Professional Documents
Culture Documents
30 / 04 / 2004
LỜI CẢM TẠ
----[\----
Được sự giới thiệu của Khoa Kinh Tế - Quản Trị Kinh Doanh
Trường Đại Học An Giang và được sự chấp thuận của Ban Giám
Đốc Nhà Máy Gạch Ngói Long Xuyên trong hơn hai tháng thực
tập tại Nhà Máy em đã vận dụng kiến thức tích lũy trong
những năm học qua cùng những hoạt động thực tế tại Nhà máy
để hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình.
Em xin chân thành cảm ơn:
Các thầy, cô giáo Trường Đại Học An Giang nói chung và tất
cả thầy cô trong Khoa Kinh Tế - Quản Trị Kinh Doanh đã tận
tình dạy dỗ và giúp đỡ em trong 04 năm học ngồi ghế nhà
trường. Đặc biệt là thầy Huỳnh Nhựt Nghĩa đã tận tình hướng
dẫn em hoàn thành luận văn này.
Ban Giám Đốc Nhà Máy Gạch Ngói Long Xuyên
Cùng tất cả các cô chú, anh chị trong Nhà Máy, đặc biệt là các cô chú, anh chị
Phòng Kế Toán - tài Vụ dù thời gian rất bận rộn nhưng vẫn tận tình hướng dẫn và
cung cấp đầy đủ số liệu để em hoàn thành luận văn một cách tốt nhất.
Sau cùng em xin kính chúc các Quý thầy cô Trường Đại Học An Giang và tất cả
các cô chú, anh chị trong Nhà Máy luôn dồi dào sức khỏe, luôn đạt được những
thành công trong công việc cũng như trong cuộc sống.
Trong quá trình thực hiện luận văn, do thời gian có hạn và kiến thức còn non kém
nên ít nhiều cũng còn thiếu sót mong Quý thầy cô thông cảm. Một lần nữa em xin
chân thành cảm ơn. Trân trọng kính chào./.
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
X W
Quá trình hội nhập phát triển cùng nền kinh tế khu vực và thế giới đã
tạo ra cho nước ta nhiều cơ hội và thử thách mới. Hội nhập đồng nghĩa với
hàng hoá bên ngoài tràn vào với giá rẻ hơn và những hàng hóa có lợi thế
trong nước sẽ xuất sang thị trường nước ngoài, nhưng đồng thời cũng làm
tăng sức ép cạnh tranh vốn đã gay gắt lại càng gay gắt hơn giữa các doanh
nghiệp. Do đó để đứng vững trên thị trường các doanh nghiệp phải vận
động tối đa với các chính sách tín dụng, quản lý tiền mặt và dự trữ hàng tồn
kho. Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải biết ứng dụng kịp thời các thành tựu
khoa học kỹ thuật tiên tiến của nhân loại vào sản xuất nhằm tăng sức cạnh
tranh. Đồng thời, các Nhà quản trị phải quản lý tốt vốn lưu động để phát
triển hoạt động kinh doanh.
Vì vậy, quản trị vốn lưu động là một việc rất quan trọng giúp doanh
nghiệp đứng vững và phát huy hơn nữa thế mạnh của mình điển hình Nhà
Máy Gạch Ngói Long Xuyên. Kết quả sự đi lên của Nhà Máy cũng chính
nhờ một phần lớn là do thực hiện tốt việc quản trị tiền mặt, các khoản phải
thu, hàng tồn kho. Một thị trường gay gắt, song trong nền kinh tế luôn sôi
động như hiện nay, để tiến xa hơn nữa cũng như chuẩn bị những bước tiến
lên khi chuyển sang loại hình công ty cổ phần, doanh nghiệp đòi hỏi phải
tăng cường hơn nữa việc quản trị tốt vốn lưu động thông qua các chính
sách quản lý phù hợp với giai đoạn sống của Nhà Máy.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn đó mong muốn Nhà Máy luôn quản
trị tốt hơn vốn lưu động trong thời gian tới nhằm phát huy thế mạnh của
mình trên thị trường sản xuất gạch ngói, cung ứng gạch ngói rộng khắp
trong và ngoài Tỉnh đưa sản phẩm ra thị trường nước ngoài, đáp ứng kịp
thời nhu cầu xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng của người dân, đất nước
như giữ vững sự tín nhiệm của khách hàng với các sản phẩm của Nhà Máy
Gạch Ngói Long Xuyên.
Do đó, được sự chấp thuận của Khoa Kinh Tế - Quản Trị Kinh Doanh
trường Đại học An Giang với sự chỉ đạo của giáo viên hướng dẫn và cô chú
Nhà Máy để có thể nghiên cứu một cách bao quát được nhiều khía cạnh
“Nâng cao hiệu quả quản trị vốn lưu động của Nhà Máy Gạch Ngói
Long Xuyên” là đề tài mà tôi đã chọn với hy vọng góp một phần nhỏ trong
sự nghiệp phát triển của Nhà Máy.
- Phân tích và đánh giá thực trạng quản trị vốn lưu động tại Nhà Máy.
- Tìm ra nguyên nhân làm giảm hiệu quả quản trị vốn lưu động
- Đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị vốn lưu động
Trong phạm vi đề tài này, chủ yếu sử dụng các phương pháp sau:
- Thu thập số liệu
+ Từ bảng kết quả kinh doanh, bảng cân đối kế toán, xuất nhập tồn
kho nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành phẩm, bảng thu chi tiền mặt.
+ Từ tài liệu sách báo có liên quan
+ Phỏng vấn trực tiếp các vấn đề liên quan đến đề tài.
- Phương pháp so sánh
+ Xác định mức độ thay đổi biến động ở mức tuyệt đối, tương đối
cùng xu hướng các chỉ tiêu phân tích.
- Phương pháp mô tả
+ Dùng các biểu bảng, đồ thị để miêu tả chỉ tiêu cần thiết cho việc
phân tích.
Hoạt động kinh doanh của Nhà máy Gạch rất đa dạng và phong phú,
muốn đánh giá một cách chính xác đòi hỏi phải có một quá trình nghiên
cứu về mọi hoạt động của doanh nghiệp và số liệu được cung cấp phải
tương đối đầy đủ nên chuyên đề này chỉ đi vào phân tích :”Đánh giá thực
trạng quản trị vốn lưu động của Nhà Máy Gạch Ngói Long Xuyên trong
ba năm 2001, 2002, 2003”. Cụ thể là đánh giá thực trạng tiền mặt, khoản
phải thu và nguyên liệu đất tồn kho trong ba năm vừa qua 2001-2003. Từ
đó đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý vốn lưu động của Nhà Máy
trong thời gian tới.
Do thời gian và kinh nghiệm còn hạn chế, bài luận văn này chắc chắn
sẽ không tránh khỏi sai sót về nội dung lẫn hình thức. Tôi mong quý thầy
cô, cô chú, anh chị Nhà Máy chân tình góp ý để bài luận văn của tôi được
hoàn thiện.
- Dựa theo hình thái biểu hiện có thể chia ra: vốn vật tư hàng hóa và
vốn tiền tệ.
- Dựa theo nguồn hình thành có nguồn vốn chủ sở hữu và vốn đi vay.
- Mục đích đầu cơ: doanh nghiệp lợi dụng các cơ hội tạm thời như sự
sụt giá tức thời về nguyên vật liệu, chiết khấu…để gia tăng lợi nhuận cho
doanh nghiệp.
- Mục đích dự phòng: trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
tiền mặt có điểm luân chuyển không theo một quy luật nhât định nào. Do
vậy doanh nghiệp cần phải duy trì một vùng đệm an toàn để thỏa mãn các
nhu cầu tiền mặt bất ngờ.
về xác định nhu cầu tiền mặt tương lai, hoạch định để tài trợ cho các nhu
cầu tái sản xuất, thực hiện kiểm soát tiền mặt và khả năng thanh toán của
doanh nghiệp.
Trong đó: Tiền mặt bình quân = (TM đầu kỳ + TM cuối Kỳ)/2
Các khoản phải thu của mỗi doanh nghiệp được quản lý thông qua chính
sách tín dụng phù hợp đặc điểm ngành nghề, giai đoạn phát triển của họ
nhằm đạt doanh thu cao nhất và tối đa hóa lợi nhuận.
3.1.1Khái niệm: Chính sách tín dụng là một yếu tố quyết định quan
trọng liên quan đến mức độ, chất lượng và rủi ro của doanh thu bán hàng.
3.1.2.2.Đánh giá những thay đổi trong chính sách tín dụng
Xem xét ảnh hưởng của từng yếu tố trong số bốn biến số có thể kiểm
soát được của khoản phải thu đối với lợi nhuận của doanh nghiệp bằng
cách lần lượt phân tích từng chính sách và ảnh hưởng của chúng đến doanh
thu, chi phí và lợi nhuận ròng.
+ Ngược lại khi các tiêu chuẩn giảm thì doanh số bán sẽ tăng vì
thông thường nó sẽ thu hút nhiều khách hàng có tiềm lực tài chính yếu hơn.
- Ngoài ra, khi kỳ thu tiền bình quân tăng lên thì khả năng gặp những
món nợ khó đòi nhiều hơn hay khả năng thua lỗ tăng lên và chi phí thu tiền
cũng cao hơn.
- Hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng thì phát sinh chi phí: chi phí quản lý và
thu nợ tăng do trả lương nhân viên thu nợ, chi phí văn phòng phẩm (điện
thoại, chi phí công tác đòi nợ); chi phí chiết khấu tăng, nợ khó đòi tăng và
chi phí cơ hội của vốn tăng.
* Do đó về nguyên tắc khi quyết định thay đổi tiêu chuẩn tín dụng
phải dựa trên cơ sở phân tích chi phí và lợi nhuận trước và sau khi thay đổi
sao cho đem lại lợi nhuận cao hơn.
doanh số bán. Các chi phí thu tiền và nợ khó đòi giảm khi tỉ lệ chiết khấu
mới đưa ra có tác dụng tích cực.
3.2.1 Mục đích: Nhà quản trị tài chính theo dõi khoản này nhằm:
- Xác định đúng thực trạng của các khoản phải thu.
- Đánh giá tính hữu hiệu của các chính sách thu tiền.
Hầu hết các doanh nghiệp đều có hàng tồn kho bởi vì tất cả các công đoạn
mua, sản xuất và bán không diễn ra vào cùng một thời điểm. Mặt khác, cần
có hàng tồn kho để duy trì khả năng hoạt động thông suốt của dây chuyền
sản xuất và các hoạt động phân phối, ngăn chặn những bất trắc trong sản
xuất, vì vậy quản trị hàng tồn kho là một việc làm rất quan trọng.
Chi phí tồn trữ là những chi phí liên quan đến việc tồn trữ hàng hoá
hay những chi phí biến đổi tăng, giảm cùng với hàng tồn kho. Tức là những
chi phí tăng giảm phụ thuộc vào lượng hàng tồn kho nhiều hay ít.
4.2.1.2Phân loại
- Chi phí hoạt động bao gồm: chi phí bốc xếp hàng hoá, chi phí bảo
hiểm hàng tồn kho, chi phí hao hụt mất mát, mất giá trị do bị hư hỏng và
chi phí bảo quản hàng hoá.
- Chi phí tài chính bao gồm: chi phí sử dụng vốn, trả lãi vay cho
nguồn kinh phí vay mượn để mua hàng dự trữ, chi phí về thuế, khấu hao…
Từ lâu, An Giang đã có những nơi tập trung sản xuất gạch thủ công đã
cung cấp cho nhu cầu xây dựng tại Tỉnh nhà, gạch làm thủ công thì chất
lượng kém, đưa vào sử dụng công trình tốn kém nhiều vật liệu khác như: xi
măng, cát, công thợ, không phù hợp nhu cầu xây dựng trong tình hình mới
hiện nay, thời kỳ mà nước ta đang tiến lên con đường công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Ngày nay gạch ngói các loại không những để xây dựng mà còn để
trang trí các công trình kiến trúc với mẫu mã đa dạng và phong phú. Mà
gạch ngói là mặt hàng đã và đang có nhu cầu ngày càng lớn trên thị trường
nước ta và cả quốc tế, nhất là những quốc gia phát triển. Riêng ở Việt Nam,
nhu cầu ngày càng phát triển ở thành thị lẫn nông thôn theo chương trình
trọng điểm của UBND Tỉnh An Giang và cả nước đến năm 2000.
Để đảm bảo sức cạnh tranh và cung cấp đủ vật liệu xây dựng trong
tình hình mới hiện nay đòi hỏi chúng ta phải nhanh chóng tiếp thu những
tiến bộ khoa học kỹ thuật, chuyển đổi công nghệ từ thủ công sang máy móc
thiết bị hiện đại với chất lượng đảm bảo và giá thành phù hợp.
Xuất phát từ tình hình trên, Công Ty Sản Xuất & Kinh Doanh Vật
Liệu Xây Dựng Xây Lắp An Giang được Uỷ Ban Nhân Dân Tỉnh An
Giang cho phép được thực hiện dự án đầu tư Nhà Máy Gạch Ngói Long
Xuyên trực thuộc Công Ty Sản Xuất & Kinh Doanh Vật Liệu Xây Dựng
Xây Lắp An Giang theo quyết định số 549/QĐ.UB, ngày 06/09/1994 của
UBND Tỉnh An Giang. Với vốn đầu tư là 10 tỷ 843 triệu đồng có công suất
là 20 viên gạch ngói các loại/năm.
Trong quá trình thực hiện, Công ty đã xem xét so sánh về công nghệ
và dây chuyền sản xuất đã lực chọn thiết bị từ lò Tuynel Bulgaria sang lò
Tuynel Italia đã xây dựng dự án bổ sung để thay đổi thiết bị và vốn đầu tư
được UBND Tỉnh An Giang phê duyệt bằng Quyết định số 1029/QĐ.UB
ngày 08/12/1996. Tổng vốn đầu tư 19 tỷ 706 triệu đồng, trong đó vốn cố
định là 18 tỷ 934 triệu đồng. Đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất gạch bằng
lò nung Tuynel với công suất 25 triệu viên gạch ngói các loại/năm, tương
ứng 40 nghìn tấn sản phẩm. Tổng vốn đầu tư đến 31/12/1997 là 25 tỷ 200
triệu đồng, nguồn hình thành chia ra trong đó vốn vay:14 tỷ 500 triệu đồng
và vốn ngân sách:10 tỷ 500 triệu đồng.
2.1Chức năng
Nhà Máy Gạch Ngói Long Xuyên trực thuộc Công Ty Sản Xuất & Kinh
Doanh Vật Liệu Xây Dựng Xây Lắp An Giang là một doanh nghiệp Nhà
Nước, sản xuất kinh doanh các mặt hàng gạch ngói các loại với nguồn
nguyên liệu cao lanh phong phú.
2.2Nhiệm vụ
2.2.1Về sản xuất sản phẩm xuất khẩu
- Tổ chức mở rộng sản xuất không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh đáp ứng ngày càng nhiều hàng hóa cho xã hội, tổ chức xuất
khẩu các loại gạch ngói ra nước ngoài.
- Mở rộng liên kết với các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành
phần kinh tế, tăng cường hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật với nước ngoài
góp phần tích cực vào việc tổ chức cải tạo sản xuất.
Tổ Tổ Tổ Tổ Tổ Tổ Tổ
tạo phơi xếp xuống cơ đốt cơ
hình goòng goòng điện lò giới
Nguồn: Lấy từ phòng tổ chức hành chánh Nhà Máy Gạch Ngói Long Xuyên
Là người tham mưu cho Giám Đốc, điều hành công việc do Giám Đốc
phân công, đôn đốc và giám sát các hoạt động của các bộ phận, các khâu
sản xuất của Nhà Máy, tiến độ sản xuất sản phẩm, quy cách khai thác và
chế biến gạch ngói các loại. Thực hiện việc tham gia nhận hợp đồng mua
bán với bên ngoài công ty giao dịch dự đoán thanh quyết toán, nghiệm thu
coi đúng với hợp đồng kinh tế.
Với quy mô của Nhà Máy tương đối lớn trên cơ sở tổ chức bộ máy
quản lý ngày càng gọn nhẹ, năng suất lao động ngày càng cao, phân công
công tác đúng với nghiệp vụ chuyên môn, giúp người lao động hoàn thành
nhiệm vụ được giao một cách dễ dàng và đạt hiệu suất cao nhất. Nhà Máy
Gạch Ngói Long Xuyên sắp xếp tương đối hợp lý và từng bước hoàn thiện
bộ máy quản lý nhưng trình độ cán bộ nhân viên còn hạn chế, tốt nghiệp
đại hoạc chiếm tỷ trọng rất thấp.
Mục tiêu hoạt động của Nhà Máy Gạch Ngói Long Xuyên là chuyên
sản xuất cung cấp gạch ngói chất lượng cao không những đáp ứng nhu cầu
xây dựng mà còn đáp ứng nhu cầu về trang trí các công trình lớn ngày một
gia tăng. Để sản xuất gạch chất lượng cao với công suất 25 triệu viên/năm
Nhà Máy đã nhập dây chuyền công nghệ hiện đại với số vốn đầu tư do
ngân sách Nhà Nước cấp. Do biết vận dụng thành tựu khoa học của nhân
loại vào thực tiễn nên trong những năm gần đây sản phẩm của doanh
nghiệp được người tiêu dùng bình chọn hàng Việt Nam chất lượng cao.
Kết quả kinh doanh Nhà Máy sau 3 năm có chiều hướng tốt phản ánh
qua lợi nhuận trước thuế mỗi năm tăng lên thể hiện rõ tăng nhanh vào năm
2003. Nguyên nhân do doanh thu bán hàng gia tăng, thị trường tiêu thụ
được mở rộng trên hầu hết các Tỉnh tại khu vực Đồng Bằng Sông Cửu
Long kể cả Thành Phố Hồ Chí Minh.
- An Giang là tỉnh thuộc vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long với thế mạnh
về kinh tế nông nghiệp nên trong nhiều năm qua Tỉnh đã tập trung sức phát
huy thế mạnh này. Đặc biệt An Giang có nhiều vùng đất sét cao lanh tập
trung vào 3 Huyện: Châu Thành, Tịnh Biên và Tri Tôn; mỗi vùng có tính
chất khác nhau về sắc màu, tính chất cơ lý hóa đây là tiềm năng khoáng sản
ưu tiên cho Tỉnh nhà. Những đặc tính đất sét ở đây là nguồn nguyên liệu
tốt, cần thiết cho xây dựng và làm các sản phẩm dân dụng khác.
- Nhà Máy Gạch đặt tại một vị trí vô cùng thuận lợi về đường thủy và
sông Hậu lớn rộng, đường lộ nằm ngay trên quốc lộ 91 nằm liên Tỉnh, liên
Huyện phù hợp cho những sản phẩm của Nhà Máy tiêu thụ hầu như khắp
các Tỉnh của vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long và thị trường ngoài nước.
- Sản phẩm của Nhà Máy được sản xuất ra từ máy móc thiết bị với mẫu
mã và chất lượng cao cấp, giá thành hợp lý với thị trường.
- Được sự quan tâm của các ngành chức năng của Tỉnh, đặc biệt là Ủy
Ban Nhân Dân Tỉnh An Giang.
- Ban lãnh đạo và cán bộ nhân viên của Nhà Máy luôn cải tiến làm việc
để phù hợp với phát triển của Nhà Máy. Trong nội bộ Nhà Máy luôn có sự
đoàn kết và giúp đỡ cùng nhau vượt khó hoàn thành nhiệm vụ được giao.
- Sản xuất còn hao hụt cao đối với những gạch cao cấp và các loại gạch
mới do nhân viên chưa quen với các thiêt bị mới.
- Công nợ sản phẩm cho các đơn vị thi công công trình thu hồi chậm.
- Cạnh tranh gay gắt với các Nhà Máy gạch ngói tại các Tỉnh thành và
các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm thay thế như: tole giả ngói.
- Nhà Máy sẽ đầu tư công nghệ mới và vận hành trong năm 2004 với
công suất dự án sán xuất 10 triệu viên gạch ngói các loại/năm để mở rộng
kinh doanh đáp ứng kịp thời nhu cầu xây dựng ngày càng tăng, vốn lưu
động tăng nhằm đảm bảo quá trình sản xuất liên tục đạt kết quả tăng doanh
thu, tăng thị phần, tăng lợi nhuận.
- Xử lý tốt các công nợ, định giá tài sản và các bước khác chuẩn bị cho
quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp vào năm 2005.
Trong những năm qua, công việc quản lý vốn lưu động của Nhà Máy do
bộ phận kế toán tài vụ quản lý kết hợp cùng với nhân viên phòng kinh
doanh kế hoạch vật tư. Nhân viên đảm nhiệm công việc này rất thuận lợi do
bộ phận kinh doanh có trách nhiệm quản lý dự trữ vật liệu và công cụ lao
động, lập kế hoạch lưu chuyển hàng hoá, kế hoạch sản xuất, cân đối nhu
cầu tiêu thụ hàng hoá, quản lý vốn phù hợp chuyên môn của họ. Nhưng
việc quản lý còn bị hạn chế do quyền quyết định thuộc về Ban Giám Đốc
Nhà Máy và Ban Giám Đốc Công Ty.
Ngày nay Nhà Máy có thể đứng vững và phát triển trên thị trường
phần lớn là do các nhà điều hành doanh nghiệp có khả năng quản trị vốn tốt
đặc biệt là quản lý hiệu quả vốn lưu động. Bởi vì quản lý vốn lưu động
không tốt sẽ dễ dẫn đến doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản hoặc giải
thể vì nếu lượng tiền mặt dự trữ không đủ thanh toán cho các nhà cung cấp,
chủ nợ và không có tiền chi trả lương cho nhân viên hay chi trả chậm.
Nhà Máy Gạch Ngói Long Xuyên đã chứng minh được điều này qua
thành tích hoạt động năm sau luôn cao hơn năm trước nên thực hiện tốt
việc bảo tồn và phát triển vốn đồng thời Nhà Máy không ngừng tự bổ sung
nguồn vốn trang bị tài sản cố định trong hoạt động kinh doanh và đảm bảo
tình hình tài chính tương đối mạnh. Sự kết luận này được đúc kết từ kết quả
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau 3 năm
Để đánh giá thực trạng quản trị vốn lưu động khái quát hơn cần dựa vào
kết cấu vốn
CL2002-/2001 CL2003-2002
Chỉ tiêu / Năm Đvt 2001 2002 2003
+/- % +/- %
Vốn lưu động trđ 8.054 9.116 9.170 1.062 13,2 54 0,6
Vốn cố định trđ 13.375 11.172 10.528 -2.203 -16,5 -644 -5,8
Nợ phải trả trđ 11.039 9.538 8.081 -1.501 -13,6 -1.457 -15,3
Nguồn vốn (TTS) trđ 21.429 20.288 19.698 -1.141 -5,3 -590 -2,9
VLĐ/ Nguồn vốn % 37,6 44,9 46,6 7,3 19,6 1,6 3,6
VCĐ/ Nguồn Vốn % 62,4 55,1 53,4 -7,3 -11,8 -1,6 -2,9
Tỉ số nợ lần 0,5 0,5 0,4 0,0 -8,7 -0,1 -12,7
Nguồn: trích bảng cân đối kế toán
Qua bảng trên, nguồn vốn của doanh nghiệp sau 3 năm đã giảm từ
21,4 tỉ đồng xuống 19,7 tỉ do vốn cố định giảm. Ngược lại, vốn lưu động
lại liên tục tăng lên từ 8 tỉ năm 2001 lên 9,1 tỉ năm 2002 tăng một lượng
tương đối là 1,1 tỉ và sang năm 2003 tăng lên là 9,17 tỉ đồng. Điều này cho
thấy vốn lưu động chiếm tỉ trọng ngày càng cao trong nguồn vốn thể hiện
qua năm 2001 vốn lưu động chỉ chiếm 37,6% đến 2003 chiếm 46,6%, sự
tăng lên này rất tốt cho việc đảm bảo quá trình hoạt động.
Ta nhận thấy tỉ trọng vốn cố định cao hơn so với tỉ trọng vốn lưu
động, đây là một điều rất hợp lý đối với doanh nghiệp sản xuất như Nhà
Máy Gạch Ngói Long Xuyên. Vì đối với hoạt động sản xuất thì tỉ trọng vốn
nằm trong máy móc, thiết bị là chủ yếu. Nói chung chỉ tiêu cơ cấu vốn của
doanh nghiệp phản ánh sự phân bổ vốn phù hợp. Tốc độ gia tăng vốn cố
định thấp hơn tốc độ gia tăng của vốn lưu động cho thấy thị trường tiêu thụ
ngày càng tăng vì thế doanh nghiệp cần đầu tư thêm công nghệ mới để mở
rộng hoạt động kinh doanh.
Nhu cầu vốn lưu động tăng lên do doanh thu bán hàng tăng vì 2 chỉ
tiêu này có tương quan rất mật thiết và trực tiếp. Do vậy, Ban Giám Đốc
bắt buộc phải luôn luôn ý thức được diễn tiến các hoạt động liên quan đến
vốn lưu động của Nhà Máy. Đương nhiên sự gia tăng doanh thu kéo dài sẽ
đòi hỏi phải tăng tài sản cố định, mặc dù có tầm quan trọng thiết yếu cho
doanh nghiệp trong sách lược dài hạn, thông thường không khẩn cấp như
đầu tư vào tài sản lưu động.
Doanh thu có xu hướng tăng để đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách
hàng Nhà máy cần vay thêm vốn để tăng vốn lưu động và một số công cụ
mà các Ngân hàng thường sử dụng theo dõi tình hình biến động của vốn
lưu động, quá đó xác định hạn mức tín dụng cho khách hàng.
Dựa vào các chỉ tiêu này giúp ta rút ra nhận xét về hiệu quả sử dụng
vốn lưu động ngày thêm gia tăng và kết quả kinh doanh liên tục phát triển
hơn sau 3 năm. Đây cũng là một điểm thuận lợi cho Nhà Máy khi đi vay
vốn các cơ sở tín dụng để mở rộng hoạt động trong những năm tới nhưng
vòng quay vốn lưu động của doanh nghiệp còn rất chậm. Để đáp ứng kịp
thời nhu cầu vốn lưu động tăng, doanh nghiệp đi vay vốn Ngân hàng, hai
trong số các chỉ tiêu liên quan vốn lưu động Ngân hàng dựa vào để cấp hạn
mức tín dụng cho doanh nghiệp là tỉ số thanh toán hiện thời (tỉ số luân
chuyển tài sản lưu động). Giá trị của tỉ số này tăng nhanh sau 3 năm chứng
tỏ khả năng trả nợ của doanh nghiệp ngày càng tăng và tỉ số này lớn hơn 1
theo Ngân hàng kết quả này là tốt.
Mặt khác tỉ số này cũng chưa phản ánh đúng khả năng thanh toán của
doanh ngiệp vì còn phụ thuộc vào hàng tồn kho, nếu hàng tồn kho là những
hàng khó bán thì doanh nghiệp khó biến chúng thành tiền để trả nợ. Vì vậy
để đáp ứng đúng khả năng thanh toán của Nhà Máy, ta kết hợp sử dụng tỉ
số thanh toán nhanh.
Do tỉ số này được tính dựa trên các tài sản lưu động có thể chuyển đổi
nhanh thành tiền để đáp ứng những yêu cầu thanh toán cần thiết. Là tiêu
chuẩn đánh giá khắt khe hơn về khả năng thanh toán. Nó phản ánh nếu
không bán hết hàng tồn kho thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp sẽ ra
sao? Bởi vì hàng tồn kho không phải là nguồn tiền mặt tức thời đáp ứng
ngay cho việc thanh toán.
Giá trị của tỉ số này của Nhà máy năm 2003 là 1,36. Điều này pảnn
ánh mặc dù cứ 1VNĐ nợ ngắn hạn được đảm bảo bởi 1,36 VNĐ tài sản lưu
động nhưng tỉ số thanh toán nhanh chỉ ra rằng có quá nhiều tài sản lưu
động nằm dưới dạng hàng tồn kho (chiếm hơn 37%). Do đó doanh nghiệp
cần đánh giá lại lượng hàng tồn kho. Theo đánh giá của Ngân hàng tỉ số
thanh toán nhanh lớn hơn 0,5 được đánh giá là tốt, tỉ số này qua các năm
đều lớn hơn 0,5 phản ánh tình hình thanh toán nhanh của doanh nghiệp
tương đối khả quan và có thể đáp ứng yêu cầu thanh toán nhanh và mở
rộng hoạt động kinh doanh hơn nữa.
Sau khi đánh giá tổng quát về vốn, tôi tiếp tục đánh giá kết cấu của
vốn lưu động bao gồm tỉ trọng của các thành phần tiền mặt, khoản phải thu,
hàng tồn kho, tài sản lưu động khác
Thành phần khoản phải thu chiếm tỉ trọng hơn 50% vốn lưu động do
doanh nghiệp áp dụng chính sách bán hàng gối đầu nên vốn đầu tư nhiều
cho khách hàng. Vốn đầu tư vào hàng tồn kho cũng tương đối cao so với
các thành phần còn lại là nguyên nhân chủ yếu làm tính thanh khoản nợ
ngắn hạn chưa cao. Nhưng điều đáng quan tâm là lượng tiền mặt tồn cuối
năm rất thấp thậm chí bằng không tỉ trọng chiếm dưới 0,4%.
Để tìm ra nguyên nhân giải thích tiền mặt vào ngày khóa sổ tồn trữ rất
nhỏ và ảnh hưởng của nó đến quản trị vốn lưu động tôi hướng vào phân
tích thực trạng quản trị tiền mặt của Nhà Máy
Khởi điểm của việc kiểm soát đầu tư vào tài sản ngắn hạn là sự kiểm soát
một cách hữu hiệu tiền mặt hay những khoản tương đương tiền mặt. Tương
đương tiền mặt là các chứng khoán khả nhượng .
Tiền mặt của Nhà Máy thường được giữ dưới hình thức tiền mặt tồn tại
quỹ, tiền gửi ngân hàng trong tài khoản Tổng công ty và dạng ngân phiếu.
2.1Sự cần thiết quản trị tiền mặt đối với Nhà Máy
Như các doanh nhiệp sản xuất khác, Nhà Máy chuyên sản xuất cung
cấp gạch ngói chất lượng cao với nhiều mẫu mã với dây chuyền công nghệ
hiện đại nên để đảm bảo cho quá trình sản xuất diễn ra liên tục thì các Nhà
quản lý phải quản trị tiền mặt thật tốt cũng như việc lưu giữ tiền mặt là một
việc làm thiết yếu nhằm đáp ứng các mục đích sau:
- Làm thông suốt quá trình tạo ra các giao dịch kinh doanh hay hoạt
động kinh doanh như: tiền mua nguyên vật liệu chính cụ thể là đất; nhiên
liệu dầu dùng để vận hành máy, vận chuyển hàng, đốt gạch mộc; cát và các
hoá chất pha chế đất để đảm chất lượng đất trước khi đưa vào sản xuất;
men và nước sơn dùng để tráng các gạch cao cấp dùng trang trí công trình;
công cụ dụng cụ dùng cho sản xuất. Bên cạnh đó tiền sử dụng thanh toán
các chi phí cần thiết cho doanh nghiệp hoạt động bình thường như: trả
lương cho công nhân; hoàn thành tốt nghĩa vụ đối với Nhà Nước và nộp về
Tổng công ty.
- Ngoài ra, tiền dùng vào mục đích dự phòng khi xãy ra tình huống bất
lợi cho hoạt động của Nhà máy.
- Tiền không dùng vào mục đích đầu cơ do dự báo giá nhiên liệu cũng
như tình hình biến động giá các mặt hàng trên thị trường nhìn chung chưa
chính xác và công việc dự báo biến động thị trường còn rất hạn chế. Đây
chính là điểm yếu mà các Nhà điều hành cần khắc phục vì chính đầu cơ này
mang lại lợi nhuận hoạt động tài chính hay bất thường trong tương lai mà
các khoản thu nhập này hiện nay không phát sinh chỉ phát sinh chi phí trả
lãi vay, kết quả lợi nhuận tài chính thường mang giá trị âm.
tiếp thị giỏi kết quả gạch ngói được người tiêu dùng chấp nhận và bình
chọn hàng Việt Nam chất lượng cao liên tục ba năm liền 2002, 2003, 2004
và thị trường tiêu thụ mở rộng trên khắp các Tỉnh ở khu vực Đồng Bằng
Sông Cửu Long, TPHCM và xuất sang thị trường Campuchia.
Trong 3 năm qua doanh nghiệp chủ yếu sản xuất đáp ứng đơn đặt
hàng từ các Cửa hàng, các Nhà thầu xây dựng. Sau khi nhận lệnh đặt hàng
Nhà Máy sẽ đảm nhận luôn khâu giao tận nơi tiêu thụ, tại thời gian gạch
xuất kho được bốc xếp lên xe cũng là thời điểm kế toán viên xuất hóa đơn
bán hàng và tài xế là người có trách nhiệm gửi chúng đến các khách hàng.
Kết quả là khách hàng nhận được hàng và hóa đơn cùng một thời điểm.
Chính việc kết hợp hai công đoạn này đã rút ngắn thời gian từ khi xuất
hàng đến khi hoá đơn bán hàng đến với khách hàng góp phần tăng tốc độ
thu hồi tiền mặt.
Chính sự chấp nhận của người tiêu dùng đã tạo thuận lợi hơn cho Nhà
Máy trong thời gian gần đây gạch sản xuất vượt công suất dự án và công
suất máy được nâng lên do lắp đặt bổ sung một số thiết bị mới nhưng vẫn
không đủ đáp ứng nhu cầu. Xuất phát từ tình hình này Ban Giám Đốc đưa
ra chiến lược dài hạn đầu tư thêm dây chuyền thiết bị giai đoạn hai trong kế
hoạch năm 2003 và đưa vào vận hành năm 2004 với công suất 10 triệu viên
gạch ngói/năm để mở rộng kinh doanh.
Để có thể rút ngắn được thời gian chuyển hóa đơn đến khách hàng
doanh nghiệp đã không ngừng tìm ra các giải pháp nhằm tăng cường hoạt
động bán hàng và Nhà máy nhận được kết quả cao cụ thể: các năm trước
đây doanh nghiệp còn gặp không ít khó khăn trong việc tiêu thụ gạch
nguyên nhân thứ nhất do người tiêu dùng có thói quen sử dụng gạch sản
xuất thủ công với giá rẻ và nguyên nhân kế tiếp do nền kinh tế chưa phát
triển cao nên thu nhập bình quân đầu người thấp nên nhu cầu về thẩm mỹ
cũng như chất lượng chưa được quan tâm nhiều. Và điểm bất lợi khác là
gạch sản xuất theo tiêu chuẩn quốc tế với kích thướt và trọng lượng gạch
lớn hơn gạch dùng vào xây dựng trước đây như: gạch ống 9x19, 8x18 so
với gạch ống 7x17 được các Nhà thầu sử dụng xây dựng công trình và các
loại gạch trang trí chưa phù hợp thị hiếu người tiêu dùng.
Vì thế để khắc phục bất lợi này Nhà máy đã thay đổi chính sách cơ
cấu mặt hàng cho phù hợp thị hiếu người tiêu dùng, tiếp tục tăng cường các
hoạt động Marketing giúp người tiêu dùng dần dần làm quen với gạch chất
lượng cao. Tại những năm Nhà máy mới đi vào hoạt động thì thời gian từ
khi xuất hàng đến gửi hóa đơn cho khách hàng rất lâu vì sau khi gạch xuất
kho phải trải qua giai đoạn chào hàng cho các Nhà thầu xây dựng hay Xí
nghiệp xây dựng và các Cửa hàng kinh doanh vật liệu xây dựng. Số gạch
xuất kho chưa được người tiêu dùng chấp nhận thì phải dự trữ tại vỉa hè
trước các công trình xây dựng như khu chung cư Kiên Giang hậu quả
doanh nghiệp phải chịu thêm khoản chi phí nộp phạt do vi phạm lấn chiếm
lề đường. Số gạch này tác động đến khách hàng thông qua nhân viên bán
hàng,họ phải trực tiếp giới thiệu về các tính năng ưu thế của gạch đến với
khách hàng, khi khách hàng chấp nhận thì nhân viên bán hàng gọi điện báo
cho kế toán để kế toán xuất hóa đơn và gửi chúng cho khách hàng sớm.
mới. Số tiền khách hàng ứng trước được bù đắp vào khấu hao thiết bị và
mua khuôn mẫu mới để sản xuất các gạch mới theo yêu cầu của khách hàng
ghi trong hợp đồng.
Ngoài ra, thanh toán tiền trước còn áp dụng đối với những khách
hàng mới đặt hàng những lần đầu vì doanh nghiệp hầu như không thực hiện
công tác đánh giá đối với khách hàng mới vì nếu doanh nghiệp chỉ bắt đầu
bán hàng khi tìm hiểu kỹ về khách hàng thì mất một khoảng thời gian và
đánh mất cơ hội. Chính công việc này có thể làm giảm khách hàng vì họ sẽ
sang các doanh nghiệp khác đặt hàng, để hạn chế việc đánh mất khách hàng
doanh nghiệp vẫn giao hàng cho họ nhưng buộc họ phải thanh toán một
khoản tiền trên giá trị lô hàng.
2.2.1.3Chính sách thúc đẩy khách hàng thanh toán tiền sớm
Cùng với việc đẩy nhanh chuẩn bị và gởi hoá đơn cho khách hàng
các Nhà quản trị kết hợp với chính sách chiết khấu cho khách hàng kích
thích họ thanh toán tiền hàng trước thời hạn cụ thể trong thời gian quan hệ
kinh tế nếu khách hàng thanh toán tiền hàng trước hoặc đúng hạn thì trong
những lần mua hàng kế tiếp doanh nghiệp được ghi nợ thay vì phải thanh
toán tiền mặt ngay tại thời điểm gạch sản xuất không đủ cung cấp.
Ở đây các Nhà quản lý không áp dụng tỉ lệ chiết khấu thanh toán
nhanh cho khách hàng khi họ thanh toán tiền mặt hoặc trước thời hạn, điều
này chính là điểm yếu mà Giám đốc cần xem xét lại vì khi khách hàng
không cảm thấy có lợi cho chính họ trong những lần thanh toán sớm và họ
phản ứng ngược lại bằng cách kéo dài thời gian trả nợ thì vốn đầu tư vào
các khoản phải thu tăng dễ dẫn đến thiếu hụt vốn lưu động và doanh nghiệp
dễ rơi vào tình trạng xấu.
Nguyên nhân Nhà quản lý không sử dụng suất chiết khấu là do: mục
đích chính của việc sử dụng chiết khấu thanh toán là tăng doanh thu và lợi
nhuận hay nhằm thúc đẩy việc tiêu thụ gạch với tình hình hiện nay sản
lượng gạch sản xuất ra bao nhiêu thì được tiêu thụ bấy nhiêu với công suất
lên đến 36 triệu viên/năm vẫn không đáp ứng đủ cho khách hàng.
Nhân tố giúp cho việc luân chuyển tiền nhanh hơn là do doanh nghiệp
thành lập những văn phòng đại diện tại các Tỉnh thành chủ yếu nhằm phát
triển việc bán hàng và thực hiện tốt việc thu tiền. Các nhân viên tại đây có
trách nhiệm đi thu tiền theo lịch bán hàng và mỗi ngày gửi tiền hàng cho
nhân viên thu tiền chuyển về Nhà Máy và nộp trực tiếp cho thủ quỹ.
Thời gian chuyển tiền chậm nhất mất khoảng một ngày, nhân viên
nhận tiền về nộp thủ quỹ để chuyển vào quỹ tiền mặt tại doanh nghiệp.
Nhưng khác với các doanh nghiệp khác do đây là đơn vị thành viên hạch
toán trực thuộc Tổng công ty nên sau mỗi ngày nhận được tiền Nhà máy
giữ lại một phần tiền mặt để chi theo dự toán ngân sách tiền mặt và Nhà
Máy phải báo cáo lại cho công ty nếu thừa tiền thì cử nhân viên đem nộp
cho thủ quỹ Công ty, với lượng tiền thừa tại quỹ Nhà máy thì cử nhân viên
đem nộp cho thủ quỹ Công Ty và chúng sẽ được Công ty chuyển sang cho
các đơn vị thành viên khác hoặc gửi tại Ngân hàng để hưởng lãi suất. Vì
thế, tài khoản đầu tư ngắn hạn cũng như dài hạn của doanh nghiệp mỗi năm
đều bằng không. Nếu lượng tiền thu không đủ chi theo dự toán ngân sách
thì lập báo cáo gửi về Công ty đến nhận tiền tại thủ quỹ Công ty.
Bước tiến triển diễn ra rất nhanh vào năm 2003 đối với Nhà Máy nói
riêng hay Công ty nói chung thời gian luân chuyển tiền đều được giảm bớt
do Công ty áp dụng hình thức chuyển tiền thông qua hệ thống Ngân hàng.
Lợi ích của phương thức này là doanh nghiệp có thể fax báo cáo về Công ty
và chuyển tiền vào tài khoản Công ty mở tại ngân hàng hay rút tiền tại
Ngân hàng đáp ứng kịp thời các nhu cầu cấp thiết của Nhà máy khi được
Ban giám đốc Công ty phê duyệt. Việc chuyển tiền bằng hệ thống Ngân
hàng giúp doanh nghiệp tạo mối quan hệ tốt với ngân hàng thuận lợi cho
việc vay vốn để phát triển kinh doanh và Công ty thu được một khoản lợi
nhuận từ tiền gửi này.
Tóm lại, thời gian luân chuyển tiền đã đươc rút ngắn nhưng hiện nay
việc thanh toán qua hệ thống tài khoản Ngân hàng rất phổ biến giúp hạn
chế lượng tiền thừa tồn đọng tại các văn phòng đại diện của Nhà Máy. Do
vậy các Nhà quản lý nên cân nhắc đến ích lợi của nó và nên làm quen với
việc thanh toán qua ngân hàng trong những năm tới.
Nhìn chung, trong ba năm qua Nhà điều hành đã quản lý tốt tiền mặt
thông qua các chính sách đẩy nhanh việc thu hồi tiền về cho Công ty nhưng
còn những điểm hạn chế cần đưa ra các biện pháp khắc phục để quản lý tốt
hơn. Bên cạnh tăng tốc độ thu hồi tiền mặt doanh nghiệp cần có những
chính sách tối ưu để giảm lượng tiền chi ra và tôi đi vào phân tích thực
trạng tốc độ chi tiền mặt qua ba năm tại Nhà Máy.
Thông thường Nhà Máy thanh toán tiền cho nhà cung cấp khi đặt hàng
vào lần kế tiếp theo phương thức gối đầu, nếu đến hạn doanh nghiệp không
thanh toán dễ dẫn đến hạn mức tín dụng được cấp giảm xuống phát sinh
thêm chi phí vận chuyển và số lượng hàng cung cấp giảm xuống do thanh
toán trễ hạn và có thể bị phạt tiền với mức cao hơn lãi suất ngân hàng như
thanh toán tiền dầu cho cửa hàng xăng dầu.
Thời gian chi trả lương cho công nhân chỉ có thể kéo dài không quá
2,3 ngày do doanh nghiệp chi trả lương theo tổ, tổ trưởng đại diện nhận
lương sau đó phát lại cho từng người trong tổ. Vì vậy thủ quỹ không thể
kéo dài lâu hơn sẽ xãy ra tình trạng nhân viên bãi công ảnh hưởng rất nhiều
đến hoạt động sản xuất. Do nhân viên không quen với việc nhận lương qua
hệ thống ngân hàng hay sử dụng thẻ tín dụng nên biện pháp này rất khó
thực hiện vì cần một khoản thời gian tương đối dài để cho nhân viên tiếp
xúc với việc thanh toán qua Ngân hàng nếu họ chấp nhận.
cho dự toán. Dự toán này giúp Nhà quản trị thấy được sự biến động của số
dư về tiền bằng cách tổng kết các khoản thu chi đã xãy ra trong kỳ kế toán,
xử lý các chi phí đã qua, đồng thời thể hiện tính thanh khoản của Nhà máy
trong việc ảnh hưởng đến số lượng và yếu tố thời gian của luồng tiền nhằm
giúp cho Nhà quản lý thích nghi với các điều kiện và cơ hội luôn thay đổi.
Và dự toán tiền mặt được lập trình tự theo các bước sau
+ Bên ngoài
. Dự báo nền kinh tế và xu hướng phát triển của ngành (còn nhiều hạn
chế do không có bộ phận riêng thực hiện trách nhiệm này).
. Ước tính thị phần cho những sản phẩm mới.
. Gộp nhóm sản phẩm thành doanh thu Nhà máy.
Sau khi thực hiện trình tự trên, bộ phận kế toán tổng hợp thành bảng
dự toán tiền mặt có dạng:
Qua đó, giúp cho doanh nghiệp hạn chế mọi thiếu sót của việc lập kế
hoạch, các mối quan hệ hoặc các số dư dùng cho mục tiêu dâu dài của Nhà
máy sẽ nhanh chóng được xác định.
Mặt khác giúp liên kết chính xác chi trả lãi với hoạt động của Nhà
máy, lập kế hoạch tài trợ sản phẩm mới mua sắm máy móc thiết bị, tìm ra
phương hướng giải quyết tình trạng thiếu tiền mặt và do đó sẽ có phương
hướng hoạt động trong tín dụng rất lớn cho Nhà Máy trong việc lập kế
hoạch về dự toán tiền mặt, khi lập dự toán tiền mặt chính là nhằm mục đích
dự báo các khoản thu chi tiền mặt cho kỳ kế toán trong tương lai, xem xét
Nhà máy thực sự có căng thẳng về tiền, có ảnh hưởng xấu cơ cấu tài chính.
Từ đó giúp cho nhà quản lý thích hợp cho việc lập được kế hoạch đi
vay hoặc giữ một lượng tiền, tránh tình trạng khan hiếm tiền mặt hoặc dư
thừa tiền mặt. Mặt khác, khi lập dự toán tiền mặt sẽ giúp cho doanh nghiệp
nắm bắt tốt hơn tính chất thời vụ các hoạt động của doanh nghiệp, giúp
hiểu rõ hơn mối quan hệ của doanh nghiệp với bên ngoài và đối tác chính
của doanh nghiệp qua sự nghiên cứu này cho phép đánh giá được khả năng
phản ứng của doanh nghiệp trong trường hợp khách hàng thanh toán chậm
hay trước, một yêu cầu rút ngắn thời hạn thanh toán cho nhà cung cấp. Nhờ
thực hiện dự toán thường lệ nên mặc dù lượng tiền dự trữ tại quỹ rất ít
nhưng vẫn đảm bảo uy tín trong thanh toán.
2.3Một số công cụ để đánh giá hiệu quả quản trị tiền mặt
Sau khi áp dụng các biện pháp tăng tốc độ thu tiền mặt đồng thời giảm
tốc độ chi tiêu tiền mặt trong những năm qua đã mang lại cho Nhà Máy kết
quả sau:
Các chỉ số trên cho thấy hiệu quả sử dụng tiền rất tốt điển hình tốc độ
vòng quay tiền mặt tăng rất nhanh qua ba năm, 01 vòng quay chỉ mất
khoảng 1 ngày; đặc biệt tại năm 2003 tiền mặt tồn cuối kỳ bằng không do
Công Ty sử dụng hệ thống Ngân hàng chuyển tiền trong hệ thống nội bộ
nên khoản tiền thừa tại doanh nghiệp được gửi về quỹ tiền Công Ty. Kết
quả này do Nhà Máy là đơn vị thành viên trực thuộc Công Ty Xây Lắp An
Giang và hạch toán phụ thuộc, nên tiền thừa Nhà Máy thu được chuyển vào
tài khoản tiền của Công ty qua hệ thống Ngân hàng sau khi trừ khoản tiền
giữ lại để thanh toán tiền hàng, tiền lương và các khoản phải trả khác theo
dự tón ngân sách..
Tóm lại, các biện pháp Nhà Máy sử dụng để quản lý tiền mặt rất phù
hợp với tình hình thực tế nên kết quả quản trị tiền mặt có chiều hướng lạc
quan hơn. Nhưng Nhà máy không nên quá lạc quan vì thời gian tới doanh
nghiệp tiến hành cổ phần hóa tách khỏi Công ty xây lắp An Giang, bộ phận
kinh doanh phải tính những khoản đầu tư thu được lợi nhuận cao nhất hay
nguồn tài trợ với chi phí sử dụng vốn tối thiểu.
Nhà máy sử dụng chính sách tín dụng để quản lý các khoản phải thu nhằm
đạt doanh thu cao nhất và tối đa hóa lợi nhuận. Vì thế, để đánh thực trạng
quản trị các khoản phải thu tôi phân tích hiệu quả từ việc áp dụng chính
sách tín dụng của doanh nghiệp trong 3 năm qua.
Để đáp ứng nhu cầu ngày một gia tăng của khách hàng Ban quản trị
thực thi chiến lược mở rộng kinh doanh thông qua nhập dây chuyền công
nghệ mới giai đoạn 2 vào vận hành năm 2004 với công suất dự án 10 triệu
viên/năm. Và nhu cầu cấp thiết cần được đáp ứng là tăng vốn lưu động do
tăng việc đầu tư vào các khoản phải thu, tăng dự trữ tồn kho, tăng tiền mặt
thực hiện tốt việc thanh toán trong quá trình mua bán với nhau. Đồng nghĩa
với tăng vốn vào khoản phải thu là nợ quá hạn cũng tăng, nợ khó đòi tăng
cũng như chi phí thu hồi nợ tăng vì vậy Nhà Máy cần có chính sách tín
dụng linh hoạt và đánh giá tiêu chuẩn khách hàng tương đối chính xác.
Nguyên nhân nợ quá hạn, nợ khó đòi phát sinh và tăng liên tục 3 năm
do doanh nghiệp thực hiện chưa tốt việc đánh giá tình hình hoạt động của
khách hàng. Nguyên nhân khách quan: các doanh nghiệp hiện nay chưa
công khai các số liệu báo cáo về tình hình tài chính của họ trên thị trường
và nguyên nhân chủ quan nếu thực hiện đúng theo quy tắc thì dễ dẫn đến
kết quả khách hàng mới không đặt hàng của doanh nghiệp mà sang mua
hàng của doanh nghiệp cùng ngành nên doanh thu giảm kéo theo giảm lợi
nhuận trái lại phát sinh thêm chi phí bán hàng.
Muốn quản lý tốt các khoản nợ này, Nhà Máy đã thực hiện phân tích
khách hàng thường xuyên. Nhân viên thực hiện thu thập thông tin và có
những nhận xét sơ bộ về khách hàng do nhân viên bán hàng đảm nhận, bởi
họ rất dễ tiếp xúc với các Cửa hàng qua những chuyến giao hàng hay
những lần thu tiền hàng. Qua những lần giao thương nhân viên Nhà máy có
trách nhiệm tìm hiểu khái quát về hoạt động kinh doanh, quy mô Cửa hàng,
các đối tác hay tìm hiểu họ thông qua nhận định của các đối thủ cạnh tranh.
thanh toán theo quy định thì doanh nghiệp tiếp tục giao gạch và cấp hạn
mức tín dụng giá trị thấp, dần dần uy tín khách hàng tỉ lệ với hạn mức tín
dụng doanh nghiệp cấp và quá trình mua bán diễn ra theo quy định trong
hợp đồng kinh tế giữa Nhà Máy với tư cách pháp nhân và khách hàng với
tư cách thể nhân hoặc pháp nhân. Nhìn chung, nhân viên đánh giá vị thế
khách hàng theo nguyên tắc:
- Năng lực trả nợ: dựa vào những lần thanh toán tiền hàng nhanh, đúng
hạn thì uy tín khách hàng được đánh giá cao và ngược lại, thanh toán quá
hạn uy tín của họ ngày một giảm sút.
- Vốn: nhân viên bán hàng có thể đánh giá qua tài sản vật chất của cửa
hàng. Đôi khi việc đánh giá này không chính xác do tài sản này có thể được
đầu tư bằng các khoản vay.
- Điều kiện: khi giá bán hay giá thành các mặt hàng vật liệu xây dựng
tăng làm giảm doanh thu cũng như lợi nhuận thì khả năng trả nợ có bị giảm
không?
Dựa trên tất cả thông tin từ các nguồn khác nhau và các nguyên tắc
phân tích vị thế khách hàng nhân viên kế toán quản lý thu nợ tiến hành tổng
kết phân tích và đánh giá lại khách hàng qua hàng tháng. Do việc thực hiện
đánh giá mang tính chất thường xuyên rất thuận tiện cho quản lý các khoản
nợ, theo dõi phát hiện ra nợ quá hạn để có chính sách thu tiền hiệu quả và
công việc này được lặp lại kiểm tra khách hàng vào cuối năm khi tổng kết
lại các khoản nợ khó đòi. Vào mỗi tháng nếu khách hàng không thực hiện
đúng theo quy định về thời hạn thanh toán, số tiền phải thanh toán hết thì
Nhà Máy cắt giảm số lượng gạch trên một lần đặft hàng và nếu kéo dài liên
tục thì ngưng việc giao hàng.
Mặc dù chính sách này tương đối gắt gao có thể doanh nghiệp đánh
mất một số khách hàng hiện tại nhưng nếu doanh nghiệp tiếp tục trao đổi
với khách hàng này thì lợi nhuận thu được không đủ bù đắp cho chi phí tài
chính do đầu tư vốn vào nợ quá hạn hay nợ khó đòi, chi phí thu nợ và chi
phí cơ hội do từ chối khách hàng tương lai. Nhưng để đánh giá trung thực
hơn về các khoản phải thu tôi phân tích kết quả từ việc áp dụng chính sách
tín dụng qua 3 năm.
Trong năm 2001, 2002, 2003 Nhà Máy tiến hành chiến lược thay đổi
cơ cấu mặt hàng cung ứng các loại gạch cao cấp mẫu mã đẹp đáp ứng nhu
cầu về thẫm mỹ, vì thế cần thúc đẩy doanh thu tăng hay sản lượng tiêu thụ
tăng. Để đạt được kết quả này, Nhà Máy phải đẩy nhanh hoạt động giới
thiệu các loại gạch mới. Biện pháp tăng doanh thu là áp dụng tiêu chuấn tín
dụng đối với khách hàng mua hàng trả chậm, khác với doanh nghiệp khác,
Nhà máy không đưa ra tiêu chuẩn tín dụng, vì thế khách hàng không ngừng
gia tăng cùng với số lượng lớn đều có mặt khắp các Tỉnh trong khu vực
Đồng Bằng Sông Cửu Long và xuất sang Campuchia. Do chính sách thông
thoáng này doanh thu không ngừng tăng và nhân tố khác tăng là vốn đầu tư
cho các khoản phải thu, mở rộng hơn là tăng nhu cầu vốn lưu động; do Nhà
Máy thuộc loại hình doanh nghiệp Nhà Nước thì việc tìm nguồn tài trợ từ
các Ngân hàng không phải khó. Vậy Nhà máy đã không đưa ra tiêu chuẩn
tín dụng đối với đa số khách hàng nên nó đã thu hút thêm nhiều khách hàng
mới và duy trì quan hệ tốt với những khách hàng cũ và trong 3 năm qua họ
đã đạt được mục tiêu doanh thu tăng kéo theo lợi nhuận tăng điều này rất
hợp lý. Tiếp theo tôi sẽ phân tích thời hạn bán chịu để tìm ra nguyên nhân
làm giảm hiệu quả quản trị phải thu.
Thời hạn bán chịu của Nhà Máy chính là độ dài từ ngày xuất hoá đơn
giao hàng đến ngày nhận tiền bán hàng. Do xuất phát từ thói quen bán hàng
trả gối đầu của khách hàng đối với các doanh nghiệp khác cùng ngành sản
xuất. Vì thế, Nhà Máy cũng áp dụng hình thức này cạnh tranh với đối thủ
nhằm thu hút nhiều khách hàng về với mình do doanh nghiệp có thể dễ
dàng tìm kiếm nguồn tài trợ từ Ngân hàng.
Vào năm 2001 Nhà Máy đã giới thiệu những mặt hàng gạch cao cấp
trên thị trường với giá thành tương đối cao các loại gạch đã sản xuất tại thời
gian trước và lợi nhuận do nó mang lại nhiều hơn so với gạch thông
thường. Để có thể được người tiêu dùng chấp nhận chúng, Nhà Máy cần
tiếp tục tăng cường chiến lược Marketing nên biện pháp bán hàng trả chậm
rất cần thiết nhằm tăng sản lượng tiêu thụ, tăng thị phần đồng nghĩa với
tăng doanh thu và lợi nhuận thu về nhiều hơn nên tại thời gian này Nhà
Máy chưa có những quy định cụ thể về thời gian thanh toán tiền hàng diễn
ra trong bao nhiêu ngày. Phương thức thanh toán tiền hàng doanh nghiệp sử
dụng là khách hàng phải trả đủ và trước những lần đặt hàng kế tiếp. Nhưng
thời gian từ giao hàng đến nhận tiền hàng tương đối ngắn trung bình mất
khoảng 2 tuần. Kết quả được thể hiện rõ qua bảng sau:
Nợ quá hạn tăng không đáng kể năm 2000 là 112 triệu đồng sang năm
2001 là 132 triệu đồng, năm 2002 không phát sinh tăng nợ quá hạn. Ngược
lại khoản phải thu của khách hàng biến động theo hai chiều: tăng lên từ
4.742 triệu đồng năm 2001 chiếm 59% tài sản lưu động sang năm 2002 lại
giảm xuống còn 4.642 triệu đồng tương đương 49,6% vốn lưu động. Chính
sách bán chịu Nhà Máy thông thường áp dụng đối với các khách hàng
truyền thống chủ yếu là các Cửa hàng kinh doanh vật liệu xây dựng và các
Xí nghiệp xây dựng công trình đấu thầu. Nguyên nhân khoản phải thu năm
2002 giảm do doanh nghiệp áp dụng chính sách thu tiền hiệu quả.
Nhằm tăng tính cạnh tranh cùng các đối thủ, sử dụng vốn hiệu quả
hơn, doanh thu ngày một tăng cao và đạt mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận
cũng chính là thu hút thật nhiều khách hàng nên năm 2003 Ban quản trị
quyết định tăng thời hạn bán chịu từ 02 tuần lên 21 ngày hay 03 tuần từ
ngày xuất hóa đơn bán hàng gửi đến khách hàng sau thời gian này Cửa
hàng phải thanh toán hết tiền hàng còn nợ đúng thời hạn đồng nghĩa với uy
tín họ được đánh giá cao và hạn mức tín dụng cấp có giá trị cao hơn.
Quyết định tăng thời gian bán chịu lên 21 ngày ảnh hưởng trực tiếp
đến các nhân tố sau: doanh thu tăng từ 14,7 tỉ đồng lên gần 17 tỉ đồng, lợi
nhuận cũng tăng từ 1,4 tỉ đồng lên 1,65 tỉ đồng và các chỉ tiêu tương tự
cũng thay đổi như: nợ quá hạn tăng từ 132 triệu đồng lên 417 triệu đồng
tăng tương ứng 285 triệu đồng, trích quỹ dự phòng nợ khó đòi tăng lên từ
115 triệu đồng lên đến 253 triệu đồng, chi phí thu tiền tăng. Các chỉ tiêu
này được chứng minh qua số liệu trước và sau khi áp dụng chính sách tăng
thời hạn bán chịu năm 2002, 2003
Một biến số trong bốn biến số của chính sách tín dụng ảnh hưởng rất
lớn đến khoản phải thu, nợ quá hạn và chi phí thu nợ đặc biệt là doanh thu
chúng ta cần phân tích là chính sách chiết khấu
Ngược lại, nếu doanh nghiệp áp dụng chính sách chiết khấu đối với
khách hàng thanh toán tiền trước thời hạn, khi thấy được lợi ích này nhiều
khách hàng khác chuyển sang đặt hàng Nhà Máy làm cho sản lượng tiêu
thụ tăng. Muốn đáp ứng số lượng đặt hàng Nhà Máy phải tăng công suất
hoạt động, nhưng doanh nghiệp đã hoạt động vượt công suất dự án số
lượng gạch sản xuất không tăng thêm dễ dẫn đến tình trạng không giao đủ
cho khách hàng phát sinh chi phí khác do vi phạm hợp đồng mua bán.
Bên cạnh đó, chiết khấu ảnh hưởng lợi nhuận/1viên gạch giảm so với
trước do giảm giá bán nên khách sẽ đặt hàng với số lượng nhiều hơn cùng
khoản tiền mua hàng nhưng bù đắp bằng khoản phải thu giảm, nợ quá hạn
giảm, chi phí thu nợ giảm. Suất chiết khấu bằng không cũng là một trong
những lý do giải thích khoản phải thu, nợ quá hạn tăng lên. Các nhà quản
trị nên sử dụng chính sách chiết khấu trong thời gian tới để tăng tính cạnh
tranh với các đối thủ khi họ sử dụng suất chiết khấu làm công cụ kích thích
khách hàng rất hiệu quả.
Chính sách này rất cần thiết vào năm 2004 là thời gian Nhà Máy cho
vận hành dây chuyền công nghệ giai đoạn 2 hoạt động với công suất 10
triệu viên gạch ngói các loại/năm. Áp dụng tỉ suất chiết khấu là biện pháp
hữu hiệu giảm khoản phải thu, nợ quá hạn và nợ khó đòi. Đây chính là điều
mà Ban Giám Đốc cần có những quyết định linh hoạt phù hợp với giai
đoạn phát triển của doanh nghiệp.
Một yếu tố khác có tác dụng giảm nợ quá hạn, nợ khó đòi là chính
sách thu tiền. Và sau đây là thực trạng quản lý chính sách thu tiền trong
những năm qua
Chính sách thu tiền của Nhà Máy khác một số doanh nghiệp khác là
nó được áp dụng với khoản phải thu trong đó có nợ quá hạn. Quyết định
này xuất phát từ phương thức bán hàng thực tế của doanh nghiệp là giao
hàng tận nơi tiêu thụ và chi phí vận chuyển tính vào giá bán hàng hóa. Các
nhà quản trị đã nắm bắt cơ hội từ cách thức giao hàng để thu tiền cụ thể:
mỗi ngày có nhiều chuyến giao hàng tại các Tỉnh cho các đại lý, doanh
nghiệp cử nhân viên thu tiền đi theo xe chở hàng và thu tiền các khách
hàng theo lịch trình do nhân viên kế toán theo dõi nợ cung cấp. Đồng thời
các nhân viên này ngoài việc thu tiền còn phải nhắc nhở khách hàng thường
xuyên để thúc đẩy họ trả tiền sớm và đúng hạn nhằm hạn chế nợ quá hạn
gia tăng giúp giảm chi phí thu nợ.
Mạng lưới cung cấp sản phẩm rộng khắp khu vực phần nào thuận tiện
cho việc thu tiền vì Nhà Máy đều đặt văn phòng đại diện tại các Tỉnh trong
khu vực chính nhân viên tại các văn phòng vừa thực hiện công đoạn bán
hàng vừa thu tiền hàng tại các Tỉnh này kết hợp với nhân viên thu tiền do
doanh nghiệp cử đến. Sau mỗi ngày nhân viên Nhà Máy đến các văn phòng
nhận tiền về nộp cho thủ quỹ doanh nghiệp trong ngày giúp tăng vòng quay
tiền mặt.
Mặc dù doanh nghiệp đã tăng cường cho nhân viên đến nhắc nhở và
thu tiền hàng cách 3,4 ngày có thể kéo dài khoảng 1 tuần nhưng vẫn không
tránh khỏi các khoản nợ tồn đọng chuyển sang nợ quá hạn. Nguyên nhân
khách hàng cố tình trả nợ quá thời hạn vì họ có thể chiếm dụng vốn của
doanh nghiệp mà không phải trả số tiền phạt với mức phạt tỉ lệ số tiền phải
trả quá hạn. Vì vậy, Nhà Máy cần áp dụng nhiều biện pháp cứng rắn hơn
đối với nợ quá hạn.
Nhưng để có biện pháp quản lý hiệu quả ta cần tìm hiểu về khái niệm
nợ quá hạn của doanh nghiệp. Những khoản điều kiện chuyển các khoản
phải thu sang nợ quá hạn tại năm 2003 là: những khoản thu quá 21 ngày (3
tuần) kể từ ngày xuất hóa đơn gởi đến cho khách hàng và vượt quá hạn
mức tín dụng là 10-15 triệu đồng đối với cửa hàng có quy mô nhỏ, 50-100
triệu đồng dành cho các khách hàng truyền thống với kênh phân phối rộng
và các nhà thầu công trình lớn căn cứ theo hợp đồng đấu thầu, điển hình
các cửa hàng tại Tỉnh sóc Trăng và các Xí nghiệp xây dựng.
Đối với nợ quá hạn Nhà Máy thu tiền thực hiện theo từng giai đoạn
theo mức độ tăng dần về biện pháp gắt gao và chi phí thu nợ. Biện pháp
đầu tiên là gọi điện nhắc nhở, fax, gửi thư. Nếu khách hàng chấp nhận
thanh toán khoản nợ thì doanh nghiệp có thể cử người đến nhận. Ngược lại,
doanh nghiệp cho nhân viên thu nợ đến gặp trực tiếp khách hàng đòi nợ và
nhận tiền. Nếu sau 1 năm Nhà Máy vẫn chưa nhận được tiền hàng thì tiến
hành các thủ tục pháp lý nhờ các cơ quan chức năng có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại vì khách hàng vi phạm hợp đồng kinh tế về điều khoản thời
hạn thanh toán, lúc này nợ quá hạn chuyển sang hạch toán nợ khó đòi.
Theo Nhà Máy nợ khó đòi được định nghĩa là các khoản nợ quá hạn 1 năm,
chủ cửa hàng bỏ trốn hay bị truy cứu pháp luật, mất tích hoặc qua đời.
Nhờ vào chính sách thu tiền này mà năm 2001 sang 2002 nợ quá hạn
không phát sinh tăng, nợ quá hạn năm 2003 tăng lên tỉ lệ với sự tăng lên
của doanh thu vì suất chiết khấu không đổi. Do đa số các Cửa hàng là
doanh nghiệp tư nhân để có thể tìm nguồn tài trợ với chi phí thấp rất khó,
điều khó khăn này thường ảnh hưởng rất lớn đến thời hạn trả tiền của
khách hàng. Tuy không sử dụng suất chiết khấu nhưng doanh nghiệp sẽ cắt
giảm hạn mức tín dụng hay số hàng cung cấp cho khách hàng thường trả nợ
trễ hạn.
Chi phí thu nợ của Nhà máy chỉ bao gồm tiền công tác phí không có
khoản chi phí hoa hồng. Chi phí này được hạch toán trong tài khoản chi phí
bán hàng và được thể hiện trong bảng dưới đây:
Năm 2002 Nhà Máy quyết định đẩy mạnh công tác thu hồi nợ nên nợ
quá hạn năm này không tăng thêm với chi phí thu nợ là 209 triệu đồng tăng
121 triệu đồng so với chi phí thu nợ năm 2001 nhưng vẫn không thu được
số tiền nợ quá hạn. Tại năm 2003 Nhà máy thực thi hạ thấp tiêu chuẩn tín
dụng kết quả nợ quá hạn tăng lên 417 triệu đồng nhưng chi phí thu nợ là 47
triệu đồng vì nhân viên thu nợ của doanh nghiệp ngoài trách nhiệm thu nợ
họ còn có những công việc khác như bán hàng, kế toán nên ảnh hưởng rất
nhiều đến thời gian cũng như hiệu quả thu tiền. Muốn đánh giá hiệu quả chi
phí thu nợ ta cần kết hợp với tỉ số thực thu chi/chi phí thu nợ trong năm dựa
vào số liệu trên.
Tỉ số này có ý nghĩa 1 đồng chi phí bỏ ra thu về bao nhiêu đồng thực
thu bán hàng. Cụ thể năm 2002 chi phí thu nợ tăng cao nhưng hiệu quả thu
về rất thấp chỉ nhận được 65đ doanh thu bán chịu. Để phát huy hiệu quả
chính sách thu tiền Ban quản trị đã cắt giảm bớt chi phí thu nợ tại năm
2003 doanh nghiệp chỉ bỏ ra 1đ có thể nhận 328đ doanh số bán chịu.
Nhưng các số này chỉ phản ánh đúng một phần hiệu quả của chi phí thu nợ
vì nó còn phụ thuộc rất nhiều vào các nhân tố trên như: năm 2003 nếu
khách hàng thanh toán tiền nhanh sẽ được ghi nợ thay vì trả tiền mặt tại
thời điểm gạch bán đắt.
Nhờ tính hữu hiệu ngày càng gia tăng trong chính sách tín dụng nên
kỳ thu tiền bình quân có xu hướng giảm từ 128 ngày năm 2001 chỉ còn 98
ngày năm 2003 hay vòng quay khoản phải thu quay chỉ được gần 3 vòng
sang năm 2003 nó quay với tốc độ nhanh hơn gần 4 vòng. Điều này cho
thấy khả năng thu nợ của Nhà Máy ngày càng tốt hơn nhưng vẫn còn chậm
do nợ quá hạn còn chiếm tỉ lệ tương đối lớn trong khoản phải thu.
Mặc dù thời hạn bán chịu hiện nay là 21 ngày nhưng kỳ thu tiền bình
quân lại rất cao chứng tỏ có rất nhiều đại lý để nợ quá hạn, không trả tiền
đúng thời hạn quy định. Kỳ thu tiền ngày được rút ngắn mặc dù doanh
nghiệp đã tăng thời hạn bán chịu, đây là dấu hiệu tốt nên Ban Giám Đốc có
thể dựa vào đây đưa ra những chính sách hiệu quả hơn trong thời gian tới
để tăng tốc độ vòng quay khoản phải thu nhằm tối đa hóa lợi nhuận.
Kết quả thực hiện công đoạn này giúp doanh nghiệp nhắc nhở khách
hàng trả tiền trước thời hạn, theo dõi các khoản phải thu sắp tới hạn có
chính sách thu tiền thích ứng, dựa vào danh sách này bộ phận kinh doanh
đánh giá uy tín khách hàng để ra quyết định cấp hạn mức tín dụng phù hợp.
Ngoài ra, các Nhà quản trị sử dụng chúng làm cơ sở cho việc ước tính
doanh thu được thanh toán nhanh chiếm tỉ lệ bao nhiêu trong tổng doanh
thu bán chịu.
Giả sử kế toán cung cấp số liệu về số tiền khách hàng thanh toán tiền
mặt là 10%, khách hàng trả tiền hàng trong vòng 10 ngày chiếm 20%
doanh thu bán chịu, thanh toán mất 20 ngày chiếm 30% doanh thu và
doanh nghiệp đang hoạt động dưới công suất. Muốn tăng doanh số bán,
tăng lợi nhuận và giảm chi phí thu nợ, nợ quá hạn và nợ khó đòi Nhà quản
trị tài chính quyết định tăng tỉ lệ chiết khấu từ 0% lên 2/10 net 30 ( nghĩa là
những khách hàng thanh toán tiền hàng từ ngày nhận được hóa đơn đến
ngày họ thanh toán tiền cho doanh ngiệp trong vòng 10 ngày kết quả họ
được hưởng 2%*Giá trị hàng đã đặt mua; và thời gian tối đa họ phải thanh
toán hết tiền hàng là 30 ngày kể từ ngày nhận được hóa đơn. Để có thể dự
đoán được khoản tiền chiết khấu cho khách hàng khi áp dụng chính sách
tăng tỉ suất chiết khấu Nhà quản trị dựa vào mô hình phân tích tuổi khoản
phải thu của khách hàng họ có thể tính được khoản tiền chiết khấu cho
khách hàng cụ thể theo ví dụ này khoản chiết khấu làm giảm doanh thu là
2%(10%+20%)*Doanh thu bán chịu.
Công cụ được kế toán sử dụng kết hợp với phân tích tuổi là mô hình
số dư trên tài khoản nợ 131. Mô hình này rất thích hợp với phương thức
bán hàng gối đầu. Mô hình này theo dõi số tiền chưa thanh toán của từng
khách hàng dựa vào tài khoản 131 để thiết lập mô hình. Dựa vào mô hình
này kế toán theo dõi nợ gửi báo cáo cho bộ phận thu tiền để sắp xếp lịch
trình với số tiền phải thu là bao nhiêu. Công cụ này Nhà Máy áp dụng đo
lường phần doanh số bán chịu của mỗi tháng vẫn chưa thu được tại thời
điểm cuối tháng đó và tại thời điểm kết thúc của tháng tiếp theo.
Nhưng để theo dõi khoản phải thu hiệu quả kế toán quản lý nợ kết hợp
thực hiện hai công cụ quản lý cùng lúc đối với các khách hàng. Việc kết
hợp này rất phù hợp với cách thức bán hàng hiện nay của doanh nghiệp,
giúp cho việc thu nợ đạt hiệu quả và giảm chi phí thu nợ, đây cũng là nhân
tố làm giảm chi phí thu nợ trong năm 2003.
Như vậy, chính sách tín dụng mà Ban Giám Đốc đưa ra để quản lý các
khoản phải thu phù hợp với một số yếu tố như: đặc điểm ngành nghề sản
xuất kinh doanh và giai đoạn phát triển của Nhà Máy do đó kết quả thu
được là doanh thu và lợi nhuận gia tăng liên tục trong 3 năm. Nhưng chính
sách này vẫn còn chư phù hợp với một số điểm mà bộ phận quản lý cần
xem xét để có hướng quản lý khoản phải thu tốt hơn như: áp dụng chính
sách chiết khấu hạn chế nợ khó đòi và nợ quá hạn thúc đẩy tăng doanh thu,
chính sách thu tiền doanh nghiệp cần cứng rắn hơn trong trường hợp khách
hàng cố tình kéo dài thời gian trả nợ.
Để đánh giá hiệu quả quản lý tồn kho tốt hay chưa tốt chúng ta nhìn qua
các chỉ tiêu sau:
Bảng 10: CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ QUẢN LÝ TỒN KHO
Chỉ tiêu/Năm Đvt 2001 2002 2003 2002/2001 2003/2002
Hàng tồn kho trđ 2.541 3.379 3.431 838 52
Tỉ trọng HTK/VLĐ % 31,5 37,1 37,4 6 0
Vòng quay tồn kho vòng 5,3 4,4 4,9 -1 1
Số ngày luân chuyển HTK ngày 68 83 73 14 -10
Nguồn: trích bảng cân đối kế toán
Năm 2001 tồn kho quay được 5,27 vòng trong năm nhưng quay chậm lại
vào năm 2002. Điều này chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn của Nhà Máy năm
200 thấp hơn 2001. Nhìn thấy được sự sụt giảm bộ phận kinh doanh đưa ra
các biện pháp khắc phục kịp thời và mang lại kết quả tốt vào năm 2003
vòng quay tồn kho quay với tốc độ nhanh hơn gần 5 vòng, mỗi vòng mất
khoảng 73 ngày.
Như giới thiệu phần trước Nhà máy là doanh nghiệp chuyên sản xuất
và cung cấp gạch ngói các loại, do đó hàng tồn kho tồn tại dưới nhiều dạng
trong quá trình hoạt động bao gồm
Quy trình hoạt động của doanh nghiệp
Do thời gian nghiên cứu có giới hạn tôi chỉ tiến hành đánh giá thực trạng
quản lý một số thành phần tồn kho chiếm tỉ trọng tương đối lớn trên tổng
giá trị hàng tồn kho. Và tỉ trọng các thành phần tồn kho được biểu thị trong
bảng sau:
Bảng 11: KẾT CẤU HÀNG TỒN KHO
ĐVT:triệu đồng
2001 2002 2003 2002/2001 2003/2002
Chỉ tiêu/Năm
tiền (%) tiền (%) tiền (%) % %
Hàng tồn kho 2.541 100 3.379 100 3.431 100 838 33,0 52 1,5
NL tồn kho 1.044 41,1 1.204 35,6 1.097 32,0 160 15,3 -107 -8,9
Ccụ, dcụ tồn kho 11 0,4 11 0,3 177 5,2 0 0,0 166 1.509,1
Cp sxkd dở dang 128 5,0 211 6,2 324 9,4 83 64,8 113 53,6
Tphẩm tồn kho 1.359 53,5 1.954 57,8 1.833 53,4 595 43,8 -121 -6,2
Nguồn: trích bảng cân đối kế toán
Kết cấu hàng tồn kho cho thấy chiều hướng tăng lên sau 3 năm,
nguyên nhân do tồn kho thành phẩm tăng, chi phí sản xuất dở dang. Xuất
phát từ việc tăng sản lượng tiêu thụ nên Nhà máy đã tăng sản lượng dự trữ
hạn chế việc không cung cấp đủ gạch cho khách hàng và do giá thành của
gạch cao cấp, gạch trang trí cao hơn gạch sản xuất trước đây.
Trong chuyên đề này tôi phân tích việc quản lý dự trữ nguyên vật liệu
vì nó chiếm tỉ trọng tương đối cao trên giá trị hàng tồn kho và nó nằm trong
khâu dự trữ là khâu đầu tiên của quá trình hoạt động. Trong nguyên vật liệu
tồn kho bao gồm: nguyên liệu chính, vật liệu phụ và nhiên liệu nhưng tôi
chỉ đánh giá về thực trạng quản lý nguyên liệu chính tồn kho là đất.
quá trình sản xuất bị gián đoạn gây ra nhiều hậu quả xấu đến doanh nghiệp.
Đồng thời do sự giới hạn về vốn nên lượng dự trữ phải thỏa điều kiện chi
phí dự trữ đạt mức thấp nhất.
Do đó bộ phận kinh doanh - cung ứng phải dự đoán mức dự trữ đất
tương đối chính xác. Để tính được mức dự trữ tối ưu công việc trước tiên là
ta cần tìm hiểu về đặc điểm và nguồn gốc của đất được Nhà máy sử dụng
sản xuất gạch ngói.
Thị trường nguyên liệu (An Giang): những vùng đất sản xuất nông
nghiệp với loại đất đang trồng lúa 2 vụ ven sông đều có tầng đất sét có chất
lượng đáp ứng nguồn nguyên liệu để sản xuất gạch. Diện tích khu vực này
khoảng 144 nghìn ha, trong đó khu vực đất thuận lợi để khai thác chiếm
74% tổng diện tích. Đất sét tại An Giang rất đa dạng và trữ lượng phong
phú, là loại đất phù sa mới phù hợp sản xuất gạch ngói.
- Mua từ các Nhà cung cấp: trong những năm gần đây để hạn chế sự
cạn kiệt nguyên liệu sẳn có của doanh nghiệp do khai thác quá mức. Nhà
máy quyết định thu mua đất từ các nhà chuyên cung cấp cho các Nhà máy
sản xuất gạch. Nguyên liệu mua dưới dạng đất sét cục và được dự trữ tại
kho chứa đất giúp giảm độ ẩm của đất sau đó có thể được đưa vào sản xuất
ngay. Các nhà cung cấp thu mua đất từ các nông dân ở mọi nơi. Đất này
thích hợp cho sản xuất ngói. Nhà máy thỏa thuận mua đất theo những quy
định ghi trong hợp đồng. Giá đất mua vào bao gồm chi phí vận chuyển là:
- Mua nguyên liệu từ các nông dân: hàng năm vào mùa lũ, nông dân lấy
đất sét từ lớp đất mặt của ruộng lúa và được vận chuyển bằng xuống nhỏ
với số lượng cung cấp lớn. Sau khi lấy đất sét, cánh đồng được nước phù sa
theo nước bồi lắng trở lại nên đất giữ nguyên độ dinh dưỡng cho cây trồng.
-Họ cung cấp với giá 1m3 đất = 17.000đồng cung cấp 1 lần sau thu
hoạch lúa trước mùa lũ về. Đất này rất thích hợp cho sản xuất gạch. Đất
này được dự trữ tại khu đất đã được khai thác của Nhà máy.
- Đất Nhà Máy mua thêm hàng năm từ các nông dân thông qua hợp
đồng mua bán đất ruộng
* Đối với các loại đất trên trước khi đưa vào sản xuất đều được bộ
phận kiểm tra chất lượng tiến hành kiểm tra các nguyên tố chứa trong đất.
Nếu không đủ chất lượng thì bộ phận pha chế thực hiện việc pha chế với
than, cát và các hoá chất khác để đảm bảo chất lượng đất theo tiêu chuẩn
quản lý chất lượng Nhà máy quy định mới được đưa vào sản xuất.
- Đất mộc từ gạch mộc phế phẩm được tái sử dụng sản xuất gạch.
Qua tìm hiểu về nguồn gốc của loại đất dùng vào sản xuất gạch, cho thấy
Nhà Máy mua nguyên liệu từ nhiều nơi khác nhau chưa ổn định và giá
nhập nguyên liệu cũng khác nhau. Thời gian lưu trữ đất tương đối lâu
khoảng 1 năm trở lên ngoại trừ đất mua từ các Nhà cung cấp và chất lượng
gạch có mối quan hệ trực tiếp với thời gian lưu trữ. Điều này dẫn đến Nhà
Máy chưa thể chủ động trong việc đặt mua đất theo kế hoạch đưa ra.
Sau đây là một trong những cơ sở dựa vào nó ta có tể đánh giá thực trạng
quản lý nguyên liệu chính của Nhà máy trong 3 năm qua
Bảng 12: NHẬP XUẤT TỒN KHO NGUYÊN LIỆU ĐẤT
2001 2002 2003
Chỉ tiêu SL ĐG TTiền SL ĐG TTiền SL ĐG TTiền
3 3
1.000m 1.000đ trđ 1.000m 1.000đ trđ 1.000m3 1.000đ trđ
Tồn đầu kỳ 32,2 13,8 445 41,5 17,5 728 54 16,7 901
Nhập trong kỳ 79,4 21 1.475 79,2 16,9 1.319 36,8 27 1.266
Xuất trong kỳ 70,1 17,1 1.192 66,7 17 1.146 57,3 19,6 1.322
Tồn cuối kỳ 41,5 17,5 728 54 16,7 901 33,5 24,8 832
Nguồn: trích báo cáo nhập xuất tồn kho nguyên vật liệu năm
Phương pháp tính giá tồn kho mà Nhà máy sử dụng là phương pháp
bình quân gia quyền. Sau mỗi năm khối lượng dự trữ đất đầu kỳ tăng lên tỉ
lệ với doanh thu tăng. Và giá đất mỗi năm mỗi tăng cao, nguyên nhân dẫn
đến tình hình này là do đất dùng để sản xuất gạch chủ yếu mua từ các Nhà
cung cấp. Do giá đất tăng nhưng vốn đầu tư vào hàng tồn kho có giới hạn
và nằm đạt mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận nên bộ phận kinh doanh quan tâm
nhiều vào dự toán lượng đất cần đặt mua sao cho chi phí tồn kho thấp
nhưng phải đảm bảo quá trình sản xuất không bị gián đoạn.
Xuất phát từ tình hình đặt hàng của Nhà Máy thông thường 1 tháng
đặt mua 1 lần, nhưng một năm chỉ đặt mua 6 lần đối với nhà cung cấp và
một năm một lần đối với nông dân. Để có thể biết được thời gian đặt mua
nguyên liệu chúng ta nhìn vào lịch trình nhập đất của Nhà Máy.
Và số liệu tổng hợp trên đã phản ánh giá đất tháng 12 trong năm 2003 tăng
cao lên đến 24 nghìn/m3. Do đó tháng 12 năm 2003 số lượng nhập kho
giảm mạnh.
Qua thời gian nghiên cứu tôi được biết Nhà máy đặt hàng phụ thuộc
rất nhiều về nguồn cung ứng do đó các phương pháp tính khối lượng đất dự
trữ để sản xuất hầu như chưa được áp dụng. Vì vậy bộ phận cung ứng vật
tư thường tính được khối lượng đất cần sử dụng trong năm dựa vào sản
xuất thực tế tqua kế hoạch phân bổ nguyên liệu vào từng loại mặt hàng và
chỉ số quan trọng nhất là dự đoán sản lượng tiêu thụ từng loại mặt hàng.
Qua đó họ sẽ tổng hợp lại khối lượng đất sử dụng cho kỳ kế hoạch và bộ
phận vật tư lầy khối lượng đã tổng hợp làm lượng đất cần đặt mua tối thiểu
trong năm. Bảng phân bổ được tính như sau:
Sau khi đối chiếu bảng nhu cầu nguyên liệu với xuất nhập tồn kho vật
liệu thực tế trong năm ta thấy doanh nghiệp sản xuất thấp hơn định mức kế
hoạch, đây là dấu hiệu tốt. Dự toán kế hoạch tương đối chính xác phản ánh
công tác dự toán của bộ phận cung ứng vật tư thực hiện rất tốt. Trong các
năm qua do mới đi vào hoạt động nên Nhà Máy chưa thể dự đoán chính
xác lượng nguyên liệu cần dùng trong năm, cũng chín thời gian này nguyên
liệu đất Nhà máy sử dụng chủ yếu từ khu đất có sẳn của họ nên xác suất rủi
ro xãy ra thấp.
Trong 3 năm gần đây do khai thác quá mức nên doanh nghiệp phải
mua đất từ các nhà chuyên cung cấp đất để sản xuất gạch ngói đây là nguồn
cung cấp chưa được ổn định vì họ không ký hợp đồng dài hạn với doanh
nghiệp nên Nhà máy phải tính đến việc dự trữ cho sản xuất trong tương lai.
Nhìn chung Nhà máy thực hiện tương đối tốt việc dự báo nhu cầu
nguyên liệu trong kỳ kế hoạch và dựa vào đây doanh nghiệp có thể tính
được số lượng nguyên liệu cần đặt mua trong năm cũng như số lần đặt
mua. Nhưng bộ phận kinh doanh cần giảm bớt số lượng nguyên liệu tồn
kho đến mức có thể để giảm chi phí vốn , chi phí lưu kho.
Qua việc nghiên cứu phân tích thực trạng vốn lưu động của Nhà Máy
Gạch Ngói Long Xuyên trong ba năm 2001-2003 tôi rút ra được một số kết
luận về quản trị vốn lưu động sau:
- Quản trị tiền mặt đáp ứng tốt hai mục đích thông suốt quá trình giao
dịch và mục đích dự phòng nhưng chưa đáp ứng tốt mục đích đầu tư.
- Chính sách tín dụng quản trị khoản phải thu còn một số điểm cần
khắc phục như: áp dụng tỉ suất chiết khấu, tăng thời hạn bán chịu để giảm
nợ quá hạn, nợ khó đòi tăng lợi nhuận…
- Quản trị nguyên liệu đất tồn kho chưa tốt tại khâu thực hiện nguồn
cung ứng của Nhà máy chưa mang lại kết quả dẫn đến Ban quản trị chưa
thể chủ động trong việc dự trữ đất để sản xuất nhưng việc quản trị đất trong
ba năm qua phần nào vẫn thu được hiệu quả đảm bảo quá trình sản xuất
diễn ra liên tục và thường xuyên.
1.GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN TRỊ TIỀN MẶT
- Bộ phận kinh doanh Nhà Máy cần tăng cường thực hiện dự báo tình
hình biến động giá trong ngành vật liệu xây dựng trên thị trường để có
những chính sách điều chỉnh phù hợp, ổn định kịp thời những tình huống
xấu xãy ra, nhanh chóng đưa ra những quyết định đầu tư có hiệu quả.
- Doanh nghiệp cần tính đến lượng tiền dự trữ tại quỹ, tìm ra phương án
đầu tư nhằm tối đa hóa tốc độ vòng quay tiền vì khi doanh nghiệp cổ phần
hóa trở thành doanh nghiệp hoạt động độc lập thì doanh nghiệp tự quyết
định từ việc huy động vốn đến đầu tư vốn vào phương án kinh doanh nào.
- Doanh nghiệp hạn chế tối đa việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán
nên thực hiện bằng chuyển khoản, ngoại trừ một số khoản chi giá trị thanh
toán thấp. Ngoài ra nên xây dựng hệ thống sec được đánh số thứ tự liên tục
trước khi sử dụng. Để thuận tiện cho việc theo dõi tiền gửi ngân hàng Nhà
máy nên mở tài khoản chuyên thu và chuyên chi.
Thời hạn bán chịu hiện nay của Nhà máy cho các đại lý là 21 ngày (3
tuần) nhưng kỳ thu tiền bình quân của doanh nghiệp lại rất cao (98 ngày
trong năm 2003), chứng tỏ rất nhiều đại lý để nợ quá hạn, không trả tiền
đúng thời hạn quy định. Khi tăng thời hạn bán chịu lên, kỳ thu tiền bình
quân của Nhà máy sẽ cao hơn, chi phí bán hàng thu nợ cũng tăng, doanh
nghiệp phải đầu tư lớn hơn vào khoản phải thu, nợ khó đòi sẽ cao hơn.
Nhưng Nhà máy sẽ thu hút được nhiều khách hàng mới, doanh thu bán
hàng sẽ tăng theo cũng như tận dụng hết nguồn lực của doanh nghiệp, giảm
thiểu lượng hàng tồn kho.
Với tỷ số thanh toán nhanh của Nhà máy là 0,85%; như vậy khả năng
đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp tương đối khả quan, Nhà
máy có thể chủ động điều tiết được nguồn vốn kinh doanh, vì vậy việc tăng
các khoản phải thu không đáng ngại, so với việc tăng doanh số bán và lợi
nhuận cũng tăng.
Căn cứ vào tình hình thực tế về tài chính của Nhà máy cũng như các
đại lý, với mục tiêu đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, từng bước chiếm
lĩnh thị trường, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, Nhà máy nên tăng
thời hạn bán chịu cho các Cửa hàng, nhà thầu công trình lên từ 30 ngày so
với 21 ngày trước đây. Nhà máy cần kết hợp với các chính sách tín dụng
khác như áp dụng (tăng) chiết khấu thanh toán nhanh, tăng lãi suất nợ quá
hạn, chiết khấu thanh toán theo khối lượng, cũng như tăng cường việc tìm
hiểu khả năng tài chính của từng Cửa hàng để có chính sách thích hợp.
Khi tăng thời hạn bán chịu thêm 9 ngày (hơn 1 tuần), các đại lý sẽ
giảm số lượng hàng mua của các doanh nghiệp khác sanng mua hàng của
Nhà máy nhiều hơn, một số đại lý có tiềm lực tài chính yếu hơn, thường
mua hàng với khối lượng ít hay chưa bao giờ mua thì nay họ có thể quyết
định tiêu thụ hàng của doanh nghiệp với khối lượng lớn. Với thời hạn bán
chịu 30 ngày của Nhà máy lớn hơn 1,5 lần so với đối thủ cạnh tranh và sẽ
chiếm ưu thế hơn hẳn các đối thủ ( thời gian bán chịu của Nhà Máy Sóc
Trăng là 20 ngày). Như vậy doanh thu ước tính sẽ tăng 10% sau khi thực
hiện biện pháp, trong đó khoảng 5% là khách hàng cũ và 5% là các khách
hàng mới. Bên cạnh đó, chi phí bán hàng thu nợ tăng cao, nhưng việc tăng
doanh số lên 10% hầu như không ảnh hưởng đến việc tăng chi phí cố định,
chi phí quản lý doanh nghiệp.
Giả sử vào năm 2003 là năm Nhà máy cho dây chuyền giai đoạn 2 vào
vận hành đồng nghĩa doanh nghiệp đang hoạt động dưới công suất
Bảng 16: ƯỚC TÍNH HIỆU QUẢ TĂNG THỜI HẠN TÍN DỤNG
Các chỉ tiêu Đvt Trước biện pháp Sau biện pháp Chênh lệch
Doanh thu trđ 16.974 18.671 1.697
Giá vốn hàng bán trđ 13.610 14.937 1.327
Lãi gộp trđ 3.364 3.734 370
Tỷ suất lãi gộp % 19,8 20,0 0,2
Chi phí bán hàng trđ 170 323 153
Tỷ suất CPBH % 1,0 1,7 0,7
Chi phí QLDN trđ 947 947 0
Tỷ suất Cp QLDN % 5,6 5,1 -0,5
Lợi nhuận trđ 2.247 2.465 218
Tỷ suất lợi nhuận % 13,2 13,2 0,0
Nguồn: trích bảng kết quả kinh doanh
Trong điều kiện hiện nay của Nhà Máy việc tăng nhanh vòng quay
vốn, giảm thiểu khoản phải thu, rút ngắn kỳ thu tiền bình quân của Nhà
Máy là rất cần thiết cũng như việc duy trì các mối quan hệ tôt với khách
hàng. Do vậy doanh nghiệp cần tính tỉ lệ chiết khấu thanh toán nhanh cho
các đại lý tiêu thụ (cửa hàng kinh doanh vật liệu xây dựng).
Khi áp dụng tỉ lệ chiết khấu nhiều yếu tố khác cũng thay đổi tương tự:
doanh số bán tăng, vốn đầu tư cho các khoản phải thu giảm và công ty sẽ
nhận được ít hơn trên mỗi đồng doanh số bán nhưng Nhà Máy sẽ đươc lợi
do nhiều yếu tố khác mang lại khi sử dụng suất chiết khấu. Doanh nghiệp
có thể giảm phí tổn thu nợ cũng như số nợ khó đòi và nợ quá hạn cũng
giảm. Một khi lợi ích của các cửa hàng, các nhà thầu xây dựng các công
trình nhận được nhờ chấp nhận tỉ lệ chiết khấu sẽ kích thích họ trả tiền
nhanh hơn, Nhà Máy cũng được lợi nhờ giảm các khoản chi phí bán hàng,
thu nợ. Như vậy khi áp dụng suất chiết khấu vẫn đảm bảo lợi ích của khách
hàng lẫn công ty.
+ Tức là một hoá đơn bán hàng có mệnh giá là T đồng, tỉ lệ chiết khấu
tại thời điểm là k/tháng.
+ Nếu khách hàng thanh toán trước thời hạn sẽ chỉ phải trả:
T
T’ = < T Với m: số ngày trước thời hạn thanh toán
(1+ k)m/30
này chiết khấu cao cũng sẽ làm cho giá của hàng hoá giảm khi thanh toán
sớm thời hạn, họ sẽ mua hàng nhiều hơn dẫn đến doanh thu tăng.
Với suất chiết khấu k1 =0,85%/tháng nếu thanh toán trước thời hạn sẽ
chiết khấu giảm giá hóa đơn theo những ngày còn lại và cũng ngược lại với
thanh toán trễ hạn Nhà Máy cần cứng rắn hơn trong thu nợ, lãi suất nợ quá
hạn sẽ nâng lên bằng lãi suất nợ quá hạn k2 =1,36% Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam chi nhánh An Giang tại tháng 3/2004 đối với đại lý
nào để nợ quá hạn (tức là sau ngày giao hàng 30 ngày) và sau một tháng
quá hạn (tức 60 ngày sau ngày giao hàng) sẽ có biện pháp nặng hơn như
giảm hoặc không cung cấp hàng, phạt nợ quá hạn.
Bên cạnh đó, Nhà Máy cần kết hợp với biện pháp theo khối lượng, tức
là nếu khách hàng mua khối lượng lớn một lúc sẽ được hưởng những chính
sách tín dụng ưa đãi như trên cộng với phần chiết khấu theo khối lượng
chẳng hạn giảm 1%*đơn giá với đơn đặt hàng trên 100.000 viên gạch, giảm
2,5%*đơn giá với đơn đặt hàng trên 200.000 viên gạch…tỉ lệ chiết khấu
này sẽ không nhỏ hơn tỉ lệ tiết kiệm chi phí của Nhà Máy trong bảo quản
lưu kho, trong vận chuyển phân phối và giao nhận cho các đại lý với quy
mô của nó, cũng như việc doanh thu sẽ tăng thêm khi áp dụng tăng suất
chiết khấu.
Và lẽ đương nhiên khi áp dụng phương pháp chiết khấu đó, tốc độ
tăng thêm của doanh thu sẽ lớn hơn nhiều so với chi phí tăng thêm do chiết
khấu. Và lợi nhuận sẽ tăng khi doanh thu tăng cũng như hiệu quả kinh
doanh sẽ cao hơn khi vòng quay vốn tăng.
Dựa vào độ co giãn của cầu theo giá, dựa vào nhu cầu xây dựng ngày
càng tăng cũng như khả năng tài chính của các đại lý, doanh thu ước tính
sau biện pháp tăng 5% nhưng tỷ suất lãi gộp trên doanh thu ước tính giảm
0,5% tức mỗi đồng doanh thu sẽ nhận được ít hơn trước 0,5% đồng lãi gộp.
Giả sử vào năm 2003 là năm Nhà máy cho dây chuyền giai đoạn 2 vào
vận hành đồng nghĩa doanh nghiệp đang hoạt động dưới công suất
Bảng 17: ƯỚC TÍNH HIỆU QUẢ CỦA TĂNG SUẤT CHIẾT KHẤU
Chỉ tiêu Đvt Trước biện pháp Sau biện pháp Chênh lệch
Doanh thu trđ 16.974 17.823 849
Giá vốn hàng bán trđ 13.610 14.380 770
Lãi gộp trđ 3.364 3.443 79
Tỷ suất lãi gộp % 19,8 19,3 -0,5
Chi phí bán hàng trđ 170 89 -81
Tỷ suất CPBH % 1,0 0,5 -0,5
Chi phí QLDN trđ 947 947 0
Tỷ suất Cp QLDN % 5,6 5,3 -0,3
Lợi nhuận trđ 2.247 2.407 159,7
Tỷ suất lợi nhuận % 13,2 13,5 0,3
Nguồn: trích bảng kết quả kinh doanh
- Bộ phận kinh doanh bán hàng nên chọn lọc khách hàng truyền thống,
có uy tín, xem xét các hợp đồng kinh tế cho phù hợp, chặt chẽ không để
khách hàng chiếm dụng và không thu hồi được.
- Áp dụng tỉ suất chiết khấu nhằm hạn chế nợ quá hạn, nợ khó đòi, giảm
chi phí thu nợ và tăng doanh thu.
- Giải quyết tốt các công nợ tồn đọng trong các công trình xây dựng của
Nhà Nước, tiếp tục cử nhân viên thu nợ thường xuyên đến nhắc nhở, nếu
nhiều lần thì tiến hành thủ tục pháp lý
- Doanh nghiệp phải chủ động trong khâu thu mua nguyên liệu đất thông
qua việc ký hợp đồng dài hạn, góp vốn liên doanh với nhà cung cấp để biết
được tình hình biến động liên quan đến nguyên liệu.
- Bộ phận quản lý nguồn cung ứng cần đưa ra các biện pháp hữu hiệu
hơn để Nhà máy có thể chủ động trong khâu đặt hàng dự trữ đảm bảo quá
trình sản xuất diễn ra liên tục với chi phí tồn kho thấp nhất.
- Doanh nghiệp nên áp dụng một trong số các mô hình quản lý dự trữ
hàng tồn kho vào việc tính khối lượng đất dự trữ để đảm bảo quy trình sản
xuất. Đặc biệt mô hình này phải phù hợp với đặc điểm đặt hàng thực tế của
doanh nghiệp là giao hàng nhiều chuyến trong một lần đặt hàng với chi phí
tồn kho thấp nhất.
- Nhà máy quản lý tiền mặt thông qua áp dụng các chính sách rút
ngắn đến mức tối thiểu khoảng cách từ khi xuất hóa đơn đến khi khách
hàng nhận được nó bằng cách kết hợp công khá đoạn giao hàng và gửi hoá
đơn theo hàng.
- Tập trung chuyển tiền từ các thị trường tiêu thụ về doanh nghiệp.
Nhờ việc lập dự toán tiền mặt Nhà máy căn cứ vào nó tính lượng tiền
chênh lệch giữa thu và chi để kịp thời làm hợp đồng xin vay vốn hoặc
chuyển khoản sang Công ty qua hệ thống Ngân hàng.
- Tạo môi trường kinh doanh thông thoáng cho khách hàng cụ thể
không đưa ra tiêu chuẩn tín dụng, cấp hạn mức tín dụng, tăng thời hạn bán
chịu, chính sách thu tiền mềm dẻo không sử dụng tỉ lệ lãi suất phạt đối với
trường hợp thanh toán trễ hạn. Và điều kiện để khách hàng được hưởng các
ưa đãi trên là khách hàng phải trải qua một thời gian mua bán với Nhà máy
bằng tiền mặt, thanh toán đúng hạn. Khách hàng sẽ hưởng các chính sách
ưa đãi có mức độ tỉ lệ với vị thế của họ do Nhà máy đánh giá.
- Hàng tồn kho trong 3 năm qua đã đảm bảo cho quá trình sản xuất
của Nhà Máy diễn ra liên tục. Nhưng lượng dự trữ nguyên liệu chiếm rất
cao trong tổng số hàng tồn kho.
Nhìn chung, công tác quản lý vốn lưu động của Nhà máy đạt kết quả
khá tốt. Doanh nghiệp luôn linh hoạt trong việc lựa chọn đúng đắn khi đưa
ra các quyết định liên quan đến hiệu quả quản lý vốn lưu động và đạt doanh
thu cao nhất.
2.KIẾN NGHỊ
Qua quá trình nghiên cứu về tình hình hoạt động kinh doanh tại Nhà
máy. Bên cạnh những kết quả đạt được, những nổ lực thành công và những
hướng đi mới thì Nhà máy vẫn còn tồn những nhược điểm cần khắc phục.
Vì vậy doanh nghiệp cần định ra một phương hướng cụ tể để phát huy
những mặt mạnh, nâng cao hoạt động sản xuất kinh doanh đồng thời khắc
phục những khó khăn khuyết điểm còn tồn đọng từ trước đến nay.
Sau đây tôi xin đưa ra một số ý kiến, mặc dù chưa được sâu sắc nhưng
tôi cũng mong phần nào ý kiến của mình vào việc hoàn thiện công tác quản
lý vốn lưu động và hoạt động sản xuất kinh doanh để Nhà máy ngày càng
vững mạnh và phát triển, hòa nhập chung với nền kinh tế cả nước ngày
càng khẳng định chỗ đứng của mình.
- Theo dõi và quan tâm đến đời sống cán bộ công nhân viên viên chức,
phát động phong trào thi đua đến đoàn thể công đoàn, chi đoàn về phát
minh sáng kiến cải tiến kỹ thuật tăng năng suất, tiết kiệm chi phí. Có chính
sách khen thưởng kịp thời nhằm khuyến khích tinh thần cán bộ công nhân
viên, tạo không khí sinh động trong lao động sản xuất.
- Tạo điều kiện cho nhân viên nâng cao trình độ quản lý và tay nghề.
- Nghiên cứu nhiều biện pháp pha chế nhiên liệu vào sản xuất, vừa giảm
được giá nhiên liệu vừa tiết kiệm nhiên liệu, đảm bảo chất lượng sản phẩm
nhưng giảm được giá thành sản phẩm.
- Tăng cường quan hệ tốt với các ngành Xây dựng, các Ban quản lý dự
án, các cơ quan Tư vấn thiết kế và Kho bạc, nắm bắt được thông tin phục
vụ trong công tác đấu thầu.
- Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh An Giang tiếp tục khuyến khích các công trình
Nhà Nước sử dụng gạch của Nhà Máy.
- Cần đưa ra các giải pháp giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường với
chi phí mà Nhà máy có thể thực thi được.