nếu cứ tiếp tục thấy sâu thế này thì chắc mình sẽ không còn quả nào để ăn!"
Nghĩ thế, ông ta liền thổi tắt ngọn nến và ăn ngon lành tất cả những quả chà
là còn lại....
Sự tích hoa Cỏ may

Ngày xửa ngày xưa, tại một ngôi làng nọ có đôi trai gái yêu nhau rất thắm thiết.
Nàng xinh đẹp, là con gái của một gia đình giàu có, một tiểu thư khuê các, còn
chàng chỉ là anh đốn củi nghèo, mồ côi sống trong túp lều tranh xơ xác.
Có không ít những người môn đăng hộ đối muốn cùng nàng “kết tóc xe tơ”,
nhưng nàng chẳng cảm mến ai, vì trọn con tim đã gửi cho chàng trai chăm chỉ,
thật thà, tốt bụng.

Mối tình của họ không được chấp thuận, bố mẹ nàng đuổi chàng ra khỏi làng.
Vì quá yêu nhau, họ bàn bạc đi đến một nơi thật xa, nơi không ai biết để cùng
làm ăn sinh sống. Chàng sẽ cày cuốc thuê, nàng ở nhà trồng rau, dệt vải. Họ
chấp nhận cơ cực để được sống bên nhau trọn đời.

Nhưng cuộc sống cơ cực đã biến nàng từ một tiểu thư khuê các thành người
đàn bà lam lũ. Nhìn người vợ trẻ rất mực yêu quý phải vất vả đầu tắt mặt tối,
chàng không an lòng.

Hàng đêm chàng tự dày vò, trách cứ bản thân đã không đem lại được cuộc sống
đầy đủ cho vợ. Nỗi day dứt khiến chàng quyết chí ra đi làm giàu. Chàng để
chút vốn liếng ít ỏi còn lại đỡ đần người vợ trẻ rồi ra đi, hẹn một năm sau trở
về với cuộc sống đầy đủ, khá giả hơn.

Người con gái ở nhà dệt đan, trồng rau, nuôi trong mình niềm tin, niềm hy
vọng mãnh liệt chàng sẽ trở về. Một năm, hai năm, rồi ba năm…thời gian cứ
đằng đẵng trôi đi, nàng vẫn không nhận được tin tức của chồng. Nỗi nhớ nhung
cùng niềm mong mỏi làm nàng ngày càng trở nên xơ xác, héo hon. Tình yêu,
niềm tin vào người chồng thật thà, tốt bụng khiến nàng quyết định đi tìm chàng
với ước mong về một ngày mai đoàn tụ.

Nàng ra đi, đi đến đâu cũng hỏi về tung tích người chồng yêu quý. Biển người
mênh mông bao nhiêu, đất trời rộng lớn bao nhiêu cũng không làm người con
gái ấy nản lòng. Tình yêu vẫn luôn thường trực và bùng cháy trong sâu thẳm
trái tim, một trái tim khát khao kiếm tìm hạnh phúc.

Thế nhưng tình yêu, niềm tin và hy vọng của nàng cuối cùng chỉ đổi lại bằng
những cái lắc đầu, xua tay. Nàng cứ đi, đi mãi, cho đến một ngày mệt quá xỉu
lúc nào không hay. Nàng nằm xuống, trong lòng vẫn đau đáu nỗi niềm chờ
mong, hy vọng.

Cảm kích trước tình yêu son sắt thủy chung của người vợ trẻ, sau khi nàng
chết, Ngọc Hoàng đã hóa phép biến nàng thành một loài hoa cỏ, loài hoa cỏ
màu tím bàng bạc, có sức sống mãnh liệt giống như tình yêu thủy chung của
nàng.

Chị gió tốt bụng cảm động trước tấm chân tình của người con gái đã đem loài
hoa cỏ ấy đi khắp mọi nơi trên các nẻo đường gần xa.

Dù cho người con gái ấy không còn nữa, nhưng tình yêu của nàng thì bất diệt
cùng tháng năm, để rồi mỗi lần có khách đi đường ngang qua, nàng vẫn cố
gắng níu bám vạt áo họ để hỏi thăm tin tức về chồng.

Hoa cỏ may sắc nhọn, nhức nhối một nỗi niềm đau của tình yêu trong xa cách.
Hoa cỏ may

Xuân Quỳnh

Cát vắng, sông đầy, cây ngẩn ngơ


Không gian xao xuyến chuyển sang mùa
Tên mình ai gọi sau vòm lá
Lối cũ em về nay đã thu.

Mây trắng bay đi cùng với gió


Lòng như trời biếc lúc nguyên sơ
Đắng cay gửi lại bao mùa cũ
Thơ viết đôi dòng theo gió xa.

Khắp nẻo dâng đầy hoa cỏ may


Áo em sơ ý cỏ găm dầy
Lời yêu mỏng mảnh như màu khói
Ai biết lòng anh có đổi thay ?
Cái gương vùng Matsu-Yama

Tại vùng núi Matsu-Yama hẻo lánh, tỉnh Echigo, có đôi vợ chồng trẻ sống với
nhau. Họ sinh được một đứa con gái. Hai người rất mực thương con. Một dạo,
người bố lên kinh đô có việc. Khi trở về, anh tặng vợ một cái hộp bằng gỗ
trắng rất nhẵn. Mở hộp ra, chị thấy có một mảnh kim khí tròn; một mặt thì
trắng như bạc khảm, điểm những nét vẽ hình chim và lá; còn mặt kia thì sáng
như thủy tinh. Chị vợ xem, lấy làm thích thú và lạ lùng vì thấy trong đáy gương
có một khuôn mặt xinh đẹp với đôi môi hồng và đôi mắt sáng như đang mỉm
cười với mình.
Anh chồng giải thích cho chị hiểu đó là cái gương. Khuôn mặt người phụ nữ
trong ấy chính là khuôn mặt chị được phản ánh vào. Ở thành thị, mọi người đều
có một cái như thế này, còn ở đây chưa ai trông thấy. Chị vợ say mê với món
quà. Lần đầu tiên được thấy cái gương và cũng là lần đầu tiên chị thấy khuôn
mặt xinh đẹp của mình. Chị đem ra dùng xong lại cất ngay nó vào hộp cẩn thận
cùng với những thứ quý giá khác.Mấy năm trôi qua. con gái ngày càng lớn,
giống mẹ như đúc. Cô bé rất dễ yêu, ngoan ngoãn, được mọi người thương
mến. Nhớ lại mình đã có lúc kiêu hãnh vì tự biết có sắc đẹp, người mẹ bèn cất
chiếc gương rất kỹ, sợ rằng con gái soi gương rồi sẽ có ý nghĩ tự kiêu.
Một hôm, người mẹ hiền dịu ấy lâm bệnh nặng. Biết không còn sống được bao
lâu nữa, bà gọi con gái đến gần và dặn dò :
"Con gái yêu quý của mẹ, khi mẹ từ giã cõi trần này, con hãy hứa với mẹ, sớm
sớm chiều chiều, soi gương này, con sẽ nhìn thấy mẹ và hiểu rằng mẹ sẽ ở mãi
trong đó để phù hộ cho con".
Người mẹ lấy chiếc gương đưa cho con gái. Cô gái hứa vâng lời bà rồi khóc
nức nở.Từ đó, cô con gái ngoan ngoãn, không bao giờ quên lời trối trăn của
mẹ. Niềm vui nhất của cô là ngắm hình ảnh của mẹ trong gương và nói rằng :
"Mẹ ơi, hôm nay con đã làm được như mẹ mong muốn".
Điều thích nhất

Trong một tiết dạy vẽ, cô giáo bảo các em học sinh lớp 1 vẽ về điều gì đã làm
các em thích nhất trong đời. Cô thầm nghĩ : "Chắc rồi các em cũng lại vẽ
những gói quà, những ly kem hoặc những món đồ chơi, quyển truyện tranh".
Thế nhưng cô đã hoàn toàn ngạc nhiên trước một bức tranh lạ của em học sinh
tên Douglas: bức tranh vẽ một bàn tay .

Nhưng đây là bàn tay của ai ? Cả lớp bị lôi cuốn bởi hình ảnh đầy biểu tượng
này. Một em đoán: " Đó là bàn tay bác nông dân". Một em khác cự lại: "Bàn
tay thon thả thế này phải là bàn tay của một bác sĩ giải phẫu...".

Cô giáo đợi cả lớp bớt xôn xao dần rồi mới hỏi tác giả. Douglas cười ngượng
nghịu: " Thưa cô, đó là bàn tay của cô ạ ! ".

Cô giáo ngẩn ngơ. Cô nhớ lại những phút ra chơi cô thường dùng bàn tay để
dắt Douglas bước ra sân chơi, bởi em là một cô bé khuyết tật, khuôn mặt không
được xinh xắn như các trẻ khác, gia cảnh từ lâu lâm cảnh ngặt nghèo. Cô chợt
hiểu ra, tuy cô cũng vẫn làm điều tương tự với các em khác nhưng hoá ra đối
với Douglas, bàn tay cô lại mang ý nghĩa sâu xa, một biểu tượng của tình yêu
thương.
Ba con rận kiện nhau

Ba con rận hút máu một con lợn, tranh nhau ăn, đem nhau đi kiện. Một con rận
khác gặp, hỏi:
"Ba anh kiện nhau về việc gì thế?
- Ba con rận đáp: Chúng tôi kiện nhau, vì tranh nhau một chỗ đất mầu mỡ.
- Con rận kia nói: Tôi tưởng các anh chẳng nên tranh lẫn nhau thế làm gì. Các
anh chỉ nên lo đến con dao của người đồ tể giết lợn, ngọn lửa của bó rơm thui
lợn mà thôi."
Ba con rận nghe ra, biết là dại, thôi không đi kiện nữa, cùng nhau quần tụ, làm
ăn với nhau, dù no, dù đói, cũng không bỏ nhau. Con lợn thành mỗi ngày một
gầy, người ta không làm thịt cứ để nuôi, ba con rận nhờ thế mà no đủ mãi.
Lời Bàn:
Nhân dân một nước mà cứ tranh giành lẫn nhau cái lợi trước mắt, không nghĩ
gì đến cái việc lâu dài cho cả toàn thể, thì trí khôn thật không bằng mấy con rận
nói trong truyện nầy.
Tranh nhau, cãi nhau, đánh nhau, kiện nhau, thì oan oan tương kết, lợi chẳng
thấy đâu, chỉ thấy hại, hại cho một mình lại hại cho cả đàn, cả lũ nữa. Sao
không biết: Sâu đục cây, cây đổ thì sâu cũng chẳng còn: trùng hại vật, vật chết
thì trùng cũng hết kiếp.
Câu lạc bộ 99

Chuyện kể về một nhà vua đang đi vi hành.Khi đi ngang qua một cánh
đồng,ông nghe được tiếng hát vui vẻ của một anh nông dân. Vua liền hỏi quan
cận thần vì sao anh chàng nông dân ấy lại vui vẻ đến như vậy.
"Vì anh ta chưa tham gia câu lạc bộ 99 đó thưa đức vua".
"Câu lạc bộ 99 ư? Ta chưa từng nghe nói tới.- Đức vua nhíu mày hỏi vị quan.
"Nếu như ngài muốn biết câu lạc bộ 99 là gì, tối nay ngài hãy để 99 dồng vàng
trước cửa nhà anh nông dân đó" Quan cận thần trả lời.
Thế là nhà vua làm theo lời của vị quan cận thần. Một thời gian sau, nhà vua lại
đi vi hành một lần nữa. Và lần này nhà vua không còn nghe tiếng hát yêu đời
của anh nông dân. Đến lúc này, quan cận thần mới giải thích:"Anh nông dân đó
đã chính thức gia nhập câu lạc bộ 99 rồi đó vua. Anh nông dân đã ttìm thấy gói
tiền vàng vua để lại trước cửa. Nhưng mà anh ta đếm đi đếm lại chỉ có 99 đồng
tiền thôi. Anh ta thắc mắc : chuyện gì đã xảy ra với đồng tiền cuối cùng. Thế
là anh ta dẹp chuyện ca hát qua một bên để đi khắp nơi tìm cho ra được cái
đồng vàng thứ 100 đó.Thế nhưng ngài biết đấy, làm gì có cái đồng vàng thứ
100 nào"

Ba điều

Ba điều trong đời một khi đã đi qua không thể lấy lại được : + Thời gian + Lời
nói + Cơ hội .
Ba điều trong đời không được đánh mất : + Sự thanh thản + Hy vọng + Lòng
trung thực .

Ba thứ có giá trị nhất trong đời : + Tình yêu + Lòng tự tin + Bạn bè .

Ba thứ trong đời không bao giờ bền vững được : + Giấc mơ + Tài sản + Thành
công .

Ba điều làm nên giá trị một con người : + Siêng năng + Chân thành + Nhân hậu
.

Ba điều trong đời làm hỏng một con người : + Dễ đổi lòng + Tính tự cao + Sự
giận dữ.

Sự tích hoa hồng

Ngày xửa ngày xưa thật xưa lắm, có một quốc vuơng ở tận phương trời xa xôi
bên một khu rừng rộng lớn và rậm rạp. Vương quốc nầy sống thật hòa bình và
yên vui sau một thời gian dài triền miên người dân phải đấu tranh để dành
quyền độc lập. Và vị anh hùng chỉ huy người dân của quốc gia này đã được dân
chúng tôn lên làm vị vua đầu tiên.

Sau thời gian dài chinh chiến, họ chỉ lo an hưởng thái bình và sống cho những
quyền lợi của cá nhân mình. Vị hoàng đế kia cũng vậy, ngất ngưỡng trên ngai
vàng và hào quang của quyền vị, ông đã bỏ bê việc nước, quên cả chăm sóc
cho dân và để mặc lũ bầy tôi tham danh lợi cai trị dân chúng. Vì muốn hoàng
đế lảng quên với việc triều chính, bọn tham quan đã chọn một thiếu nữ đẹp
tuyệt vời để vua lập làm hoàng hậu . Nhưng trái với ý muốn của bọn quan lại,
hoàng hậu lúc nào cũng hết lời khuyên răn nhà vua nên lo cho dân chúng và
chỉnh đốn việc triều chính. Lũ quan lại rất ghét hoàng hậu, nhưng không làm gì
được vì nhà vua quá thương yêu nàng.

Cho đến ngày kia, sau một thời gian thụ thai, hoàng hậu sinh ra một đứa bé thật
kháu khỉnh, dễ thương. Lạ lùng thay, thân thể của đứa bé trai đó lại trong suốt
như pha lê, đến độ thấy rõ từng đường gân, mạch máu và trái tim. Thấy cơ hội
đã đến, bọn tham quan bèn dèm pha với nhà vua rằng hoàng hậu là một phù
thủy trá hình và tuyên truyền tin này ra ngoài cho toàn dân.

Trước áp lực của bầy tôi và sự phản đối của dân chúng, nhà vua đã truất phế
hoàng hậu ra khỏi hoàng cung cùng với đứa bé lạ lùng kia. Trở thành một
thường dân, hoàng hậu đem con đi khỏi hoàng cung. Đi tới nơi đâu cũng bị dân
chúng chửi mắng và xua đuổi. Suốt con đường tìm nơi ẩn trú, hoàng hậu đã bị
bao kẻ ném đá, dùng gậy đánh đập mà chỉ biết cắn răng dùng thân thể mình để
che chở cho đứa con thơ. Với bao vết thương trên mình, hoàng hậu bồng con
đến khu rừng già và ngã ra vì kiệt sức. Nhìn hài nhi mới ra đời trong lúc biết
mình sắp chết, hoàng hậu không biết làm gì hơn là đưa tay vuốt ve con mình
vài lần, nước mắt tuôn ra và trút hơi thở cuối cùng.

Đứa bé nằm bên mẹ không ai cho ăn nên khóc lên thảm thiết vì cơn đói. Tiếng
khóc vang lên tận chín tầng trời làm Thượng Đế động lòng ngó xuống trần
gian. Khi thấy hoàn cảnh thương tâm đó, Thượng Đế nổi giận vì lòng tàn ác
của người dân vương quốc kia. Ngài bèn sai thiên thần mang đứa bé vô rừng
chăm sóc cho nó lớn lên trong tình thương của thiên nhiên và muôn cầm. Sau
đó, ngài ban một lời nguyền khiến cho toàn thân thể của từng người dân bị gai
nhọn mọc đầy người, để suốt đời không ai được gần gủi ai cho đến khi mọi
người biết thương yêu nhau. Từ đó người dân của quốc gia nầy đều mang trên
mình một lớp gai, từ vua tôi cho đến hạng bần cùng. Nhưng dù cho lớp gai trên
mình ngày một dài và cứng nhọn theo lòng tham ngày càng to lớn, họ cứ sống
cho cá nhân mình mặc dù phải trả giá cho lòng vị kỷ đó bằng sự cô đơn khủng
khiếp dằn vật tâm linh.

Một ngày kia, nghe tin vương quốc này đang trở nên yếu thế, một quốc gia
khác bèn đem quân sang xâm lấn lãnh thổ. Khi quân xâm lăng tràn qua bờ cõi,
toàn dân trong nước ai cũng tự lo thân và trốn tránh nghĩa vụ. Nhà vua lúc đó
đã lớn tuổi mà vẫn bị lũ bầy tôi tham sống sợ chết làm áp lực bắt đem một toán
quân ra chiến đấu. Sức mình thì yếu, sức địch thì mạnh. Sự thất bại đến với nhà
vua thật nhanh chóng. Dẫn tàn quân chạy về hoàng thành thì mới hay lũ tham
quan đã đem dâng cho giặc tự bao giờ. Phẫn chí, nhà vua quyết liều mình đem
quân cố chiếm lại thành trì nhưng cuối cùng phải ngã ngựa vì một mũi tên có
tẩm thuốc độc. Nhà vua được một số quân trung thành cứu thoát và chạy trốn
đến bên bìa rừng. Nhìn lại binh sĩ lớp bị thương, lớp bỏ mình chung quanh, nhà
vua lấy làm hối hận rằng mình đã không nghe lời hoàng hậu khuyên ngày
trước. Nhớ đến hoàng hậu, nhà vua lại nhớ đến đứa con thơ vô tội của mình
ngày xưa. Rồi nhà vua ngã bệnh vì vết thương hành hạ. Bên ngoài thì địch quân
vây khốn, trong rừng thì binh sĩ liều mạng để tử thủ với quân thù. Nhà vua lập
đồn trong rừng làm chiến khu và để tập luyện binh sĩ.

Ngày qua ngày, dưới ách đô hộ nghiệt khắc của quân xâm lăng, người dân của
vương quốc đó càng nghe đồn thêm về một quốc gia trong khu rừng già huyền
bí nọ. Dần dần, người dân tìm cách trốn đi và tìm vào rừng để gia nhập. Phía
quân xâm lăng cũng điêu ngoa, họ cho người trà trộn vào trong rừng nhưng kế
hoạch không thi hành được vì không thể nào giả mạo được lớp gai cứng mọc
trên thân thể của người dân bản xứ. Người dân đã biết đoàn kết để tạo cho
khuyết điểm trên thân thể mình thành ưu điểm để chống giặc ngoại xâm. Một
ngày kia, với binh hùng tướng mạnh, nhà vua bắt đầu công cuộc dành lại quê
hương. Lần nầy, với đoàn quân thiện chiến và với lòng tin thống nhất, nhà vua
đã chiếm lại được thành trì và xua đuổi quân xâm lăng ra khỏi lãnh thổ.

Không may, trong trận chiến cuối cùng nhà vua lại bị thương. Vốn đã yếu sức
vì tuổi già, lại còn lao lực trong trận chiến dài đăng đẳng, nhà vua bệnh ngày
càng thêm nặng. Toàn dân trong nước chưa kịp reo mừng dành lại độc lập đã
phải mang nỗi buồn cho tình trạng ngày càng nguy ngập của nhà vua. Biết
mình sắp chết, nhà vua trong cơn sốt đã thốt lên rằng:

"Ta chết cũng đành lòng, nhưng trời ơi, sao ta thèm được một lần ôm đứa con
mà ta chưa hề biết mặt !..."

Bỗng nhiên có tin báo từ bên ngoài thành có một người thầy thuốc nói sẽ trị hết
bệnh cho nhà vua. Cửa hoàng thành rộng mở. Người thầy thuốc bước vào
hoàng cung với tấm vải thô che kín thân thể mà không ai nhìn thấy mặt. Khi
đến gần giường bệnh, người thầy thuốc đứng lặng yên thật lâu bên nhà vua mà
không nói tiếng nào. Khi nghe nhà vua gọi con trong cơn sốt, người thầy thuốc
rơi lệ. Giọt lệ nhỏ xuống trên gò má nhăn nheo của nhà vua làm nhà vua thức
tỉnh và mở mắt nhìn người đang đứng bên cạnh mình. Khi nhà vua đua tay lên
vói, người thầy thuốc bèn nắm chặt lấy tay nhà vua, quì xuống bên cạnh người
và nói rằng:

"Thưa phụ hoàng, con đây !".

Rồi người thầy thuốc hất tấm vải thô che mình xuống đất để lộ ra một thân thể
trong suốt như pha lê. Để chữa bệnh cho cha, vị hoàng tử nâng vua cha lên và
ôm người thật chặt vào lòng, mặc cho những gai nhọn đâm vào người thật sâu.
Và máu chàng đã chảy ra. Lạ thay, khi máu của chàng thấm lên thân thể của
nhà vua thì nhà vua cũng thấy mình khỏe lại . Và kỳ diệu hơn nữa, lớp gai nhọn
trên thân thể nhà vua cũng tan biến dần theo từng giọt máu của vị hoàng tử đổ
xuống.

Sau đó vị hoàng tử bèn đặt nhà vua nằm lại trên giường để dưỡng bệnh. Từ từ
đứng dậy và bước đến người đứng gần mình nhất, vị hoàng tử ôm lấy người đó
và nói:
"Chúng ta hãy thương yêu nhau. Bất cứ hình phạt nặng nề nào của Thượng Đế
cũng đều được giảm bớt nếu chúng ta biết chân thành yêu thương nhau".

Rồi cứ thế từ người này sang người khác, chàng đi khắp thành mà ôm từng
người một, từ ông lão nghèo nàn đến người thương gia giàu sang, từ em bé tật
nguyền đến chàng thanh niên khỏe mạnh. Và cứ thêm mỗi người được ôm thì
vị hoàng tử càng yếu dần theo từng giọt máu ứa ra trên thân thể họ. Cho đến
lúc kiệt sức, chàng quị xuống bên đường. Tuy vậy, chàng vẫn mở rộng vòng tay
kêu gọi mọi người đến cùng chàng mà chia sự sống. Mọi người nức nở khóc
trước tình thương bao la của chàng. Những người sau cùng chưa được thoát
bệnh đồng quì xuống bên chàng mà nói:

"Chúng tôi xin hoàng tử đừng lao lực thêm nữa. Chúng tôi thành tâm nguyện
mang lớp gai này trên mình để người còn được sống cùng chúng tôi".

Lạ thay, từ trên thinh không bỗng có tiếng nhạc thánh thót vang lên và có lời
truyền của Thượng Đế phán rằng:

"Lành thay ! Các người hiểu được tình yêu thương chân thật và bỏ đi lòng tị
hiềm, ích kỷ. Dám hy sinh bản thân mình cho đồng loại là định nghĩa của yêu
thương vậy".

Rồi cùng với thinh âm tan dần vào không gian, các lớp gai trên thân hình của
những người còn lại đều biến mất đi. Khi người ta nhìn lại thì vị hoàng tử đang
khép mắt lại với lời nói thật hiền hòa thoát ra theo làn hơi thở sau cùng:

"Hạnh phúc là có nhau hôm nay để sống. Yêu thương là biết sống làm sao để ta
có nhau ngày mai. Các bạn của tôi ơi, hãy nhớ rằng hạnh phúc không phải là
của riêng ta để cho đi hay lấy lại. Hạnh phúc chỉ đến với ta khi ta biết yêu
thương lẫn nhau và chia xẻ cho nhau tình thương đó..."

Rồi chàng lìa đời sau câu nói đó. Ngày hôm sau, dưới sự hướng dẫn của nhà
vua, toàn dân trong thành đã đưa di thể của chàng xuống lòng đất muôn đời,
bên cạnh khu rừng nọ. Lạ thay, khi xác của chàng vừa được chôn dưới lòng đất
xong, người ta bỗng thấy có những chim muông, cầm thú kéo thành đoàn từ
trong rừng ra nằm quanh ngôi mộ của chàng thật lặng yên và buồn bã. Một
năm sau, người ta thấy trên ngôi mộ của chàng và chung quanh khu vực đó
mọc lên những bông hoa đỏ tươi như máu với thật nhiều gai nhọn từ gốc đến
ngọn. Người ta cho đó là sự kết tinh lại của tình thương của chàng hoàng tử để
nhắc nhở cho người đời bài học cao cả nhất về yêu thương và hạnh phúc. Và
người ta gọi loài hoa đó là hoa Hồng.

Và mãi mãi đến ngày nay, dù mang nhiều màu sắc khác nhau, loài hoa đó vẫn
tượng trưng cho sự yêu thương.
Sự tích con khỉ

Ngày xưa có một người con gái đi ở với một nhà trưởng giả. Nàng phải làm
việc quần quật suốt ngày, lại bị chủ đối đãi rất tệ. Cái ăn cái mặc đã chả có gì
mà thỉnh thoảng còn bị đánh đập chửi mắng. Vì thế, cô gái tuổi mới đôi mươi
mà người cứ quắt lại, trông xấu xí bệ rạc hết chỗ nói. Một hôm nhà trưởng giả
có giỗ, cỗ bàn bày linh đình, họ hàng đến ăn uống đông đúc. Trong khi đó thì
cô gái phải đi gánh nước luôn vai không nghỉ. Lần gánh nước thứ mười, cô gái
mỏi mệt quá ngồi lại ở bờ giếng. Tự nhiên cô thấy tủi thân, ôm mặt khóc. Lúc
đó đức Phật bỗng hiện ra với trạng mạo một ông cụ già có vẻ đâu từ xa lại,
dáng điệu mệt nhọc đến xin nước uống. Nàng vội quảy gánh xuống giếng vực
nước lên cho ông già giải khát. Ông cụ uống xong lại đòi ăn. Cô gái nhớ tới
phần cơm của mình chưa ăn, bèn bảo ông cụ ngồi chờ rồi quảy gánh nước về.
Lần sau ra giếng, cô lấy cơm trong thùng đưa cho ông già và nói:

- Họ dành phần cho con toàn cơm cháy cả, cụ ăn một bát này cho đỡ đói.

Ăn xong, ông cụ bảo nàng:

- Hồi nãy làm sao con khóc?

Cô gái ngập ngừng, cúi mặt xuống không trả lời.

- Ta là đức Phật, - ông cụ nói tiếp, - ta thấy con có lòng tốt. Nếu con muốn gì,
ta sẽ làm cho con vui lòng.

Cô gái ngạc nhiên mừng rỡ, kể nỗi lòng với đức Phật. Thấy điều ước muốn của
người con gái chỉ là làm sao cho bớt xấu xí, ông cụ bảo nàng lội xuống giếng,
hễ thấy bông hoa nào đẹp mút lấy thì sẽ được như nguyện. Khi xuống nước, cô
gái chỉ mút mấy bông hoa trắng. Tự nhiên lúc lên bờ, nàng trở nên trắng trẻo
xinh xắn, đồng thời quần áo cũng biến thành những thứ tốt đẹp.

Khi cô gái quảy gánh nước trở về, cả họ nhà trưởng giả vô cùng kinh ngạc.
Nàng xinh đẹp đến nỗi họ không thể nào nhận ra. Nghe cô gái kể chuyện, ai
nấy cũng muốn cầu may một tí. Họ lập tức đổ xô cả ra bờ giếng mong gặp lại
đức Phật để được trẻ lại và đẹp ra. Thấy ông cụ già vẫn còn ngồi ở chỗ cũ, họ
sung sướng như người được của. Họ đưa xôi thịt ra mời tới tấp:
- Này cụ xơi đi! Cụ xơi đi. Rồi cụ làm phúc giúp cho chúng tôi với!

Đức Phật cũng bảo họ lội xuống giếng và dặn họ y như dặn cô gái lần trước.
Dưới giếng lúc đó đầy hoa đỏ và hoa trắng. Ai nấy đều cho màu đỏ là đẹp nên
khi lội xuống giếng đều tìm hoa đỏ mút lấy mút để. Nhưng không ngờ lúc lên
bờ, họ không phải trẻ lại mà già thêm ra: mặt mũi nhăn nheo, người trông quắt
lại, lông lá mọc đầy người, đằng sau lưng là cả một cái đuôi.

Những người đi gánh nước thấy vậy hoảng hồn: "Kìa trông con quỷ, nó cắn bà
con ôi!". Nhưng lại có những tiếng khác: "Đánh cho chết chúng nó đi! Sợ gì".
Lập tức mọi người cầm đòn gánh xông lại. Cả họ nhà trưởng giả kinh hoàng bỏ
chạy một mạch lên rừng.

Từ đó, cô gái cùng với số người nghèo hầu hạ trưởng giả được hưởng những
của cải do chúng để lại. Lại nói chuyện trưởng giả và họ hàng đành phải nấp
náu trong rừng sâu, ngày ngày kiếm quả cây nuôi thân. Chúng đi lom khom, áo
quần rách nát trông rất thiểu não. Nhưng chúng vẫn tiếc của. Cho nên thỉnh
thoảng ban đêm chúng lại mò về, hoặc gõ cửa, hoặc ngồi trước nhà kêu léo
nhéo suốt đêm, gần sáng mới trở về rừng.

Thấy vậy cô gái và mọi người sợ quá, đêm đêm đóng cửa rất chặt. Họ bàn nhau
tìm cách đuổi chúng. Họ bôi mắm tôm vào các cánh cửa, lại nung nóng rất
nhiều lưỡi cày đặt rải rác ở cổng các nhà. Quả nhiên, một đêm nọ chúng lại mò
về. Theo lệ thường, chúng đánh đu vào song cửa kêu rít lên. Nhưng lần này
chúng vừa mó đến đã bị mắm tôm vấy đầy tay, rồi từ tay vấy khắp cả người,
hôi hám không thể nói hết. Chúng kinh sợ dắt nhau ra ngồi trước cổng quen
như thói cũ. Nhưng vừa đặt đít ngồi xuống các lưỡi cày thì chúng đã kêu oai
oái, rồi ba chân bốn cẳng bỏ chạy lên rừng. Từ đó chúng kệch không dám về
nữa.

Trong những khi lên rừng hái củi, người ta thỉnh thoảng vẫn gặp chúng. Thấy
bóng người từ đàng xa, chúng liền chuyền theo nhánh cây, lủi nhanh thoăn
thoắt. Người ta gọi chúng là những con khỉ. Ngày nay vẫn có nhiều người cho
khỉ là thuộc nòi trưởng giả. Còn những con khỉ sở dĩ đỏ đít là vì chúng chịu di
truyền dấu vết bỏng đít của tổ tiên.
Học làm người trong từng giây phút của cuộc sống.

(Trích từ đồng cảm để đồng hành)


Một trăm đôi tay và đôi chân
Gs. Nguyễn Văn Thành
Học có nghĩa là gì ? Nếu chúng ta khởi đầu với ba câu hỏi :"Ai có lý ? Ai đúng
ai sai ? Ai có lỗi ?" Việc học của chúng ta bị bế tắc ngay lập tức.
Những câu hỏi như vậy đang ám ảnh và đầu độc con người ở khắp nơi, trên
mặt địa cầu nầy, từ thời nguyên thủy cho đến hôm nay, trong mỗi câu chuyện
hằng ngày. Cũng vì những câu hỏi ấy, chúng ta đang loại trừ tố cáo, phê phán
và kết án lẫn nhau, trên bình diện tôn giáo cũng như trong địa hạt chính trị, xã
hội, gia đình ...
Trong lòng Đất Nước, Lạc Long Quân đã đề xuất một phương hướng trả lời
hữu hiệu hơn: Chúng ta khác nhau như nước và non, như núi và sông. Nhờ vậy,
chúng ta mới có khả năng làm nên Núi Sông và Nước Non. Câu nói thật giản
đơn, nhưng hàm chứa ở bên trong cả một chương trình "học làm người" sâu sắc
vô tận. Đó là một kế sách "DỰNG NƯỚC và GIỮ NƯỚC" !
***
1.- Chân lý xuất hiện khi chúng ta đồng hành chia sẻ. Thay vì bắt đầu với câu
hỏi hoàn toàn lý thuyết :"ai có chân lý ? Ai nắm sự thật trong tay ?", chúng ta
hãy xuất phát từ một thực tế hiển nhiên, tất yếu, thường hằng: "chúng ta khác
nhau".
Chúng ta làm gì với sự khác biệt ấy, để chân lý có mặt với chúng ta, giữa chúng
ta ?
Trong tinh thần "liên đới, đồng trách nhiệm" chân lý chỉ xuất hiện, khi chúng ta
đồng hành và chia sẻ. Khi chúng ta cùng nhau vun trồng, tưới tẩm những quan
hệ hài hòa, bổ túc và kiện toàn cho nhau. Con đường hiểu biết đồng hóa với
con đường yêu thương.
Theo lối nhìn của Nguyễn Trãi, chân lý của quê hương chỉ xuất hiện khi chúng
ta "nhất tâm" : Trăm người như một, một người như trăm. Chân lý ấy không
phải là sự thật viễn mơ, những khẩu hiệu về "nhân nghĩa đại đồng, tình anh em
bốn biển một nhà", ở ÇÀu môi miệng của Quân Minh xâm lược. Chân lý của
Quê hương mang nhiều tên tuổi rất cụ thể: no cơm ấm áo. Một mái nhà để trở
về lúc chiều tối. Một mảnh chiếu để qua đêm. Một công việc có đồng lương
cho phép tôi sống một cách lương thiện và chứng minh cho tôi : tôi là một
thành viên hữu ích, có giá trị trong lòng quê hương và nhân loại.
- Chỗ nào con người chưa sống tư cách làm người của mình,
- Chỗ nào con người chưa được cư xử và đãi ngộ một cách tương ứng với giá
trị làm người của mình,
- Chỗ nào người nghèo đói chưa được tôn trọng và nâng đỡ, để có thể sống một
cách xứng đáng "tối thiểu" cuộc sống làm người,
- Chỗ nào, còn có người bốc lột, đàn áp con người,
- Chỗ nào hòa bình chưa có mặt trong tâm tư và hành động của chúng ta, ... chỗ
ấy chân lý hoặc sự thật dù được trình bày dưới bất kỳ hình thức ngôn ngữ nào,
đều là tuyên truyền, láo khoét, bịp bợm, công cụ của thực dân xâm lược hay là
của giai cấp thống trị nhằm phục vụ một thiểu số ăn trên ngồi trước, nắm mọi
quyŠn lực trong tay.
2.- Chân lý là một lối nhìn, một nhu cầu, trước khi được diễn tả thành ngôn
ngữ.
Trước đây, trong chương Ba, tôi đã phân biệt ba cấu trúc của nội tâm : Cửa vào,
Biến chế và Cửa ra. Biến chế là cấu trúc cốt lõi của nội tâm bao gồm Lối Nhìn
và Xúc Động. Cửa vào chỉ cung cấp cho tôi những dữ kiện hạn chế về thực tại
bên ngoài. Đó không phải là toàn diện thực tại khách quan. Cửa ra, trái lại, có
phần vụ diễn tả những gì đang có mặt trong nội tâm. Tuy nhiên, con người là
con vật "biết nói láo". Tôi có thể che giấu, ngụy trang những gì đang có mặt
thực sự trong cõi lòng. Thêm vào đó, trong thân phận và điều kiện làm người,
khi tôi nói, tôi không ý thức một trăm phần trăm về những điều tôi phát biểu.
Vô thức len lỏi trong tất cả. Tôi không có ý làm tổn thương bạn. Nhưng có thể
bạn đang đau buồn, bất mãn khi đón nhận ý kiến của tôi, ngôn ngữ của tôi.
Trong lăng kính ấy, khi nói đến sự thật, chúng ta nói đến Lối Nhìn và tiếp theo
lối nhìn là Nhu Cầu của Xúc Động.
Khi nói đến sự thật, giữa lời nói và lối nhìn bên trong nội tâm của người ấy,
không có những hiện tượng tương phản hay là mâu thuẫn. Khi người ấy bày tỏ
nhu cầu của mình, người ấy "Cần" thực sự, chứ không bịa đặt, giả vờ hay là
tham lam vô đáy.
Chính vì lý do đó, khi tin vào ai, tôi tin rằng sự thật ở trong họ. Đó là lối nhìn
và nhu cầu của họ.
Trái lại, khi tôi không tin ai, và nhất là khi phê phán, tố cáo họ là người nói dối,
tôi đang tự đặt mình vào mối quan hệ xung đột. Phản ứng của họ sẽ là tự vệ,
bênh vực mình hay là tấn công trở lại. Đó là đầu dây mối nhợ của mọi hành vi
bạo động, hận thù, chiến tranh và xung đột.
Hiểu được những qui luật tâm lý ấy đang có mặt trong mọi quan hệ trao đổi và
tiếp xúc, chúng ta biết dừng lại, không góp phần vào công việc bồi đắp con
đường bạo động. Làm như vậy, về mặt tích cực, chúng ta là những tay thợ lành
nghề đang kiến dựng những chiếc cầu đồng cảm và hòa bình, trên những nẻo
đường xuôi ngược của Nhân Loại.
3.- Mỗi sự thật làm bằng ba sự thật : Sự thật của tôi, sự thật của bạn, sự thật của
chúng ta.
Xuyên qua những nhận định được trình bày trong đoạn hai trên đây, khi hai
người thiết lập một quan hệ tiếp xúc và trao đổi, ba sự thật sẽ từ từ xuất hiện
trong câu chuyện. Trong câu chuyện của tôi, tôi trình bày sự thật của riêng tôi.
Người bạn cũng có một sự thật trong lối nhìn của mình.
Thay vì khai trừ, loại thải nhau trong những quan hệ nhị nguyên hơn thua, đúng
sai.... hai chân lý khác nhau và phiến diện tìm cách bổ túc và kiện toàn nhau để
lập thành một chân lý toàn diện, thứ ba : Đó là chân lý của chúng ta. Chân lý
nầy chỉ xuất hiện khi tôi có điều kiện khẳng định mình và người bạn cũng có
điều kiện diễn tả chân lý của mình, giống như tôi. Trái lại, khi một trong hai
người, tự cho mình có mọi quyền năng và nắm độc quyền về chân lý toàn bích,
toàn diện, cho dù thuộc địa hạt nào, người ấy đang là chướng ngại cho mọi
công cuộc tìm kiếm chân lý, trong lòng Nhân loại.
Bất kể chúng ta là ai, ở vị trí nào, trong lãnh vực nào, chúng ta đều là những
người trên đường tìm kiếm chân lý, chúng ta phải học, bằng cách đón nhận, tôn
trọng chân lý của người anh chị em đang cùng chúng ta làm người : Càng đón
nhận chân lý của họ, họ càng tìm kiếm chân lý. Càng coi trọng tư cách làm
người của họ, họ càng vươn lên, phát huy mọi chiều kích làm người.
4.- Thế nào là học ? Đâu là những động tác cụ thể cần thực thi mỗi ngày ?
Khi chúng ta coi trọng sự khác biệt của người anh chị em đang chung sống và
làm việc với chúng ta, chính sự khác biệt ấy là đối tượng học hỏi, là đề tài
nghiên cứu của chúng ta suốt cuộc sống làm người. Cách chúng ta độ chừng
không hơn một thế kỷ, trẻ em chậm trí, chậm phát triển còn được gọi là khuyết
tật tâm thần, được đồng hóa với những bệnh nhân tâm trí. Nhờ sáng kiến của
một vài nhà tiên phong, những trẻ em ấy dần dần được xem là trẻ em như bao
nhiêu trẻ em khác, có quyền đi học. Có quyền được giáo dục, được học làm
người. Từ đó, ngành sư phạm đặc biệt đã khám phá "một sự thật mới" : Các em
ấy vẫn có khả năng học và phát triển như mọi em khác. Nhưng cách học của
các em có những nét riêng biệt, đặc thù, độc đáo cần được nghiên cứu, phát
hiện.
Điều đáng chúng ta lưu tâm là khi ngành sư phạm đặc biệt biết tôn trọng sự
khác biệt của những trẻ em khuyết tật, thì ngành sư phạm "bình thường", cổ
điển không còn vòng vo, luẩn quẩn trong những con đường mòn đã có sẵn từ
bao nhiêu đời. Dạy không phải là từ trên, từ ngoài "rót" xuống, "rót" vào cho
đầy. Khi một học sinh thất bại, không tiến bộ, chưa hẳn "vì nó dốt, nó làm
biếng, vì dòng họ nó như vậy". Ngày hôm nay, khi một vấn đề xảy đến cho một
học sinh, chính người giáo viên phải bắt đầu đặt mình thành vấn đề : tôi đã dạy
làm sao ? Lối nhìn của tôi về em ấy đã tạo nên những ảnh hưởng gì ? Quan hệ
tình cảm đóng vai trò như thế nào ? Ngôn ngữ tôi sử dụng có thích hợp với "kế
hoạch học tập" của học sinh ấy không ? Không "nhìn mình" một cách thành
tâm và khiêm cung, chúng ta tự tôn phong mình thành "giai cấp thống trị", tự
cho mình "có mọi chân lý". Và phía bên kia, phía "hạ tầng" dưới kia có bổn
phận "dựa cột mà nghe" hay là "câm miệng lại như hến" mà vâng lời, tuân hành
... một cách ngoan đạo. Tệ hại hơn nữa là chúng ta dùng roi đòn để giáo dục.
5.- Trên bình diện khoa học kỹ thuật, học là thường xuyên đặt ra cho mình ba
câu hỏi, và tìm cách trả lời một cách "liêm chính", không thỏa hiệp, không
đồng lõa. Không lượn lẹo, đút lót để có thể dễ dàng bước qua cửa khẩu với
những hành lý "quốc cấm".
Câu hỏi thứ nhất : Tôi bắt đầu tiến trình tư duy với những sự kiện nào ? Sự kiện
tôi đề xuất có phải thực sự là sự kiện hay là tiếng đồn thổi ? Phải chăng tôi chỉ
lặp lại một tin tưởng được nhai đi nhai lại, được cha truyền con nối từ bao
nhiêu đời, và chưa bao giờ được kiểm chứng ?
Câu hỏi thứ hai : Giả thuyết tôi muốn chứng minh là gì ? Có một giả thuyết thứ
hai nào cần khảo sát không ? Ở vào địa vị của tôi, người thương tôi sẽ có giả
thuyết nào ? Người ghét tôi sẽ đề xuất gì ? Người quan sát hoàn toàn khách
quan, không có quan hệ tình cảm với tôi sẽ nói gì ?
Câu hỏi thứ ba : Kết luận có khả năng điều hướng hành động, gồm có những
trọng điểm nào ? Những lợi ích ngắn và dài hạn là gì? Kết luận của tôi có gây
thiệt hại cho người nào không ? Nếu có, tôi đền bù làm sao, với tư cách làm
người và lòng tôn trọng con người của tôi?
***
Sau khi tôi trình bày , người đối diện cũng có một không gian tình cảm và một
thời gian cần thiết để diễn tả lối nhìn và nhu cầu của mình, tôi tạo mọi điều
kiện thuận lợi với phương pháp phản hồi và đặt câu hỏi, để mọi người có mặt
có thể đi qua ba nấc thang trong tiến trình tư duy của mình ; sự kiện, giả thuyết
và kết luận :
- Bạn dựa vào sự kiện nào để khẳng định ý kiến ?
- Bạn đưa ra giả thuyết nào, khi kể lại sự cố ấy ?
- Bạn rút ra kết luận nào để hành động?
***
Sau khi mọi thành viên diễn tả "chân lý cá nhân" của mình, tập thể đi qua giai
đoạn tổng hợp "chúng ta". Đồng điểm cơ bản và dị điểm chủ yếu giữa chúng ta
là gì ? Chúng ta làm gì với những khác biệt hiện tại ?
Nói đến tập thể là nói đến một cộng đồng bao gồm những thành viên bình đẳng
về giá trị làm người. Tuy nhiên, trong mỗi tổ chức, luôn luôn có những trách
nhiệm khác nhau. Có những quyết định và chọn lựa cuối cùng. Những quyết
định nầy không bao giờ có tính vĩnh viễn. Chúng ta có bổn phận đổi mới bổ túc
và kiện toàn, vì đó là điều kiện và thân phận làm người. Tôi nhận làm của mình
lối nhìn của người Latinh ; Humanitas semper eadem et semper reformanda est.
Nhân loại vừa đồng nhất từ nguyên thủy cho tới ngày nay; nhưng đồng thời
cũng luôn luôn đổi mới từng ngày. Phủ nhận một trong hai nhu cầu nầy của
nhân loại, chúng ta đang phản bội chính bản sắc làm người của chúng ta.
***
6.- Trong địa hạt giáo dục, để giúp trẻ em vừa có một lối nhìn tự lập, độc lập,
vừa có khả năng lắng nghe và tôn trọng ý kiến của nhiều người khác trong môi
trường, chúng ta - người làm cha mẹ cũng như giáo viên ở trường học - hãy
biết lắng nghe trẻ em, kêu mời, khuyến khích cho phép trẻ em bình tỉnh và lễ
phép nói ra ý kiến của mình. Sau đó, chúng ta tạo điều kiện cho các em có thói
quen đi tham khảo kẻ khác, người quen, người lạ, kẻ dưới người trên :
- "Con hãy đi hỏi bạn con, mẹ con ... Bạn con nói gì ? Cô giáo nói gì ? ...
- "Sau khi hỏi ý kiến như vậy, con thấy việc con đánh em con đúng hay sai, nên
làm hay nên tránh ...
- "Bây giờ con phải làm gì ?
Vào giai đoạn nầy với tư cách là người có trách nhiệm cuối cùng, chúng ta mới
đưa ra lối nhìn phải - trái của mình. Không được soi sáng và hướng dẫn ở giai
đoạn quyết định nầy, trẻ em sẽ thiếu kỹ luật, nghĩa là không có thứ tự và cơ cấu
tổ chức trong nội tâm của mình. Đàng khác, nếu chúng ta đốt giai đoạn, đề xuất
ý kiến quá sớm, không tôn trọng tiến trình đi lên từng bước, chúng ta sẽ áp đặt
một cách đơn phương, độc tài từ ngoài. Con cái "bị" giáo dục như vậy, sẽ lớn
lên và chỉ có hai con đường để chọn lựa : bị động, thiếu sáng kiến, thiếu bản
lãnh, hay là phản động, chối từ tất cả, một cách có hệ thống : vì kẻ khác nói
trắng cho nên tôi phải nói đen. Đó là loại người chỉ biết phản ứng, thay vì có
khả năng đáp ứng, sáng tạo, quyết định, chọn lựa, lắng nghe.
Thêm vào đó, nếu con người bị đe dọa, cưỡng chế, đàn áp, trừng phạt để thay
đổi, họ sẽ không bao giờ thay đổi lối nhìn và nhu cầu của mình. Thay vì đào
tạo, giáo dục những con người tự do, chúng ta chỉ chế tạo hàng loạt thế hệ nô
lệ, công cụ, giả tạo và giả dối. Mọi đổi mới thực sự, trái lại, phát xuất từ bên
trong nội tâm. Một trẻ em chỉ học, chừng nào nội dung học tập vừa thuộc thực
tế của nó, để nó có thể sử dụng; vừa thuộc vui thích, hứng thú để nó hội nhập,
nghĩa là chuyển biến bài học thành bản sắc hay là nhu cầu, động cơ thúc đẩy từ
bên trong.
7.- Ba nội dung
Học trong tinh thần và chiều hướng vừa được trình bày bao gồm ba nội dung :
Thứ nhất, tôi học làm cha mẹ để sáng soi, hướng dẫn và nâng đỡ kẻ khác trên
đường đời.
Thứ hai, tôi học làm bạn đồng hành, chia sẻ. Một cây làm chẳng nên non, ba
cây họp lại thành hòn núi cao. Với điều kiện nầy, chúng ta mới có khả năng
khẳng định "bàn tay ta làm nên tất cả. Với sức người, sỏi cũng thành cơm".
Thứ ba, tôi học làm một đứa con hạnh phúc trong lòng Quê hương. Tôi vừa
biết cho vừa biết nhận. Vừa được thương yêu đùm bọc, nuôi nấng; vừa có khả
năng nuôi lại cha mẹ và những người khác : bằng liếc nhìn, tiếng nói bi bô,
những nụ hôn nồng thắm, những tâm sự thỏ thẻ dịu ngọt. Nói tóm lại, khi hạnh
phúc, tự nhiên tôi đồng cảm. Khi biết đồng cảm, tự nhiên tôi hạnh phúc.
Trái lại, khi nào tôi đàn áp kẻ khác, sống xé lẻ hay là bị khổ đau xoi mòn, ô
nhiễm tôi đang gieo vãi những hạt mầm bạo động trong bản thân tôi và trong
lòng nhân loại.
Lúc bấy giờ, thay vì làm cha mẹ kỹ cương và từ tâm, có khả năng soi sáng và
nâng đỡ, tôi chỉ có tác phong cưỡng chế, trừng phạt hay là buông xuôi, cho
phép tất cả ... Với cách làm nầy, chúng ta đang sản chế trong lòng nhân loại
những lớp người hoặc bị động, hoặc làm ông trời con chỉ biết hành hạ, đàn áp
kẻ khác. Báo chí, truyền thanh, truyền hình đang nói đến những hiện tượng nầy
mỗi ngày, nhất là trên các đô thị đông dân cư và đại công nghiệp. Những hiện
tượng ấy cũng đang có mặt trong cõi lòng của chúng ta !
***
Trở lại với bài học của Lạc Long Quân về sự khác biệt giữa chúng ta, chúng ta
đừng quên vế thứ hai :
"Khi có việc cần, hãy gọi nhau về".
Chúng ta khác nhau như Rồng và Tiên, như Trời và Bể. Nhờ khác nhau, chúng
ta có khả năng bổ túc kiện toàn cho nhau. "Hãy gọi nhau về", để cùng nhau trở
thành Bồ Tát : có trăm cánh tay để làm, có trăm đôi chân để đi đến với từng
người anh chị em đồng bào.
Cho đến bao giờ, người Việt Nam mới hội nhập và nhuần nhuyễn bài học làm
người ấy? Phải chăng đó là chiếc nõ thần bão quốc mà chúng ta đã lãng quên
trong đáy sâu u tối của tâm hồn, từ bao nhiêu đời ? Ai có khả năng lặn sâu
xuống đó, tìm lại gia bảo và trả lại cho anh chị em đồng bào ? Người ấy không
là ai khác, ngoài Em và Tôi. Tất cả chúng ta là những vị thần Kim Qui đang
thành và sẽ thành trong lòng Quê hương và Đất Nước.
Chúng ta hãy "gọi nhau về", để cùng nhau tìm cách tận diệt "ngư tinh, hồ tinh
và mộc tinh" trong lòng Quê hương, Đất Nước. Ngư tinh là những của ăn tinh
thần bị đầu độc, ô nhiễm ... Hồ tinh là những hang động u tối, tanh hôi trong
cõi lòng của mỗi người. Mộc tinh là những loại cây văn hóa mất gốc, không
còn phục vụ và tôn trọng con người.
Không gọi nhau về để hóa giải ba loại vấn đề ấy, chúng ta sẽ trối lại cho con
cháu một gia tài đổ nát và tang thương. Ngư tinh, Hồ tinh và Mộc tinh sẽ biến
con cháu Rồng Tiên thành tinh yêu ma quái. Nước non sẽ đẻ ra những thế hệ
"Sơn tinh và Thủy tinh" suốt đời "làm gà một nhà bôi mặt đá nhau".

Lão ngày dài

Tại một vùng quê nọ, có một lão địa chủ cực kỳ gian tham. Của cải của hắn
nhiều như nước, nhưng lòng tham vô đáy luôn luôn xui khiến hắn tìm mọi cách
làm giàu thật ráo riết.

Một bữa kia, hắn nằm mơ thấy mình tìm được cách kéo ngày dài thêm sáu
tiếng. Từ đó những người thợ cày mỗi ngày sẽ phải làm thêm cho lão sáu tiếng
nữa. Nhưng lúc tỉnh dậy thấy đó chỉ là giấc mơ thì hắn cầu trời khấn phật giúp
hắn. Thấy thế, những người thợ cày vừa sợ hãi vừa ngán ngẩm. Họ đã phải làm
cho lão mười hai tiếng một ngày, bây giờ lại thêm sáu tiếng nữa thì chết mật.
Mỗi khi làm lụng quá mệt, họ muốn được nghỉ ngơi, nhưng vừa mới vươn vai,
đã nghe tiếng quát của hắn:
- Làm đi! Đồ lười! Chưa đến giờ nghỉ!

Bởi thế một hôm bỗng nghe tin có thầy tu đến nhà lão địa chủ giúp lão kéo dài
ngày thêm sáu tiếng, mọi người lo lắng lắm, còn với lão địa chủ thì lại hết sức
mừng rỡ, lão chạy ra đón thầy tu vào nhà, mời ăn những món cao lương mỹ vị.
Sau khi cơm rượu no say, lão tự mình dọn giường nệm cho thầy tu nằm nghỉ.

Sáng hôm sau, thầy tu tỉnh dậy, lão đã lập cập nói:

- Bạch thầy, lâu nay con ngày đêm cầu trời khấn phật, nhưng hôm nay xin thầy
giúp con một việc.

Rồi lão giãi bày ý muốn của lão. Nghe xong thầy tu đáp:

- Thượng đế đã thấu nỗi lòng con. Giờ đây, mọi việc phụ thuộc vào con. Tự con
phải làm trước tất cả mọi người, tất cả số giờ con muốn, mà phải làm liên tục,
làm xong mới được nghĩ. Tới khi đó ước muốn của con sẽ thành sự thật.

Lão địa chủ nghĩ bụng: “Bọn thợ cày đói khát ngày nào cũng phải làm hai
mươi tiếng, còn ta chỉ phải làm một lần hai mươi sáu tiếng thì có sao. Sau đó,
ta sẽ bắt bọn chúng phải làm hai mươi sáu tiếng một ngày. Rồi ta sẽ trở nên
giàu nhất thiên hạ”

Không chậm trễ, lão địa chủ tham lam đi ra cánh đồng. Thầy tu hộ tống lão.
Tên nhà giàu đến chỗ ruộng lạc và cuốc. Giờ đầu, lão làm việc vui vẻ sảng
khoái. Giờ thứ hai lão bắt đầu thấy mệt, định nghỉ tay. Nhưng thầy tu khẽ quát:

- Làm đi! Đồ lười! Chưa đến giờ nghỉ!

Lão nhà giàu thở hổn hển tiếp tục công việc. Mặt trời lên tới ngọn tre, lão địa
chủ đã đầm đìa mồ hôi. Lão không còn trông thấy cánh thợ cày đã ngừng tay
xem lão cuốc. Đã mấy ai trong đời thấy lão làm việc ! Lão địa chủ lấy ống tay
áo lau mồ hôi, muốn hỏi thầy tu xem đã làm được bao lâu, nhưng không đủ
sức.

Thầy tu lại quát:

- Làm đi! Đồ lười! Nhìn bóng nắng xem, mi mới làm chưa được ba tiếng đồng
hồ.

Một đôi lần lão địa chủ vung cuốc lên, người lảo đảo. Lão mệt quá, ngã gục
xuống ruộng. Lão vẫn muốn vớ lấy chiếc cuốc nhưng không nâng nổi lên nữa.
Lão dừng tay cố bới đất. Tay lão rớm máu, lão hỏi thầy tu:

- Bạch thầy, con đã làm được mấy giờ?


Thầy tu đáp:

- Bốn tiếng nữa mới tới trưa.

Nghe nói vậy, lão ngất lịm.

Mọi người đặt lão lên cáng, đưa về nhà. Ngày hôm ấy không ai làm việc trên
cánh đồng của lão. Còn thầy tu cũng biến mất.

Nghe nói ông thầy tu không phải là ai xa lạ, mà là một bác nông dân đóng giả.
Từ đó mọi người chế nhạo gọi lão địa chủ là “lão ngày dài”. Mỗi lần trông thấy
lão đi trên đường, người ta lại chỉ trỏ bảo nhau:

- Nhìn kìa, Lão ngày dài đang đi đấy!

Sự tích bông hoa cúc trắng

Ngày xưa có một cô bé sống cùng mẹ trong một túp lều tranh dột nát nhưng đó
là một bé gái vô cùng hiếu thảo. thật ko may mẹ của cô bé lại bị bệnh rất nặng
nhưng vì nhà nghèo nên ko có tiền mua thuốc chữa , và cô bé vô cùng buồn bã
một lần đang ngồi khóc bên đường bỗng có một ông lão đi qua thấy lạ bèn
đừng lại hỏi khi biết sự tình ông già nói với cô bé :
-Cháu hãy vào rừng và đến bên gốc cây cổ thụ to nhất trong rừng hái lây một
bông hoa duy nhất trên đo. bông hoa ấy có bao nhiêu cánh thì tức là mẹ cháu
sống được bằng đấy ngày.
Cô bé liền vào rừng va rất lâu sau mới tìm thấy bông hoa trắng đó , phải khó
khăn lắm cô mới trèo lên được để lấy bông hoa nhưng khi đếm chỉ có một cánh
hai cánh ba cánh bốn canh. chỉ có bốn cánh hoa là sao chứ?
Chẳng nhẽ mẹ cô chỉ sống được bàng đấy ngày thôi sao? ko đành lòng cô liền
dùng tay xé nhẹ dần từng cánh hoa lớn thành những cánh hoa nhỏ và bông hoa
cũng theo đó mà nhiều cánh dần lên nhiều đén mức ko còn đếm được nữa. từ
đó người đời gọi bông hoa ấy là bông hoa cúc trắng để nói về lòng hiếu thảo
của cô bé đó dành cho mẹ mình.

Ganh tị và Tham lam

Câu chuyện có tính cách ngụ ngôn sau đây đã xảy ra tại thế kỷ thứ 16 tại Ấn
Ðộ. Trong triều đình có hai viên sĩ quan nổi tiếng vì những đam mê của mình.
Một người thì ganh tị, một người thì tham lam.

Ðể chữa trị những tính xấu ấy, vua cho triệu tập hai viên sĩ quan vào giữa triều
đình. Vua thông báo sẽ tưởng thưởng hai viên sĩ quan vì những phục vụ của họ
trong thời gian qua. Họ có thể xin gì được nấy, tuy nhiên, người mở miệng xin
đầu tiên chỉ được những gì mình muốn, còn người thứ hai sẽ được gấp đôi.

Cả hai viên sĩ quan đều đứng thinh lặng trước mặt mọi người. Người tham lam
nghĩ trong lòng: nếu tôi nói trước, tôi sẽ được ít hơn người kia. Còn người ganh
tị thì lý luận: thà tôi không được gì còn hơn là mở miệng nói trước để tên kia
được gấp đôi... Cứ thế, cả hai đều suy nghĩ trong lòng và không ai muốn lên
tiếng trước. Cuối cùng, vua mới quyết định yêu cầu người ganh tị nói trước.
Người này lại tiếp tục suy nghĩ: thà không được gì còn hơn để tên tham lam kia
được gấp đôi. Nghĩ như thế, hắn mới dõng dạc tuyên bố: "Tôi xin được chặt
đứt một cánh tay...". Hắn cảm thấy sung sướng với ý nghĩ là người tham lam sẽ
bị chặt hai cánh tay.

Lắm khi chúng ta không hài lòng về cái mình có và chúng ta cũng không sung
sướng khi người khác gặp nhiều may mắn hơn chúng ta. Không bằng lòng về
chính mình, chúng ta không được hạnh phúc, mà bất mãn về người khác, chúng
ta lại càng đau khổ hơn

You might also like