You are on page 1of 84

1

Chương 1.
SINH HỌC BẢO TỒN VÀ ĐA DẠNG SINH HỌC
Mục tiêu:
Giới thiệu khái niệm cơ bản về Sinh học bảo tồn và các mức độ đa dạng sinh học (đa
dang loài, gen và đa dạng hệ sinh thái). Định lượng đa dạng sinh học. Sự phân bố của đa dạng
sinh học. Những giá trị của đa dạng sinh học.
Số tiết: 9
Nội dung:
I. Khái niệm về sinh học bảo tồn
Trên trái đất, các quần xã sinh vật trải qua hàng triệu năm phát triển đang bị đe dọa bởi
các hoạt động của loài người.
Sự tuyệt chủng hàng loạt ngày nay có thể so sánh với sự tuyệt chủng của các thời kỳ địa
chất trong quá khứ, trong đó hàng chục ngàn, thậm chí hàng triệu loài bị tiêu diệt do các thảm
hoạ tự nhiên, có thể là sự va chạm của các thiên thạch, động đất, hoả hoạn,...
Nhiều loài đang bị suy giảm một cách nhanh chóng, thậm chí một số loài đang ở
ngưỡng cửa của tuyệt chủng mà nguyên nhân chủ yếu là do săn bắt quá mức, do sinh cảnh bị
phá hủy và do sự xâm nhập của các loài ngoại lai.
Nguy cơ đối với đa dạng sinh học ngày càng tăng do áp lực dân số tăng lên một cách
nhanh chóng cũng như các tiến bộ về khoa học kỹ thuật. Tình trạng này lại càng trở nên trầm
trọng hơn do việc phân phối của cải trên thế giới không đồng đều, về sự phân hóa giàu nghèo
giữa các nước phát triển và kém phát triển, đặc biệt đối với các nước nhiệt đới, nơi vốn rất
phong phú về loài. Hơn thế nữa, sự đe dọa đối với đa dạng sinh học do các yếu tố đơn độc
chẳng hạn như mưa axit, khai thác gỗ, săn bắn quá mức,... cùng kết hợp với nhau làm cho tình
trạng ngày càng tồi tệ hơn.
Như vậy chúng ta có thể thấy rằng, khác với các cuộc tuyệt chủng hàng loạt đã xảy ra
trong quá khứ, sự tuyệt chủng hàng loạt trong giai đoạn hiện nay có những đặc trưng như sau:
• Xảy ra với tốc độ rất nhanh.
• Tác nhân chủ yếu là do con người (không phải bởi các điều kiện tự nhiên).
• Liên quan đến việc mất mát, chia cắt và suy thoái nơi ở.
• Không kèm theo sự hình thành loài mới.
Sinh học bảo tồn là một nguyên lý khoa học được xây dựng để bảo vệ các loài, thiết lập
các khu bảo tồn mới và cũng cố nâng cấp các vườn quốc gia cũng là để xác định những loài
nào trên trái đất được bảo tồn cho tương lai.
Sinh học bảo tồn là một khoa học đa ngành (multi-disciplinary), tập hợp được rất nhiều
người và nhiều tri thức thuộc các lĩnh vực khác nhau nhằm khắc phục tình trạng khủng hoảng
đa dạng sinh học hiện nay.
Sinh học bảo tồn bổ sung các nguyên tắc ứng dụng (applied disciplines) bằng cách cung
cấp phương pháp tiếp cận có tính chất lý thuyết tổng thể cho việc bảo tồn đa dạng sinh học.
Sinh học bảo tồn khác với các khoa học khác ở chổ là bảo tồn một cách lâu dài toàn bộ quần
xã sinh vật là chính, các yếu tố kinh tế thường là thứ yếu.
Về nhiều mặt có thể nói sinh học bảo tồn là một khoa học thiết yếu (crisis discipline).
Các quyết định về vấn đề bảo tồn được đưa ra hàng ngày và thường là với những thông tin rất
hạn chế do thời gian cấp bách. Sinh học bảo tồn cố gắng đề xuất những giải pháp phù hợp để
giải quyết các vấn đề nảy sinh trong điều kiện thực tế ngày nay.
2

Từ các khái niệm trên, có thể thấy rằng sinh học bảo tồn có hai mục tiêu: một là tìm
hiểu những tác động tiêu cực do hoạt động của con người gây ra đối với các loài, quần xã và
các hệ sinh thái; hai là để xây dựng các phương pháp tiếp cận để hạn chế sự tuyệt diệt của
các loài và nếu có thể được, cứu trợ các loài đang bị đe dọa bằng cách đưa chúng hội nhập
trở lại các hệ sinh thái đang còn phù hợp với chúng.
Vào đầu những năm 1970, các nhà khoa học đã nhận thức được tình trạng khủng
hoảng của đa dạng sinh học, nhưng không có một diễn đàn hay tổ chức trung tâm để đối phó
với vấn đề đó. Số lượng người suy nghĩ và tiến hành nghiên cứu về vấn đề bảo tồn tăng lên thì
cần thiết phải có thông tin cho nhau các phương pháp tiếp cận và ý tưởng mới. Để có thể thảo
luận các mối quan tâm của mình, nhà sinh thái học Micheal Soulé đã tổ chức Hội thảo Quốc
tế đầu tiên về Bảo tồn Sinh học vào năm 1978. Tại cuộc họp này, với sự tham gia của các nhà
bảo tồn động vật hoang dã, các nhà quản lý động vật, các Viện sĩ,... Soulé đã trình bày một
phương pháp tiếp cận liên ngành mới để cứu giúp các loài thực vật, động vật khỏi cơn sóng
tuyệt chủng hàng loạt do con người gây ra. Sau đó cùng với đồng nghiệp là Paul Ehrlich và
Jared Diamond, Soulé đã phát triển Sinh học bảo tồn thành một ngành khoa học, trong đó kết
hợp các kinh nghiệm về quản lý động vật hoang dã, lâm nghiệp và sinh học nghề cá với các lý
thuyết về sinh học quần thể, di truyền, tiến hoá và địa lý sinh học để phát triển những phương
pháp và tiếp cận mới trong việc bảo tồn loài và các hệ sinh thái.
II. Khái niệm về đa dạng sinh học
Theo định nghĩa của Quỹ Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên (World Wildlife Fund) thì đa
dạng sinh học là “sự phồn thịnh của cuộc sống trên trái đất, là hàng triệu loài động vật, thực vật
và vi sinh vật, là những nguồn gen của chúng và là các hệ sinh thái phức tạp cùng tồn tại trong
môi trường sống”.
Như thế, đa dạng sinh học cần phải được xem xét ở ba mức độ. Đa dạng sinh học ở mức
độ loài bao gồm tất cả sinh vật trên trái đất từ vi khuẩn đến các loài động vật, thực vật và nấm.
Ở mức nhỏ hơn, đa dạng sinh học bao gồm sự khác biệt về gen giữa các loài, khác biệt về gen
giữa các quần thể cách ly nhau về địa lý cũng như khác biệt giữa các cá thể cùng chung sống
trong một quần thể. Đa dạng sinh học cũng bao gồm sự khác biệt trong các quần xã sinh học nơi
các loài đang sinh sống, các hệ sinh thái trong đó các quần xã tồn tại và cả sự khác biệt của các
mối tương tác giữa chúng với nhau. Sự khác biệt giữa đa dạng sinh học ở 3 mức độ khác nhau
được thể hiện qua bảng 1.1.
Bảng 1.1. Các mức độ đa dạng sinh học (Heywood& Baste 1995)
Đa dạng loài Đa dạng di truyền Đa dạng sinh thái
Giới (Kingdoms) Quần thể (Populations) Sinh đới (Biomes)
Ngành (Phyla) Cá thể (Individuals) Vùng sinh học (Bioregions)
Lớp (Class) Nhiễm sắc thể (Chromosomes) Cảnh quan (Landscapes)
Bộ (Order) Gene Hệ sinh thái (Ecosystems)
Họ (Families) Nucleotide Nơi ở (Habitats)
Giống (Genera) Tổ sinh thái (Niches)
Loài (Species)
Nguồn: Kevin J Gaston and John I Spicer, 2004.
1. Đa dạng loài.
Đa dạng loài bao gồm tất cả loài trên trái đất. Mỗi loài thường được xác định theo một
trong hai cách. Thứ nhất, một loài được xác định là một nhóm các cá thể có những đặc tính
hình thái, sinh lý, sinh hoá đặc trưng khác biệt với những nhóm cá thể khác (định nghĩa về
3

hình thái của loài). Thứ hai là một loài có thể được phân biệt như là một nhóm cá thể có thể
giao phối giữa chúng với nhau để sinh sản thế hệ con cái hữu thụ và không thể giao phối sinh
sản với các cá thể của các nhóm khác (định nghĩa về sinh học của loài).
Hiện nay, có khoảng 1,7 triệu loài đã được mô tả. Ít nhất là hai lần số đó còn chưa mô tả,
chủ yếu là côn trùng và các nhóm chân khớp khác trong vùng nhiệt đới (Bảng 1.2).
Bảng 1.2. Đánh giá số loài đã được mô tả (Lecointre and Guyader, 2001)
Bậc phân loại Tên thường gọi Số loài mô tả % số loài đã được mô tả
Bacteria Vi khuẩn 9.021 0.50
Archaea Vi khuẩn cổ 259 0.01
Bryophyta Rêu 15.000 0.90
Lycopodiophyta Thông đất 1.275 0.07
Filicophyta Dương xỉ 9.500 0.50
Coniferophyta Ngành Thông 601 0.03
Magnoliophyta Thực vật hạt kín 233.885 13.40
Fungi Nấm 100.800 5.80
"Porifera" Bọt biển 10.000 0.60
Cnidaria Ruột khoang 9.000 0.50
Rotifera Trùng Bánh xe 1.800 0.10
Platyhelminthes Giun dẹp 13.780 0.80
Nematoda Giun tròn 20.000 1.10
Mollusca Thân mềm 117.495 6.70
Annelida Giun đốt 14.360 0.80
Arachnida Nhện 74.445 4.30
Crustacea Giáp xác 38.839 2.20
Insecta Côn trùng 827.875 47.40
Echinodermata Da gai 6.000 0.30
Chondrichthyes Cá sụn 846 0.05
Actinopterygii Cá xương 23.712 1.40
Amphibia Lưỡng thê 4.975 0.30
Reptilia Bò sát 7.140 0.42
Aves Chim 9.672 0.60
Mammalia Thú 4.496 0.30
Các nhóm khác 193.075 11.00
1.747.851 100.00
4

Trên phạm vi toàn thế giới còn cần rất nhiều nổ lực để có thể hoàn thiện được danh mục
đầy đủ các loài. Mỗi năm các nhà phân loại trên thế giới mô tả được khoảng 11.000 loài
(chiếm từ 10 đến 30% các loài có trên thế giới), và như vậy, để có thể mô tả hết các loài trên
thế giới (ước tính 10 đến 30 triệu loài) dự kiến phải tốn từ 750 năm đến 2.570 năm, trong khi
đó có nhiều loài đã bị tuyệt chủng trước khi chúng được mô tả và đặt tên.
Kiến thức của chúng ta về số lượng loài là chưa chính xác do nhiều loài khó thấy còn
chưa được phân loại học chú ý.
Một vùng rùng mưa miền núi hẻo lánh nằm giữa Việt Nam và Lào vừa mới được các
nhà sinh học khảo sát trong thời gian gần đây. Một điều kỳ diệu đã xảy ra, tại đây họ đã phát
hiện được 5 loài thú mới cho khoa học đó là Mang lớn (Megamuntiacus vuquangensis), Sao
La (Pseudoryx nghetinhensis), Bò sừng xoắn Tây Nguyên (Bos sauveli), Mang Trường Sơn
(Muntiacus truongsonensis) và Mang lá (Muntiacus rooseveltorum).
2. Đa dạng di truyền
Thể hiện sự sai khác về di truyền giữa các cá thể trong một quần thể và giữa các quần
thể với nhau.
Đa dạng di truyền trong nội bộ loài thường là kết quả của tập tính sinh sản của các cá
thể trong quần thể. Một quần thể là một nhóm các cá thể giao phối với nhau và sản sinh ra
con cái hữu thụ. Một loài có thể có một hay vài quần thể khác nhau. Một quần thể có thể chỉ
gồm một số ít cá thể hay có thể có hàng triệu cá thể.
Các cá thể trong một quần thể thường rất khác nhau về mặt di truyền. Sự đa dạng về bộ
gen có được do các cá thể có các gen khác nhau, gen là một đơn vị di truyền cùng với những
chromosome được đặc trưng bởi những protein đặc biệt. Các dạng khác nhau của gen được
gọi là allen và những sự khác biệt nảy sinh qua đột biến, là những sự thay đổi xảy ra trong
DNA, đơn vị cấu thành nhiễm sắc thể của cá thể. Sự khác biệt của các allen trong gen có thể
ảnh hưởng đến sự phát triển và sinh lý của các cá thể một cách khác nhau.
Tổng số các sắp xếp của gen và allen trong quần thể được coi là quỹ gen (gene pool),
trong khi một tổ hợp nào đấy của gen và allen trong bất kỳ cá thể nào thì được gọi là kiểu di
truyền (genotype). Kiểu hình (phenotype) của một cá thể nói lên các đặc điểm về hình thái,
sinh lý, sinh hoá là kết quả của biểu hiện kiểu gen trong một môi trường nhất định.
Sai khác di truyền cho phép các cá thể thích ứng với những thay đổi của môi trường.
Nhìn chung, các loài quí hiếm ít có sự đa dạng di truyền hơn các loài có phân bố rộng và kết
quả là chúng dễ bị tuyệt chủng hơn khi điều kiện môi trường thay đổi
3. Đa dạng quần xã và hệ sinh thái
Đa dạng về hệ sinh thái là thước đo sự phong phú về sinh cảnh, nơi ở, tổ sinh thái và các
hệ sinh thái ở các cấp độ khác nhau. Sự đa dạng này được phản ảnh quan trọng nhất bởi sự đa
dạng về sinh cảnh (biotops), các quần xã sinh vật và các quá trình sinh thái trong sinh quyển.
Môi trường vật lý, đặc biệt là vòng tuần hoàn năm của nhiệt độ và lượng mưa, ảnh
hưởng đến cấu trúc và đặc điểm của quần xã sinh học, quyết định địa điểm đó sẽ là rừng,
đồng cỏ, sa mạc hay đất ngập nước. Quần xã sinh vật cũng có thể biến đổi tính chất vật lý của
hệ sinh thái.
Trong một quần xã sinh học, mỗi loài sử dụng một nhóm tài nguyên nhất định, tạo
thành tổ sinh thái của loài đó. Tổ sinh thái cho một loài thực vật có thể bao gồm loại đất mà
loài đó sống, lượng ánh sáng mặt trời và độ ẩm mà loài đó cần, kiểu hệ thống thụ phấn và cơ
chế phát tán của hạt,... Tổ sinh thái của một loài động vật có thể bao gồm kiểu nơi sinh sống
của loài, biên độ nhiệt độ mà loài đó có thể sống được, các loại thực phẩm và lượng nước mà
chúng cần,... Bất cứ thành phần nào của tổ sinh thái đều là nguồn tài nguyên có giới hạn và do
đó có ảnh hưởng đến giới hạn kích thước của quần thể.
5

III. Định lượng đa dạng sinh học


Ngoài định nghĩa đa dạng sinh học được chấp nhận bởi nhiều nhà sinh học bảo tồn, định
nghĩa về số lượng tính đa dạng sinh học cũng được sử dụng như là một phương thức để so
sánh sự đa dạng tổng thể của các quần xã khác nhau.
Theo như định nghĩa về đa dạng sinh học, rõ ràng là không có một thước đo duy nhất nào
để định lượng đa dạng sinh học một cách đầy đủ. Chúng ta không thể nói lên tính đa dạng sinh
học của một khu vực dù có diện tích lớn hay nhỏ chỉ bằng một con số duy nhất.
Đa dạng di truyền thường được coi là đơn vị cơ sở của sự sống, tuy nhiên, trong thực tế,
đa dạng loài thường được coi là nhân tố cơ bản của đa dạng sinh học.
Các chỉ số toán học về đa dạng sinh học đã được thiết lập để mô tả sự đa dạng loài ở các
phạm vị địa lý khác nhau. Số lượng loài trong một quần xã hay hệ sinh thái thường được mô tả
là đa dạng α.
Khái niệm đa dạng β đề cập đến mức độ dao động thành phần loài khi các điều kiện môi
trường thay đổi như thế nào.
Đa dạng γ áp dụng đối với một vùng địa lý rộng lớn gồm nhiều sinh cảnh và được định
nghĩa là “một tỷ lệ mà ở đấy các loài thêm vào được bắt gặp là những sự thay thế địa lý trong
một dạng nơi ở thuộc các vùng khác nhau”.
Đa dạng α xuất phát từ một khái niệm phổ biến về sự phong phú của loài (species
richness) và có thể sử dụng để so sánh số lượng loài trong các hệ sinh thái khác nhau. Có nhiều
phương thức khác nhau để định lượng đa dạng sinh học, tuy vậy, độ phong phú về loài là chỉ số
thông dụng nhất để diễn tả đa dạng sinh học vì các lý do sau:
• Áp dụng thực tế: độ phong phú về loài đã được minh chứng về khả năng định
lượng trong thực tế, ít nhất là chỉ ra những sự khác biệt về số lượng loài trong
một trạng thái nào đó (ví dụ như sự có mặt, sinh sản, trú đông) đối với một bậc
phân loại nào đó trong một diện tích nào đó trong một thời gian nào đó.
• Thông tin có sẵn: một số lượng lớn thông tin có sẵn về độ phong phú của loài.
Ngoài ra, các thông tin khác còn có thể lấy ra từ các bộ sưu tập trong các bảo
tàng với hàng triệu mẫu vật cùng với các tài liệu. Đặc biệt là các thông tin này
được đưa vào máy tính để các vùng xa xôi có thể sử dụng.
• Tính đại diện: độ phong phú của loài có thể đại diện cho nhiều loại đa dạng
sinh học khác nhau. Nhìn chung, độ phong phú loài càng lớn thì độ đa dạng di
truyền càng cao (đa dạng lớn về gene qua các quần thể), đa dạng về sinh vật
càng nhiều (số lượng cá thể lớn qua các bậc phân loại cao hơn), và đa dạng
sinh thái lớn hơn (từ các đại diện của nhiều tổ sinh thái và nơi ở qua nhiều sinh
cảnh)
• Ứng dụng rộng rãi: đơn vị loài thường được coi như là đơn vị trong quản lý,
luật pháp, chính trị và truyền thống. Đối với nhiều người sự sai khác về đa
dạng sinh học được coi như là sự sai khác về độ phong phú của loài.
IV. Sự phong phú đa dạng sinh học ở một số vùng trên trái đất
Môi trường giàu có nhất về số lượng loài có lẽ ở các rừng nhiệt đới, rạn san hô, các hồ
lớn ở vùng nhiệt đới và ở các biển sâu. Trong các rạn san hô, và các biển sâu, sự đa dạng sinh
học thuộc nhiều ngành và lớp khác nhau. Sự đa dạng trong các biển sâu nhờ vào diện tích lớn,
tính ổn định của môi trường cũng như vào sự biệt hoá của các loại nền đáy khác nhau.
Đa dạng loài lớn nhất là ở vùng rừng nhiệt đới. Mặc dù rừng nhiệt đới chỉ chiếm 7%
diện tích trái đất, chúng chứa hơn 1/2 loài trên thế giới. Khoảng 40% loài thực vật có hoa trên
thế giới (100.000 loài) ở vùng nhiệt đới, trong khi 30% loài chim trên thế giới phụ thuộc vào
những khu rừng nhiệt đới.
6

Rạn san hô tạo nên một nơi tập trung khác về loài. Các loài san hô bé nhỏ tạo ra các hệ
sinh thái san hô vĩ đại, là vùng biển tương đương với rừng nhiệt đới về sự phong phú loài và
độ phức tạp. Rạn san hô lớn nhất thế giới là rạn San Hô Lớn (Great Barrier Reffs) ở bờ biển
phía đông nước Úc, có diện tích là 349.000 km 2. Rạn san hô này có hơn 300 loài san hô, 1500
loài cá, 4000 loài thân mềm, 5 loài rùa biển và là nơi sinh sản của khoảng 252 loài chim. Rạn
san hô này chiếm 8% loài cá trên thế giới mặc dù chúng chỉ chiếm 0,1% diện tích đại dương.
Đối với hầu hết các nhóm sinh vật, sự đa dạng loài tăng về hướng nhiệt đới. Ví dụ như
Kenia có 308 loài thú, trong khi đó Pháp chỉ có 113 loài mặc dù hai nước này có cùng diện
tích. Sự tương phản này đặc biệt chặt chẻ đối với cây cỏ và thực vật có hoa: một hecta rừng
Amazon ở Peru hay vùng đất thấp ở Malaisia có thể có đến hơn 200 loài cây, trong khi đó ở
rừng Châu Âu hay nước Mỹ thì chỉ có khoảng 30 loài trong cùng diện tích. Kiểu đa dạng của
các loài trên đất liền cũng giống như ở biển, nghĩa là cũng gia tăng sự đa dạng loài về phía
nhiệt đới. Ví dụ rạn San hô lớn ở Úc, phía Bắc có 50 giống trong khi phía Nam chỉ có 10
giống san hô.
Nhân tố lịch sử cũng rất quan trọng trong việc xác định kiểu phân bố đa dạng về loài.
Những vùng đất cổ có nhiều loài hơn các vùng đất mới.
Sự phong phú về loài cũng bị ảnh hưởng bởi các biến đổi về địa hình, khí hậu và môi
trường địa phương. Trong các quần xã trên cạn, sự giàu có về loài theo xu hướng tăng ở các
địa hình thấp, tăng theo lượng bức xạ của mặt trời và tăng theo lượng mưa. Sự thay đổi lớn về
nhiệt độ theo mùa là một nhân tố khác ảnh hưởng nhiều đến số lượng loài ở vùng ôn đới.
Sự phong phú loài cũng có thể lớn hơn ở những nơi có địa hình phức tạp, để tạo nên
những sự cách ly di truyền, thích ứng địa phương, và sự biệt hoá có thể xảy ra.
V. Những giá trị của đa dạng sinh học
1. Những giá trị kinh tế trực tiếp
1.1. Giá trị cho tiêu thụ:
Bao gồm các sản phẩm tiêu dùng cho cuộc sống hàng ngày như củi đốt và các loại sản
phẩm khác cho các mục tiêu sử dụng như tiêu dùng cho gia đình và không xuất hiện ở thị
trường trong nước và quốc tế.
Những nghiên cứu về những xã hội truyền thống tại các nước đang phát triển cho thấy
cộng đồng cư dân bản địa khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên xung quanh như củi đun, rau
cỏ, hoa quả, thịt cá, dược phẩm và nguyên vật liệu xây dựng. Trên 5.000 loài được dùng cho
mục đích chửa bệnh ở Trung Quốc, Việt Nam và khoảng 2.000 loài được dùng tại vùng hạ lưu
sông Amazon.
Một trong những nhu cầu không thể thiếu được của con người là protein, nguồn này có
thể kiếm được bằng săn bắn các loài động vật hoang dã để lấy thịt. Trên toàn thế giới, 100
triệu tấn cá, chủ yếu là các loài hoang dã bị đánh bắt mỗi năm. Phần lớn số cá này được sử
dụng ngay tại địa phương
1.2. Giá trị sử dụng cho sản xuất:
Là giá bán cho các sản phẩm thu lượm được từ thiên nhiên trên thị trường trong nước và
ngoài nước. Sản phẩm này được định giá theo các phương pháp kinh tế tiêu chuẩn và giá
được định là giá mua tại gốc, thường dưới dạng sơ chế hay nguyên liệu. Tại thời điểm hiện
nay, gỗ là một trong những sản phẩm bị khai thác nhiều nhất từ rừng tự nhiên với giá trị lớn
hơn 100 tỷ đôla mỗi năm. Những sản phẩm lâm nghiệp ngoài gỗ còn có động vật hoang dã,
hoa quả, nhựa, dầu, mây và các loại cây thuốc.
Thế giới tự nhiên là nguồn vô tận cung cấp những nguồn loại dược phẩm mới. 25% các
đơn thuốc ở Mỹ có sử dụng các chế phẩm được điều chế từ cây, cỏ.....
2. Những giá trị kinh tế gián tiếp
7

Những giá trị kinh tế gián tiếp là những khía cạnh khác của đa dạng sinh học như các
quá trình xảy ra trong môi trường và các chức năng của hệ sinh thái là những mối lợi không
thể so đếm được và nhiều khi là vô giá.
2.1. Giá trị sử dụng không cho tiêu thụ:
Khả năng sản xuất của hệ sinh thái: khoảng 40% sức sản xuất của hệ sinh thái trên
cạn phục vụ cho cuộc sống của con người. Tương tự như vậy, ở những vùng cửa sông, dãi ven
biển là nơi những thực vật thuỷ và tảo sinh phát triển mạnh, chúng là mắc xích đầu tiên của
hàng loạt chuỗi thức ăn tạo thành các hải sản như trai, sò, tôm cua,...
Bảo vệ tài nguyên đất và nước: các quần xã sinh học có vai trò quan trọng trong việc
bảo vệ rừng đầu nguồn, những hệ sinh thái vùng đệm, phòng chống lũ lụt và hạn hán cũng
như việc duy trì chất lượng nước.
Điều hoà khí hậu: quần xã thực vật có vai trò vô cùng quan trọng trong việc điều hoà
khí hậu địa phương, khí hậu vùng và ngay cả khí hậu toàn cầu.
Phân huỷ các chất thải: các quần xã sinh học có khả năng phân huỷ các chất ô nhiễm
như kim loại nặng, thuốc trừ sâu và các chất thải sinh hoạt khác đang ngày càng gia tăng do
các hoạt động của con người.
Những mối quan hệ giữa các loài: nhiều loài có giá trị được con người khai thác, nhưng
để tồn tại, các loài này lại phụ thuộc rất nhiều vào các loài hoang dã khác. Nếu những loài
hoang dã đó mất đi, sẽ dẫn đến việc mất mát cả những loài có giá trị kinh tế to lớn.
Nghỉ ngơi và du lịch sinh thái: mục đích chính của các hoạt động nghỉ ngơi là việc hưởng
thụ mà không làm ảnh hưởng đến thiên nhiên thông qua những hoạt động như đi thám hiểm,
chụp ảnh, quan sát chim, thú, câu cá. Du lịch sinh thái là một ngành du lịch không khói đang
dần dần lớn mạnh tại nhiều nước đang phát triển, nó mang lại khoảng 12 tỷ đôla năm trên toàn
thế giới.
Giá trị giáo dục và khoa học: nhiều sách giáo khoa đã biên soạn, nhiều chương trình vô
tuyến và phim ảnh đã được xây dựng về chủ đề bảo tồn thiên nhiên với mục đích giáo dục và
giải trí. Một số lượng lớn các nhà khoa học chuyên ngành và những người yêu thích sinh thái
học đã tham gia các hoạt động quan sát, tìm hiểu thiên nhiên. Các hoạt động này mang lại lợi
nhuận kinh tế cho khu vực nơi họ tiến hành nghiên cứu khảo sát; nhưng giá trị thực sự không
chỉ có vậy mà còn là khả năng nâng cao kiến thức, tăng cường tính giáo dục và tăng cường
vốn sống cho con người.
Quan trắc môi trường: những loài đặc biệt nhạy cảm với những chất độc có thể trở
thành hệ thống chỉ thị báo động rất sớm cho những quan trắc hiện trạng môi trường. Một số
loài có thể được dùng như những công cụ thay thế máy móc quan trắc đắt tiền. Một trong
những loài có tính chất chỉ thị cao là địa y sống trên đá hấp thụ những hoá chất trong nước
mưa và những chất gây ô nhiễm trong không khí. Thành phần của quần xã địa y có thể dùng
như chỉ thị sinh học về mức độ ô nhiễm không khí. Các loài động vật thân mềm như trai sò
sống ở các hệ sinh thái thuỷ sinh có thể là những sinh vật chỉ thị hữu hiệu cho quan trắc môi
trường.
2.2. Giá trị lựa chọn
Giá trị lựa chọn của một loài là tiềm năng của chúng để cung cấp lợi ích kinh tế cho xã
hội loài người trong tương lai. Những chuyên gia về côn trùng tìm kiếm những loài côn trùng
có thể sử dụng như các tác nhân phòng trừ sinh học; các nhà vi sinh vật học tìm kiếm những
loài vi khuẩn có thể trợ giúp cho các quá trình nâng cao năng suất sản xuất; các nhà động vật
học lựa chọn các loài có thể sản xuất nhiều protein; các cơ quan y tế. chăm sóc sức khỏe và
các công ty dược phẩm đang có những nổ lực rất lớn để tìm kiếm các loài có thể cung cấp
những hợp chất phòng chống và chữa bệnh cho con người.
2.3. Giá trị tồn tại
8

Con người có nhu cầu được tham quan nơi sinh sống của một loài đặc biệt và được nhìn
thấy nó trong thiên nhiên hoang dã bằng chính mắt mình. Các loài như gấu trúc, sư tử, voi và
rất nhiều loài chim khác lại càng đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt của con người. Giá trị tồn tại
như thế luôn luôn gắn liền với các quần xã sinh học của những khu rừng mưa nhiệt đới, các
rạn san hô và những khu vực có phong cảnh đẹp.
2.4. Những khía cạnh mang tính đạo đức
Mỗi một loài đều có quyền tồn tại: tất cả các loài đều có quyền tồn tại. Trên cơ sở đó, sự
tồn tại của các loài phải được bảo đảm mà không cần tính đến sự phong phú hay đơn độc hoặc
có tầm quan trong đối với con người hay không. Tất cả các loài là một phần của tạo hoá và
đều có quyền được tồn tại như con người ở trên trái đất này. Con người không những không
có quyền làm hại các loài khác mà còn có trách nhiệm bảo vệ sự tồn tại của chúng.
Tất cả các loài đều quan hệ với nhau: giữa các loài có một quan hệ chằng chịt và phức
tạp, là một phần của các quần xã tự nhiên. Việc mất mát của một loài sẽ có ảnh hưởng đến các
thành viên khác trong quần xã. Cho nên, chúng ta ý thức được sự cần thiết bảo tồn các loài,
bảo tồn đa dạng sinh học cũng chính là bảo vệ mình.
Con người phải sống trong một giới hạn sinh thái như các loài khác: tất cả các loài trên thế
giới bị giới hạn bởi khả năng sức tải của môi trường sống. Mỗi một loài sử dụng nguồn tài nguyên
trong môi trường để tồn tại và số loài sẽ bị suy giảm khi những nguồn tài nguyên này bị huỷ hoại
và cạn kiệt đi. Con người phải hành động rất thận trọng để hạn chế những ảnh hưởng có hại gây
ra cho môi trường tự nhiên. Những ảnh hưởng tiêu cực không chỉ gây hại đối với các loài mà còn
gây hại đến chính bản thân con người.
Con người phải chịu trách nhiệm như những người quản lý trái đất: nếu như chúng ta
làm tổn hại đến những nguồn tài nguyên thiên nhiên trên trái đất và làm cho các loài bị đe dọa
tuyệt chủng thì những thế hệ tiếp theo sẽ phải trả giá bằng một cuộc sống có chất lượng thấp.
Do vậy, con người ngày nay phải biết sử dụng các nguồn tài nguyên một cách khôn ngoan,
tránh gây tác hại cho các loài và các quần xã sinh học.
Sự tôn trọng cuộc sống con người và sự đa dạng văn hoá phải được đặt ngang tầm với
sự tôn trong đa dạng sinh học: việc đánh giá cao giá trị đa dạng văn hoá và thế giới tự nhiên
làm cho con người biết tôn trọng hơn đối với tất cả sự sống phong phú và phức tạp của nó.
Thiên nhiên có những giá trị tinh thần và thẩm mỹ vượt xa giá trị kinh tế của nó: trong
lịch sử, những nhà sáng lập ra tôn giáo, những nhà thơ, nhà văn, những nghệ sĩ và nhạc sĩ đã
thể hiện những cảm hứng do họ nhận được từ thiên nhiên. Đối với nhiều người, để có được
những cảm hứng như thế họ cần phải sống với một môi trường thiên nhiên hoang sơ, chưa bị
tác động bởi con người. Hầu như ai cũng hào hứng và thích thú khi được chiêm ngưỡng thế
giới nguyên khai hoang dã và những phong cảnh đẹp. Nhiều người coi trái đất như là một sản
phẩm kỳ diệu của tạo hoá với những điều linh thiêng cần được tôn trọng theo phong cách
riêng.
Đa dạng sinh học là cốt lõi đế xác định nguồn gốc sự sống: hai trong số những huyền
thoại chính của thế giới triết học và khoa học là sự sống được hình thành như thế nào và tại
sao lại có sự đa dạng sinh học như ngày nay. Hàng ngàn chuyên gia sinh học tìm hiểu, nghiên
cứu những vấn đề này và ngày càng đang tiến dần đến câu trả lời. Tuy vậy khi các loài bị
tuyệt chủng có nghĩa là mất đi những mắc xích quan trọng và huyền thoại đó khó tìm được lời
giải.
Tóm tắt nội dung:
Sinh học bảo tồn là tổng hợp tri thức của nhiều ngành khoa học, nghiên cứu các khía
cạnh của khủng hoảng, xáo trộn về đa dạng sinh học. Mục tiêu là hạn chế sự mát mát đa dạng
sinh học, đặc biệt là sự tuyệt chủng của các loài, sự mất mát các nguồn gen và hạn chế sự suy
thoái các hệ sinh thái.
9

Sự đa dạng sinh học trên trái đất bao gồm tất cả các loài sinh vật trên trái đất từ vi khuẩn
đến các loài động vật, thực vật và nấm, sự đa dạng về di truyền tồn tại giữa các cá thể của loài,
các quần xã trong đó các loài tồn tại và những sự tương tác của các quần xã trong hệ sinh thái
với môi trường vật lý và hóa học xung quanh.
Lượng tính đa dạng sinh học cũng được sử dụng như là một phương thức để so sánh sự
đa dạng tổng thể của các quần xã khác nhau. Số lượng loài trong một quần xã hay hệ sinh thái
thường được mô tả là đa dạng α. Khái niệm đa dạng β đề cập đến mức độ dao động thành
phần loài khi các điều kiện môi trường thay đổi như thế nào. Đa dạng γ áp dụng đối với một
vùng địa lý rộng lớn gồm nhiều sinh cảnh. Có nhiều phương thức khác nhau để định lượng đa
dạng sinh học, tuy vậy, độ phong phú về loài (đa dạng α)là chỉ số thông dụng nhất để diễn tả đa
dạng sinh học.
Vùng nhiệt đới có tính đa dạng sinh học cao nhất với rất nhiều loài sinh sống trong các
rừng nhiệt đới, các dãi san hô, các sông hồ và đáy biển sâu. Phần lớn số loài hiện nay trên thế
giới còn chưa được biết đến, chưa được đặt tên.
Các thành phần của đa dạng sinh học có thể cho những sản phẩm có giá trị kinh tế trực
tiếp phục vụ lợi ích của loài người hay những giá trị kinh tế gián tiếp mà không phải khai thác
hay hủy hoại nguồn tài nguyên đa dạng sinh học.
Giá trị trực tiếp có thể chia thành hai loại: giá trị tiêu thụ và giá trị sản xuất. Giá trị tiêu
thụ bao gồm các sản phẩm tiêu dùng cho cuộc sống hàng ngày như củi đốt và các loại sản phẩm
khác và không xuất hiện ở thị trường trong nước và quốc tế. Giá trị sản xuất là giá bán cho các
sản phẩm thu lượm được từ thiên nhiên trên thị trường như gỗ, một số sản phẩm ngoài gỗ, các
loài hoang dã cung cấp dược phẩm.
Giá trị gián tiếp của đa dạng sinh học bao gồm những giá trị không cho tiêu thụ như
năng suất của hệ sinh thái, chức năng bảo vệ nguồn tài nguyên đất và nước, mối tương tác qua
lại giữa các loài hoang dã, cây trồng và điều hòa khí hậu. Đa dạng sinh học là một phần của
cơ sở xây dựng ngành du lịch sinh thái và nghỉ ngơi. Đa dạng sinh học cũng có tiềm năng
cung cấp những giá trị khác chưa phát hiện nhưng có thể mang lại lợi ích cho tương lai của xã
hội loài người.
Đa dạng sinh học cong có giá trị của ự tồn tại thê rhiện trên khoản tiền mà con người
sẵn sàng trả để có thể bảo tồn đa dạng sinh học. Bảo tồn đa dạng sinh học cũng có thể dựa
trên các nền tảng về đạo đức cũng như kinh tế. Một trong những quan niệm đạo đức lớn là
mỗi loài đều có quyền tồn tại. Con người không có quyền tiêu diệt các loài mà ngược lại phải
nỗ lực hành động nhằm bảo vệ các loài.

Câu hỏi ôn tập:


Câu 1. Định nghĩa về sinh học bảo tồn.
Câu 2. Mục tiêu của sinh học bảo tồn là gì?
Câu 3. Trình bày các mức độ thể hiện đa dạng sinh học về loài.
Câu 4. Đa dạng di truyền là gì?
Câu 5. Đa dạng di truyền được thể hiện qua các cấp độ nào?
Câu 6. Đa dạng sinh thái là gì?
Câu 7. Các mức độ thể hiện đa dạng sinh học về mặt sinh thái là gì?
Câu 8. Kể tên 5 sinh đới quan trọng ở trên cạn.
Câu 9. Định nghĩa về hình thái của loài.
Câu 10. Định nghĩa về sinh học của loài.
Câu 11. Quỷ gen (gene pool) là gì?
10

Câu 12. Đa dạng alpha là gì?


Câu 13. Đa dạng beta là gì?
Câu 14. Đa dạng gamma là gì?
Câu 15. Các vùng có đa dạng sinh học cao nhất là vùng nào ?
Câu 16. Hãy nêu ba lý do để giải thích tại sao vùng nhiệt đới có số lượng loài lớn nhất
Câu 17. Vì sao ở nơi có địa hình phức tạp sự đa dạng loài lại tăng lên?
Câu 18. Vì sao ở những vùng đất cổ sự đa dạng loài lại tăng lên?
Câu 19. Trong số 1,7 triệu loài đã được mô tả thì ngành nào, lớp nào có số lượng loài
lớn nhất?
Câu 20. Vì sao một số loài động thực vật có thể bị tuyệt chủng trước khi chúng được mô
tả đặt tên?
Câu 21. Giá trị trực tiếp cho tiêu thụ của đa dạng sinh học là gì?
Câu 22. Giá trị trực tiếp sử dụng cho sản xuất của đa dạng sinh học là gì?
Câu 23. Nêu 4 giá trị kinh tế gián tiếp không dùng cho tiêu thụ của đa dạng sinh học.
Câu 24. Giá trị lựa chọn của đa dạng sinh học là gì?
Câu 15. Hãy nêu 4 khía cạnh mang tính đạo đức về giá trị của đa dạng sinh học.
Tài liệu tham khảo:
Tài liệu Tiếng Việt.
1. Bộ Tài Nguyên và Môi trường, Ngân hàng thế giới. Báo cáo diễn biến Môi trường
Việt Nam 2005. Đa dạng sinh học. Hà nội, 2005.
2. Lê Trọng Cúc, 2002. Đa dạng sinh học và bảo tồn thiên nhiên. Nhà Xuất bản Đại
học Quốc gia Hà Nội.
3. Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam, 2004. Việt Nam Môi trường và
Cuộc sống. NXB Chính trị Quốc gia.
4. Phạm Bình Quyền, Nguyễn Nghĩa Thìn, 2002. Đa dạng sinh học. NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội.
5. Richard B. Primack (Võ Quý, Phạm Bình Quyền, Hoàng Văn Thắng dịch) 1999. Cơ
sở sinh học Bảo tồn. NXB KH&KT Hà Nội.
Tài liệu Tiếng Anh.
1. Edge W. Daniel, John P. Loegering, and Renee Davis Born, 1998. Principles of
Wildlife Conservation. Oregon State University. Corvalis, Oregon.
2. Elizabeth A. Gordon, Oscar E. Franco and Mary L. Tyrrel, 2005l. Protecting
Biodiversity: A Guide to Criteria Used by Global Conservation Organizations. Yale
School of Forestry & Environmental Studies.
3. Jeffrey A. McNeely et al, 1990. Conserving the World’s Biological Diversity.
Gland, Switzeland, and Washington, D.C..
4. Kent E. Holsinger, 2005. Conservation Biolgy. University of Connecticut.
http://darwin.eeb.uconn.edu
5. Kevin J Gaston and John I Spicer, 2004. Biodiversity an Introduction. Blackwell
Publishing Company. USA.
6. Michael J. Jeffries. Biodiversity and Conservation. Routledge, London, 1997.
7. Peter B. Moyle, 1997. Wildlife Conservation.
8. Peter J. Bryant, 2001. Biodiversity and Conservation. University of California,
USA.
11

9. Richard B. Primack, 1993. Essentials of Conservation Biology. Sunderland,


Massachusetts U.S.A.
10. Richard B. Primack, 1995. A Primer of Conservation Biology. Sunderland,
Massachusetts U.S.A.
11. Ronald Hofstetter, 2003. Conservation Biology. University of Miami.
12

Chương 2.
NHỮNG MỐI ĐE DỌA ĐỐI VỚI
ĐA DẠNG SINH HỌC
Mục tiêu:
Cung cấp những khái niệm cơ bản về tuyệt chủng, các mối đe dọa đối với tuyệt chủng
do các hoạt động của con người. Chương 2 cũng trình bày những đặc điểm của các thời kỳ
tuyệt chủng trong quá khứ cũng như sai khác cơ bản về tuyệt chủng hàng loạt trong quá khứ
so với tuyệt chủng hàng loạt ngày nay. Giải thích tính dễ bị tuyệt chủng của một số nhóm
động vật do hoạt động của con người.
Số tiết: 9
Nội dung:
I. Sự tuyệt chủng
1. Khái niệm về tuyệt chủng
Khái niệm tuyệt chủng có rất nhiều ý nghĩa và khác nhau tùy thuộc vào từng bối cảnh
cụ thể. Một loài bị coi là tuyệt chủng (extinct) khi không còn một cá thể nào của loài đó còn
sống sót tại bất kỳ nơi nào trên thế giới. Nếu như một số cá thể của loài còn sót lại chỉ nhờ
vào sự kiểm soát, chăm sóc, nuôi dưỡng của con người, thì loài này được coi là đã bị tuyệt
chủng trong thiên nhiên hoang dã (extinct in the wild). Trong hai trường hợp trên, các loài có
thể coi như bị tuyệt chủng trên phạm vi toàn cầu (globally extinct).
Một loài bị coi là tuyệt chủng cục bộ (locally extinct) nếu như chúng không còn sống sót
tại nơi chúng đã từng sinh sống, nhưng người ta vẫn còn tìm thấy chúng tại những nơi khác
trong thiên nhiên.
Một số nhà sinh học sử dụng cụm từ loài bị tuyệt chủng về phương diện sinh thái học
(ecologically extinct), điều đó có nghĩa là số lượng cá thể loài còn lại ít đến nổi tác dụng của
nó không có chút ý nghĩa nào đến những loài khác trong quần xã.
1.1. Tuyệt chủng là một quá trình tự nhiên
Sự tuyệt chủng loài xảy ra thậm chí không bắt nguồn từ những xáo động to lớn. Lý
thuyết tiến hóa nói rõ rằng một loài có thể bị dồn vào tuyệt chủng do không cạnh tranh nổi với
một loài khác hay do bị ăn thịt. Một loài có thể tiến hóa từ một loài khác để đáp ứng với
những thay đổi của môi trường hay là do sự thay đổi ngẫu nhiên của quỹ gen. Hiện tại chúng
ta cũng không biết đầy đủ những nhân tố xác định sự phồn thịnh hay suy thoái của một loài,
nhưng ít nhất chúng ta có thể khẳng định rằng sự tuyệt chủng là một hiện tượng nằm trong
chu trình vận động của tự nhiên tương tự như sự hình thành loài.
Nếu tuyệt chủng là một phần trong các quá trình tự nhiên, thì tại sao lại phải suy nghĩ và
quan tâm nhiều đến chuyện mất mát các loài. Câu trả lời nằm trong mối tương quan về sự
tuyệt chủng và hình thành loài. Sự hình thành loài là một quá trình diễn ra rất chậm, qua sự
tích luỹ dần các đột biến và những sự chuyển đổi các allen qua cả hàng chục ngàn năm thậm
chí cả hàng triệu năm. Theo Kirchner và cộng sự (2001), trung bình trái đất cần khoảng 10
triệu năm để hồi phục sự đa dạng từ những tuyệt chủng mang tính toàn cầu. Nếu tốc độ của
việc hình thành loài tương đương hay vượt quá tốc độ tuyệt chủng, sự đa dạng sinh học được
duy trì hay tăng lên. Trong lịch sử các thời kỳ địa chất, đa dạng sinh học tương đối ổn định
nhờ sự cân bằng giữa sự hình thành loài mới và sự tuyệt diệt loài cũ. Tuy nhiên trong những
khoảng thời gian ngắn hơn, tốc độ đa dạng hóa kém hơn nhiều so với tốc độ tuyệt chủng.
Điều đó có nghĩa là sự tiến hóa của sinh giới sẽ không theo kịp với những sự tuyệt chủng
nhanh chóng.
13

1.2. Tuyệt chủng do con người gây ra


Tác động dễ nhận thấy đầu tiên về hoạt động của con người vào tỷ lệ tuyệt chủng có thể
thấy vào sự sa sút các loài thú lớn ở Australia và Nam, Bắc Mỹ vào thời gian mà con người bắt
đầu thống trị hai lục địa này từ hàng ngàn năm trước. Chỉ một thời gian ngắn sau khi con người
đặt chân đến, 74% đến 86% các loài thú lớn, có trọng lượng hơn 40 kg, trong các vùng này bị
tuyệt chủng. Nguyên nhân trực tiếp của sự tuyệt chủng này có thể là do săn bắn, và nguyên
nhân gián tiếp là do đốt rừng và khai hoang.
Dựa vào các chứng cứ có sẵn thì khoảng 85 loài thú và 113 loài chim đã bị tuyệt chủng
từ năm 1600, tương ứng với 2,0% các loài thú và 1,3% các loài chim. Trong khi những con số
ban đầu này có vẻ như chưa ở mức báo động thì xu hướng tuyệt chủng tăng rất nhanh trong
khoảng 150 năm lại đây.
Bảng 2.1. Một số nhóm loài tuyệt chủng từ năm 1600 đến nay
Số loài tuyệt chủng % tuyệt
Số loài chủng
Bậc phân loại Đất liền Đảo Đại dương Tổng số
Thú 30 51 4 85 4.000 2,10
Chim 21 92 0 113 9.000 1,30
Bò sát 1 20 0 21 6.300 0,30
Lưỡng thê 2 0 0 2 4.200 0,05
Cá 22 48 0 23 19.100 0,10
Không xương sống 49 48 1 98 1.000.000 0,01
Thực vật có hoa 245 139 0 384 250.000 0,20
Nguồn: Reid và Miller 1989.
Tỷ lệ tuyệt chủng của chim và thú vào khoảng 1 loài trong 10 năm trong thời gian từ
1600 -1700, nhưng tỷ lệ này tăng lên 1 loài/năm trong thời gian từ 1850 -1950. Sự gia tăng tỷ
lệ tuyệt chủng loài là một sự chỉ định về tính nghiêm trọng của vấn đề đe dọa đa dạng sinh
học. Nhiều loài còn chưa bị tuyệt chủng nhưng đã bị hao hụt rất nhiều do các hoạt động của
con người và chỉ tồn tại với số lượng rất thấp. Những loài này cũng được coi là tuyệt chủng
sinh thái và chúng không còn vai trò gì trong tổ chức quần xã. Tương lai của nhiều loài là
không chắc chắn.
• 24% các loài thú trên thế giới ngày nay đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng
(IUCN,2000).
• Khoảng 12% trong số 9.500 loài chim trên thế giới đang bị đe doạ tuyệt chủng
trong khoảng 100 năm tới. Khoảng từ 300 đến 900 loài khác có khả năng đưa vào
danh sách bị đe doạ (Smith et al., 1993).
• Khoảng ¼ của tất cả các loài bò sát và 1/3 của tất cả các loài lưỡng thê trên trái đất
đang bị đe doạ tuyệt chủng. Bò sát và lưỡng thê thường được coi là những chỉ thị
tổng quát cho sự thịnh vượng của hệ sinh thái.
• 50% các loài cá (chủ yếu là cá nước ngọt) được đánh giá được đưa vào danh sách
bị đe doạ.
• Nhiều loài côn trùng, có vai trò quan trọng như là các sinh vật phân huỷ chất thải,
các loài thụ phấn đang bị đe doạ: khoảng 100.000 loài đến 500.000 loài côn trùng
được dự báo là sẽ tuyệt chủng trong vòng 300 năm tới, tương đương với tỷ lệ
khoảng 7 đến 30 loài bị mất đi trong vòng một tuần (Mawdsley and Stork , 1995).
14

• Khoảng 10% các loài cây trên thế giới đang bị đe doạ tuyệt chủng. Khoảng 1000
loài đang bị nguy cấp trầm trọng, một số loài trong đó số cá thể chỉ còn đếm trên
đầu ngón tay. Có ít hơn ¼ các loài cây đang bị đe doạ được bảo tồn ở các mức độ
khác nhau (Oldfield, et al., 1998)
Các hệ sinh thái và các nơi ở cũng đạng bị đe doạ và đang bị mất mát ở mức độ báo
động:
• Khoảng 2/3 diện tích của 2 trong số 14 khu sinh học trên cạn của thế giới và hơn
một nửa diện tích của 4 khu sinh học khác đã bị chuyển đổi (chủ yếu cho nông
nghiệp) vào những năm 1990 (Millennium Ecosystem Assessment, 2005).
• Theo Viện Tài nguyên rừng Thế giới (WRI), 1/5 độ che phủ của tất cả rừng mưa
nhiệt đới đã bị mất giữa những năm 1960 và 1990.
• 50% nơi ở của các vùng đất ngập nước đã bị huỷ hoại trong vòng 100 năm qua
(WRI, 2003).
• Rừng ngập mặn ven biển trên thế giới thế giới là môi trường nuôi dưỡng quan
trọng cho vô số loài cũng đang bị đe doạ, khoảng 50% rừng ngập mặn đã bị chặt
trụi (WRI, 2000-2001).
• Khoảng 20% các rạn san hô trên thế giới đã bị mất và 20% khác đang bị suy thoái
trong mấy thập kỷ cuối của thế kỷ XX (Millennium Ecosystem Assessment, 2005).
Cuối cùng là do sự mất mát của các loài và hệ sinh thái đã dẫn đến sự mất mát chưa
từng thấy của các dịch vụ sinh thái có giá trị:
• Khoảng 60% các dịch vụ sinh thái đang bị suy thoái hay sử dụng không bền vững
bao gồm: làm sạch không khí, điều hoà khí hậu, cung cấp nước sạch, điều chỉnh
mầm bệnh và sâu hại và thụ phấn.
• Có sự thay đổi lớn về chu trình dinh dưỡng trong các thập kỷ qua, chủ yếu do gia
tăng lượng phân bón, chất thải của gia súc, chất thải của con người và đốt cháy
sinh khối (Millennium Ecosystem Assessment, 2005).
2. Nguyên nhân của tuyệt chủng
Mối nguy hại chính ảnh hưởng đến đa dạng sinh học có liên quan đến các hoạt động của
con người là: phá hủy, chia cách, làm suy thoái (kể cả ô nhiễm) nơi sinh sống; khai thác quá
mức các loài phục vụ cho các mục đích sử dụng của loài người; du nhập các loài ngoại lai và
gia tăng các dịch bệnh. Hầu hết các loài bị đe dọa chịu ảnh hưởng của ít nhất là hai trong số
các yếu tố nói trên, những yếu tố này làm cho sự tuyệt chủng sẽ tiếp diễn nhanh hơn, bất chấp
mọi cố gắng nhằm bảo vệ loài. Các mối hiểm hoạ đe dọa đa dạng sinh học nêu ở trên gây ra
do việc sử dụng, khai thác tài nguyên ngày càng tăng và mức tăng dân số quá nhanh của loài
người.
2.1. Sự phá hủy những nơi cư trú
Mối đe dọa chính đối với đa dạng sinh học là nơi cư trú bị phá hủy và mất mát.
Hơn 50% những nơi cư trú là các rừng nguyên sinh bị phá hủy tại 47 nước trong tổng số
57 nước nhiệt đới trên thế giới. Tại Châu Á nhiệt đới, 65% các nơi cư trú là các cánh rừng tự
nhiên đã bị mất.
Tốc độ phá hủy đặc biệt lớn tại các nước Philippines, Bangladesh, Sri Lanka, Việt Nam,
Ấn Độ, các nước Châu Phi,... đã làm mất phần lớn các các nơi cư trú của các loài hoang dã,
trầm trọng nhất là các nước Gambia, Ghana và Ruanda. Tốc độ phá rừng hiện nay khác nhau tại
nhiều nơi trên thế giới, tốc độ khá nhanh ở mức 1,5 đến 2% là các nước như Việt Nam,
Paraguay, Mehico và Costa Rica. Tại vùng Địa Trung Hải, diện tích rừng nguyên sinh chỉ còn
lại 10%.
15

Đối với các loài động vật hoang dã quan trọng, phần lớn những nơi cư trú thích ứng của
chúng đã bị phá huỷ, chỉ còn lại một số rất ít được bảo vệ. Ví dụ loài đười ươi khổng lồ ở
Sumatra và Borneo đã mất 63% nơi sinh sống và chỉ còn 2% diện tích nơi sinh sống nguyên
thuỷ của chúng được bảo tồn.
Các rừng mưa bị đe dọa
Việc phá hủy các rừng mưa nhiệt đới là dấu hiệu đi kèm với việc mất các loài. Rừng nhiệt
đới ẩm chiếm 7% diện tích bề mặt trái đất, nhưng ước tính chúng chứa hơn 50% tổng số loài
trên trái đất. Diện tích ban đầu của rừng mưa nhiệt đới ước tính khoảng 16 triệu km2, đến năm
1982 chỉ còn lại 9,5 triệu km2. Hằng năm có khoảng 180.000 km2 rừng mưa bị mất, trong đó
80.000 km2 bị mất hoàn toàn và 100.000 km2 bị suy thoái đến mức cấu trúc loài và các diễn thế
của hệ sinh thái phần lớn đã bị thay đổi.
Sa mạc hóa
Rất nhiều các quần xã sinh học sống trong các vùng khí hậu khô hạn theo mùa đã bị suy
thoái và đất đai trở thành sa mạc mà nguyên nhân chính là do các hoạt động của con người,
quá trình đó gọi là quá trình sa mạc hóa. Lúc đầu các vùng đất này rất phù hợp cho việc phát
triển nông nghiệp, nhưng việc gieo trồng liên tục đã làm cho đất bị xói mòn dẫn đến việc mất
khả năng giữ nước. Thảm cỏ ở đây cũng liên tục bị trâu bò, dê cừu ăn trụi, các cây thân gỗ thì
bị khai thác để làm củi, hậu quả là sự suy thoái rất nhanh và không thể hồi phục trở lại của các
quần xã sinh học cũng như việc mất thảm che phủ bề mặt đất và hậu quả là khu vực này biến
thành sa mạc. Trên thế giới có khoảng 9 triệu km2 đất vùng khô hạn đã biến thành sa mạc do
quá trình nói trên.
2.2. Các nơi cư trú bị chia cắt manh mún và cách ly
Sự chia cắt manh mún nơi cư trú của các loài là quá trình mà một khu vực rộng lớn bị
thu nhỏ lại hoặc bị chia cắt thành hai hay nhiều mảnh nhỏ. Những phần này thường bị cách ly
khỏi những phần khác và hình thái cấu trúc cảnh quan bị thay đổi nhiều. Một mảnh hay một
phần của nơi cư trú mới khác biệt với nơi cư trú nguyên thủy ở hai điểm quan trọng: đó là
mảnh của nơi cư trú mới có tỷ lệ giữa phần biên và diện tích lớn hơn, và tâm điểm của mỗi
mảnh của nơi cư trú mới rất gần với phần biên của mảnh hơn.
Việc phá hủy các nơi cư trú có thể hạn chế khả năng phát tán và định cư của loài. Tác
hại của việc chia cắt nơi cư trú sẽ làm giảm khả năng kiếm mồi của các loài thú. Ngoài ra nơi
cư trú bị chia cắt cũng góp phần làm suy giảm quần thể và dẫn đến sự tuyệt chủng do quần thể
lớn lúc đầu bị chia ra hai hay nhiều quần thể nhỏ.
Sự chia cắt nơi cư trú thành các phần nhỏ đã làm tăng một cách một cách đáng kể tỷ lệ
tương đối của sự tác động đường biên so với diện tích nơi cư trú. Một số tác động khác quan
trọng hơn của đường biên là sự dao động nhiều hơn về ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm và gió. Việc
nơi cư trú bị xé nhỏ, xé lẻ còn làm tăng khả năng xâm nhập của các loài ngoại lai và bùng nổ
số lượng các loài côn trùng địch hại và bản địa. Việc nơi cư trú bị chia cắt cũng làm tăng khả
năng tiếp xúc của các loài động, thực vật thuần dưỡng với các quần thể hoang dã. Các bệnh
dịch của các loài thuần dưỡng có thể lây lan rất dễ dàng sang các loài hoang dã vốn thường có
khả năng miễn dịch kém.
2.3. Nơi cư trú bị phá hủy và ô nhiễm
Cho dù nơi sinh sống không bị ảnh hưởng một cách trực tiếp do việc phá hủy hay chia
cắt, nhưng các quần xã và các sinh vật sống trong đó có thể bị ảnh hưởng sâu sắc do các hoạt
động khác của con người. Dạng nguy hiểm nhất của phá hủy môi trường là sự ô nhiễm.
Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do thuốc trừ sâu, hóa chất và các chất thải công
nghiệp, chất thải sinh hoạt của con người và các ô nhiễm gây ra bởi các nhà máy ô tô, cũng
như các trầm tích lắng đọng do sự xói mòn đất từ các vùng cao, sườn núi.
16

Ô nhiễm do thuốc trừ sâu: sự nguy hại của thuốc trừ sâu được khuyến cáo từ những
năm 1962. Nồng độ của DDT và các loại thuốc trừ sâu khác tích luỹ trong cơ thể sinh vật,
tăng lên theo bậc cao dần của chuổi thức ăn thông qua quá trình tích tụ sinh học
(bioaccumulation) và khuếch đại sinh học (magnification).
Ô nhiễm nước: ô nhiễm nước gây hậu quả xấu cho loài người như hủy hoại các nguồn
thực phẩm thủy sản như cá, thân mềm, giáp xác và làm ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt. Các
hóa chất độc, dù chỉ với một liều lượng rất thấp thì dư lượng của chúng vẫn có thể tồn đọng,
tích luỹ dần vào trong cơ thể sinh vật thủy sinh đến nồng độ gây chết do chúng phải lọc một
lượng lớn nước khi ăn.
Các khoáng chất vi lượng tuy rất cần cho cuộc sống của động vật và thực vật nhưng
chúng cũng có thể trở nên gây hại khi xuất hiện ở nồng độ cao. Các chất thải của người, các
loại phân bón hóa học, các chất tẩy rửa và các quá trình sản xuất trong công nghiệp thường
xuyên thải ra một lượng lớn nitrat, photphat vào hệ sinh thái thủy vực, dẫn đến hiện tượng
phú dưỡng nước.
Các trầm tích có nguồn gốc do xói mòn từ các vùng đất trống, đồi núi trọc cũng có thể
gây hại cho hệ sinh thái thủy vực. Các chất trầm tích có lẫn mùn lá cây, bùn, các chất rắn lơ
lững,... làm tăng độ đục của nước, làm giảm độ chiếu sáng trong nước nên đã cản trở quá trình
quang hợp. Sự tăng độ đục của nước có thể làm giảm khả năng nhìn, khả năng săn mồi, làm
giảm sức sống của một số loài động vật thủy sinh. Sự gia tăng lớp trầm tích đã gây hại cho
nhiều loài san hô, những loài đòi hỏi môi trường sống tuyệt đối trong sạch.
Ô nhiễm không khí: các hoạt động của con người làm thay đổi và làm ô nhiễm bầu
không khí của trái đất. Các dạng ô nhiễm không khí như:
• Mưa axit: các nền công nghiệp như luyện thép, các nhà máy nhiệt điện sử dụng
nhiên liệu là than hay dầu đã thải ra một lượng lớn các khí NOx, SOx vào không
khí, các khí này khi gặp hơi nước trong không khí sẽ tạo ra axit nitric và axit
sulfuric. Các axit này liên kết với những đám mây và khi tạo thành mưa đã làm
giảm độ pH của nước mưa xuống rất thấp. Mưa axit sẽ làm giảm độ pH của đất và
của nước trong các hồ, ao, sông suối trên lục địa. Mưa axit đã tiêu diệt nhiều loài
động và thực vật. Do độ axit của các hồ ao tăng lên, nhiều cá con của nhiều loài cá
và cả những con cá trưởng thành cũng bị chết. Độ axit tăng và nước bị ô nhiễm là
nguyên nhân chính làm suy giảm đáng kể các quần thể động vật lưỡng cư trên thế
giới. Đối với phần lớn các loài động vật lưỡng cư, ít nhất một phần trong chu kỳ
sống của chúng phụ thuộc vào môi trường nước, độ pH của nước giảm làm cho tỷ lệ
trứng và ấu trùng bị chết tăng cao.
• Sương mù quang hoá: Xe ô tô, các nhà máy điện và các hoạt động công nghiệp thải
ra các khí hydrocacbon, khí NO. Dưới ánh sáng mặt trời, các chất này tác dụng với
khí quyển và tạo ra khí ozon và các chất phụ phẩm khác, tất cả khí này được gọi
chung là sương mù quang hóa (photo-chemical smog). Nồng độ ozon cao ở tầng khí
quyển gần mặt đất sẽ giết chết các mô thực vật, làm cho cây dễ bị tổn thương, làm
hại đến các quần xã sinh học, giảm năng suất nông nghiệp. Các quần xã sinh học
trên toàn cầu cũng có thể bị phá hủy hay bị thay đổi do các hợp chất chứa nitơ trong
không khí theo mưa và bụi lắng đọng tự do và do đó có thể ảnh hưởng đến nguồn
sản xuất lương thực và thực phẩm.
• Các kim loại độc hại: xăng có chứa chì, các hoạt động khai mỏ, luyện kim và các
hoạt động công nghiệp khác thải ra một lượng lớn chì, thiếc và nhiều loại kim loại
độc hại khác vào khí quyển. Các hợp chất này trực tiếp gây độc cho cuộc sống của
động và thực vật.
17

Sự thay đổi khí hậu toàn cầu: khí cacbonic, mêtan và các khí khác trong khí quyển
không ngăn cản ánh sáng mặt trời, cho phép năng lượng xuyên qua khí quyển và sưởi ấm bề
mặt Trái đất. Tuy vậy, những khí này và hơi nước giữ lại năng lượng do trái đất phát ra, làm
chậm lại tốc độ phát tán nhiệt và bức xạ khỏi trái đất. Các khí này được gọi là khí nhà kính do
tác dụng của chúng rất giống với nhà kính - cho ánh sáng mặt trời đi qua nhưng giữ lại năng
lượng bên trong nhà kính và chuyển thành năng lượng nhiệt.
Lượng khí nhà kính gia tăng đã làm ảnh hưởng đến khí hậu trái đất và các tác hại này
tiếp tục gia tăng trong tương lai. Những nhà khí tượng học ngày càng đồng ý với quan điểm
cho rằng ở thế kỷ XXI khí hậu trái đất sẽ còn nóng lên từ khoảng 2-60C nữa vì sự gia tăng của
khí CO2 và các khí khác. Trong khi các loài có vùng phân bố rộng và dễ phát tán có thể thay
đổi để thích ứng với sự thay đổi, thì đối với nhiều loài có vùng phân bố hẹp hoặc do khả năng
phát tán kém nên việc tuyệt chủng là khó tránh khỏi.
Hiện tượng nhiệt độ tăng dần lên còn làm các khối băng ở vùng cực tan ra. Do việc giải
phóng một lượng nước lớn như vậy, trong vòng 50 -100 năm tới mức nước biển có thể tăng từ
0,2 -1,5 m. Mức nước biển dâng cao có thể làm ngập lụt những vùng đất thấp, những khu đất
ngập nước ven bờ biển và nhiều thành phố lớn. Một số loài san hô không phát triển nhanh kịp
với tốc độ nâng cao mực nước biển và dần dần chúng sẽ bị chết đuối.
2.4. Khai thác quá mức
Nhằm thoả mãn các nhu cầu của cuộc sống, con người đã thường xuyên săn bắn, hái
lượm thực phẩm và khai thác các nguồn tài nguyên khác. Khi dân số loài người vẫn còn ít và
phương pháp thu hái còn thô sơ, con người đã thu hái và săn bắt một cách bền vững mà không
làm cho các loài trở nên tuyệt chủng. Tuy vậy, khi dân số tăng lên, nhu cầu khai thác tài
nguyên cũng tăng theo. Các phương pháp thu hái dần dần được cải tiến và trở nên hữu hiệu
hơn. Việc khai thác quá mức là nguyên nhân thứ hai sau nguyên nhân mất nơi cư trú và là một
trong những nguyên nhân quan trọng dẫn các loài đến tuyệt chủng.
Các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực quản lý các loài hoang dã, đánh bắt cá và lâm nghiệp
đã cố gắng xây dựng một phương pháp tính toán mô hình để xác định số lượng tối đa có thể
khai thác được một cách bền vững của các nguồn tài nguyên. Lượng tối đa nguồn tài nguyên
có thể khai thác được một cách bền vững là sản lượng có thể thu hoạch hằng năm tương
đương với năng suất mà quần thể tự nhiên sản sinh ra được.
2.5. Sự du nhập các loài ngoại lai
Phạm vi sống về địa lý của nhiều loài được giới hạn bởi các hàng rào do chính các yếu
tố môi trường và khí hậu tạo ra ngăn cản sự phát tán. Các sa mạc, đại dương, đỉnh núi, và
những dòng sông đều đã ngăn cản sự di chuyển của các loài. Con người đã làm thay đổi cơ
bản đặc tính này bằng việc vận chuyển phát tán các loài trên toàn cầu. Tại thời kỳ trước cách
mạng công nghiệp, con người mang các cây trồng và vật nuôi từ chổ này sang chổ khác khi
họ tạo dựng những nơi định cư và các thuộc địa mới. Ngày nay đã có một lượng lớn các loài
do vô tình hay cố ý, được đem đến những khu vực không phải là nơi cư trú gốc của chúng.
Những loài đó đã được du nhập do các nguyên nhân sau đây:
• Sự vận chuyển các container: việc sử dụng các container trong vận chuyển hàng hóa
đã tạo điều kiện cho sự xâm nhập của các sinh vật ngoại lai. Rõ ràng là các cảng biển
là con đường xâm nhập của nhiều sinh vật lạ, nhưng với việc vận chuyển bằng
containner thì các loài ngoại lai được vận chuyển đến tất cả các vùng đất trên thế giới.
Các container là môi trường trú ngụ lý tưởng cho các sinh vật ngoại lai. Chúng có thể
ở trong đó vài tuần để rồi sau đó được vận chuyển đi. Các thanh tra của hải quan cũng
rất khó để phát hiện chúng. Các container chở vỏ xe của Nhật đã mang các loài muỗi
Châu Á đến khắp nước Mỹ, Nam Phi, Tân Tây Lan, Úc và một số nước ở phía Nam
Châu Âu.
18

• Nước dằn tàu: nhiều tàu chở hàng được cân bằng nhờ vào việc bơm nước biển hay
nước ngọt vào các thùng nước lớn dùng để dằn tàu. Nước được vận chuyển như thế
bao gồm cả các loài động thực vật sẽ được vận chuyển từ nơi này đến nơi khác. Đây
rõ ràng là con đường xâm nhập chính của các loài sinh vật thủy sinh. Khoảng 1/3 các
loài sinh vật ngoại lai ở Hồ Lớn (Great Lakes) được du nhập theo con đường này.
Năm 1990, Tổng Thống Mỹ, Bush đã ký đạo luật yêu cầu các nhân viên bảo vệ vùng
bở của Mỹ phải triển khai mạnh mẽ các tiêu chuẩn liên quan đến việc thải bỏ nước dằn
tàu.
• Vận chuyển bằng máy bay: vận chuyển hàng không là một phương thức xâm nhập
mới của các loài ngoại lai. Các loài muỗi ở Châu Phi đã xâm nhập vào Nước Anh qua
các khoang hành khách. Các loài rắn đã theo hàng hóa từ đảo Guam đến Hawaii.
• Nông, lâm nghiệp: một số cây trồng đã ra ngoài tự nhiên và trở thành vật hại. Hoạt
động nông lâm nghiệp đã gây ra sự lây lan của nhiều loài sâu hại và dịch bệnh.
Khoảng 20 loài cỏ dại được tìm thấy ở khắp mọi nơi và khoảng 40% các loại bệnh
chính trên khắp thế giới. Chuột và chim sẻ là sinh vật đồng hành ở các trang trại trên
khắp thế giới.
• Nuôi trồng thủy sản: đã gây ra sự lây lan của rất nhiều loài cá, ví dụ như cá rô phi đã
lan rộng ở hầu hết các nước nhiệt đới và á nhiệt đới. Các trang trại nuôi tôm hiện nay
đang làm lay lan các bệnh virus trên khắp thế giới, các virus này có thể ảnh hưởng đến
chủng quần các đàn cá tự nhiên. Các trại nuôi cá Hồi (Salmon) cũng đã du nhập các
mầm bệnh và các gen lạ.
Phần lớn các loài du nhập không sống được tại những nơi mới đến do môi trường không
phải lúc nào cũng phù hợp với điều kiện sống của chúng. Dù vậy, vẫn có một tỷ lệ nhất định
các loài nhập cư thiết lập được cuộc sống trên vùng đất mới và nhiều loài trong đó còn vượt
trội, xâm lấn các loài bản địa. Các loài du nhập này thậm chí còn cạnh tranh với các loài bản
địa để có được nguồn thức ăn và nơi ở. Các loài du nhập còn ăn thịt các loài bản địa cho đến
khi chúng tuyệt chủng hoặc làm chúng thay đổi nơi cư trú đến mức nhiều loài bản địa không
thể nào tồn tại được nữa.
Tại sao các loài du nhập lại dễ dàng xâm nhập và chiếm lĩnh các nơi cư trú và thay thế
các loài bản địa đến như vậy? Một trong những lý do quan trọng là ở nơi cư trú mới chưa có
các loài thiên địch của chúng như các loài động vật là kẻ thù, các loài côn trùng và các loài ký
sinh, gây bệnh. Các hoạt động của con người đã tạo nên những điều kiện môi trường không
bình thường, như sự thay đổi các nguồn dinh dưỡng, gây cháy rừng, tăng lượng ánh sáng,... đã
tạo cơ hội cho các loài du nhập thích ứng nhanh hơn và loại trừ được các loài bản địa.
2.6. Sự lây lan của các dịch bệnh
Sự nhiễm trùng từ các sinh vật mang bệnh là điều thường xảy ra đối với động vật nuôi
hay động vật hoang dã. Các tác nhân gây nhiễm có thể là các vật ký sinh như virus, vi khuẩn,
nấm, các động vật đơn bào hay các ký sinh trùng kích cở lớn hơn như giun sán. Các loại bệnh
dịch này có thể là nguy cơ đe dọa đối với một số loài quí hiếm.
Có 3 nguyên tắc cơ bản về dịch bệnh học được ứng dụng rộng rãi trong việc nuôi dưỡng
và quản lý các loài thú quý hiếm. Thứ nhất, các loài được con người nuôi và động vật sống
trong tự nhiên khi sống trong quần thể với mật độ cao sẽ có nguy cơ dễ mắc bệnh dịch hay bị
nhiễm ký sinh trùng.
Nguyên tắc thứ hai, tác hại gián tiếp do nơi cư trú bị phá hủy là làm cho loài trở nên dễ
mắc các bệnh dịch hơn. Khi các quần thể vật chủ sống tập trung trong một khu vực nhỏ hơn
do nơi sinh sống của chúng bị phá hủy, tại đây chất lượng môi trường nơi cư trú thường bị suy
giảm, thức ăn trở nên khan hiếm dẫn đến tình trạng kém dinh dưỡng, các động vật trở nên yếu
hơn và dễ mắc bệnh hơn.
19

Nguyên tắc thứ ba, tại rất nhiều khu bảo tồn và vườn thú, các loài tiếp xúc với rất nhiều
loài mà chúng rất ít khi, thậm chí không bao giờ gặp trong thiên nhiên hoang dã cho nên bệnh
dịch có thể truyền từ loài này sang loài khác.

3. Sự tuyệt chủng hàng loạt (mass extinction)


Theo các nhà khoa học, tuyệt chủng hàng loạt là những sự kiện tuyệt chủng đã tác động
đến sinh vật trong các môi trường khác nhau, gây ra những mất mát nặng nề về số lượng trong
các bậc phân loại.
3.1. Tuyệt chủng hàng loạt trong quá khứ.
Theo một đánh giá về số loài đã tồn tại trên trái đất thì có đến 99,9% số loài đã bị tuyệt
chủng. Hay nói một cách khác, số các loài động vật, thực vật, vi sinh vật hiện có chỉ chiếm
0,1% tổng số loài đã từng sống trên hành tinh.
Có nhiều cách giải thích khác nhau về nguyên nhân của tuyệt chủng hàng loạt bao gồm
các nguyên nhân bên ngoài như tác động của các thiên thạch đến các nguyên nhân bên trong
như núi lửa, thời kỳ băng hà,.. đã tác động đến sự thay đổi khí hậu toàn cầu là tác nhân chính
gây ra tuyệt chủng hành loạt.
Trong lịch sử tiến hoá của trái đất, hầu hết các loài bị mất đi do các thời kỳ tuyệt chủng,
trong đó có 5 thời kỳ tuyệt chủng hàng loạt nghiêm trọng kéo dài trong thời gian 350 triệu
năm. Năm thời kỳ tuyệt chủng hàng loạt này được xác định qua việc nghiên cứu các dẫn
chứng của những thay đổi các hoá thạch động, thực vật.
Dựa vào các hoá thạch, các nhà khoa học đã chúng minh rằng có 5 đợt tuyệt chủng hàng
loạt đã xảy ra trong quá khứ (Hình 2.2).
Số họ

Triệu năm trước


Hình 2.1. Các thời kỳ tuyệt chủng hàng loạt trong quá khứ
* Ordovician cuối (440 triệu năm trước): Khoảng 50% số họ của động vật và 85% số loài đã
bị tiêu diệt trong thời gian này chủ yếu là các loài ở biển.
* Devonian muộn (365 triệu năm trước): có 30% họ của các loài động vật bị tuyệt chủng chủ
yếu tác động đến các loài ở biển. Thời kỳ này kéo dài từ 500 ngàn đến 15 triệu năm, nguyên
nhân do lạnh toàn cầu và giảm oxy trong các tầng nước nông.
* Permian cuối (251 triệu năm trước): 50 % các họ động vật bị tuyệt chủng, khoảng 96%
loài sinh vật biển bị tuyệt chủng trong thời kỳ này. Nguyên nhân do biến động mức nước
biển, hoạt động của núi lửa và thay đổi khí hậu.
20

* Triassic cuối (205 triệu năm trước): có 35 % họ các loài động vật và khoảng 76% loài,
phần lớn là các loài ở biển, bị tuyệt chủng.
* Cretaceous cuối (65 triệu năm trước): Trong số 5 sự kiện tuyệt chủng hàng loạt thì sự kiện
được con người biết rõ nhất xảy ra ở kỷ phấn trắng và kỷ thứ ba (Cretaceous và Tertiary), còn
gọi là thời kỳ K/T, với khoảng 60 % các loài động vật bị tuyệt chủng. Đây là thời kỳ các
giống động vật biển bị mất trong diện rộng, tạo ra những thay đổi cơ bản trong các hệ sinh
thái trên cạn và sự biến mất của khủng long. Trong thời kỳ tiến hoá đổi mới này, các loài linh
trưởng phát triển mạnh và loài người (Homo sapiens) xuất hiện. Nguyên nhân là do tác động
của các thiên thạch làm thay đổi khí hậu.
Thời gian phục hồi cho các sự kiện tuyệt chủng trong quá khứ cũng rất dài. Các nhà
khoa học đã tính được rằng, để phục hồi sự đa dạng sinh học cho mỗi lần tuyệt chủng trong
quá khứ cần phải có thời gian phục hồi khoảng vài chục triệu năm (Bảng 2.2).
Bảng 2.2. Thời gian phục hồi từ các tuyệt chủng trong quá khứ
Thời kỳ tuyệt chủng Thời gian phục hồi (triệu năm)
Ordovician cuối 25
Devonian muộn 30
Permian và Triassic 100
Cretaceous cuối 20
Nguồn: USAID, 2005.
3.2. Tuyệt chủng hàng loạt ngày nay
Tuyệt chủng hàng loạt trong giai đoạn hiện nay, hay còn gọi là tuyệt chủng hàng loạt
thứ 6, xảy ra vào kỷ Pleistocent từ hơn 1 triệu năm trước. Đây là thời kỳ có những biến động
lớn về khí hậu toàn cầu, sự dâng cao và hạ thấp mức nước biển cùng với sự mở rộng vùng
phân bố của loài người từ Châu Phi, Châu Âu, Á đến các vùng khác trên thế giới. Đặc tính
quan trọng nhất của sự tuyệt chủng trong giai đoạn này liên quan với sự lan rộng của loài
người trên khắp thế giới, trong đó các loài thú có kích thước lớn hơn 44 kg, bị tuyệt chủng
đến 74 - 86%.
So với các sự kiện tuyệt chủng hàng loạt xảy ra trong quá khứ thì tuyệt chủng hàng loạt
trong giai đoạn hiện nay có nhiều sai khác. Các nhà khoa học cũng đã xác định các sai khác
này và đây là điều quan trọng để chúng ta có thể giải quyết các vấn đề phải đối mặt ngày nay.
Sai khác nổi bật nhất là trong tuyệt chủng hàng loạt trong giai đoạn hiện nay xảy ra với
tốc độ rất nhanh. Các nhà sinh thái đánh giá rằng chúng ta đã mất hàng trăm ngàn loài trong
vòng 50 năm qua. Các chuyên gia cũng dự báo rằng nếu cứ tiếp tục theo xu hướng như hiện
nay, chúng ta có thể bị mất đi ½ loài sinh vật trong thế kỷ tới. Ngược lại, tuyệt chủng hàng
loạt trong quá khứ xảy ra qua hàng trăm ngàn năm và trong một số trường hợp là hàng triệu
năm. Ngay cả ở thời kỳ tuyệt chủng cuối cùng trong quá khứ của khủng long, do tác động của
các thiên thạch, thì ảnh hưởng của nó cũng kéo dài trong một thời gian tương đối. Các chứng
cứ hoá thạch đã chỉ ra rằng quần thể của các loài khủng long đã bị kiệt quệ trong hàng ngàn
năm.
Nhân tố sai khác tiếp theo của thời kỳ hiện nay đó là số lượng loài có nguy cơ tuyệt
chủng hiện nay lớn gấp nhiều lần số loài trong quá khứ. Lý do đơn giản là vì hiện nay số loài
sinh vật nhiều hơn so với quá khứ. Ví dụ như trước khi xảy ra đợt tuyệt chủng hàng loạt thứ 5
vào khoảng 65 triệu năm trước, thì số loài thực vật có hoa trên thế giới chỉ khoảng 100.000
loài, còn hiện nay con số đó đã gần 240.000 loài. Trong số các loài thú, côn trùng và các sinh
vật khác cũng có một sự gia tăng đáng kể về tổng số loài.
21

Khác với các cuộc tuyệt chủng hàng loạt trong quá khứ, xảy ra chủ yếu do các hiện
tượng thiên nhiên, tuyệt chủng hiện nay chủ yếu do con người. Cứ 100 loài bị tuyệt chủng thì
có đến 99 loài là do con người. Ngoài ra, theo sau các cuộc tuyệt chủng hàng loạt trong quá
khứ là sự hình thành loài mới để bù đắp cho số loài bị mất đi, còn sự tuyệt chủng hàng loạt
giai đoạn hiện nay không kèm theo sự hình thành loài mới. Các nhà Cổ sinh vật học cho rằng
sau khi khủng long bị tuyệt chủng, ít nhất 5 triệu năm sau mới có sự cân bằng của sinh vật
nhờ vào tiến hoá. Đối với giai đoạn hiện nay sẽ là một thách thức lớn, bởi vì tuyệt chủng ngày
nay liên quan đến tất cả các thứ hạng chính của loài, trong khi đó ở 65 triệu năm trước, hầu
hết các loài thú, chim, lưỡng thê, và nhiều loài bò sát còn sống sót.
II. Các loài dễ bị tuyệt chủng
Khi môi trường suy thoái do hoạt động của con người, quần thể của các loài sẽ bị giảm
về số lượng, một số loài sẽ bị tuyệt chủng. Các nhà sinh thái học đã nghiên cứu kiểm chứng
và thấy rằng không phải tất cả các loài đều có mức độ dễ tuyệt chủng như nhau; một số nhóm
loài đặc biệt dễ bị tuyệt chủng. Các loài này rất cần được theo dõi cẩn thận và phải được quản
lý với những nổ lực nhằm bảo tồn chúng. Các loài đặc biệt dễ tuyệt chủng thường nằm trong
các nhóm loài sau đây:
1. Các loài có vùng phân bố địa lý hẹp
2. Các loài chỉ tồn tại với một hay vài quần thể
3. Các loài có kích thước quần thể nhỏ
4. Các loài có quần thể đang suy giảm về số lượng
5. Các loài có mật độ quần thể thấp.
6. Các loài cần một vùng cư trú rộng lớn
7. Các loài có kích thước cơ thể lớn
8. Các loài không có khả năng di chuyển tốt
9. Các loài di cư theo mùa
10. Các loài ít có tính biến dị di truyền
11. Các loài với nơi sống đặc trưng
12. Các loài đặc trưng tìm thấy ở môi trường ổn định
13. Các loài sống thành bầy đàn
14. Các loài là đối tượng săn bắn và hái lượm của con người
Các đặc điểm trên đây của các loài có xu hướng dễ bị tuyệt chủng không phải là những
đặc điểm riêng biệt, chúng thường có xu hướng tạo thành từng nhóm đặc điểm. Ví dụ, các loài
kích thước cơ thể lớn thường có mật độ quần thể thấp và địa bàn rộng - nghĩa là có tất cả các
đặc điểm của một loài có xu hướng dễ bị dẫn đến tuyệt chủng. Bằng cách xác định các đặc điểm
làm loài dễ bị dẫn đến tuyệt chủng, các nhà sinh học bảo tồn có thể dự tính được những việc
làm cần thiết nhằm quản lý các loài dễ bị tuyệt chủng.
Tóm tắt nội dung:
Khái niệm tuyệt chủng có rất nhiều ý nghĩa và khác nhau tùy thuộc vào từng bối cảnh
cụ thể. Sự tuyệt chủng có thể ở phạm vi toàn cầu (globally extinct), cục bộ (locally extinct)
hay tuyệt chủng về phương diện sinh thái (ecologically extinct). Hoạt động của con người đã
làm cho nhiều loài tuyệt chủng. Hơn 99% những loài tuyệt chủng thời cận đại là do con
người.
Nguy cơ lớn nhất đe dọa đa dạng sinh học là việc mất nơi cư trú. Các nơi cư trú đặc biệt
đang bị hủy hoại là các khu rừng mưa, rừng khô nhiệt đới, các vùng đất ngập nước, các vùng
đồng cỏ ôn đới, rừng ngập mặn và các rạn san hô.
22

Nơi cư trú bị chia cắt là quá trình mà nơi cư trú là khu vực rộng lớn, liên tục bị giảm về
diện tích hay bị xé lẻ ra làm hai hay nhiều phần nhỏ. Hậu quả là làm cho các loài dễ bị mất
mát nhanh chóng do tạo ra những rào chắn ngăn cản sự phát tán, định cư và kiếm mồi của
động vật.
Ô nhiễm môi trường làm cho nhiều loài không thể tồn tại nơi sinh sống của mình. Ô
nhiễm môi trường bao gồm sử dụng quá mức thuốc trừ sâu, các chất thải công nghiệp, phân
bón hóa học; và ô nhiễm không khí gây ra mưa axit, lắng đọng nitơ, sương mù quang hóa và
khí ozôn.
Việc khai thác quá mức là nguyên nhân thứ hai sau nguyên nhân mất nơi cư trú và là
một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn các loài đến tuyệt chủng.
Các hoạt động của con người là nguyên nhân du nhập hàng ngàn loài đến những vùng
đất mới trên toàn thế giới. Một số loài du nhập nhanh chóng phát triển và có tác động xấu đến
các loài bản địa.
Dịch bệnh và ký sinh thường gia tăng khi các loài động vật bị nuôi nhốt trong những
khu bảo tồn thiên nhiên và không thể di chuyển, đi lại trong một địa bàn rộng lớn. Các loại
bệnh dịch này có thể là nguy cơ đe dọa đối với một số loài quí hiếm.
Có 5 thời kỳ tuyệt chủng hàng loạt xảy ra trong quá khứ do các nguyên nhân từ thiên
nhiên như biến động mức nước biển, hoạt động của núi lửa, thiên thạch và thay đổi khí hậu.
Các thời ký tuyệt chủng này kéo dài trong thời gian 350 triệu năm, gây ra những mất mát
nặng nề về số lượng trong các bậc phân loại.
Tuyệt chủng hàng loạt trong giai đoạn hiện nay, hay còn gọi là tuyệt chủng hàng loạt
thứ 6, xảy ra từ hơn 1 triệu năm trước. So với các sự kiện tuyệt chủng hàng loạt xảy ra trong
quá khứ thì tuyệt chủng hàng loạt trong giai đoạn hiện nay xảy ra rất nhanh và chủ yếu do con
người.
Khi môi trường suy thoái do hoạt động của con người, quần thể của các loài sẽ bị giảm
về số lượng, một số loài sẽ bị tuyệt chủng. Các loài động vật dễ bị tuyệt chủng có những đặc
điểm như có vùng phân bố hẹp, có ít quần thể, các loài di cư theo mùa, các loài có giá trị kinh
tế đối với con người,...
Câu hỏi ôn tập:
Câu 1. Giải thích ngắn gọn các khái niệm tuyệt chủng. Nêu ví dụ cho mỗi trường hợp
Câu 2. Hãy giải thích ngắn gọn vì sao tuyệt chủng là 1 quá trình tự nhiên, mà ngày nay chúng
ta phải quan tâm đến vấn đề tuyệt chủng?
Câu 3. Các nguyên nhân trực tiếp gây ra tuyệt chủng do con người là gì?
Câu 4. Nêu tên các nơi cư trú chính bị phá huỷ và bị đe doạ do các hoạt động của con người.
Câu 5. Một nơi cư trú bị chia cắt khác biệt với nơi cư trú nguyên thuỷ ở điểm nào?
Câu 6. Tác động đến loài của việc nơi cư trú bị chia cắt là gì?
Câu 7. Quá trình tích luỹ và tăng dần lên cao các loại chất độc bảo vệ thực vật trong cơ thể
sinh vật qua chuổi thức ăn được gọi là gì?
Câu 8. Nêu lên các nguyên nhân du nhập các loài ngoại lai. Kể tên 3 sinh vật ngoại lai mà
anh, (chị) biết.
Câu 9. Sự gia tăng mực nước biển do ô nhiễm không khí ảnh hưởng đến san hô như thế nào?
Câu 10. Lượng tối đa nguồn tài nguyên có thể khai thác được một cách bền vững là gì?
Câu 11. Vì sao các loài ngoại lai dễ dàng xâm nhập và chiếm lĩnh các nơi cư trú mới?
Câu 12. Tuyệt chủng hàng loạt trong giai đoạn hiện nay khác với tuyệt chủng hàng loạt trong
quá khứ như thế nào?
Câu 13. Vì sao các loài có kích thước quần thể nhỏ dễ bị tuyệt chủng hơn các loài có kích
thước quần thể lớn?
Câu 14. Vì sao các loài di cư theo mùa dễ bị tuyệt chủng hơn?
23

Câu 15. Vì sao các loài có kích thước cơ thể lớn dễ bị tuyệt chủng?
Câu 16. Vì sao các loài sống thành bầy đàn dễ bị tuyệt chủng?
Tài liệu tham khảo:
Tài liệu Tiếng Việt.
1. Phạm Bình Quyền, Nguyễn Nghĩa Thìn, 2002. Đa dạng sinh học. NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội.
2. Richard B. Primack (Võ Quý, Phạm Bình Quyền, Hoàng Văn Thắng dịch) 1999. Cơ
sở sinh học Bảo tồn. NXB KH&KT Hà Nội.
Tài liệu Tiếng Anh.
1. Edge W. Daniel, John P. Loegering, and Renee Davis Born, 1998. Principles of
Wildlife Conservation. Oregon State University. Corvalis, Oregon.
2. Elizabeth A. Gordon, Oscar E. Franco and Mary L. Tyrrell, 2005. Protecting
Biodiversity: A Guide to Criteria Used by Global Conservation Organizations. Yale
School of Forestry & Environmental Studies.
3. Jeffrey A. McNeely et al, 1990. Conserving the World’s Biological Diversity.
Gland, Switzeland, and Washington, D.C.
4. John MacKinnon, Colin Rees &Monina Uriarte, 2002. Guidebook of Biodiversity
Principles for Developers and Planners. ASEAN Regional Centre For Biodiversity
Conservation.
5. Kent E. Holsinger, 2005. Conservation Biolgy. University of Connecticut.
http://darwin.eeb.uconn.edu
6. Kevin J. Gaston and John I. Spicer, 2004. Biodiversity an Introduction. Blackwell
Publishing Company. USA.
7. Peter B. Moyle, 1997. Wildlife Conservation.
8. Peter J. Bryant, 2001. Biodiversity and Conservation. University of California,
USA.
9. Richard B. Primack, 1993. Essentials of Conservation Biology. Sunderland,
Massachusetts USA.
10. Richard B. Primack, 1995. A Primer of Conservation Biology. Sunderland,
Massachusetts USA.
11. Ronald Hofstetter, 2003. Conservation Biology. University of Miami.
12. USAID, 2005. Biodiversity Conservation: A Guide For USAID Staff and
Partners.
24

Chương 3.
BẢO TỒN Ở CẤP QUẦN THỂ VÀ LOÀI
Mục tiêu:
Trình bày những bất cập của quần thể có kích thước nhỏ, các vấn đề liên quần thể biến
thái, các vấn đề về sinh thái học cá thể liên quan đến bảo tồn các loài quý hiếm, đang có nguy
cơ tuyệt chủng. Các tiếp cận trong việc hình thành tái lập các quần thể mới. Chương này cũng
trình bày vai trò của bảo tồn chuyển vị trong công tác bảo tồn; các cấp độ bảo tồn loài của
IUCN và bảo tồn loài bằng pháp chế.
Số tiết: 8
Nội dung:
Không có một quần thể nào có thể tồn tại mãi mãi. Do những sự thay đổi thời tiết, sự
diễn thế, dịch bệnh, và một loạt các sự kiện khác mà số phận cuối cùng của bất kỳ quần thể
nào là sự tuyệt chủng. Do vậy, vấn đề thực tế là một quần thể sẽ bị tuyệt chủng nhanh hơn hay
chậm hơn và nhân tố nào là nguyên nhân gây ra tuyệt chủng. Do các loài bị đe doạ được tạo
thành bởi một hay một vài quần thể, do đó bảo tồn quần thể là giải pháp để bảo tồn loài.
I. Những bất cập của quần thể nhỏ
Một loài đặc biệt dễ bị tuyệt chủng khi chỉ có một vài quần thể nhỏ. Khi kích thước
quần thể giảm dưới mức nào đó do nơi ở bị mất, bị suy thoái, cắt đoạn hay do bị con người
khai thác quá mức thì quần thể nhanh chóng thu nhỏ lại và đi đến tuyệt chủng. Sự tuyệt chủng
nhanh chóng của các quần thể có kích thước nhỏ đã dẫn đến khái niệm quần thể tối thiểu của
một loài có thể sống được (minimum viable population - MVP), nói lên số lượng nhỏ nhất của
các cá thể trong quần thể nào đó có khả năng tồn tại qua một quãng thời gian xác định.
Theo Shaffer (1981) “Mỗi quần thể tối thiểu có thể sống được của bất kỳ một loài nào là
một quần thể cách ly nhỏ nhất có 99% cơ hội tiếp tục tồn tại trong suốt 1.000 năm nữa, bất
chấp những tác động không lường trước do thiên tai cũng như những biến động về quần thể,
môi trường và di truyền”. Điểm mấu chốt của MVP - quần thể tối thiểu có thể sống được - là
căn cứ theo chỉ số này có thể dự tính số lượng cá thể cần thiết để bảo tồn một loài.
Muốn có được một ước tính tương đối chính xác về quần thể tối thiểu có thể sống được
của một loài (MVP) thì cần phải có một nghiên cứu cụ thể về động thái số lượng của quần thể
và nghiên cứu phân tích điều kiện môi trường nơi cư trú của chúng. Một vài nhà khoa học đã
khuyến nghị một nguyên tắc chung là cố gắng bảo vệ 500 -1.000 cá thể cho các loài động vật
có xương sống bởi vì con số này có vẻ như đủ để bảo tồn sự biến dị di truyền.
Đối với những loài có độ dao động kích thước quần thể lớn, ví dụ như đối với một số
loài động vật không xương sống và các loài cây hàng năm, thì người ta cho rằng sự bảo tồn
một quần thể gồm khoảng 10.000 cá thể sẽ là một chiến lược đem lại hiệu quả.
Khi một loài đã có chỉ số quần thể tối thiểu có thể sống được thì có thể ước tính được
diện tích dao động tối thiểu (minimum dynamic area - MDA) cho loài đó. Người ta đã ước
tính được rằng, để bảo tồn những quần thể tối thiểu của các loài thú cần bảo tồn một diện tích
vào khoảng từ 10.000 đến 100.000 ha.
Các quần thể nhỏ dễ bị suy giảm nhanh về số lượng và bị tuyệt chủng cục bộ vì 3
nguyên nhân chính: những vấn đề về mặt di truyền; những dao động về số lượng quần thể do
những biến động ngẫu nhiên trong tỷ lệ sinh và tỷ lệ chết; và những nhiễu động môi trường do
những biến đổi về sự bắt mồi, cạnh tranh, dịch bệnh, nguồn thức ăn cũng như các rủi ro về
thiên tai xảy ra bất thường như cháy, lũ lụt hay hạn hán.
1. Mất tính biến dị di truyền
25

Tính biến dị di truyền có tầm quan trọng đặc biệt vì nó cho phép quần thể sinh vật thích
nghi được với những biến đổi của môi trường. Biến dị di truyền xảy ra do các cá thể có những
dạng gene khác nhau được gọi là allen.
Trong các quần thể nhỏ, tần số xuất hiện của các allen có thể thay đổi một cách ngẫu
nhiên từ thế hệ này sang thế hệ khác mà điều này lại tùy thuộc vào cá thể được giao phối. Quá
trình trên gọi là sự phân ly gen (genetic drift). Khi một allen có tần suất xuất hiện thấp trong
một quần thể nhỏ thì xác suất mất mát ngẫu nhiên trong từng thế hệ là đáng kể.
Các quần thể nhỏ mà có sự phân ly di truyền thường mẫn cảm hơn với các ảnh hưởng
có hại đến gen, ví dụ như sự suy thoái do giao phối nội dòng, sự mất tính mềm dẻo tiến hóa
(evolutionary flexibility) và sự suy thoái do giao phối xa. Những yếu tố nêu trên có thể góp
phần làm giảm kích thước quần thể và tăng xác suất loài bị tuyệt chủng.
Suy thoái do giao phối nội dòng (inbreeding depression): Trong các quần thể lớn của
hầu hết các loài động vật, các cá thể thường không giao phối với các cá thể đồng huyết tộc
gần mình. Sự giao phối nội dòng, ví dụ giữa cha mẹ và con cái, cháu chắt hay sự tự thụ tinh ở
các loài lưỡng tính thường sẽ gây nên sự suy thoái cận dòng được đặc trưng bởi việc ít con
cái, hoặc con cái không khoẻ mạnh hay vô sinh.
Một cách lý giải hợp lý nhất cho sự suy thoái do giao phối nội dòng là nó cho phép biểu
hiện những allen nguy hại được di truyền lại từ cha mẹ.
Suy thoái do giao phối xa (outbreeding depression): Khi một loài trở nên hiếm hay nơi
cư trú của nó bị hủy hoại thì sự giao phối xa - tức là giao phối khác loài - có thể xảy ra.
Những cá thể không có khả năng tìm được những cá thể cùng loài để giao phối thì có thể giao
phối với một loài họ hàng. Kết quả là con cái của chúng thường yếu hay bất thụ do thiếu sự
tương đồng của các nhiễm sắc thể cũng như không có hệ enzym thích hợp được di truyền từ
những cha mẹ khác loài. Hiện tượng đó được gọi là sự thoái hóa do giao phối xa. Sự suy thoái
do giao phối xa cũng có thể là kết quả của sự giao phối giữa các loài phụ hay giữa các quần
thể của cùng một loài.
Mất tính mềm dẻo tiến hóa: những allen hiếm và những tổ hợp allen bất thường tuy chưa
thể hiện ngay những ưu điểm của mình song rất có thể lại vô cùng thích hợp trong những điều
kiện môi trường trong tương lai. Sự suy thoái tính biến dị di truyền trong những quần thể cực nhỏ
có thể sẽ hạn chế khả năng phản ứng của quần thể với những biến đổi dài hạn của môi trường.
Một khi không có đủ tính biến dị di truyền, các loài có thể bị tuyệt diệt.
Kích thước quần thể có hiệu quả (effective population size): cần bao nhiêu cá thể để
có thể duy trì được tính đa dạng sinh học trong một quần thể? Franklin (1980) cho rằng 50 cá
thể có thể là số lượng tối thiểu cần thiết để duy trì tính biến dị di truyền. Thông qua việc sử
dụng các số liệu về tỷ lệ đột biến ở ruồi giấm Drosophila, Franklin đã gợi ý rằng, trong những
quần thể có 500 cá thể, tỷ lệ biến dị di truyền mới hình thành do đột biến có thể bằng với tính
biến dị di truyền bị mất đi bởi kích thước nhỏ của quần thể. Dãi giá trị này được gọi là nguyên
tắc 50/500, tức là các quần thể cách ly cần phải có ít nhất 50 cá thể và lý tưởng hơn là có 500
cá thể nhằm duy trì tính biến dị di truyền của quần thể đó.
Nguyên tắc 50/500 không dễ áp dụng trong thực tế vì với giả thiết rằng một quần thể là
tập hợp của N cá thể trong đó tất cả các cá thể đều cùng có khả năng giao phối và sinh sản.
Tuy nhiên, nhiều cá thể trong một quần thể lại không sinh sản được vì những lý do như tuổi
tác, sức khoẻ yếu, vô sinh, suy dinh dưỡng, cơ thể nhỏ bé hoặc do các cấu trúc xã hội đã cản
trở không cho một vài cá thể tìm ra “bạn đời” của mình. Do những yếu tố nêu trên nên kích
thước quần thể có hiệu quả (Ne) của những cá thể trong độ tuổi sinh sản thường là nhỏ hơn
kích thước thực của quần thể (actual population size). Vì tỷ lệ mất tính biến dị di truyền là
dựa vào kích thước quần thể có hiệu quả nên sự suy thoái tính biến dị có thể rất trầm trọng
ngay cả khi kích thước thực tế của quần thể là khá lớn.
26

Một quần thể có kích thước hiệu quả nhỏ hơn kích thước thực tế có thể xuất hiện trong
những điều kiện sau:
Tỷ lệ giới tính không tương xứng: do ngẫu nhiên mà quần thể có thể có tỷ lệ không
tương xứng giữa con đực và con cái. Ví dụ, quần thể của các loài đơn giao (monogamous)
như loài ngỗng gồm 20 con đực và 6 con cái thì chỉ có 12 cá thể sẽ tham gia vào họat động
giao phối. Trong trường hợp này, kích thước quần thể có hiệu quả là 12 chứ không phải là 26.
Ở những nhóm động vật tạp giao khác (polygamuos), ví dụ như ở hải cẩu, một con đực
có ưu thế có thể cai quản một số lượng lớn con cái và ngăn cản không cho các con đực khác
giao phối với những con cái dưới quyền cai quản của nó. Ảnh hưởng của số lượng không
tương xứng giữa con đực và con cái đến kích thước thực Ne có thể mô tả theo công thức:
4 Nm N f
Ne = N m + N f
Trong đó Nm và Nf là số cá thể đực và cái trong quần thể.
Sự biến động về sản phẩm sinh sản: ở nhiều loài, số lượng con non của từng cá thể
thường có sự khác nhau đáng kể. Điều này càng đúng hơn với thực vật mà trong đó một số
cây chỉ có thể sinh ra một vài hạt trong khi đó có những cây khác lại sinh ra hàng ngàn hạt.
Việc sinh ra một số con cái không đồng đều trong quần thể sẽ dẫn đến sự suy giảm đáng kể
của Ne do một số ít cá thể trong thế hệ hiện tại đã tạo nên sự không cân đối trong quỹ gen của
thế hệ tiếp theo.
Những dao động bất thường và những cản trở quần thể: đối với một số loài, kích thước
quần thể dao động đáng kể từ thế hệ này sang thế hệ khác, làm cho kích thước quần thể có
hiệu quả sẽ dao động trong khoảng từ thấp nhất đến cao nhất. Như vậy chỉ cần một năm có sự
suy giảm lớn về số lượng cá thể trong quần thể sẽ kéo theo sự giảm sút đáng kể của Ne.
Nguyên tắc này kéo theo một hiện tượng gọi là cản trở quần thể (population bottleneck), khi
một quần thể bị giảm kích thước nghiêm trọng thì những allen hiếm trong quần thể sẽ bị mất
đi nếu không có cá thể nào mang những allen này sống sót và sinh sản. Một loại cản trở đặc
biệt thường gọi là hiệu ứng lập đàn (founder effect) sẽ xuất hiện khi một vài cá thể rời bỏ
quần thể lớn để thành lập một quần thể mới. Quần thể mới này thường có ít tính biến dị di
truyền so với quần thể lớn nguyên thủy.
2. Biến đổi về số lượng cá thể trong quần thể
Trong điều kiện môi trường ổn định lý tưởng, một quần thể sẽ phát triển cho đến khi đạt
mức cao nhất khả năng chịu tải của môi trường. Tới ngưỡng này, tỷ lệ sinh trung bình trên
một cá thể là sẽ ngang bằng với tỷ lệ chết trung bình và sẽ không có sự thay đổi nào về kích
thước của quần thể. Tuy nhiên, trong thực tế, các cá thể của một quần thể thường không sinh
ra một số lượng con cái trung bình mà hoặc là không sinh sản, hoặc số con cái ít hơn bình
quân, hoặc là nhiều hơn bình quân. Chừng nào kích thước quần thể còn lớn thì trị số trung
bình sẽ cung cấp những chỉ số chính xác về hiện trạng đang tiếp diễn trong quần thể. Tương
tự, tỷ lệ chết trung bình trong một quần thể có thể được xác định thông qua nghiên cứu một số
lượng lớn các cá thể trong quần thể.
Khi kích thước quần thể giảm dưới 50 cá thể, sự khác nhau ở mỗi cá thể về sức sống
được thể hiện bằng tỷ lệ sinh và tỷ lệ chết sẽ gây nên dao động kích thước quần thể một cách
ngẫu nhiên. Nếu kích thước quần thể dao động theo chiều đi xuống trong một năm nào đó do
tỷ lệ chết cao hơn và tỷ lệ sinh thấp hơn so với giá trị trung bình thì kết quả là quần thể bị thu
nhỏ và sẽ trở nên mẫn cảm hơn so với những yếu tố biến động số lượng trong những năm tiếp
theo. Những dao động ngẫu nhiên về kích thước quần thể theo chiều hướng tăng lên thì cuối
cùng sẽ bị giới hạn bởi khả năng chịu tải của môi trường và sau đó quần thể lại dao động theo
chiều đi xuống. Do vậy, mỗi khi quần thể bị thu nhỏ lại do nơi cư trú bị phá hủy hay bị chia
cắt thì sự biến động số lượng quần thể sẽ trở thành một yếu tố quan trọng và quần thể đó rất
dễ bị tuyệt chủng.
27

Ở nhiều loài động vật, các quần thể nhỏ thường không ổn định do cấu trúc xã hội bị phá
vỡ khi quần thể giảm xuống đến một mức nhất định nào đó. Các đàn động vật ăn cỏ hay các
đàn chim có thể không có khả năng tìm kiếm thức ăn hay tự bảo vệ mình khi số lượng cá thể
trong quần thể của chúng bị giảm xuống đến một mức nhất định. Những động vật săn bắt mồi
theo bầy như chó hoang hay sư tử có thể cần phải có một số lượng cá thể nhất định nào đó thì
mới săn mồi có hiệu quả. Rất nhiều quần thể của loài động vật sống trong những khu phân bố
rộng lớn như gấu hay cá voi có thể sẽ không tìm được bạn đời cho mình một khi mật độ quần
thể ở mức quá thấp. Hiện tượng này được gọi là hiệu ứng Allee (Allee effect).
3. Sự biến đổi môi trường và các thiên tai
Những biến đổi ngẫu nhiên về môi trường sinh học và vật lý có thể gây nên những biến
đổi về cấu trúc quần thể của một loài.
Qua các nỗ lực mô hình hoá do Menges (1992) và một số người khác thực hiện đã cho
thấy sự biến đổi ngẫu nhiên về môi trường nói chung có ảnh hưởng quan trọng hơn so với sự
biến động ngẫu nhiên về số lượng quần thể, làm gia tăng tỷ lệ tuyệt chủng của các quần thể cở
vừa và nhỏ. Menges đã đưa các thông số biến đổi môi trường vào một số mô hình quần thể
cây cọ. Trong trường hợp mô hình chỉ xem xét sự biến đổi về số lượng quần thể thì kết quả đã
cho thấy với kích thước nhỏ nhất mà quần thể có thể tồn tại trong vòng 100 năm là 140 cá thể.
Tuy nhiên, khi đưa thêm các yếu tố biến đổi các thông số môi trường vào thì giá trị này đã
tăng lên 380 cá thể.
4. Những cơn lốc tuyệt chủng (Extinction vortices)
Một quần thể càng nhỏ thì nó càng dễ bị tổn thương bởi những biến đổi về số lượng, các
yếu tố môi trường và các yếu tố di truyền; ảnh hưởng của các yếu tố này có xu hướng làm cho
quần thể giảm kích thước, dần trở nên nhỏ hơn rồi bị tuyệt chủng với tốc độ được ví như là
một cơn lốc tuyệt chủng. Ba yếu tố biến đổi môi trường, biến động số lượng quần thể và mất
tính biến dị di truyền luôn tác động với nhau nên sự thu hẹp kích thước quần thể do một yếu
tố gây ra sẽ làm tăng tính mẫn cảm của quần thể với các yếu tố khác. Một khi kích thước quần
thể đã bị thu nhỏ thì hậu quả thông thường là tuyệt diệt, trừ khi có các điều kiện cực kỳ thích
hợp cho sự gia tăng kích thước quần thể. Những quần thể như thế, đòi hỏi phải có một chương
trình quản lý quần thể và nơi cư trú được tiến hành một cách cẩn thận nhằm giảm bớt những
biến động về số lượng và tác động các yếu tố môi trường từ đó hạn chế đến mức thấp nhất
những tác động đối với các quần thể nhỏ.

Quần thể
nhỏ

Giao phối Phân ly


gần di truyền

Tỷ lệ sinh
thấp

Tỷ lệ
tử cao
Mất biến dị
di truyền
Giảm sức
sống và
khả năng
thích ứng

Quần thể
nhỏ hơn

Hình 3.1. Cơn lốc tuyệt chủng


28

II. Quần thể biến thái (Metapopulation)


1. Khái niệm
Trải qua thời gian, quần thể của một loài có thể bị mất đi do tuyệt chủng cục bộ ở một
vùng nào đó và các quần thể mới có thể sẽ được hình thành ở những vùng thích hợp gần đó.
Hệ thống tạm thời này hay những quần thể biến động số lượng được liên kết với nhau nhờ sự
di nhập được gọi là quần thể biến thái.
Quần thể biến thái là tập hợp các quần thể nhỏ (subpopulations) của một loài sống biệt
lập trong mỗi mảnh nhỏ của nơi cư trú trong một vùng sinh cảnh, tồn tại được do sự cân bằng
giữa tuyệt chủng cục bộ và phục hồi của các quần thể, nhờ vào sự di nhập các cá thể từ một
hoặc một vài quần thể này tới các quần thể khác.
2. Quần thể trung tâm, quần thể vệ tinh
Các quần thể biến thái thường có một vài quần thể trung tâm và các quần thể vệ tinh.
Các quần thể mà ở đấy có tỷ lệ gia tăng số lượng cá thể cao, tạo ra một số lượng cá thể
dư thừa được gọi là các quần thể trung tâm hay quần thể gốc (source- population). Số lượng
cá thể dư thừa từ các quần thể trung tâm này, sẽ di nhập vào các quần thể có tỷ lệ gia tăng số
lượng cá thể thấp, thường bị tuyệt chủng cục bộ, được gọi là các quần thể vệ tinh (hay quần
thể suy thoái - sink population). Các quần thể vệ tinh có thể lớn hơn các quần thể trung tâm,
thậm chí có thể có số lượng cá thể lớn hơn, nhưng do chất lượng nơi cư trú thấp nên các quần
thể vệ tinh có thể tuyệt chủng nếu không có sự di nhập cá thể từ các quần thể trung tâm.
Sự di nhập các cá thể từ quần thể trung tâm tới các quần thể vệ tinh bảo đảm cho sự tồn
tại của quần thể biến thái.
Đối với các quần thể biến thái, sự phá huỷ nơi cư trú của một quần thể trung tâm có thể
sẽ dẫn đến sự tuyệt chủng của các quần thể vệ tinh, vốn là những quần thể phụ thuộc nhiều
vào quần thể trung tâm. Những nhiễu động do con người tạo ra gây cản trở cho sự di nhập của
các cá thể như rào chắn, đường sá, đập nước,... cũng có thể làm giảm tốc độ nhập cư giữa các
khu vực cư trú khác nhau của loài và từ đó làm giảm, thậm chí làm mất đi khả năng tái lập
quần thể sau khi xảy ra sự tuyệt chủng cục bộ.
III. Sinh thái học cá thể (Autecology)
Điểm then chốt để bảo tồn và quản lý một loài hiếm, đang có nguy cơ tuyệt chủng là
phải hiểu biết đầy đủ về mối quan hệ sinh học của loài đó với môi trường chung quanh và tình
trạng quần thể của loài đó. Những thông tin như thế thường được gọi là lịch sử tự nhiên
(natural history), hoặc đôi khi được gọi một cách đơn giản là Sinh thái học (Ecology), trong
khi thực ra theo nguyên tắc khoa học thì việc tìm hiểu chỉ một loài nào đó sẽ được gọi là Sinh
thái học cá thể (Autecology).
Dưới đây là các nhóm câu hỏi về sinh thái học cá thể cần được làm sáng tỏ khi tiến hành
thiết kế và thực hiện một cách có hiệu quả những chương trình bảo tồn ở mức quần thể.
 Môi trường: loài này được tìm thấy trong những dạng cư trú nào và diện tích mỗi
nơi cư trú đó là bao nhiêu? Môi trường biến đổi như thế nào qua thời gian và không
gian? Tần suất môi trường bị tác động bởi thiên tai như thế nào?
 Sự phân bố: loài được tìm thấy tại đâu trong nơi cư trú? Loài này có di chuyển và di
cư giữa các nơi cư trú, các vùng địa lý trong khoảng thời gian một ngày hay một
năm không? Khả năng tạo thêm nơi cư trú mới của loài ra sao?
 Những mối tương tác sinh học: loài cần loại thức ăn gì và các nhu cầu khác cần có
là gì? Những loài cạnh tranh thức ăn và các nhu cầu khác? Có những vật ăn mồi, sâu
hại và các ký sinh trùng nào có tác động đến kích thước quần thể loài?
 Hình thái học: với kích thước, hình dạng, màu sắc và bề mặt cơ thể như thế nào thì
cho phép loài tồn tại trong môi trường sinh sống của nó?
29

 Sinh lý học: các cá thể của một loài cần bao nhiêu lượng thức ăn, nước, muối
khoáng và các chất cần thiết khác để có thể tồn tại, sinh trưởng và sinh sản? Mỗi cá
thể sử dụng nguồn nói trên với hiệu suất như thế nào? Loài có thể dễ bị tổn thương
trong các điều kiện khí hậu khắc nghiệt như nóng, lạnh và gió mưa?
 Biến động số lượng quần thể: kích thước quần thể có hiện tại là bao nhiêu và trước
đây là bao nhiêu? Số lượng cá thể có ổn định không hay tăng lên hoặc giảm đi?
 Tập tính: từng cá thể có cần hành động như thế nào để loài có thể tồn tại được trong
môi trường sống của mình? Các cá thể của loài giao phối và sinh sản như thế nào?
Các cá thể của loài có quan hệ tương hổ với nhau như thế nào, hợp tác với nhau hay
cạnh tranh?
 Di truyền học: những biến đổi về hình thái và sinh lý giữa các cá thể có phải là do di
truyền điều khiển hay không?
1. Thu thập thông tin về lịch sử tự nhiên
Những thông tin cơ bản cần thiết cho việc bảo tồn một loài hay cho việc xác định hiện
trạng của loài đó có thể thu thập từ 3 nguồn chính:
• Tài liệu đã xuất bản
• Các tài liệu không công bố
• Đi thực địa
2. Quan trắc các quần thể
Một cách để tìm hiểu tình trạng của một loài quí hiếm nào đó là điều tra số lượng các cá
thể của loài tại thực địa và phân tích các số liệu quan trắc quần thể của nó qua thời gian. Bằng
cách điều tra số lượng cá thể lặp đi lặp lại theo một quãng thời gian nhất định ta có thể xác
định được những biến động quần thể theo thời gian. Từ đó chúng ta biết được những xu
hướng lâu dài của quần thể như tăng hay giảm số lượng cá thể do hoạt động của con người
gây ra với những dao động ngắn hạn do thời tiết hay những hiện tượng tự nhiên không dự
đoán trước được gây ra.
- Kiểm kê: đơn giản chỉ là đếm số lượng cá thể có trong quần thể. Bằng cách kiểm kê
lặp lại theo những quãng thời gian nhất định có thể xác định được quần thể đó là ổn định, tăng
lên hay giảm đi về số lượng. Đây là phương pháp ít tốn kém và dễ làm, để trả lời cho những
câu hỏi như hiện tại có bao nhiêu cá thể trong quần thể; trong suốt quãng thời gian kiểm kê,
quần thể này ổn định về số lượng cá thể hay tăng lên hoặc giảm đi.
- Điều tra: loài việc sử dụng phương pháp lấy mẫu lặp lại để ước tính mật độ của loài
trong quần xã. Mỗi vùng sẽ được chia thành nhiều khu vực lấy mẫu và đếm số lượng cá thể
trong mỗi khu vực này. Sau đó các kết quả sẽ được qui về giá trị trung bình và được dùng để
ước tính kích thước thực tế của quần thể. Các phương pháp điều tra đặc biệt có giá trị khi các
pha phát triển trong một chu trình sống của loài là khó phát hiện, rất nhỏ hoặc không thể hiện,
ví dụ giai đoạn hạt của nhiều loài thực vật hay các giai đoạn ấu trùng của động vật không
xương sống.
- Các nghiên cứu về biến động số lượng quần thể: sẽ theo dõi những cá thể đã biết trong
quần thể để xác định tốc độ tăng trưởng, sinh sản và tỷ lệ sống của chúng. Nghiên cứu này
cần bao quát đầy đủ các cá thể thuộc mọi lứa tuổi và mọi kích thước. Mỗi chuyên ngành có
một kỹ thuật riêng để theo dõi các cá thể theo thời gian: các nhà điểu học thì đeo vòng vào
chân chim, các nhà thú học thường đeo biển vào tai động vật và các nhà thực vật thì gắn biển
nhôm vào cây.
Những nghiên cứu về biến động số lượng quần thể có thể cung cấp những thông tin về
cấu trúc tuổi của quần thể. Một quần thể ổn định thường có cấu trúc tuổi đặc trưng giữa cá thể
non, cá thể mới trưởng thành và cá thể già. Nếu vào một giai đoạn hay lứa tuổi nào đó mà
30

không thấy xuất hiện hay xuất hiện với một số ít cá thể trưởng thành, đặc biệt vào giai đoạn
đầu, thì điều đó là dấu hiệu cho thấy rằng quần thể này đang có nguy cơ bị suy thoái. Tương
tự, nếu gặp một số lượng lớn các cá thể non và cá thể mới trưởng thành thì đó là đặc điểm thể
hiện cho thấy rằng quần thể đang phát triển ở trong trạng thái ổn định hoặc thậm chí là đang
phát triển.
Nghiên cứu biến động số lượng quần thể cũng cho phép phát hiện những đặc trưng về
không gian của loài, một yếu tố rất quan trọng trong việc duy trì khả năng sống sót đối với các
quần thể cách ly. Số lượng các quần thể của loài, sự di chuyển giữa các quần thể và sự ổn
định của các quần thể theo không gian và thời gian đều là những tiêu chí quan trọng cần xem
xét, đặc biệt đối với những loài thường xuất hiện dưới dạng những quần thể tạm thời hay
những quần thể không ổn định được hình thành do di cư.
3. Phân tích khả năng tồn tại của quần thể (Population Viability Analysis)
Là một phần của việc phân tích số lượng quần thể nhằm xác định xem liệu một loài có
khả năng thích ứng và tồn tại trong môi trường được không. Phân tích khả năng tồn tại của
quần thể là một phương pháp xem xét các yêu cầu khác nhau của một loài cũng như nguồn
lực sẵn có trong môi trường, để từ đó xác định những giai đoạn nhạy cảm trong lịch sử tự
nhiên của loài đó. Phân tích khả năng tồn tại của quần thể là một việc khá hữu ích trong việc
tìm hiểu những ảnh hưởng đến loài quý hiếm do mất nơi cư trú hay nơi cư trú bị hủy hoại.
Mặc dù việc phân tích khả năng tồn tại của quần thể vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu và
phát triển như là một phương pháp dự báo sức sống và khả năng tồn tại của một loài, và dù nó
vẫn chưa có được một phương pháp luận hay một quy trình thống kê chuẩn, song các phương
pháp xem xét loài một cách hệ thống và toàn diện của nó là sự phát triển tự nhiên của sinh
thái học cá thể trong nghiên cứu lịch sử tự nhiên và những nghiên cứu về biến động số lượng
quần thể.
4. Quan trắc dài hạn loài và các hệ sinh thái
Cần có sự quan trắc dài hạn các quá trình của hệ sinh thái (nhiệt độ, lượng mưa độ ẩm,
tính axít của đất, chất lượng nước, tốc độ chảy của sông suối, xói mòn đất, ...), các quần xã
(số loài có mặt, lượng thực vật che phủ, lượng sinh khối có tại mỗi bậc dinh dưỡng,...) và số
lượng các quần thể (số lượng cá thể của mỗi loài) bởi vì nếu không làm như vậy khó có thể
phân biệt được những dao động bình thường trong năm với những xu hướng lâu dài.
Một khó khăn trong khi tìm hiểu về sự biến đổi trong các hệ sinh thái là trên thực tế, các
hậu quả thường đến chậm trễ tới vài năm sau khi những nguyên nhân của nó đã xuất hiện. Ví
dụ mưa axít và các thành phần khác của ô nhiễm không khí có thể làm yếu và giết chết cây
cối trong suốt hàng thập kỷ, làm gia tăng sự xói mòn đất và bồi lắng ở các sông suối gần đó
và cuối cùng là khiến cho môi trường nước không còn thích hợp cho ấu trùng của một loài
côn trùng nào đó sinh sống. Trong trường hợp như vậy, nguyên nhân (ô nhiễm không khí) có
thể đã xuất hiện từ hàng thập kỷ trước khi biểu hiện ảnh hưởng của nó (loài côn trùng bị suy
giảm) được phát hiện.
Mưa axít, biến đổi khí hậu toàn cầu, diễn thế thực vật, lắng đọng nitơ và sự xâm lấn của
các loài ngoại lai là những ví dụ điển hình cho các quá trình gây ra những những biến đổi lâu
dài ở các quần xã sinh vật, nhưng các diễn biến này thường bị che khuất bởi các hiện tượng
ngắn hạn. Mặt dù chúng ta đã có những dữ liệu dài hạn từ các trạm khí tượng, các đợt đếm
chim hàng năm, các cánh rừng được đo đạc định kỳ, các cơ quan chuyên trách theo dõi về
nguồn nước, và các bức ảnh cũ về thảm thực vật, song những nỗ lực quan trắc dài hạn đối với
quần xã sinh vật còn rất hạn chế, chưa đủ cho hầu hết các mục đích bảo tồn. Để cải thiện tình
hình trên, nhiều cơ sở nghiên cứu khoa học đã bắt đầu tiến hành những chương trình quan trắc
sự biến đổi sinh thái trong quãng thời gian hàng thập kỷ và thế kỷ.
31

IV. Sự hình thành, tái lập các quần thể mới


1. Các tiếp cận cơ bản
Thay vì chỉ quan sát thụ động sự tiến tới tuyệt chủng của các loài đang nguy cấp, nhiều
nhà sinh học bảo tồn đã bắt đầu xây dựng các cách tiếp cận nhằm bảo vệ những loài này. Để có
thể thực hiện một cách hiệu quả việc thiết lập quần thể mới chúng ta cần phải hiểu rõ những yếu
tố gây nên sự suy giảm các quần thể hoang dã ban đầu và do vậy loại trừ được những yếu tố đó
hoặc chí ít cũng kiểm soát được chúng. Ví dụ nếu một loài chim đặc hữu đã bị dân địa phương
săn bắt ngoài tự nhiên đến mức sắp bị tuyệt chủng, các khu vực đẻ trứng của chúng thì bị hủy
hoại do các hoạt động phát triển và trứng của chúng bị các loài ngoại lai ăn, thì tất cả những vấn
đề nêu trên cần phải được đề cập đến trong chương trình tái lập quần thể. Nếu chỉ đơn thuần
phóng thích các con chim được nuôi nhân tạo vào tự nhiên mà không trao đổi bàn bạc với người
dân địa phương, về một sự thay đổi trong phương thức sử dụng đất, và việc kiểm soát các loài
ngoại lai sẽ dẫn đến kết quả là sự quay trở lại của tình hình ban đầu “ném đá ao bèo”.
Có 3 cách tiếp cận cơ bản đã được sử dụng để thiết lập quần thể động thực vật mới.
Chương trình tái du nhập (reintroduction program): là cách thả những cá thể đã được
nhân nuôi trong điều kiện nuôi nhốt hay thả những cá thể thu thập ngoài tự nhiên vào khu vực
cư trú cũ của chúng, nơi loài này đã lâu không còn xuất hiện nữa. Mục đích cơ bản của
chương trình này là nhằm tái tạo một quần thể mới trong môi trường nguyên thủy của nó.
Chương trình mở rộng (augmentation program): là thả các cá thể vào một quần thể đang
tồn tại để làm tăng kích thước quỹ gen của nó. Các cá thể được phóng thích này có thể là các
cá thể hoang dã được bắt giữ ở một nơi nào đó hoặc chúng là những cá thể được nhân nuôi.
Ví dụ điển hình cho cách tiếp cận này là những con đồi mồi mới nở được nuôi giữ trong
những giai đoạn đầu của sự phát triển, dễ bị thương tổn rồi sau đó mới thả trở lại vào biển.
Chương trình du nhập (introduction program): trong đó các loài động thực vật được chuyển
đến những khu vực nằm ngoài phạm vi phân bố của chúng với hy vọng rằng quần thể mới sẽ
được hình thành. Cách tiếp cận như vậy có thể thích hợp khi môi trường nguyên thủy của loài đã
bị hủy hoại tới mức loài không thể tiếp tục tồn tại ở đó, hoặc khi các yếu tố gây suy thoái ban đầu
vẫn còn đó khiến cho việc tái du nhập không thể thực hiện được.
* Những điều cần lưu ý để có dự án thành công
Những động vật được trả lại thiên nhiên có thể đòi hỏi sự quan tâm và hổ trợ đặc biệt
trong quá trình thả cũng như ngay sau khi được thả. Các con vật có thể vẫn được nuôi ăn và
được che chở tại điểm thả trong một thời gian cho đến khi chúng có khả năng tự tồn tại, hoặc
tại điểm thả, chúng lần lượt được thả ra rồi nhốt vào lồng cho đến khi chúng thích nghi được
với các điều kiện của khu vực đó mới thôi. Có thể cần thêm những can thiệp nếu như các con
vật có biểu hiện không thể tồn tại, đặc biệt trong thời kỳ hạn hán hay khan hiếm thức ăn.
Để các dự án tái lập quần thể thành công cần lưu tâm đến khía cạnh tổ chức và tập tính
xã hội của các động vật sau khi chúng được thả ra. Ở ngoài tự nhiên, các động vật, đặc biệt là
các loài thú và một số loài chim thường học hỏi lẫn nhau về môi trường của chúng và cách
giao tiếp xã hội giữa các thành viên trong loài. Những động vật nuôi thường không có những
kỷ năng cần thiết để tồn tại trong môi trường tự nhiên, chúng thiếu các kỷ năng giao tiếp xã
hội cần thiết để tìm kiếm thức ăn, cảm nhận nguy hiểm, tìm bạn đời và nuôi con. Để vượt qua
những trở ngại có tính xã hội này, những loài vật nuôi cần phải được huấn luyện trước khi thả
chúng lại vào môi trường tự nhiên.
Mối giao tiếp xã hội là một trong những tập tính khó nhất mà con người phải dạy các loài
chim thú nuôi bởi vì chúng ta còn hiểu biết rất ít về sự tinh tế của tập tính xã hội ở hầu hết các
loài. Tuy nhiên, đã có một số thành công trong trong việc xã hội hóa các loài thú được nhân
nuôi. Trong một số trường hợp, con người bắt chước vẻ bên ngoài và cử chỉ của các con vật
32

hoang dã. Phương pháp này đặc biệt quan trọng khi phải tiếp xúc với các con non vì chúng cần
phải biết cách nhận biết đồng loại chứ không phải là con người hay những loài nuôi dưỡng
chúng. Trong một số trường hợp, những cá thể hoang dã cùng loài sẽ được dùng làm “hướng
dẫn viên” cho các cá thể nuôi. Các con vượn bắt ngoài tự nhiên đã được nhốt chung với các
vượn nuôi để chúng tạo nên các nhóm xã hội và sau đó chúng sẽ được thả lại vào tự nhiên với
hy vọng rằng vượn nuôi sẽ học hỏi cách sống từ từ vượn hoang dã.
Việc tái lập các quần xã mới cho các loài thực vật hiếm và có nguy cơ tuyệt diệt có sự khác
biệt về cơ bản so với những nỗ lực tái lập các quần thể động vật có xương sống trên cạn. Động vật
thì có thể phát tán tới các địa điểm mới và chủ động tìm kiếm các vị trí có điều kiện thích hợp
nhất đối với chúng. Trong trường hợp của thực vật thì hạt sẽ được phát tán tới các địa điểm mới
nhờ gió, nước và động vật. Một khi hạt đã rơi xuống đất thì nó sẽ không chuyển dịch được nữa,
kể cả khi vị trí mới thích hợp nhất cho nó chỉ vài ba centimet. Vị trí này đặc biệt quan trọng đối
với sự sinh tồn của thực vật vì nếu điều kiện môi trường là quá nắng, hoặc quá nhiều bóng râm,
quá khô hay quá ẩm ướt đều khiến cho hạt không nẩy mầm hoặc mầm sẽ chết. Sự nhiễu loạn do
cháy có khi cũng là cần thiết để thiết lập quần thể giống cây con mới ở một số loài.
Nhìn chung, các loài thực vật hiếm, đang có nguy cơ tuyệt diệt thường không tái lập
được quần thể bằng cách gieo hạt tại các địa điểm có vẻ như phù hợp với chúng. Để tăng cơ
hội thành công, các nhà thực vật học thường cho hạt nẩy mầm và chăm sóc cây con trong các
điều kiện môi trường ổn định. Chỉ tới khi cây con đã qua giai đoạn yếu ớt chúng mới được
cấy ra môi trường ngoài. Trong một số trường hợp khác, cây con được bứng từ quần thể
hoang dã đang sinh sống (thường quần thể này hoặc đang có nguy cơ bị tuyệt diệt hoặc việc
lấy đi một tỷ lệ rất nhỏ sẽ không gây hại gì cho quần thể), rồi đem cấy vào một nơi khác thích
hợp song chưa có quần thể cây này chiếm cứ.
2. Các chương trình tái lập quần thể và luật pháp
Các chương trình du nhập, tái du nhập, hay mở rộng sẽ ngày càng gia tăng trong những
năm tới khi các cuộc khủng hoảng đa dạng sinh học xảy ra thường xuyên do ngày càng nhiều
các loài sinh vật bị tiêu diệt trong thiên nhiên. Nhiều dự án tái du nhập cho các loài có nguy
cơ tuyệt chủng sẽ được các kế họach khôi phục chính thức do chính phủ đề ra thực hiện. Tuy
nhiên, các chương trình tái lập quần thể cũng như các chương trình nghiên cứu chung về các
loài có nguy cơ tuyệt chủng đang ngày càng chịu nhiều tác động của những sắc luật nhằm hạn
chế bớt sự chiếm hữu cũng như sử dụng chúng. Nếu như các quan chức chính phủ thực thi các
bộ luật này một cách cứng nhắc đối với các chương trình nghiên cứu khoa học vốn không
phải là mục tiêu cơ bản của luật, thì công việc nghiên cứu bảo vệ các loài có nguy cơ tuyệt
chủng có thể sẽ bị hạn chế. Các thông tin khoa học mới là rất cần thiết để lập nên những dự án
cũng như để đề xuất các nỗ lực bảo tồn khác. Các nhà sinh học bảo tồn cần phải giải thích về
những lợi ích của các chương trình của họ để các quan chức chính phủ cũng như quảng đại
quần chúng có thể hiểu được, và họ cũng cần giải quyết được những vấn đề chính đáng của
các người nêu trên. Các quan chức chính phủ, những người làm cản trở cho các dự án khoa
học, có thể sẽ làm hại tới các sinh vật mà họ đang cố gắng bảo vệ. Tuy nhiên, mối nguy hiểm
đối với các loài đang có nguy cơ tuyệt chủng do những nghiên cứu khoa học chậm trễ và do
lập kế hoạch quá thận trọng là không đáng kể nếu so với sự suy thoái nhanh chóng của đa
dạng sinh học trên thực tế mà nguyên nhân chính là do nơi cư trú bị hủy hoại, do ô nhiễm môi
trường, và do khai thác quá mức.
V. Chiến lược bảo tồn chuyển vị
Chiến lược tốt nhất nhằm bảo tồn đa dạng sinh học là bảo tồn các quần xã và quần thể
ngay trong điều kiện tự nhiên, một phương thức thường được nói đến là bảo tồn nguyên vị hay
bảo tồn tại chổ (in situ; on-site preservation). Chỉ trong tự nhiên, các loài mới có khả năng tiếp tục
quá trình thích nghi tiến hóa đối với môi trường đang thay đổi trong các quần xã tự nhiên của
chúng. Tuy nhiên, đối với nhiều loài hiếm thì bảo tồn nguyên vị chưa phải là giải pháp khả thi
33

trong điều kiện những áp lực của con người ngày càng gia tăng. Nếu quần thể còn lại là quá nhỏ
để tiếp tục tồn tại, hoặc nếu tất cả những cá thể còn lại được tìm thấy ở ngoài khu bảo vệ thì bảo
tồn nguyên vị sẽ không có hiệu quả. Trong những trường hợp này, giải pháp duy nhất để ngăn cho
loài khỏi bị tuyệt chủng là bảo tồn các cá thể trong những điều kiện nhân tạo. Chiến lược này
được gọi là bảo tồn ngoại vi hay bảo tồn chuyển vị (ex-situ; off-site preservation). Thực tế có một
số loài đã bị tuyệt chủng ngoài tự nhiên song vẫn đang tồn tại trong các bầy đàn nhân nuôi, chứ
không còn tìm thấy trong dạng hoang dại nữa.
Các điều kiện để bảo tồn chuyển vị động vật bao gồm vườn thú, trang trại nuôi động
vật, thủy cung và các chương trình nhân giống động vật. Thực vật thì được bảo tồn trong các
vườn thực vật, vườn cây gỗ và các ngân hàng hạt giống.
Bảo tồn chuyển vị là một bộ phận quan trọng trong chiến lược tổng hợp nhằm bảo vệ
các loài đang có nguy cơ tuyệt diệt. Bảo tồn chuyển vị và bảo tồn nguyên vị là những cách
tiếp cận có tính bổ sung cho nhau. Những cá thể từ các quần thể được bảo tồn chuyển vị sẽ
được thả định kỳ ra ngoài thiên nhiên để tăng cường cho các quần thể được bảo tồn nguyên
vị. Nghiên cứu trên các quần thể nuôi nhốt có thể cung cấp cho ta những hiểu biết về đặc tính
sinh học của loài và gợi ra những chiến lược bảo tồn mới cho các quần thể được bảo tồn
nguyên vị. Các quần thể chuyển vị mà có thể tự duy trì quần thể thì sẽ làm giảm bớt nhu cầu
phải bắt các cá thể từ ngoài thiên nhiên để phục vụ mục đích trưng bày hoặc nghiên cứu. Cuối
cùng, việc những con vật được nuôi nhốt và trưng bày sẽ góp phần giáo dục quần chúng về sự
cần thiết phải bảo tồn loài cũng như bảo vệ các thành viên khác của loài đó ngoài tự nhiên.
Ngược lại bảo tồn nguyên vị là không thể thiếu đối với sự sống còn của những loài không thể
nuôi nhốt, cũng như để tiếp tục có các loài mới trưng bày trong các vườn thú, thủy cung hay các
vườn thực vật.
1. Vườn thú
Các vườn thú, cùng với các trường đại học, các Cục, Vụ phụ trách về sinh vật hoang
dã của Chính phủ và các tổ chức bảo tồn hiện đang nuôi giữ trên 700.000 cá thể, đại diện cho
3.000 loài thú, chim, bò sát và lưỡng cư. Các vườn thú hầu như chỉ trưng bày những loài thú
lớn đầy quyến rũ như gấu trúc, hươu cao cổ, voi,... trong khi đó có xu hướng bỏ qua một số
lượng không nhỏ các loài côn trùng và động vật không xương sống khác mà nhóm này tạo
thành một bộ phận chủ yếu của động vật giới trên trái đất.
Mục tiêu hiện nay của hầu hết các vườn thú lớn là lập được quần thể nuôi của các loài
động vật hiếm và có nguy cơ tuyệt chủng. Chỉ khoảng 10% trong số 247 loài thú hiếm được
nuôi giữ trong các vườn thú khắp thế giới là có khả năng tự duy trì quần thể ở kích thước đủ
để bảo tồn tính biến dị di truyền của chúng. Để khắc phục tình trạng này, các vườn thú và
những tổ chức bảo tồn có liên quan đã bắt tay vào xây dựng cơ sở vật chất và triển khai các
công nghệ cần thiết để tạo lập được các bầy đàn có khả năng sinh sản của các loài quí hiếm và
đang có nguy cơ tuyệt diệt, cũng như xây dựng chương trình và phương pháp mới nhằm tái
lập các loài ngoài tự nhiên.
Một loạt các kỹ thuật cũng đang được nghiên cứu và áp dụng nhằm làm tăng tỷ lệ sinh
sản của các loài động vật nuôi. Các kỹ thuật này gồm ấp và vú nuôi, tức là con mẹ của loài
phổ biến nuôi dưỡng con cháu của loài quí hiếm; thụ tinh nhân tạo khi con trưởng thành tỏ ra
không muốn thụ tinh hoặc chúng phải sống trong những điều kiện khác biệt, ấp trứng nhân
tạo trong các điều kiện tốt nhất để trứng nở và cấy phôi tức là cấy trứng đã được thụ tinh của
loài quí hiếm vào tử cung của con mẹ thay thế thuộc loài phổ biến.
2. Bể nuôi
Để ngăn chặn các hiểm họa đối với các loài thủy sinh, những chuyên gia về cá, thú biển
và san hô làm việc tại các thủy cung hay các bể nuôi đã hợp tác ngày càng chặt chẽ với các
đồng nghiệp tại các Viện nghiên cứu biển, các Cục, Vụ thủy sản của chính phủ và các tổ chức
34

bảo tồn để xây dựng các chương trình bảo tồn những loài và quần xã tự nhiên đang được quan
tâm. Có khoảng 580.000 cá thể của các loài cá đang được nuôi giữ trong các bể nuôi mà hầu
hết các loài đó là được thu thập ngoài tự nhiên. Hiện đang có nhiều nỗ lực nhằm phát triển các
kỹ thuật gây giống để có thể duy trì các loài quí hiếm trong bể nuôi, đôi khi có thể thả chúng
ra tự nhiên và do đó không phải bắt giữ những mẫu vật hoang dã.
3. Vườn thực vật và vườn ươm cây
Vườn thực vật là nơi lưu giữ các quần thể thực vật dễ dàng hơn so với động vật. Thực
vật đòi hỏi sự chăm sóc ít hơn là động vật; nhu cầu về nơi ở của chúng dễ cung cấp; không
cần thiết phải nhốt lại; các cá thể có thể dễ dàng nhân giống hơn; hầu hết là lưỡng tính, trong
đó có khoảng một nửa thành phần loài cần phải được lưu giữ về đa dạng di truyền. Ngoài ra,
hạt giống của nhiều loại cây trong giai đoạn nghĩ, dễ bảo vệ. Từ những lý do đó, các vườn
thực vật là công cụ thật sự quan trọng trong việc lưu giữ đa dạng loài và di truyền.
Hiện nay có khoảng 2.178 vườn thực vật trên thế giới thuộc 153 nước, trong đó có 878
vườn thuộc Châu Âu, đã có các bộ sưu tập chính của các loài thực vật, thể hiện một nỗ lực lớn
lao trong việc bảo tồn thực vật.
Các vườn thực vật trên thế giới hiện nay đang lưu giữ khoảng 6.130.000 cá thể thuộc
80.000 loài thực vật, trong đó có khoảng 3,5 triệu cây thuộc các nước Châu Âu. Vườn thực
vật lớn nhất thế giới Vườn Thực vật Hoàng gia Anh Quốc tại Kew, có khoảng 25.000 loài cây
đang được gieo trồng.
Về đặc trưng phân loại, khả năng cung cấp của các vườn thực vật là cao hơn. Có khoảng
72 trong số 110 loài thông được biết được thu thập tại California, một vườn thực vật ở Nam
Phi chiếm khoảng 1/4 số loài của cả nước, một vườn ở California chiếm 1/3 số loài đặc hữu ở
nước Mỹ. Trong đó có trường hợp một loài cây đã bị tuyệt chủng ở ngoài tự nhiên (Clarkia
franciscana) đã được bảo tồn trong vườn thực vật và đã được tái du nhập vào thành loài đặc
hữu sống ở California. Chỉ có 300 đến 400 vườn thực vật trên thế giới có thể lưu giữ các mẫu
bảo tồn chủ yếu và chỉ 250 vườn trong số đó được sử dụng làm ngân hàng lưu giữ hạt giống,
trong một đánh giá cho rằng các vườn thực vật có thể cứu được các quần thể của 20.000 loài
thực vật tuyệt chủng.
Vai trò quan trọng của các vườn thực vật trong việc bảo tồn đa dạng sinh học đã được
minh họa bởi việc mở rộng mạng lưới của 19 vườn thực vật ở Mỹ với Trung tâm bảo tồn thực
vật (CPC). CPC ước tính có 3.000 taxon đặc hữu ở Mỹ bị đe dọa tuyệt chủng, trong đó hơn
300 loài đang được nuôi cấy ở mạng lưới các vườn.
Sự đóng góp của các vườn thực vật đối với công tác bảo tồn loài mở rộng ra đối với các
loài đang bị đe dọa ngoài hoang dã. Các vườn thực vật cung cấp cây cho nghiên cứu và nuôi
trồng. Chúng cũng là nguồn tài nguyên quan trọng cho việc giáo dục. Mỗi năm ước tính có
khoảng 150 triệu người đến thăm các vườn thực vật.
Vai trò quan trọng của các vườn thực vật có thể dễ dàng được phát triển. Sự mất cân đối
về vị trí địa lý của các vườn thực vật hiện nay, có thể được ngăn ngừa nếu như các vườn được
thiết lập ở các nước nhiệt đới. Trong khi hơn 100 khu vườn được thành lập và có kế hoạch
thành lập trong thập kỷ qua và nhiều trong số đó ở các vùng nhiệt đới, thì vẫn còn sự mất cân
đối địa lý, đặc biệt là khi xem xét về độ phong phú loài ở các vùng nhiệt đới.
Với các nghiên cứu sâu hơn về các công nghệ bảo quản và với các dữ liệu tốt hơn về
nơi thu thập mẫu vật và lịch sử sinh sản của chúng, các vườn thực vật có thể trở thành nơi bảo
quản tính di truyền quan trọng. Ban thư ký của Hiệp hội Bảo tồn thực vật của IUCN hiện nay
đang phát triển cơ sở dữ liệu máy tính về những sự có mặt của các loài ở các vườn thực vật để
giúp các vườn thu thập các loài còn thiếu. Những nỗ lực của các vườn thực vật trong việc bảo
tồn nguồn giống đang được phối hợp với chiến lược bảo tồn vườn thực vật của IUCN. Trong
việc phối hợp với Ban quốc tề về Tài nguyên di truyền thực vật (IBPGR, International Board
35

for Genetic Resources), IUCN cũng đã cùng phối hợp để đưa ra hướng dẫn về việc thu thập
nguồn giống đối với các loài hoang dã.
Cho đến nay, các vườn thực vật đã không sử dụng hết lợi ích của việc lưu giữ các loài
đang bị đe dọa và bảo tồn nguồn gen. Mặc dù chứa một phần lớn khu hệ thực vật thế giới, các
vườn có truyền thống không hợp tác về những tri thức bản địa. Nhờ vào những nỗ lực của các
tổ chức và cá nhân, vai trò của vườn trong việc bảo tồn đang được phát triển nhanh chóng.
4. Ngân hàng hạt giống - gen
Ngài việc trồng cây, các vườn thực vật và viện nghiên cứu đã xây dựng bộ sưu tập về
hạt, như là các ngân hàng hạt giống, mà những hạt này đã được thu lượm từ các cây hoang dại
và cây trồng. Hạt của hầu hết các loại cây đều có thể được lưu giữ trong điều kiện lạnh và khô
trong thời gian dài và sau đó cho nẩy mầm. Khả năng tồn tại lâu dài của hạt đặc biệt có giá trị
cho việc bảo tồn chuyển vị bởi vì nó cho phép bảo tồn hạt của nhiều loài quý hiếm bằng kỹ
thuật đông lạnh và lưu giữ trong một không gian nhỏ, chi phí thấp và không cần giám sát
nhiều. Hiện nay có hơn 50 ngân hàng hạt giống trên thế giới, trong đó có nhiều ngân hàng đặt
tại các nước đang phát triển và được sự điều phối tích cực của Nhóm Tư vấn về Nghiên cứu
nông nghiệp Quốc tế (CGIAR, Consulative Group on International Agricultural Research).
VI. Các cấp độ bảo tồn loài
Nhằm nêu bật tình trạng của một loài quí hiếm cho mục đích bảo tồn, IUCN đã xây
dựng 5 cấp độ bảo tồn như dưới đây; các loài thuộc cấp độ từ 2 đến 4 được coi là những loài
đang bị đe dọa tuyệt chủng. Các cấp độ này có vai trò quan trọng ở cấp quốc gia và quốc tế
trong việc hướng sự chú ý vào những loài đang được quan tâm đặc biệt và trong việc xác định
những loài đang bị đe dọa tuyệt chủng cần được bảo vệ thông qua các cam kết quốc tế như
Công ước CITES
• Đã tuyệt chủng (Extinct): là những loài (hay các đơn vị phân loại khác như phân
loài hay chi) không còn thấy tồn tại trong tự nhiên nữa. Những cuộc tìm kiếm tại
những nơi trước đây vốn là quê hương sinh sống cũng như tại những nơi phân bố
khác đều không phát hiện được chúng
• Đang nguy cấp (Endangered, đang có nguy cơ tuyệt chủng): là những loài có nhiều
khả năng bị tuyệt chủng trong tương lai không xa. Trong số này có cả những loài có
số lượng cá thể bị giảm tới mức loài khó có thể tiếp tục tồn taị nếu như các nhân tố
đe dọa cứ tiếp diễn.
• Dễ bị thương tổn (Vulnerable, có thể bị đe dọa tuyệt chủng): là những loài có thể bị
đe dọa tuyệt chủng trong tương lai gần vì các quần thể của chúng đang bị thu hẹp
kích thước tại khắp mọi nơi thuộc vùng phân bố của loài. Khả năng tồn tại lâu dài
của những loài này là không chắc chắn.
• Hiếm (Rare): loài những loài có số lượng cá thể ít, thường là do có vùng phân bố
trong giới hạn hẹp hoặc là do mật độ quần thể thấp. Mặc dù những loài này chưa
phải đối mặt với những nguy hiểm tức thời song số lượng nhỏ khiến chúng trở thành
những loài có nguy cơ tuyệt chủng.
• Loài chưa hiểu biết đầy đủ (Insufficiently known): là những loài có thể thuộc một
trong những cấp bảo tồn nêu trên nhưng do chưa được hiểu biết đầy đủ nên chưa
xếp được vào một cấp độ cụ thể nào.
Trung tâm quan trắc Bảo tồn Thế giới (WCMC, World Conservation Monitoring
Centre) đã sử dụng các cấp độ trên để đánh giá và mô tả những mối đe dọa đối với khoảng
60.000 loài thực vật và 2.000 loài động vật trong các cuốn sách đỏ do trung tâm này xuất bản.
Các cấp độ bảo tồn loài của IUCN và các cuốn sách đỏ của WCMC là bước đi đầu tiên
rất cần thiết trong sự nghiệp bảo tồn các loài trên thế giới, song khi sử dụng hệ thống phân
hạng này cũng gặp một số khó khăn nhất định.
36

Ě Trước hết, cần phải nghiên cứu xác định kích thước quần thể và xu hướng biến động
số lượng mỗi một loài khi đã đã đưa vào danh sách. Những nghiên cứu như vậy có
thể sẽ rất khó khăn, tốn kém và mất nhiều thời gian.
Ě Thứ hai là một loài cần được nghiên cứu trên toàn bộ khu phân bố của nó, có thể là
sẽ kéo theo những khó khăn trong khâu hậu cần.
Ě Thứ ba, các cấp này hầu hết là không phù hợp với các loài côn trùng nhiệt đới, là
những loài chưa được hiểu biết nhiều về mặt định loại cũng như đặc tính sinh học,
sinh thái học song lại đang bị đe dọa do rừng nhiệt đới đang bị triệt phá nghiêm trọng.
Ě Thứ tư là các loài thường bị xếp vào loại bị đe dọa tuyệt chủng kể cả khi người ta đã
lâu không còn nhìn thấy chúng, với một giả định rằng nếu có một nghiên cứu kỹ
càng sẽ tìm lại chúng.
Vấn đề quan trọng nhất trong hệ thống phân cấp của IUCN là những tiêu chí để xếp một
loài vào một cấp độ nào đó còn rất chủ quan. Do ngày càng có nhiều cá nhân và tổ chức tham
gia vào việc đánh giá và định mức nguy cấp cho các loài nên nhiều khả năng các loài sẽ bị
xếp hạng một cách tùy tiện. Để khắc phục tình trạng này, Mace và Lande (1991) đã đưa ra hệ
thống phân loại ba cấp dựa trên xác suất bị tuyệt chủng:
 Các loài đang nguy cấp trầm trọng (critical species): có 50% hay lớn hơn xác suất
bị tuyệt chủng trong vòng 5 năm hay 2 thế hệ
 Các loài đang nguy cấp (endangered species): có 20 - 50% xác suất bị tuyệt chủng
trong vòng 20 năm hay 10 thế hệ
 Các loài dễ bị thương tổn (vulnerable species): có 10 - 20% xác suất bị tuyệt chủng
trong vòng 100 năm.
VII. Bảo tồn loài bằng pháp chế
1. Các bộ luật Quốc gia
Công cụ pháp chế hay luật pháp có thể được áp dụng tại các cấp địa phương, quốc gia
hay quốc tế để bảo vệ tất cả các khía cạnh của đa dạng sinh học. Nhiều bộ luật quốc gia đã
nhằm cụ thể vào việc bảo tồn các loài. Tại nước Mỹ, bộ luật cơ bản nhằm bảo vệ các loài là
Luật năm 1973 về Các loài đang có nguy cơ tuyệt chủng. Bộ luật này là một hình mẫu cho
nhiều quốc gia noi theo tuy rằng việc thực thi nó vẫn còn nhiều điều tranh cãi.
2. Các thoả thuận Quốc tế
Việc bảo tồn đa dạng sinh học cần phải được giải quyết ở mọi cấp khác nhau trong
chính phủ của từng quốc gia và giữa các chính phủ. Trong khi các cơ chế kiểm soát chính
hiện có chủ yếu là dựa vào từng quốc gia riêng biệt thì các thỏa thuận quốc tế đang ngày càng
được sử dụng nhiều trong bảo vệ các loài và nơi cư trú. Hợp tác quốc tế là một điều kiện tiên
quyết vì nhiều lý do khác nhau:
 Trước hết, các loài thường di chuyển qua các biên giới. Các hoạt động bảo tồn chim
di cư ở phía Bắc Châu Âu sẽ không thể thành công nếu nơi cư trú qua mùa đông của
chim tại Châu Phi bị phá hủy.
 Thứ hai, việc buôn bán quốc tế về các sản phẩm sinh học có thể gây nên hậu quả là
sự khai thác quá mức các loài nhằm đáp ứng nhu cầu thương mại. Việc quản lý và
kiểm soát buôn bán đòi hỏi phải cả trên lĩnh vực xuất và nhập khẩu.
 Thứ ba, những lợi ích của đa dạng sinh học là có tầm quan trọng quốc tế. Các quốc
gia giàu có thuộc vùng ôn đới được hưởng lợi ích từ tính đa dạng sinh học của vùng
nhiệt đới cần phải sẵn sàng giúp đở các nước nghèo khó hơn nhưng đã tham gia thực
hiện việc bảo tồn các nguồn đa dạng sinh học đó.
 Cuối cùng, rất nhiều vấn đề của các loài hay các hệ sinh thái bị đe dọa có qui mô
toàn cầu nên đòi hỏi sự hợp tác quốc tế để giải quyết. Những mối đe dọa như vậy
37

bao gồm đánh bắt thủy sản quá mức, ô nhiễm không khí và mưa acid, ô nhiễm sông,
hồ và đại dương, biến đổi khí hậu toàn cầu và suy thoái tầng ôzôn.
Hiệp ước quan trọng nhất trong việc bảo vệ các loài ở qui mô quốc tế là Công ước về
buôn bán các loài đang có nguy cơ tuyệt chủng (CITES, Convention on International Trade in
Endangered Species) được ra đời năm 1973 cùng với sự ra đời của Chương trình Môi trường
Liên Hiệp Quốc (UNDP). Công ước này hiện có 120 nước tham gia. Công ước CITES đưa ra
một danh sách các loài được kiểm soát trong việc buôn bán quốc tế; các quốc gia thành viên
đồng ý hạn chế buôn bán và khai thác có tính hủy diệt các loài này. Phụ lục I của của Công ước
liệt kê 675 loài động vật và thực vật bị cấm buôn bán hoàn toàn. Còn phụ lục II gồm 3.700 loài
động vật và 21.000 loài thực vật có sự kiểm soát và giám sát trong việc buôn bán quốc tế. Trong
số các loài thực vật có cả các loài được tạo thành do nuôi cấy mô như phong lan, xương rồng,
dương xỉ, đồng thời ngày cũng có nhiều các loài cây lấy gỗ. Trong số các loài động vật, các
nhóm được kiểm soát chặt chẽ gồm vẹt, các loài có kích thước lớn gồm các loài thuộc họ mèo,
cá voi, rùa biển, chim ăn thịt, tê giác, gấu, linh trưởng, các loài được bắt về nuôi trong nhà, sở
thú, thủy cung; các loài được săn bắt để lấy lông, da hay các sản phẩm khác.
Một hiệp ước quốc tế quan trọng khác là Công ước về bảo vệ các loài động vật di cư,
ký năm 1979, mà trọng tâm là các loài chim di cư. Công ước này là một phần bổ sung quan
trọng cho Công ước CITES vì nó đã khuyến khích các nỗ lực quốc tế bảo tồn các loài chim di
cư xuyên biên giới cũng như đã nhấn mạnh các cách tiếp cận trong việc nghiên cứu, quản lý
và kiểm soát săn bắn.
Còn có các thỏa thuận quốc tế khác nhằm bảo vệ các loài sinh vật, đó là:
Ě Công ước về Bảo tồn các loài sinh vật biển vùng Nam Cực
Ě Công ước Quốc tế về kiểm soát cá voi
Ě Công ước Quốc tế về bảo vệ các loài chim và Công ước Benelux về việc săn bắn và
bảo vệ các loài chim
Ě Công ước về đánh bắt và bảo vệ sinh vật trong biển Bantic
Ě Công ước bảo tồn đa dạng sinh học
Nhược điểm của các hiệp ước quốc tế này là sự tham gia tự nguyện; các quốc gia có thể
rút lui khỏi công ước để theo đuổi các lợi ích riêng của họ khi cảm thấy các điều kiện phải
tuân thủ là quá khó khăn. Cần có sự thuyết phục và cả sức ép của quần chúng để buộc các
quốc gia phải thực hiện các điều khoản của công ước và khởi tố những người vi phạm.
Tóm tắt nội dung:
Các quần thể nhỏ có nguy tuyệt chủng hơn các quần thể có kích thước lớn. Kích thước
quần thể tối thiểu của một loài có thể sống được chính là số lượng cá thể cần đủ để bảo đảm
cho quần thể có khả năng sống sót cao trong tương lai gần.
Các quần thể nhỏ dễ bị suy giảm nhanh về số lượng và bị tuyệt chủng cục bộ vì 3
nguyên nhân chính: những vấn đề về mặt di truyền; những dao động về số lượng quần thể do
những biến động ngẫu nhiên trong tỷ lệ sinh và tỷ lệ chết; và những nhiễu động môi trường do
những biến đổi về sự bắt mồi, cạnh tranh, dịch bệnh, nguồn thức ăn cũng như các rủi ro về
thiên tai xảy ra bất thường như cháy, lũ lụt hay hạn hán.
Quần thể biến thái là tập hợp các quần thể nhỏ (subpopulations) của một loài sống biệt
lập trong mỗi mảnh nhỏ của nơi cư trú trong một vùng sinh cảnh, tồn tại được do sự cân bằng
giữa tuyệt chủng cục bộ và phục hồi của các quần thể, nhờ vào sự di nhập các cá thể từ một
hoặc một vài quần thể này (quần thể gốc -source- population-) tới các quần thể khác (quần thể
suy thoái - sink population).
38

Để bảo tồn và quản lý một loài hiếm, đang có nguy cơ tuyệt chủng là phải hiểu biết đầy
đủ về mối quan hệ sinh học của loài đó với môi trường chung quanh và tình trạng quần thể
của loài đó. Những thông tin như thế thường được gọi là Sinh thái học cá thể.
Qua quan trắc quần thể của một loài có nguy cơ bị đe dọa, có thể biết được hiện trạng
của loài đó.
Có thể phục hồi các quần thể mới của các loài quý hiếm nhờ vào việc sử dụng các loài
nuôi nhốt. Để tái lập quần thể thành công cần lưu tâm đến khía cạnh tổ chức và tập tính xã hội
của các động vật sau khi chúng được thả ra. Việc tái lập các quần xã mới cho các loài thực vật
hiếm và có nguy cơ tuyệt diệt có sự khác biệt về cơ bản so với những nỗ lực tái lập các quần thể
động vật.
Một số loài có nguy cơ tuyệt chủng ở ngoài thiên nhiên có thể được duy trì ở các vườn
thú, bể nuôi, vườn thực vật, ngân hàng hạt giống,... cách thức này được gọi là bảo tồn chuyển
vị hay bảo tồn ngoại vi.
Nhằm nêu bật tình trạng của một loài quí hiếm cho mục đích bảo tồn, IUCN đã xây
dựng 5 cấp độ bảo tồn là đã tuyệt chủng, đang nguy cấp, dễ bị tổn thương, quý hiếm và chưa
có đầy đủ thông tin. Các cấp độ này có vai trò quan trọng ở cấp quốc gia và quốc tế trong việc
hướng sự chú ý vào những loài đang được quan tâm đặc biệt và trong việc xác định những
loài đang bị đe dọa tuyệt chủng cần được bảo vệ.
Các công cụ pháp chế hay luật pháp có thể được áp dụng tại các cấp địa phương, quốc
gia hay quốc tế để bảo vệ tất cả các khía cạnh của đa dạng sinh học. Công ước CITES đã
được ban hành nhằm kiểm soát và quan trắc việc buôn bán quốc tế các loài có nguy cơ.
Câu hỏi ôn tập:
Câu 1. Trình bày các lý do làm cho các quần thể nhỏ dễ bị tuyệt chủng.
Câu 2. Khái niệm về quần thể tối thiểu của một loài có thể sống được.
Câu 3. Vì sao giao phối nội dòng làm cho quần thể dễ bị suy thoái?
Câu 4. Vì sao giao phối xa dễ làm cho quần thể dễ bị suy thoái?
Câu 5. Kích thước quần thể có hiệu quả thường nhỏ hơn kích thước thực tế vì các lý do nào?
Câu 6. Một loài tạp giao có số lượng con đực là 15, con cái là 60. Hãy tính kích thước quần
thể có hiệu quả.
Câu 7. Cơn lốc tuyệt chủng là gì?
Câu 8. Hãy nêu 5 trong số các câu hỏi về sinh thái học cá thể cần làm sáng tỏ khi tiến hành
thiết kế và thực hiện một cách có hiệu quả chương trình bảo tồn ở mức quần thể.
Câu 9. Quần thể biến thái là gì?
Câu 10. Phân tích khả năng tồn tại của quần thể (PVA) là gì?
Câu 11. Các tiếp cận cơ bản để thiết lập quần thể mới là gì?
Câu 12. Vai trò của bảo tồn chuyển vị trong công tác bảo tồn là gì?
Câu 13. Hãy nêu lên các hình thức bảo tồn chuyển vị.
Câu 14. Vì sao cần phải quan trắc dài hạn loại và các hệ sinh thái?
Câu 15. Nêu tên 5 cấp độ bảo tồn loài của IUCN.
Câu 16. Các khó khăn khi sử dụng hệ thống 5 cấp của IUCN.
Câu 17. Các cấp độ bảo tồn loài của Mace và Land (1991).
Câu 18. Vì sao cần phải có các thoả thuận quốc tế trong việc bảo tồn loài.

Tài liệu tham khảo:


Tài liệu Tiếng Việt
1. Lê Trọng Cúc, 2002. Đa dạng sinh học và bảo tồn thiên nhiên. Nhà Xuất bản Đại
học Quốc gia Hà Nội.
39

2. Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam, 2001. Các vườn Quốc gia Việt Nam. NXB Nông
nghiệp.
3. Phạm Bình Quyền, Nguyễn Nghĩa Thìn, 2002. Đa dạng sinh học. NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội.
4. Richard B. Primack (Võ Quý, Phạm Bình Quyền, Hoàng Văn Thắng dịch) 1999. Cơ
sở sinh học Bảo tồn. NXB KH&KT Hà Nội.
4. Viện Năng lượng và Môi trường Pháp Ngữ, 2002. Lớp tập huấn về bảo tồn đa
dạng sinh học. Đại học KHTN-ĐHQG Hà Nội.
Tài liệu Tiếng Anh.
1. Edge W. Daniel, John P. Loegering, and Renee Davis Born, 1998. Principles of
Wildlife Conservation. Oregon State University. Corvalis, Oregon.
2. Elizabeth A. Gordon, Oscar E. Franco and Mary L. Tyrrell, 2005. Protecting
Biodiversity: A Guide to Criteria Used by Global Conservation Organizations. Yale
School of Forestry & Environmental Studies.
3. Jeffrey A. McNeely et al, 1990. Conserving the World’s Biological Diversity.
Gland, Switzeland, and Washington, D.C.
4. Kent E. Holsinger, 2005. Conservation Biolgy. University of Connecticut.
http://darwin.eeb.uconn.edu
5. Kevin J. Gaston and John I. Spicer, 2004. Biodiversity an Introduction. Blackwell
Publishing Company. USA.
6. Michael J. Jeffries, 1997. Biodiversity and Conservation. Routledge, London.
7. Myers, N., Mittermeier, R.A., Mittermeier, C.G., da Fonseca, G.A.B., and Kent, J.,
2000 Biodiversity hotspots for Conservation Priorities.Nature 403: 853-858.
8. Peter J. Bryant, 2001. Biodiversity and Conservation. University of California,
USA.
9. Richard B. Primack, 1993. Essentials of Conservation Biology. Sunderland,
Massachusetts USA.
10. Richard B. Primack, 1995. A Primer of Conservation Biology. Sunderland,
Massachusetts USA.
11. Ronald Hofstetter, 2003. Conservation Biology. University of Miami.
12. USAID, 2005. Biodiversity Conservation: A Guide For USAID Staff and
Partners.
13. WCMC Biodiversity , 1994. Priorities for Conserving Global Species Richness
and Endemism. World Conservation Press.
14. WCMC Biodiversity Series No. 5, 1996. Assessing Biodiversity Status and
Suistainability. World Conservation Press.
40

Chương 4.
BẢO TỒN Ở CẤP QUẦN XÃ
Mục tiêu:
Giới thiệu về số lượng, mục tiêu quản lý tổng hợp đối với các phân hạng hiện thời của
IUCN và WCPA về các khu bảo tồn trên thế giới. Trình bày các phương pháp tiếp cận để thiết
lập các ưu tiên cho bảo tồn; các điểm nóng đa dạng sinh học, các đơn vị đại đa dạng sinh học
và các khu hoang dã trên thế giới. Những vấn đề về thiết kế các khu bảo tồn, quản lý các khu
bảo tồn cũng như phục hồi các hệ sinh thái bị suy thoái cũng được đề cập.
Số tiết: 10
Nội dung:
Bảo tồn các quần xã sinh vật nguyên vẹn là cách bảo tồn có hiệu quả nhất toàn bộ tính
đa dạng sinh học. Có 3 cách bảo tồn quần xã sinh vật, đó là xây dựng các khu bảo tồn, thực
hiện các biện pháp bên ngoài các khu bảo tồn và phục hồi các quần xã sinh vật tại các nơi cư
trú bị suy thoái.
I. Các khu bảo tồn
Một trong những bước đi cơ bản quan trọng nhất trong việc bảo tồn các quần xã sinh vật
là chính thức thành lập các khu bảo tồn.
Có thể thành lập các khu bảo tồn theo nhiều cách, song có hai phương thức phổ biến
nhất, đó là thông qua nhà nước (thường ở cấp trung ương, nhưng đôi khi có thể ở cấp khu vực
hay địa phương) và các tổ chức bảo tồn hay cá nhân mua lại các khu đất đó. Các khu bảo tồn
còn được hình thành bởi các cộng đồng truyền thống vì họ muốn giữ gìn lối sống của họ.
Chính phủ ở nhiều nơi đã thừa nhận quyền sở hữu của các cộng đồng này đối với đất đai.
Một khi vùng đất đã được bảo vệ thì cần phải có những quyết định cho phép con người
được tác động lên đó ở mức độ nào. IUCN (International Union for the Conservation of
Nature and Natural Resources) đã xây dựng một hệ thống phân loại các khu bảo tồn, trong đó
định rõ các mức độ sử dụng từ nhỏ đến lớn.
Phân hạng hiện thời của IUCN và WCPA (World Conservation Protected Areas) về các
khu bảo vệ và các mục tiêu quản lý như sau:
I. Khu bảo vệ nghiêm ngặt (Strict protection)
Ia. Khu bảo tồn thiên nhiên nghiêm ngặt (Strict Nature Reserve)
Ib. Khu hoang dã (Wilderness)
II. Bảo tồn các hệ sinh thái và giải trí (Ecosystem conservation and recreation) (Vườn
Quốc gia)
III. Bảo tồn các đặc điểm tự nhiên (Conservation of natural features) (Các công trình
quốc gia)
IV. Bảo tồn qua quản lý chủ động (Conservation through active management) (Quản lý
nơi ở và loài)
V. Bảo tồn cảnh quan trên đất liền, trên biển và giải trí (Landscape/seascape
conservation and recreation) (Bảo vệ cảnh quan)
VI. Sử dụng bền vững các hệ sinh thái tự nhiên (Sustainable use of natural ecosystems)
(Quản lý tài nguyên khu bảo vệ)
Mục tiêu quản lý tổng hợp đối với từng hạng mục được tổng kết như ở bảng 4.1.
41

Bảng 4.1. Các mục tiêu quản lý trong các khu bảo vệ
Các mục tiêu quản lý Ia Ib II III IV V VI
Nghiên cứu khoa học 1 3 2 2 2 2 3
Bảo vệ thiên nhiên hoang dã 2 1 2 3 3 - 2
Bảo tồn da dạng di truyền và loài 1 2 1 1 1 2 1
Duy trì các dịch vụ môi trường 2 1 1 - 1 2 1
Các đặc điểm văn hoá, thiên nhiên đặc trưng - - 2 1 3 1 3
Du lịch và giải trí - 2 1 1 3 1 3
Giáo dục - - 2 2 2 2 3
Sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên - 3 3 - 2 2 1
Duy trì các thuộc tính văn hoá, truyền thống - - - - - 1 2
Nguồn: Michael J.B. Green and James Paine, 1997
Chú thích: 1. Mục tiêu hàng đầu; 2. Mục tiêu thứ yếu; 3. Mục tiêu có thể áp dụng; -
không áp dụng
1. Các khu bảo tồn hiện có
Khu bảo tồn chính thức đầu tiên được hình thành vào ngày 1 tháng 3 năm 1872 khi
tổng thống Mỹ, Ulysses Grant chỉ định 800.000 ha ở vùng đông bắc Wyoming làm Vườn
Quốc gia Yellowstone.
Kể từ đó, các vườn quốc gia và các khu bảo tồn thiên nhiên là phương thức nổi trội cho
việc bảo tồn thiên nhiên, cả về động vật hoang dã và toàn bộ cảnh quan.
Theo danh sách của Liên hiệp quốc về các khu bảo vệ (UNEP, WCMC 2003), có
102.102 khu bảo vệ trên toàn thế giới, với diện tích 18,8 triệu km2 chiếm 12,65% diện tích bề
mặt trái đất. Nếu trừ đi 1,7 triệu km 2 là các khu bảo tồn biển thì diện tích các khu bảo tồn trên
cạn là 17,1 triệu km2, chiếm 11.5% diện tích bề mặt trái đất. Trong số 191 quốc gia có khu
bảo tồn, 36 quốc gia có khu bảo tồn chiếm 10 - 20% diện tích đất đai, 24 quốc gia có diện tích
các khu bảo tồn lớn hơn 20% diện tích lãnh thổ.
Bảng 4.2. Số lượng và diện tích các khu bảo tồn trên thế giới
Hạng Số lượng Tỷ lệ theo số lượng Diện tích (km2) Tỷ lệ theo diện tích
Ia 4.731 4,6 1.033.888 5,5
Ib 1.302 1,3 1.015.512 5,4
II 3.881 3,8 4.413.142 23,6
III 19.833 19,4 275.432 1,5
IV 27.641 27,1 3.022.515 16,1
V 6.555 6,4 1.056.008 5,6
VI 4.123 4,0 4.377.091 23,3
Chưa phân hạng 34,036 33,4 3.569.820 19,0
Tổng 102.102 100,00 18.763.407 100,0
Nguồn: Kalemani Jo Mulongoy and Stuart Chape, 2005
42

2. Tính hiệu quả của các khu bảo tồn


Nếu như các khu bảo tồn chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trên trái đất thì hiệu quả bảo tồn các
loài của thế giới được đến đâu? Các ví dụ sau đây sẽ minh hoạ hiệu quả tiềm tàng của các khu
bảo tồn
Ě Chính phủ Indonesia có kế hoạch bảo vệ các quần thể của những loài chim và linh
trưởng bản địa trong hệ thống các vườn Quốc gia và khu bảo tồn của nước này. Mục
tiêu nói trên sẽ đạt được nhờ vào việc tăng diện tích các khu bảo tồn từ 3,5% lên
10% so với tổng diện tích đất đai của cả nước.
Ě Tại hầu hết các quốc gia nhiệt đới lớn vùng Châu phi, đa số quần thể của các loài
chim bản địa là là nằm trong các khu bảo tồn. Ví dụ Zaia có trên 1000 loài chim, thì
89% số loài xuất hiện trong các khu bảo tồn với diện tích chỉ chiếm 3,9% tổng diện
tích đất đai của cả nước.
Ě Một ví dụ điển hình về vai trò của các khu bảo tồn nhỏ đó là Vườn Quốc gia Santa
Rosa ở vùng Tây Bắc Costa Rica. Vườn này chỉ chiếm 0,2 diện tích của Costa Rica
song nó đã chứa tới 55% số lượng các quần thể của 135 loài bướm đêm của nước
này. Những ví dụ trên đã cho thấy rõ rằng những khu bảo tồn được lựa chọn cẩn
thận thì có thể nuôi dưỡng và che chở cho rất nhiều, nếu không nói là hầu hết, các
loài của một quốc gia.
3. Những tồn tại của các khu bảo tồn
Mặc dù đã có những hiệu quả nhất định, các khu bảo tồn hiện nay trên thế giới vẫn
còn một số hạn chế như sau:
• Hầu hết các khu bảo tồn có diện tích nhỏ, khó để duy trì sự sống còn của các quần
thể động vật có xương sống kích thước lớn. Để hạn chế điều đó, có thể xây dựng các
hành lang để liên kết các khu bảo tồn với nhau. Tuy vậy, trong thực tế chỉ có một số
ít khu bảo tồn có các hành lang liên kết, còn phần lớn vẫn chưa thực hiện được do
vấn đề này vẫn còn nhiều tranh cải.
• Các khu bảo tồn có xu hướng nghiêng về các vùng đất có giá trị kinh tế thấp, ít có
sự tranh chấp về việc sử dụng đất và các đơn vị hành chánh. Kết quả là các khu bảo
tồn này không đại diện đầy đủ cho các hệ thực vật tự nhiên hay sự xuất hiện của
loài.
• Trong thực tế nhiều khu bảo tồn hoạt động rất ít hay hầu như không hoạt động (các
“khu bảo tồn giấy”).
• Mạng lưới khu bảo tồn hiện nay còn quá nhỏ. IUCN 1993, chủ trương rằng ít nhất
10% diện tích của mỗi quốc gia phải được bảo tồn. Diện tích giành cho các khu bảo
tồn biển còn thấp hơn nhiều (0,5% diện tích dại dương) mặc dù các lợi ích của các
khu bảo tồn biển rất to lớn về đa dạng sinh học bên trong và bên ngoài các khu bảo
tồn này cũng như việc khai thác về sau.
• Mạng lưới bảo tồn hiện có được hình thành theo nguyên tắt hơi tĩnh, không đáp ứng
được với những sự thay đổi về vùng phân bố của loài do sự thay đổi khí hậu. Sự
thay đổi khí hậu là nguyên nhân gây ra sự thay đổi vùng phân bố của loài, điển hình
là sự mở rộng dọc theo phạm vi ranh giới vùng này và thu hẹp ở các vùng khác. Tuy
nhiên, khi các khu bảo tồn trở thành các vùng biệt lập về hệ thực vật tự nhiên do
môi trường biến đổi, thường cách biệt với các khu vực khác bởi một khoảng cách
tương đối xa, thì khả năng di chuyển của loài trở nên càng hạn chế.
43

II. Thiết lập các ưu tiên cho việc bảo vệ


Do nguồn kinh phí có hạn, cần thiết phải thiết lập được các ưu tiên cho bảo tồn đa
dạng sinh học và quan trọng nhất là bảo tồn loài. Câu hỏi được đặt ra ở đây là làm sao để có
thể giảm thiểu sự mất mát của các loài với một nguồn tài chính và sức lực có hạn. Những câu
hỏi có mối quan hệ tương tác lẫn nhau mà các nhà hoạch định công tác bảo tồn cần phải làm
sáng tỏ là: cần phải bảo vệ cái gì, bảo vệ ở đâu và bảo vệ như thế nào. Có thể dùng 3 tiêu chí
sau để lập ra các ưu tiên cho bảo tồn loài và quần xã.
Ě Tính đặc biệt: một quần xã được ưu tiên bảo vệ cao hơn nếu ở đó là nơi sinh sống chủ
yếu của nhiều loài đặc hữu quí hiếm so với quần xã chỉ gồm các loài phổ biến. Một loài
thường có giá trị bảo tồn nhiều hơn nếu có tính độc nhất về phân loại học, tức loài duy
nhất của giống hay họ, so với loài là thành viên của một giống có nhiều loài.
Ě Tính nguy cấp: một loài đang có nguy cơ tuyệt chủng sẽ được quan tâm nhiều hơn
so với những loài không bị đe dọa tuyệt chủng. Những quần xã sinh học mà đang bị
đe dọa và sắp sửa bị tiêu diệt cũng cần được ưu tiên bảo vệ.
Ě Tính hữu dụng: những loài đã có giá trị kinh tế hoặc tiềm năng đối với con người sẽ
được ưu tiên bảo vệ nhiều hơn so với các loài không có giá trị rõ ràng.
Loài rồng đất Komodo ở Indonesia là ví dụ về loài được ưu tiên bảo vệ theo cả 3 tiêu
chí trên: nó là loài thằn lằn lớn nhất trên thế giới (tính đặc biệt); chỉ xuất hiện trên một vài đảo
nhỏ của một quốc gia đang phát triển nhanh (tính nguy cấp) và nó có tiềm năng lớn cho du
khách cũng như là mối quan tâm lớn của các nhà khoa học (tính hữu dụng).
1. Các phương pháp tiếp cận về loài
Có thể thành lập các khu bảo tồn để bảo vệ những loài độc nhất vô nhị. Nhiều khu
vườn Quốc gia đã được hình thành để bảo vệ những loài thú lớn đẹp đẽ là những loài thu hút
sự quan tâm của công chúng, có giá trị biểu trưng và tính quyết định cho du lịch sinh thái.
Trong quá trình bảo vệ các loài này, toàn bộ các quần xã của hàng ngàn loài khác cũng được
bảo vệ.
Xác định và chỉ ra được những loài cần ưu tiên nhất là bước đầu tiên trong quá trình lập
kế hoạch bảo tồn cho từng loài. Chương trình Hành động do Uỷ ban về sự Sinh tồn của các
loài thuộc IUCN gồm khoảng 2.000 nhà khoa học, tập hợp trong 80 nhóm chuyên gia khác
nhau để đánh giá và khuyến nghị bảo tồn cho các loài thú, chim, động vật không xương sống,
bò sát, cá và thực vật. Có một nhóm đã xây dựng Chương trình hành động cho các loài Linh
trưởng ở Châu Á, trong đó đã xếp loại ưu tiên cho 64 loài dựa vào mức độ đe dọa, tính đặc
hữu về phân loại học và mối liên quan tới các loài linh trưởng khác đang có nguy cơ tuyệt
diệt.
2. Phương pháp tiếp cận quần xã và hệ sinh thái
Một số người quan tâm đến bảo tồn đã cho rằng nên tập trung vào bảo tồn các quần xã
hoặc các hệ sinh thái hơn là chỉ bảo tồn loài. Bảo tồn các quần xã có thể sẽ bảo vệ được một
số lượng lớn hơn các loài, trong khi đó việc cứu hộ các loài cụ thể nào đó lại thường không
đơn giản, tốn kém và ít hiệu quả.
Việc hình thành các khu bảo tồn mới cần phải đảm bảo được càng nhiều đại diện của
các loại quần xã sinh học càng tốt. Định ra được những khu vực nào trên thế giới đã được bảo
vệ thỏa đáng và những khu vực nào cần khẩn trương bổ sung bảo tồn là một việc có tính
quyết định trong phong trào bảo tồn thế giới.
2.1. Phân tích khiếm khuyết:
Một cách nhằm xác định tính hiệu quả của các chương trình bảo tồn quần xã và các hệ sinh
thái là so sánh các ưu tiên về đa dạng sinh học với các khu bảo tồn đã có hoặc sắp thành lập. Sự so
44

sánh này có thể sẽ xác định được những lỗ hổng trong bảo tồn đa dạng sinh học bằng cách thành
lập các khu bảo tồn mới.
Ở qui mô quốc gia, đa dạng sinh học được bảo vệ có hiệu quả nhất bằng cách bảo đảm
rằng tất cả các dạng hệ sinh thái chủ yếu đều nằm trong các khu bảo tồn.
Hệ thống thông tin địa lý (GIS) là bước phát triển mới nhất trong kỹ thuật phân tích các
khuyếm khuyết thông qua việc sử dụng máy tính để tích hợp các dữ liệu về môi trường tự
nhiên với các thông tin về sự phân bố của loài. Phân tích bằng GIS có thể chỉ ra được những
khu vực nguy cấp cần được đưa vào các vườn quốc gia hay các khu bảo tồn và cần tránh triển
khai các dự án phát triển tại đây. GIS bao gồm việc lưu trữ, hiển thị và tập hợp nhiều loại dữ
liệu bản đồ, ví dụ các kiểu thảm thực vật, khí hậu, thổ nhưỡng, địa hình, địa chất, thủy văn và
sự phân bố của loài. Kỹ thuật này có thể giúp thể hiện mối tương quan giữa các thành phần vô
sinh và hữu sinh của cảnh quan, giúp qui hoạch các vườn quốc gia nơi có tính đa dạng về hệ
sinh thái, và thậm chí còn có thể đề xuất các địa điểm để tìm kiếm các loài qui hiếm. Không
ảnh và viễn thám là những nguồn dữ liệu bổ trợ cho việc phân tích GIS.

Địa hình và thảm thực vật

Sự phân bố của các loài quí


hiếm, đặc hữu

Diện tích các khu bảo vệ

Bản đồ cuối cùng làm rõ


những khu vực cần bảo vệ
nhiều hơn

Hình 4.1. GIS tích hợp nhiều dữ liệu khác nhau được biểu diễn trên bản đồ
2.2. Các trung tâm đa dạng sinh học:
Để có thể đưa ra các ưu tiên cho việc bảo tồn, IUCN, Trung tâm quan trắc bảo tồn thế
giới (WCMC) và các tổ chức khác đã cố gắng xác định các khu vực then chốt có tính đa dạng
sinh học và có tính đặc hữu cao trên thế giới đang đứng trước sự đe dọa bị tuyệt chủng loài và
hủy hoại nơi cư trú: những nơi được gọi là điểm nóng phải được bảo tồn. Các điểm nóng đa
dạng sinh học là những vùng đang bị đe doạ và chứa một tỷ lệ cao đa dạng sinh học trên thế
giới. Các vùng này cần phải được bảo tồn ngay để chống lại việc mất mát của các loài do
tuyệt chủng.
45

Mục tiêu của khái niệm điểm nóng là những nơi bị đe dọa lớn nhất tới số loài lớn nhất
và cho phép những nhà bảo tồn tập trung những nổ lực về chi phí hiệu quả ở đó. 25 điểm
nóng đa dạng sinh học chứa 44% tất cả các loài thực vật và 35% tất cả các loài ĐVCXS trên
cạn chỉ chiếm 1,4% diện tích hành tinh.
Có hai nhân tố được xem xét để chỉ định điểm nóng. Điểm nóng là những vùng chứa
đựng một số lớn các loài đặc hữu và đồng thời bị tác động một cách đáng kể các hoạt động
con người.
Tính đặc hữu là tiêu chí đầu tiên để xác định điểm nóng. CI đã lấy tổng số loài thực vật
đặc hữu như là chỉ thị cho tính đặc hữu nói chung. Để là một điểm nóng, một vùng phải có
1.500 loài cây đặc hữu (0,5% số loài thực vật toàn cầu).
Sự có mặt của thực vật nguyên sinh là cơ sở để đánh giá tác động con người trong một
vùng; để là một điểm nóng, một vùng phải bị mất đi hơn 70% môi trường sống nguyên thuỷ
của nó.
Các điểm nóng chỉ chiếm khoảng 1/8 diện tích bề mặt trái đất nhưng lại chứa đến 1/5
dân số của thế giới. Việc gia tăng dân số nhanh trong các điểm nóng góp phần tới sự suy thoái
điểm nóng do việc du nhập của những loài ngoại lai, việc buôn bán bất hợp pháp những loài
bị đe doạ, nền nông nghiệp đốt nương làm rẫy, khai mỏ, xây dựng đường cao tốc, đập nước và
tràn dầu. Mười một điểm nóng đã mất ít nhất 90% cây cỏ tự nhiên nguyên thuỷ và ba trong số
đó đã mất 95%.

Source: Myers. N., et al. 2000.


Hình 4.2. Các điểm nóng đa dạng sinh học trên thế giới
1. Tropical Andes 14. Polynesia & Micronesia
2. Sundaland 15. New Caledonia
3 Mediterirranean Basin 16. Guinean Forests of West Africa
4. Madagasca & Indian Ocean Island 17. Choco-Darian-Western Ecuador
5. Indo - Burma 18. Western Ghats & Sri Lanka
6. Caribbean 19. California Floristics Province
7. Atlantics Forest 20. Succulent Karoo
8. Philippines 21. New Zealand
9. Cape Floristic Regions 22. Central Chile
46

10. Mesoamerica 23. Caucasus


11. Brazilian Cerrado 24. Wallacea
12. Southest Australia 25. Eastern Arc Moutains & Coastal
13. Mountains of Southest China
Có một số nhân tố quan trọng để việc xác định tình trạng ưu tiên của một điểm nóng.
Các nhân tố quan trọng nhất để xem xét là số của những loài thực vật và động vật tìm thấy
trong điểm nóng và không có ở nơi nào khác trên thế giới; mức độ của sự mất mát nơi ở và số
loài thực vật và động vật đặc hữu trên đơn vị diện tích.
Lấy tất cả những nhân tố này để tính toán, thì vùng Madagascar và những hòn đảo ở ấn
Độ Dương, Philippines, Sundaland, Atlantic Forest và vùng Caribbean được coi như những
nơi nóng nhất của các điểm nóng (Bảng 4.3). Nói cách khác, đa dạng sinh học độc nhất của
năm điểm nóng này bị mất đi và có nguy cơ cao của việc mất nó nếu không có hoạt động bảo
tồn có hiệu quả và tức thời.
Bảng 4.3. Các điểm nóng nhất về đa dạng sinh học trên thế giới
Các điểm nóng Thực vật đặc Động vật có Thực vật đặc ĐVCX đặc % hệ thực vật
hữu xương đặc hữu hữu /100 km2 hữu /100 km2 còn lại
Madagascar & Indian 9.704 771 16.4 1.3 9.9
Ocean Islands

Philippines 5.832 518 64.7 5.7 3.0


Sundaland 15.000 701 12.0 0.6 7.8
Atlantic Forest 8.000 654 8.7 0.6 7.5
Caribbean 7.000 779 23.5 2.6 11.3
Indo-Burma 7.000 528 7.0 0.5 4.9
Western Ghats & Sri 2.180 355 17.5 2.9 6.8
Lanka
Eastern Arc Mountains 1.500 121 75.0 6.1 6.7
& Coastal Forests
Source: Myers. N., et al. 2000.
Một cách tiếp cận có giá trị khác là các đơn vị đại đa dạng sinh học (Megadiversity).
Khái niệm về đại đa dạng sinh học được đề nghị lần đầu tiên khi viện Smithsonian tổ chức
Hội nghị về Đa dạng Sinh học vào năm 1998. Theo cách tiếp cận này, những quyền tập trung
ưu tiên vào đa dạng sinh học được hiểu theo nghĩa một đơn vị chính trị hơn là một thuật ngữ
sinh thái. Điều này công nhận một số ít đơn vị (17 nước) là trung tâm có độ đa dạng sinh học
cao (Hình 4.3.). 17 nước này chiếm 2/3 nguồn tài nguyên sinh học trên trái đất trong đó có
hơn 80% loài thực vật bị đe doạ trên toàn thế giới. Những nước này cũng là những nước có
tầm quan trọng về đa dạng văn hoá.
2.3 Các khu hoang dã (Wilderness areas):
Các khu hoang dã lớn cũng là một ưu tiên quan trọng cho công tác bảo tồn. Các khu
hoang dã là những vùng đất lớn trên 1 triệu ha, có ít nhất 70% hệ thực vật nguyên thuỷ còn
lại, mật độ dân cư thấp, ít hơn 5 người /km2 và có rất ít tác động của con người. Các khu
hoang dã nhiều khả năng không phát triển trong tương lai có lẽ sẽ là những nơi duy nhất còn
lại trên trái đất mà các quá trình tiến hoá tự nhiên có thể tiếp tục xảy ra. Các khu hoang dã này
có thể duy trì để làm các khu đối chứng cho thấy các khu tự nhiên sẽ như thế nào nếu không
có tác động của con người.
47

Conservation International (CI) đã bước đầu xác định 24 khu hoang dã, chiếm 44%
diện tích trái đất nhưng chỉ chứa 3% dân số thế giới (Mittermeier et al. 2003).
Các khu hoang dã là:
• Kho chứa của đa dạng sinh học và các lưu vực quan trọng.
• Là những khu đối chứng để đánh giá mức độ quản lý ở các điểm nóng bị phá huỷ.
• Có vai trò quan trọng trong việc ổn định khí hậu.
• Là những nơi cuối cùng trên thế giới mà người dân bản địa có thể duy trì lối sống
truyền thống của họ.
• Có những giá trị về văn hoá, thẩm mỹ và tinh thần.

Nguồn: Viện Năng lượng và Môi trường Pháp Ngữ. 2002


1 Autralia 5 RDC 9 Madagascar 14 Nam Phi
2 Brazil 6 Ecuador 10 Malaysia 15 Tân Guinea
3 China 7 India 11 Mexico 16 Mỹ
4 Colombia 8 Indonesia 12 Perou 17 Venezuela
13 Philippines
Hình 4.3. Các đơn vị đại đa dạng sinh học

CI đã xác định được các khu hoang dã có tỷ lệ các loài đặc hữu cao (High-Biodiversity
Wilderness Areas, HBWAs) và chúng được xác định là các điểm ưu tiên bảo tồn.
• Nam Mỹ: một khu hoang dã gồm có rừng mưa, đồng cỏ và núi, nhưng có rất ít
người, chạy qua miền nam của Guyana, miền nam của Venezuela, miền bắc Brazil,
Colombia, Ecuador, Peru và Bolivia
48

• New Guinea: Hòn đảo Guinea có những vùng rộng lớn không bị xâm nhập trong
khu vực Châu Á Thái bình Dương, mặc dầu có bị ảnh hưởng bởi nạn chặt phá rừng,
khai khoáng và chương trình di dân. Một nửa phía đông của hòn đảo này là quốc gia
độc lập Papua New Ghine, nửa phía tây của hòn đảo là một bang của Indonesia.
• Các cánh rừng ở Congo, vùng Trung Phi
• Các hoang mạc ở Bắc Mỹ
• Các hoang mạc và khu rừng ở Nam Phi
CÁC KHU HOANG DÃ THẾ GiỚI

Hình 4.4. Các khu hoang dã thế giới


III. Các thỏa thuận Quốc tế
⇒ Công ước Ramsar về các vùng đất ngập nước ra đời năm 1971 nhằm ngăn ngừa việc
tiếp tục phá hủy các vùng đất ngập nước, đặc biệt là những vùng có nhiều loài chim nước di cư
qua lại và nhằm công nhận các giá trị về sinh thái, khoa học, kinh tế, văn hoá và giải trí của các
vùng đất ngập nước. Công ước này đề cập tới những nơi cư trú như các thủy vực nước ngọt, cửa
sông và ven biển gồm 590 địa điểm với tổng diện tích trên 37 triệu ha. 61 quốc gia đã ký kết nhất
trí bảo tồn và gìn giữ các nguồn đất ngập nước của mình và sẽ chỉ định ít nhất một vùng đất ngập
nước có ý nghĩa quốc tế để bảo tồn.
⇒ Công ước bảo vệ các di sản văn hoá và thiên nhiên thế giới có liên quan đến
UNESCO, IUCN và Hội đồng quốc tế về địa danh và di sản. Công ước này đã nhận được sự
ủng hộ cực kỳ rộng rãi. Với sự tham gia của 109 nước, công ước này được coi là một trong số
những công ước về bảo tồn được tham gia đông đảo nhất. Mục tiêu của công ước này là để
bảo vệ các vùng thiên nhiên có ý nghĩa quốc tế thông qua chương trình Địa danh Di sản Thế
giới. Công ước này ưu việt ở chỗ nó thừa nhận rằng cộng đồng quốc tế có nghĩa vụ hỗ trợ về
tài chánh cho những nơi này.
⇒ Năm 1971, chương trình con người và sinh quyển của UNESCO (MAB) đã xây dựng
mạng lưới quốc tế về các khu bảo tồn sinh quyển. Các khu bảo tồn sinh quyển được thiết kế
thành những mô hình chứng minh sự tương ứng giữa bảo tồn và phát triển bền vững vì quyền
49

lợi của người dân địa phương. Tới năm 1994, đã có tất cả 312 khu bảo tồn sinh quyển được ra
đời tại hơn 70 nước, chiếm tổng cộng khoảng 1,7 triệu km2.
IV. Thiết kế các khu bảo tồn
Các nhà sinh học bảo tồn đã thận trọng trong việc đưa ra các hướng dẫn chung và đơn
giản trong việc thiết kế các khu bảo tồn bởi vì mọi tình huống bảo tồn đều đòi hỏi sự quan
tâm đặc biệt. Những câu hỏi then chốt mà các nhà bảo tồn cố gắng giải quyết là:
• Một khu bảo tồn cần rộng đến mức nào để bảo tồn được loài?
• Tạo ra một khu bảo tồn lớn tốt hơn hay tạo ra nhiều khu bảo tồn nhỏ tốt hơn?
• Cần phải bảo vệ trong khu bảo tồn bao nhiêu cá thể của một loài nguy cấp là đủ để
ngăn cho loài đó khỏi bị tuyệt diệt?
• Hình dạng hợp lý nhất cho một khu bảo tồn thiên nhiên là hình gì?
• Khi một số khu bảo tồn được hình thành, chúng nên nằm gần nhau hay xa nhau, và
chúng nên biệt lập với nhau hay là nên liên hệ với nhau qua những đường hành lang?
1. Kích thước của khu bảo tồn
Các nhà bảo tồn đã tranh luận là liệu sự giàu có về loài sẽ đạt được giá trị cực đại trong
một khu bảo tồn thiên nhiên rộng lớn hay trong tập hợp các khu bảo tồn nhỏ có tổng kích
thước tương ứng? Trong các tài liệu, vấn đề trên được gọi là “cuộc tranh luận SLOSS”
(Single Large Or Several Small). Ví dụ nên thành lập một khu bảo tồn có diện tích 10.000 ha
hay là nên thành lập bốn khu bảo tồn với diện tích 2.500 ha mỗi khu?
Những người theo quan điểm khu bảo tồn lớn cho rằng chỉ có những khu bảo tồn lớn
mới có thể chứa đủ số lượng các loài có kích thước lớn, có phạm vi hoạt động rộng và mật độ
thấp (ví dụ các loài thú ăn thịt) để duy trì quần thể của chúng lâu dài. Đồng thời một khu bảo
tồn lớn cũng sẽ giảm bớt được hiệu ứng vùng biên, chứa đựng nhiều loài hơn và có tính đa
dạng nơi cư trú hơn. Những người cực đoan theo quan điểm này còn cho rằng không nên duy
trì các khu bảo tồn nhỏ bởi vì các khu này không có khả năng hỗ trợ lâu dài cho các quần thể,
do đó giá trị của chúng cho các mục đích bảo tồn là rất ít.
Ngược lại với quan điểm trên, các nhà bảo tồn khác cho rằng các khu bảo tồn nhỏ được
lựa chọn tốt có khả năng chứa đựng nhiều kiểu hệ sinh thái cũng như quần thể của các loài quí
hiếm hơn là một khu vực rộng lớn có diện tích tương đương. Đồng thời việc tạo ra nhiều khu
bảo tồn, dẫu cho chúng có diện tích nhỏ đi nữa, cũng sẽ tránh cho quần thể khỏi bị hủy diệt
toàn bộ khi xảy ra sự cố như dịch bệnh, cháy rừng, hay sự xâm nhập của các loài ngoại lai.
Ngoài ra các khu bảo tồn nhỏ nằm gần các khu dân cư sẽ là những trung tâm nghiên cứu và
giáo dục lý tưởng về bảo tồn thiên nhiên.
Cho đến nay, sự thống nhất về kích thước khu bảo tồn có vẻ thiên về chiến lược là tuỳ
thuộc vào nhóm loài cần được bảo tồn cũng như điều kiện khoa học. Điều được thừa nhận là
những khu bảo tồn lớn sẽ có khả năng hơn những khu bảo tồn nhỏ trong việc gìn giữ các loài
khác nhau bởi vì nó có thể chứa đựng nhiều kiểu hệ sinh thái và những quần thể kích thước lớn.
Tuy nhiên, những khu bảo tồn nhỏ nếu được quản lý tốt thì cũng có giá trị, đặc biệt trong trường
hợp bảo tồn các loài cây, các loài động vật không xương sống và những loài động vật có xương
sống nhỏ. Trên thực tế, ít có khả năng lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận phải bảo tồn các
loài trong những khu bảo tồn nhỏ bởi vì xung quanh các khu bảo tồn nhỏ không còn thừa đất để
sử dụng vào mục đích bảo tồn.
2. Sinh thái học cảnh quan
Sinh thái học cảnh quan nghiên cứu các kiểu nơi cư trú ở qui mô vùng và ảnh hưởng
của chúng đến sự phân bố của loài và các quá trình sinh thái. Theo định nghĩa của Forman và
Godron (1986), cảnh quan là một vùng mà tại đó một nhóm các hệ sinh thái được lặp lại theo
cùng một kiểu hình.
50

Sinh thái học cảnh quan có tầm quan trọng trong việc bảo vệ tính đa dạng sinh học vì
nhiều loài không chỉ sống trong giới hạn của một nơi cư trú mà chúng còn di chuyển giữa các
nơi cư trú hoặc là sống tại vùng giáp ranh giữa hai nơi cư trú. Đối với các loài này, loại hình
của các kiểu nơi cư trú trên qui mô vùng là đặc biệt quan trọng. Sự tồn tại và mật độ của
nhiều loài có thể bị ảnh hưởng bởi kích thước của nơi cư trú và mức độ liên kết của chúng.
Các cảnh quan có thể được liên kết với nhau thông qua các hành lang. Các hành lang có
thể là tự nhiên hoặc là kết quả của các nhiễu động của con người đối với đất nền canh tác (ví
dụ như một dãi đất còn lại không bị cày xới giữa hai cánh đồng). Cấu trúc của hành lang có
thể rất hẹp như các hàng rào, rộng hơn như hàng cây chắn gió, hoặc là các hệ thực vật ven
sông. Có 5 loại hành lang:
Hành lang môi trường (environmental corridors): là kết quả của hệ thực vật phản ứng
với môi trường như là hệ thực vật ven sông, theo loại đất hay theo cấu tạo địa chất. Dải quanh
co của hệ thực vật ven sông chạy song song các dòng suối là ví dụ điển hình cho loại hành
lang này.
Hành lang sót lại (remnant corridors): là sản phẩm rõ nét nhất của việc nhiễu loạn
vùng ven. Các dải thực vật ở các vùng dốc, vách đá, hoặc vùng đất ướt là phần thừa lại khi đất
được khai hoang cho sản xuất nông nghiệp hay các mục đích khác. Kích thước và hình dáng
của hầu hết các hành lang sót lại rất khác nhau. Các hành lang sót lại thường chứa các tập hợp
cuối cùng của các loài thực, động vật bản địa.
Hành lang trồng (introduced corridors): hầu hết loại hành lang này được trồng từ thế
kỷ XIV đến thế kỷ XIX. Trong các vùng cảnh quan nông nghiệp, loại hành lang kiểu này trở
nên nơi cư trú quan trọng cho nhiều loài động vật hoang dã.
Hành lang xáo động (disturbance corridors): được hình thành do hoạt động của việc
quản lý đất, làm xáo động hệ thực vật trong một đường hay một dải đất. Kiểu hành lang này
được tạo ra để duy trì hệ thực vật trong một giai đoạn diễn thế mong muốn. Chúng có thể đủ
rộng để thiết lập một hàng rào đối với một số loài động vật hoang dã, tách quần thể thành 2
quần thể biến thái. Hành lang này thường là nơi cư trú quan trọng đối với các loài bản địa đòi
hỏi nơi cư trú ở giai đoạn diễn thế sớm.
Hành lang tái sinh (regenerated corridors): là kết quả của sự tái phát triển của thực vật
ở dải đất bị xáo động. Tái phát triển có thể là sản phẩm của diễn thế tự nhiên hay do nuôi
trồng. Kích thước và hình dáng của hành lang này phụ thuộc vào dải đất đã bị xáo động trước
đó. Thực vật ở hành lang loại này phổ biến là các loài cỏ dại trong các giai đoạn đầu của quá
trình diễn thế.
* Một số nguyên lý thường được áp dụng khi thiết kế và bảo tồn hành lang:
Hành lang liên tục tốt hơn so với hành
lang bị cắt đoạn: các hành lang tạo ra sự thuận
tiện cho sự di chuyển của động vật qua các vùng
cảnh quan. Những ngắt quãng trong hành lang sẽ
làm cản trở việc di chuyển của động vật, đặc biệt
đối với những loài sống ở bên trong hành lang.
Khả năng của cá thể khi vượt qua các ngắt đoạn trong hành lang phụ thuộc vào mức độ chịu
đựng của chúng đối với các điều kiện biên, phụ thuộc vào đặc tính di chuyển và phát tán.
Hàng lang rộng thì tốt hơn hành lang hẹp: hành lang rộng giảm thiểu được những hiệu
ứng biên đối với cá thể và quần thể khi di
chuyển trong đường biên. Tuy nhiên, các nghiên
cứu cũng chỉ ra rằng, các hành lang rộng quá
cũng có thể gây hại cho động vật do chúng phải
51

tốn nhiều thời gian khi vượt qua đường biên và điều đó có thể gia tăng tỷ lệ tử vong nói
chung.
Nên duy trì và phục hồi các liên kết tự nhiên: Duy trì các mối liên kết tự nhiên giữa
các vùng sinh cảnh là cần thiết dể duy trì tính đa dạng loài và năng lực của quần thể. Ngăn
chặn sự cắt đoạn các hành lang tự nhiên ít tốn kém hơn là phục hồi chúng.
Các liên kết nhân tạo nên có nghiên cứu kỹ càng: các quần thể của một loài sống biệt
lập nhau trong thời gian dài thường phát triển các các thích ứng di truyền đặc biệt đối với môi
trường sống của chúng. Việc kết nối các quần thể như thế lại với nhau có thể làm mất đi
những thích ứng đó.
Hai hay nhiều các hành lang kết nối giữa hai vùng biệt lập thì tốt hơn là một hành
lang: nếu có nhiều hành lang cho động vật di
chuyển từ một vùng này đến vùng khác thì
chúng sẽ dễ dàng thực hiện cuộc hành trình.
Động vật có thể không nhận ra hành lang như là
đường dẫn đến đích, chúng chỉ nhận ra đó như
là một nơi cư trú liên tục và khi ở trong hành
lang, sự di chuyển của chúng bị giới hạn theo đường thẳng. Thường thì tình cờ chúng đi từ
đầu này tới đầu kia và càng nhiều cơ hội như vậy thì việc di chuyển của chúng sẽ dễ xảy ra
hơn.
3. Giảm thiểu các tác động của vùng biên và những tác động gây chia cắt
Nói chung mọi người đều nhất trí rằng cần thiết kế các khu bảo tồn thế nào để giảm
thiểu những nguy hại do hiệu ứng vùng biên. Những khu bảo tồn có hình tròn sẽ có tỷ lệ vùng
biên nhỏ nhất, và vùng trung tâm của một khu bảo tồn như thế sẽ cách xa biên hơn là so với
các khu bảo tồn có hình dạng khác. Những khu bảo tồn có hình chữ nhật và dài là có nhiều
biên nhất và mọi điểm trong khu bảo tồn đều gần với biên. Áp dụng những lập luận như trên
đối với các khu bảo tồn có dạng tứ giác thì sẽ thấy với cùng diện tích, một khu bảo tồn hình
vuông sẽ tốt hơn một khu bảo tồn hình chữ nhật.
Tuy vậy, hầu hết các khu bảo tồn đều có hình dạng không đều vì thông thường các khu
đất có được là do hoàn cảnh nhiều hơn là do những tính toán về hình học.
Nên tránh được càng nhiều càng tốt những chia cắt trong nội bộ các khu bảo tồn do làm
đường, canh tác, đốn gỗ và các hoạt động khác của con người bởi vì sự chia cắt như vậy gây
ra rất nhiều tác động xấu đến loài và quần thể.
Hiện đã có những chiến lược nhằm gắn kết các khu bảo tồn nhỏ lại thành những khu
bảo tồn lớn. Các khu bảo tồn thường hay gắn liền với các khu vực được quản lý để khai thác,
ví dụ như rừng khai thác gỗ, đất chăn thả hay đất canh tác.
Bất cứ nơi nào có thể đều nên có trọn vẹn một hệ sinh thái trong các khu bảo tồn, ví dụ
như một lưu vực sông, hồ hay một dãy núi, bởi vì hệ sinh thái là đơn vị quản lý thích hợp
nhất. Một bộ phận của hệ sinh thái bị hủy hoại do không được bảo vệ sẽ đe dọa đến sức sống
của toàn bộ hệ sinh thái.
V. Quản lý các khu bảo tồn
Một khi đã được thành lập một cách hợp pháp thì khu bảo tồn phải được quản lý một
cách có hiệu quả nhằm duy trì đa dạng sinh học. Thế giới đã có rất nhiều những “vườn quốc
gia giấy” được thiết lập bởi những qui định của chính phủ nhưng lại không được quản lý một
cách có hiệu quả trên thực tế. Ở một số nước, con người đã không ngần ngại triển khai sản
xuất nông nghiệp, chặt phá hay khai khoáng ở một số khu bảo tồn.
Một thực tế nữa là việc quản lý tốt nhất đôi khi lại không cần phải có hoạt động gì vì
các hoạt động quản lý có lúc không hiệu quả hoặc thậm chí có hại. Việc các nhà quản lý vườn
quá sốt sắng trong việc dọn dẹp, thu gom cây cối bị đổ và phát quang bờ bụi để cải tiến bộ
52

mặt cảnh quan của vườn có thể vô tình làm mất những nơi làm tổ, nguồn thức ăn của cả một
tập hợp sinh vật ăn gỗ mục,... và nơi cư trú về mùa đông quan trọng của một số loài nhất định.
1. Các mối đe dọa đối với các vườn Quốc gia
Năm 1990, Trung tâm quan trắc bảo tồn thế giới (WCMC) và UNESCO đã tiến hành
khảo sát 89 vị trí được coi là di sản của thế giới để xem xét các vấn đề về quản lý ở đó. Nhìn
chung, những mối đe dọa đối với các khu bảo tồn ở Nam Mỹ là lớn nhất và ở Châu Âu là ít
nhất. Vấn đề các loài thực vật ngoại lai nghiêm trọng nhất ở Châu Úc, Australia, New Zealand
và các đảo ở Thái Bình Dương trong khi việc khai thác bất hợp lý các loài hoang dại, nạn
cháy rừng, chăn thả và canh tác nông nghiệp là những mối đe dọa lớn ở cả Nam Mỹ và Châu
Phi. Quản lý chưa đúng mức các vườn là vấn đề thường xảy ra đối với các nước đang phát
triển ở Châu Phi, Châu Á và Nam Mỹ. Những mối đe dọa lớn nhất đối với các vườn quốc gia
ở các nước công nghiệp phát triển có liên quan đến các hoạt động kinh tế như khai khoáng,
chặt gỗ, nông nghiệp và các dự án thủy lợi.
2. Quản lý nơi cư trú
Một khu bảo tồn nhiều khi phải được quản lý rất nghiêm ngặt để bảo đảm gìn giữ các
nơi cư trú nguyên thủy. Nhiều loài chỉ xuất hiện ở một nơi cư trú hoặc vào một giai đoạn diễn
thế nhất định nào đó. Trong các vườn quốc gia nhỏ, có thể không có đầy đủ các giai đoạn của
quá trình diễn thế và nhiều loài có thể bị mất đi vì chính lý do này. Các nhà quản lý vườn
Quốc gia đôi khi cần phải chủ động quản lý những địa điểm nhằm bảo đảm cho tất cả các giai
đoạn của diễn thế đều xảy ra tại đây. Cách phổ biến thường làm là thỉnh thoảng gây cháy cục
bộ, có kiểm soát tại những khu vực đồng cỏ, cây bụi và những cánh rừng để khởi động lại quá
trình diễn thế.
Quản lý nguồn lợi thủy sản ở các vùng đất ngập nước là một vấn đề cực kỳ quan trọng.
Việc duy trì các vùng đất ngập nước là cần thiết để bảo tồn quần thể các loài chim nước, cá,
lưỡng cư, thực vật thủy sinh và nhiều loài khác.
Khi quản lý các vườn cần cố gắng bảo tồn và duy trì các nguồn vật chất quan trọng mà
nhiều loài phải phụ thuộc vào. Nếu như không thể giữ các nguồn này nguyên vẹn thì cần phải
cố gắng xây dựng lại chúng.
3. Con người và việc quản lý vườn Quốc gia
Con người đã là một bộ phận của tất cả các hệ sinh thái trên thế giới từ hàng ngàn năm
nay, và việc loại bỏ con người ra khỏi các khu bảo tồn thiên nhiên có thể sẽ dẫn đến những
hậu quả lớn. Tuy nhiên, việc đưa người địa phương ra khỏi các khu bảo tồn có thể lại là sự lựa
chọn duy nhất khi mà tài nguyên thiên nhiên đang bị khai thác tới mức sự toàn vẹn của các
quần xã sinh vật đang bị đe dọa.
Trong bất kỳ một kế hoạch quản lý khu bảo tồn nào thì việc sử dụng khu bảo tồn của
người dân địa phương và du khách cần phải là nội dung trung tâm, kể cả ở quốc gia phát triển
lẫn quốc gia đang phát triển. Những người dân từ ngàn đời nay đã sử dụng các sản phẩm
trong khu bảo tồn, nay đột nhiên không được phép vào trong đó nữa sẽ phải chịu đựng sự mất
đi quyền được tiếp cận các nguồn tài nguyên cơ bản cần cho sự sinh tồn của họ. Vì thế hiển
nhiên họ sẽ giận dữ và những người dân trong hoàn cảnh như vậy sẽ không thể là người ủng
hộ mạnh mẽ cho công tác bảo tồn. Nhiều khu bảo tồn phát triển hay bị hủy hoại là tuỳ thuộc
vào mức độ ủng hộ khai thác hay thù địch của những người sử dụng các khu vực này. Nếu
nhân dân địa phương quán triệt được mục đích của khu bảo tồn và nếu mọi người đều nhất trí
với các mục tiêu và quy định của các khu bảo tồn thì các cộng đồng sẽ được giữ lại trong
vườn như bình thường. Trường hợp lý tưởng nhất là những người dân địa phương tham gia
vào quy hoạch và quản lý khu bảo tồn, được đào tạo và tuyển vào làm trong ban quản lý và
được hưởng lợi từ việc bảo tồn đa dạng sinh học cũng như hoạt động bảo vệ trong khu bảo
tồn. Ngược lại, nếu quan hệ giữa dân địa phương và chính phủ vốn đã không tốt và không tin
53

nhau, hoặc nếu mục đích của khu bảo tồn không được giải thích thỏa đáng thì dân địa phương
có thể không chấp nhận việc thành lập cũng như tuân thủ các quy định của vườn. Trong
trường hợp này, người dân địa phương sẽ gây xung đột với những người trong ban quản lý
của vườn.
Chương trình Con người và Sinh quyển (MAB) của UNESCO đã thành lập một số các
khu bảo tồn sinh quyển trên khắp thế giới nhằm cố gắng đưa các hoạt động của con người,
các hoạt động nghiên cứu và bảo vệ môi trường vào cùng một địa điểm.
VI. Bảo tồn bên ngoài các khu bảo tồn
Khoảng 90% đất đai trên trái đất là nằm ngoài diện tích các khu bảo tồn. Đa phần các
đất đai nằm ngoài các khu bảo tồn vẫn chưa bị con người sử dụng triệt để và vẫn là nơi sinh
sống nguyên thủy của sinh giới. Do phần lớn diện tích đất đai ở hầu hết các nước là không
thuộc khu bảo tồn nên rất nhiều loài quý hiếm vẫn xuất hiện bên ngoài các khu bảo tồn.
Mối nguy hiểm của việc chỉ dựa vào các vườn hay các khu bảo tồn là chiến lược này có
thể tạo nên một tâm lý “vây hãm” tức là các loài hay quần xã nằm trong vườn thì được bảo vệ
nghiêm ngặt trong khi chúng lại bị khai thác tự do phía ngoài khu bảo tồn. Tuy nhiên, nếu các
khu vực nằm xung quanh vườn bị suy thoái thì đa dạng sinh học bên trong vườn cũng sẽ bị
suy giảm trong đó sự mất loài sẽ diễn ra nghiêm trọng nhất là trong các vườn có diện tích nhỏ.
Sự suy giảm này xảy ra vì nhiều loài cần phải di chuyển ra khỏi ranh giới các khu vườn để
kiếm thức ăn và các vật chất cần thiết khác mà trong vườn không có nhưng đã không thực
hiện được.
VII. Sinh thái học phục hồi (Restoration Ecology)
Một cơ hội quan trọng cho các nhà sinh thái bảo tồn là được tham gia vào việc khôi
phục các hệ sinh thái đã bị hủy hoại hay suy thoái. Việc sửa chữa lại những hệ sinh thái đã bị
hủy hoại là một tiềm năng lớn để mở rộng hệ thống các khu bảo tồn hiện có. Sinh thái học
phục hồi được định nghĩa là “một quá trình biến đổi có chủ định tại một địa điểm để xây dựng
một hệ sinh thái rõ ràng, có tính lịch sử và tính bản địa. Mục đích của quá trình này là bắt
chước về cấu trúc, chức năng, sự đa dạng và biến động của hệ sinh thái đã được định rõ”.
Các hệ sinh thái có thể bị hủy hoại bởi các hiện tượng tự nhiên, song nói chung chúng đều
có thể phục hồi sinh khối gốc cũng như cấu trúc quần xã của mình, thậm chí phục hồi được cả
thành phần loài sau một quá trình diễn thế. Tuy nhiên, một vài hệ sinh thái bị con người hủy
hoại nghiêm trọng tới mức khả năng phục hồi là rất nhỏ. Sự phục hồi không thể xảy ra khi mà
các tác nhân gây hại vẫn còn tồn tại đối với hệ sinh thái đó. Sự phục hồi cũng sẽ là không tưởng
nếu như rất nhiều loài nguyên thủy đã bị tiêu diệt trên một vùng rộng lớn vì lúc đó sẽ không có
nguồn để tái lập quần thể. Ngoài ra, sự phục hồi khó có thể xảy ra được khi môi trường tự nhiên
đã bị biến đổi tới mức các loài nguyên thủy không thể sống sót được tại địa điểm đó.
Có 4 cách tiếp cận chính nhằm khôi phục các quần xã sinh vật và các hệ sinh thái.
 Không hành động vì phục hồi là quá tốn kém, vì những nổ lực phục hồi trước đây
đều thất bại hoặc kinh nghiệm đã cho thấy hệ sinh thái sẽ tự phục hồi
 Khôi phục lại thành phần loài và cấu trúc nguyên thủy của khu vực bằng một
chương trình tái nhập loài một cách tích cực, đặc biệt là bằng cách trồng và gieo lại
các loài cây nguyên thủy.
 Cải tạo lại nhằm phục hồi ít nhất một số chức năng của hệ sinh thái và một số loài
cây nguyên thủy, ví dụ thay thế các khu rừng đã bị tàn phá bằng các thảm cây trồng.
 Thay thế một hệ sinh thái đã bị phá hủy bằng một hệ sinh thái khác có năng suất
hơn, ví dụ, thay thế một cánh rừng kiệt quệ bằng một đồng cỏ tươi tốt.
54

Để có tính thiết thực, sinh thái học phục hồi cũng cần phải quan tâm đến tốc độ phục
hồi, chi phí và độ tin cậy của kết quả và khả năng tồn tại của quần xã cuối cùng khi không còn
hay còn rất ít sự hỗ trợ.
Sinh thái học phục hồi rất có giá trị đối với Sinh thái học bởi vì nó thử nghiệm sự hiểu
biết của chúng ta đối với các quần xã sinh vật thông qua việc kiểm chứng kết quả sắp xếp lại
cấu trúc thành phần của chúng. Sinh thái học phục hồi sẽ đem lại cơ hội kết nối các quần xã
sinh vật lại với nhau theo những cách thức khác nhau, cơ hội quan sát xem chúng hoạt động
như thế nào và cơ hội thử nghiệm các ý tưởng ở quy mô lớn mà thông thường khó có thể thực
hiện được.
Sinh thái học phục hồi sẽ đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc bảo tồn các quần
xã sinh học nếu như các vùng đất suy thoái và các quần xã thủy sinh có thể được phục hồi để
có lại cấu trúc loài nguyên thủy và được đưa vào hệ thống các khu bảo tồn đã có. Do các khu
vực đã bị suy thoái thường là không còn năng suất và ít có giá trị kinh tế nên các chính phủ có
thể cũng mong muốn phục hồi lại chúng và nâng cao năng suất cũng như giá trị bảo tồn của
chúng. Sinh thái học phục hồi gần như chắc chắn sẽ là một trong những lĩnh vực phát triển
chính của sinh học bảo tồn. Tuy nhiên các nhà sinh học bảo tồn trong lĩnh vực này cần thận
trọng để đảm bảo rằng các nổ lực phục hồi là chính đáng chứ không phải chỉ là nhằm che đậy
cho các hoạt động phi môi trường của các tập đoàn, các công ty công nghiệp.
Tóm tắt nội dung:
Việc thành lập các khu bảo tồn để bảo vệ nơi ở là một trong những phương pháp hữu
hiệu nhất để bảo tồn đa dạng sinh học. Theo danh sách của Liên hiệp quốc 2003, có 102.102
khu bảo vệ trên toàn thế giới, với diện tích 18,8 triệu km 2 chiếm 12,65% diện tích bề mặt trái
đất. Mặc dù đã có những hiệu quả nhất định, các khu bảo tồn vẫn còn một số bất cập.
Có nhiều tiếp cận để thiết lập các ưu tiên cho bảo tồn đa dạng sinh học dựa trên tích đặc
biệt, tính nguy cấp và tính hữu dụng. Các nhà sinh học bảo tồn đã xác định 25 điểm nóng đa
dạng sinh học dựa vào các loài đặc hữu và % nơi ở còn sót lại. 17 đơn vị đại đa dạng sinh học
cũng đã được xác định. Để có thể so sánh các tác động của con người đối với thiên nhiên như
thế nào, các khu hoang dã cũng đã được đề xuất. Có thể xem đây là những nơi cuối cùng trên
thế giới mà người dân bản địa có thể duy trì lối sống truyền thống của họ.
Đã có các công ước quốc tế nhằm công nhận các giá trị về sinh thái, văn hóa, khoa học
và bảo đảm giữa bảo tồn và phát triển bền vững vì quyền lợi của người dân địa phương.
Các nguyên tắc về bảo tồn đa dạng sinh học cần phải được cân nhắc và xem xét trong
việc thiết kế các khu bảo tồn. Nhìn chung các khu bảo tồn càng rộng càng tốt và nên tránh các
các chia cắt do các hoạt động của con người. Các khu bảo tồn thường xuyên phải được quản
lý để duy trì tính đa dạng sinh học của chúng do các điều kiện nguyên thủy của chúng có thể
bị thay đổi bởi các hoạt động của con người.
Đa phần các đất đai nằm ngoài các khu bảo tồn vẫn chưa bị con người sử dụng triệt để
và vẫn là nơi sinh sống nguyên thủy của sinh giới, nếu các khu vực nằm xung quanh vườn bị
suy thoái thì đa dạng sinh học bên trong vườn cũng sẽ bị suy giảm.
Sinh thái học phục hồi sẽ đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc bảo tồn các
quần xã sinh học và sẽ là một trong những lĩnh vực phát triển chính của sinh học bảo tồn. Có
4 cách tiếp cận chính nhằm khôi phục các quần xã sinh vật và các hệ sinh thái đã bị suy thoái.

Câu hỏi ôn tập:


Câu 1. Vai trò của bảo tồn chuyển vị trong công tác bảo tồn.
Câu 2. Các hình thức bảo tồn chuyển vị là gì?
Câu 3. Nêu tên 5 cấp độ bảo tồn loài của IUCN.
55

Câu 4. Các khó khăn khi sử dụng hệ thống 5 cấp của IUCN là gì?.
Câu 5. Các cấp độ bảo tồn loài của Mace và Land (1991).
Câu 6. Vì sao cần phải có các thoả thuận quốc tế trong việc bảo tồn loài?
Câu 7. Các phân hạng của IUCN và WCPA về các khu bảo vệ.
Câu 8. Tính hiệu quả của các khu bảo tồn.
Câu 9. Các tồn tại của các khu bảo tồn.
Câu 10. Các tiêu chí để thiết lập các ưu tiên cho việc bảo tồn loài và quần xã.
Câu 11. Các phương pháp tiếp cận để thiết lập các ưu tiên cho bảo tồn.
Câu 12. Mục tiêu của khái niệm điểm nóng đa dạng sinh học là gì?
Câu 13. Để chỉ định cho một điểm nóng, một vùng cần phải có bao nhiêu loài thực vật đặc
hữu và bao nhiêu % môi trường sống nguyên thuỷ bị mất đi?
Câu 14. Hai nhân tố để xác định điểm nóng sinh học là gì?
Câu 15. Các tiêu chí để xác định điểm nóng nhất là gì ?
Câu 16. Các đơn vị đại đa dạng sinh học là gì?
Câu 17. Hãy nêu tên 3 đơn vị đại đa dạng sinh học ở vùng Đông Nam Á.
Câu 18. Các khu hoang dã (wilderness areas) là gì?
Câu 19. Kể tên 3 Công ước quốc tế quan trọng về bảo tồn nơi cư trú.
Câu 20. Những câu hỏi then chốt mà các nhà bảo tồn cố gắng giải quyết trong việc thiết kế
các khu bảo tồn là gì?
Câu 21. Vì sao cần có một khu bảo tồn có kích thước lớn?
Câu 22. Vì sao cần có nhiều khu bảo tồn có kích thước nhỏ?
Câu 23. Sinh thái học cảnh quan là gì?
Câu 24. Kể tên các loại hành lang trong liên kết cảnh quan.
Câu 25. Hãy nêu tên 4 trong số 5 nguyên lý thường được áp dụng khi thiết kế các hành lang
cảnh quan.
Câu 26. Để có thể giảm thiểu các tác động vùng biên và những tác động gây chia cắt thì cần
thiết kế khu bảo tồn như thế nào?
Câu 27. Các mối đe dọa đối với các vườn Quốc gia là gì?
Câu 28. Các tiếp cận chính để phục hồi các quần xã sinh vật và các hệ sinh thái.
Câu 29. Vì sao cần phải bảo tồn bên ngoài các khu bảo tồn?
Câu 30. Vai trò của sinh thái học phục hồi.
Tài liệu đọc thêm:
1. IUCN, UNEP 2003. United Nations List of Protected Areas. IUCN, Gland, Switzerland
and Cambridge, UK and UNEP World Conservation Monitoring Centre, Cambridge, UK
2. Mulongoy, K.J., Chape, S.P. (Eds) 2004. Protected Areas and Biodiversity: An overview
of key issues. CBD Secretariat, Montreal, Canada and UNEP-WCMC, Cambridge, UK.
Tài liệu tham khảo:
Tài liệu Tiếng Việt.
1. Bộ Tài Nguyên và Môi trường, Ngân hàng thế giới, 2005. Báo cáo diễn biến Môi
trường Việt Nam 2005. Đa dạng sinh học. Hà nội.
2. Richard B. Primack (Võ Quý, Phạm Bình Quyền, Hoàng Văn Thắng dịch) 1999. Cơ
sở sinh học Bảo tồn. NXB KH&KT Hà Nội.
56

3. Viện Năng lượng và Môi trường Pháp Ngữ, 2002. Lớp tập huấn về bảo tồn đa
dạng sinh học. Đại học KHTN-ĐHQG Hà Nội.
Tài liệu Tiếng Anh.
1. Edge W. Daniel, John P. Loegering, and Renee Davis Born, 1998. Principles of
Wildlife Conservation. Oregon State University. Corvalis, Oregon.
2. Elizabeth A. Gordon, Oscar E. Franco and Mary L. Tyrrell, 2005. Protecting
Biodiversity: A Guide to Criteria Used by Global Conservation Organizations. Yale
School of Forestry & Environmental Studies.
3. Jeffrey A. McNeely et al, 1990. Conserving the World’s Biological Diversity.
Gland, Switzeland, and Washington, DC.
4. Kalemani Jo Mulongoy and Stuart Chape, 2005. Protected Areas and Biodiversity.
An Overview of Key Issues. UNEP, WCMC.
6. Michael J.B. Green and James Paine, 1997. State of the World's Protected Areas
at the end of the Twentieth Century. Australia.
7. Myers, N., Mittermeier, R.A., Mittermeier, C.G., da Fonseca, G.A.B., and Kent, J.,
2000 Biodiversity hotspots for Conservation Priorities. Nature 403: 853-858.
8. Peter J. Bryant, 2001. Biodiversity and Conservation. University of California,
USA.
9. Richard B. Primack, 1993. Essentials of Conservation Biology. Sunderland,
Massachusetts USA.
10. Richard B. Primack, 1995. A Primer of Conservation Biology. Sunderland,
Massachusetts USA.
11. Ronald Hofstetter, 2003. Conservation Biology. University of Miami.
12. USAID, 2005. Biodiversity Conservation: A Guide For USAID Staff and
Partners.
13. WCMC Biodiversity Series No. 3, 1994. Priorities for Conserving Global Species
Richness and Endemism. World Conservation Press.
14. WCMC Biodiversity Series No. 10, 1996. A Global Review of Protected Area
Budgets and Staff. World Conservation Press.
57

Chương 5.
BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Mục tiêu:
Cung cấp những kiến thức về phát triển bền vững và bảo tồn đa dạng sinh học. Bao gồm
các nghiên cứu điển hình về sự tham gia của cộng đồng địa phương trong việc bảo tồn đa
dạng sinh học, các nổ lực quốc tế trong việc bảo tồn và phát triển cũng như vai trò của các
nhà sinh học bảo tồn để đạt được các mục tiêu bảo tồn đa dạng sinh học thế giới.
Số tiết: 4
Nội dung:
I. Phát triển bền vững và bảo tồn
Phát triển bền vững đã trở thành mục tiêu đầu tiên của cả phát triển kinh tế và quản lý
tài nguyên thiên nhiên. Ngoài ra cũng là mục tiêu cho quy hoạch phát triển và quy hoạch quản
lý tài nguyên, nó cũng là mục tiêu của các tiến trình và các phương pháp thực hiện. Phát triển
bền vững đòi hỏi nỗ lực của cả các chương trình ngắn hạn và dài hạn. Tuy nhiên, quy hoạch
và quản lý bền vững cần phải tập trung cao độ cho các mục tiêu dài hạn. Phát triển bền vững
là sự phát triển mà trong đó các giá trị kinh tế, môi trường và xã hội luôn luôn tương tác với
nhau trong quá trình quy hoạch; phân bố lợi nhuận công bằng giữa các tầng lớp trong xã hội
và khẳng định các cơ hội cho sự phát triển kế tiếp, duy trì một cách liên tục cho các thế hệ
mai sau.
Nếu phát triển kinh tế hay quản lý tài nguyên được coi là bền vững, thì sự đánh giá các
kế hoạch hành động lựa chọn cần phải được thông qua sự tương tác các giá trị xã hội, kinh tế
và môi trường. Thách thức lớn nhất của chúng ta là xác định sự cân bằng tối ưu giữa ba giá trị
này. Sự tương tác của ba giá trị này khác với sự bền vững của các chiến lược quản lý tài
nguyên hoặc là phát triển kinh tế riêng biệt.
Phát triển bền vững đòi hỏi sự công bằng. Bền vững được đặc trưng bởi sự phân phối
quyền lợi và các cơ hội một cách công bằng giữa các tầng lớp xã hội, giới và các thế hệ. Khi
sự bền vững được xác định về các hệ giá trị tương tác và tính công bằng giữa các thế hệ, nó
trở nên bền vững hơn bao gồm các vấn đề sự trao quyền, đạo đức cũng như các vấn đề kinh tế
và môi trường. Không có những đòi hỏi định trước cho việc đạt được sự bền vững mà điều cốt
yếu là sự tương tác giữa các giá trị xã hội và người dân địa phương trong phát triển kinh tế và
quy hoạch tài nguyên thiên nhiên.
Quản lý bền vững đòi hỏi không được để suy giảm tổng các vốn môi trường, vốn tài
nguyên con người, hay vốn mà con người tạo ra đảm bảo cho các thế hệ tương lai. Đó là sự
đáp ứng tổng số vốn đại diện cho ba hệ giá trị mà nó phải được duy trì liên tục cho thế hệ mai
sau.
Trong nhiều hội nghị quốc tế đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ các khu bảo
tồn với việc đáp ứng nhu cầu của người dân địa phương. Từ ý tưởng đó đưa đến khái niệm về
mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển, làm sao phát triển được nền kinh tế xã hội trong khi
vẫn có thể giữ gìn, bảo vệ được thiên nhiên. Bảo tồn là để liên kết được việc bảo vệ nguồn tài
nguyên thiên nhiên đặc thù với những nhu cầu phát triển có thể chấp nhận được của một bộ
phận dân cư mà cuộc sống của họ phụ thuộc vào việc khai thác tài nguyên đó.
II. Các xã hội truyền thống và sự đa dạng sinh học
1. Cộng đồng địa phương và đa dạng sinh học
Có khoảng 5.000 đến 6.000 các cộng đồng truyền thống khác nhau sống trong hơn 70
quốc gia. Dân số của các cộng đồng này khoảng 250 triệu người, chiếm hơn 4% dân số toàn thế
giới. Hầu hết các cộng đồng này sống trong các vùng hoang vu hẻo lánh và chủ yếu dựa vào các
nguồn tài nguyên thiên nhiên. Do các vùng hẻo lánh và nguyên sơ thường giàu có về đa dạng
58

sinh học, mà phần lớn đất đai của các cộng đồng truyền thống thường đươc chọn làm Vườn
Quốc gia hay các dạng khu bảo vệ khác.
Con người đã từng sống trong hầu hết các hệ sinh thái trên cạn của Trái đất từ hàng
ngàn năm nay với các nghề như thợ săn, đánh bắt hải sản, trồng trọt và khai thác lâm sản.
Ngay cả trong những khu rừng mưa nhiệt đới, nơi được các chính phủ, các tổ chức bảo tồn coi
như những nơi hoang dã nhất thỉnh thoảng cũng vẫn có những nhóm người sinh sống. Đa
dạng sinh học của vùng nhiệt đới đã cùng tồn tại với xã hội loài người trong hàng ngàn năm
mà không hề gây thiệt hại gì đáng kể. Các xã hội truyền thống sử dụng các phương pháp thủy
lợi cổ điển và gieo trồng tổ hợp các cây trồng đảm bảo đầy đủ khả năng để nuôi dưỡng một
quần thể loài người tương đối lớn mà không gây tác động có hại gì đáng kể đối với môi
trường và các quần thể sinh học ở xung quanh. Cơ cấu thành phần loài động, thực vật hiện
nay cũng như mật độ tương đối của chúng trong nhiều quần xã sinh học phản ảnh lịch sử tác
động do hoạt động của con người trong quá khứ tại các vùng này, như việc săn bắt có chọn
lọc đối với một số nhất định loài thú, loài cá và việc gieo trồng một số các loài thực vật có ích.
Nhiều xã hội truyền thống có những nguyên tắc đạo đức bảo tồn rất hiệu quả, những
nguyên tắc này rất tinh tế và khó mô tả được một cách rõ ràng. Các nguyên tắc này có vai trò rất
quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học. Các
nguyên tắc này ăn sâu vào tiềm thức và cách cư xử của người dân trong cuộc sống hàng ngày,
bao gồm tất các các lĩnh vực của đời sống như:
Ě Nông nghiệp: sản xuất lương thực, thực phẩm, cất giữ và chế biến thức ăn, thu
lượm, sử dụng, chăn nuôi,...
Ě Sức khoẻ: các loại cây thuốc hoang dại, cách chữa bệnh cho người và gia súc,...
Ě Quản lý tài nguyên thiên nhiên: săn bắt chim thú, bảo vệ các nguồn sông suối,...
Ě Tổ chức quản lý: hệ thống tổ chức cộng đồng, luật lệ truyền thống bản làng,...
Một ví dụ được minh chứng đầy đủ là quan niệm bảo tồn của người da đỏ Tukano ở phía
Tây Bắc Brazin. Người Tukano sống bằng một loại cây ăn củ và cá sông; họ có một đức tin
mạnh mẽ và tập quán cấm chặt, phá rừng ở hai bên bờ thượng nguồn sông Rio Negro, nơi mà
họ ý thức được rằng đó là nơi quan trọng để duy trì nguồn cá. Người Tukano tin rằng các khu
rừng này thuộc về cá và con người không được chặt phá. Họ cũng tích cực tạo ra những nơi trú
ngụ cho cá và chỉ cho phép đánh cá trong một khoảng ít hơn 40% diện tích bề mặt của sông.
Người dân địa phương cũng có thể quản lý môi trường của họ để duy trì đa dạng sinh
học, như đã được chứng minh bằng các hệ sinh thái nông nghiệp và rừng của người da đỏ
Huastec tại vùng Đông Bắc nước Mỹ. Cùng với việc duy trì cố định các ruộng làm nông
nghiệp, người Huastec duy trì các khu rừng được quản lý - trên các khu vực đất dốc, dọc theo
các con sông và ở những vùng khác xấu hay không phù hợp với sản xuất nông nghiệp tập
trung. Các khu rừng này chứa đựng hơn 300 loài thực vật, từ đó con người có thể có được
thực phẩm, gỗ, và các sản phẩm cần thiết khác. Thành phần loài trong rừng cũng bị thay đổi
để phù hợp với nhu cầu của con người bằng cách trồng thêm những loài có ích và loại bỏ dần,
có chọn lọc các loài không phục vụ nhiều cho lợi ích của người dân. Các nguồn tài nguyên
rừng này cung cấp cho những gia đình người Huastec lương thực phụ trợ trong thời gian mùa
màng bị thất bát.
2. Người dân địa phương và chính quyền
Tại các nước đang phát triển, người dân địa phương thường khai thác các sản phẩm mà
họ cần - kể cả thực phẩm, nhiên liệu và các nguyên liệu xây dựng - từ môi trường xung
quanh. Thiếu những sản phẩm này, một số dân địa phương có thể không thể sống được. Khi
các vườn quốc gia mới được thành lập hoặc khi người ta tăng cường kiểm soát trong khu giáp
ranh vùng đệm của các khu vườn quốc gia, dân cư có thể bị cấm không cho tiếp cận tới các
nguồn tài nguyên mà họ vẫn thường sử dụng và thậm chí đôi khi họ đã từng bảo vệ. Việc
59

không quan tâm đến quyền lợi cũng như tập quán của người dân địa phương khi thành lập các
khu bảo tồn thường làm cho người dân địa phương phản ứng nóng nảy, đôi khi có thái độ thù
địch vì quyền lợi trước đây của họ bỗng dưng bị tước đoạt. Để có thể tồn tại, họ sẽ phá bỏ
hàng rào của khu bảo tồn và sẵn sàng chiến đấu, đụng độ với các cán bộ của khu bảo tồn. Một
hậu quả nữa là việc thành lập vườn quốc gia thường biến những người dân địa phương trở
thành những người săn bắt trộm, mặc dù họ không hề thay đổi bản chất hay phong cách sống
so với trước kia. Tồi tệ hơn, nếu như người dân địa phương bỗng cảm thấy vườn quốc gia và
các nguồn tài nguyên không bao giờ thuộc về họ nữa mà là sở hữu của chính phủ thì họ sẽ
tranh thủ khai thác một cách không thương tiếc các nguồn tài nguyên của vườn quốc gia.
Một ví dụ điển hình của những cuộc xung đột này xuất hiện năm 1989 khi những thành
viên nóng nảy của bộ tộc Bodo tại Assam, Ấn Độ đã giết chết 12 nhân viên của Vườn Quốc gia
Manas và chiếm lĩnh khu vực vườn để làm nơi canh tác và săn bắt.
Tại các nước đang phát triển, thường không thể phân tách rạch ròi ranh giới giữa các
khu đất cho phép dân sử dụng để khai thác các nguồn tài nguyên và địa phận các khu vườn
quốc gia được bảo vệ nghiêm ngặt. Nhiều nơi có quy chế cho phép nhân dân được vào các
khu bảo vệ theo một lịch trình quy định để khai thác có định mức những sản phẩm tự nhiên
trong đó. Thông qua những thỏa hiệp như vậy, các nhu cầu kinh tế của dân địa phương được
đặt nằm trong kế hoạch quản lý bảo tồn của các vườn quốc gia để vừa làm lợi cho dân địa
phương và cả cho khu bảo vệ. Các thỏa hiệp này được gọi là các dự án kết hợp bảo tồn - phát
triển và ngày càng được coi như là chiến lược bảo tồn tốt nhất.
Người dân sở tại đôi khi còn đi đầu trong việc bảo vệ đa dạng sinh học khỏi sự phá hủy
của những người từ những nơi khác đến. Việc phá hủy các khu rừng do các hoạt động khai
thác gỗ đa phần gặp phải sự phản đối của những người bản địa. Tại Borneô, người Penan một
nhóm thổ dân chuyên sống theo kiểu săn bắt - hái lượm đã thu hút sự chú ý của toàn thế giới
bởi việc họ phong tỏa lối đi dùng cho khai thác gỗ xuyên sâu vào khu rừng truyền thống của
họ. Trao quyền hành cho những người dân ở đây để họ có được cơ sở pháp lý chính thức về
sở hữu đất đai truyền thống như là một phần quan trọng trong những cố gắng để thành lập
những khu bảo vệ do chính quyền ở cấp địa phương quản lý tại các nước đang phát triển.
3. Đa dạng sinh học và đa dạng văn hóa
Suy thoái tài nguyên thiên nhiên và mất đa dạng sinh học không chỉ đơn thuần là do nhu
cầu phát triển kinh tế, hay do áp lực dân số ngày càng tăng lên mà còn là vấn đề rất phức tạp
liên quan đến lối sống của con người, phong tục tập quán, thái độ hành vi của từng cá nhân, của
cộng đồng, dân tộc. Hay nói cách khác là truyền thống văn hoá. Truyền thống văn hoá được
hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài, qua kinh nghiệm ứng xử với môi trường và xã hội,
được hình thành dưới nhiều dạng khác nhau, được truyền từ đời này sang đời khác qua trí nhớ,
qua thực tiễn sản xuất và thực hành xã hội.
Trong mối quan hệ giữa văn hoá với tài nguyên thiên nhiên, bản sắc văn hoá của mỗi dân
tộc thể hiện ở thế ứng xử của dân tộc ấy. Mỗi tộc người có một nền văn hoá riêng và quan niệm
riêng về tài nguyên thiên nhiên; trong cách ứng xử cũng được thể hiện một cách khác nhau. Vì
vậy, đa dạng sinh học và đa dạng văn hóa thường liên quan với nhau. Những khu vực nhiệt đới
rừng thiêng nước độc trên thế giới, nơi tập trung cao mật độ các loài cũng thường là những nơi
con người có sự phong phú đa dạng nhất về ngôn ngữ và văn hóa. Những sự tách biệt về địa lý
do núi, sông thường thuận lợi cho nhiều loài phát triển và cũng thuận lợi cho sự khác biệt giữa
các nền văn hóa nhân loại. Sự đa dạng văn hóa tìm thấy được ở những nơi như Trung Phi,
Amazôn, Niu Ghinê và Đông Nam Á đại diện cho một trong những di sản văn hóa của xã hội
loài người, cung cấp cái nhìn toàn diện cho triết học, tôn giáo học, âm nhạc, nghệ thuật, quản lý
tài nguyên và tâm lý học. Việc bảo vệ những nền văn hóa truyền thống đó trong môi trường tự
nhiên của nó sẽ tạo cơ hội để đạt được cả hai mục đích: bảo vệ đa dạng sinh học và duy trì đa
dạng văn hóa.
60

Đa dạng văn hóa gắn bó chặt chẽ với đa dạng gen của nhiều loại cây trồng. Đặc biệt ở
khu vực miền núi, những nền văn hóa bị cách biệt bởi nhân tố địa lý, cho phép phát triển
nhiều giống cây bản địa; những cây trồng này thích ứng với khí hậu, đất và các loài sâu hại
địa phương và rất phù hợp với khẩu vị của dân cư ở đây. Những quỹ gen của các cây này có
một ý nghĩa to lớn cho nền nông nghiệp hiện đại trên toàn cầu bởi vì chúng chứa đựng những
tiềm năng cho việc cải thiện những giống cây trồng mới.
4. Một số nguyên lý áp dụng ở các khu bảo tồn và dân địa phương.
Nguyên lý 1. Dân địa phương có những mối liên kết lâu đời với thiên nhiên và có sự hiểu
biết sâu rộng về thiên nhiên. Người dân bản địa truyền thống thường góp phần quan trọng vào
việc duy trì nhiều hệ sinh thái nhạy cảm trên trái đất thông qua việc sử dụng bền vững tài
nguyên theo truyền thống và nền văn hoá dựa vào sự tôn trọng thiên nhiên. Do vậy, sẽ không có
những xung đột gắn liền với mục tiêu của khu vực bảo tồn và sự hiện diện của những người bản
địa truyền thống trong và ngoài phạm vi khu vực. Hơn nữa, họ sẽ nhận thấy sự đúng đắn và
công bằng của các bên tham gia trong việc phát triển và thực thi các chiến lược bảo tồn ảnh
hưởng đến đất đai, lãnh thổ, nguồn nước, vùng bờ và các nguồn tài nguyên khác của họ và đặc
biệt trong việc thiết lập và quản lý các khu bảo vệ.
Nguyên lý 2. Những thoả thuận giữa các tổ chức bảo tồn (gồm các cơ quan quản lý khu
bảo vệ và dân bản địa truyền thống) đối với việc thành lập và quản lý khu bảo vệ sẽ dựa vào
việc tôn trọng đầy đủ đối với quyền lợi của người dân bản địa truyền thống trong việc sử dụng
truyền thống và bền vững đất đai, lãnh thổ, nguồn nước, vùng bờ và các nguồn tài nguyên khác
của họ. Đồng thời, các thoả thuận như thế cũng sẽ thừa nhận trách nhiệm của dân bản địa họ
trong việc bảo tồn đa dạng sinh học, tính thống nhất sinh thái và các nguồn tài nguyên thiên
nhiên chứa trong các khu bảo vệ đó.
Nguyên lý 3. Các nguyên tắc của sự phân quyền, sự tham gia, sự minh bạch và trách
nhiệm giải trình sẽ được đề cập đến trong tất cả các nội dung đi đôi với lợi ích hai bên của khu
bảo vệ và dân bản địa truyền thống.
Nguyên lý 4. Dân bản địa truyền thống được phân chia đầy đủ và công bằng các lợi ích
với khu bảo tồn dựa vào sự công nhận các quyền hạn của các đối tác hợp pháp.
Nguyên lý 5. Quyền hạn của dân bản địa truyền thống trong mối liên hệ với khu bảo vệ
thường chịu trách nhiệm quốc tế do nhiều vùng đất, lãnh thổ, nguồn nước, vùng ven biển và các
tài nguyên khác mà họ sở hữu hay sử dụng vượt qua biên giới nhiều quốc gia.
5. Một số nghiên cứu điển hình
Việc sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên là rất quan trọng đối với sự
sống còn của các cộng đồng bản địa truyền thống. Trong vòng 15 năm qua, các cộng đồng
truyền thống là những người đóng vai trò quan trọng trong việc sở hữu và quản lý các vùng
cảnh quan tương đối ít bị xáo động. IUCN 2000 đã nêu ra 11 nghiên cứu điển hình được trình
bày sau đây để minh hoạ các kinh nghiệm trên thế giới trong vấn đề quản lý tài nguyên thiên
nhiên trong các khu bảo vệ chồng lên vùng đất đai hay lãnh thổ của các cộng đồng bản địa. Đó
là:
• Vườn Quốc gia Kaa -Iya del Gran Chaco (KIGC, Bolivia)
• Khu bảo tồn sinh học biển Cayos Miskitos và Fraja Costera (RBMCM,
Nicaragua)
• Vườn Quốc gia Sarstoon-Tomash (SINP, Belize)
• Vườn Quốc gia Wood Buffalo (WBNP, Canada)
• Khu bảo vệ Lapponian (LAPP, Thuỵ Điển)
• Vườn Quốc Gia Simen Moutain (SMNP, Ethiopia)
• Vườn Quốc gia Sagarmatha (SNP, Nepal)
61

• Vườn Quốc gia Doi Inthanon (DINP, Thailand)


• Khu bảo tồn thiên nhiên Xishuangbanna (XNR, Trung Quốc)
• Khu dự trữ tài nguyên Kytalyk (KRR, Nga)
• Vườn Quốc gia Kakadu (KNP, Úc)
Các nghiên cứu điển hình này được chọn sau khi xem xét các thông tin về mối tương tác
giữa cộng đồng bản địa và vườn quốc gia hay chính quyền địa phương có trách nhiệm quản lý
khu bảo vệ trong mỗi quốc gia. Hầu hết các trường hợp được đưa ra ở đây đều có sự hợp tác
quản lý, hay ở những nơi mà luật pháp hay các cơ chế chính thức được thiết lập để xúc tiến việc
cùng quản lý. Tuy vậy, một ít trong các trường hợp mô tả tình trạng mà ở đấy mối liên hệ giữa
cộng đồng truyền thống và nhà chức trách bảo tồn không được suông sẻ với những tác động
tiêu cực trong việc thực hiện bảo tồn.
5.1. Các đặc điểm chung
Các điểm được chọn rất đa dạng về nơi ở, từ các vùng ven viển và biển đến các vùng núi
cao 5.000 m, từ vùng bắc cực đến môi trường nhiệt đới. Tổng diện tích các địa điểm 151.010
km2, trong đó lớn nhất là WBNP với 44.800 km2 và nhỏ nhất là SMNP 136 km2.
Tất cả các địa điểm đều có độ đa dạng cao và quan trọng về mặt sinh thái với khu hệ động
thực vật cần bảo tồn như hổ, báo tuyết, cáo Simen, các loài rùa biển, nhiều loài chim và cá. Một
số điểm là bãi đẻ của các loài hoang dã hay bán hoang dã có giá trị kinh tế như tuần lộc, bò bison,
tôm sú, tôm hùm. Mục tiêu bảo vệ của các địa điểm này cũng khác nhau, từ các khu bảo vệ
nghiêm ngặt (hạng I, II, III theo IUCN) đến các khu bảo tồn ở các mức độ sử dụng bền vững cho
phép (hạng IV đến VI theo IUCN). Tuổi của các khu này cũng khác, được thành lập từ rất sớm
như LAPP năm 1909 hay trẻ nhất là KIGC được hình thành năm 1995.
Có hơn 32 cộng đồng truyền thống cùng với các nhóm dân thiểu số sống trong hay gần
khu bảo vệ. Tổng số người cư ngụ (bao gồm cả nhân viên bảo vệ) thay đổi từ không đến 25.000
(RBMCM). Mật độ dân số thay đổi từ 0,3 người/km2 đến 73,5 người/km2.
Tất cả các điểm bảo vệ trong các nghiên cứu điển hình đều cho phép dân bản địa truyền
thống sử dụng bền vững tài nguyên ở các mức độ khác nhau. Săn bắt và đánh cá là hoạt động
thường gặp, ngoài ra ở đây còn có trồng trọt, chăn nuôi và lâm nghiệp. Du lịch cho đến nay là
hoạt động kinh tế nổi bật trong SNP và quan trong trong các địa điểm khác, săn bắt tôm hùm
cũng là hoạt động kinh tế nổi trội ở RBMCM.
5.2. Các hoạt động liên quan đến quản lý
Các tiếp cận quản lý trong các nghiên cứu điển hình gồm 3 loại:
Đồng quản lý không hạn chế: có sự tham gia toàn diện của cộng đồng truyền thống
trong các chương trình quản lý thuộc các địa điểm KIGC, RBMCM, KRR và KNP. Sự tham
gia bao gồm tất cả mọi mặt của tiến trình quản lý bao gồm kế hoạch và thực hiện các qui
hoạch và hoạt động quản lý. Đặc biệt dân bản địa truyền thống trở thành bộ phận trong hội
đồng quản lý hay các tổ chức tương tự. Thường là các thành viên của cộng đồng địa phương
có trách nhiệm thực hiện các biện pháp quản lý đặc thù.
Đồng quản lý có hạn chế: cộng đồng truyền thống tham gia có giới hạn trong hoạt động
quản lý (WBNP, LAPP và SNP). Trong trường hợp này, vấn đề hợp tác quản lý giới hạn
trong một số hoạt động như nuôi Tuần Lộc ở LAPP, quản lý các đàn bò hoang Bison (WBNP)
và du lịch (SNP). Trong XNR, sự tham gia của cộng đồng truyền thống trong qui hoạch và
quản lý khu bảo vệ phụ thuộc vào việc dàn xếp của nhân viên trong khu bảo vệ và cộng đồng
địa phương. Tuy vậy, không có luật lệ hay các cơ chế hợp pháp để bảo đảm cho điều đó, tiếp
tục đươc hay không phụ thuộc hoàn toàn vào thiện chí của nhân viên quản lý.
62

Không có sự tham gia quản lý: đây là tiếp cận ưu thế ở SMNP và DINP. Hầu hết các
quyết định quản lý đươc đưa ra bởi các nhà cầm quyền trong khu bảo vệ ở văn phòng trung
tâm, nằm ở thủ đô.
5.3. Các xung đột chính
Quyền sở hữu đất và biển trong khu bảo tồn là nhân tố tạo ra hầu hết các khó khăn giữa
cộng đồng bản địa và cơ quan bảo vệ. Ngay cả ở những trường hợp mà ở đó có sự hiểu biết và
liên lạc giữa hai bên (ví dụ như ở KIBC, RBMCM và KNP) thì vẫn còn nhiều vấn đề chưa
được giải quyết. Trong RBMCM một bộ luật về quyền sở hữu đất đai của dân bản địa truyền
thống sắp sửa được quốc hội Nicaragua thông qua. Tình trạng sở hữu đất còn khó giải quyết
hơn ở những nơi có mật độ dân số đông và khu bảo vệ là nơi nhận dòng người di cư từ các
vùng lân cận do chiến tranh, hỗn loạn hay do nguồn tài nguyên đã bị suy giảm nghiêm trọng.
Khai thác các nguồn tài nguyên đất và biển là nhân tố quan trọng thứ hai phát sinh xung
đột giữa cộng đồng bản địa và cơ quan bảo vệ. Vấn đề này đã được giải quyết trong một số khu
vực, đặc biệt trong những nơi mà cộng đồng địa phương được yêu cầu để thực hiện vai trò quan
trọng trong việc phát triển và thực hiện các hoạt động quản lý đặc thù. Trong XNR, vấn đề này
đã được giải quyết một phần nhờ quyết định của chính quyền quản lý cho phép dân bản địa
truyền thống tiến hành một số hoạt động sử dụng tài nguyên trong khu bảo vệ như hái nhặt các
loại cây thuốc. Ngược lại, việc sử dụng tài nguyên của một số nhóm người bản địa vẫn còn xem
là không chấp nhận và có những tác động tiêu cực cho việc bảo tồn lâu dài các nguồn tài
nguyên trong khu bảo vệ như ở SMNP và DINP.
Một nguồn xung đột khác là sự nhượng đất cho các công ty thương mại để khai thác tài
nguyên đất và biển (dầu khí, rừng, tôm cá,...) trong khu bảo vệ hay khu vực chung quanh khu
bảo vệ. Trong KNP, vị trí của khu vực hợp đồng khai thác khoáng sản gây ra những cuộc
tranh cãi về vị trí của nó nằm trong Di sản Thế giới. Trong RBMBM, chính quyền địa phương
đã thất bại trong việc kiểm soát việc khai thác các nguồn tài nguyên biển do các công ty
thương mại trong khu bảo tồn và việc chặt phá các khu rừng bao quanh nó gây ra những thiệt
hại cho cộng đồng bản địa.
5.4. Các bài học rút ra và các thách thức
1. Ở những nơi mà cộng đồng bản địa tham gia quản lý từ những giai đoạn đầu của việc
qui hoạch thì ở đó có những lợi ích cho cả cộng đồng bản địa và chính quyền quản lý.
2. Cộng đồng bản địa tham gia càng rộng rãi trong tất cả các khía cạnh của quản lý thì
càng ít khả năng nảy sinh xung đột
3. Ở những khu vực có một số loại hình cùng quản lý, thì thách thức là làm thế nào để
cũng cố và mở rộng cơ chế hợp tác. Ở những nơi mà cộng đồng truyền thống chưa có sự tham
gia thì thách thức là làm thế nào để có được điều đó.
Cộng đồng truyền thống đang có những mối tương tác tích cực với các khu bảo vệ trong
toàn thế giới. Các trường hợp điển hình được trình bày chỉ là những ví dụ nhỏ về các mối
tương tác đó, mô tả hiện trạng đang xảy ra trong các môi trường khác nhau từ biển cho đến
các vùng núi cao trên mặt đất. Các nghiên cứu điển hình này liên quan đến phong tục, tập
quán và việc sử dụng khác nhau của các cộng đồng bản địa truyền thống, hầu hết các cộng
đồng cùng phát triển trong sự hài hoà với môi trường tự nhiên.
III. Những nỗ lực quốc tế trong công tác bảo tồn và phát triển bền vững
1. Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu
Bảo vệ môi trường là sứ mệnh của mỗi quốc gia và cũng là của toàn thế giới. Mặc dù
những nguồn tài nguyên chính và các hệ sinh thái vẫn tiếp tục bị phá hủy, những bước tiến dài
đáng kể đã được thực hiện để tiến tới việc quản lý môi trường tốt trên quy mô toàn cầu. Một
trong những dấu ấn lịch sử của tiến trình này là Hội nghị Thượng đỉnh kéo dài 12 ngày vào
tháng 6 năm 1992 tại Rio de Janeiro, Brazin. Nó chính thức được biết đến như Hội nghị Liên
63

Hiệp Quốc về Môi trường và Phát triển (UNCED), tham dự có 178 nước với hơn 100 nguyên
thủ quốc gia, cùng với những người đứng đầu tổ chức Liên Hiệp Quốc và các tổ chức phi
chính phủ và bảo tồn khác. Mục đích của hội nghị là thảo luận bàn bạc tìm kiếm giải pháp
cùng nhau phối hợp chặt chẽ để bảo vệ môi trường cùng với việc phát triển hiệu quả nền kinh
tế tại những nước còn nghèo. Hội nghị đã rất thành công trong việc nâng cao nhận thức về
tầm quan trọng của việc khủng hoảng môi trường và đặt nó như là trọng tâm của những mối
quan tâm của thế giới hiện nay. Một nét giá trị của hội nghị là sự liên hệ rõ ràng giữa bảo vệ
môi trường và nhu cầu xoá đói giảm nghèo cho thế giới thứ ba thông qua việc trợ giúp nhiều
hơn về tài chính từ những nước giàu mạnh.
Các thành viên của hội nghị đã bàn bạc đi đến thoả thuận ký kết năm văn bản chính và
khởi xướng thực hiện nhiều dự án mới. Bên cạnh những kết quả đạt được đặc biệt đó, thành
công chính của hội nghị là quyết tâm của các thành viên trong việc phối hợp vì các mục đích
phát triển bền vững trong tương lai.
Tuyên bố Rio: Tuyên bố nêu rõ những nguyên tắc chỉ dẫn cho các nước giàu mạnh cũng
như các nước nghèo về môi trường và phát triển. Quyền lợi của các dân tộc được sử dụng các
nguồn tài nguyên của họ phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội được thừa nhận đầy đủ khi các
hoạt động đó không làm tổn hại đến môi trường tại đó hay ở bất kỳ một nơi nào khác. Tuyên
bố khẳng định nguyên tắc ''người gây ô nhiễm phải trả tiền", thể theo nguyên tắc này một
công ty nào hay một chính phủ nào gây ra thiệt hại, hay hủy hoại môi trường phải có trách
nhiệm trả tiền đền bù và sửa chữa thiệt hại.
Công ước về Thay đổi Khí hậu: sự thoả thuận này đòi hỏi các nước công nghiệp phải
giảm thiểu các chất gây ô nhiễm như cacbon ôxit và các khí nhà kính khác do họ gây ra và
phải thường xuyên làm báo cáo về kết quả của tiến trình này. Trong khi các giới hạn ô nhiễm
chưa được xác định, công ước nêu rõ: các khí nhà kính phải được duy trì ổn định ở mức
không làm ảnh hưởng đến khí hậu trên Trái đất.
Công ước về Đa dạng Sinh học: công ước đa dạng sinh học (CBD) được ký kết năm
1992 tại Hội nghị Thượng đỉnh ở Rio de Janeiro bởi 150 nước và có hiệu lực kể từ tháng 12
năm 1992. Đây là cam kết quốc tế đầu tiên giữa các chính phủ trong việc bảo vệ tài nguyên đa
dạng sinh học trên trái đất. Đến tháng 01 năm 2004 đã có 188 nước ký vào công ước, trong đó
Mỹ là một trong số những nước ký sau cùng.
Công ước về Đa dạng Sinh học có ba mục tiêu: bảo vệ đa dạng sinh học; sử dụng bền
vững đa dạng sinh học; phân phối công bằng lợi nhuận của các sản phẩm mới lấy từ các loài
hoang dã và các loài thuần dưỡng. Hai mục đích đầu không phức tạp, mục đích thứ ba chấp
nhận rằng các nước đang phát triển phải được nhận sự đền bù hợp lý cho việc sử dụng các
loài được thu thập từ vùng lãnh thổ nước họ. Nước Mỹ đã không phê chuẩn Công ước này vì
lý do lo sợ ngành công nghệ sinh học khổng lồ của họ sẽ bị hạn chế.
Khi ký vào công ước, các nước thành viên đã đồng ý thực hiện nhiều biện pháp khác
nhau để bảo tồn đa dạng sinh học. Các biện pháp đó là:
1. Xây dựng kế hoạch quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học
2. Xác định các hệ sinh thái, các loài và các nguồn gen quan trọng để bảo tồn và sử
dụng bền vững đa dạng sinh học
3. Quan trắc đa dạng sinh học và các nhân tố có thể tác động đến đa dạng sinh học
4. Thiết lập hệ thống các khu bảo tồn
5. Quản lý tài nguyên sinh học để đảm bảo cho việc bảo tồn và sử dụng bền vững
6. Phục hồi các hệ sinh thái bị suy thoái
7. Thiết lập hệ thống bảo tồn chuyển vị
64

Tuyên bố về Các nguyên tắc đối với Rừng. Sự nhất trí đạt được về công tác quản lý rừng
đã gặp nhiều khó khăn vì những sự khác biệt sâu sắc về quan điểm giữa các nước ôn đới và
nhiệt đới, các nước giàu và các nước nghèo. Cuối cùng đã đưa ra lời kêu gọi về quản lý rừng
theo hướng bền vững mà không có một khuyến cáo nào kèm theo.
Lịch trình 21. Tài liệu 800 trang này là một cố gắng mới để trình bày một cơ cấu toàn
diện về những chính sách cần thiết cho sự phát triển theo chiều hướng bảo vệ môi trường.
Lịch trình 21 chỉ ra sự liên kết giữa môi trường và các vấn đề khác vốn vẫn thường được đưa
ra cân nhắc một cách tách biệt như quyền lợi của trẻ em, sự nghèo khó, vấn đề phụ nữ, chuyển
giao công nghệ,... Các kế hoạch hoạt động được vạch ra để giải quyết các vấn đề về khí
quyển, suy thoái đất, hoang mạc hóa, phát triển các vùng núi, nông nghiệp và phát triển nông
thôn, việc phá rừng, đất ngập nước, môi trường, thủy vực, và vấn đề ô nhiễm. Các cơ chế về
tài chính, tổ chức, công nghệ và pháp luật để thực hiện những hoạt động này cũng được mô tả
trong Lịch trình 21 .
2. Tài trợ quốc tế và phát triển bền vững
Càng ngày nhóm các nước phát triển ý thức được rằng nếu họ muốn bảo vệ đa dạng sinh
học tại các nước đang phát triển giàu có về số loài nhưng lại rất nghèo về khả năng tài chính thì
họ cần phải cung cấp tài chính. Các cơ quan của nước Mỹ là một trong những nguồn tài trợ tài
chính lớn nhất. Những sự giúp đỡ của các tổ chức này rất đáng kể. Trong năm 1991, có tất cả
1.410 dự án tại 102 các nước đang phát triển được nhận trợ giúp của các tổ chức, cơ quan của
Mỹ, tổng số tiền đầu tư lên đến 105 triệu đô la.
Mặc dù quỹ sử dụng cho bảo tồn ở những nước đang phát triển được tăng một cách
đáng kể nhưng số tiền chi trả vẫn chưa đủ để bảo vệ những căn nhà lớn của sự đa dạng sinh
học rất cần thiết cho tương lai phát triển lâu dài của xã hội loài người. So sánh với hàng tỷ đô
la được cung cấp cho những dự án lớn của các dự án khoa học của nước Mỹ như Dự án hệ
gen loài người và Chương trình không gian, thì khoản tiền 105 triệu đô la một năm cho bảo vệ
đa dạng sinh học vẫn còn rất kiêm tốn.
Một nguồn quỹ mới cho công tác bảo tồn và các hoạt động về môi trường tại các nước
đang phát triển là Quỹ Môi trường Toàn cầu (Global Environmental Facility), được thành lập
năm 1991 do Ngân hàng Thế giới cùng với Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP)
và Chương trình Môi trường Liên Hiệp Quốc (UNEP). Hầu hết các quỹ vòng đầu cho chương
trình đã được chấp nhận và các dự án tương ứng, được thông qua vào thời điểm Hội nghị
thượng đỉnh 1992. Một cơ chế ngày càng trở nên quan trọng được dùng để đảm bảo sự hỗ trợ
an toàn dài hạn cho các hoạt động bảo tồn tại các nước đang phát triển là Quỹ Môi trường
Quốc gia (National Environmental Fund). NEF thường được thiết lập với ban quản lý bao
gồm đại diện của chính phủ, các tổ chức bảo tồn và các cơ quan tài trợ. Các NEF được thành
lập tại trên 20 nước với nguồn vốn hỗ trợ của chính phủ Mỹ và các tổ chức khác như Ngân
hàng Thế giới và Quỹ Bảo tồn Các loài Hoang dã Thế giới.
Một ý tưởng mới là các nước phát triển trả nợ thiên nhiên của mình bằng các hoạt động
bảo tồn đa dạng sinh học. Tất cả các nước đang phát triển nợ các cơ quan tài chính quốc tế
khoảng 1,3 ngàn tỷ đô la, số này chiếm khoảng 44% tổng thu nhập quốc dân của họ. Trong cơ
cấu trả nợ này, các ngân hàng thương mại là chủ nợ của họ sẽ bán lại những khoản nợ này với
giá cực kỳ ưu đãi trong thị trường thương mại quốc tế vì hy vọng thu được nợ về là rất mong
manh. Các tổ chức bảo tồn quốc tế mua lại những khoản nợ này từ ngân hàng. Sau đó khoản
nợ sẽ được bãi bỏ cho các nước đang phát triển với điều kiện các nước này hàng năm phải bỏ
ra một khoản tiền bằng tiền nội địa của họ để tài trợ cho các hoạt động bảo tồn như việc cấp
đất, quản lý các vườn quốc gia và giáo dục quần chúng.
Trong một cơ chế trao đổi nợ khác là các chính phủ của những nước phát triển là chủ
nợ trực tiếp của các nước đang phát triển có thể quyết định cắt giảm phần nào các khoản nợ
65

nếu như nước đang phát triển đồng ý sẽ đóng góp vào quỹ môi trường quốc gia hay cho các
hoạt động bảo tồn một khoản tiền nhất định.
3. Các ngân hàng phát triển quốc tế và việc suy thoái hệ sinh thái
Tốc độ phá hủy rừng nhiệt đới, tàn phá các nơi cư trú và mất mát hệ sinh thái thủy vực
đôi khi lại còn được tăng cường bởi những dự án thiếu thận trọng tài trợ bởi những cơ quan
phát triển quốc tế của những nước tiên tiến hay bởi các ngân hàng phát triển đa phương
(Multilateral Development Bank - MDB). Khoản vay của các Ngân hàng phát triển đa phương
là 25 tỷ đôla/năm cho các dự án phát triển kinh tế ở 151 nước. Trong khi mục đích của các
Ngân hàng phát triển đa phương và các cơ quan trợ giúp đều tập trung để phát triển kinh tế,
các dự án được tài trợ đều khai thác tài nguyên thiên nhiên để xuất khẩu ra các thị trường
quốc tế. Trong rất nhiều trường hợp, các dự án phát triển này đã dẫn đến việc tàn phá hệ sinh
thái trên một diện tích rộng
Các ngân hàng phát triển đa phương được kiểm soát bởi các chính phủ của một số nước
phát triển chính như Mỹ, Nhật Bản, Đức, Anh và Pháp. Các chính sách của MDB được các
nước thành viên đại diện, các tổ chức bảo tồn xem xét tỷ mỉ. Đặc biệt, như một số dự án yếu
kém của Ngân hàng Thế giới đã bị công luận phản ứng mạnh mẽ, Ngân hàng Thế giới phản
hồi bằng cách phải đưa vấn đề bảo vệ đa dạng sinh học như một phần của chính sách trợ giúp
của mình và đòi hỏi các dự án mới phải cân nhắc kỹ và có trách nhiệm hơn về vấn đề môi
trường. Mặc dầu vậy vẫn còn phải xem xét liệu các ngân hàng phát triển đa phương sẽ thực sự
thay đổi ý nghĩ và hành động của họ hay tất cả chỉ dừng lại ở những lời lẽ hứa hẹn, phô
trương. Có một thực tế phải công nhận rằng các, ngân hàng phát triển đa phương này không
có quyền gì để thúc ép; một khi là tiền đã được chuyển giao, các nước được nhận tiền có thể
làm theo hoặc bỏ qua thoả thuận về môi trường dù có những phản đối quốc tế hay trong nước.
Làm sao để các ngân hàng phát triển đa phương hoạt động có trách nhiệm hơn? Trước
tiên họ phải ngừng ngay việc cho vay đối với những dự án làm phá hủy môi trường. Việc làm
này đòi hỏi các ngân hàng phải phân tích các dự án phát triển bằng cách sử dụng các mô hình
phân tích chi phí lợi nhuận kinh tế kể cả cho các tác động đến môi trường và hệ sinh thái của
dự án. Phân tích chính xác một dự án phải bao gồm tất cả các chi phí, lợi nhuận, kể cả tác hại
của xói mòn đất, sự mất mát đa dạng sinh học, tác động của ô nhiễm nước đến sức khoẻ của
người dân địa phương, và các thiệt hại về thu nhập do việc các nguồn tài nguyên tái tạo bị phá
hủy. Các chương trình thúc đẩy việc thay đổi trạng thái đất, xoá đói giảm nghèo vùng nông
thôn, thiết lập các khu bảo vệ và thực sự phát triển bền vững phải được khuyến khích. Các
ngân hàng cũng cần phải khuyến khích những cuộc bàn bạc quần chúng rộng rãi trong nước
trước khi dự án được tiến hành. Đôi khi, các ngân hàng phải cho phép tiến hành những cuộc
kiểm tra, những đánh giá độc lập và những bàn luận về đánh giá tác động môi trường trước
khi dự án được phép nhận tài trợ.
Cho vay để phát triển: một số trường hợp cụ thể
Những trường hợp sau đây là những ví dụ về tác động của việc cho vay để phát triển
kinh tế quốc gia Inđônêxia. Từ những năm bảy mươi đến cuối những năm tám mươi, Ngân
hàng Thế giới đã cho chính phủ Inđônêxia vay 560 triệu đôla để định cư hàng triệu người
Inđônêxia từ những đảo quá đông đúc như Java, Bai, Lombok đến những vùng thưa thớt dân
cư hơn ở ven các hòn đảo còn có những cánh rừng rậm bao phủ như ở tại các đảo Borneô, Niu
Ghine và Sulaoesi. Những người định cư mới này dự định sẽ phải trồng lương thực để nuôi
sống chính họ cũng như trồng những cây khác để bán và thu tiền mặt như cao su, cọ dầu,
cacao. Các cây này có thể xuất khẩu để lấy tiền thanh toán các khoản vay cho Ngân hàng Thế
giới. Chương trình di chuyển dân cư này đã thất bại về mặt môi trường và kinh tế vì đất đai
vùng ven các đảo không phù hợp với các hoạt động nông nghiệp. Kết quả là rất nhiều người
trong số những người di cư đến trở nên nghèo hơn, khánh kiệt và họ bắt buộc phải phá rừng
để làm nông nghiệp theo lối du canh, du cư. Việc trồng các cây công nghiệp lấy tiền trả nợ
66

không thu được kết quả. Không chỉ có vậy, ít nhất 2 triệu ha rừng mưa nhiệt đới và khoảng
gần 6 triệu ha các hệ sinh thái thủy vực ở xung quanh bị tàn phá bởi những người mới đến.
Ở Brazin: Dự án làm đường cao tốc tại bang Rondonia của Brazin là một ví dụ điển
hình về sự thất bại thảm hại của một chương trình phát triển. Ngân hàng Thế giới và Ngân
hàng Liên phát triển Châu Mỹ đã cho Brazin vay hàng trăm triệu đô la từ năm 1981 để xây
dựng đường và các khu định cư mới trong khu vực này. Khi đường cao tốc đi qua Porto
Velho, thủ phủ của bang Rondonia được khánh thành, những người nông dân sống tại miền
Nam và Đông Bắc Brazin buộc phải chuyển khỏi mảnh đất ruột thịt của họ do các hoạt động
công nghiệp gia tăng cũng như do luật sở hữu đất đai, từng đoàn người đã di chuyển xuống
Rondonia để tìm kiếm những miền đất còn chưa có ai sở hữu. Hầu hết đất đai ở Rondonia
không phù hợp cho các hoạt động nông nghiệp, tuy vậy vẫn được thu dọn lại để lấy đất đền bù
cho nông dân; việc làm này còn được trợ giúp bằng việc được cắt giảm các loại thuế. Kết quả
là Rondonia trở thành nơi có tốc độ phá hủy rừng nhanh nhất trên phạm vi toàn thế giới trong
thập kỷ của những năm tám mươi. Đỉnh cao của sự phá rừng là năm 1987, 20 triệu ha rừng
(bằng 2,5% tổng diện tích của Brazin) đã bị thiêu cháy trong một chuỗi những hành động hủy
hoại môi trường lớn nhất trên thế giới. Cùng một lúc, các dự án nông nghiệp, công nghiệp,
giao thông được tiến hành tại đây mà không hề tiến hành bất cứ một nghiên cứu danh giá tác
động môi trường nào cũng như tính khả thi của chúng không được xem xét trước đó. Trong
khi vội vàng phát triển khu vực, chính phủ Brazin cũng cho xây dựng một con đường đi qua
Khu Bảo tồn Amerindian và các khu bảo tồn sinh học khác, việc làm này đã làm cho các khu
bảo tồn đáng ra phải được bảo vệ một cách tuyệt đối lại được mở ra và trở thành đối tượng
của việc phá rừng. Kết quả ở đây chỉ là sự phá hủy môi trường với một số lợi ích kinh tế
không đáng kể.
Các dự án xây dựng đập nước. Một loại dự án quan trọng được các cơ quan, các ngân
hàng phát triển hỗ trợ tài chính là xây dựng các đập thủy lợi và các nhà máy thủy điện. Những
dự án này phá hủy những hệ sinh thái thủy vực lớn do việc thay đổi độ sâu của nước, chế độ
dòng chảy, tăng việc lắng đọng trầm tích, tạo những rào chắn ngăn cản sự di chuyển, phát tán.
Do những sự thay đổi này mà rất nhiều loài không thể nào sống sót và tồn tại nổi trong môi
trường mới. Các nghiên cứu chỉ ra rằng thành công lâu dài của nhiều dự án xây dựng đập
nước phụ thuộc rất nhiều vào việc bảo tồn hệ sinh thái rừng xung quanh khu vực xây dựng dự
án.
Việc mất mát lớp thực vật che phủ trên những khu đất dốc làm cho đất bị xói mòn và
gây lắng đọng trầm tích khiến cho công trình giảm bớt tính hiệu quả, chi phí bảo dưỡng sẽ
tăng cao, gây ra những hủy hoại cho các mương máng thủy lợi và cho đập. Việc bảo vệ rừng
và thảm thực vật tự nhiên của khu vực rừng đầu nguồn ngày nay được ý thức một cách rất
rộng rãi như là một phương pháp quan trọng và rẻ tiền để đảm bảo tính hiệu quả và tuổi thọ
của công trình thủy lợi này, đồng thời vẫn bảo tồn được một diện tích lớn nơi cư trú tự nhiên
cho các loài động, thực vật. Trong một nghiên cứu của một dự án thủy lợi tại Inđônêxia,
người ta thấy rằng chi phí để bảo vệ rừng đầu nguồn chỉ chiếm từ 1 đến 10% tổng chi phí của
dự án, ngược lại sẽ phải mất từ 30 đến 40% tổng chi phí dự án cho việc khắc phục lắng đọng
bùn nếu như rừng đầu nguồn không được bảo vệ.
Một ví dụ thành công của công tác đầu tư vào môi trường có hiệu quả là khoản vay 1/2
triệu đô la của Ngân hàng Thế giới cho dự án phát triển và bảo vệ Vườn Quốc gia Dumoga-
bone tại phía Bắc Sulaoesi - Inđônêxia. 78.700 ha rừng mưa nguyên sinh nằm trong khu vực
rừng đầu nguồn của một dự án thủy lợi trị giá 60 triệu đô la (do Ngân hàng Thế giới tài trợ)
cũng được chuyển sang làm Vườn Quốc gia. Trong trường hợp đặc biệt này, Ngân hàng thế
giới có khả năng bảo vệ việc đầu tư ban đầu của mình thông qua việc hỗ trợ cho môi trường
chiếm ít hơn 2% tổng chi phí dự án và thành lập được một Vườn Quốc gia lớn đi vào hoạt
động.
67

IV. Vai trò của các nhà sinh học bảo tồn
Sinh học bảo tồn khác với những môn khoa học khác là nó đóng vai trò tích cực trong
việc duy trì đa dạng sinh học dưới mọi dạng: bảo vệ loài, quỹ gen, các quần xã sinh học và
các chức năng của hệ sinh thái. Nhiều ngành khoa học khác cũng đóng góp với sinh học bảo
tồn trong việc thực hiện mục đích bảo vệ đa dạng sinh học. Các ý tưởng, các học thuyết của
sinh học bảo tồn ngày càng gắn liền với những cuộc tranh cãi chính trị, và việc bảo tồn đa
dạng sinh học được đặt ra như một mối quan tâm trong chương trình hoạt động của chính phủ.
Cần phải thành lập và tiếp tục những chương trình bảo tồn hiệu quả nhất một cách rộng rãi và
toàn diện. Việc chỉ trích các nhóm người nghèo, nhân dân nông thôn hay một ngành công
nghiệp nào đó về việc phá hủy đa dạng sinh học thì rất dễ nhưng đó không phải là một chiến
lược hữu hiệu. Điều khó khăn ở đây là cần phải hiểu những mối gắn bó giữa quốc gia và quốc
tế trong việc ngăn chặn phá hủy đa dạng sinh học và phải tìm ra một giải pháp khác có thể
thực hiện được. Những giải pháp mới đưa ra phải liên quan đến vấn đề ổn định dân số, tìm ra
kế sinh nhai cho người dân nông thôn tại các nước đang phát triển mà không gây hủy hoại đến
môi trường. Việc thực hiện chế độ thưởng phạt sẽ thuyết phục các ngành công nghiệp trân
trọng và giữ gìn môi trường. Cần phải ngăn cấm việc buôn bán quốc tế các sản phẩm thu
hoạch được do việc hủy hoại môi trường. Một việc khác cũng quan trọng là làm cho một bộ
phận dân cư của các nước phát triển quyết tâm giảm thiểu việc sử dụng tài nguyên xuống và
phải trả giá phù hợp cho các sản phẩm được sản xuất ra theo nguyên tắc bền vững và không
gây hại tới môi trường.
Nếu như muốn sự đa dạng sinh học của thế giới được bảo tồn thì các nhà sinh học bảo
tồn phải thực hiện hàng loạt những vai trò rất tích cực:
• Trước hết họ phải hoạt động tích cực hơn cả một nhà giáo dục trên diễn đàn
công luận cũng như trong các lớp học. Các nhà sinh học bảo tồn cần phải truyền
bá kiến thức cho càng nhiều dân chúng càng tốt về các vấn đề liên quan đến sự
mất mát đa dạng sinh học.
• Việc thứ hai, các nhà sinh học bảo tồn cũng phải rất tích cực trên diễn đàn chính
trị. Tiếp cận và tham gia vào các hoạt động chính trị cho phép các nhà sinh học
bảo tồn ảnh hưởng được đến sự hình thành của những bộ luật mới để hỗ trợ cho
việc bảo tồn đa dạng sinh học hoặc ngược lại họ có thể có những ý kiến phản đối
lại những hoạt động gây hại đến các loài hay các hệ sinh thái.
• Việc thứ ba, các nhà sinh học bảo tồn cần thiết phải trở thành những người làm
công tác tổ chức trong tập thể các nhà sinh học. Bằng việc thúc đẩy những mối
quan tâm vệ sinh học bảo tồn trong các đồng nghiệp của họ, các nhà sinh học
bảo tồn có thể tạo ra được một đội ngũ những nhà chuyên môn hoạt động chống
lại việc phả hủy các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
• Việc thứ tư, các nhà sinh học bảo tồn nhất thiết phải là những hạt nhân thúc đẩy
và thuyết phục đông đảo quần chúng hỗ trợ những nỗ lực bảo tồn. Tại địa
phương, các chương trình bảo tồn phải được thiết lập và thực hiện bằng cách tạo
được những chỗ dựa cho dân địa phương để họ có thể dễ dàng hỗ trợ công tác
bảo tồn. Những cuộc đàm phán công khai trong quần chúng, các nỗ lực để đào
tạo và sự tham gia của quần chúng là một mảng lớn quan trọng trong bất cứ một
chương trình nào. Đặc biệt phải chú ý vào việc thuyết phục các thương gia và
các nhà chính trị chuyên nghiệp hỗ trợ cho các hoạt động bảo tồn, nhiều người
trong số họ sẽ tham gia đóng góp tích cực cho các hoạt động này; đôi khi hoạt
động bảo tồn sẽ mang lại uy tín tốt trong quần chúng hoặc hỗ trợ nó sẽ được mọi
người nhìn nhận tích cực hơn là trong trường hợp chống lại nó, lúc này hậu quả
hoàn toàn có thể ngược lại.
68

• Việc cuối cùng, và cũng là việc quan trọng nhất, các nhà sinh học bảo tồn cần
thiết phải trở thành những nhà quản lý hiệu quả và những nhà thực hành thực thụ
trong các dự án bảo tồn. Họ phải sẵn sàng làm việc nặng nhọc để tìm hiểu những
gì thực sự đã xảy ra, không ngại khó khăn, khổ sở, không ngại tiếp cận và làm
việc với người dân, không ngại việc gõ cửa các nhà chức trách và không ngại
các nguy hiểm, rủi ro. Các nhà sinh học bảo tồn phải học tất cả những gì họ có
thể học được về các loài, các quần xã mà họ đang muốn bảo vệ sau đó truyền lại
những kiến thức quý giá này cho những người khác. Nếu như các nhà sinh học
bảo tồn sẵn sàng đưa những ý tưởng của họ vào công tác thực tế và làm việc với
các nhà quản lý các vườn quốc gia, các nhà quản lý đất các nhà chính trị là nhân
dân địa phương thì chắc chắn mọi việc sẽ tiến hành tốt. Trong rất nhiều trường
hợp, việc mời những thành viên chủ chốt trong cộng đồng tham gia hội họp, bàn
bạc kế hoạch là một bước rất tốt trong việc xây dựng sự nhất quán trong kế
hoạch hành động. Phối hợp đúng đắn các mô hình, các lý thuyết mới, các
phương pháp tiếp cận hiện đại và các ví dụ thực tiễn sẽ là chìa khóa cho thành
công của tất cả các công việc. Khi sự cân bằng này được thiết lập thì các nhà sinh
học bảo tồn cùng làm việc với dân chúng năng động sẽ thành công trong việc bảo
vệ đa dạng sinh học trên phạm vi toàn thế giới trong kỷ nguyên mới của những sự
thay đổi này.
Tóm tắt nội dung:
Làm sao phát triển được nền kinh tế xã hội trong khi vẫn có thể giữ gìn, bảo vệ được
thiên nhiên. Bảo tồn là để liên kết được việc bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên đặc thù với
những nhu cầu phát triển có thể chấp nhận được của một bộ phận dân cư mà cuộc sống của họ
phụ thuộc vào việc khai thác tài nguyên đó.
Các xã hội truyền thống có những nguyên tắc đạo đức bảo tồn rất hiệu quả. Các nguyên
tắc này ăn sâu vào tiềm thức và cách cư xử của người dân trong cuộc sống hàng ngày và có vai
trò rất quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học.
Việc không quan tâm đến quyền lợi cũng như tập quán của người dân địa phương khi
thành lập các khu bảo tồn thường làm cho người dân địa phương phản ứng nóng nảy, đôi khi
có thái độ thù địch vì quyền lợi trước đây của họ bỗng dưng bị tước đoạt.
Mỗi tộc người có một nền văn hoá riêng và quan niệm riêng về tài nguyên thiên nhiên;
trong cách ứng xử cũng được thể hiện một cách khác nhau. Vì vậy, đa dạng sinh học và đa dạng
văn hóa thường liên quan với nhau.
IUCN, 2000 đã nêu ra 11 nghiên cứu điển hình để minh hoạ các kinh nghiệm trên thế giới
trong vấn đề quản lý tài nguyên thiên nhiên trong các khu bảo vệ chồng lên vùng đất đai hay
lãnh thổ của các cộng đồng bản địa.
Đã có nhiều nỗ lực quốc tế trong công tác bảo tồn và phát triển bền vững. Các nước phát
triển ý thức được rằng nếu họ muốn bảo vệ đa dạng sinh học tại các nước đang phát triển giàu
có về số loài nhưng lại rất nghèo về khả năng tài chính thì họ cần phải cung cấp tài chính. Quỹ
Môi trường toàn cầu (GEF) được hình thành cùng với Quỹ Môi trường Quốc gia (NEF).
Những dự án thiếu thận trọng tài trợ bởi những cơ quan phát triển quốc tế hay của các
ngân hàng phát triển đa phương có thể dẫn tới việc phá hủy nơi cư trú.
Các nhà sinh học bảo tồn cần phải thực hiện hàng loạt những vai trò tích cực trong việc
duy trì đa dạng sinh học: bảo vệ loài, quỹ gen, các quần xã sinh học và các chức năng của hệ
sinh thái.
Bài tập:
Câu 1. Các xung đột chính trong các nghiên cứu điển hình về cộng đồng bản địa và việc quản
lý các khu bảo tồn là gi?
69

Câu 2. Các bài học rút ra trong các nghiên cứu điển hình về cộng đồng bản địa và việc quản lý
các khu bảo tồn là gi?
Câu 3. Kể tên 3 trong số 5 văn kiện chính mà hội nghị thượng đỉnh toàn cầu vào tháng 6 năm
1992 ở Rio de Janeiro đã ký kết
Câu 4. Các mục tiêu của Công ước Đa dạng sinh học là gì?
Câu 5. Các biện pháp mà các nước thành viên đồng ý thực hiện khi ký vào Công ước Đa dạng
sinh học là gi?
Câu 6. Vai trò của các nhà sinh học bảo tồn
Câu 7. Các nước phát triển trả nợ thiên nhiên của mình bằng các hoạt động bảo tồn đa dạng
sinh học như thế nào?

Tài liệu tham khảo:


Tài liệu Tiếng Việt.
1. Lê Trọng Cúc, 2002. Đa dạng sinh học và bảo tồn thiên nhiên. Nhà Xuất bản Đại
học Quốc gia Hà Nội.
2. Richard B. Primack (Võ Quý, Phạm Bình Quyền, Hoàng Văn Thắng dịch) 1999. Cơ
sở sinh học Bảo tồn. NXB KH&KT Hà Nội.
Tài liệu Tiếng Anh.
1. John MacKinnon, Colin Rees &Monina Uriarte, 2002. Guidebook of Biodiversity
Principles for Developers and Planners. ASEAN Regional Centre For Biodiversity
Conservation.
2. IUCN, 2002. Biodiversity in Development.
http://europa.eu.int/comm/development/sector/environment 2002.
3. Michael J. Jeffries, 1997. Biodiversity and Conservation. Routledge, London.
4. Peter J. Bryant, 2001. Biodiversity and Conservation. University of California,
USA.
5. Richard B. Primack, 1993. Essentials of Conservation Biology. Sunderland,
Massachusetts USA.
6. Richard B. Primack, 1995. A Primer of Conservation Biology. Sunderland,
Massachusetts USA.
7. USAID, 2005. Biodiversity Conservation: A Guide For USAID Staff and
Partners.
8. WCMC Biodiversity Series No. 5, 1996. Assessing Biodiversity Status and
Suistainability. World Conservation Press.
9. WCMC Biodiversity Series No. 10, 1996. A Global Review of Protected Area
Budgets and Staff. World Conservation Press.
10. World Commission on Protected Areas, 2000. Indigenuos and Traditional
Peoples and Protected Areas. Principles, Guidlines and Case Studies. IUCN
70

Chương 6.
BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC Ở VIỆT NAM
Mục tiêu:
Trình bày các vấn đề về đa dạng sinh học Việt Nam: thực trạng, các nguyên nhân gây
suy thoái đa dạng sinh học và bảo tồn đa dạng sinh học Việt Nam.
Số tiết: 5
Nội dung:
I. Thực trạng đa dạng sinh học ở Việt Nam
Việt Nam đã được xem là một trong những nước thuộc vùng Đông Nam Á giàu về đa
dạng sinh học. Do sự khác biệt lớn về khí hậu từ vùng gần xích đạo tới giáp vùng cận nhiệt đới,
cùng với sự đa dạng về địa hình đã tạo nên sự đa dạng về thiên nhiên và cũng do đó mà Việt
Nam có tính đa dạng sinh học cao.
Mặc dù có những tổn thất quan trọng về diện tích rừng trong một thời kỳ kéo dài nhiều
thế kỷ, hệ thực vật rừng Việt Nam vẫn còn phong phú về chủng loại. Theo các tài liệu đã công
bố, hệ thực vật nước ta gồm khoảng 11.373 loài thực vật bậc cao có mạch, khoảng 1.030 loài
rêu, 2.500 loài tảo và 826 loài nấm. Theo dự báo của các nhà thực vật học, số loài thực vật bậc
cao có mạch ít nhất sẽ lên đến 15.000 loài, trong đó có khoảng 5.000 loài đã được nhân dân sử
dụng làm lương thực và thực phẩm, dược phẩm, làm thức ăn gia súc, lấy gỗ, tinh dầu, các
nguyên vật liệu khác hay làm củi đun.
Hệ thực vật Việt Nam có độ đặc hữu cao. Phần lớn số loài đặc hữu này (10%) tập trung
ở bốn khu vực chính: khu vực núi cao Hoàng Liên Sơn ở phía Bắc, khu vực núi cao Ngọc
Linh ở miền Trung, cao nguyên Lâm Viên ở phía Nam và khu vực rừng mưa ở Bắc Trung Bộ.
Nhiều loài là đặc hữu địa phương chỉ gặp trong vùng rất hẹp với số các thể rất thấp.
Khu hệ động vật cũng hết sức phong phú. Hiện đã thống kê được 310 loài và phân loài
thú, 840 loài chim, 286 loài bò sát, 162 loài ếch nhái, khoảng 547 loài cá nước ngọt và 2.000
loài cá biển và hàng vạn loài động vật không xương sống ở cạn, ở biển và nước ngọt. Hệ động
vật Việt Nam không những giàu về thành phần loài mà còn có nhiều nét độc đáo, đại diện cho
vùng Đông Nam Á.
Cũng như thực vật giới, động vật giới Việt Nam có nhiều loài là đặc hữu: hơn 100 loài
và phân loài chim và 78 loài và phân loài thú là đặc hữu. Có rất nhiều loài động vật có giá trị
thực tiễn cao và nhiều loài có ý nghĩa lớn về bảo vệ như voi, Tê giác, Bò rừng, Hổ, Báo, Voọc
vá, Voọc xám, Trĩ, Sếu, Cò quắm. Trong vùng phụ Đông dương có 21 loài khỉ thì ở Việt Nam
có 15 loài, trong đó có 7 loài đặc hữu của vùng phụ này. Có 49 loài chim đặc hữu cho vùng
phụ thì ở Việt Nam có 33 loài, trong đó có 11 loài là đặc hữu của Việt Nam; trong khi Miến
Điện, Thái Lan, Mã Lai, Hải Nam mỗi nơi chỉ có 2 loài, Lào 1 loài và Campuchia không có
loài đặc hữu nào.
Khi xem xét về sự phân bố của các loài trong vùng phụ Đông Dương nói chung, số loài
thú và chim và các hệ sinh thái có nguy cơ bị tiêu diệt nói riêng, chúng ta có thể nhận rõ rằng
Việt Nam là một trong những vùng xứng đáng có ưu tiên cao về vấn đề bảo vệ. Không những
thế, hiện nay ở Việt Nam đang còn có những phát hiện mới rất lý thú. Chỉ trong 5 năm từ 1992
và 1997 đã phát hiện được 6 loài thú lớn và hai loài cá mới cho khoa học.
Về mặt đa dạng sinh thái, các hệ sinh thái của Việt Nam thay đổi từ các kiểu rừng núi cao
đến đất thấp, các lưu vực sông, hồ, đầm phá ven biển, đại dương và các hải đảo. Các hệ sinh
thái Việt Nam có thể phân thành 3 dạng chính: hệ sinh thái trên cạn, hệ sinh thái đất ngập nước
và hệ sinh thái biển.
Rừng của Việt Nam chiếm hơn 36% diện tích tự nhiên, đặc trưng cho nhiều hệ sinh thái
trên cạn ở Việt Nam, với nhiều kiểu rừng phong phú như rừng thông (chiếm ưu thế ở các vùng
71

núi cao và cận núi), rừng hổn hợp loại lá kim và lá rộng, rừng lá rộng thường xanh, rừng khô
cây họ dầu (rừng khộp) vùng cao Tây Nguyên, rừng khộp địa hình thấp (Đông Nam Bộ), rừng
tre nứa ở nhiều nơi.
Hệ sinh thái đất ngập nước đa dạng và phong phú với 30 kiểu đất ngập nước tự nhiên ven
biển và nội địa và 9 kiểu đất ngập nước nhân tạo. Một số kiểu có độ đa dạng sinh học cao như
đầm lầy than bùn, rừng ngập mặn ven biển, đầm phá, rạn san hô, rong biển, cỏ biển, vùng biển
qunh các đảo ven bờ; đất ngập nước vùng đồng bằng sông Hồng và đất ngập nước đồng bằng
sông Cửu Long.
Hệ sinh thái biển có khoảng 20 kiểu hệ sinh thái điển hình, có tính đa dạng sinh học và
năng suất cao. Thành phần quần xã trong hệ sinh thái giàu, cấu trúc phức tạp, nhiều tầng bậc,
thành phần loài phong phú.
Đa dạng nguồn gen: điều kiện tự nhiên phong phú, đa dạng với nhiều sinh cảnh khác nhau
là cơ sở làm tăng tính đa dạng gen trong bản thân mỗi loài. Việt Nam là một trong 12 trung tâm
nguồn gốc giống cây trồng và cũng là trung tâm thuần hóa vật nuôi nổi tiếng của thế giới.
Nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có về sinh giới này có thể đáp ứng những nhu cầu hiện
tại và tương lai của nhân dân Việt Nam trong quá trình phát triển, cũng như đã đáp ứng những
nhu cầu ấy trong quá khứ. Nguồn tài nguyên thiên nhiên này không những là cơ sở vững chắc
của sự tồn tại của nhân dân Việt Nam thuộc nhiều thế hệ đã qua mà còn là cơ sở cho sự phát
triển của dân tộc Việt Nam trong những năm sắp tới.
Trên phương diện sinh thái, các hệ sinh thái là cơ sở sinh tồn của sự sống, bảo đảm sự lưu
chuyển của các chu trình vật chất và năng lượng, duy trì tính ổn định và độ màu mỡ của đất,
giảm nhẹ tác hại ô nhiễm và thiên tai.
Trên phương diện kinh tế, đa dạng sinh học đóng góp to lớn cho nền kinh tế quốc gia, đặc
biệt trong các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản; là cơ sở bảo đảm an ninh
lương thực của đất nước, duy trì nguồn gen, tạo giống vật nuôi cây trồng; cung cấp các vật liệu
cho xây dựng và các nguồn nhiên liệu, dược liệu.
Trên phương diện văn hóa xã hội, đa dạng sinh học tạo nên các cảnh quan thiên nhiên và
đó là nguồn cảm hứng vô tận của nghệ thuật, là cội nguồn của nhiều phong tục, tập quán tốt đẹp
của người dân Việt Nam. Từ ngàn xưa, đời sống văn hóa của người Việt rất gần gũi với thiên
nhiên. Nhiều loài cây, con đã trở thành vật thiêng hoặc thờ cúng của đối với các cộng đồng
người Việt. Các ngành nghề truyền thống như nhuộm chàm, dệt thổ cẩm, làm hàng mỹ nghệ từ
gỗ, tre nứa hay song mây là biểu hiện sự gắn bó của đời sống văn hóa con người Việt Nam đối
với đa dạng sinh học.
Các hệ sinh thái có tính đa dạng sinh học cao cung cấp giá trị vô cùng to lớn cho các
ngành giải trí ở Việt Nam với các loại hình du lịch sinh thái đang dần phát triển, hứa hẹn đem
lại nhiều giá trị kinh tế và góp phần quan trọng vào việc nâng cao nhận thức của người dân về
tầm quan trọng của đa dạng sinh học và công tác bảo tồn thiên nhiên.
Tuy nhiên, thay vì bảo tồn nguồn tài nguyên này, dưới danh nghĩa phát triển kinh tế,
chúng ta đang khai thác quá mức và phí phạm nguồn tài nguyên quý giá này. Nhiều loài hiện đã
trở nên hiếm, một số loài có nguy cơ bị diệt vong. Nếu biết sử dụng đúng mức và quản lý tốt,
nguồn tài nguyên sinh học của Việt Nam có thể trở thành nguồn tài nguyên tái tạo rất có giá trị,
thế nhưng nguồn tài nguyên này đang suy thoái nhanh chóng.
II. Suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam
Trong hơn 40 năm qua dân số Việt Nam đã tăng gấp hai lần với khoảng hơn 80 triệu
người hiện nay, trong khi đó tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất của sự sống thì có hạn và
bị tàn phá nặng nề trong cuộc chiến tranh giành độc lập và thống nhất đất nước vừa qua. Dân
số tăng nhanh đòi hỏi phải có nhiều đất đai để trồng trọt, cần có nhiều rừng để cung cấp gỗ
làm chất đốt và nguyên liệu cho xây dựng, nhưng rừng thì đang bị thu hẹp lại và xuống cấp
72

nghiêm trọng, đất đai bị xói mòn, độ màu mỡ đang bị kém đi, diện tích đất trống, đồi núi trọc
tăng nhanh, đến nay đã chiếm khoảng 13,4 triệu ha, gần hai lần diện tích đất canh tác của cả
nước.
Sự suy thoái của các hệ sinh thái tự nhiên và nơi cư trú của nhiều loài động, thực vật
nhất là rừng nhiệt đới và vùng đất ngập nước là nguyên nhân chính về sự suy thoái đa dạng
sinh học ở Việt Nam.
Theo danh sách đỏ của IUCN 2004, Việt Nam có 289 loài động vật và thực vật bị đe
dọa toàn cầu. Sách đỏ Việt Nam cũng đã liệt kê 1.056 động vật và thực vật bị đe dọa ở mức
quốc gia. So sánh với số liệu thống kê của lần biên soạn sách đỏ Việt Nam lần đầu tiên (Phần
Động vật 1992, phần thực vật 1994), vào thời điểm hiện tại số lượng loài được các nhà khoa
học đề xuất đưa vào sách cần được bảo vệ của Việt Nam tăng lên đáng kể: 1065 loài so với
721 loài. Điều này chứng tỏ một thực tế là xu hướng quần thể của rất nhiều loài động thực vật
tại Việt Nam đang suy giảm, ngày càng có nhiều loài phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng.
Rất nhiều loài hiện chỉ còn tồn tại trong các quần thể có số lượng rất nhỏ và bị chia cắt.
Bảng 6.1. Số lượng các loài của Việt Nam bị đe dọa toàn cầu (chỉ tính các loài CR, VU và EN) và
cấp quốc gia
Năm 1992, 1998 Năm 2004
IUCN, Sách đỏ IUCN Sách đỏ
1996, 1998 1992, 1996
Thú 38 78 41 94
Chim 47 83 41 76
Bò sát 12 43 24 39
Lưỡng cư 1 11 15 14
Cá 3 75 23 89
ĐVKXS 0 75 0 105
Thực vật bậc cao 125 337 145 605
Nấm 7 16
Tảo 12 18
Tổng 226 721 289 1.065
Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam 2005, Phần Đa dạng sinh học.
Theo IUCN, số loài bị đe dọa toàn cầu ở Việt Nam không chỉ tăng về số lượng từ 229
lên 289 loài, mà còn tăng về mức độ đe dọa. Nếu trong danh lục năm 1996 liệt kê 25 loài
động vật của Việt Nam ở mức nguy cấp (EN) thì đến năm 2004, con số này đã lên đến 46 loài
(Bảng 6.2).
Trong số những loài mới bị xếp hạng này có những loài như Bò rừng (Bos javanicus),
Sói đỏ (Cuon alpinus), Voọc vá chân nâu (Pygathrix nemaeus) và Voọc vá chân đen
(Pygathrix nigripes). Quần thể của hấu hết các loài bị đe dọa toàn cầu tại Việt Nam đều bị
đánh giá là đang có chiều hướng suy giảm.
Nhiều loài được đánh giá bị đe dọa không cao lắm trên quy mô toàn cầu nhưng lại bị đe
dọa ở mức rất cao ở Việt Nam. Ví dụ như Hạc cổ trắng (Ciconia episcopus) không có tên
trong IUCN 2004, nhưng lại là loài sẽ nguy cấp (VU) ở Việt Nam do mất sinh cảnh và thức
ăn bị ô nhiễm.
73

Bảng 6.2. Thống kê số lượng bị đe dọa toàn cầu của Việt Nam theo danh lục đỏ của IUCN
1996, 1998 và 2004.
Động vật Thực vật
Phân hạng 1996, 1998 2004 1996, 1998 2004
CR 17 17 23 25
EN 25 46 33 37
VU 59 81 69 83
Tổng 101 144 125 145
Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam 2005, Phần Đa dạng sinh học
1. Sự giảm sút độ che phủ và chất lượng của rừng.
Độ che phủ của rừng Việt Nam đã giảm sút đến mức báo động. Chất lượng của rừng ở
các vùng còn rừng đã bị hạ thấp quá mức.
Diện tích rừng toàn quốc đã giảm xuống rất nhiều, năm 1945 rừng chiếm 43% thì đến
năm 1990 chỉ còn 27,8% tổng diện tích, trong đó chỉ còn 10% là rừng nguyên thủy. Trong vòng
25 năm qua, toàn bộ vùng rừng tự nhiên mất đi hơn 5 triệu ha ở cả vùng cao và vùng ven biển,
trung bình mỗi năm mất đi khoảng 150.000 ha. Trong mấy năm qua, diện tích rừng có chiều
hướng tăng lên, 28,2% năm 1995 và đến năm 2004 theo thống kê mới nhất thì độ che phủ rừng
toàn quốc lên đến 36,7% (Bảng 6.1).
Bảng 6.1. Diễn biến diện tích rừng ở Việt Nam qua các năm (đơn vị tính 1.000.000 ha).
1945 1976 1980 1985 1990 1995 1999 2002 2004
Tổng diện tích (ha) 14,30 11,16 10,60 9,89 9,17 9,30 10,99 11,78 12,30
Rừng trồng (ha) 0,00 0,01 0,42 0,58 0,74 1,05 1,52 1,91 2,21
Rừng tự nhiên (ha) 14,30 11,07 10,18 9,30 8,43 8,25 9,47 9,86 10,89
Độ che phủ (%) 43,00 33,80 32,10 30,00 27,80 28,20 33,20 35,8 36,7
Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam. Phần Đa dạng sinh học, 2005.
Sự suy giảm về độ che phủ của rừng là do mức tăng dân số tạo nhu cầu lớn về lâm sản và
đất trồng trọt. Kết quả đã dẫn tới việc biến nhiều vùng rừng thành đất hoang cằn cỗi. Việc phá
rừng để làm rẫy canh tác dẫn đến việc làm xói mòn đất, làm mất chất dinh dưỡng trong đất và
cả những biến đổi sâu sắc về đặc điểm vật lý cũng như sinh học của các hệ sinh thái.
Nhận thức được việc mất rừng là tổn thất duy nhất nghiêm trọng đang đe dọa sức sinh sản
lâu dài của những tài nguyên có khả năng tái tạo, nhân dân Việt Nam đang thực hiện một
chương trình rộng lớn về xanh hóa của những vùng đất bị tổn thất do chiến tranh và sửa chữa
những sai lầm trong công cuộc phát triển nhanh của mình trong những năm qua. Mục tiêu là
trong vòng thế kỷ XXI xanh hóa được 40 - 50% diện tích cả nước, với hy vọng phục hồi lại cân
bằng sinh thái ở Việt Nam, bảo tồn đa dạng sinh học và góp phần vào việc làm chậm quá trình
nóng lên toàn cầu.
2. Nguyên nhân suy thoái đa dạng sinh học
Về các nguyên nhân làm suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam đến nay, có thể tóm tắt
như sau:
Nguyên nhân trực tiếp:
74

1. Sự mở rộng đất nông nghiệp: mở rộng đất canh tác nông nghiệp bằng cách lấn vào đất
rừng, đất ngập nước là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất làm suy thoái
đa dạng sinh học.
2. Khai thác gỗ, củi: trong giai đoạn từ năm 1985 đến năm 1991, các lâm trường quốc
doanh đã khai thác trung bình 3,5 triệu m3 gỗ mỗi năm và khoảng 1-2 triệu m3 ngoài
kế hoạch (khoảng 80.000 ha bị mất mỗi năm). Ngoài ra nạn chặt trộm gỗ xảy ra ở
khắp mọi nơi, kết quả là rừng bị cạn kiệt nhanh chóng, nhiều loài có nguy cơ tuyệt
chủng. Hàng năm một lượng củi khoảng 21 triệu tấn được khai thác từ rừng để phục
vụ cho nhu cầu sinh hoạt trong gia đình.
3. Khai thác các sản phẩm ngoài gỗ: các sản phẩm khác ngoài gỗ như song mây, tre
nứa, lá, cây thuốc được khai thác cho những mục địch khác nhau: để dùng, để bán
trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Đặc biệt là khu hệ động vật hoang dã đã bị
khai thác một cách bừa bãi và kiệt quệ.
4. Cháy rừng: trong số 9 triệu ha rừng còn lại thì 56% có khả năng bị cháy trong mùa
khô. Trung bình hàng năm khoảng từ 25.000 đến 100.000 ha rừng bị cháy, nhất là
vùng cao nguyên miền Trung.
5. Xây dựng cơ bản: việc xây dựng cơ bản như giao thông, thủy lợi, khu công nghiệp,
thủy điện,... cũng là một nguyên nhân trực tiếp làm mất đa dạng sinh học. Các hồ
chứa nước được xây dựng hàng năm ở Việt Nam đã làm mất đi khoảng 30.000 ha
rừng.
6. Chiến tranh: trong giai đoạn từ 1961 đến 1975, 13 triệu tấn bom và 72 triệu lít chất
độc hoá học rãi xuống chủ yếu ở phía Nam đã hủy diệt khoảng 4,5 triệu ha rừng.
7. Buôn bán các loài động thực vật quý hiếm: tình trạng khai thác, buôn bán trái phép
các loại gỗ quý hiếm, các loài động vật hoang dã, vị phạm Pháp lệnh rừng trong thời
gian qua xảy ra ở mức độ khá nghiêm trọng.
8. Ô nhiễm môi trường: một số hệ sinh thái thuỷ vực, đất ngập nước bị ô nhiễm bởi các
chất thải công nghiệp, chất thải từ khai khoáng, phân bón trong nông nghiệp, thậm chí
chất thải đô thị, trong đó đáng lưu ý là tình trạng ô nhiễm dầu đang diễn ra tại các
vùng nước cửa sông ven biển, nơi có hoạt động tàu thuyền lớn.
9. Ô nhiễm sinh học: sự xâm nhập các loài ngoại lai không kiểm soát được, có thể gây
ảnh hưởng trực tiếp qua sự cạnh tranh, sự ăn mồi hoặc gián tiếp qua ký sinh trùng,
xói mòn nguồn gen bản địa và thay đổi nơi sinh sống của các loài bản địa
Nguyên nhân sâu xa:
1. Tăng dân số: dân số tăng nhanh là một trong những nguyên nhân chính làm suy thoái đa
dạng sinh học của Việt Nam. Sự gia tăng dân số đòi hỏi tăng nhu cầu sinh hoạt: lương
thực, thực phẩm và các nhu cầu thiết yếu khác trong khi tài nguyên thì hạn hẹp, nhất là tài
nguyên đất cho sản xuất nông nghiệp. Hệ quả tất yếu dẫn tới việc mở rộng đất nông
nghiệp vào đất rừng và làm suy thoái đa dạng sinh học.
2. Sự di dân: từ những năm 1960, chính phủ đã động viên khoảng 1 triệu người từ vùng
đồng bằng lên khai hoang và sinh sống ở vùng núi. Cuộc di dân này đã làm thay đổi sự
cân bằng dân số ở miền núi. Từ những năm 1990 đã có nhiều đợt di cư tự do từ các tỉnh
phía Bắc và Bắc Trung Bộ vào các tỉnh phía Nam. Sự di dân đã là nguyên nhân quan
trọng của việc tăng dân số Tây Nguyên và đã ảnh hưởng rõ rệt đến đa dạng sinh học vùng
này.
3. Sự nghèo đói: với gần 80% dân số ở nông thôn, Việt Nam là một nước phụ thuộc vào
nông nghiệp và tài nguyên thiên nhiên. Trong các khu bảo tồn được nghiên cứu, 90% dân
địa phương sống dựa vào nông nghiệp và khai thác rừng. Đời sống của họ rất thấp,
khoảng trên 50% thuộc diện đói nghèo. Người nghèo không có vốn để đầu tư lâu dài, sản
75

xuất và bảo vệ tài nguyên. Họ bắt buộc phải khai thác, bóc lột ruộng đất của mình, làm
cho tài nguyên càng suy thoái một cách nhanh chóng hơn.
4. Chính sách kinh tế vĩ mô: đổi mới đã đem lại một bộ mặt hoàn toàn mới cho kinh tế Việt
Nam. Tuy nhiên, những nghiên cứu gần đây về môi trường đã cho thấy sự suy thoái ở
mức báo động, đặc biệt là suy thoái đất và hệ sinh thái rừng. Một số chính sách đổi mới
có liên quan đến suy thoái đa dạng sinh học như đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm nông
nghiệp có giá trị cao đã là nguyên nhân làm mất đa dạng sinh học. Lợi nhuận của việc
xuất khẩu nông sản đã kích thích cả hai thành phần kinh tế tập thể và tư nhân đầu tư vào
việc phá rừng ngập mặn nuôi tôm và mở rộng diện tích trồng cây xuất khẩu. Phần lớn
rừng ở Tây Nguyên được khai phá để trồng cà phê, cao su, điều và cây ăn quả xuất khẩu.
Bùng nổ xuất khẩu không chí giới hạn ở cà phê và gỗ mà còn cả các động vật hoang dại
và các sản phẩm của chúng.
5. Chính sách kinh tế cộng đồng:
• Chính sách sử dụng đất: có vai trò quyết định đến phát triển kinh tế xã hội và đời
sống của người dân. Sau thời kỳ hợp tác xã tan rã, để duy trì sự sống, người dân đã
phải đầu tư vào mảnh ruộng 5% do hợp tác xã để lại và phải lên rừng khai hoang để
chống đói. Đây chính là giai đoạn mà rừng Việt Nam bị hủy hoại.
• Chính sách lâm nghiệp: theo con đường làm ăn tập thể, các nông trường và các lâm
trường quốc doanh được thành lập khắp nơi trên cả nước. Một trong những nhiệm
vụ của lâm trường là khai thác gỗ theo kế hoạch của nhà nước. Theo số liệu thống
kê, hằng năm việc khai thác gỗ đã làm suy thoái 70.000 ha rừng, trong đó có 30.000
ha bị mất trắng.
• Tập quán du canh du cư: trong số 54 dân tộc ở Việt Nam thì có tới 50 dân tộc với
khoảng 9 triệu dân có tập quán du canh và do sức ép của gia tăng dân số, du canh trở
thành một nguyên nhân quan trọng làm mất rừng, thoái hoá đất và kết quả là tạo ra
cả một vùng đất trống đồi trọc như hiện nay.
III. Bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam
1. Bảo tồn nguyên vị
Năm 1986, chính phủ nước Việt Nam đã thành lập một hệ thống 87 khu bảo tồn được
gọi là các khu rừng đặc dụng, trong đó có 56 vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên, 31
khu rừng văn hoá, lịch sử, phong cảnh đẹp với diện tích khoảng 880.000 ha.
Hệ thống rừng đặc dụng với 3 hạng: Vườn quốc gia, Khu bảo tồn thiên nhiên, Khu văn
hoá, lịch sử môi trường với qui chế quản lý cũ của nó đã thể hiện một số bất hợp lý trong tình
hình hiện nay. Đặc biệt là chưa kết hợp được phương châm “Bảo tồn kết hợp với phát triển”.
Các tồn tại của hệ thống các khu bảo tồn ở Việt Nam là:
• Diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam so với lãnh thổ còn thấp so với đề
nghị của IUCN, với diện tích đó chưa thể đại diện được đầy đủ các hệ sinh thái rừng
nhiệt đới và các yêu cầu của hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học.
• Việc xếp hạng, phân hạng rừng vẫn chưa thích hợp, chưa tiếp cận với phân hạng quốc
tế.
• Trong các khu bảo tồn thiên nhiên hiện nay, có nhiều khu có diện tích quá nhỏ, chưa
đủ đại diện cho các hệ sinh thái, cũng như sinh cảnh tối thiểu cho một số loài động
vật, đặc biệt là các loài quí hiếm.
• Một số khu bảo tồn và vườn Quốc gia ranh giới chưa hợp lý về mặt bảo tồn đa dạng
sinh học.
76

• Ở đa số các khu bảo tồn, công tác điều tra cơ bản chưa tiến hành một cách đầy đủ,
chưa có luận chứng đầu tư, chưa được cấp giấy quyền sử dụng đất và xác định ranh
giới ngoài cụ thể thực địa một cách đầy đủ.
• Hệ thống điều hành quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên chưa nhất quán từ địa
phương đến trung ương. Việc phân cấp quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên giữa địa
phương và trung ương chưa được phân định cụ thể, chính phủ chậm ban hành quy
chế rừng đặc dụng vì vậy làm cho công tác bảo vệ các khu rừng đặc dụng thiếu cơ
sở vững chắc gây nên những tranh chấp không có lợi cho bảo tồn.
• Tổ chức bộ máy, biên chế của các ban quản lý ở các khu bảo tồn thiên nhiên chưa
hợp lý nên hiệu quả công tác bảo tồn chưa cao.
Hệ thống phân hạng có vai trò quan trọng trong việc quản lý và phân cấp quản lý các
khu rừng đặc dụng. Vì vậy, trong qui hoạch hệ thống rừng đặc dụng đã áp dụng hệ thống phân
hạng mới về quản lý các khu Bảo tồn của IUCN, 1994 và đề xuất hệ thống phân hạng mới của
Việt Nam với 4 hạng mục như sau:
Hạng 1: Vườn Quốc gia (National Park): diện tích trên đất liền hoặc trên biển, chưa
bị tác động hoặc mới bị tác động nhẹ do các hoạt động của con người, có các loài động thực
vật quí hiếm và đặc hữu có các cảnh quan đẹp có tầm cỡ quốc gia hoặc quốc tế.
Mục tiêu bảo vệ của Vườn Quốc gia là:
• Bảo vệ các hệ sinh thái và các loài động, thực vật quí hiếm có tầm quan trọng quốc
gia hoặc quốc tế.
• Nghiên cứu khoa học
• Phát triển du lịch sinh thái
Hạng 2: Khu dự trữ thiên nhiên (Natural Reserve): là các khu có diện tích tương đối
rộng, có các hệ sinh thái tiêu biểu hoặc các loài động, thực vật có giá trị bảo tồn cao còn
tương đối nguyên vẹn. Mục tiêu bảo vệ:
• Bảo vệ duy trì các hệ sinh thái và các loài động, thực vật trong điều kiện tự nhiên
• Phục vụ công tác nghiên cứu khoa học, quản lý môi trường và giáo dục
• Du lịch sinh thái ở đây bị hạn chế
Hạng 3: Khu bảo tồn các loài sinh cảnh (Species/Habitat management protected
area): là một khu vực có diện tích rộng hay hẹp, được hình thành nhằm:
• Bảo vệ một hay nhiều quần thể động, thực vật có nguy cơ bị tiêu diệt và nơi sống
của chúng nhằm duy trì và phát triển các loài này về lâu dài
• Để bảo vệ các mục tiêu trong khu bảo tồn, con người có thể tiến hành một số hoạt
động cho phép nếu nó không ảnh hưởng đến các mục tiêu bảo vệ.
Hạng 4: Khu bảo vệ cảnh quan (Protected Landscape or Seascape): là các khu vực
có diện tích trung bình hay hẹp, được thành lập nhằm:
• Bảo vệ các cảnh quan độc đáo của thiên nhiên hoặc các công trình văn hóa có giá trị
quốc gia.
• Bảo vệ các rừng cây đẹp, các hang động, thác nước, đảo san hô, miệng núi lửa,...
So với bảng phân hạng các khu rừng đặc dụng của Việt Nam trước đây, hệ thống phân
loại mới có thêm một hạng. Đó là khu bảo tồn loài hay sinh cảnh. Các khu bảo tồn này sẽ có
qui chế hoạt động rộng rãi hơn so với quy chế quản lý trước đây, nên chắc sẽ được chính
quyền và nhân dân địa phương ủng hộ hơn.
Hạng 4 của hệ thống rừng đặc dụng trong hệ thống phân hạng mới đã loại bớt đối tượng
là các khu văn hoá, lịch sử đơn thuần. Mục tiêu bảo vệ của thứ hạng này là bảo vệ cảnh quan
môi trường.
77

Hiện nay danh sách các khu bảo tồn ở Việt Nam đã lên đến 126 khu, trong đó có 28
Vườn Quốc gia, 48 khu dự trữ thiên nhiên, 11 khu bảo tồn loài sinh cảnh và 39 khu bảo vệ
cảnh quan được phân bố đều trong cả nước với tổng diện tích khoảng 2,54 triệu ha chiếm
7,7% diện tích lãnh thổ.

Bảng 6.2. Các Vườn Quốc gia Việt Nam


Stt Tên Vườn Diện tích (ha) Năm thành lập Địa điểm
1. Ba bể 7.610 11/1992 Ba Bể-Bắc Cạn
2. Ba Vì 7.377 01/1991 Ba Vì-Hà Tây
3. Bạch Mã 22.031 07/1991 Thừa Thiên Huế
4. Bái Tử Long 15.783 06/2001 Vân Đồn-Quảng Ninh
5. Bến En 38.153 01/1992 Thanh Hoá
6. Bù Gia Mập 26.032 11/2002 Bình Phước
7. Cát Bà 15.200 03/1986 Cát Bà-Hải Phòng
8. Cát Tiên 73.878 01/1992 Đồng Nai, Lâm Đồng,
Bình Phước
9. Côn Đảo 19.998 03/1984 Bà Rịa-Vũng Tàu
10. Cúc Phương 22.000 01/1960 Ninh Bình, Hoà Bình,
Thanh Hoá
11. Chư Mom Ray 56.621 07/2002 Kom Tum
12. Chư Yang Sin 58.947 07/2002 Đắk Lắk
13. Hoàng Liên Sơn 29.845 07/2002 Sapa- Lào Cai
14. Kon Ka Kinh 41.780 11/2002 Gia Lai
15. Lò Giò-Xa Mát 18.756 07/2002 Tân Biên-Tây Ninh
16. Mũi Cà Mau 41.862 2003 Cà Mau
17. Núi Chúa 29.865 2003 Ninh Thuận
18. Pù Mát 91.113 11/2001 Nghệ An
19. Phong Nha-Kẻ Bàng 85.754 12/2001 Bố Trạch-Quảng Bình
20. Phú Quốc 31.422 06/2001 Phú Quốc-Kiên Giang
21. Tam Đảo 36.883 05/1996 Vĩnh Phúc - Tuyên
Quang-Thái Nguyên
22. Tràm Chim 7.588 12/1998 Tam Nông-Đồng Tháp
23. U Minh Thượng 8.053 01/2002 Kiên Giang
24. Vũ Quang 55.028 07/2002 Hà Tĩnh
25. Xuân Sơn 15.054 04/2002 Phú Thọ
26. Xuân Thuỷ 7.100 01/2003 Nam Định
78

27. Yok Đôn 58.200 06/1992 Đaklak


28. Bi-Doup – Núi Bà 64.800 /05/2005 Lâm Đồng
Nguồn: Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam, 2004.

Bảng 6.3. Hệ thống rừng đặc dụng Việt Nam (tính đến tháng 12 năm 2003)
TT Loại Số lượng Diện tích (ha)
I Vườn Quốc gia 28 957.330
II Khu dự trữ thiên nhiên 48 1.283.209
III Khu bảo tồn loài/sinh cảnh 11 85.849
IV Khu bảo vệ cảnh quan 39 215.287
Tổng 126 2.541.675
Nguồn: Chiến lược quản lý hệ thống bảo tồn thiên nhiên Việt Nam đến năm 2010, 2003
Tỷ lệ này chưa phải là cao so với một số nước trong khu vực (Campuchia 18,05%,
Lào 11,64% Thái Lan 13,01%, Indonesia 11,62) nhưng đã thể hiện quyết tâm của chính phủ
và nhân dân Việt Nam trong công cuộc bảo tồn thiên nhiên và bảo vệ đa dạng sinh học. Hệ
thống 15 khu bảo tồn biển và 63 khu bảo tồn đất ngập nước đã được hoàn thiện, trình chính
phủ xem xét.
Bảng 6.4. Thống kê diện tích (km2) các khu BTTN của các nước vùng Đông Nam Á
Tên nước Diện tích lãnh thổ Diện tích khu bảo tồn Tỷ lệ so với lãnh thổ
Brunei 5.765 1.151 19,75
Campuchia 181.000 32.672 18,05
Indonesia 1.919.445 223.023 11,62
Lào 236.725 27.563 11,64
Malaysia 332.965 15.040 4,52
Myanmar 678.030 1.732 0,26
Philippines 300.000 10.301 3,43
Singapore 616 27,00 4,54
Thái Lan 514.000 66.880 13,01
Việt Nam 329.565 20.925 6,34
Tổng cộng 4.588.111 339.311 8,69
(Nguồn: IUCN, 2000)
Ngoài hệ thống khu bảo tồn, đã có một số hình thức khu bảo tồn khác được công nhận:
4 khu dự trữ sinh quyển: rừng ngập mặn Cần Giờ (Tp Hồ Chí Minh), Vườn Quốc gia
Cát Tiên (Đồng Nai, Lâm Đồng và Bình Phước), quần đảo Cát Bà (Tp Hải Phòng) và đất
ngập nước đồng bằng Sông Hồng
2 khu di sản thiên nhiên thế giới: Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) và Phong Nha – Kẻ
Bàng (Quảng Bình)
79

4 Khu di sản thiên nhiên của ASEAN: Vườn Quốc gia Ba Bể (Bắc Cạn), Vườn Quốc
gia Hoàng Liên Sơn (Lào Cai), Vườn Quốc gia Chư Mom Rây (Kon Tum) và Vườn Quốc gia
Kon Ka Kinh (Gia Lai)
2 khu Ramsar: Vườn Quốc gia Xuân Thủy (Nam Định) và khu đất ngập nước Bàu Sấu
thuộc vườn Quốc gia Cát Tiên (Đồng Nai)
Ngoài việc thành lập các khu bảo tồn, Việt Nam cũng đang thực hiện một số dự án đặc
biệt, bằng cách khuyến khích nhân dân bảo vệ một số loài động thực vật quí hiếm đang có
nguy cơ tiêu diệt như Thông lá dẹt ở Lâm Đồng, Thông nước ở Đắk Lắk, Bách xanh ở Ba Vì-
Hà Tây, Kim giao ở Cát Bà và các loài động vật như Gà lam đuôi trắng ở vùng Kẻ Gỗ Hà
Tĩnh, loài Voọc quần đùi ở Cúc Phương, loài Voọc mũi hếch ở Na Hang, Tuyên Quang, loài
hổ ở Thừa Thiên Huế và Chư Môm Rây ở Kon Tum.
2. Bảo tồn chuyển vị
Vườn thực vật: Đến nay, Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn đã thành lập 11 Vườn
thực vật bao gồm các vườn cây thuốc, cây công nghiệp, cây giống,... Để bảo tồn tài nguyên cây
trồng, các cơ quan nghiên cứu tài nguyên cây trồng đã thu thập, bảo quản nhiều loài cây trồng
nông nghiệp bao gồm cây lương thực, công nghiệp, cây ăn quả, cây thức ăn gia súc và cây cải
tạo đất.
Từ năm 1988, công tác bảo tồn nguồn gen cây thuốc đã được triển khai. Tuy vậy, trong số
848 cây thuốc được xác định cần bảo tồn mới chỉ có 120 loài được bảo tồn trong các vùng và cơ
sở nghiên cứu. Nhiệm vụ bảo tồn nguồn gen cây thuốc ngày càng được quan tâm. Năm 1997,
Bộ Y tế đã đầu tư 8 tỷ đồng cho chương trình bảo tồn nguồn gen cây thuốc trong kế hoạch 5
năm.
Hiện nay có một số vườn sưu tập thực vật, điển hình như Vườn Trảng Bom (Đồng Nai)
với 118 loài, Vườn Cầu Hai (Vĩnh Phú) 110 loài, Vườn Cẩm Quý (Hà Tây) 61 loài, Vườn Eak
Lac (Đăk Lăk) 100 loài, vườn Bách Thảo Hà Nội 200 loài. Các loài sưu tập trong những vườn
trên đây phần lớn là các loài cây bản địa.
Ngành Lâm nghiệp có 90 loài cây, bao gồm cây bản địa và cây nhập nội, có xuất xứ khác
nhau đang được nhân giống, khảo sát đánh giá tiềm năng để sử dụng làm cây rừng và làm giàu
rừng.
Vườn thú: Hai vườn thú lớn nhất là Thảo Cầm Viên – TP. Hồ Chí Minh và vườn thú Thủ
Lệ - Hà Nội. Đây là những nơi đang lưu giữ và nhân nuôi các loài động vật nói chung. Trong đó
có nhiều loài động vật quý hiếm, đặc hữu của Việt Nam và của một số quốc gia khác. Ngoài
chức năng lưu giữ nguồn gen động vật hoang dã, các vườn thú còn có ý nghĩa tuyên truyền,
giáo dục mọi tầng lớp nhân dân lòng yêu thiên nhiên cũng như ý thức bảo vệ động vật.
Các Trung tâm và Trạm cứu hộ động vật: Hoạt động của các Trung Tâm cứu hộ động vật
bước đầu đã có những kết quả tích cực, ví dụ như Trung tâm cứu hộ Linh trưởng và Trung tâm
cứu hộ Rùa ở Vườn Quốc gia Cúc Phương, Trung tâm cứu hộ động vật Sóc Sơn Hà Nội. Hai
trung tâm cứu hộ khác, một ở Đà Nẵng và một ở thành phố Hồ Chí Minh cũng đã được thành
lập từ năm 1999.
Ngân hàng giống: việc lưu giữ nguồn cây giống cây trồng, vật nuôi mới được thực hiện ở
một số cơ sở nghiên cứu. Các đối tượng được lưu giữ là các hạt giống cây trồng chủ yếu là cây
lương thực với các phương pháp bảo quản trong kho lạnh. Hiện nay, ngành công nghiệp Việt
Nam có 5 cơ quan có kho bảo quản lạnh: Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam, Viện
Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam, Trường Đại học Cần Thơ, Viện Cây lương thực và
Thực phẩm và Viện nghiên cứu Ngô. Các kho lạnh đều có dung lượng nhỏ, công nghệ lạc hậu,
chỉ bảo quản được hai chế độ ngắn hạn và trung hạn. Chưa có kho đạt tiêu chuẩn bảo quản dài
hạn.
80

3. Hợp tác quốc tế


Trong những năm qua, Việt Nam đã ký một số công ước liên quan đến bảo vệ đa dạng
sinh học như Công ước quốc tế về buôn bán các loài động vật hoang dã (CITES), Công ước
RAMSAR về bảo vệ các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, đặc biệt đối với chim
di cư và đã lấy vùng đất ngập Xuân Thủy ở khu vực sông Hồng làm khu vực cần được bảo vệ.
Việt Nam cũng đã phê chuẩn Công ước Đa dạng sinh học (CBD). Để thực hiện Công
ước này, Việt Nam đã xây dựng kế hoạch hành động Đa dạng sinh học, mục tiêu trước mắt
của kế hoạch này là:
• Bảo vệ các hệ sinh thái đặc trưng của Việt Nam, các hệ sinh thái nhạy cảm đang bị
đe dọa thu hẹp lại hay bị hủy hoại do hoạt động của con người gây ra
• Bảo vệ các loài đang bị đe dọa do khai thác quá mức
• Sử dụng các loài một cách bền vững để phục vụ cho công cuộc phát triển đất nước
Việt Nam cũng đã ban hành một số luật cơ bản liên quan:
 Luật bảo vệ và phát triển vốn rừng
 Luật đất đai
 Luật bảo vệ môi trường
 Pháp lệnh bảo vệ nguồn lợi thủy sản
 Pháp lệnh về kiểm dịch thực vật
 Pháp lệnh thú y
Trên cơ sở các luật này, Chính phủ đã có nhiều văn bản, chỉ thị cho các bộ, các cấp chính
quyền thi hành nghiêm chỉnh các biện pháp ngăn chặn việc khai thác quá mức tài nguyên sinh
học và buôn bán trái phép các loại động vật thực vật quý hiếm.
Tháng 12 năm 1995, Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt Kế hoạch hành động đa dạng
sinh học của Việt Nam. Đây là kế hoạch làm căn cứ cho các ngành kinh tế phối hợp cùng hành
động bảo vệ một nguồn tài nguyên quan trọng của đất nước.
Trong phạm vi khu vực, Việt Nam là một trong những nước dẫn đầu của khối Đông Nam
Á về triển khai các nổ lực hợp tác vùng về bảo tồn đa dạng sinh học và sử dụng tài nguyên bền
vững. Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức các quan chức cao cấp về Môi trường của
các nước ASEAN (viết tắc là ASOEN); là thành viên của Trung tâm vùng về bảo tồn đa dạng
sinh học của các nước ASEAN (ACB). Điển hình là các sáng kiến đối thoại và hợp tác về bảo
tồn thiên nhiên trong khu vực như diễn đàn Đa dạng sinh học Việt Nam, Lào và Campuchia,
Chương trình bảo tồn vùng sinh thái dãy Trường Sơn, Chương trình bảo tồn đa dạng sinh học
các vùng đất ngập nước hạ lưu sông Mê Kông đã được thực hiện hóa bằng các dự án cụ thể.
Năng lực bảo tồn đa dạng sinh học của Việt Nam cũng được nâng cao thông qua các chương
trình hợp tác đào tạo dài hạn và ngắn hạn trong khu vực.
Việt Nam đã giành được sự hổ trợ to lớn và hết sức quan trọng về kỹ thuật và tài chánh
cho bảo tồn đa dạng sinh học thông qua các thỏa thuận hợp tác song phương với các chính phủ
các nước phát triển và các tổ chức quốc tế. Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Điển, Đức, Anh, Canada,
Úc, Pháp, Bỉ, Na Uy, và Nhật Bản là những nước tài trợ chính trong lĩnh vực bảo tồn thiên
nhiên của Việt Nam trong những năm qua. Thỏa thuận song phương về môi trường của Việt
Nam ký kết với các nước này, với Liên minh Châu Âu và Hoa Kỳ luôn xem vấn đề bảo tồn đa
dạng sinh học là một ưu tiên.
Các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP), Chương
trình môi trường Liên hiệp quốc (UNEP), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng phát triển
Châu Á (ADB), Tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN), Quỹ Quốc tế về bảo vệ thiên
nhiên (WWF), Tổ chức bảo tồn chim quốc tế (Birdlife International), Tổ chức bảo tồn động
thực vật hoang dã quốc tế đã hổ trợ và hợp tác rất chặt chẻ và tích cực với Việt Nam trong việc
81

thực hiện các sáng kiến và dự án bảo tồn đa dạng sinh học trên toàn quốc. Phần lớn các dự án
bảo tồn quan trọng ở Việt Nam được thực hiện thông qua sự phối hợp với các tổ chức này.
Thông qua các hợp tác quốc tế, Việt Nam đã được chia sẻ thông tin, kinh nghiệm và sáng
kiến bảo tồn trong khu vực và trên thế giới. Đồng thời Việt Nam cũng đóng góp những sáng
kiến những sáng kiến thiết thực nhằm thúc đẩy sự hợp tác và tăng tính hiệu quả của công tác
bảo tồn toàn cầu.
4. Những khó khăn trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học
Để bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên và nguồn tài nguyên thiên nhiên, trong nhiều năm
qua Việt Nam đã cố gắng rất nhiều trong trong việc xây dựng các khu bảo tồn và các vườn
quốc gia. Tuy nhiên, điều khó khăn gặp phải là trong và xung quanh các khu bảo tồn và vườn
quốc gia còn nhiều nhân dân sinh sống, thậm chí cả những vùng trung tâm, nơi cần bảo vệ
nghiêm ngặt. Ở đây họ phát nương làm rẫy, săn bắt các động vật, khai thác các sản phẩm của
rừng để sinh sống. Các hoạt động của họ đã làm tổn hại đến mục tiêu của các khu bảo tồn,
làm cho các khu bảo tồn bị giảm chất lượng một cách nhanh chóng.
Để giảm bớt khó khăn, chính phủ Việt Nam đã cho phép di chuyển một số dân ra khỏi
khu bảo tồn và đã bắt đầu thực hiện ở Vườn Quốc gia Cúc Phương từ năm 1987. Số dân
chuyển ra được định cư ngoài khu vực bảo tồn tạo thành một khu đệm. Chương trình này đã
đạt được những kết quả bước đầu. Nhưng kinh nghiệm cho thấy rằng, để thực hiện tốt công
tác bảo tồn, điều quan trọng hơn hết là không tạo thêm sự xung đột giữa nhân dân địa phương
và khu bảo tồn mà phải cộng tác với họ một cách chặt chẽ và chấp nhận những yêu cầu chính
đáng của họ và điều quan trọng hơn là họ có hưởng được những lợi ích trực tiếp từ khu bảo
tồn. Cần thiết phải xây dựng các vùng đệm, tạo công ăn việc làm cho nhân dân ở đó, giúp họ
giảm bớt những khó khăn trong cuộc sống để họ tự nguyện giảm dần sức ép lên khu bảo tồn
và rồi tham gia tích cực vào việc bảo vệ vì lợi ích thiết thực của họ.
Nước ta đang gặp nhiều khó khăn trong công việc bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ
thiên nhiên và sử dụng một cách bền vững tài nguyên thiên nhiên nói chung và xây dựng các
khu bảo tồn và các vườn quốc gia nói riêng. Thử thách quan trọng nhất đối với nước ta trong
công cuộc bảo vệ là sớm tìm được biện pháp ngăn chặn kịp thời sự suy thoái của rừng nhiệt
đới, suy thoái các hệ sinh thái điển hình cùng với hệ động vật và thực vật phong phú ở đó.
Trong quá trình phát triển, chúng ta cần xây dựng cơ sở hạ tầng và tất nhiên, có những
công trình mà chúng ta chưa đánh giá hết lợi ích và thiệt hại. Một trong những sự kiện đó là
việc xây dựng đường Trường Sơn mà theo thiết kế sẽ đi qua và ảnh hưởng trực tiếp đến một
số vườn Quốc Gia như Bến En, Cúc Phương, Phong Nha. Việc xây dựng và khai thác tuyến
đường Trường Sơn cắt qua các khu bảo tồn thiên nhiên nói trên chắc chắn sẽ có nhiều tác
động bất lợi đối với thiên nhiên và môi trường.
Nước ta là một trong những nước nghèo trên thế giới, dân số lại đông. Để duy trì cuộc
sống trước mắt, nhiều người buộc phải khai thác mọi thứ tài nguyên thiên nhiên, đồng thời họ
đã gây suy thoái môi trường và gây tổn hại cho sự phát triển trong tương lai. Vì vậy, để giải
quyết vấn đề bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học, cứu các loài khỏi nạn diệt vong
không phải chỉ là vấn đề nâng cao kỹ thuật và tìm vốn đầu tư mà còn phải chú ý đến vấn đề
kinh tế xã hội phức tạp, mà chủ yếu là cải thiện mức sống của người dân, nhất là những người
dân nghèo, và nâng cao nhận thức của họ về bảo vệ môi trường, sử dụng hợp lý, bền vững tài
nguyên thiên nhiên, kể cả đất và rừng mà họ có trách nhiệm bảo vệ và được quyền quyết định
về cách sử dụng tốt nhất cho cuộc sống của họ, con cháu họ và cả cộng đồng.
3.5. Các vấn đề ưu tiên
Để thực hiện có hiệu quả công tác bảo tồn đa dạng sinh học trong thời gian tới, Việt
Nam cần thực hiện các vấn đề ưu tiên sau đây:
1. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức và quản lý đối với các hoạt động cụ thể sau:
82

• Giao trách nhiệm cho một cơ quan nhà nước thống nhất về mặt đa dạng sinh học
trên toàn quốc
• Thành lập ban chỉ đạo quốc gia và văn phòng Công ước Đa dạng sinh học
• Xây dựng cơ chế điều phối và quản lý đa dạng sinh học liên ngành
• Xây dựng cơ chế phân cấp và hổ trợ các địa phương quản lý đa dạng sinh học
2. Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật nhà nước về Đa dạng sinh học
• Xây dựng Luật Bảo vệ Đa dạng sinh học và hệ thống các văn bản hướng dẫn thi
hành luật;
• Sớm hoàn thiện và ban hành Kế hoạch hành động đa dạng sinh học đến năm
2010 và định hướng đến năm 2020;
• Lồng ghép các nội dung bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học vào các quy
hoạch, các kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của các ngành các cấp, các vùng
và các tỉnh trong cả nước.
• Xây dựng chính sách tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích;
3. Nâng cao hiệu quả các biện pháp bảo tồn
• Nâng cao hiệu quả bảo tồn đa dạng sinh học trên cạn;
• Tăng cường hệ thống khu bảo tồn biển và đất ngập nước;
• Chú trọng bảo tồn đa dạng sinh học nông nghiệp;
• Sử dụng hợp lý và phát triển bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
4. Tích cực phát triển và làm giàu đa dạng sinh học nông nghiệp
• Tiến hành đánh giá toàn diện đa dạng sinh học nông nghiệp Việt Nam;
• Mở rộng và nâng cao chất lượng bảo tồn các nguồn gen cây trồng, vật nuôi, cây
thuốc, cây rừng. Chú trọng bảo tồn các nguồn gen bản địa.
• Thu thập, lưu giữ và dụng kiến thức bản địa về cây thuốc, trồng trọt, chăn nuôi
và bảo vệ rừng phục vụ cho bảo tồn và phát triển bền vững.
• Xây dựng hệ thống đồng bộ các giải pháp bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng
sinh học nông nghiệp.
5. Sử dụng hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả tài nguyên sinh vật, không ngừng phát triển và
nâng cao chất lượng tài nguyên đa dạng sinh học
• Kiểm soát chặt chẽ việc khai thác tài nguyên rừng, biển và tài nguyên sinh vật;
• Từng bước đẩy lùi, tiến tới loại trừ các hoạt động khai thác trái phép tài nguyên
sinh vật;
• Nghiên cứu các loại lâm sản ngoài gỗ và xây dựng các phương thức khai thác
bền vững các tài nguyên này;
• Phát triển du lịch sinh thái trên cơ sở nâng cao nhận thức và hiểu biết về đa dạng
sinh học của các cộng đồng, của khách du lịch và của các cơ quan chuyên trách
du lịch;
• Kiếm soát chặt chẽ, quản lý tốt các loài sinh vật lạ di nhập vào Việt Nam;
• Quản lý an toàn các sinh vật biến đổi gen và các sản phẩm của chúng.
6. Nghiên cứu và đào tạo
• Xây dựng chiến lược đào tạo dài hạn cán bộ đa dạng sinh học;
• Xây dựng và thực hiện chương trình khoa học, điều tra cơ bản các nguồn tài
nguyên thiên nhiên một cách toàn diện;
• Xây dựng các chương trình nghiên cứu liên ngành về định lượng và lượng;
83

7. Tăng cường trách nhiệm và sự tham gia của các cộng đồng vào các hoạt động bảo tồn
và phát triển đa dạng sinh học
• Thực hiện truyền thông quốc gia dài hạn về tầm quan trọng của đa dạng sinh học
và nội dung của chương trình quốc gia về nâng cao nhận thức đa dạng sinh học
đã được phê duyệt;
• Xây dựng và mở rộng các mô hình và quản lý đa dạng sinh học dựa vào cộng
đồng;
• Xây dựng cơ chế chia sẻ lợi ích bảo vệ đa dạng sinh học đối với cộng đồng;
• Lồng ghép nguyên tắc sử dụng bền vững, cách sống thân thiện với môi trường
và quản lý hệ sinh thái vào chương trình học ở các trường phổ thông và tập huấn
cho giáo viên về các phương pháp truyền thông hiệu quả;
8. Trao đổi thông tin
• Xây dựng trung tâm cơ sở dữ liệu quốc gia về đa dạng sinh học;
• Xây dựng cơ chế trao đổi chia sẻ thông tin về đa dạng sinh học giữa các cơ sở
nghiên cứu và cơ sở quản lý các cấp;
9. Nâng cao hiệu quả đầu tư
• Đầu tư mang tính chiến lược hơn nữa cho bảo tồn và phát triển bền vững đa
dạng sinh học;
• Chú trọng hơn nữa tới việc hổ trợ nhằm tạo môi trường thuận lợi cho bảo tồn đa
dạng sinh học được thành công, thông qua cải cách chính sách và tăng cường thể
chế;
• Đưa các hổ trợ bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học vào trong các
lĩnh vực ưu tiên, ví dụ xóa đói giảm nghèo, y tế, và phát triển nông thôn;
10. Mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế và khu vực
• Tổ chức thực hiện tốt các điều ước quốc tế về đa dạng sinh học
• Hợp tác chặt chẽ với các nước ASEAN trong công tác bảo tồn và phát triển bền
vững đa dạng sinh học;
• Tăng cường hợp tác quốc tế và vận động các cá nhân, tổ chức nước ngoài tham
gia nghiên cứu và hổ trợ quản lý đa dạng sinh học ở Việt Nam.
Tóm tắt nội dung:
Do sự khác biệt lớn về khí hậu từ vùng gần xích đạo tới giáp vùng cận nhiệt đới, cùng
với sự đa dạng về địa hình đã tạo nên sự đa dạng về thiên nhiên và cũng do đó mà Việt Nam
có tính đa dạng sinh học cao. Nguồn tài nguyên thiên nhiên này không những là cơ sở vững
chắc của sự tồn tại của nhân dân Việt Nam thuộc nhiều thế hệ đã qua mà còn là cơ sở cho sự
phát triển của dân tộc Việt Nam trong những năm sắp tới.
Mặc dù vậy, có nhiều nguyên nhân làm giảm đa dạng sinh học Việt Nam, trong đó phá
hủy nơi ở và khai thác quá mức là nghiêm trọng nhất. Theo sách đỏ của IUCN 2004, Việt
Nam có 289 loài động vật và thực vật bị đe dọa toàn cầu. Sách đỏ Việt Nam cũng đã liệt kê
1.056 động vật và thực vật bị đe dọa ở mức quốc gia.
Chính phủ Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc bảo tồn đa dạng sinh học. Đến nay
đã có 126 khu bảo tồn với diện tích 2,5 triệu ha chiếm 7,7% diện tích lãnh thổ. Bên cạnh đó,
các loại hình bảo tồn chuyển vị cũng đã được thành lập, bước đầu thu được một số kết quả
nhất định. Vẫn còn nhiều khó khăn trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam.
Bài tập
Câu 1. Giá trị của đa dạng sinh học Việt Nam
84

Câu 2. Kể tên các nguyên nhân trực tiếp làm suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam
Câu 3. Kể tên các nguyên nhân sâu xa làm suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam
Câu 4. Kể tên 4 trong số những tồn tại của hệ thống các khu bảo tồn ở Việt Nam
Câu 5. Kể tên các hạng mục trong hệ thống rừng đặc dụng ở Việt Nam
Câu 6. Kể tên các khu dự trữ sinh quyển ở Việt Nam
Câu 7. Kể tên các khu di sản thiên nhiên của ASEAN ở Việt Nam
Câu 8. Những khó khăn trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam

Tài liệu tham khảo:


Tài liệu Tiếng Việt.
1. Bộ Tài Nguyên và Môi trường, Ngân hàng thế giới, 2005. Báo cáo diễn biến Môi
trường Việt Nam 2005. Đa dạng sinh học. Hà nội.
2. Lê Trọng Cúc, 2002. Đa dạng sinh học và bảo tồn thiên nhiên. Nhà Xuất bản Đại
học Quốc gia Hà Nội.
3. Dự án PARC, 2006. Tóm tắt chính sách: Xây dựng hệ thống khu bảo tồn thiên
nhiên Việt Nam – Những yêu cầu đổi mới chính sách và thể chế. Cục Kiểm
Lâm/UNOPS/UNDP/IUCN, Hà Nội.
3. Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam, 2004. Việt Nam Môi trường và
Cuộc sống. NXB Chính trị Quốc gia.
4. Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam, 2001. Các vườn Quốc gia Việt Nam. NXB Nông
nghiệp.
5. Phạm Bình Quyền, Nguyễn Nghĩa Thìn, 2002. Đa dạng sinh học. NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội.
6. Richard B. Primack (Võ Quý, Phạm Bình Quyền, Hoàng Văn Thắng dịch) 1999. Cơ
sở sinh học Bảo tồn. NXB KH&KT Hà Nội.
7. Viện Năng lượng và Môi trường Pháp Ngữ, 2002. Lớp tập huấn về bảo tồn đa dạng
sinh học. Đại học KHTN-ĐHQG Hà Nội.
WWF, 2002. Đề xuất chiến lược quản lý hệ thống khu bảo tồn Việt Nam 2003-2010.
Hà Nội.
Tài liệu Tiếng Anh.
1. Elizabeth A. Gordon, Oscar E. Franco and Mary L. Tyrrell, 2005. Protecting
Biodiversity: A Guide to Criteria Used by Global Conservation Organizations. Yale
School of Forestry & Environmental Studies.
2. Kalemani Jo Mulongoy and Stuart Chape, 2005. Protected Areas and Biodiversity.
An Overview of Key Issues. UNEP, WCMC.
3. Michael J.B. Green and James Paine, 1997. State of the World's Protected Areas at
the end of the Twentieth Century. Australia.
4. USAID, 2005. Biodiversity Conservation: A Guide For USAID Staff and
Partners.

You might also like