You are on page 1of 11

Mở đầu

I. Lí do chọn đề tài
Mác đã khẳng định: “Một khoa học chỉ đạt được sự hoàn chỉnh khi nó sử
dụng toán học”. Toán học xuất hiện và ngày càng đa dạng hoá là do yêu cầu
phát triển của chính bản thân toán học và của các khoa học khác, chứ không
phải chỉ là sản phẩm tư duy thuần tuý của các nhà khoa học hay do Thượng
đế mách bảo như quan điểm của các nhà triết học duy tâm. Và, giá trị to lớn
của toán học là ở chỗ, chúng là công cụ trợ giúp đắc lực cho khả năng nhận
thức của con người về thế giới hiện thực và góp phần thúc đẩy các khoa học
khác phát triển, góp phần phục vụ cho lợi ích thiết thực của con người.
Mặc dù triết học có vai trò rất quan trọng trong nhận thức và thực tiễn
nhưng triết học không thể thay thế cho các khoa học khác trong việc nhận
thức thế giới. Mối quan hệ biện chứng giữa triết học với các khoa học khác là
điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của triết học, đặc biệt là toán học. Với
toán học, chúng ta có thể giải quyết được những nhiệm vụ gắn liền với thực
tiễn. Với các lý do trên tôi quyết định chọn đề tài “Vai trò của toán học
trong nhận thức khoa học”.
II. Mục đích và phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn vai trò nhận thức của toán học trong
nhận thức khoa học.
Nghiên cứu lý luận: thông qua các tài liệu về triết học, logic học, toán học.
Nghiên cứu thực tiễn: thông qua các hoạt động nhận thức hằng ngày

III. Ý nghĩa của đề tài


Giúp việc lĩnh hội tri thức khoa học có hiệu quả hơn thông qua việc nắm
vững các quy tắc suy luận toán học.
Giúp các cuộc tranh luận khoa học đi đúng hướng và sớm đạt kết quả.

IV. Cấu trúc của tiểu luận

Mở đầu
Chương 1: Các quan điểm về vai trò nhận thức của toán học trong lịch sử
triết học
Chương 2: Một số biểu hiện cụ thể về vai trò nhận thức của toán học
Chương 3: Vấn đề chân lý trong toán học
Kết luận
Tài liệu tham khảo

1
Chương 1: CÁC QUAN ĐIỂM VỀ VAI TRÒ NHẬN THỨC CỦA
TOÁN HỌC TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC

1.1. Sự phát triển của các quan điểm trước Mác

Vai trò của toán học trong nhận thức khoa học không phải mãi đến ngày
nay mới được khẳng định. Đồng thời, không phải chỉ sau khi chủ nghĩa duy vật
Macxít ra đời thì vấn đề trên mới được đề cập đến. Vai trò nhận thức của toán
học đã được nhiều trường phái triết học quan tâm đến tùy theo cách tiếp cận và
mục đích nghiên cứu khác nhau.

Trong tiểu luận này, ta sẽ giới thiệu quan điểm của một số trường phái tiêu
biểu như: triết học cổ đại (Pitago, Đêmôcrit, Platon, Aristôt,…), Chủ nghĩa duy
lý (Đêcacxtơ, Lepnitxơ,…), triết học cổ điển Đức (Kant, Hêghen,…). Trên cơ sở
đó khẳng định sự phát triển của các quan điểm khác nhau về vai trò nhận thức
của toán học.

Platon khẳng định, toán học là môn học hướng dẫn lý trí trong việc nghiên
cứu các đối tượng và những mối liên hệ trừu tượng. Nó cung cấp một bằng
chứng về suy luận diễn dịch, là thứ suy luận đi từ những tiền đề sáng rõ đến
những kết luận tất yếu.

Aristote đồng ý với Plato rằng toán học có giá trị như một tri thức, hoàn
toàn không kể tới những ứng dụng thực tiễn, nhưng ông phản đối mạnh mẽ ý
kiến nói toán học được coi là mẫu mực cho tất cả tri thức triết học. Ông lấy làm
khó chịu thấy những học trò của Plato đồng nhất hóa toán học với triết học, và
các sinh viên khoa triết sẽ không lắng nghe giảng viên nào không trình bày tư
tưởng của mình bằng hình thức toán học. Theo Aristotle, mỗi khoa học có một
phương pháp riêng thích hợp đối với đối tượng chính yếu của nó, và do đó,
phương pháp toán học không nên áp dụng trong các khoa học khác.

Sự bất đồng từ thời thượng cổ Hy Lạp này lại tiếp tục ở thời hiện đại trong các
quan điểm đối lập nhau của Descartes và Kant. Là nhà toán học vĩ đại đồng thời

2
là một triết gia, Descartes tuyên bố phương pháp toán học là con đường duy nhất
dẫn đến tri thức, kể cả tri thức về vật lý vũ trụ. Đối với ông, cũng như đối với
Newton và các nhà khoa học hiện đại vĩ đại khác, thế giới tự nhiên hình thành
theo cách có thể được hiểu rõ nhất bằng phân tích toán học. Từ cái nhìn này, vũ
trụ vật chất có một cơ cấu có thể diễn tả được bằng các thuật ngữ toán học. Kant
thừa nhận rằng những nguyên lý toán học có thể áp dụng vào việc nghiên cứu thế
giới vật lý, và ông đề cao thiên tài của Newton

1.2. Quan điểm duy vật biện chứng

Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin đều nhìn thấy ý nghĩa to lớn của
toán học và sự vận dụng các phương pháp của nó đối với việc nghiên cứu các
hiện tượng tự nhiên và xã hội. Theo Ănghen: "Muốn có một quan niệm vừa biện
chứng vừa duy vật về tự nhiên thì người ta phải biết toán học và khoa học tự
nhiên".

Ănghen cho rằng, vai trò nhận thức của toán học không tách rời những
nhu cầu hoạt động thực tiễn của con người. Ví dụ, khả năng phân biệt sự vật này
với sự vật khác đã được hình thành từ nhu cầu hoạt động đếm các đồ vật của con
người.

Trong "các tập bản thảo toán học", Mác đã phân tích bản chất của vi phân
trong toán học và xem nó như là một phương tiện tham gia vào quá trình tìm ra
những tri thức mới.

Theo nhận xét của Lênin, nhiều phương trình vi phân thuộc về các lĩnh
vực khác nhau của các hiện tượng lại rất giống nhau về mặt hình thức và chính
sự giống nhau đó đã phản ánh tính thống nhất của tự nhiên. Điều đó chứng tỏ các
vi phân toán học đã tham gia vào việc phản ánh các khía cạnh khác nhau của thế
giới hiện thực.

Trong điều kiện hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ, toán học vẫn khẳng định được vai trò nhận thức to
lớn của mình. Nhưng trước sự biến đổi của thực tiễn, quan điểm duy vật biện

3
chứng về nhận thức toán học cũng cần được bổ sung những cách nhìn mới. Thứ
nhất, ngày nay đối tượng khoa học nói chung là đối tượng khoa học liên ngành,
chính vì vậy, toán học muốn phát huy được sức mạnh trong nhận thức khoa học
thì nhất thiết đối tượng của nó phải phát triển vượt qua phạm vi của đối tượng
toán học thuần túy trước đây. Thứ hai, để khắc phục những khó khăn trong ứng
dụng (nhất là trong mô hình hóa), toán học phải có sự kết hợp chặt chẽ với các
phương pháp của các khoa học khác. Chẳng hạn, nếu kết hợp phương pháp toán
học với tin học, chúng ta sẽ giảm nhẹ về mặt lôgic hình thức trong suy luận toán
học. Việc kết hợp đó cho phép chúng ta thực hiện sự mô phỏng hành vi của các
hệ phi tuyến nhờ đồ họa máy tính. Có nghĩa là, nhờ sự trực cảm và suy luận định
tính, toán học góp phần nâng cao khả năng nhận thức của con người.

4
Chương 2: MỘT SỐ BIỂU HIỆN CỤ THẾ VỀ VAI TRÒ NHẬN
THỨC CỦA TOÁN HỌC

2.1. Vai trò phát kiến của toán học

Toán học cho phép chúng ta dựa vào các đối tượng trừu tượng và các phép
tính mà đi tới biểu thức toán học của những mối quan hệ không dễ dàng hoặc
không thể tìm được bằng các phương tiện khác.

Chẳng hạn từ phương trình của nhà vật lý Erwin Schrödinger: HΨ=EΨ,
nhà vật lý học người Anh - Dirac đã mở rộng theo thuyết tương đối và nhận thấy
rằng, nghiệm của phương trình này phụ thuộc vào một căn bậc hai, mà căn bậc
hai lại có hai giá trị khác dấu. Điều đó cho phép chúng ta cơ sở dự đoán rằng,
ngoài electron còn tồn tại một hạt có khối lượng, spin và các tính chất khác giống
như điện tử nhưng khác điện tử về dấu của các điện tích. Dự đoán trên đã trở
thành hiện thực, người ta đã tìm ra sự tồn tại của Pôzitrôn. Từ đó các phản hạt
của phần lớn các hạt đã được tìm ra một cách tương tự như Pôzitrôn.

Như vậy, vai trò phát kiến của toán học được thể hiện rõ nét ở chỗ, căn cứ
vào tính chất của đối tượng toán học và các phép suy luận, chúng ta có thể dự
đoán được những cấu trúc phức tạp của thế giới vật chất, qua đó khẳng định
được vai trò của toán học trong quá trình nhận thức.

2.2. Toán học với những đại lượng biến thiên

Vai trò nhận thức của toán học được thể hiện rất rõ khi toán học chuyển
sang nghiên cứu các đại lượng biến thiên. Theo nhận định của Ănghen, sự xuất
hiện của đại lượng biến thiên đã đánh dấu một bước ngoặt trong sự phát triển của
toán học. Với đại lượng đó vận động và biện chứng đã đi vào toán học.

Trong phần này, các ta sẽ đề cập đến đại lượng vô cùng bé - đại lượng biến
thiên trong toán học, nó đã được hợp thức hóa bởi lý thuyết tập hợp của Cantor

5
vào cuối thế kỷ XIX. Sự xuất hiện của vô cùng bé đã cho ta một phương tiện
phản ánh tính biện chứng trong toán học.

Tính biện chứng trong toán học được thể hiện trong quá trình vận động
của nhận thức toán học và trong mối quan hệ giữa toán học với việc nhận thức
thế giới xung quanh. Sự vận động của nhận thức toán học là một quá trình chứa
đầy mâu thuẫn và tuân thủ các qui luật của phép biện chứng. Những mâu thuẫn
biện chứng xuất hiện trong mối quan hệ giữa trình độ phát triển của toán học và
nhu cầu giải quyết các nhiệm vụ của khoa học và thực tiễn. Việc giải quyết các
mâu thuẫn đó làm cho nhận thức toán học có sự biến đổi về chất.

2.3. Toán học đặc biệt là xác suất thống kê với những hiện tượng ngẫu
nhiên

Việc nghiên cứu các hiện tượng ngẫu nhiên trong toán học có ý nghĩa rất
quan trọng trong quá trình nhận thức thế giới khách quan. Để giải quyết nội dung
này, các tác giả của đề tài nêu lên những quan niệm về đại lượng ngẫu nhiên, từ
đó rút ra nhận xét rằng hiện tượng ngẫu nhiên chắc chắn là có nguyên nhân,
nhưng đó là sự tác động của một tổng thể nguyên nhân, trong đó có những
nguyên nhân biến đổi. Chính vì vậy, nếu chỉ xét một hiện tượng riêng biệt thì
chúng ta không bao giờ có những dự đoán chính xác được. Do vậy, để nghiên
cứu hiện tượng ngẫu nhiên chúng ta phải nghiên cứu hệ thống các hiện tượng và
rút ra qui luật về số lớn của các hiện tượng đó.

Trong toán học, lý thuyết xác xuất thống kê là công cụ chủ yếu để nghiên
cứu các hiện tượng ngẫu nhiên. Xét về hình thức thì tất yếu và ngẫu nhiên mâu
thuẫn với nhau, cho nên thực chất cái phi mâu thuẫn ở đây là ở chỗ ngẫu nhiên
đối với từng sự kiện đơn giản, còn tất yếu là luật số lớn, luật bao quát. Từ đó, ta
có thể kết luận rằng, đối với hiện tượng ngẫu nhiên ta không thể hiểu được từng
thành phần, từng yếu tố đơn giản tham gia vào tập hợp các sự kiện đó, nhưng ta
có thể hiểu được qui luật vận động chung của các tập hợp đó. Chẳng hạn, trong

6
cơ học lượng tử, ta không thể nghiên cứu được sự vận động của từng hạt ánh
sáng, nhưng qui luật của vật lý thống kê cho phép ta nghiên cứu sự vận động
chung của cả tập hợp các hạt cơ bản. Hiện tượng vân nhiễu xạ là một ví dụ điển
hình về tính qui luật của các hiện tượng ngẫu nhiên.

Như vậy, với sự ra đời của lý thuyết xác suất và thống kê, các hiện tượng
ngẫu nhiên trong tự nhiên và trong khoa học - kỹ thuật đã được nghiên cứu một
cách có hệ thống, giúp cho con người nhận thức thế giới hiện thực ngày càng sâu
sắc hơn.

2.4. Vai trò của các ký hiệu toán học trong nhận thức khoa học

Các kí hiệu toán học không những chỉ là những phương tiện thuận lợi cho
việc nghiên cứu khoa học nói chung và toán học nói riêng, mà chúng ta có một
giá trị nhận thức luận to lớn. Chúng được sử dụng trước hết là để ghi lại các khái
niệm và mệnh đề toán học.

Trong toán học, vai trò của các ký hiệu rất giống với vai trò của tiếng nói
thông thường trong xã hội. Điều này được thể hiện ở chỗ, tiếng nói của các kí
hiệu toán học cho phép các nhà toán học trao đổi với nhau và trao đổi với những
người khác về chân lý toán học, về việc tổ chức nghiên cứu khoa học.

Các kí hiệu toán học cho phép ta nói ngắn gọn nhiều điều mà nếu diễn tả
bằng ngôn ngữ thông thường thì sẽ rất dài dòng, phức tạp.

Ví dụ, việc viết các công thức toán học:

(a + b) 2 = a2 + 2ab + b2,

Vấn đề cốt yếu phải lưu ý ở chỗ, các kí hiệu toán học chỉ có tính ưu việt
khi chúng đảm bảo vai trò hàng đầu của mình trong nhận thức khoa học. Các kí
hiệu toán học khi đạt đến một mức độ độc lập nhất định như là các đối tượng vật
chất, mà ta có thể hiểu được chúng nhờ quan sát trực tiếp, thì khi đó các kí hiệu

7
sẽ trở thành công cụ không thể thiếu được cho sự nghiên cứu sáng tạo.

Các kí hiệu toán học không phải chỉ là cách ghi lại một tư tưởng, hay là
một công cụ diễn tả và củng cố tư tưởng đó, mà chúng còn tác động lên chính
bản thân tư duy và trong một mức độ nào đó, chúng hướng dẫn tư duy và chỉ cần
điều động chúng qua lại trên mặt giấy theo những qui tắc đơn giản đã biết là có
thể đạt đến những chân lý mới mà không phạm sai lầm.

Các kí hiệu toán học được xem như là một ngôn ngữ trong quá trình nhận
thức, ở đây những kí hiệu được đưa vào ngôn ngữ toán học nhân tạo thường có
tính chất quốc tế. Nhờ có các kí hiệu toán học, trong các hội nghị toán học quốc
tế, người ta không cần phiên dịch các thông báo khoa học do các nhà khoa học
của nhiều nước trình bày.

Ngôn ngữ toán học là sự cải tiến ngôn ngữ chung, là sự trang bị cho ngôn
ngữ chung công cụ thuận tiện để phản ánh những mối liên hệ phụ thuộc mà nếu
diễn đạt bằng ngôn ngữ thông thường sẽ không chính xác hoặc phức tạp. Về thực
chất, các kí hiệu toán học là sự thể hiện của ngôn ngữ toán học. Như vậy, các kí
hiệu toán học chính là công cụ trợ giúp đắc lực cho khả năng nhận thức của con
người đối với thế giới hiện thực và góp phần thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học.

8
Chương 3: VẤN ĐỀ CHÂN LÝ TRONG TOÁN HỌC

3.1. Đặc trưng của chân lý trong toán học

Đặc trưng của chân lý trong toán học, trước hết được thể hiện rất rõ ở tiêu
chuẩn logic của chân lý toán học. Trong việc xác lập tính chân lý của một mệnh
đề, một phán đoán hay một lý thuyết toán học thì tính phi mâu thuẫn giữ vai trò
đặc biệt quan trọng.

Trong toán học lý thuyết, việc xác lập tính chân lý dựa vào tính chân lý
phân tích của các tiên đề và tính đúng đắn của các kết luận lôgic. Song độ tin cậy
về tính chân lý của các tiên đề toán học phải được xác nhận trong thực tiễn qua
nhiều thế kỷ của nhân loại.

Trong quá trình áp dụng toán học vào nghiên cứu thế giới hiện thực, các lý
thuyết thuần túy của nó được biến thành các lý thuyết ứng dụng. Tương ứng với
điều đó, các phán đoán chân lý phân tích được biến thành các phán đoán chân lý
thực nghiệm. Điều đó có nghĩa là giữa tính chân lý phân tích và tính chân lý thực
nghiệm tồn tại mối liên hệ chặt chẽ, dù rằng đó là mối liên hệ không trực tiếp.

Tất cả những điều nói trên phản ánh nét đặc trưng của chân lý trong toán
học.

3.2. Tiêu chuẩn thực tiễn của chân lý toán học

Trong việc phân tích khái lược lịch sử của toán học, chúng ta nhận thấy
rằng, thực tiễn không chỉ là nguồn gốc và động lực của sự phát triển toán học,
mà còn là tiêu chuẩn hàng đầu của các chân lý toán học. Song trong toán học,
việc xem xét thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý được thể hiện dưới hình thức rất
đặc biệt.

Trong thực tiễn, việc xác lập tính chân lý của các lý thuyết toán học đã gặp

9
không ít khó khăn. Đó là điều dễ hiểu, bởi vì tính chân lý của chúng phụ thuộc
trực tiếp vào tính chân lý của các tiên đề. Bởi vậy, để xác lập tính chân lý của
một lý thuyết toán học, ta chỉ cần thử nghiệm các tiên đề của lý thuyết đó.
Nhưng trong thực tế, nhiều tiên đề toán học không cho phép bất cứ một sự thử
nghiệm nào. Trong trường hợp đó, chúng ta chỉ có thể thử nghiệm một số hệ quả
lôgic của các tiên đề, tức là thử nghiệm các định lý. Như vậy, trong rất nhiều
trường hợp, việc xác lập tính chân lý của các lý thuyết toán học thường mang
tính gián tiếp. Đó là nét đặc thù về tiêu chuẩn thực tiễn của chân lý toán học.

Như vậy, tiêu chuẩn thực tiễn của chân lý toán học gắn liền với mối liên
hệ giữa toán học và các khoa học cụ thể. Thông qua mối liên hệ đó tính đúng đắn
của lý thuyết toán học được thực tiễn xác nhận

KẾT LUẬN
Ngôn ngữ toán học cho phép ta nói ngắn gọn nhiều điều mà nếu diễn tả
bằng ngôn ngữ thông thường sẽ rất dài đòng, phức tạp. Trên bình diện nghiên
cứu khoa học, những đặc điểm của ngôn ngữ tự nhiên đôi khi đã tạo nên những
yếu tố chủ quan trong quá trình nhận thức. Việc ứng dụng toán học vào các khoa
học khác đã nâng cao giá trị khách quan của các nguyên lý khoa học, vì khi đó,
người ta có thể loại trừ được những mối liên hệ đa dạng với chủ thể, cái mà luôn
tồn tại trong ngôn ngữ tự nhiên. Có thể nói rằng, ngôn ngữ toán học là sự cải
tiến ngôn ngữ chung, là sự trang bị cho ngôn ngữ chung những công cụ thuận
tiện để phản ánh những mối liên hệ phụ thuộc mà nếu diễn đạt bằng ngôn ngữ
thông thường, sẽ không chính xác hoặc phức tạp.

Do đó, cần thấy rõ vai trò, ý nghĩa đặc biệt và cấp bách của toán học đối
với nhận thức khoa học, nhất là đối với các khoa học xã hội và các ngành mô tả
của tự nhiên học. Chẳng hạn, trong các khoa học xã hội, nếu chỉ mô tả bằng lời
những hệ thống phức tạp, đa dạng và những mối quan hệ tương hỗ của chúng thì
nhất định sẽ dẫn tới những kết luận khái quát khó phân tích, so sánh và vận
dụng.

Tóm lại, giá trị to lớn của toán học là ở chỗ, chúng là công cụ trợ giúp đắc
lực cho khả năng nhận thức của con người về thế giới hiện thực và góp phần
thúc đẩy các khoa học khác phát triển, góp phần phục vụ cho lợi ích thiết thực
của con người hay như Mác đã khẳng định: "Một khoa học chỉ đạt được sự hoàn
chỉnh khi nó sử dụng toán học".

10
Tài liệu tham khảo

[1] George Polya, Toán học và những suy luận có lý, Nhà xuất bản giáo dục,
1995.
[2] Nguyễn Bá Đô (chủ biên), Các câu chuyện toán học, Nhà xuất bản giáo dục,
2003.
[3] Nguyễn Gia Thơ, Logic quy nạp và vai trò của nó trong nhận thức khoa học,
Nhà xuất bản khoa học xã hội, 2005.
[4] Đoàn Quang Thọ (chủ biên), Giáo trình triết học, Nhà xuất bản lý luận chính
trị, 2007.

11

You might also like