You are on page 1of 117

Alfa Romeo ra đời như thế nào?

Alfa Romeo là một công ty sản xuất xe


hơi nổi tiếng của Italia, do Cavaliere Ugo
Stella, một nhà quý tộc ở Milan liên kết
với nhà sản xuất xe hơi Alexandre
Darracq sáng lập vào năm 1907, lấy tên
là "Darracq Italiana". Ban đầu, nhà máy
sản xuất được đặt ở Naples nhưng sau
đó, Stella đã dời xưởng về vùng ngoại ô
Milan và đổi tên thành ALFA (Anonima
Lombarda Fabbrica Automobili).

Chiếc 1910 24HP do Giuseppe Merosi thiết kế là chiếc xe đầu tiên không còn
mang nhãn hiệu Darracq. Sau đó Merosi cũng tiếp tục thiết kế nhiều mẫu xe
ALFA mới được trang bị động cơ mạnh mẽ hơn (40-60hp). ALFA cũng tham
gia vào các giải đua xe quốc tế tuy nhiên do ảnh hưởng của chiến tranh thế
giới thứ nhất, ALFA đã phải ngưng sản xuất xe trong 3 năm.

ALFA bắt đầu nằm dưới sự điều hành của


Nicola Romeo từ năm 1916 và chuyển sang sản
xuất vũ khí quân dụng hạng nặng cho quân đội
Italia và các đồng minh của Italia. Trong suốt
thời kỳ chiến tranh, ALFA đã sản xuất vũ khí và
động cơ cho máy bay, máy phát điện và đầu
máy xe lửa. Khi chiến tranh kết thúc, Nicola
Romeo đã hoàn toàn tiếp quản ALFA và công ty
tiếp tục sản xuất xe hơi trở lại.

Năm 1920, ALFA đổi tên thành Alfa Romeo và mẫu xe đầu tiên ra mắt là
chiếc Torpedo 20-30HP. Giuseppe Merosi vẫn là nhà thiết kế chính cho Alfa
Romeo và công ty vẫn tiếp tục cho ra đời những mẫu xe hơi dân dụng và xe
đua danh tiếng (trong đó có cả chiếc 40-60HP và RL Targa Florio).

Năm 1923 Vittorio Jano bỏ Fiat đến đầu


quân cho Alfa Romeo, thay thế vị trí
thiết kế trưởng của Merosi, một phần là
nhờ sự thuyết phục của tay đua trẻ tuổi
Enzo Ferrari của đội Alfa Romeo. Chiếc
xe đầu tiên do Jano thiết kế là chiếc P2
Grand Prix, chiếc xe giành giải vô địch
thế giới năm 1925. Jano cũng đã phát
triển hàng loạt những chiếc xe dân
dụng, từ những chiếc xe có dung tích xi
lanh lớn/nhỏ với động cơ I4, I6 hay I8
dựa trên động cơ P2. Năm 1928, sau khi
hợp đồng vũ khí quốc phòng hết hiệu lực, Alfa Romeo gần như đứng bên bờ
vực phá sản. Alfa Romeo bắt đầu nằm dưới sự kiểm soát của Chính phủ Italy
vào năm 1933. Kể từ đó, Alfa Romeo còn nổi tiếng với những mẫu xe thiết kế
dành riêng cho cảnh sát ("Panthers" Carabinieri, Giulia Super, hay 2600 Sprint
GT…).

Sau Thế chiến II, Alfa Romeo


cố gắng khôi phục sản xuất từ
đống đổ nát do chiến tranh
gây ra. Những chiếc xe hơi
sang trọng và những chiếc xe
cỡ nhỏ bắt đầu được sản xuất
hàng loạt ở các nhà máy của
Alfa Romeo.

Trên đường đua, các xe Alfa


Romeo đã giành được rất
nhiều chiến thắng vinh quang
trong nhiều giải đấu, từ giải
Formula 1, Prototypes, Touring đến giải Fast Touring.

Tuy nhiên, đầu những năm 1970, Alfa lại một lần nữa gặp khó khăn về tài
chính. Chính phủ Italia buộc phải bán Alfa Romeo cho Fiat, tập đoàn Alfa
Lancia Spa ra đời, mở đầu cho kỷ nguyên của Alfa và Lancia. Cho đến nay,
Alfa Romeo vẫn thuộc sở hữu của Fiat.
Audi AG ra đời như thế nào?

Hiếm nhà sản xuất xe hơi nào lại có lịch sử phát triển hào hùng hay
sở hữu một bộ sưu tập những chiếc xe danh tiếng thế giới như Audi.
Không chỉ đi đầu trong lĩnh vực nghiên cứu, phát triển công nghệ
mới cho xe hơi, Audi còn xứng đáng là "bá chủ" trên các đường đua
đường trường.

Kỷ nguyên của Auto Union AG

Năm 1932, Audi sát nhập với Horch,


DKW và Wanderer thành lập nên Auto
Union AG. Bắt đầu một kỷ nguyên mới
của tập đoàn xe hơi hạng sang.

Năm 1933, lần đầu tiên Auto Union AG


tham gia German Automobile Exhibition.
Audi đã đem đến triển lãm một bất ngờ
lớn với một chiếc xe cỡ vừa dẫn động cầu Logo của Audi
trước. Chiếc xe concept này đã được
phát triển và đến 1938, Audi 920 chính thức có mặt trên thị trường. Với thiết
kế hiện đại, động cơ OHC 75hp mạnh mẽ, chiếc xe có thể đạt vận tốc tối đa
140km/h. Audi 920 thực sự trở thành niềm mơ ước của những người năng
động, ưa mạo hiểm luôn khao khát có
một chiếc xe nhỏ nhưng mạnh mẽ.

Trong khi đó, DKW chủ yếu được biết


đến là một trong những nhà sản xuất xe
máy lớn nhất thế giới. Năm 1933, DKW
ra mắt mẫu xe mới sử dụng 8 động cơ
175-600cc và năm 1934, chiếc RT 100
xuất hiện trên thị trường và nhanh chóng
trở thành chiếc xe bán chạy nhất mọi
thời đại. Vị thế của DKW càng được củng
cố hơn với sự ra đời của 200 Class và NZ Audi 920 - Một trong những mẫu
(1938). Ô tô cỡ nhỏ của DKW được sản xe kinh điển
xuất ở Berlin-Spandau và Zwickau. Các
mẫu xe 4WD của DKW, bao gồm các mẫu F2, F4, F5, F7 và F8, được phân
chia làm 2 hạng: hạng Reichsklasse (Rich class - động cơ 600cc 18hp) và
Meisterklasse (Master class - động cơ 700cc 20hp). Ngoài ra, DKW còn giới
thiệu mẫu xe mui xếp “Front Luxus”. Xe DKW Front vẫn tiếp tục dẫn đầu
trong số các xe cỡ nhỏ bán chạy nhất ở Đức: Vào những năm 1930, 250.000
chiếc DKW Front đã được tiêu thụ ở Đức.

Năm 1933, Horch giới thiệu hàng loạt động cơ V8 với dung tích xi lanh 3,0L,
3,5L và 3,8L (công suất cực đại 70-92hp). Năm 1935, Horch giới thiệu chiếc
xe thể thao mui xếp Type 853 sử dụng động cơ I8. Năm 1937, Horch chiếm
tới hơn 50% thị phần xe trên 4.0L.
Từ trước khi sát nhập với Audi, Horch và
DKW thành Auto Union AG, Wanderer đã
sử dụng động cơ OHC do Giáo sư
Porsche thiết kế. Wanderer lần lượt giới
thiệu model W21 và W22 (1933), W40,
W45 và W50 (1935). Động cơ Horch V8
dần được thay thế bằng động cơ I6. Auto
Union ngày càng đạt được nhiều tiến bộ
vượt bậc trong việc phát triển hộp số tự
động và tìm kiếm vật liệu mới để sản
Thiết kế tinh tế
xuất thân xe.

Hơn nữa, nhận thấy việc sản xuất khung gầm bằng gỗ và nội thất bọc da quá
tốn kém, Auto Union AG hợp tác với Dynamit AG (Troisdorf) để nghiên cứu,
phát triển thân xe bằng plastic. Lần đầu tiên trong lịch sử ngành công nghiệp
ô tô Đức người ta đã tiến hành một chương trình kiểm tra độ cứng của gỗ,
thép tấm và plastic.

Auto Union AG mở rộng khá nhanh trong giai đoạn 1933-1939 với doanh thu
tăng từ 65 triệu lên 276 triệu (Reichsmark) và 23,000 nhân công. Sản lượng
hàng năm của Auto Union cũng tăng vọt: Xe máy từ 12,000 xe/năm lên
59.000 xe/năm và ô tô từ 17.000 xe/năm lên 67.000xe/năm. So với năm
1932 (năm thành lập Auto Union), năm 1938, sản lượng của Horch tăng gấp
đôi, Wanderer tăng gấp 5 lần còn DKW tăng tới 10 lần.

Sự tạm dừng và bước khởi đầu mới

Sau khi chiến tranh kết thúc, toàn bộ nhà


xưởng, thiết bị sản xuất của Auto Union
AG bị quân đội Liên Xô cũ tiếp quản.
Năm 1949, Ban Giám đốc của Auto Union
AG đã dời công ty về Bavaria và thành
lập trụ sở mới tại Ingolstadt.

Năm 1954, công ty đạt được mức siêu lợi


nhuận (400.000 DM) nhưng tháng
08/1954 ở Bavaria đã nổ ra một cuộc Nội thất sang trọng
đình công lớn và Auto Union đã phải chi
khoảng 920.000 DM cho vụ này. Cũng trong năm này, Friedrich Flick, cổ đông
lớn nhất của tập đoàn Sắt thép Maxhutte, đầu tư vào Auto Union.
Năm 1957, Daimler-Benz tỏ ý muốn thâu tóm Auto Union để mở rộng sản
xuất và tăng thị phần. Kế hoạch này được Flick hoàn toàn ủng hộ. Khi đó,
Flick nắm giữ trong tay 41% cổ phần của Auto Union và 25% cổ phần của
Daimler-Benz. Ngoài ra, Flick còn được nhà tư bản người Thuỵ Sỹ Ernst
Göhner, người cũng nắm giữ tới 41% cổ phần của Auto Union, hậu thuẫn.
Ngày 24/04/1958, Daimler-Benz mua vào
88% cổ phần của Auto Union chỉ với giá
41 triệu DM. Chưa đầy một năm sau,
Daimler-Benz đã thâu tóm toàn bộ Auto
Union. Một nhà máy mới được xây dựng
ở Ettinger Strasse và bắt đầu đi vào sản
xuất vào tháng 07/1958. Lực lượng lao
động sản xuất của Auto Union ở
Ingolstadt tăng lên 3.700 người (1958)
và 5.700 người (1959).

Năm 1962, doanh thu của Auto Union bắt


đầu giảm sút, trong khi Daimler-Benz
ngày càng phát triển mạnh mẽ. Đến năm Động cơ mạnh mẽ
1964, Auto Union đối mặt với khó khăn
nghiêm trọng về tài chính. Daimler-Benz nhận thấy không thể tiếp tục gánh
vác thua lỗ cho Auto Union bèn tìm cách bán công ty này cho Volkswagen.

Kỷ nguyên mới của Audi

Sự chuyển giao quyền sở hữu Auto Union đặt dấu chấm hết cho kỷ nguyên
động cơ hai kỳ. Gần 30.000 chiếc ô tô mang nhãn hiệu DKW bị tiêu huỷ. Nhà
máy của Auto Union được dùng làm nơi lắp ráp VW Beetle. Cuối năm 1965,
Auto Union phục hồi đôi chút nhờ có sự ra đời của những chiếc xe Audi bốn
kỳ mới. Ngày 10/03/1969, Auto Union GmbH sát nhập với NSU Motorenwerke
AG, và ngày 01/01/1969đổi tên là Audi NSU Union AG. Sản lượng của cả NSU
và Audi tăng đều đặn đến cuối 1973 nhưng đến năm 1974, do ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng dầu mỏ, sản lượng của Audi NSU Union AG giảm mạnh, từ
400.000 xe (1973) xuống
còn 330.000 xe (1974).

Cuối năm 1975, ngành công


nghiệp ô tô Đức bắt đầu hồi
phục trở lại. Tháng 3/1977,
chiếc xe mang nhãn hiệu
NSU cuối cùng xuất xưởng.
Kể từ đó, mọi chiếc xe do
công ty sản xuất đều mang
nhãn hiệu “Audi”. Sự ra đời
của chiếc xe thể thao 4WD
Audi Quattro năm 1980 thực
sự làm chấn động ngành sản
xuất ô tô thế giới, đưa Audi Xứng danh ông hoàng xe hơi
lên vị trí hàng đầu về công
nghệ. Đây là chiếc xe thương mại đầu tiên được trang bị hệ thống dẫn động
chủ động bốn bánh.

Ngày 01/01/1985, Audi NSU Union AG được đổi tên thành AUDI AG. Trụ sở
của công ty đồng thời cũng được chuyển về Ingolstadt. Cũng trong năm
1985, lần đầu tiên công ty dạt tổng vốn đầu tư lên tới 1 tỉ DM. Mùa thu năm
1986, Audi giới thiệu Audi 80 mới với thân xe mạ kẽm. Đến năm 1986, khi
Audi 80 trở nên lạc hậu, Audi cho ra mắt chiếc Audi 89 và mẫu xe này nhanh
chóng được ưa chuộng rộng rãi. Năm 1987, Audi giới thiệu Audi 90 mới và
trang nhã với hàng loạt những tính năng mới.

Năm 1988, Audi tung ra thị trường chiếc xe hạng sang đầu tiên, chiếc Audi V8
trang bị động cơ V8 3,6L - 4 van. Năm 1992, chiếc xe Audi 80 TDI du hành
một vòng quanh thế giới, vượt qua quãng đường 40.273km với vận tốc trung
bình 85,8km/h và mức tiêu hao nhiên liệu 3,78L/100km (74,7mpg). Năm
1991, Audi đạt mức doanh thu kỷ lục 14,8 tỉ DM. Sự ra đời của Audi A4 đã
đem lại thành công rực rỡ cho Audi: Năm 1995, 120.000 chiếc Audi A4 được
tiêu thụ ở Đức.
Cuối năm 1995, danh tiếng của Audi
càng được củng cố hơn khi hai chiếc
concept TT Coupé và TT Roadster ra đời.
Tiếp đó, Audi giới thiệu chiếc compact 2
cửa Audi A3 (1996) và Audi A6 (1997).

Hiện nay, doanh số xe bán ra của Audi


trên thị trường châu Âu liên tục tăng
nhanh. Năm 2004, 779,441 chiếc Audi đã
được tiêu thụ trên toàn thế giới, trong
Audi Quattro - mẫu xe huyền thoại
đó, doanh số xe bán ra của Audi tăng
mạnh nhất ở Trung Đông (tăng 58,5%), Đông Âu (tăng 19,3%) và ở châu Phi
(tăng 17,2%).

Mặc dù không thông dụng như xe của Mercedes-Benz hay BMW, nhưng ô tô
của Audi vẫn luôn là biểu tượng của công nghệ cao và thiết kế tinh tế.
Thương hiệu Toyota ra đời như thế nào?

Những người ưa thích tìm hiểu


lịch sử các nhà sản xuất xe hơi
hẳn đã quá biết về người sáng
lập ra tập đoàn sản xuất xe hơi
hàng đầu hiện nay Toyota
Motors Company chính là người
thợ mộc tài hoa Sakichi Toyoda.
Không chỉ có vậy, khi mới được
thành lập, nhà sản xuất xe hơi
này lại mang tên Toyoda
Automatic Loom Works Ltd. Vậy
thì cái tên Toyota thực chất có
từ bao giờ?

Quay ngược thời gian trở về với năm 1936, để chón chào sự kiện chiếc xe du
lịch đầu tiên ra đời, Toyoda Automatic Loom Works Ltd. đã tổ chức một cuộc
thi thiết kế biểu trưng nhằm quảng bá hình ảnh của công ty. Yêu cầu đặt ra
đối với biểu trưng này đó là phải khơi gợi cảm giác hưng phấn giống như
đang ngồi trên một chiếc xe chạy với vận tốc cao. 27.000 thí sinh đã hưởng
ứng cuộc thi này.

Người thắng cuộc là một chàng trai đã


sáng tạo và mạnh dạn đề xuất ý tưởng
đổi tên công ty và những chiếc xe hơi
này thành "Toyota". Con trai của Sakichi
Toyoda - Kichiro Toyoda gần như ngay
lập tức bị ấn tượng bởi cái tên mới này
và tuyên bố đổi tên Toyoda thành
Toyota."Toyota" trong tiếng Nhật rõ
ràng có cách viết bay bướm hơn rất
nhiều so với từ "Toyoda". Hơn nữa, để
viết được từ "Toyota", người ta phải viết 8 nét – con số này trong văn hoá
Nhật vốn là một biểu tượng cho sự may mắn và thịnh vượng. Cách phát âm
của Toyota cũng rắn rỏi và mạnh mẽ hơn hẳn so với Toyoda. Tháng 4/1937,
Toyota chính thức được đăng ký bản quyền thương mại. Mẫu xe Model AA,
chiếc xe du lịch đầu tiên của Toyota cũng chính là chiếc xe đầu tiên mang
thương hiệu Toyota .
Tuy nhiên, đây vẫn chưa thể coi là thành
công thực sự của Toyota. Do chưa thể
định hướng được thương hiệu cũng như
cách quảng bá thương hiệu một cách
hiệu quả, rộng khắp, thương hiệu Toyota
được mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ
hiểu theo một cách khác nhau. Điều đó
có nghĩa là, cùng một thương hiệu
nhưng lại mang quá nhiều cách diễn đạt,
khiến cho hình ảnh và thông điệp của
công ty không nhất quán.

Năm 1989, nhằm tạo ra một hình ảnh và một thông điệp nhất quán về
thương hiệu Toyota, và cũng để tách biệt Toyota khỏi thương hiệu xe hơi
hạng sang Lexus, Toyota đã thiết kế mẫu logo mới – chính là logo hiện nay
của Toyota.

Logo mới này gồm 3 hình elíp lồng vào


nhau. Hai hình elíp nhỏ ở giữa, lồng
vuông góc với nhau tượng trưng cho mối
quan hệ gắn kết, sự tin tưởng lẫn nhau
giữa khách hàng và Toyota, đồng thời
tạo thành chữ T trong từ "Toyota". Hình
elíp thứ ba tạo thành nền của logo, hàm
ý sự phát triển không ngừng của Toyota
trong lĩnh vực công nghệ xe hơi cũng
như sự phát triển vượt bậc của công ty
trong tương lai.

Không chỉ có vậy, ngày nay, khi thương hiệu Toyota đã trở nên nổi tiếng toàn
thế giới và là lựa chọn hàng đầu của người tiêu dùng, 3 hình elíp này còn
biểu hiện những đặc tính rất riêng của Toyota. Đó là chất lượng, sự tin cậy và
tinh thần không ngừng đổi mới.
BMW có lịch sử phát triển như thế nào?

Tòa nhà "tổng hành dinh" của BMW được xây dựng mô
phỏng theo hình dáng của bốn chiếc xi-lanh
Trước Thế chiến II

BMW được Karl Friedrich Rapp thành lập vào tháng 10/1913. Ban đầu, thực
chất đây là một nhà máy sản xuất động cơ máy bay (Bayerische Flugzeug-
Werke) có trụ sở tại Milbertshofen, Munich. Do gặp khó khăn về tài chính,
Rapp phải cầu viện trợ giúp từ Camillo Castiglioni và Max Friz và công ty được
cơ cấu lại thành Bayerische Motoren Werke GmbH (BMW GmbH).

Năm 1918, Franz Josef Popp, một nhà tư bản


người Áo, chính thức tiếp quản BMW từ năm
1917 và đổi tên công ty thành BMW AG. Sau
Thế chiến I, Hiệp ướcVersailles (1919) nghiêm
cấm sản xuất máy bay tại Đức. Otto đóng cửa
nhà máy và chuyển sang sản xuất phanh hơi
cho tàu hoả.

Chiếc ô tô đầu tiên do BMW chế tạo là chiếc


BMW 3/15 (1928) song mãi đến tận 1933 chiếc
xe thực sự "BMW", trang bị động cơ I6, mới ra đời. Trước Thế chiến II, cả hai
chiếc sedan 327 và chiếc roadster 328 của BMW đều đã hiện đại và tân tiến
hơn rất nhiều so với những chiếc xe cùng thời khác.
Thế chiến II

BMW là nhà cung cấp chính về động cơ cho


Luftwaffe và Wehrmacht, trong đó có cả động
cơ 801. BMW cũng sản xuất cả động cơ máy
bay phản lực, động cơ BMW 003 và vũ khí tên
lửa. Cuối Thế chiến II, nhà máy BMW ở Munich
bị bom tàn phá nặng nề còn các nhà máy ở Eisenach, Dürrerhof, Basdorf và
Zühlsdorf thì bị Liên Xô cũ chiếm đóng.

Sau Thế chiến II, BMW bị quân Đồng Minh cấm mọi hoạt động sản xuất cho
đến tận năm 1952. Ở miền Đông, nhà máy của BMW ở Eisenach chịu sự quản
lý của Tập đoàn Awtowelo, một doanh nghiệp quốc doanh. Kể từ đó, các xe
của BMW mang thương hiệu EMW đến tận năm 1955. Ở miền Đông, nhà sản
xuất máy bay Bristol BAC quản lý các nhà máy của BMW, sau đó đem các
mẫu 326, 327 và 328 về Anh dưới danh nghĩa bồi thường thiệt hại chiến
tranh.

Thời kỳ sau chiến tranh

Năm 1952, lần đầu tiên sau Chiến tranh thế giới thứ 2 BMW tái sản xuất xe
du lịch song mẫu xe này đã không thể len chân vào thị trường xe hạng nhất.
Năm 1959, BMW dự định sát nhập với Daimler-Benz song Chủ tịch Hội đồng
Quản trị của BMW - Kurt Golda đã thuyết phục được cổ đông lớn nhất
Herbert Quandt thay đổi quyết định.

Vươn ra ngoài lãnh thổ nước Đức BMW bắt đầu


sản xuất xe hơi ở Spartanburg, South Carolina
năm 1994. Nhà máy này hoạt động 6 ngày một
tuần, nghĩa là chế tạo xe hơi liên tục trong
110h/tuần, sử dụng 4.700 nhân công và sản
lượng lên tới 500 chiếc mỗi ngày. Hiện nay, nhà
máy này hàng năm xuất khẩu hơn 50,000 chiếc
BMW 3 Series, chủ yếu sang thị trường Mỹ,
Nhật, Úc, châu Phi và Trung Đông. Xe hơi của
BMW cũng bắt đầu được sản xuất ở Shenyang, Trung Quốc vào tháng
10/2003, thông qua một liên doanh của BMW với nhà sản xuất xe hơi Trung
Quốc Brilliance nhằm sản xuất BMW 3 Series và 5 Series cho thị trường nội
địa.

Tiếp quản Rover & Rolls-Royce


Từ năm 1994 đến 2000, dưới sự lãnh đạo của
Bernd Pischetsrieder, BMW mua lại Rover Group
của British Group với mục đích đưa xe vào sản
xuất hàng loạt. Kể từ đó hàng loạt mẫu xe du
lịch danh tiếng của Rover như Mini, Land Rover
và Ranger Rover và cả mẫu xe lịch sử Triumph
đều thuộc sở hữu của BMW. Tuy nhiên, công việc kinh doanh không được
suôn sẻ. Trong nhiều năm, xe Rover cạnh tranh gay gắt với BMW trong sản
xuất, giành giật thị phần và thậm chí là ở cả chiến lược tiếp thị. Nhận thấy
khó khăn trong việc phát triển Rover song song với BMW, BMW liên tiếp thay
đổi chiến lược marketing cho bộ phận Rover. Năm 2000, sau 6 năm thua lỗ
liên tiếp, BMW bán Rover cho Phoenix Consortium với giá rẻ mạt, đồng thời
bán Land Rover và Range Rover cho Ford Motors.

Đầu những năm 1990, BMW bắt đầu hợp tác


với Rolls-Royce. Kể từ đó, Rolls-Royce Silver
Seraph và Bentley Arnage sử dụng dộng cơ của
BMW. Năm 1998, BMW đã mua lại thương hiệu
Rolls-Royce với giá 40 triệu đôla.
"Chiến binh" Jeep ra đời như thế nào?

Hiện nay là thương hiệu xe hơi của DaimlerChrysler nhưng ban đầu, "jeep"
được dùng để chỉ chiếc Bantam BRC - một chiếc xe quân sự. Mẫu xe này
cũng được Willys-Overland và Ford Motor Company tham gia sản xuất trong
thời kỳ Chiến tranh Thế giới lần thứ II. Ngoài ra, người ta còn dùng từ "jeep"
để chỉ dòng xe SUV - xe thể thao đa dụng.

Chiếc xe jeep đầu tiên chính là chiếc Bantam


BRC do American Bantam sản xuất theo đơn
đặt hàng của quân đội Hoa Kỳ. Chiếc xe này
thực sự đáp ứng được mọi yêu cầu của quân
đội, nhưng đáng tiếc American Bantam Car
Company lại là một công ty "vô danh tiểu tốt".
Quân đội Hoa Kỳ cho rằng công ty này không
thể cung ứng được số lượng lớn xe Jeep. Chính
Bantam BRC-40 vì vậy, Willys-Overland và Ford Motor Company
đã thử sản xuất xe jeep, sau khi quan sát chiếc xe jeep của American
Bantam. Nhiều người cho rằng Willys và Ford đã tham khảo các bản kỹ thuật
của Bantam để chế tạo thế hệ jeep thứ hai này.

Cả 3 mẫu xe này (mỗi mẫu 1500 chiếc) đã được đem đi thử nghiệm, cuối
cùng Willys, do trả thầu thấp nhất, đã trúng thầu hợp đồng chế tạo xe jeep
đầu tiên. Công ty này đã

chế tạo ra mẫu xe được coi là mẫu jeep tiêu


chuẩn - mẫu xe jeep quân đội MB. Tuy nhiên,
cũng giống American Bantam, Willys cũng chỉ là
một hãng sản xuất xe hơi nho nhỏ, và quân đội
Hoa Kỳ không thể không lo ngại về khả năng
cung ứng xe jeep của hãng. Hơn nữa, vì Willys
chỉ có một xưởng sản xuất duy nhất, nên nguy
Willys MB (1941-1945) cơ nguồn cung ứng bị gián đoạn hoặc cắt đứt
rất dễ xảy ra nếu xưởng sản xuất này bị phá huỷ. Đây là lý do khiến chính
phủ Hoa Kỳ đã yêu cầu Ford tham gia sản xuât xe jeep, lấy nhãn hiệu là GPW
(G = xe của chính phủ, P = chiều dài cơ sở, W = thiết kế của Willys). Như
vậy là, dưới sự chỉ đạo của Charles E. Sorensen (Phó Chủ tịch Ford trong thời
kỳ Chiến tranh thế giới lần thứ 2) đã sản xuất tới hơn 600.000 chiếc xe jeep.

Xe jeep nhanh chóng được nhân bản trên hầu khắp thế giới, với nhiều phiên
bản khác nhau. Mẫu xe này thậm chí còn phục vụ Hồng quân Liên Xô trong
suốt Chiến tranh Thế giới lần thứ 2)

Thương hiệu Jeep đã đổi chủ không ít lần. Jeep


thuộc quyền sở hữu của Willys vào năm 1941,
sau đó Willys được bán cho Kaiser năm 1953,
đổi tên thành Kaiser-Jeep. Sau đó, Jeep hoạt
động không hiệu quả, American Motors (AMC)
đã mua lại thương hiệu Jeep từ tay Kaiser vào
năm 1970. Sau đó, Chrysler Corporation đã
CJ-3B mua lại AMC năm 1987, chỉ một thời gian ngắn
sau khi mẫu Jeep CJ được thay thế bởi mẫu
Jeep Wrangler (YJ) do AMC thiết kế. Cuối cùng, khi Chrysler sát nhập với
Daimler-Benz, năm 1998, thương hiệu Jeep lại thuộc quyền sở hữu của
DaimlerChrysler.

Các dòng xe Jeep

Jeep quân sự

Bantam phát triển mẫu thiết kế thử nghiệm thành model BRC-40 - đây là một
chiếc xe nhẹ, dễ điều khiển. Trái ngược hẳn với BRC-40 là mẫu MA - chắc
chắn và mạnh mẽ. Đây chính là dòng xe đã phục vụ Hồng quân Liên Xô.
Trong khi đó, model MB (1942-1945) lại giành được sự tín nhiệm tuyệt đối từ
phía quân đội Hoa Kỳ. "Người hùng" của cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ 2
đã thay đổi hoàn toàn cách nhìn của người Mỹ về xe hơi. Cái tên Jeep cũng ra
đời trong thời điểm lịch sử này.

M422 là mẫu xe AMC chế tạo dành riêng cho lính thuỷ đánh bộ Hoa Kỳ - đây
là mẫu xe sử dụng động cơ V4 làm mát bằng không khí. Một chiếc Jeep khá
quen thuộc nữa chính là dòng xe Humvee hiện nay được quân đội Hoa Kỳ hết
sức ưa chuộng - HMMWW (Highly Mobile Multi-Purpose Wheeled Vehicle).

Từ thành công của dòng MB, Willys đã phát triển những chiếc xe jeep dân sự
(civillian jeep). Hầu hết các dòng xe jeep dân sự được sản xuất với số lượng
rất hạn chế (vài chục chiếc), ngoại trừ mẫu CJ-5 với hơn 600.000 chiếc được
sản xuất liên tục trong gần 30 năm. Willys cũng phát triển chiếc DJ
(Dispatcher Jeep) thành những chiếc jeep mui cứng. Sau này, vào khoảng
giữa thập niên 80, AMC lại tung ra thị trường mẫu Jeep Wrangler (doanh số
khoảng 623.000 chiếc).

Jeep dân sự
Biểu tượng Ford ra đời từ bao giờ?

Suốt hơn 100 năm lịch sử nghiên cứu, chế tạo và phát triển xe hơi,
Ford đã không ít lần thay đổi mẫu mã biểu
trưng của mình.

Năm 1903, lần đầu tiên thương hiệu “Ford Motor


Company” được dùng trong các giao dịch thương
mại. Sau đó, khi mẫu xe Model A được sản xuất
hàng loạt, Ford đã có những cải tiến đặc biệt để
biến tên công ty trở thành biểu tượng của hãng
bằng cách lồng tên công ty vào một khung viền
cực kỳ thời trang vào thời đó.

Cùng với sự ra đời của hàng loạt mẫu xe mới


cũng như những thuận lợi hiếm có trong công việc kinh doanh, Ford nhận
thấy sự cần thiết trong việc đơn giản hoá biểu tượng của mình. Năm 1906,
Ford trình làng một mẫu biểu trưng hoàn toàn mới. Chữ Ford viết nghiêng 45o
được cách điệu ở chữ F và chữ D với đuôi vắt xuống thật dài nhưng cũng thật
mềm mại, bay bổng và tinh tế. Mẫu biểu trưng này được đăng ký bản quyền
tại văn phòng phát minh sáng chế Mỹ năm
1909.

Bên cạnh logo đã được đăng ký tại Mỹ, biểu


tượng Ford hình ô-van lần đầu tiên được các công
ty Perry, Thornton và Schreiber đưa vào Anh năm
1907. (Đây cũng chính là những người tiên phong
trong việc đưa Ford vào nước Anh và thành lập
Ford Ltd. tại Anh sau này). Biểu tượng hình ô-van
này được dùng để quảng cáo cho các sản phẩm
của Ford - “Dấu chứng nhận cho lòng tin và sự tiết kiệm ”.

Bằng việc kết hợp chữ Ford cách điệu với kiểu dáng hình ô-van, năm 1911,
Ford đưa ra logo và sử dụng thống nhất tại các đại lý ở Anh. Tuy nhiên, trên
các sản phẩm và trong các giao dịch thương mại, Ford vẫn dùng logo đầu
tiên cho đến tận thập niên 1920.

Đã có thời gian Ford thay thế hoàn toàn logo hình ô-van bằng logo cánh chim
hình tam giác trên các sản phẩm của mình. Logo này được thiết kế tượng
trưng cho tốc độ, sự nhẹ nhàng, sự duyên dáng và ổn định. Logo có hai màu,
vàng và xanh sậm, trên đó mang dòng chữ “Universal Car”. Henry Ford không
thích biểu tượng này, chính vì vậy chẳng bao lâu sau người ta không còn thấy
nó trên các sản phẩm của Ford.
Model A 1927 là mẫu xe đầu
tiên có gắn logo hình oval
trên lưới tản nhiệt. Với nền
màu xanh hoàng gia thẫm
tương tự với logo ngày nay
của Ford, logo này được sử
dụng trong hầu hết các mẫu
xe Ford cho đến cuối thập
niên 1950. Mặc dù logo hình
ô-van vẫn được sử dụng
thống nhất trong toàn bộ
các giao dịch thương mại,
nhưng mãi đến giữa thập niên 1970, người ta mới lại thấy biểu trưng hình ô-
van này xuất hiện trở lại trên các xe Ford.

Năm 1976, logo Ford hình ô-van với hai gam màu xanh và bạc trở thành dấu
hiệu chứng nhận thương hiệu của Ford Motor Company, nhằm thể hiện một
hình ảnh nhất quán về công ty, các nhà máy, cơ sở vật chất cũng như các
mẫu xe và tất cả những tài sản thuộc Ford Motor Company.

Ngày 17/06/2003, kỷ niệm 100 năm thành lập, Ford Motor Company đã đưa
ra một phiên bản mới của logo hình ô-van có đôi chút thay đổi, nhưng không
nhiều và không dễ nhận thấy. Logo hoàn toàn mới này có tên là "Logo Kỷ
niệm 100 năm ngày thành lập" (Ford Centennial Logo).

Sứ mệnh trường tồn của Ford: sản phẩm tuyệt vời, công ty
hùng mạnh và vì một thế giới tươi đẹp hơn.
Biểu tượng của Audi có ý nghĩa như thế nào?

Năm 1932, Auto Union quyết định chọn biểu tượng 4 hình tròn xếp lồng vào
nhau, tượng trưng cho 4 công ty tiền thân của tập đoàn sản xuất xe hơi này.
Tất cả các hình tròn có kích thước hoàn toàn bằng nhau, nằm bình đẳng trên
một đường ngang, lồng vào nhau, thể hiện sự đoàn kết và tôn trọng lẫn
nhau.

Horch

August Horch, một trong những người tiên


phong của ngành công nghiệp ô tô Đức, chính là
người đã sáng lập ra Horch Werke. Horch đã
từng giữ những chức vụ cao nhất ở nhà máy
sản xuất động cơ Carl Benz ( Mannheim). Năm
1899, Horch quyết định thành lập công ty sản xuất ô tô riêng ở Cologne, lấy
tên là Horch & Cie. Ông dời công ty về Reichenbach (1902) và Zwickau
(1904), và bắt đầu sản xuất ô
tô sử dụng động cơ 4 xilanh.

Tuy nhiên, do bất đồng quan


điểm với Hội đồng Giám sát và
Hội đồng Quản trị của công ty,
August Horch rời khỏi Horch &
Cie. Năm 1931, Horch-Werke
giới thiệu mẫu xe mới tại Paris
Motor Show: Một chiếc mui
xếp thể thao với động cơ 12
xilanh, màu vàng tươi, mui xếp
màu nâu nhạt, nội thất bọc da.
Trong phân khúc xe hạng
sang, Horch luôn dẫn đầu với
doanh số bán ra luôn cao hơn các đối thủ của mình khoảng 30%. Tuy nhiên,
sau đó công ty đã gặp khó khăn về tài chính, chủ yếu là do chi tiêu quá tay
cho các hoạt động bán hàng.

Audi

Sau khi rời khỏi Horch & Cie., Horch thành lập một công ty ô tô khác và vẫn
tiếp tục sử dụng nhãn hiệu Horch. Horch & Cie. đã kiện ông vì vi phạm bản
quyền thương hiệu. Do đó, Horch phải tìm thương hiệu mới cho công ty của
mình. Theo tiếng Đức cổ, từ "horch" có nghĩa là "lắng nghe", và Horch đã sử
dụng một từ Latin đồng nghĩa với từ "horch", đó là từ "audi", để đặt tên cho
những chiếc ô tô của ông. Tuy nhiên, rất nhiều người lại cho rằng Audi là từ
viết tắt của "Auto Union Deutschland Ingolstadt" (Ingolstadt Auto
Corporation, Germany).
Chiếc xe mang nhãn hiệu Audi lần đầu tiên xuất hiện trên thị trường năm
1910. Sau Thế chiến I, Audi mở đầu trang sử mới cho ngành công nghiệp ô
tô thế giới: Lần đầu tiên ở xe thương mại vô lăng được đặt bên trái và cần số
được đặt ở giữa xe, giúp cho việc lái xe trở nên dễ dàng hơn rất nhiều. Audi
bắt đầu sản xuất ô tô sử dụng động cơ 2612cc, và sau đó là động cơ 4 xi
lanh 3564 cc, 4680 cc và 5720 cc.

Năm 1923, Audi ra mắt mẫu xe đầu tiên sử dụng động cơ 6 xilanh 4655 cc.
Bên cạnh đó Audi cũng thiết kế và sản xuất hệ thống phanh hơi. Năm 1927,
lần đầu tiên động cơ 8 xilanh của Audi (còn được gọi là Imperator - Kẻ thống
trị) xuất hiện trên thị trường. Tuy nhiên, vào thời điểm này phân khúc xe
hạng sang trên toàn thế giới tụt dốc nghiêm trọng. Từ năm 1928 Audi thuộc
sở hữu của Jörgen Skafte Rasmussen, chủ sở hữu tập đoàn DKW.

DKW

Năm 1904, Jörgen Skafte Rasmussen thành lập


công ty cơ khí chế tạo máy ở Chemnitz. Năm
1916, ông bắt đầu nghiên cứu xe sử dụng động
cơ hơi nước. Mặc dù các thì nghiệm này không
thành công song Rasmussen vẫn quyết định đặt
tên công ty là DKW - Dampf Kraft Wagen
(Steam-Driven Vehicle). Năm 1919, Rasmussen
mua thiết kế động cơ mini hai kỳ của Hugo Ruppe và phát triển thành động
cơ xe máy "Das Kleine Wunder" (The Little Miracle).

Vào những năm 1920, DKW trở thành nhà sản xuất xe máy và động cơ lớn
nhất trên thế giới. Năm 1929, động cơ 8 xy lanh được sử dụng trong mẫu
Audi Zwickau và Audi Dresden. Cũng vào năm đó, những mẫu xe sử dụng
động cơ 4 xi lanh (theo bản quyền của Peugoet) và 6 xi lanh cũng được giới
thiệu.

Tuy nhiên, nắm bắt được nhu cầu của thị


trường, Rasmussen nhanh chóng định hướng
sang ô tô cỡ nhỏ. Chiếc xe thực sự "DKW"
đầu tiên được sản xuất ở Berlin-Spandau và
là xe dẫn động cầu sau. Cuối thập niên 1930,
<>
nhà máy ở Zwickau bắt đầu phát triển mẫu
xe mới với những tính năng: động cơ xe máy
600cc, 2 xilanh, 2 kỳ, nội thất bọc da và dẫn động cầu trước. Chiếc xe này do
hai nhà thiết kế của Audi – Walter Haustein và Oskar Arlt - phát triển và được
đặt tên là DKW Front. Lần đầu tiên ra mắt công chúng vào năm 1931 tại
Berlin Motor Show, DKW Front nhanh chóng trở thành chiếc xe cỡ nhỏ được
yêu thích nhất và bán chạy nhất.

Wanderer

Wanderer ban đầu là một công ty sản xuất xe


đạp được thành lập năm 1885 ở Chemnitz.
Wanderer bắt đầu chế tạo những chiếc ô tô đầu
tiên vào năm 1904. Mãi đến năm 1913, công ty
mới đi vào sản xuất hàng loạt, khởi đầu là mẫu
xe cỡ nhỏ "Puppchen".

Năm 1926, chiếc xe Wanderer Type W10 sử


dụng động cơ 1.5L 30hp xuất xưởng và nhanh chóng được thị trường đón
nhận bởi nó là sự kết hợp của những công nghệ
hiện đại nhất lúc bấy giờ.

Để đáp ứng nhu cầu tăng vọt của thị trường,


Wanderer đã xây dựng một xưởng sản xuất ở
Siegmar ngoại ô Chemnitz với công suất 25
xe/ngày. Tuy nhiên, đến cuối thập niên 1920,
Wanderer cũng lâm vào khủng hoảng.

Ảnh audi.com
Ôtô ra đời như thế nào?

Không phải là phát minh trong ngày một ngày hai, cũng không phải của một
nhà phát minh nào đó, lịch sử của xe hơi là một cuộc cách mạng trên toàn
cầu. Theo ước tính thì có khoảng 100 nghìn bằng sáng chế đã được cấp cho
những người phát minh ra những chiếc ôtô hiện đại ngày nay. Tuy nhiên,
chúng ta hãy ngược dòng thời gian để tìm hiểu về chiếc ôtô từ những ngày sơ
khai nhất.

Vào năm 1769, chiếc xe tự hành đầu tiên đã được


một kĩ sư cơ khí người Pháp tên là Nicolas Joseph
Cugnot (1725-1804) phát minh nhằm phục vụ cho
mục đích quân sự. Chiếc xe này sử dụng động cơ
Chiếc xe hơi nước của hơi nước do kĩ sư Brezin thuộc xưởng quân khí Paris
Cugnot chế tạo. Về cấu tạo, nó có 3 bánh lớn và có thể
chuyển động với tốc độ tối đa 2 dặm rưỡi một giờ.
Hệ thống động cơ hơi nước và bình hơi tách biệt với nhau và được đặt vào
phía đầu mũi xe. Với tốc độ và công suất lớn, chiếc xe hơi nước này được
quân đội Pháp sử dụng để kéo những khẩu pháo khổng lồ. Tuy nhiên, nhược
điểm của nó là cứ 10 hoặc 15 phút lại phải dừng để tiếp nước và khởi động
lại động cơ. Năm 1770, Cugnot đã cho sản xuất chiếc xe hơi nước 3 bánh chở
khách đầu tiên với sức chứa 4 người cho mỗi lần chở.

Năm 1771, Cugnot là người đầu tiên trên thế giới gặp tai nạn khi lái xe ôtô.
Chiếc xe đã đâm vào một bức tường đá trên đường di chuyển. Tiếp đó là một
loạt những điều không may xảy ra với nhà phát minh này: một trong những
nhà tài trợ của Cugnot đã qua đời trong khi những người khác thì bị lưu vong
nước ngoài do những biến động chính trị. Điều này đã khiến cho công việc
của Cugnot phải dừng lại do không còn tiền để trang trải cho mọi chi phí.

Sau Cugnot cũng đã có nhiều người tiếp tục sáng chế và cải tiến xe hơi nước
và nó đã trở thành một phương tiện di chuyển phổ biến ở nhiều nước trong
những năm sau đó.

Vào giữa những năm 1832-1839, Robert Anderson,


một nhà phát minh người Scotland đã cho ra đời
chiếc xe chở khách chạy bằng điện thô sơ đầu tiên
trên thế giới. Năm 1835, một giáo sư người Hà Lan
tên là Stratingh đã thiết kế một chiếc xe chạy bằng
điện có công suất nhỏ, và nó được trợ lý của ông là
Christopher Becker lắp ráp chạy thử. Năm 1842, hai
nhà phát minh Thomas Davenport người Mỹ và Robert Davidson người
Scotland đã cho ra đời bởi những chiếc xe điện hoàn thiện hơn. Tuy
nhiên, loại xe của họ lại sử dụng pin điện không sạc lại nên rất tốn kém về chi
phí sử dụng.
Pháp và Anh là những quốc gia đầu tiên ủng hộ cho việc phát triển xe ôtô
chạy bằng điện. Tuy nhiên, mãi tới năm 1895 Mỹ mới bắt đầu để ý tới loại
phương tiện này, sau khi vào năm 1891, nhà phát minh A. L. Ryker cho ra đời
chiếc xe điện ba bánh đầu tiên tại nước này. Sau đó, một nhà phát minh khác
là William Morrison sản xuất chiếc xe điện có thể chở được 6 hành khách. Vào
khoảng giữa những năm 1890-1900, nhiều cải tiến về chiếc xe điện đã diễn
ra ở đất nước này và điều này đã khiến cho ngành công nghiệp sản xuất và
dịch vụ của loại xe này rất phát triển. Chẳng hạn, vào năm 1897, một đội taxi
của thành phố New York đã được thành lập bởi Công ty chuyên chở hàng hóa
và hành khách bằng xe điện của Philadelphia.
Bên cạnh và có thể gọi là song song với sự phát
triển của xe chạy bằng điện là sự phát minh và phát
triển của xe ôtô chạy bằng động cơ dầu. Và có lẽ,
thành công và nổi tiếng nhất là những chiếc xe do
Gottlieb Daimler và Karl Benz phát minh bởi chúng
có nguyên tắc hoạt động và hình dáng giống với
những chiếc xe hiện đại ngày nay.

Tuy nhiên, trước khi nói về những phát minh của


Daimler hay Benz, không thể không nhắc đến
Nicolaus Otto, người đã phát minh ra động cơ đốt
trong. Động cơ đốt trong bốn kỳ được Otto phát
minh vào năm 1876 và nó đã trở thành một trong
những phát minh vĩ đại nhất trong lĩnh vực động cơ
xe máy. Đầu tiên nó được áp dụng cho những chiếc
Một chiếc xe chạy bằng xe gắn máy, nhưng sau đó, cùng với sự phát triển
động cơ đốt trong của ôtô, loại động cơ này được cải tiến và áp dụng
cho cả những chiếc xe ôtô sử dụng nhiên liệu lỏng.

Trở lại với những chiếc xe chạy bằng động cơ dầu. Năm 1885, kĩ sư cơ khí
người Đức Karl Benz đã thiết kế và cho ra đời chiếc xe ôtô chạy bằng động cơ
đốt trong đầu tiên trên thế giới. Ban đầu nó được thiết kế với ba bánh, nhưng
đến năm 1891, Benz đã cải tiến và biến nó trở thành chiếc xe ô-tô bốn bánh.

Cũng vào năm 1885, Gottlieb Daimler cùng với đồng


sự của mình là Wihelm Mayback đã cải tiến động cơ
của Otto trở thành loại động cơ có thể sử dụng cho
xe ôtô. Động cơ Daimler-Maybach có kích thước
nhỏ, trọng lượng nhẹ và sử dụng một bộ chế hòa khí
phun dầu, ngoài ra, nó còn có một xi-lanh đứng.
Chính thiết kế có tính ứng dụng cao đó đã giúp cho
các nhà sản xuất ô-tô nói chung và Daimler nói riêng
tạo ra một cuộc cách mạng trong thiết kế kiểu dáng Chiếc xe đầu tiên của
xe ô-tô. Tháng 8 năm 1886, Daimler đã ứng dụng Daimler
động cơ này vào một chiếc xe buýt thông dụng và biến nó trở thành chiếc xe
ô-tô bốn bánh đầu tiên trên thế giới có kiểu dáng như những chiếc xe hiện
đại ngày nay.
Fiat có lịch sử phát triển như thế nào?

FIAT (Fabbrica Italiana Automobili Torino) được thành lập ngày 11/07/1899)
tại Turin, Italy. Người đứng đầu tập đoàn này là Giovanni Agnelli, người sáng
lập và đồng thời là Chủ tịch kiêm Giám đốc Điều hành đầu tiên của Fiat. Năm
1900 đánh dấu sự ra đời của nhà máy Fiat đầu tiên tại Carso Dante với 150
nhân công. Bốn năm sau, năm 1904, cả thế giới được biết đến logo hình ovan
màu xanh của Fiat.

Năm 1908, Fiat khánh thành nhà máy sản xuất


xe hơi đầu tiên của mình tại hoa Kỳ. Công việc
của công ty phát triển nhanh chóng tại đất
nước được coi là ông tổ của ngành xe hơi này.
Để đáp ứng được nhu cầu của thị trường Hoa
Kỳ cũng như tốc độ sản xuất của nhà máy, Fiat
đã xây dựng thêm một số nhà máy chuyên sản
xuất linh kiện, phụ tùng xe hơi.

Chỉ một vài năm sau đó, Fiat bắt tay vào việc
cải tổ công nghệ. Chính những nỗ lực này của
Fiat khiến nó trở thành một trong những nhà
sản xuất xe hơi đáng gờm nhất, đồng thời
những chiếc xe của Fiat luôn dẫn đầu trong
việc phá các kỷ lục của ngành công nghiệp xe
hơi, không chỉ trong lĩnh vực công nghệ mà còn
cả trên các đường đua.
Những biểu tượng đầu tiên
Năm 1916, Fiat khởi công xây dựng xưởng chế của tập đoàn Fiat
tạo xe hơi mang tên Lingotto. Việc xây dựng và trang bị diễn ra suốt 6 năm
trời. Nhà máy cao 5 tầng này không chỉ là xưởng sản xuất xe hơi lớn nhất
châu Âu mà còn nhanh chóng trở thành biểu tượng của ngành công nghiệp
xe hơi Italy. Cũng trong thời gian này, Fiat bắt tay vào những lĩnh vực mới –
xe động cơ điện, xe thương mại, xe lửa và thậm chí là thép. Công ty tiếp tục
vươn tới thị trường Liên Xô.
Trong thời kỳ Chiến tranh Thế giới thứ 1, sản
xuất của Fiat chủ yếu phục vụ mục đích quân
sự. Fiat lâm vào khủng hoảng trầm trọng khi
chiến tranh kết thúc nhưng nhà sản xuất xe hơi
này nhanh chóng phục hồi và lấy lại được vị thế
của mình – Đó là nhờ chính sách cắt giảm chi
phí sản xuất được phát động năm 1923, khi đó
Giovanni Agnelli đã được đề bạt là Tổng Giám
đốc Điều hành của Fiat. Fiat quyết định tiến một
bước xa hơn: sản xuất xe hơi trên quy mô lớn
để cắt giảm chi phí tối da, nhờ đó hạ giá thành
sản phẩm. Thời gian này Fiat còn được biết đến
với những chương trình chăm sóc sức khỏe, câu
lạc bộ thể thao và các trường kỹ thuật.
Giovanni Agnelli, ông tổ của
Dưới chính sách của nhà cầm quyền Mussolini, tập đoàn Fiat
Fiat buộc phải thu hẹp quy mô hoạt động của
mình và nhắm vào thị trường nội địa. Công nghệ sử dụng trên những mẫu xe
thương mại và xe tải nhanh chóng được cải tiến và thay đổi để đáp ứng nhu
cầu của người tiêu dùng trong nước.

Chiến tranh Thế giới thứ 2 ảnh hưởng không nhỏ tới cơ cấu và quy mô sản
xuất của Fiat. Nhiều nhà máy, xưởng sản xuất bị phá hủy. Năm 1945,
Giovanni Agnelli qua đời. Người lên nắm quyền thay ông là Vittorio Valletta đã
đề ra kế hoạch tái thiết vào năm 1948. Năm 1958, Fiat đầu tư vào cả hai lĩnh
vực: xe hơi và máy nông nghiệp. Trong thời gian này, Italy trở thành trung
tâm phát triển kinh tế hàng đầu châu Âu và chính ngành công nghiệp xe hơi
nước nhà là nguồn động lực thiết yếu dẫn đến sự phát triển vượt bậc về kinh
tế đó.

Cháu nội Giovanni Agnelli – người có cùng tên


với ông nội tiếp tục làm rạng danh dòng họ
Agnelli khi trở thành chủ tịch Fiat năm 1966.
Giovanni cháu tập trung toàn bộ nguồn lực của
công ty vào phát triển công nghệ tự động trong
sản xuất xe hơi. Nhờ đó, Fiat không chỉ đối phó
được với cuộc khủng hoảng nhiên liệu diễn ra
trong thời gian đó mà còn trở thành một đối thủ
đáng gờm trong lĩnh vực công nghệ sản xuất xe Bravo, một tác phẩm mới
hơi. Những năm 70, xe Fiat chiếm tới 80-90% của Fiat
thị phần tại đất nước mình. Chính nhờ những chính sách của Fiat mà tỉ lệ sở
hữu xe hơi của Italy tăng lên đáng kể, từ 96 người/ xe lên 28 người/ xe.

Năm 1978, Fiat giới thiệu hệ thống lắp ráp tự động sử dụng hệ thống robot
(Robogate). Năm 1979, bộ phân chế tạo xe hơi được tách ra thành một công
ty độc lập có tên là Fiat Auto S.P.A, với quyền sở hữu các thương hiệu Fiat,
Lancia, Autobianchi, Abarth, Ferrari. Ban đầu, Fiat chỉ sở hữu 50% cổ phần
của Ferrari, nhưng sau đó, con số này nhanh chóng tăng lên thành 87%.
Năm 1984, Fiat tiếp quản Alfa Romeo và đến năm 1993 là thương hiệu
Maserati danh tiếng.

Cuộc khủng hoảng đầu thập niên 1990 khiến


cho công ty chuyển hướng mục tiêu sang thị
trường thế giới, với 60% doanh số thu được từ
thị trường nước ngoài. Năm 1996, Cesare Romiti
thay thế vị trí của Giovanni, nhưng Giovanni vẫn
giữ chức vị Chủ tịch Danh dự. Tổng hành dinh
của Fiat được chuyển từ Corsi Marconi về
Palazzina Fiat, Lingotto năm 1997. Năm 1999,
kỷ niệm 100 năm ngày thành lập công ty, Fiat Logo thứ 14, kỷ niệm 100
đã thiết kế mẫu logo mới vẫn mang màu xanh năm của tập đoàn Fiat
truyền thống, nhưng với dáng vẻ mới – hình
tròn.

Kể từ năm 2000 đến nay, Fiat hầu như không trải qua nhiều thay đổi đáng
kể, ngoài những mẫu xe mới vẫn lần lượt ra mắt người tiêu dùng và một mục
tiêu nhất quán – sự đổi mới và công nghệ vượt trội để vững bước trong thế
kỷ 21.
Acura ra đời như thế nào?

Cho dù đã khẳng định được vị thế của mình trên đất Mỹ, Honda vẫn quyết
định tạo ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử phát triển của mình khi thành
lập nhãn hiệu Acura cho riêng thị trường Bắc Mỹ. Vậy là từ tháng 3/1986,
Acura được Honda sử dụng như một nhãn hiệu độc lập cho các dòng xe hạng
sang ở Mỹ, Canada, Mexico và Hồng Kông, bao gồm xe đa dụng, xe gia đình
và xe thể thao.

Chỉ một năm sau khi ra đời, Acura đã nhanh


chóng khẳng định vị thế của mình khi chiếc
Acura Legend đoạt danh hiệu Xe nhập khẩu của
năm (Import Car of the Year) và mẫu Integra
được bầu chọn vào top 10 của tạp chí Car and
Driver.

Năm 1990, chỉ vài năm sau khi ra mắt thị


trường Bắc Mỹ, đại lý của Acura 5 năm liên tiếp
Logo của thương hiệu Acura
đứng đầu bảng xếp hạng Chỉ số Hài lòng của
Khách hàng. Một năm sau, chiếc Acura Legend giành giải "Xe nhập khẩu Uy
tín nhất của năm" của Motor Trend. Tiếp đến, năm 1997, Honda giới thiệu
mẫu Integra Type-R. Đây là mẫu xe có tỉ số công suất: dung tích xi lanh hp/l
cao nhất lúc bấy giờ (108hp/l). Chiếc xe thể thao NSX được xuất xưởng vào
cuối thập niên 1990 được coi là phá vỡ mọi công thức toán học và khoa học.
Ngay Motor Trend cũng từng nhận định đây là chiếc xe thể thao hàng đầu
của mọi thời đại. Chiếc siêu xe với thân xe bằng nhôm này là sự kết hợp hoàn
hảo giữa sự thoải mái hoàn hảo và độ an toàn tối đa cho người sử dụng.

Một chiếc Acura NSX

Thành công tiếp nối thành công, Acura tiếp tục tấn công vào thị trường xe
thể thao đa dụng với mẫu xe huyền thoại MDX. Năm đầu tiên của thế kỷ 21
chứng kiến chiếc MDX giành danh hiệu Xe thể thao đa dụng uy tín nhất năm
2001 do tạp chí Motor Trend bình chọn.
Năm 2003, Acura khiến cho những vị khách hàng khó tính nhất cũng phải hài
lòng khi trang bị cho mẫu xe mới TL với những tiện nghi như Bluetooth và
đầu DVD. Ngay lập tức mẫu xe này trở thành chiếc xe hạng sang bán chạy
nhất Hoa Kỳ vào năm 2004.

Không tự mãn với những gì mình đạt được, sau tiện nghi và độ an toàn đó là
những cải tiến về sức mạnh của động cơ. Năm 2004, chiếc Acura RL 2005 trở
thành chiếc xe được mong đợi nhiều nhất với động cơ mạnh mẽ và hệ thống
dẫn động bốn bánh chủ động SH-AWD™ được coi là cuộc cách mạng về động
cơ ở Bắc Mỹ.

Trong 5 năm từ 2000 đến 2005, Acura xếp vị trí thứ 3 đến thứ 8 trong bảng
phân hạng mức độ hài lòng của khách hàng tại Mỹ. Năm 2005, doanh số toàn
cầu của Acura đạt 743.000 chiếc và 11 tháng đầu năm 2006 là 661.500.

Từ năm 2004-2006, chiếc TSX trong suốt 3 năm liền được bình chọn vào top
10 của Car and Driver. Acura RDX cũng không chịu kém phần khi giành được
danh hiệu "Xe An toàn nhất" do Viện An toàn giao thông Quốc gia Mỹ (IIHS)
bình chọn cho xe SUV hạng trung.

Acura RDX

Sau gần hai thập kỷ nghiên cứu và phát triển, sự ra đời của Acura là bằng
chứng cho sự nỗ lực không ngừng của Honda trong việc chinh phục những
thượng đế khó tính tại thị trường Bắc Mỹ. Acura không chỉ đơn thuần là
thương hiệu xe hơi độc lập của Honda, mà hơn thế nữa nó còn là thương hiệu
xe hơi hạng sang đầu tiên của Nhật Bản. Có thể nói, Acura là kẻ tiên phong
đặt những viên gạch đầu tiên, là kẻ dẫn đường cho những chiếc xe quốc tịch
Nhật Bản trong con đường xâm chiếm thị trường Bắc Mỹ. Theo chân Acura,
Lexus (Toyota) và Infiniti (Nissan) mới biết tìm đường sang Bắc Mỹ.

Khi tên tuổi của Acura đã được chứng nhận bởi những người Mỹ khó tính,
Honda quyết định đưa đứa con tài năng của mình sang chinh phục thị trường
Mexico (2004) và Trung Quốc (2006). Gần đây, Honda Motor cũng thông báo
sẽ bắt đầu bán các sản phẩm mang nhãn hiệu Acura tại quê hương vào năm
2008. Honda dự tính thiết lập 2.400 đại lý Acura trên toàn quốc và doanh số
khoảng 800.000 xe/năm. Hiện tại, các sản phẩm của Acura được bán ở Nhật
dưới tên khác như mẫu RL là Honda Legend, Acura TL là Inspire còn mẫu xe
thể thao đa dụng MDX là Accord.

Một chiếc Legend

Như vậy, không phải đơn giản mà Acura được vinh dự đứng trong hàng ngũ
những dòng xe hạng sang. Thành công đó, bên cạnh sự tiếp sức của công ty
mẹ thông qua những nền tảng ban đầu, phần lớn là nhờ có những nỗ lực của
bản thân. Giờ đây, Acura có thể tự hào khi được ngành công nghiệp xe hơi
toàn thế giới coi là một trong những thương hiệu chuyên sản xuất những
chiếc xe với thiết kế tinh tế đầy sức trẻ và sáng tạo, động cơ mạnh mẽ, và
được sản xuất hết sức tinh xảo.
Citroen ra đời như thế nào?

Tập đoàn sản xuất ôtô Citroen ngày nay không


còn nữa do nó bị tập đoàn sản xuất lốp xe
Michelin mua lại từ trước chiến tranh thế giới
thứ II. Tuy nhiên, cái tên Citroen còn tồn tại và
hiện vẫn đang là một trong những thương hiệu
ôtô quen thuộc với nhiều người. Vào những
năm 20, 30 của thế kỷ XX, ôtô Citroen tràn
ngập ở Pháp và cả châu Âu. Vào thời điểm đỉnh Biểu tượng của Citroen
cao, thị phần của ôtô Citroen tại Pháp lên tới
gần 50%, con số mà nhiều đại gia lớn nhất thế giới cũng không dám mơ tới.

A.G.Citroen và niềm đam mê cơ khí

André Gustave Citroen sinh ngày 5/2/1878 tại Paris, cụ nội của André Gustave
Citroen vốn là người xứ Amsterdam (Hà Lan) chuyên sống bằng nghề buôn
bán hoa quả. Năm 1870, trong lần đi mở cửa hàng kinh doanh tại Warzava,
ông Levie Citroen đã quen và cưới bà Amalia, một phụ nữ người Balan. André
Gustave Citroen là con thứ ba của ông bà Levie Citroen. André Gustave
Citroen được gia đình cho nhập học tại trường Lyce’e Condorcet nổi tiếng chỉ
dành cho giới thượng lưu và giàu có. Chính tại ngôi trường này André
Gustave Citroen đã học cùng và làm quen với cậu bé Louis Renault cùng tuổi
và sau này trở thành đối thủ cạnh tranh lớn nhất của ông trong lĩnh vực xe
hơi.

Học hết phổ thông, năm 1898 Citroen được


tuyển chọn vào trường Đại học bách khoa
Polytechnique Paris. Sau khi tốt nghiệp, André
Gustave Citroen có ý định làm công chức tại cơ
quan Nhà nước chính quyền nhưng không
được. Ông lang thang đi tìm việc và trong cậy
vào người chị gái lấy chồng và sống tại Balan.
André Gustave Citroen làm việc tại một xưởng
cơ khí của người anh rể tại Glowno.

Vốn là con nhà thợ kim hoàn, lại học bách khoa A.G.Citroen
nên André Gustave Citroen tỏ ra rất khéo tay và thông minh với lĩnh vực cơ
khí. André Gustave Citroen thấy rằng các bánh răng bằng gỗ tuy dễ làm
nhưng rất chóng hỏng.Vì vậy ông đã tìm tòi nghĩ cách sản xuất bánh răng
chuyên dụng từ kim loại và là người đầu tiên phát minh các loại bánh răng
kim loại chuyên dụng. Ngay lập tức ông đăng ký bản quyền sáng chế và bắt
đầu đi vào con đường sản xuất chế tạo hàng cơ khí.

Đến với ngành công nghiệp sản xuất xe hơi


Năm 1907, André Gustave Citroen đến với
ngành sản xuất xe hơi khá tình cờ, thông qua
người chú ruột, ông biết có một nhà máy
chuyên sản xuất phụ tùng và động cơ ôtô bị
phá sản. André Gustave Citroen đã quyết định
dùng phần lớn tài sản được thừa kế để đầu tư
vào nhà máy sản xuất cơ khí này. Sự nghiệp Một trong những sản phẩm
sản xuất và kinh doanh trong ngành công đầu tiên của Citroen
nghiệp xe hơi của André Gustave Citroen bắt
đầu từ đó. Từ năm 1908, André Gustave Citroen trực tiếp làm Giám đốc công
ty phụ tùng ôtô Mors này.

Năm 1924, công ty cơ khí ôtô Mors được chuyển đổi thành công ty cổ phần
và André Gustave Citroen là người nắm giữ đa số cổ phần. Ông cũng là người
trực tiếp điều hành sản xuất và kinh doanh của công ty. Bắt đầu từ đây là
những năm hoàng kim của xe ôtô Citroen. Ông chủ André Gustave Citroen trở
thành nổi danh trong giới công nghiệp ôtô châu Âu và thế giới.

Chỉ trong vòng 10 năm, từ năm 1919 đến 1929, công ty xe hơi Citroen đã
phát triển với một tốc độ chóng mặt. Mặt bằng sản xuất và lắp ráp của công
ty đã tăng từ 198.000 m2 lên 850.000 m2. Số lượng nhân công tăng từ 4.000
lên hơn 32.000 người. Thay vì mỗi năm xuất xưởng vài nghìn xe thì 10 năm
sau, năng lực sản xuất của Citroen đã là 102.891 chiếc. Và điều kỳ diệu là
Citroen sản xuất xe nào là bán được ngay xe đó.

Thành công nhờ tài marketing

Cho đến đầu những năm 1930, Citroen đã bán


được gần 1 triệu chiếc xe. Mặc dù vậy André
Gustave Citroen còn cho rằng tiềm năng vẫn rất
lớn. Ông chủ trương phải tăng cường marketing
và quảng cáo để "đánh thức sự chú ý của cả 40
triệu người dân nước Pháp".

André Gustave Citroen không chỉ nhằm vào một


đối tượng khách hàng, những người giàu có, Citroen C-Airlounge
khá giả. Với ông, toàn dân đều là đối tượng để
thu hút, quảng cáo. Nếu không là khách hàng trực tiếp thì cũng là khách
hàng tiềm năng. Thương hiệu xe hơi Citroen phải đi vào tiềm thức của mỗi
người dân, bất kể già trẻ, đó là mong ước là mục tiêu thương hiệu của ông
chủ đầy tham vọng.

André Gustave Citroen quảng cáo nhiều nhưng không hẳn là nhằm vào một
loại xe, một sản phẩm cụ thể. Ông quảng bá thương hiệu Citroen. Những gì
mà các doanh nghiệp lớn ngày nay vẫn làm và gọi là quan hệ công chúng thì
André Gustave Citroen đã thực hiện cách đây gần 90 năm.

André Gustave Citroen đặc biệt năng động và sáng tạo với những ý tưởng
mới để quảng bá thương hiệu. Ngày nay trong nhiều nghiên cứu cũng như
sách giáo khoa về Marketing và thương hiệu, những gì mà André Gustave
Citroen đã làm luôn được coi là mẫu mực. Citroen là một trong rất ít doanh
nghiệp lúc đó có cả một bộ phận quảng cáo chuyên nghiệp. André Gustave
Citroen đã thuê Pierre Euge’ne Louys, một nhà báo, một chuyên gia thông tin
làm giám đốc quảng cáo cho mình.

Sử dụng cả tháp Eiffel kỳ vĩ để quảng cáo


André Gustave Citroen đã dùng mọi hình thức
và phương tiện quảng cáo để xây dựng và
quảng bá thương hiệu xe ôtô Citroen của mình.
Ông đặc biệt chú ý đến quảng cáo trên các tờ
báo nổi tiếng như Le Figaro, Le Petit Parisien,
Le Temps, Le Matin hay L’Illustration. Số liệu
thống kê cho thấy tổng số tờ báo được phát
hành lên tới con số 15 triệu bản.

Để quảng bá thương hiệu, André Gustave


Citroen đặc biệt quan tâm đến hình ảnh của các
chi nhánh, đại lý bán xe. Ông sử dụng kiến trúc
sư nổi tiếng Georges Wyho chuyên thiết kế hình
ảnh của các toà nhà chi nhánh, cửa hàng bán
xe Citroen. Mỗi lần khai trương một Citroen -
Automobilsalon, André Gustave Citroen đều coi
đó là sự kiện quan trọng và là cơ hội để quảng
bá thương hiệu thật rầm rộ. Ông còn xuất bản
tờ tin riêng của hãng mang tên Le Citroen in
thật đẹp và sang trọng để phát tặng cho khách Tháp Eiffel và dòng chữ
đến thăm quan xe Citroen. Citroen rực sáng

André Gustave Citroen cũng tự tạo ra các sự kiện, đã tổ chức Triển lãm xe
Citroen năm 1931 trên khu đất rộng hơn 15.000 m2 giữa quảng trường Place
de l’ Europa.André Gustave Citroen rất chú ý chăm sóc hệ thống đại lý bán
hàng. Và ông có ý tưởng thường xuyên tổ chức các chuyến tham quan xưởng
sản xuất và xưởng lắp ráp xe Citroen dành cho đại lý và khách hàng ruột.

Cũng với cách nghĩ đó, André Gustave Citroen còn tổ chức những chuyến
thám hiểm châu Phi, những cuộc chinh phục sa mạc Sahara với hàng nghìn
cây số. Đương nhiên ông chỉ dùng xe ô tô Citroen để phục vụ cho các đoàn
đi.Ông đã táo bạo sử dụng cả tháp Eiffel kỳ vĩ để phục vụ cho mục đích
quảng cáo thương hiệu Citroen.

Vào một tối tháng 7 năm 1925 cả thành Paris đột nhiên sáng rực bởi ánh đèn
từ tháp Eiffel với dòng chữ Citroen khổng lồ cao tới 25 m. André Gustave
Citroen đã phải dùng tới gần 250.000 chiếc bóng đèn các màu, gần 600 km
dây điện các loại. Tổng diện tích được chiếu sáng là khoảng 1.200 m2.

Từ đó trở đi cho tới năm 1936, Citroen vẫn thường xuyên sử dụng đèn trang
trí tại tháp Eiffel để quảng cáo cho thương hiệu và các dòng xe mới ra của
hãng. Năm 1989, kỷ niệm tháp Eiffel tròn 100 tuổi, người dân Paris và khách
du lịch khắp mọi nơi trên thế giới lại có dịp xem lại hình ảnh thương hiệu
Citroen được quảng cáo bằng đèn theo mẫu cũ trước kia của Gustave Citroen,
người đã khai sinh ra nó.
Báo đốm Jaguar ra đời như thế nào?

Ngày 04/09/1922, tại một thị trấn phía nam bờ biển vùng Blackpool (Anh),
hai thanh niên trẻ tuổi nhưng rất say mê motor William Lyons và William
Walmsley đã thành lập nên Swallow Sidecar với tham vọng sản xuất
những chiếc xe 3 bánh (sidecar). Lúc đầu, Swallow Sidecar Company chỉ có
hai tầng gác tại Blackpool để làm trụ sở và xưởng. Toàn bộ công việc được
thực hiện bằng tay. Nhắc đến Jaguar không thể không nhắc đến Arthur
Whittaker, người đã giúp những chiếc xe đầu tiên của Swallow Sidecar đến
với khách hàng một cách nhanh chóng và ấn tượng nhất.

Năm 1926, do nhu cầu phát triển kinh doanh,


Swallow Sidecar đổi tên thành Swallow
Sidecar and Coachbuilding Co. và tìm kiếm
một xưởng sản xuất mới. Tại đây, hãng đã sản
xuất thân xe cho rất nhiều nhà sản xuất xe hơi
khác, trong đó có Morris, Fiat, Wolseley, Swift,
và Standard.

Bằng cách dùng nhôm dập để sản xuất vỏ


sidecar, Swallow Sidecar nhanh chóng trở nên
nổi tiếng với doanh số không ngừng tăng vọt.
Sir William Lyons (1901-
Năm 1927, khi Herbert Austin cho ra đời chiếc
1985)
xe hạng nhỏ Austin Seven giá rẻ, dễ lái và tiện
dụng nhưng thiếu cá tính, Lyons chế tạo một chiếc xe 2 chỗ, gắn thân
Swallow Sidecar trên khung gầm của Austin Seven. Ngay lập tức, một đơn đặt
hàng 500 chiếc được đặt lên bàn Arthur Whittaker.

Đây cũng là điểm khởi đầu cho mối liên minh mới giữa Lyons và Bertie Henly,
người điều hành garage nổi tiếng nước Anh, Henlys. Với giá 175 bảng hay
185 bảng cho phiên bản mui cứng, Austin Seven Swallow luôn “cháy hàng”.
Không dừng lại ở đó, Lyons còn tiếp tục cho ra mắt mẫu xe có vỏ Swallow
gắn trên khung gầm lớn hơn, mang tên Morris Cowley. Ảnh hưởng của
Swallow ngày càng lớn khi Austin Seven Swallow Saloon trình làng năm 1928
và tiếp tục gặt hái thành công.

Một chiếc SS1


Sau một thời gian liên kết sản xuất với các hãng xe khác, Lyons không muốn
chế tạo vỏ xe của mình trên khung gầm của mẫu xe khác nữa: ông muốn
nhắm tới những chiếc xe cá tính chứ không đơn thuần chỉ sản xuất xe thể
thao. Lyons đã khôn ngoan liên kết với Standard Motor Company để chế tạo
chiếc xe hoàn chỉnh đầu tiên - chiếc SS1, được chế tạo đựa trên động cơ 6
Standard xi lanh và sự thừa hưởng đầy sáng tạo của thân xe Standard. Chiếc
xe này được ra mắt công chúng năm 1931 tại triển lãm xe hơi London.

Năm 1933, tên của công ty một lần nữa lại được
đổi thành SS Cars Ltd dưới sự điều hành của
Giám đốc Lyons. Năm 1936, SS Cars hoàn toàn
thuộc sở hữu của Lyons.

Năm 1935, lần đầu tiên cụm từ "Jaguar" được


biết đến trên các mẫu xe của hãng. SS Cars bắt
tay vào chế tạo nhiều hạng xe khác nhau, bao
gồm limousine, xe mui trần, xe thể thao, với
động cơ 1.5l, 2.5l và 3.5l, đồng thời nỗ lực nâng
công suất động cơ từ 75hp lên 105hp. Không chỉ Biểu tượng của Jaguar Cars
có vậy, Lyons còn tập trung thiết kế vỏ xe sao
cho thật ấn tượng, khác biệt hoàn toàn so với các mẫu trước đó.

Chiến tranh Thế giới thứ 2 nổ ra, SS Cars tập trung cho chiến tranh và quay
trở về sản xuất dòng xe sidecar. Khi chiến tranh kết thúc, Lyons quyết định
đổi tên SS Cars thành Jaguar Cars Ltd do tên viết tắt của hãng trùng với
tên gọi của lực lượng phát xít Đức.

Jaguar là tên gọi loài báo đốm nổi tiếng châu Mỹ, biểu tượng của sức mạnh
và quyền lực trong văn hóa các nước Nam Mỹ. Người dân ở đây tin rằng,
Jaguar là điểm nối giữa sự sống và cái chết. Jaguar sinh ra để bảo vệ các
hoàng đế. Dù Lyons không thực sự thích nhưng cuối cùng, cái tên "Jaguar"
vẫn được thông qua. Ngay sau khi ra mắt tại khách sạn Mayfair, London, SS
Jaguar nhận hàng loạt đơn đặt hàng bởi nó có giá chỉ bằng một phần tư
Bentley dù không hề thua kém về chất lượng. Thế nhưng, mãi 11 năm sau,
Lyons mới chính thức đưa biểu tượng chú báo đốm Bắc Mỹ đang vồ mồi lên
chiếc Jaguar Mark VIII 1956. Biểu tượng đó đã đi theo Jaguar 30 năm sau và
là hình mẫu để các kỹ sư thiết kế theo đúng vóc dáng mạnh mẽ, tràn trề
nhựa sống và hoang dã của loài vật được mệnh
danh là chúa tể rừng xanh.
Năm 1966, William Lyons giữ chức Giám đốc
Điều hành kiêm Chủ tịch và Tổng Giám đốc.
Ngày 11/07/1966, Jaguar Cars Ltd. tuyên bố
hợp nhất với British Motor Corporation Ltd. Chỉ 2
năm sau đó, sự sát nhập của Jaguar với Leylang
biến nhà sản xuất xe hơi này trở thành tập đoàn
sản xuất xe hơi lớn nhất nước Anh.

Năm 1972, Lyons nghỉ hưu, khiến cho cả một Báo đốm Jaguar
thời gian dài sau đó hãng gặp khá nhiều sóng gió với những chiến lược
không rõ ràng. Mãi đến tháng 04/1980, “vị cứu tinh” của Jaguar mới xuất
hiện, đó là John Egan – người được coi là đã hồi sinh Jaguar. Vị giám đốc 40
tuổi này thực sự đã đem lại hơi thở mới cho hãng sản xuất xe hơi Jaguar. Bởi
vậy, năm 1985, việc Jaguar ổn định và phát triển trở lại không hề khiến
ngành công nghiệp xe hơi ngạc nhiên.

Cuối năm 1989 đầu năm 1990, Ford mua lại Jaguar và đến năm 1999, hãng
trở thành một trong những nhãn hiệu xe độc lập của Ford Motors, giống như
Aston Martin và Volvo.

Trong suốt 84 năm lịch sử nghiên cứu và chế tạo, Jaguar đã cống hiến cho
ngành sản xuất xe hơi hàng loạt mẫu xe cũng như các sản phẩm khác nhau.
Đến nay, Jaguar vẫn luôn tự hào với triết lý chế tạo những chiếc xe đẹp nhất,
nhanh nhất trên cơ sở kết hợp giữa trí thông minh công nghệ với sự sang
trọng đương đại.
"Chiến binh" Ural ra đời như thế nào?

Ngay từ thời chiến tranh thế giới thứ nhất, quân đội các nước châu Âu đã
dùng đến môtô. Khi đó, môtô không phải chỉ là một phương tiện giao thông,
mà còn là một loại xe tác chiến. Trong thời gian giữa hai cuộc thế chiến, kỹ
thuật môtô quân sự được tiếp tục hoàn thiện ở Anh, Mỹ, Pháp. Thế nhưng,
vượt trội hơn cả trong lĩnh vực này là nước Đức. Đến năm 1939, trong trang
bị của quân đội Đế chế Đức đã có những chiếc môtô mạnh mẽ và chắc chắn
mang nhãn hiệu BMW, DKW, Zundapp. Môtô có tính năng chạy mọi địa hình
không tồi và trên thùng xe thường có đặt khẩu cối cá nhân hoặc súng trung
liên.

Ở Liên xô, trước chiến tranh thế giới


thứ hai, ngành chế tạo môtô không
được quan tâm nhiều như ngành ôtô.
Môtô được xuất xưởng rải rác từ
những cơ sở ở Ijevsk, Taganrora,
ngoại ô Podolsk và Serpukhov, với số
lượng khá khiêm tốn: chỉ khoảng 6
nghìn chiếc một năm. Môtô Xô-viết tiền
chiến đôi khi không được bền. Tính
chất đó khiến chúng ít phù hợp với
công tác quân sự. Ban lãnh đạo đất
nước đã sớm nhận ra vấn đề này. BMW-R71 của quân Đức trong thế
chiến II
Vào cuối năm 1930, Hội đồng Dân ủy
Quốc phòng Liên Xô đã có cuộc họp bí mật, liên quan đến việc thành lập đội
quân môtô hạng nặng chuyên dụng, quyết định lấy chiếc môtô Đức BMW–
R71 làm mẫu. Để phanh phui những bí quyết kết cấu bên trong của loại xe
này, đã có 5 chiếc môtô được mua thông qua nước thứ ba. Và các kỹ sư, cán
bộ kỹ thuật ưu tú nhất của ngành công nghiệp ôtô Liên Xô đã khẩn trương
nghiên cứu chúng một cách kỹ lưỡng. Kết quả là, trong một thời gian khá
ngắn ngủi, Liên Xô đã có thể chế ra loại xe giống như chiếc BMW–R71.

Tuy nhiên, xe môtô Xô-viết không phải là


bản sao y nguyên của xe Đức BMW. Chẳng
hạn, khung và hệ thống treo đàn hồi đã
được cải tiến một cách nghiêm túc, trở nên
linh hoạt hơn của xe Đức. Trên thực tế,
động cơ bốn kỳ hai xilanh nằm ngang đã
được chế tạo mới. Với dung tích 750cc và
công suất 22 mã lực, nó được dự trù dùng
được loại xăng có chất lượng thấp hơn động
cơ của xe Đức, và thêm nữa, ít gây tiếng ồn URAL M -72
hơn.

Đầu năm 1941, những chiếc xe môtô hạng nặng M-72 đã được trình ra với
các nhà quân sự, xe được chấm điểm “ưu” để đưa vào sản xuất hàng loạt
ngay lập tức tại một số công xưởng. Quân đội đã nhận được một phương tiện
giao thông mới, đa năng và khá bền chắc. Cũng như người anh em Đức của
nó, M-72 là phương án xe môtô thuyền, có thể trang bị súng cối cá nhân.

Tháng 10 năm 1941, khi thủ đô Nga nằm trong tình thế bị bao vây, xưởng
môtô Matxcơva được sơ tán về Ural, thành phố Irbit. Đơn sơ, thiếu thốn là
tình cảnh tại cơ sở thứ nhất chuyên sản xuất môtô hạng nặng của Liên xô.
Nhưng chỉ đến tháng 2 năm 1942, xưởng môtô Irbit đã cho đời ra loạt sản
phẩm đầu tiên. Tính chung, những năm chiến tranh, chỉ riêng từ Irbit đã cung
cấp cho quân đội 9800 chiếc xe. Ngoài ra, các môtô M-72 còn được sản xuất
tại Tiumen và thành phố Gorki (nay là Nijni Novgorod).

Trung đoàn môtô của Hồng quân Xô-viết


Những chiếc Ural M-72 được sử dụng rộng rãi phục vụ các chiến sĩ trinh sát,
bộ binh, cơ giới, xe tăng, liên lạc, các đơn vị sửa chữa máy móc quân dụng.
Thậm chí các chiến sĩ pháo binh còn dùng nó để chuyên chở những khẩu đại
bác hạng nhẹ. Các chiến sĩ mặt trận đánh giá xứng đáng độ bền vững và tính
dễ sử dụng, cũng như chất lượng, tốc độ của nó. Với một người lái và hai
hành khách, Ural M-72 ba bánh có trọng tải hơn một tấn rưỡi, nhưng công
suất vẫn đủ mạnh để đẩy nó chạy với tốc độ tối đa đến 85km/giờ. Môtô đơn
thì nhẹ hơn và chạy nhanh hơn, đến 105km/giờ, nhưng những chiếc như thế
ít được làm ra.

Từ sau khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ


hai, loại hình xe môtô nhiều cống hiến này
tiếp tục được xuất xưởng cho đến năm
1956. Còn mẫu xe cải tiến, thì ra đời năm
1960. Khung và hệ thống treo đàn hồi của
M-72 được dùng để chế ra các xe môtô
Irbit mới, dân dụng cũng như quân dụng.
Từ năm 1953, những chiếc xe môtô hai
bánh và ba bánh từ Ural được đem xuất
khẩu ra nước ngoài. Chúng trở nên nổi
tiếng không chỉ ở các nước Đông Âu mà cả
ở Việt Nam với tên gọi "Xít-đờ-ca". Xe môtô Thế hệ "Gear-Up"
Nga hạng nặng được biết đến ở Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Đức, Hà
Lan, Chilê, Columbia, Argentina. Xưởng môtô Irbit là một trong số không
nhiều xí nghiệp chế tạo máy của Nga, có sản phẩm được cấp chứng chỉ ở Mỹ.
Ngày nay, xí nghiệp Irbit còn có loại môtô thuyền quân dụng “Gear-Up”. Đây
vốn là loại hình xe dân dụng hai chỗ, được trang bị động cơ công suất 32 mã
lực, dẫn động bánh sau và bánh thuyền xe, tay đòn khung treo phía trước.
Trên xe môtô này có thể đặt súng cối hay tên lửa chống tăng, và nó trở
thành cỗ xe nhà binh khá là “hầm hố”: chạy nhanh, xoay chuyển nhẹ nhàng
và thêm nữa, cũng chắc chắn, dễ sử dụng khi vận hành, y như các tiền bối
của nó thời chiến tranh thế giới thứ hai.
Ai là người sáng lập ra huyền thoại Bugatti?

Người được mệnh danh là "Nghệ nhân Chế tạo Xe hơi"

Người sáng lập Bugatti huyền thoại không phải ai khác chính là Ettore
Bugatti, sinh ngày 15 tháng 9 năm 1881 tại Milan, Ý, trong một gia đình
nghệ sĩ mà tên tuổi của người cha đã vượt qua những danh giới địa lý của
nước Ý, nhà điêu khắc Carlo Buggatti. Sau khi tốt nghiệp Trung học ông theo
học tại Viện hàn lâm Nghệ thuật (Milan), nhưng sức cuốn hút của nghệ thuật
cũng không giữ chân ông được bao lâu. Ông rời Viện Hàn Lâm để theo học
nghề tại xưởng sản xuất xe đạp Prinetti & Stucchi. Năm 17 tuổi ông đã chế
tạo những chiếc xe 3 bánh gắn động cơ, vào những năm cuối của thế kỷ 18
ông tham dự một giải đua xe với chiếc xe đầu tiên của ông.

Năm 1901 tại triển lãm quốc tế Milan, ông giới


thiệu chiếc xe tự tạo với sự giúp đỡ của anh em
nhà Gulinelli và đã giành được giải thưởng do
Câu Lạc Bộ Ô tô Pháp trao tặng. Do chưa đến
tuổi hợp pháp để đứng tên trong các hợp đồng,
thân phụ ông đã phải đứng tên trong các hợp
đồng làm việc cho Dietrich. Đáng tiếc là Dietrich
không thể đáp ứng niềm đam mê nghiên cứu
và chế tạo xe đua của Ettore. Ông nhanh chóng chấm dứt hợp đồng và
chuyển sang làm việc cho Emil Mathis, tại đây ông chế tạo chiếc xe hơi với
động cơ 4 xi lanh những vẫn không quên tiếp tục niềm đam mê chế tạo xe
đua của mình.

Sau gần mười năm làm việc cho nhiều hãng sản xuất xe hơi, Ettore Bugatti
thành lập hãng riêng của mình tại Molsheim, gần Strasbourg vào năm 1909.
Ông đã thuyết phục được một ngân hàng cho vay tiền để chế tạo 10 chiếc xe
hơi và 5 động cơ máy bay.

Ông khởi nghiệp bằng việc chế tạo động cơ


1327cc, 4 xi lanh mang số hiệu Type 13. Một
trong những thành công của ông là mẫu "Bébé"
do Peugeot sản xuất trên thiết kế của ông.
Trước thời chiến, ông cũng đã chế tạo 4 mẫu
động cơ 1368cc, 8 van và 5027cc, 16 van. Năm
1913 ông chế tạo động cơ 2906cc, 8 xi lanh
thẳng hàng. Năm 1921, sau chiến thắng lừng
lẫy tại cuộc đua Grand Prix Brescia với 4 thứ hạng cao nhất đều thuộc về
Bugatti, tất cả các động cơ 16 van được sản xuất sau này đều mang tên
Brescia để kỷ niệm chiến thắng này.

Vào năm 1924, Bugatti giới thiệu mẫu xe đua Model 35 với động cơ 2 lít 8 xi
lanh và đây cũng là chiếc xe trang bị lazăng đúc đầu tiên . Với hơn 2000
chiến thắng chiếc Model 35 trở thành chiếc xe đua thành công nhất mọi thời
đại.

Năm 1926, Bugatti quyết định biến giấc mơ sản


xuất một chiếc xe hơi sang trọng tột bậc trở
thành hiện thực với mẫu xe Royales động cơ 8
máy, 12762cc, công suất 300 mã lực! Oái oăm
thay, chiếc xe huyền thoại này ra đời không
đúng lúc: ngay trước thời điểm thế giới bước
vào cuộc Đại suy thoái. Chỉ có 3 chiếc xe đắt
nhất trong lịch sử xe hơi thế giới là tìm được
chủ nhân và chính chiếc xe huyền thoại này đã làm cho công ty của Bugatti
khánh kiệt.

Trong giai đoạn Đai suy thoái, măy mắn thay, Bugatti giành được hợp đồng
xây dựng một loại tàu siêu tốc cho chính phủ Pháp, với những kinh nghiệm
tích luỹ lâu năm ông không những đã làm hài lòng chính phủ mà còn giúp
công ty của mình vượt qua cơn sóng gió.

Ettore Bugatti cũng thiết kế thành công một chiếc


ô tô chạy trên đường ray, chiếc Autorail. Ông còn
thử sức sang cả lĩnh vực máy bay, song không
thành công, Jean Bugatti, con trai ông tử nạn ngày
11/08/1939 khi đang lái thử chiếc xe đua Type 57
gần nhà máy Molsheim. Kể từ đó, xui xẻo bắt đầu
ập đến. Thế chiến II đã tàn phá nhà máy ở
Molsheim. Trong thời kỳ chiến tranh, Bugatti cũng
xây dựng một nhà máy mới ở Levallois, Paris.

Đến khi Thế chiến II kết thúc thì Bugatti lại lâm vào cảnh túng quẫn do không
còn khả năng khôi phục lại sản xuất nhà máy Molsheim và vào ngày 21 tháng
8 năm 1947, ông qua đời tại Quân Y viện Paris do nhiễm bệnh phổi.
Mặc dù chỉ có 7900 chiếc xe được sản xuất trong giai
đoạn Bugatti điều hành công ty, nhưng vẫn có rất
nhiều chiếc xe trong đó vẫn còn cho đến ngày nay-
một minh chứng cho tài năng cũng như cống hiến
của Bugatti cho lịch sử phát triển ô tô thế giới. Với
những đóng góp to lớn của mình cho ngành công
nghiệp xe hơi thế giới, Ettore Bugatti thật xứng đáng
nhận danh hiệu "Nghệ nhân Chế tạo Xe hơi" - Automobile Artist.
Thunderbird ra đời như thế nào?

Trong nửa thế kỷ tồn tại và phát triển, Thunderbird (T-bird) được coi như một
trong những chiếc xe biểu tượng cho ngành công nghiệp ôtô Mỹ. Nó cũng là
yếu tố giúp Ford Motor Company tạo dựng và duy trì danh tiếng hàng đầu tại
nước Mỹ.

Sự ra đời của T-bird năm 1954

Khoảng thời gian Thế chiến II diễn ra, không hề có một sự sáng tạo nào ở
các công ty ôtô. Đến cuối thập kỷ 40, nhu cầu về xe hơi bùng nổ và một
trong những dòng xe được ưa chuộng nhất chính là những chiếc ôtô thể thao.
Trở về từ châu Âu, những người lính Mỹ mang theo các mẫu xe thể thao
danh tiếng của Italy, Đức, Pháp và Anh. Cùng lúc đó, môn đua ôtô trở nên
phổ biến với các trường đua được xây mới, các cuộc đua được tổ chức khắp
nơi.

Cộng thêm tác động của một nền


kinh tế phát triển mạnh, không có
gì ngạc nhiên khi chiếc
Thunderbird xuất hiện và lập tức
gặt hái thành công dễ dàng tại
Mỹ. Chiếc xe lần đầu tiên được
trình làng vào năm 1954 tại Triển
lãm ôtô Detroit. Đó là một chiếc
roadster (xe hai chỗ mui trần)
mang tiện nghi hiện đại, sự tiện
lợi cũng như sức mạnh và khả
năng điều khiển dễ dàng. Chỉ
trong 10 ngày đầu tiên, Ford đã Một chiếc T-bird 1954
bán được 3.500 xe trong khi mục
tiêu cả năm chỉ là 10.000 xe.

Thunderbird thực sự là câu trả lời mà Ford dành cho chiếc roadster Corvette
của Chevrolet. Nhưng trong khi chiếc Corvette chỉ trung thành với một kiểu
dáng duy nhất thì Thunderbird đã xuất hiện với rất nhiều phiên bản khác
nhau, từ những chiếc coupe hardtop (hardtop là thuật ngữ chỉ xe mui cứng
không có thanh chống ở giữa) và xe 4 cửa. Dễ hiểu vì sao Thunderbird lại
được yêu thích. Nó kết hợp được những phẩm chất của một chiếc xe thể thao
sang trọng với những đặc điểm mà người Mỹ rất chuộng. Chỉ có hai chỗ ngồi
nhưng T-bird năm 1972 là chiếc xe đầu tiên dài tới hơn 5 m, trong khi mẫu
Thunderbird 2005 cũng có chiều dài hơn 4,7 m. Trong bất cứ giai đoạn nào,
Thunderbird cũng luôn được trang bị những tiện nghi hàng đầu và động cơ
mạnh mẽ nhất, ngay cả vào thời kỳ khủng hoảng dầu lửa thập kỷ 70. Có thể
chia 50 năm của Thunderbird ra làm 4 giai đoạn, 1955-1963, 1964-1975,
1976-1997, 1998-2004.
Ngay từ những chiếc xe đầu tiên, nhà sản xuất đã lựa chọn lắp cho nó một
động cơ V8. Từ 1958 đến 1960, xe Thunderbird gắn động cơ dung tích 5,8 lít,
công suất 300 mã lực. Tuy vậy, khách hàng có thể lựa chọn chiếc xe với động
cơ tới 7 lít và sức mạnh tương đương 350 mã lực. Năm 1961, lần đầu tiên
Thunderbird có những cải tiến đáng kể về dáng vẻ bên ngoài, bỏ đi những
vây nhọn phía trên hai đèn đuôi hình tròn, đèn pha vuông, và nhất là có thêm
một phiên bản mui xếp (convertible). Từ năm 1961 đến 1963, trang bị tiêu
chuẩn cho xe Thunderbird là động cơ V8 dung tích 6,4 lít, công suất 300-340
mã lực.

Chiếc xe T-bird Turbo

Mẫu xe sản xuất năm 1964 được biết đến với


biệt danh “Jet Bird”. Khoảng cách trục được
kéo dài tới 2.870 mm, khiến chiếc xe dài tới
5.207 mm. Điểm nổi bật của chiếc xe là mui
ngắn hơn, trong khi nắp ca-pô và phần thùng
sau được kéo dài, toàn bộ phần đuôi xe được
thiết kế lại. Năm 1965, lần đầu tiên phanh đĩa
trở thành trang bị tiêu chuẩn cho hai bánh T-bird Turbo
trước.

Mỗi năm, đội ngũ kỹ sư thiết kế của Ford đều thực hiện những công việc làm
mới chiếc xe của họ, khi thì ở nội thất, khi thì vuốt lại các đường nét bên
ngoài. Tuy nhiên, mẫu xe năm 1967 mới thực sự có nhiều điểm khác với
những đời trước. Khung gầm được thiết kế hoàn toàn mới, phần mặt trước xe
đơn giản hơn, đèn pha giấu bên dưới nắp ca-pô, chỉ nhô lên khi người điều
khiển xe bấm nút khởi động. Vì thế cho đến năm 1971, mọi cải tiến chỉ là ở
vài chi tiết tại mặt trước và sau xe.

T-bird Super Coupe sản xuất năm 1994

Cho đến năm 1972, Thunderbird mở đầu cho


sự xuất hiện của một thế hệ những xe sang
trọng. Chỉ có duy nhất phiên bản hardtop 2
cửa, chiếc xe gây chú ý với kiểu dáng mạnh
mẽ và nội thất sang trọng hơn hẳn so với
quan niệm trước đây về một chiếc
Thunderbird. Động cơ của xe nặng 2.085 kg
này có dung tích 7 lít. Năm 1973,
Coupe T-bird turbo
Thunderbird được lắp đèn pha kép ở mỗi
bên.

Chiếc xe năm 1976 có thể coi là chiếc Thunderbird lớn nhất và sang trọng
nhất. Nhưng dường như điều đó không mang lại nhiều hiệu quả về mặt kinh
tế nên ở phiên bản ra sau đó, nhà sản xuất đã thu hẹp các kích thước của xe
lại, dù toàn bộ tiện nghi không thay đổi, nhờ thế giảm được 450 kg trọng
lượng. Thân xe Thunderbird 1980 được chuyển thành dạng unibody (gồm các
tấm thép gắn với nhau), nhẹ hơn 360 kg so với xe trước đó, và cũng ngắn
hơn 431 mm.

Năm 1983 là một trong những năm thành công của Ford Thunderbird. Tháng
2 năm đó, chiếc coupe Thunderbird Turbo được trình làng và gây sự chú ý tại
bất kỳ nơi đâu nó xuất hiện. Chiếc xe chỉ được trang bị một động cơ
turbocharged 2,3 lít, hộp số sàn 5 cấp. Từ đầu thập kỷ 80, phần thùng sau xe
dần được thu gọn lại nhưng kiểu nắp ca-pô vươn dài về phía trước đầy ngạo
nghễ vẫn là kiểu cách mà người Mỹ ưa thích. Phiên bản 1989 gây nên một
cơn sốt. Chiếc xe Super Coupe này có trục cơ sở dài hơn, bề ngang cũng rộng
hơn, hệ thống treo độc lập phía sau, phanh đĩa ở cả 4 bánh với động cơ
supercharged V6.

T-bird 2002 đoạt giải của tạp chí Motor Trend

Bước sang thập kỷ 90, lượng tiêu thụ xe


Thunderbird chững dần lại và người ta bắt
đầu xì xầm về việc Ford chuẩn bị thôi sản
xuất chiếc roadster này sau 40 năm. Tin tức
này càng được khẳng định vào năm 1998, khi
Ford không còn trưng bày Thunderbird tại các
showroom. Giới chuyên môn còn khẳng định
sang thiên niên kỷ mới, sẽ có một mẫu xe
hoàn toàn mới để thay thế. T-bird 2002

Tuy nhiên, phiên bản của năm 2002 một lần nữa giúp Thunderbird giành
danh hiệu Xe của năm do tạp chí Motor Trend trao. Thành công này có thể
dự báo được khi chiếc Thunderbird 2001 (xe concept) đã thu hút nhiều sự
quan tâm khi được Ford giới thiệu tại khắp các triển lãm ôtô lớn trên thế giới.
Dẫu vậy, đánh giá của các nhà chuyên môn không phải bao giờ cũng đúng
với những nhu cầu của khách hàng. Có số lượng bán ra không nhỏ nhưng
Thunderbird 2002 không đạt được mục tiêu mà hãng sản xuất đề ra. Ford hy
vọng phiên bản 2005, tung ra vào nửa sau của năm 2006 thực sự là một
chiếc xe để chúc mừng sinh nhật 50 tuổi của Thunderbird.
Cadillac ra đời như thế nào?

Cái tên Cadillac

Đầu thế kỷ 20 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng


của nền công nghiệp xe hơi thế giới khi Henry Leland
sáng lập ra một công ty chế tạo xe hơi và đặt tên là
Cadillac - theo tên nhà sáng lập ra Detrioit huyền
thoại Antoine de la Mothe Cadillac. Để chào mừng
sự kiện này, Herald đã thiết kế biểu trưng của công ty
dựa trên huy hiệu của dòng họ Cadillac danh tiếng.
Chiếc xe đầu tiên của công ty – Model A Runabout là
chiếc xe đầu tiên vinh dự được mang biểu trưng này.
Biểu trưng hiện nay
Chinh phục thế giới của Cadillac

Năm 1908, tức là chỉ vài năm sau khi sản xuất được động cơ 4 xi lanh đầu
tiên, Cadillac lại khiến cả nền công nghiệp xe hơi sửng sốt khi trình diễn
những bộ phận xe hơi dễ dàng lắp đặt ở nhiều vị trí khác nhau. Đây chính là
sự kiến đặt nền móng cho sản xuất xe hơi trên quy mô lớn trên thế giới, đồng
thời giúp Cadillac giành được danh hiệu cao quý Dewar Trophy của CLB Xe
hơi Hoàng Gia - Royal Automobile Club (Anh). Cũng từ thời điểm này, biểu
trưng của công ty tự hào được gắn thêm slogan “Tiêu chuẩn của Thế giới”.

Tuy nhiên, Cadillac dường như đã cố tình đi ngược lại trật tự của công nghiệp
xe hơi toàn cầu khi đặt ra mục tiêu “Chất lượng phải đi trước Số lượng” và
dồn toàn bộ nguồn lực vào thiết kế một chiếc xe tuyệt vời nhất có thể.
Năm 1910, Model Thirty của Cadillac là chiếc xe đầu tiên giã từ hệ thống khởi
động bằng tay nhờ có hệ thống khởi động điện và bộ phận đánh lửa. Đây
được coi là một phát minh tuyệt vời bởi không ít lái xe đã bị gãy tay hoặc vỡ
xương hàm bởi hệ thống khởi động bằng tay. Một lần nữa danh hiệu Dewar
Trophy lại được trao cho Detroit, và Cadillac trở thành nhà chế tạo xe hơi
duy nhất đạt được danh hiệu cao quý này 2 lần.

Đến năm 1915, Cadillac chuyển hướng


sang động cơ V-8 làm mát bằng nước,
mặc dù lúc bấy giờ động cơ 4 xi lanh vẫn
được ưa chuộng. Trong thời kỳ Thế chiến
lần thứ nhất (1916-1918), hệ thống làm
mát nhiệt tĩnh và hệ thống đèn pha rất
hiệu quả khi sử dụng ban đêm đã khiến
Cadillac trở thành lựa chọn số 1 đối với
quân đội Hoa Kỳ. Một mẫu xe Cadillac thập niên 30

Thập niên 20 càng khẳng định vị thế và sự tín nhiệm của giới xe hơi đối với
Cadillac khi Cadillac giới thiệu chiếc cần gạt nước và kính chiếu hậu, đồng thời
thoả mãn những khách hàng khó tính nhất bằng cách thay đổi thiết kế thân
xe phong cách hơn và sang trọng hơn.
Năm 1927, lần đầu tiên mối liên hệ giữa hình dáng và chức năng của một
chiếc xe được một nhà chế tạo xe hơi thực sự để mắt đến. Chiếc mui trần
LaSalle trở thành chiếc xe đầu tiên được tạo dáng bởi một nhà thiết kế, chứ
không phải bởi một kỹ sư ôtô như trước đây.

Cuối thập niên 20, Cadillac đồng nghĩa với sự tạo dáng đẹp mắt và sang
trọng. Cadillac đã khởi động thập niên 30 bằng việc ra mắt động cơ V-16
trang bị cho xe du lịch, cùng với nó là những mẫu biểu trưng khách nhau cho
động cơ V-8, V-12 và V-16. Đến năm 1936, Cadillac đã sở hữu khoảng 68
mẫu thân xe khác nhau. Năm 1938, Cadillac đã giành thêm một cái “nhất”
nữa trong lịch sử phát triển của mình bằng cách đưa từ “sunroof” (cửa sổ
trời) vào từ điển Hoa Kỳ.

Chiến tranh Thế giới lần thứ 2 đã đem lại cho


Cadillac không ít cơ hội được thể hiện tài năng và
tiềm lực. Với đông cơ V-8 được dùng cho xe tăng
M-5 và M-8 Howitzer, Cadillac tự hào giương cao
khẩu hiệu “Nổi tiếng trong Thời bình –
Khẳng định sự vượt trội trong Thời chiến”.

Năm 1950 không chỉ đánh dấu doanh số 100.000


xe/ năm (gần gấp đôi so với trước Thế chiến II)
mà còn là năm gặt hái của Cadillac trên đường Cadillac Sixty Special
đua 24 Hours of Le Mans - một trong những 1948
đường đua khốc liệt nhất trên thế giới - với các vị
trí xếp hạng thứ 3, thứ 10 và 11.

Thập kỷ 60 tiếp tục ghi dấu những thành tựu công nghệ của Cadillac với hệ
thống phanh tự điều chỉnh, hệ thống điều hòa nhiệt độ, thông khí và làm
nóng nhiệt tĩnh, tiếp theo đó là sự ra đời của bộ đèn pha bật tắt tự động, dây
an toàn cho ghế trước, tấm sưởi điện cho các ghế ngồi và hệ thống âm thanh
stereo.

Cadillac chào mừng thập niên 70 với dây chuyền sản xuất xe du lịch lớn nhất
thế giới – chiếc Eldorado 8.2L - 400hp. Từ năm 1975-1978, Cadillac tiếp tục
dẫn đầu ngành công nghiệp xe hơi với những cải tiến không ngừng: hệ
thống túi khí và thiết bị trung hòa khí thải tiên tiến.

Bằng việc thiết kế lại những mẫu xe cổ điển của thập niên 30 và 40, ngay từ
đầu những năm 1980, Cadillac đã dấy lên phong trào “hoài cổ” có ảnh hưởng
lớn đến toàn bộ ngành công nghiệp xe hơi thế giới. Không ngủ quên với
những thành công liên tiếp, Cadillac tiếp tục đầu tư vào công nghệ và trở
thành nhà chế tạo xe hơi đầu tiên sử dụng bộ vi xử lý tích hợp để kiểm soát
hệ thống đánh lửa, nạp nhiên liệu và hoạt động tổng thể của cả chiếc xe.

Năm 1984, Hệ thống Phân phối Chìa khóa vàng đã đặt ra những tiêu chuẩn
mới cho việc bán xe, bao gồm việc tìm hiểu thông số kỹ thuật và tính năng
của xe và chạy thử xe. Chính nhờ những nỗ lực này mà chỉ vài năm sau đó,
Cadillac đã được J.D.Power bình chọn là nhà sản xuất xe hơi hàng đầu về việc
thỏa mãn khách hàng mua xe.
Năm 1992, chiếc Cadillac Seville vinh dự đạt
danh hiệu “Chiếc xe của Năm” nhờ những
tính năng tuyệt hảo như hệ thống kiểm soát
độ bám đường của xe, hệ thống chống bó
cứng phanh và hệ thống treo cảm biến tốc
độ.

Năm 2000-2001, Cadillac khẳng định lại


đẳng cấp trên đường đua mà hãng đã lãng Pebble Beach Concours
quên, nhờ việc tập trung vào những công d'Elegance
nghệ tiên tiến nhất nhằm nâng cao khả
năng vận hành của xe. Cadillac trở lại đường đua Presidental Inaugural
Parade vào năm 2001.

Đến nay, trải qua hơn 100 năm không ngừng nỗ lực và phát triển, Cadillac
vẫn luôn tự hào với những danh hiệu “đầu tiên” và “số một” đã làm rạng
danh dòng họ Cadillac mà nó mang tên.
Mercedes-Benz nổi tiếng với những dòng xe nào?

A-Class

Chiếc Mercedes-Benz A-Class thuộc dòng


supermini thường được biết đến với “nick-name”
Baby Benz. Xuất hiện lần đầu vào năm 1997,
sau 7 năm có mặt trên thị trường, số xe A-Class
bán ra là 1,1 triệu chiếc. Thế hệ thứ 2 của A-
Class được giới thiệu vào mùa thu 2004 được
trang bị thêm nhiều công nghệ mới như hộp số
tự động vô cấp Autotronic, hệ thống ổn định "Baby Benz"
điện tử ESP và hệ thống treo mới làm tăng độ ổn định cho xe, đồng thời khắc
phục khả năng bị lật xe khi chạy zíc zắc. Xe được giới thiệu với hai phiên bản
thân xe 3 cửa, 5 cửa và 7 loại động cơ để lựa chọn (3 động cơ diesel và 4
xăng).

C-Class

Lần đầu tiên xuất xưởng vào tháng 6/1993, dòng C-Class được coi là một
trong những chiếc xe Mercedes-Benz có giá “dễ chịu” nhất. Phiên bản thứ hai
của dòng xe này được giới thiệu ra thị trường vào tháng 7/ 2000 (hiện đã sản
xuất được trên 1,5 triệu chiếc) và người tiêu dùng trên toàn thế giới đang
đón chờ phiên bản thứ 3 của C-Class - được thông báo là sẽ xuất hiện vào
năm 2007 này. Những yếu tố làm nên thành công của chiếc xe là công nghệ
cao kết hợp với nhu cầu sử dụng đa dạng. Chiếc xe mới của năm 2005 được
trang bị thêm một số công nghệ mới như sơn chống trầy xước sử dụng công
nghệ Nano, đèn Bi-xenon với hướng chiếu sáng thay đổi theo góc lái, hệ
thống truyền động 4 bánh 4Matic…

E-Class

E trong E-Class là từ viết tắt của “Einspritzung”,


một từ tiếng Đức có nghĩa là “hệ thống phun
nhiên liệu”. Hệ thống này đã từng được coi là
một trong những thành tựu mới của ngành công
nghiệp xe hơi thập niên 50. Mercedes-Benz E-
Class là một chiếc xe hạng sang hiện được giới
thiệu với hai phiên bản sedan 4 cửa và estate 5
cửa được trang bị động cơ xăng và diesel (tùy E-Class
phiên bản), động cơ 4 xi-lanh thẳng hàng cho
đến V8, 3 kiểu hộp số (số tay 6 cấp, tự động 5 cấp và tự động 7 cấp 7G-
Tronic). Một số công nghệ nổi bật trên chiếc E-class là hệ thống treo khí nén
Airmatic DC (tuỳ chọn), phanh điện thuỷ lực SBC, Cruiser Control Distronic,
điều hoà 4 vùng Thermotronic… E-Class cũng là dòng xe bán chạy nhất của
Mercedes-Benz trên toàn thế giới nhờ sự đa dụng của nó: nếu ở một số quốc
gia dòng E-Class được coi là những chiếc xe sang trọng thì ở một số nơi khác,
nó lại được một số công ty taxi khai thác (Đức, Bồ Đào Nha, Singapore).
Cảnh sát Đức cũng hết sức tín nhiệm chiếc xe này và sử dụng nó vào công
việc tuần tiễu và bắt tội phạm.

CLS-Class

Mercedes-Benz CLS là một thành viên của đại gia đình xe du lịch Mercedes.
Được bán ra thị trường châu Âu mùa thu năm 2004, CLS- Class dài hơn dòng
E-Class khoảng 15,2cm, bảo đảm cho 2 chỗ ngồi phía sau của xe có được sự
tiện nghi và thoải mái. Dòng xe này là sự dung hoà giữa dòng E-Class và S-
Class, được coi là đối thủ đáng gờm của BMW 6-series, Cadillac STS và Lexus
GS. Chính vì sự thông dụng của dòng xe này mà một số mẫu xe ra đời sau
của các hãng khác như Audi A7, Porsche Panamera và Aston Martin Rapide
đều bị coi là ăn theo mẫu xe này. Được thiết kế với phong cách thể thao, xe
có 4 chỗ ngồi như trên những chiếc coupé 2 cửa cỡ lớn nhưng không phải là
2+2 mà là 4 chỗ thực thụ vì chiếc xe có 4 cửa và chiều dài 4,913m, nằm giữa
khoảng chiều dài 4,818m của E-class và 5,163m của S-class có trục cơ sở dài
(long wheelbase).

CLK-Class

Mercedes-Benz CLK-Class là dòng xe hạng sang


cỡ trung dẫn động cầu sau, có thể là xe coupe
hoặc converrtible. CLK-Class nổi bật ở công
nghệ cao nhưng phong cách lại rất đơn giản và
trang nhã. Cả hai mẫu xe CLK coupé và CLK
convertible đều có 4 chỗ ngồi và 2 cửa. Phiên
bản CLK 2005 được chau chuốt lại nội thất theo
phong cách thể thao hơn và nâng cấp hệ thống CLK-Class
lái mới nhạy hơn. Đến nay, đã có rất nhiều mẫu xe khác nhau thuộc dòng
CLK được sản xuất, như CLK350, CLK550, và CLK63 AMG, trong đó CLK63
AMG được coi là chiếc xe tiêu biểu nhất, với động cơ V8 và công suất 481
bhp. Một điều ít người biết đến đó là, với CLK, một lần nữa E-Class lại trở
thành kẻ khơi nguồn cảm hứng cho Mercedes-Benz.

M-Class

Một trong những chiếc SUV tiêu biểu của Mercedes-Benz là dòng M-Class,
dòng SUV đầu tiên được trang bị hệ thống kiểm soát ổn định (stability
control). Hệ thống 4-ETS (Four Electronic Traction Support) không chỉ phân
chia lực kéo tới bánh xe tốt hơn, mà còn hỗ trợ tài xế khi đổ dốc. 4-ETS tự
động giám sát hoạt động phun nhiên liệu cho xi-lanh và phân phối lực phanh
đến từng bánh xe, giúp xe xuống dốc ổn định và an toàn. Đặc biệt, hệ thống
Headlamp Assist tự động bật pha xenon khi trời tối hay chạy vào các đường
hầm. Bên cạnh đó, hệ thống túi khí trước và túi khí bên cho hành khách ở
hàng ghế trước, kết hợp với các hệ thống an toàn hoàn hảo khác của
Mercedes, đã giúp M-Class được giới bảo hiểm đánh giá là có độ an toàn gần
như tuyệt đối.
S-Class

Mercedes-Benz S-Class được coi là lá cờ đầu của những chiếc xe sedan hạng
sang cỡ lớn với sự tổng hợp tất cả tinh hoa về công nghệ ôtô được Mercedes
trang bị trên các xe sedan của mình. Nếu không kể đến chiếc limousine
Mercedes-Benz 600 thì đây có thể coi là chiếc xe hạng sang lớn nhất của
Mercedes-Benz. Cái tên S-Class bắt nguồn từ tiếng Đức - "Sonderklasse", có
nghĩa là “hạng đặc biệt”. Có được lái thử S-Class và hưởng thụ những tiện
nghi, thoải mái nó đem lại mới cảm nhận hết được sự sáng suốt của
Mercedes-Benz khi đặt cho chiếc xe này cái tên đó.

S-Class
Một số người sành về xe còn cho rằng S ở đây còn có thể là từ viết tắt của
“super” vì chiếc xe này quả thực có tỉ số nén tương đối cao và động cơ mạnh
mẽ đến hoàn hảo. Xe S-Class càng ngày càng hoàn thiện hơn và chứng tỏ
khả năng thích hợp cao cho mọi đối tượng phục vụ và yêu cầu về nhiên liệu
với các loại động cơ mới được trang bị trên xe như V6-245hp, V8
Kompressor-500hp, V12-500hp, diesel V6-204hp ... Ngoài ra, S-Class còn nổi
bật bởi sự tiện nghi và độ an toàn cao, với hệ thống treo khí nén toàn phần
chủ động ABC (Active Body Control) với chức năng chống lắc ngang.

SL-Class

Mercedes-Benz SL-Class là một đại diện hàng đầu của dòng roadster “made-
in-Mercedes”. Tương tự những dòng xe khác của nhà sản xuất xe hơi Đức
này, SL là từ viết tắt của “Sport Leicht”, nghĩa là “Sport Light” - những chiếc
xe thể thao nhỏ và trọng lượng rất nhẹ. Lần đầu ra mắt vào năm 1954, chiếc
300SL đã nhanh chóng hấp dẫn người tiêu dùng bởi loại cửa mở ngược lên
phía trên - tượng trưng cho đôi cánh đại bàng dang rộng. Kể lần đầu tiên ra
mắt năm 1954, Mercedes-Benz SL-Class đã trải qua 5 thế hệ. Suốt hơn 50
năm qua, những chiếc xe thuộc gia đình SL-Class vẫn là ước mơ của hầu hết
người dân trên thế giới. Tính đến nay đã có hơn 600.000 chiếc SL được bán
ra. Với tổng số 100.000 sản phẩm và chiếm hơn 40% thị trường, SL-Class
đang đứng đầu thị phần Roadster trên thế giới.

SLK-Class
Mercedes-Benz SLK-Class ra đời năm 1997 là
hiện thân cho những tham vọng ngút trời của
những người thiết kế và chế tạo ra nó – đó là
“Sportlich” (thể thao), “Leicht” (nhẹ) và “Kurz”
(ngắn). Sự nổi tiếng của SLK một phần có lẽ là
do những chiếc mui cứng có thể đóng mở dễ
dàng để trở thành xe “mui trần”. Mặc dù không
phải là người tiên phong trong lĩnh vực này,
nhưng Mercedes-Benz có thể coi là người tái SLK-Class
sinh những chiếc mui cứng đóng mở được. Chỉ
trong vòng 3 năm xuất hiện trên thị trường, đã có tới 100.000 chiếc SLK-Class
tới tay khách hàng. SLK kết hợp sự tiện dụng, thể thao và những tiện ích mà
không một mẫu xe nào cùng đẳng cấp có được. SLK-Class được xây dựng
trên nền tảng thiết kế của F1 với mui dài, cửa rộng và đuôi ngắn. Những "tín
đồ" của SLK-Class cho rằng "mọi chi tiết của SLK hoàn hảo và thống nhất tới
mức bất cứ thay đổi nào cũng trở nên thừa thãi".

Siêu xe SLR McLaren

Mercedes-Benz SLR McLaren là một siêu xe thể thao được liên kết sản xuất
giữa DaimlerChrysler và McLaren Cars - là sự kết tinh những kinh nghiệm chế
tạo và phát triển xe đua của hai hãng trong thời gian dài. Động cơ V8
supercharged do AMG sản xuất đạt công suất 626 mã lực, mô-men xoắn
780Nm. Chiếc xe mất 3,8 giây để tăng tốc từ 0 đến 100km/h và vận tốc tối
đa có thể lên đến 334km/h. Đây là một trong những chiếc xe số tự động có
vận tốc lớn trên thế giới được lắp ráp tại McLaren Technology Centre, Anh.

Mercedes SLR McLaren/


Một số người cho rằng SLR là viết tắt của "Sportlich, Leicht, Rennsport"
(nghĩa là “thể thao, nhẹ và thuộc dòng xe đua"), nhưng thực chất, SLR lại có
nghĩa là "Super-leicht, Rennsport" (xe đua siêu nhẹ). Ấn tượng đầu tiên khi
thử nghiệm chiếc xe hoạt động là tiếng gầm trầm của động cơ phát ra từ các
đường dẫn khí ở hai bên, sát với bánh trước, được so sánh giống như tiếng
gào của những phi cơ trong Thế chiến II..Hộp số tự động 5 cấp cho phép
người lái tùy chọn giữa 3 chế độ: Comfort (tiện nghi), Sport (thể thao) và
Manual. SLR là chiếc xe đầu tiên trên thế giới (không tính các xe đua) có hệ
thống chống va đập phía trước hoàn toàn bằng sợi carbon. Xe được trang bị
các túi khí bao trùm cả đầu gối, túi khí hai bên, hệ thống phanh khí (airbrake)
tự động đặt phía sau, trên nắp khoang hành lý.

Chiếc xe này có giá €443.066 (tương đương 300.000 bảng Anh hoặc 450.000
đô la Mỹ), nhưng những người bỏ tiền mua SLR McLaren cho rằng số tiền đó
chẳng thấm vào đâu so với những gì mà nó mang lại.
Mitsubishi Motors ra đời như thế nào?

Mitsubishi, thành viên tiềm năng của công


nghiệp ôtô thế giới

Trong suốt hai thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XX,


lịch sử của tập đoàn Mitsubishi ghi dấu sự không
ngừng nỗ lực sáng tạo trong thiết kế và chế tạo
xe hơi, khởi đầu là chiếc xe du lịch Model-A.
Chính mẫu xe này đã đánh dấu một bước ngoặt
lớn trong lịch sử phát triển của Mitsubishi –
được chính thức công nhận là một thành viên Biểu tượng toàn cầu của
tiềm năng của ngành công nghiệp xe hơi thế Mitsubishi Mortos
giới. Đến năm 1918, Mitsubishi thành công trong
việc chế tạo chiếc xe tải đầu tiên - chiếc T1 prototype, chiếc xe đã xuất sắc
vượt qua cuộc thử nghiệm độ ổn định và tin cậy trải dài 1.000km.

Năm 1931, nền công nghiệp Nhật Bản chứng kiến một cuộc “tiểu cách mạng”
trong ngành cơ khí khi động cơ diesel lần đầu tiên được phát triển và ứng
dụng trong các phương tiện đi lại – đó chính là động cơ 450AD phun nhiên
liệu trực tiếp. Chỉ một năm sau đó, Mitsubishi tiếp tục xuất xưởng chiếc xe
buýt đầu tiên – chiếc B46 – to nhất và có công suất lớn nhất thời bấy
giờ. Thập niên 30 được coi là thời đại vàng của Mitsubishi khi hãng lần lượt
giới thiệu những ý tưởng và sản phẩm “đầu tiên” không chỉ đối với chính
hãng mà còn đối với ngành công nghiệp xe hơi Nhật Bản.

Năm 1946, dưới ảnh hưởng của quân Đồng


minh, hầu hết các tập đoàn công nghiệp của
Nhật Bản đều bị giải thể, trong đó có cả
Mitsubishi Heavy Industries – công ty mẹ của bộ
phân sản xuất xe hơi Mitsubishi. Việc Mitsubishi
Heavy Industries bị tách thành 3 công ty nhỏ có
ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động chế tạo xe
hơi. Chính trong năm này, Mizushima ra đời.
Đây là một chiếc xe hơi 3 bánh nhỏ, gọn, rất Chiếc Model -A đầu tiên
phù hợp cho việc đi lại gần, lại hết sức tiết kiệm
nhiên liệu. Chỉ vài tháng sau đó, Silver Pigeon được chế tạo dựa trên nguyên
tắc thiết thực và tiết kiệm nhiên liệu, cũng xuất xưởng. Có thể nói, chính
chiếc xe này đã tạo nên cơn sốt phương tiện đi lại cá nhân tại Nhật Bản.

Thời gian này, với những hậu quả do chiến tranh để lại, nhu cầu về xe
thương mại ở Nhật tăng cao, nhưng nhiên liệu vẫn là một bài toán nan giải.
Chiếc xe buýt B1 của Mitsubishi thực sự là nền tảng lý tưởng cho xe cứu hoả
và các xe chuyên dụng khác. Năm 1947, Mitsubishi tiếp tục trình làng chiếc
xe buýt động cơ điện MB46 và chiếc R1 – xe buýt có động cơ đặt sau đầu
tiên của Nhật Bản.

Từ những chiếc xe gia đình...

Đầu thập niên 1960, nền kinh tế Nhật Bản phát


triển mạnh mẽ, đời sống của người dân được cải
thiện dần và việc sở hữu phương tiện cá nhân
cũng trở thành một nhu cầu tất yếu. Ước mơ
được sở hữu một chiếc xe cho cả gia đình đã trở
thành hiện thực với Mitsubishi 500 - mẫu xe
không chỉ khẳng định vị trí của Mitsubishi trong
lòng người tiêu dùng trong nước mà còn được
nồng nhiệt chào đón tại Macau Grand Prix. Mitsubishi 500

Năm 1962, Mitsubishi giới thiệu Minica - chiếc compact 4 chỗ siêu nhỏ động
cơ xăng 2 kỳ, 359cc không chỉ giúp người tiêu dùng tiết kiệm dược một
khoảng thuế kha khá mà còn rất tiết kiệm nhiên liệu và hoạt động hết sức
bền bỉ. Năm 1969, chiếc Colt Galant với thiết kế khí động học và động cơ
Saturn SOHC giúp Mitsubishi một lần nữa được ngẩng cao đầu với hàng loạt
những giải thưởng do người tiêu dùng bình chọn. Bên cạnh nhưng thành
công này, Mitsubishi cũng không quên nghiên cứu chế tạo xe thương mại,
điển hình là chiếc xe buýt Rosa hay xe tải Canter.

Đến cuối thập niên 1960, hoạt động bộ phận nghiên cứu và chế tạo xe hơi đã
đạt đến đỉnh cao và đây là lý do khiến cho các nhà lãnh đạo của Mitsubishi
Heavy Industries không thể chần chừ trong việc tách bộ phân này thành một
công ty độc lập. Năm 1970, Mitsubishi Motors Corporation (MMC) ra đời.

Một trong những trọng tâm của MMC đó là phát triển hơn nữa cơ sở vật chất
tại Nhật Bản, tiến hành các hoạt động từ nghiên cứu và phát triển, sản xuất
và phân phối cho đến dịch vụ hậu mãi. Tuy nhiên, chính tại xứ sở Kangaroo
MMC đã khẳng định sự vượt trội và tin cậy trong các sản phẩm của mình khi
chiếc Galant 16GLS giành chiến thắng tại giải đua đường trường Southern
Cross Rally. Tiếp đó Lancer 1600GSR liên tiếp chiến thắng tại Southern Cross
Rally và East Africa Safari Rally (1974 và 1976).
Lancer 1600GSR

Kết thúc thập niên 70 là hai giải thưởng dành cho chiếc Colt 1400 GLX - ”Xe
của Năm” (do tạp chí Japan's Motor Fan magazine bình chọn) và chiếc L200 -
"Xe bán tải của Năm" (do tạo chí Pickup, Van & 4WD magazinetrao tặng).
Không còn nghi ngờ gì nữa, việc sản phẩm của MMC được tín nhiệm và ưa
chuộng trên toàn thế giới chỉ còn là vấn đề thời gian. Thông qua việc tài trợ
xe cho các sự kiện thế giới như Olympics 1984 tại Sarajevo và Universiade
Games 1987 tại Zagreb, Mitsubishi đã quảng bá sản phẩm của mình đến với
hàng triệu khán giả trên toàn thế giới .

...đến bá chủ đường đua Dakar

Năm 1985, với chiến thắng tại Dakar - một trong


những đường đua khốc liệt nhất trên thế giới,
chiếc Pajero nhanh chóng trở thành chiếc xe
được ưa chuộng nhất trên thế giới. Một năm sau
đó, tạp chí “What car?” đã phong Pajero là
“Chiếc 4 x 4 của năm”. Đến năm 1989, MMC đã
phá triển được một mạng lưới nhà máy chế tạo
và lắp ráp xe hơi tại nhiều quốc gia trên toàn
thế giới, trong đó phải kể đến nhà máy của Mitsubishi Pajero
Diamond Star Motors Corporation - liên doanh giữa MMC và Chrysler.

Hirokazu Nakamura trở thành chủ tịch MMC năm 1989 và điều hành công ty
theo một chiến lược hoàn toàn mới. Chiếc xe Pajero trở nên phổ biến ở khắp
mọi nơi, kể cả ở những con phố chật chội nhất Tokyo. Vào thời điểm này mặc
dù doanh số bán ra của dòng SUV và xe tải không ngừng tăng trưởng tại thị
trường Hoa Kỳ, nhưng các nhà sản xuất xe hơi Nhật Bản vẫn hết sức lo ngại
và cho rằng điều kỳ diệu đó mãi mãi vẫn chỉ là một giấc mơ xa vời đối với thị
trường trong nước. Trái với xu hướng này, Nakamura vẫn đầu tư một khoản
khá lớn vào việc phát triển dòng SUV. Các nhà sản xuất xe hơi Nhật Bản đã
chê cười Nakamura, cho rằng ông đã đánh một canh bạc mạo hiểm. Thế
nhưng, canh bạc này Nakamura đã là người chiến thắng. Hàng loạt những
chiếc xe dẫn động 4 bánh như Pajero, Delica Space Gear... đã làm dấy lên
một làn sóng của dòng xe SUV tại Nhật Bản vào giữa thập kỷ 90.
Năm 1991, Chrysler bán dần cổ phần của mình
trong Mitsubishi, chỉ giữ lại khoảng 3%. Kể từ
đó, Mitsubishi trở thành một nhà sản xuất xe hơi
tương đối độc lập và giao dịch giữa Mitsubishi
với Chrysler chỉ còn trên phương diện giấy tờ.
Đến năm 1993 thì toàn bộ cổ phần Mitsubishi
còn lại của Chrysler đã được bán ra thị trường
mở, nhưng Chrysler vẫn cung cấp một số động Mitsubishi Grandis
cơ và hệ thống treo cho Mitsubishi Hoa Kỳ. Đổi
ngược lại, Mitsubishi cũng tham gia quảng bá sản phẩm của Chrysler.

Cuộc khủng hoảng tài chính ở châu Á diễn ra năm 1997 gần như đánh quỵ
MMC khi doanh số của tập đoàn liên tục suy giảm ở hầu hết các thị trường.
Phải mất nhiều năm MMC mới khôi phục lại vị thế của mình trên các thị
trường. Dự kiến trong năm 2007 này, MMC sẽ đạt doanh số hơn 1,5 triệu
chiếc trên toàn cầu. Tại Việt Nam, Mitsubishi được biết đến với những chiếc
xe SUV như Pajero, Jolie hay chiếc van Grandis sang trọng.
Tại sao Rolls-Royce được mệnh danh là dòng xe "hoàng gia"?

Từ xa xưa, châu Âu đã là mảnh đất khai sinh những thương hiệu danh tiếng
và quý tộc. Rolls-Royce là một trong số ít những thương hiệu đó. Trong suốt
hơn 100 năm lịch sử nghiên cứu, chế tạo và phát triển, Rolls-Royce luôn là
lựa chọn hàng đầu của những nhà quý tộc, những người giàu sang bậc nhất
xã hội và những người đứng đầu bộ máy quản lý nhà nước. Thật vậy, Rolls-
Royce là niềm đam mê khát khao cháy bỏng không chỉ bởi sự vượt trội về
động cơ, độ tin cậy và an toàn đạt gần đến mức hoàn hảo mà còn bởi những
đường nét tinh tế và nội thất sang trọng đến ngưỡng mộ.

Những “tín đồ” của dòng xe “hoàng


gia” này hẳn đều biết tiền thân của
hãng sản xuất xe hơi Rolls-Royce vốn
là một công ty chuyên sản xuất đồ
điện tử và cơ khí - Royce Ltd (hiện
chính là tập đoàn Rolls-Royce nổi tiếng
về động cơ máy bay). Tháng 5/1904,
Royce Ltd đã chế tạo được chiếc xe hơi
đầu tiên và đến tháng 5 năm đó,
Royce - ông chủ của hãng đã gặp
Charles Rolls, giám đốc một công ty
kinh doanh xe hơi. Họ nhanh chóng
đạt được thoả thuận rằng CS Rolls &
Co sẽ độc quyền bán giới thiệu và bán
những chiếc xe của Royce ra thị
trường.

Tháng 03/1906, hai ông chủ quyết


định phải tiến thêm một bước nữa
trong việc thiết lập mối ràng buộc chặt
chẽ giữa hai bên, đó là thành lập một Biểu tượng kiêu hãnh của Rolls-
công ty chung lấy tên là Rolls-Royce. Royce
Chiếc xe mang thương hiệu Rolls-
Royce đầu tiên Silver Ghost (động cơ 7.0l, 6 xi-lanh nhưng vẫn “êm đến rợn
người”) ra đời năm 1907 nhanh chóng được bình chọn là “chiếc xe tốt nhất
thế giới”.

Ngủ quên trên chiến thắng, ảnh hưởng của Thế chiến thứ nhất, và một phần
là do Rolls bất ngờ qua đời trong một vụ tai nạn máy bay (1910), mãi đến
năm 1922, Rolls-Royce mới xuất xưởng chiếc xe thứ hai - chiếc Phantom I.
Cuối thập niên 1920, dòng xe Phantom (I, II và III) đã tạo ra một cuộc cách
mạnh về hệ thống treo, giúp Rolls-Royce vượt xa các đối thủ khác trong chế
tạo động cơ. Năm 1931, Rolls-Royce mua lại toàn bộ thương hiệu Bentley -
một trong những đối thủ đáng gờm của hãng.
Thế chiến thứ hai lại là những năm tháng dài
tập trung mọi nguồn lực vào phát triển động
cơ máy bay. Sau khi chiến tranh kết thúc,
Rolls-Royce đưa ra một chiến lược sản xuất
xe hơi hoàn toàn mới - chấm dứt quá trình
chế tạo xe hơi thủ công. Thay vào đó là một
dây chuyền dập thân xe tiêu chuẩn. Thế
nhưng trên thực tế thì những mẫu xe ra đời
năm 1946 của Rolls-Royce vẫn dựa trên Chiếc Sliver-Ghost đầu tiên
những thân xe được làm thủ công, chỉ có của RR
thân xe của Bentley là theo quy trình tiêu
chuẩn mới.

Thập niên 1950 mở ra một trang sử mới cho Rolls-Royce khi hãng nhận được
hợp đồng chế tạo và cung cấp xe hơi cho các vị nguyên thủ quốc gia, trong
đó phải kể đến mẫu Phantom IV dành cho Công chúa Elizabeth và Công tước
xứ Edinburgh, chiếc xe của quốc vương Iran, và 3 chiếc xe chống đạn của
Tổng tư lệnh Tây Ban Nha Franco. Xe Rolls-Royce còn vinh dự được phục vụ
hai vị lãnh tụ Liên Xô như Lenin và Stalin. Mỗi chiếc xe một dáng vẻ, một
cách trang bị hoàn toàn khác nhau, nhưng lại rất vừa ý chủ nhân của chúng
bởi sự tiện nghi, an toàn và thoải mái đến hoàn hảo. Năm 1959, lần đầu tiên
Rolls-Royce chế tạo một thân xe hoàn chỉnh. Trước đây, hãng chỉ sản xuất
khung gầm, sau đó thuê một công ty khác hoàn thành nốt phần thân xe.

Rolls-Royce Phantom, sự lựa chọn hàng đầu của hoàng


gia Anh

Sau hàng loạt những thành công vang dội và những thành tựu rực rỡ về hàng
không, đường bộ và đường thuỷ, năm 1966, Rolls-Royce đã thâu tóm toàn bộ
nguồn lực hàng không của Anh quốc. Năm 1971, một số rắc rối với động cơ
do chính hãng chế tạo đã khiến Rolls-Roce bị quốc hữu hóa và tách thành hai
công ty độc lập: một chuyên sản xuất động cơ máy bay và một tập trung vào
chế tạo xe hơi. Năm 1973, Rolls-Royce Motors được thành lập và đến năm
1980 thì được bán lại cho Vickers - một đại gia trong ngành công nghiệp.

Năm 1998, Volkswagen mua lại Rolls-Royce Motors, với quyền sở hữu toàn bộ
thương hiệu Bentley và nhà máy của Rolls-Royce tại Crewe, Anh. Tuy nhiên,
do những thiếu sót không đáng có, cuối cùng thương hiệu Rolls-Royce lại về
tay của BMW. Mẫu xe mới nhất của Rolls-Royce và cũng là mẫu xe đầu tiên
do BMW quảng bá là chiếc Phantom được trang bị động cơ 6.75l - xuất xưởng
tháng 01/2003.

Rolls-Royce Phantom Drophead Coupé

Một lý do nữa khẳng định sự "quý và hiếm" của Rolls-Royce đó là mỗi năm
hãng này chỉ sản xuất một số lượng xe ít ỏi: không quá 1000 chiếc và hiện
nay, toàn bộ quá trình chế tạo xe Rolls-Royce vẫn được thực hiện tại một nhà
máy duy nhất của Rolls-Royce ở Anh.

Trong năm 2007 này, Rolls-Royce dự định sản xuất 3 mẫu xe đó là Phantom,
Phantom Extended Wheelbase và Phantom Drophead Coupé.
Tập đoàn Rolls-Royce ra đời như thế nào?

Henry Royce thành lập một doanh nghiệp


chuyên sản xuất đồ điện tử và cơ khí vào năm
1884, lấy tên là Royce Ltd. Đến năm 1904,
công ty này đã chế tạo được chiếc xe hơi đầu
tiên. Tháng 5 năm đó, Royce gặp Charles Rolls,
chủ một công ty kinh doanh xe hơi tại Luân
Đôn. Họ nhanh chóng đạt được thoả thuận
rằng Royce sẽ sản xuất ra những chiếc xe hơi
có chất lượng cao và CS Rolls & Co của Rolls sẽ
được độc quyền bán giới thiệu và bán những Hemry Royce và Charles
chiếc xe đó ra thị trường. Roll

Thành công bước đầu đã khiến cho hai ông chủ quyết định phải tiến thêm
một bước nữa trong việc thiết lập một mối ràng buộc chặt chẽ giữa hai bên,
đó là thành lập một công ty chung vào tháng 3/1906 lấy tên là Rolls-Royce.
Chiếc xe mang thương hiệu Rolls-Royce đầu tiên Silver Ghost ra đời năm
1907 nhanh chóng được bình chọn là “chiếc xe tốt nhất thế giới”.

Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra. Đáp lại lời
kêu gọi của Tổ quốc, Rolls-Royce thiết kế động
cơ máy bay đầu tiên - chiếc Eagle - được coi là
chủ lực của không quân Đồng minh. Nhờ có sự
ra đời của Eagle, lần đầu tiên con người có thể
bay vượt biển Đại Tây Dương, đồng thời mở
được đường bay thẳng từ Anh đến Australia.

Cuối thập niên 1920, Rolls-Royce phát triển Silver Ghost chiếc xe đầu
động cơ “R”, giúp Anh tham dự cuộc thi thuỷ tiên của RR
phi cơ quốc tế International Schneider Trophy.
Ngay lập tức, động cơ “R” đã lập một kỷ lục thế giới mới về vận tốc máy bay:
hơn 650 dặm/ giờ (1931), tiếp theo đó là hàng loạt những kỷ lục cả trên mặt
đất lẫn đại dương.

Quan trọng hơn cả là những thành tựu này chính là bàn đạp giúp Rolls-Royce
phát triển động cơ máy bay Merlin. Chiến tranh Thế giới thứ 2 nổ ra với nhu
cầu khổng lồ về Merlin khiến cho Rolls-Royce từ một công ty vô danh trở
thành một đại gia trong lĩnh vực động cơ máy bay.
Bên cạnh đó, Rolls-Royce cũng bắt tay vào phát
triển tua bin máy bay chạy bằng khí đốt. Thành
công này giúp Rolls-Royce có được sự tự tin
khẳng định mình trong việc chế tạo tua bin
chạy bằng khí đốt và nhanh chóng dẫn đầu lĩnh
vực này. Năm 1953, Rolls-Royce tham gia vào
thị trường hàng không dân dụng và chỉ một vài
năm sau đó đã giành được 2 cái “nhất”: Comet
trở thành chiếc máy bay phản lực tua bin đầu Một trong những chiếc
tiên phục vụ những chuyến bay vượt Đại Tây động cơ máy bay đầu tiên
Dương năm 1960 và động cơ Conway trong của RR
chiếc Boeing 707 là chiếc động cơ phản lực
cánh quạt đầu tiên được sử dụng trong hàng không dân dụng.

Cuối thập niên 50, ở Anh có 4 đại gia về động cơ máy bay là Armstrong
Siddeley, Blackburn, Bristol, de Havilland và Napier. Năm 1959, Bristol sát
nhập với Armstrong Siddeley, thành lập công ty Bristol Siddeley. Năm 1961,
Blackburn, de Havilland và Napier sát nhập với Rolls-Royce. Nhưng cuối cùng,
toàn bộ nguồn lực hàng không của Anh cũng được hợp nhất khi Rolls-Royce
và Bristol Siddeley sát nhập năm 1966.

Cuối thập niên 60, Rolls-Royce giới thiệu động cơ RB211 trang bị cho chiếc
Lockheed L-1011 Tri-Star nhưng chính những vấn đề do RB211 gây ra đã
khiến Rolls-Roce bị quốc hữu hóa năm 1971. Rolls-Royce lại được trả về cho
khu vực tư nhân năm 1987. Trải qua một vài sát nhập nho nhỏ, Rolls-Royce
trở thành công ty duy nhất của Anh có khả năng cung ứng động cơ cho cả
đường không, đương thuỷ và đường bộ.

Động cơ máy bay của RR nổi tiếng trên toàn thế


giới

Năm 1990, Rolls-Royce thành lập một liên doanh chế tạo động cơ máy bay
với BMW. Năm 1998, Rolls-Royce Motor Cars được bán cho Volkswagen, mặc
dù BMW lại sở hữu tên và nhãn hiệu của Rolls-Royce. Đến năm 2000 Rolls-
Royce nắm toàn bộ quyền sở hữu liên doanh với BMW và chính thức đổi tên
thành Rolls-Royce Deutschland Ltd & Co KG nhưng chỉ 3 năm sau đó BMW đã
mua lại toàn bộ Rolls-Royce.
Ngày nay, Rolls-Royce vẫn giữ vững vị trí thứ hai về sản xuất động cơ máy
bay dân dụng, động cơ máy bay phòng không và là một trong những tên tuổi
tiêu biểu cho ngành chế tạo động cơ tàu biển và giải pháp năng lượng thế
giới.
Thương hiệu Lincoln ra đời như thế nào?

Là một trong những nhãn hiệu xe hơi của Ford Motors, Lincoln ra đời khá
muộn mằn so với người anh em Ford, nhưng những thành công mà Lincoln
đạt được đã làm rạng danh dòng họ Ford trên toàn thế giới.

Lincoln luôn là sự lựa chọn của những người nổi


tiếng

Sự khởi đầu mạnh mẽ

Thập kỷ 1920 đánh dấu sự ra đời của Lincoln – nhà sản


xuất xe hơi được vinh dự mang tên của cố Tổng thống
Hoa Kỳ Abraham Lincoln. Ngay từ khi mới được thành
lập, Lincoln đã tạo được cho mình một vị thế hoàn toàn
tách biệt so với các đối thủ khi cho ra mắt những dòng
xe sang trọng. Một trong những chiếc xe nổi tiếng nhất
đó là chiếc Lincoln Town Car 1922, chiếc xe được sản
xuất dành riêng cho Henry Ford (Chủ tịch sáng lập của
tập đoàn Ford Motors).

Chỉ trong vòng 2 năm sau đó, Lincoln đã trở thành lựa Biểu tượng của
chọn hàng đầu của những người nổi tiếng và những gia Lincoln
đình quý tộc, trong đó phải kể đến Thomas Edison, W.C. Fields và Herbert
Hoover.

Thành công nối tiếp thành công

Thập niên 30, tại Hoa Kỳ, cái tên Lincoln đã được rất nhiều người tiêu dùng
ưa chuộng bởi thiết kế trang nhã, nội thất sang trọng và sự uy tín hàng đầu.
Thế nhưng, chỉ đến khi mẫu Zephyr xuất xưởng thì Lincoln mới thực sự được
coi là thành công, ít nhất là về mặt tài chính. Mặc dù có dáng vẻ tương đối
chạy theo “mốt” của thời đại, đó là những chiếc xe dài có dáng thuôn và hơi
có phần điệu đà nhưng Zephyr khiến cả ngành công nghiệp xe hơi nể phục
bởi đây chính là một trong những chiếc xe đầu tiên thực sự theo các nguyên
lý khí động học.
Chiếc Zephyr (1937)
Cuối thập niên này, tức là khoảng năm 1938, Edsel Ford quyết định giới thiệu
một dòng xe mới ra thị trường - chiếc Continental. Edsel đã tự mình lái thử
chiếc xe này, để thử nghiệm tính hoàn hảo của nó, đồng thời cũng là để
quảng bá và tiếp thị chiếc xe đến với công chúng. Chính những đường cong
độc đáo, quyết đoán của Continental đã đem lại một hình ảnh tươi mới, sống
động và là bàn đạp cho sự phát triển của Lincoln. Frank Lloyd Wright gọi
chiếc Continental là “chiếc xe đẹp nhất mọi thời đại”.

"Tất cả vì Tổ quốc"

Chiến tranh Thế giới lần thứ 2 nổ ra đồng nghĩa với việc Lincoln, giống như
bao nhà sản xuất xe hơi khác, phải tạm dừng công cuộc chế tạo và thiết kế
xe hơi. Tất cả vì Tổ quốc – Lincoln đã huy động mọi nguồn lực kề vai sát
cánh cùng cả nước Mỹ trong cuộc chiến này. Chính nhờ những cơ sở vật chất
hiện đại của Lincoln mà Ford mới có thể sản xuất thành công và cung cấp
một số lương khổng lồ động cơ xe tăng cho quân Đồng minh, thân xe tăng lội
nước và hơn 140.000 thân xe jeep. Bởi vậy mà sau chiến tranh, Lincoln và
các nhà sản xất xe hơi khác, chủ yếu thiết kế dựa trên việc khai thác các mẫu
xe trước đó.

Thay đổi diện mạo

Những năm 1950, chứng kiến sự thay đổi vượt bậc của Lincoln về mọi mặt.
Hàng loạt những phát minh và cải tiến mới từ vô-lăng, hệ thống phanh, cho
đến bộ lốp không săm và ghế điều chỉnh tự động - tất cả đều có mặt trên
chiếc Lincoln Premier. Bên cạnh đó, chiếc Continental Mark II cũng đem lại
diện mạo mới cho Lincoln và trở thành một trong những chiếc xe đẹp nhất và
gợi cảm hứng nhất của thập niên này.
Chiếc Continental của tổng thống Ronal
Reagan

Bước sang thập kỷ mới, Lincoln giới thiệu Continental phiên bản mới - một
chiếc xe được cả giới xe hơi ngưỡng mộ bởi nó không chỉ đơn thuần là một
chiếc xe “hoàn toàn mới” mà thực sự là một cuộc “tiểu cách mạng” về phong
cách. Nếu những phiên bản trước đây là đại diện cho chủ nghĩa ấn tượng với
sự trau chuốt đến cầu kỳ về từng đường nét thì nay, Continental hấp dẫn và
quyến rũ bởi sự giản đơn và tinh tế. Ngoài ra, người tiêu dùng có thêm lựa
chọn – đó là dòng xe mui trần. Được coi là chiếc xe thay đổi diện mạo Lincoln
chỉ trong một đêm, Continental phiên bản mới là chiếc xe đầu tiên được phng
danh hiệu “Thiết kế của năm” bởi Viện Thiết kế Công nghiệp.

Xu hướng thời trang

Đón chào thập kỷ 70 với những chiếc xe sang trọng bậc nhất. Nội thất bên
trong không chỉ tinh xảo đến kinh ngạc mà không gian rộng rãi tạo cho người
ngồi trong xe cảm giác như đang hoàn toàn thư giãn trong chính căn phòng
của mình. Cũng trong khoảng thời gian này Lincoln đã tạo nên một xu hướng
thời trang hoàn toàn mới. Bằng việc ký kết với những nhà tạo mẫu hàng đầu
thế giới như Givenchy, Gucci, Cartier… tên tuổi của những nhà thiết kế này
đã trở nên cực kỳ nổi tiếng và gắn liền với những chiếc xe mang thương hiệu
Lincoln.

Ngay từ đầu thập niên 1990 các nhà kinh tế học đã dự đoán rằng Lincoln sẽ
phải đối mặt với thử thách không nhỏ khi phải chia sẻ thị phần với các đối thủ
Nhật và châu Âu. Khó khăn không làm Lincoln lùi bước. Năm 1990, chiếc
Town Car đoạt danh hiệu “Chiếc xe của năm” . Năm 1993, chiếc Mark VIII
không chỉ hấp dẫn người tiêu dùng bởi những đường nét tuyệt hảo bên ngoài
mà còn chinh phục cả những người lái xe - những người thực sự làm chủ nó -
bởi thiết kế nội thất đem lại sự thoải mái tối ưu. Năm 1998, Lincoln Navigator
ra mắt, được coi là chiếc SUV siêu hạng cỡ lớn thực sự.

Một chiếc Town Car

Hiện tại, mục tiêu của Lincoln không chỉ là tầng lớp trung niên giàu sang. Nhà
sản xuất xe hơi này đang nhắm đến những khách hàng trẻ tuổi hơn. "Mở
hàng" cho thế kỷ 21 là chiếc xe thể thao 2000 LS - một địch thủ đáng gờm
của nhiều nhà sản xuất xe hơi trong phân khúc xe thể thao sang trọng. Ngoài
ra, Lincoln còn tung ra phiên bản Navigator 2003 mới hàng loạt những tính
năng tuyệt hảo hơn hẳn so với các dòng xe cùng phân hạng. Cũng là một
thiếu sót lớn nếu không kể đến chiếc Aviator 2002, mẫu SUV mới nhất của
Lincoln được đông đảo giới chơi xe ngưỡng mộ - chiếc xe này đã làm thay đổi
hoàn toàn quan niệm về dòng xe SUV.
Logo của Cadillac có lịch sử như thế nào?

Năm 1902, chiếc logo đầu tiên của Cadillac được thiết
kế và ra mẳt đúng vào dịp thành lập công ty. Chiếc
logo này được tạo dáng dựa trên chiếc huy hiệu truyền
thống của dòng họ Cadillac, bao gồm một vương miện
nhỏ ở phía trên và huy hiệu của dòng họ Cadilac nằm
ở chính giữa, bao quanh là vòng nguyệt quế được cách
điệu bằng vòng hoa tulip.

Logo này lần đầu tiên xuất hiện trên chiếc xe đầu tiên Logo Cadillac đầu
của Cadillac - chiếc Model A Runabout - chiếc xe được tiên
coi là kẻ tiên phong trong lĩnh vực công nghệ thời điểm đó. Mặc dù được đưa
vào sử dụng từ tháng 09/1902 nhưng mãi đến năm 1905 thì logo của Cadillac
mới được đăng ký và đến tháng 8/1906 mới trở thành thương hiệu chính
thức.

Chỉ hai năm sau, cùng với việc được nhận danh hiệu
Dewar Trophy, Cadillac tự hào giới thiệu slogan mới
của công ty “Tiêu chuẩn của thế giới”. Chính vì vậy mà
dòng chữ “La Mothe Cadillac” trên logo cũng nhanh
chóng được thay thế bằng slogan mới này. Chiếc
vương miện được hình tượng hoá và có nhiều chi tiết
hơn, đồng thời sự tương phản màu sắc trên chiếc huy
hiệu cũng trở nên rõ nét hơn. Thêm vào đó, sự giản
lược vòng nguyệt quế và thay thế vào đó là một vòng
Logo Cadillac 1908
tròn khiến cho logo của Cadillac trở nên sắc nét hơn,
hiện đại và trẻ trung hơn.

Từ năm 1916 đến năm 1918, vòng hoa tulip lại xuất hiên trong logo Cadillac
và đến năm 1920 thì chiếc vương miện nhập hẳn vào với chiếc huy hiệu.

Đến thập niên 1930, để tôn vinh vị trí của dòng động cơ có xi-lanh xếp thành
hình chữ V (V-8, V12, V16), các nhà thiết kế của Cadillac đã thay thế vòng
tròn nguyệt quế ở ngoài bằng đôi cánh - biểu tượng cho động cơ chữ V.

Theo thời gian, trải qua một số biến đổi nhỏ, đôi cánh
lồng bên ngoài huy hiệu Cadillac được đơn giản hoá
cho mảnh hơn, nhưng ngày càng sải rộng hơn. Thiết
kế mới này không chỉ độc đáo và ấn tượng mà hơn thế
nữa còn rất phù hợp với thiết kế khí động học của
những chiếc xe xuất xưởng trong thời kỳ này.

Sau khi Chiến tranh Thế giới lần thứ 2 kết thúc, đôi
cánh được thay thế bằng biểu tượng hình chữ V, mà
Logo Cadillac 1920
the Cadillac, là sự tôn vinh sự mạnh mẽ của động cơ
Cadillac.
Đến năm 1957, chữ V được thiết kế lại đôi chút cho phù hợp với xu hướng
thiết kế của các mẫu xe Cadillac trong thập niên 50 này, đó là dài hơn, rộng
hơn nhưng thân xe lại thấp hơn – toát lên vẻ sang trọng, quý phái và khẳng
định đẳng cấp của chủ nhân của chúng.

Đến thập niên 1970, sự ra đời của chiếc Eldorado 8.2L


– 400hp với sự thay đổi hoàn toàn trong thiết kế trục
xe đã khiến cho thiết kế động cơ hình chữ V trở nên lu
mờ. Năm 1970 đánh dấu sự biến mất của biểu tượng
chữ V trên logo của Cadillac.

Giữa thập kỷ 70, vòng hoa bao quanh chiếc huy hiệu
được hình tượng hoá nhiều hơn và cũng không còn
mang hình ảnh tràng hoa tulip nữa. Tuy nhiên, các nhà Logo Cadillac 1970
thiết kế Cadillac vẫn chưa hài lòng và vào năm 1975,
trên nắp ca-po của xe Cadillac chỉ còn thấy chiếc huy hiệu mang hình ảnh của
dòng họ Cadillac kiêu hãnh, được bao quanh bởi một vòng nguyệt quế bằng
crôm.

Năm 1998-1999, một lần nữa những thay đổi trong chiến lược phát triển và
thiết kế của Cadillac lại được thể hiện thông qua logo của họ.

Lấy ý tưởng và nguồn cảm hứng từ chiếc phi cơ chiến


đấu, đá quý và những ảnh hưởng từ nhà thiết kế
người châu Âu – Piet Mondriaan, logo mới của Cadillac
mang tên “Biểu tượng của sự tuyệt hảo” hoàn hảo và
sắc nét tới mức trông cứ như được tạc từ một miếng
kim loại.

Biểu tượng hoàn toàn mới này mang những màu sắc Logo hiện nay của
chủ đạo và truyền thống của Cadillac, đó là đỏ, đen, Cadillac
xanh nước biển, bạc và vàng trên nền platin. Tuy
nhiên, thay đổi rõ nét nhất đó là chiếc vương miện được cách điệu thành hình
chóp của chiếc huy hiệu, đồng thời hình ảnh những chú thiên nga truyền
thống trên chiếc huy hiệu của dòng họ Cadillac cũng bị lược bỏ.
Những con số có ý nghĩa thế nào trên biển kiểm soát?

Bộ Công an quy định (hiện hành) tên các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
Ương được thay bằng ký hiệu số phục vụ công tác đăng ký quản lý phương
tiện giao thông cơ giới đường bộ. Ký hiệu của mỗi địa phương dùng chung
cho cả đăng ký xe ôtô, xe môtô, xe gắn máy.

Theo quy định, trên biển số xe ôtô, xe môtô sau ký hiệu (số) tên của địa
phương là chữ (phần sê-ri đăng ký) được thể hiện thứ tự từ A - Z. Riêng
môtô, xe máy vì số lượng đăng ký quá lớn nên trong ký hiệu sê-ri còn có cả
số đứng sau chữ cùng xếp theo thứ tự.

Theo đơn vị hành chính tỉnh/ thành phố:

Quy định biển số của 64 tỉnh, thành phố

Theo đơn vị hành chính quận/ huyện

Chỉ riêng thành phố Hồ Chí Minh, do phạm vi


hành chính rộng và số lượng xe đăng ký quá lớn
nên ngoài sự phân biệt về ký hiệu số còn cần
đến sự phân biệt về ký hiệu chữ. Các chữ cái cụ
thể được phân biệt như sau:

A: Q.1 (cũ); B: Q.3 (cũ); C: Q.4 (cũ); D: Q.10


(cũ); E: Nhà Bè; T: Q1; F: Q3; Z: chẵn là Q4; lẻ Một chiếc xe đăng ký tại Q3
là Q7; H: Q5; K: Q6; L: Q8; M: Q11; N: Bình -Tp HCM
Chánh; P: Tân Bình; R: Phú Nhuận; S: Bình
Thạnh; U: Q10; V: Gò Vấp; X: Thủ Đức, Q2,Q9; Y: Q12, Hóc Môn và Củ Chi
Những xe nào được mang biển 80?

Căn cứ thông tư số 01/2002/ thị trường - BCA (C11) ngày 04/01/2002 của Bộ
Công an (thay thế thông tư số 15/2000/TT - BCA ngày 8/12/2000) hướng dẫn
tổ chức đăng ký, cấp biển số phương tiện giao thông cơ giới đường bộ. Theo
đó, Thông tư có quy định, ban hành kèm theo "Danh mục các cơ quan, đơn
vị đăng ký xe ôtô tại Cục Cảnh sát Giao thông Đường bộ-Đường sắt, Bộ Công
an, mang biển số đăng ký ký hiệu 80"; cụ thể là các cơ quan đơn vị sau đây:

- Các Ban của Trung ương Đảng


- Văn phòng Chủ tịch nước
- Văn phòng Quốc hội
- Văn phòng Chính phủ
- Bộ Công an
- Bộ Ngoại giao
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao
- Toà án nhân dân tối cao
- Đài truyền hình Việt Nam
- Đài tiếng nói Việt Nam
- Thông tấn xã Việt Nam
- Báo Nhân dân
- Thanh tra Nhà nước
Xe mang biển số 80B
- Học viện Chính trị quốc gia
- Ban quản lý Lăng, Bảo tàng, khu Di tích lịch sử
Hồ Chí Minh
- Trung tâm Lưu trữ Quốc gia
- Ủy ban Dân số kế hoạch hoá gia đình
- Tổng công ty Dầu khí Việt Nam
- Các đại sứ quán, tổ chức quốc tế và nhân viên
- Người nước ngoài
- Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
- Cục Hàng không dân dụng Việt Nam
- Kiểm toán nhà nước Xe của người nước ngoài
- Xe phục vụ các đồng chí uỷ viên Trung ương mang biển 80
Đảng công tác tại Hà Nội và các thành viên
Chính phủ.
Ký hiệu chữ trên biển số xe có ý nghĩa như thế nào?

Tháng 1/2007, Bộ Công an đã ban hành Thông tư số 01/2007/TT-BCA-C11


quy định về việc tổ chức đăng ký, cấp biển số, phương tiện giao thông cơ giới
đường bộ. Văn bản này có hiệu lực thi hành từ ngày 08/02/2007.

Biển số xe của các tổ chức, cá nhân trong nước

- Xe không làm kinh doanh của cơ quan hành chính nhà nước; cơ quan quyền
lực nhà nước; cơ quan xét xử, kiểm sát; lực lượng Công an nhân dân; các cơ
quan của Đảng; tổ chức chính trị - xã hội: Biển số nền màu xanh, chữ và số
màu trắng. Sê-ri biển số sử dụng 1 trong 5 chữ cái sau đây: A, B, C, D, E.

- Xe của các doanh nghiệp; xe làm kinh tế của cơ quan quản lý nhà nước; tổ
chức sự nghiệp; sự nghiệp có thu; xe cá nhân: Biển số nền màu trắng, chữ và
số màu đen. Sê-ri biển số sử dụng 1 trong 15 chữ cái sau đây: F, H, K, L, M,
N, P, R, S, T, U, V, X, Y, Z.

- Xe của các liên doanh nước ngoài, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, xe
thuê của nước ngoài có ký hiệu "LD".

- Xe của các dự án có ký hiệu "DA".

- Rơ-moóc, sơ-mi rơ-moóc có ký hiệu "R".

- Các xe mang biển kiểm soát màu đỏ: Ký hiệu chữ gồm 2 chữ cái đi liền
nhau, trong đó chữ cái đầu tiên có nghĩa là:

A = Quân đoàn, ví dụ AA là Quân đoàn 1, AB là Quân đoàn 2.


B = Bộ Tư lệnh hoặc Binh chủng, ví dụ BT là Bộ Tư lệnh Tăng thiết giáp, BD
Bộ Tư lệnh Đặc công, BH Bộ Tư lệnh Hóa học, BC Binh chủng Công Binh, BT
Binh chủng Thông tin liên lạc, BP Bộ tư lệnh biên phòng
H = Học viện (HB là Học viện lục quân, HH là Học viện quân y)
K = Quân khu, ví dụ KA Quân khu 1, KB Quân khu 2, KC Quân khu 3, KD
Quân khu 4, KV Quân khu 5, KP Quân khu 7, KK Quân khu 9, KT Quân khu
Thủ đô,
Q = Quân chủng, QP Quân chủng Phòng không, QK Quân chủng không quân,
QH Quân chủng hải quân
T = Tổng cục, TC Tổng cục Chính trị, TH Tổng cục Hậu cần, TK Tổng cục
Công nghiệp quốc phòng, TT Tổng cục kỹ thuật, TM Bộ Tổng Tham mưu
Xe Quân đội làm kinh tế có ký hiệu “KT”.

Biển số xe cơ quan, tổ chức và cá nhân nước ngoài

Ở Việt Nam, biển xe màu trắng với ký hiệu số, 2 chữ và năm số (mã quốc tịch
và dãy số thứ tự), tất cả được phân biệt với nhau bằng dấu gạch ngang (VD:
80-NG-269-01) được cấp cho các đối tượng có yếu tố nước ngoài.
Trong đó, ký hiệu số bao gồm 2 chữ số chỉ ra nơi đăng ký của phương tiện
giao thông đó. Nếu chiếc xe đượcđăng ký tại Cục Cảnh sát giao thông đường
bộ - đường sắt, nó sẽ mang biển 80-NN hoặc 80-NG. Ngược lại, nếu chiếc
xe thuộc sự quản lý của cơ quan Cảnh sát Giao thông địa phương nơi nó
thường trú thì sẽ mang ký hiệu số của tỉnh, thành đó (29-NN, 29-NG...).

Xe của cơ quan đại diện ngoại giao; cơ quan lãnh sự và nhân viên nước ngoài
có thân phận ngoại giao làm việc cho các cơ quan đó: biển số nền màu trắng,
chữ và số màu đen; có sê-ri ký hiệu "NG" màu đỏ. Riêng biển số xe của Đại
sứ và Tổng Lãnh sự có thêm gạch màu đỏ đè ngang lên giữa các chữ số chỉ
quốc tịch và thứ tự đăng ký.

Xe của tổ chức quốc tế và nhân viên nước ngoài có thân phận ngoại giao làm
việc cho các tổ chức đó: biển số nền màu trắng, chữ và số màu đen; có sê-ri
ký hiệu "QT" màu đỏ. Riêng biển số xe của người đứng đầu cơ quan đại diện
các tổ chức của Liên hợp quốc, có thêm gạch màu đỏ đè ngang lên giữa các
chữ số chỉ quốc tịch và thứ tự đăng ký.

Xe của tổ chức; văn phòng đại diện; cá nhân người nước ngoài (kể cả lưu học
sinh): biển số nền màu trắng, chữ và số màu đen, có ký hiệu "NN".
Giấy phép lái xe được phân hạng như thế nào?

Hệ thống giấy phép lái xe (GPLX) Việt Nam gồm 10 hạng, xây dựng trên cơ
sở cấu hình, tải trọng và mục đích thiết kế phương tiện cơ giới. Ngoài ra còn
có các quy định cụ thể về thời hạn, đối tượng sử dụng xe và chuyển đổi bằng
lái.

Điều kiện dự thi lấy GPLX

Đối tượng dự thi lấy GPLX cần phải có


đủ các điều kiện sau:

- Giấy chứng minh nhân dân.

- Từ 18 tuổi trở lên (tính theo ngày,


tháng, năm sinh).

- Có đủ sức khỏe (theo quyết định


4132/QĐ-BYT).

- Nộp đủ hồ sơ thủ tục, lệ phí học, thi


và cấp GPLX.
Mặt trước của GPLX
- Với người nước ngoài, cần thêm giấy
phép cư trú hoặc đang làm việc, học tập tại Việt Nam và phải đọc, hiểu và
viết được tiếng Việt.

Các loại giấy phép lái xe tại Việt Nam

Ngày 18/12/2001, Bộ Giao thông Vận tải ban hành "Quy chế quản lý sát hạch
cấp giấy phép lái xe cơ giới đường bộ". Trong đó, việc hệ thống hoá, hiệu lực
và phân hạng bằng lái được quy định như sau:

Hạng A1: Cho phép điều khiển xe môtô 2 bánh có dung tích xi-lanh từ 50cc
đến dưới 175cc.

Hạng A2: Cho phép điều khiển xe môtô 2 bánh nói chung, không giới hạn
dung tích xi-lanh.

Hạng A3: Cho phép điều khiển môtô 3 bánh, xe lam, xích lô máy và các loại
xe hạng A1, không áp dụng với phương tiện hạng A2.

Hạng A4: Cho phép điều khiển các loại máy kéo có tải trọng đến 1.000 kg.
Mặt sau của giấy phép lái xe hạng A1

Hạng B1: Dùng cho lái xe không chuyên nghiệp, được quyền điều khiển:

- Ôtô dưới 9 chỗ, kể cả người lái.

- Xe tải, xe chuyên dùng có trọng tải thiết kế dưới 3.500 kg.

- Máy kéo 1 rơ-moóc có trọng tải thiết kế dưới 3.500 kg.

Hạng B2: Cấp cho lái xe chuyên nghiệp, quy định quyền điều khiển các
phương tiện hạng B1 và các xe cẩu bánh lốp có sức nâng thiết kế dưới 3.500
kg.

Hạng C: Cấp cho lái xe chuyên nghiệp, quy định quyền điều khiển:

- Ôtô tải và xe chuyên dùng có tải trọng thiết kế từ 3.500 kg trở lên.

- Đầu kéo, máy kéo 1 rơ-moóc hoặc sơ-mi rơ-moóc có tải trọng thiết kế từ
3.500 kg trở lên.

- Cần cẩu bánh lốp có sức nâng thiết kế từ 3.500 kg trở lên.

Hạng D: Cấp cho lái xe chuyên nghiệp, quy định quyền điều khiển:

- Ôtô chở người từ 10-30 chỗ, tính cả ghế lái.

- Các loại xe quy định trong hạng B1, B2, C.

Hạng E: Cấp cho lái xe chuyên nghiệp, quy định quyền điều khiển:

- Ôtô chở người trên 30 chỗ ngồi, tính cả ghế lái.


- Các loại xe quy định trong hạng B1, B2, C, D.

Hạng F: Cấp cho người đã có giấy phép lái xe hạng B2, C, D, E để điều khiển
các loại xe tương ứng có kéo rơ-moóc trọng tải thiết kế lớn hơn 750 kg.

Mặt sau của GPLX hạng B1 và B2

Thời hạn của giấy phép lái xe

- Các hạng A1, A2, A3 không có thời hạn.

- Khi có giấy phép lái xe hạng A2 phải tuân thủ quy định của Chính phủ về đối
tượng được sử dụng loại xe 2 bánh từ 175 cc trở lên.

- Hạng B1: 5 năm.

- Hạng A4, B2, C, D, E, F: 3 năm.

Trong vòng 30 ngày trước khi giấy phép lái xe hết hạn, người có giấy phép
này phải làm đơn xin đổi kèm theo giấy chứng nhận sức khỏe, gửi đến cơ
quan có thẩm quyền cấp lại bằng lái.

GPLX của nước ngoài hoặc Quốc tế có hiệu


lực tại Việt Nam không?

Ở một số nước, những người đã có bằng lái xe


có thể xin cấp bằng lái Quốc tế để sử dụng tại
một vài nước khác. Việt Nam chưa tham gia vào
cam kết Quốc tế nào về giấy phép điều khiển
phương tiện cơ giới, nên người có bằng lái xe
nước ngoài, bằng Quốc tế muốn điều khiển ôtô,
xe máy 70cc trở lên ở Việt Nam phải xin cấp đổi
giấy phép. Theo quy định của Bộ Giao thông
Vận tải Việt Nam, những người có giấy phép lái Thời hạn được ghi rõ trên
xe của nước ngoài hoặc Quốc tế đều dễ dàng mặt trước của GPLX
xin cấp bằng lái của Việt Nam mà không cần
phải học lại kỹ thuật và thi sát hạch.
Việc cấp đổi GPLX chỉ được xét khi GPLX Quốc tế đó còn giá trị sử dụng. Giấy
phép mới do Việt Nam cấp có thời hạn sử dụng phù hợp với hạn sử dụng của
GPLX nước ngoài nhưng không vượt quá giấy phép cùng loại của Việt Nam,
không vượt quá thời hạn người nước ngoài hoặc người Việt Nam lưu trú tại
Việt Nam.

GPLX mới tương ứng với những hạng giấy phép mà người xin cấp đã được
cấp ở nước ngoài. Ví dụ, GPLX nước ngoài có cả hạng ôtô, xe máy thì bằng lái
được đổi cũng có hạng tương ứng. Trừ trường hợp môtô từ 175cc trở lên,
trước đây do chính sách hạn chế trong nước mà người nước ngoài cũng
không được cấp.

Sau khi nhận hồ sơ đầy đủ hợp lệ, với người nước ngoài, GPLX được giao vào
thứ sáu hàng tuần, thời hạn tối đa là 10 ngày. Với người Việt Nam, theo quy
định của Sở Giao thông Công chính Hà Nội, cứ 11 ngày sau thì người xin cấp
tới nhận giấy phép mới.

Giấy phép lái xe của Việt Nam có được công nhận ở nước ngoài?

Hiện nay, Việt Nam đã ký thỏa thuận với các nước trong khối ASEAN về việc
công nhận GPLX lẫn nhau. Theo đó, công dân Việt Nam khi đến làm việc ở
các nước ASEAN có thể đổi GPLX để được lái xe tại các nước đó. Còn với các
nước chưa có thỏa thuận về thủ tục ngoại giao trong việc đổi GPLX nên việc
chấp nhận đổi GPLX của Việt Nam hay không là tùy từng nước. Với mối quan
hệ mật thiết với Việt Nam, Pháp đã chấp thuận đổi GPLX của Việt Nam ra
GPLX tại Pháp theo đúng hạng bằng lái xe được cấp.
Mã VIN có ý nghĩa như thế nào?

VIN là từ viết tắt của Vehicle Identification Number (số nhận dạng xe),
bao gồm 17 ký tự và được đánh số theo nhiều cách khác nhau. VIN được coi
như “chứng minh thư” của một chiếc xe và các nhà sản xuất thường ghi lên
những phần dễ bị biến dạng và thay đổi nhất của xe như: cửa, động cơ hoặc
thân phía góc.

Tiêu chuẩn của mã VIN được ban hành chính thức theo chuẩn ISO 3779 vào
tháng 2 năm 1977 và sửa lần cuối vào năm 1983.

Mã VIN có ý nghĩa như thế nào?

Số VIN đã được tiêu chuẩn hóa chứa 17 ký tự. Hệ thống số VIN ở châu Âu
khác Bắc Mỹ và khác với ký hiệu VIN quốc tế. Tuy nhiên, chúng vẫn có một
vài điểm chung như ký tự đầu tiên của VIN cho biết nước sản xuất như Mỹ
(số 1 hoặc 4), Nhật Bản (J). Bên cạnh đó, ký tự thứ 10 của tất cả các hãng xe
đều chỉ năm sản xuất.

- Ký tự thứ nhất: cho biết nước sản xuất chiếc


xe. Điều này rất quan trọng khi bạn mua xe vì
cùng một loại xe nhưng có thể được lắp ráp ở
những nước khác nhau và dĩ nhiên là chất lượng
xe cũng phụ thuộc. (1 hoặc 4: Mỹ; S: Anh; J:
Nhật; K Hàn Quốc; W: Đức... )
- Ký tự thứ 2: thể hiện hãng sản xuất.(A: Audi-
Jaguar, B: BMW; H: Honda; D: Mercedes; N:
Nissan; T: Toyota; G: GM... Mã VIN của một chiếc BMW
- Ký tự thứ 3: chỉ loại xe
- Ký tự thứ 4 đến thứ 8: thể hiện đặc điểm của xe: như loại thân xe, loại
động cơ, đời xe, kiểu dáng, ...
- Ký tự thứ 9: để kiểm tra sự chính xác của số VIN
- Ký tự thứ 10: thể hiện năm chế tạo xe
- Ký tự thứ 11: thể hiện nơi lắp ráp xe
- Ký tự thứ 12 đến 17: thể hiện dây chuyền sản xuất xe, các công đoạn sản
xuất. Bốn ký tự cuối luôn là các con số.

Vị trí của mã VIN


Nơi ghi mã VIN là một trong những "bí quyết"
để các nhà sản xuất tránh gian lận khi chúng
được bán lại cho người khác. Những tên trộm
thường "cà" lại số VIN theo mã VIN của một
chiếc xe mà chúng ăn trộm được trong khi các
đại lý lại hay "đổi" bằng mã VIN của những
chiếc xe đã bán trước đó.

Để đảm bảo cho khách hàng, các hãng xe nghĩ


ra phương pháp ghi mãVIN lên những phần dễ
hỏng nhất khi xe bị va chạm như cửa, động cơ,
thân phía góc. Khi gặp tai nạn, nếu người chủ
đổi động cơ, cửa lấy từ những chiếc xe ăn trộm
khác hoặc từ nhà sản xuất không chính hãng,
khách hàng có thể dễ dàng nhận ra.

Mã VIN của xe thường có thể tìm thấy ở một vài


vị trí khác nhau của xe, nhưng hầu hết thường
đặt ở những nơi như: Các vị trí thông thường của
mã VIN
- Trên thân cửa hoặc khung cửa trước (thường phía cửa tài xế, đôi khi ở cửa
hành khách)
- Phía trên bảng đồng hồ dưới kính trước.
- Được gắn trên động cơ (miếng nhôm phía trước động cơ)
- Trên vách ngăn giữa động cơ và salon xe.
- Trên nhãn hiệu xe, giấy đăng ký, sách hướng dẫn bảo quản xe hoặc trên tờ
khai bảo hiểm xe…

Trong 17 số/ký tự, mã năm sản xuất của các năm sản xuất xe đều là số thứ
10. Đây là một trong những thông tin quan trọng nhất mà người mua cần
biết khi kiểm tra xe cũ. Ký tự thứ 10 được ghi theo nguyên tắc sau: trước
năm 2000 là chữ cái còn sau đó là chữ số. Ví dụ, 1990(L), 1991(M), 1992(N),
1993(P), 1994(R), 1995(S), 1996(T),1997(V), 1998(W), 1999(X), 2000(Y),
2001(1), 2002(2), 2003(3)....
Những loại xe nào được quyền ưu tiên?

Luật Giao thông Đường bộ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
được phê chuẩn năm 2002 quy định quyền ưu tiên và cấp độ ưu tiên của một
số loại xe như sau:

+ Xe chữa cháy đi làm nhiệm vụ.


+ Xe quân sự, xe công an đi làm nhiệm vụ khẩn cấp.
+ Xe cứu thương đang thực hiện nhiệm vụ cấp cứu.
+ Xe hộ đê, xe đang làm nhiệm vụ khắc phục sự cố thiên tai hoặc tình trạng
khẩn cấp theo quy định của pháp luật.
+ Đoàn xe có xe cảnh sát dẫn đường.
+ Đoàn xe tang.
+ Các xe khác theo quy định của pháp luật.

Xe chữa cháy đi làm nhiệm vụ


Ngoại trừ đoàn xe tang, các loại xe ưu tiên đi làm nhiệm vụ khẩn cấp phải có
tín hiệu còi, cờ, đèn theo quy định. Những loại xe này không bị hạn chế tốc
độ, được phép đi vào đường ngược chiều, các đường khác có thể đi được, kể
cả khi có tín hiệu đèn đỏ và chỉ phải tuân theo chỉ dẫn của người điều khiển
giao thông.

Khi có tín hiệu của xe ưu tiên, mọi người tham gia giao thông phải nhanh
chóng giảm tốc độ. Tránh hoặc dừng lại sát lề đường bên phải để nhường
đường. Nghiêm cấm các hành vi gây cản trở xe ưu tiên.

Tín hiệu cụ thể của các loại xe ưu tiên

- Tín hiệu của xe chữa cháy: Xe chữa cháy có đèn quay trên nóc xe phát sáng
màu đỏ hoặc xanh và có còi phát tín hiệu ưu tiên.

- Tín hiệu của xe quân sự, xe công an đi làm nhiệm vụ khẩn cấp:
+ Xe quân sự có đèn quay trên nóc xe phát sáng màu đỏ, cờ hiệu quân sự
cắm ở đầu xe phía bên trái người lái và có còi phát tín hiệu ưu tiên.
+ Xe công an có đèn quay trên nóc xe phát sáng màu xanh hoặc đỏ, cờ hiệu
công an cắm ở đầu xe phía bên trái người lái và có còi phát tín hiệu ưu tiên.

- Tín hiệu của xe cứu thương: Xe cứu thương có dấu chữ thập màu đỏ trên
thành xe, đèn quay trên nóc xe phát sáng màu đỏ và có còi phát tín hiệu ưu
tiên.

Xe cứu thương
- Tín hiệu của xe hộ đê, xe đang làm nhiệm vụ khắc phục sự cố thiên tai khẩn
cấp:
+ Xe làm nhiệm vụ cứu hộ đê có biển "xe hộ đê" gắn ở kính phía trước của
xe và có cờ hiệu hộ đê.
+ Xe đang làm nhiệm vụ khắc phục sự cố thiên tai hoặc tình trạng khẩn cấp
và xe cứu nạn giao thông : có đèn quay trên nóc xe phát sáng màu vàng và
có còi phát tín hiệu ưu tiên.

- Tín hiệu của xe cảnh sát dẫn đường:


+ Xe ô tô có đèn quay trên nóc xe phát sáng màu xanh - đỏ, cờ hiệu Công an
cắm ở đầu xe phía bên trái người lái và có còi phát tín hiệu ưu tiên.
+ Xe mô tô có đèn phát sáng màu xanh hoặc đỏ gắn ở càng xe phía trước
hoặc phía sau, cờ hiệu công an cắm ở phía trước đầu xe và có còi phát tín
hiệu ưu tiên.

Xe cảnh sát
Xe ưu tiên chỉ được sử dụng tín hiệu của xe ưu tiên khi đi thực hiện nhiệm vụ
khẩn cấp. Các Bộ quản lý xe ưu tiên phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ
quy định cụ thể về tiêu chuẩn còi, đèn của xe ưu tiên và có trách nhiệm kiểm
tra việc sử dụng tín hiệu của xe ưu tiên thuộc ngành mình quản lý. Tất cả các
phương tiện giao thông cơ giới đường bộ không thuộc loại xe ưu tiên sử dụng
còi, cờ, đèn, biển hiệu của xe ưu tiên là hành vi vi phạm pháp luật.
Autogas là gì?

Autogas và nhiên liệu LPG

Autogas nếu hiểu theo nghĩa thông thường có nghĩa là ô tô dùng nhiên liệu
thể khí. Autogas sử dụng khí đốt thiên nhiên thông thường NG (natural gas)
hoặc gaz nén CNG (compressed natural gas) có áp suất từ 50 – 200 kg/cm2,
với thành phần chủ yếu là khí methal. Loại hình Autogas này đã có từ những
năm 50 của thế kỷ trước và cho đến nay trên thế giới đã có hơn 1 triệu xe
Autogas dùng gaz nén NGV (natural gas for vehiche).

Ưu điểm của nhiên liệu CNG là dễ sử dụng


chuyển đổi cho xăng và diesel mà không gây ô
nhiễm môi trường. Sử dụng nhiên liệu NG và
CNG đạt hiệu quả kinh tế cao và kéo dài tuổi thọ
động cơ. Tuy nhiên, sử dụng nhiên liệu gaz nén
CNG kết cấu cồng kềnh và việc ứng dụng cho
những dòng xe hiện đại gặp không ít khó khăn.
Vì vậy ngày nay người ta đã dùng khí hóa lỏng
LPG (liquefied petroleum gas) làm nhiên liệu Autogas
thay thế cho xăng và diesel của tất cả các loại ô tô hiện đại. Nhiên liệu LPG
đang phát triển rất nhanh, Autogas LPG đã có hơn 4 triệu chiếc ở 38 nước
trên thế giới, nhất là các nước đang phát triển.

Khí hóa lỏng LPG là sản phẩm phụ của nhà máy chế biến dầu mỏ và nhà máy
tách khí. Thành phần chủ yếu của LPG là Butal và Propal hỗn hợp theo tỷ lệ
nhất định và được chứa trong bình với áp suất dưới 20 kg/cm2. LPG có tỷ
trọng từ 0,5 – 0,25, không màu, không mùi và không có tính độc. LPG chính
là một sản phẩm dầu mỏ được dùng rất phổ biến từ lâu trong các ngành kinh
tế quốc dân như là một nguyên liệu cho các ngành công nghiệp chế tạo hóa
chất, chế tạo phân bón, tổng hợp các chất mỹ phẩm...

LPG dùng làm nhiên liệu cho Autogas có những ưu điểm sau:

- Là nhiên liệu sạch không gây ô nhiễm môi trường.

- Có trị số octan rất cao (95 – 100) rất có lợi cho việc chống kích nổ, tăng
hiệu suất nhiệt của động cơ, có thể dùng tỷ số nén cao (10 – 12).

- Sử dụng nhiên liệu LPG ít hao mòn xúp-páp, xi-lanh, séc-măng. Tăng tuổi
thọ của động cơ. Bởi nhiên liệu LPG dễ cháy và cháy hoàn toàn, khi cháy
không tạo muội, không khói.

- Động cơ sử dụng nhiên liệu LPG không gây tác động xấu đối với dầu nhờn,
nên quá trình lão hóa dầu nhờn kéo dài.

Công nghệ chuyển đổi thành Autogas


Theo nguyên lý của động cơ đốt trong, tất cả các xe ô tô dùng xăng và diesel
đều có thể sử dụng khí hóa lỏng LPG làm nhiên liệu với những thay đổi kết
cấu phù hợp. Công nghệ chuyển đổi thành Autogas có những dạng sau:

- Chuyển đổi song song nhiên liệu: phương tiện


trang bị động cơ xăng sau khi chuyển đổi có thể
đồng thời chạy bằng cả xăng và khí.

- Chuyển đổi đơn nhiên liệu: p tiện lắp động cơ


diesel sau khi chuyển đổi chỉ có thể sử dụng
nhiên liệu khí.

- Chuyển đổi đồng nhiên liệu: xe lắp động cơ Các chi tiết chuyển đổi
diesel sau khi chuyển đổi sử dụng cả diesel và Autogas
nhiên liệu khí, trong đó diesel đóng vai trò làm
mồi.

Tùy thuộc từng kiểu xe, bình chứa khí sẽ ảnh hưởng ở mức độ khác nhau đến
thể tích khoang xe. Ví dụ như dòng xe sedan sẽ mất khoảng 10 - 15% thể
tích khoang chứa đồ. Tuy nhiên, với một số loại xe, có thể lắp bình chứa bên
ngoài hoặc lắp vào hộc đựng bánh dự phòng.

Autogas hoạt động theo nguyên lý sau:

- LPG lỏng từ bình chứa cao áp, đặt khoang sau xe, đi qua van cách ly đầu
bình tới van solenoid LPG bằng đường ống dẫn. Van solenoid này sẽ đóng khi
công tắc nhiên liệu bật sang vị trí xăng hoặc khi xe không hoạt động.

- LPG được hóa hơi và giảm áp xuống xấp xỉ áp


suất khí trời nhờ bộ điều áp hóa hơi. Bộ điều áp
này có nhiệm vụ tiết lưu lượng LPG hóa hơi đi
vào bộ trộn để phù hợp với mọi chế độ tải của
động cơ.

- Sau khi được giảm áp, LPG ở dạng hơi đi tới bộ


trộn (lắp phía trước van tiết lưu thông không
khí) và đi vào buồng đốt. Bộ trộn hỗ hợp của Autogas

- Trong quá trình giảm áp, nhiệt độ bộ giảm áp hoá hơi giảm rất nhiều. Để bù
nhiệt, nước từ hệ thống làm mát sẽ được dẫn qua thiết bị này.

- Quá trình hoạt động của hệ thống nhiên liệu LPG được kiểm soát một cách
chặt chẽ nhờ một hệ thống điều khiển điện tử và hàng loạt các cảm biến áp
suất, nhiệt độ, nồng độ, khí thải.

Tại nước ta năm 1983 đã chuyển đổi xe Zin 130 chạy bằng gaz nén (CNG),
năm 1997 Công ty Sài Gòn Petro đã cho chạy 20 xe taxi ở tp Hồ Chí Minh sử
dụng gaz hóa lỏng LPG và xây dựng trạm cấp LPG cho xe taxi. Từ năm 2001
tới nay, việc chuyển đổi bắt đầu cho nhiều loại xe từ Lada đến Nissan...
AMG có lịch sử như thế nào?

AMG, vinh quang từ những đường đua

Mercedes-AMG GmbH là một bộ phận của Daimler Chrysler AG, có trụ sở tại
Affalterbach (Đức). Mercedes-AMG chuyên phát triển và cải tiến các loại xe
đua và dân dụng. Cái tên AMG bắt nguồn từ những chữ cái đầu của các nhà
sáng lập: Werner Aufrecht và Erheard Melcher, kết hợp với Grossasphach (tên
quê hương của Aufrecht) nơi 2 người khởi nghiệp vào năm 1967.

AMG đáp ứng và thỏa mãn mọi đam mê

Những ngày đầu mới khai sinh ở Old Mill, quy mô của AMG chỉ là 2 chiếc ga-
ra. Kể từ đó đến nay, lịch sử công ty đã có rất nhiều thay đổi. tuy nhiên, điều
mà hầu như không thể thay đổi chính là bầu nhiệt huyết của AMG đối với tính
năng của những chiếc xe. Chất lượng, sự an toàn cũng như niềm đam mê và
sự tận tụy trong công việc của các kỹ sư, tất cả chỉ nhằm tạo mục đích tạo ra
những chiếc Mercedes có thể đáp ứng và thỏa mãn mọi đam mê của người
hâm mộ.

Năm 1971, AMG giành được thành công với


chiếc xe thể thao đầu tiên khi cải tiến và giúp
chiếc Mercedes 300 SEL về nhất trong cuộc đua
24 giờ tại trường đua Spa -Francorchamps (Bỉ).
Năm 1989, sau bảy lần về nhất tại các chặng
đua, Klaus Ludwig và Johnny Cecotto giúp hãng
vô địch giải Touring Car toàn nước Đức. Kể từ
ngày đó, AMG đã gặt hái 11 danh hiệu vô địch, Biểu tượng của AMG
trong đó có 5 danh hiệu dành cho cá nhân và 6
danh hiệu dành cho nhà sản xuất. Đội đua của Mercedes-AMG là đội đua
thành công nhất trong lịch sử của giải đua German Touring Car
Championship.

Có một điều đặc biệt, các mẫu xe AMG từ xưa đến nay chỉ được sản xuất với
số lượng hạn chế. Năm 2000, số lượng xe AMG tiêu thụ trên toàn thế giới chỉ
khoảng 10.000 chiếc. Trong đó có khoảng 40% được tiêu thụ tại thị trường
Mỹ. Cũng tại thị trường tiềm năng nhưng khó tính này, AMG có mặt tại hơn
300 nhà cung cấp xe Mercedes, đối thủ của AMG chính là những mẫu xe hạng
sang của các hãng: BMW, Audi, Ford, Jaguar...

Sự khác biệt dành cho niềm đam mê

Với tính năng đầy ấn tượng, những thiết kế sắc sảo và tiêu chuẩn an toàn là
hàng đầu, mỗi chiếc Mercedes đã là một kiệc tác cơ khí. Mercedes-AMG nâng
những đặc điểm đó lên một tầm cao mới với thiết kế thể thao hơn, hấp dẫn
hơn và có những tính năng đáng nể hơn. Ngoài nâng cấp động cơ và cải tiến
một số chi tiết liên quan đến tính năng vận hành của chiếc xe, AMG còn quan
tâm đến nhu cầu của khách hàng ở từng khu vực khác nhau. Đó chính là lý
do khiến các mẫu xe AMG ở Mỹ có những tính năng khác biệt nhất định so với
các mẫu xe ở Đức. Do quy định tiêu chuẩn an toàn tại Mỹ, những khác biệt
này được thể hiện ở những vị trí bố trí túi khí hay hệ thống điều khiển động
cơ.

SLK 55 AMG

Động cơ được AMG thiết kế và sản xuất bằng các chất liệu hàng đầu, nhưng
điểm khác biệt lớn nhất chính là quá trình lắp ráp từ chi tiết rời được làm
hoàn toàn bằng tay bởi chính các kỹ sư. Mọi động cơ của AMG đều được
trang bị hệ thống phun nhiên liệu điện tử của Bosch.

Không chỉ động cơ, trên cơ sở các thiết kế của Mercedes-Benz, những chiếc
xe qua "lò" AMG được cải tiến để phù hợp với cường độ hoạt động như một
xe đua chuyên nghiệp. Đơn cử hệ thống phanh đĩa lớn với 8 hoặc 4 piston
cho bánh trước, 4 hoặc 2 piston cho bánh sau, chế tạo bằng ceramic hoặc
hợp kim nhẹ có khả năng chịu nhiệt cao. Hệ thống treo thể thao với khả năng
chỉnh thụ động và chủ động, vành hợp kim, lốp xe bản rộng. Phần thân xe
cũng được cải tiến nhằm làm giảm chỉ số cản gió, tăng khả năng làm mát
động cơ, với các cánh lướt gió và các rãnh luân chuyển dòng không khí xung
quanh xe.
CL 65 AMG

Hộp số trên xe AMG mới nhất đều là hộp số tự động thể thao với khả năng
chuyển số tay, đặc biệt là hộp số AMG Speed Shift được trang bị trên các xe
E55, S55, CL55, SL55 và CLK55 với nút chuyển số ngay trên vô lăng như các
xe Công thức1, rút ngắn thời gian chuyển số tới 35%. Các hệ thống điện tử
tương tự như các xe cùng loại của Mercedes nhưng được hiệu chỉnh lại cho
phù hợp với động cơ mới. Nội thất sang trọng truyền thống của Mercedes hòa
trộn cùng phong cách thể thao AMG, với các chi tiết trang trí mạ, ốp gỗ. Sở
hữu những chiếc AMG luôn là mơ ước của mọi tay lái sành sỏi trên thế giới.
Bảo trì, bảo dưỡng hộp số tự động như thế nào?

Tại sao hộp số tự động trục trặc


Các lá ly hợp hay dây đai kim loại (trong hộp số tự động) là các thiết bị
chuyển động thông qua hệ thống thủy lực hay ma sát, chúng bị mòn đi theo
thời gian như các lá côn (ly hợp) của hộp số tay. Các van trong hệ thống van
cũng có thể không còn hoạt động đúng chức năng bởi phải liên tục thực hiện
các thao tác đóng mở.

Khi lá côn bị mài mòn, các mạt kim loại bị trộn lẫn trong dầu hộp số dẫn đến
sự tắc nghẽn trong hệ thống thủy lực khiến hộp số “chết yểu” do hiện tượng
mất tuần hoàn của hệ thống thủy lực. Sự tăng nhiệt của dầu hộp số cũng là
kẻ thù của hộp số tự động. Hiện tượng này xuất hiện khi xe vận hành liên tục
trong trạng thái: dừng - vận hành - dừng hay chở quá tải hay leo dốc thường
xuyên. Khi dầu hộp số quá nhiệt, độ nhớt của dầu giảm dần, nó trở nên loãng
hơn và do đó bảo vệ các lá côn cũng như các thiết bị chuyển động khác kém
hơn dẫn tới gia tăng sự mài mòn.

Các triệu chứng của sự trục trặc:


- Triệu chứng thường gặp và dễ nhận thấy nhất là các âm thanh bất thường
phát ra từ hộp số ngay cả khi dừng xe hay đang chuyển động ở các số khác
nhau. Đó có thể là các âm thanh với âm tần cao hay các tiếng kim loại nghiến
vào nhau.
- Ly hợp đôi khi đóng mở rất chậm hay thậm chí không nhúc nhích khi
chuyển số sang “D” hay “R”
- Vòng quay của động cơ không giảm khi chuyển sang “D” hay “R”
- Có hiện tượng giật mạnh trong thao tác tăng số
- Chỉ lên số khi vòng tua lớn ngay cả khi nhấn chân ga nhẹ nhàng
- Vòng quay của động cơ tăng vọt mỗi khi chuyển số
- Khi leo dốc, tốc độ động cơ tăng nhưng vận tốc xe không tăng

Bảo trì, bảo dưỡng hộp số tự động


*Bảo dưỡng dầu hộp số tự động
Các hộp số tự động sử dụng dầu truyền động
riêng có tên gọi ATF (Automatic Transmission
Fluid), đóng vai trò tạo lực nén thủy lực, giải
nhiệt và tẩy rửa các chất bẩn trong hệ thống.
Việc kiểm tra mức dầu, bổ sung, thay dầu đúng
lúc sẽ góp phần giúp hộp số tự động hoạt động
hiệu quả, giảm tiêu hao nhiên liệu cũng như
tăng tuổi thọ. Với điều kiện giao thông đặc thù
như ở Việt Nam, các hãng xe thường khuyến
cáo người sử dụng nên thay dầu hộp số sau 2
năm sử dụng hoặc 50.000 km đi được (tùy theo
điều kiện nào đến trước). Kiểm tra dầu hộp số tự
động (ảnh Rac.com)
Trên đa số các mẫu xe, việc kiểm tra dầu ATF
hết sức đơn giản bởi que thử được đánh dấu bằng miếng kim loại ghi chữ
ATF. Có hai loại que thử, một có màu vàng để thử dầu động cơ còn que màu
đỏ để thử dầu hộp số. Tuy nhiên, không phải xe nào cũng trang bị 2 loại que
thử trên nên bạn cần tư vấn của kỹ thuật viên trước khi sử dụng. Thông
thường, que thử dầu hộp số đặt ngay phía sau hoặc bên cạnh động cơ.

Dầu hộp số trong hơn dầu động cơ nên rất khó đọc trên que thử. Vì vậy, cách
tốt nhất là bạn đặt que thử lên một miếng vải trắng, sạch. Các ký hiệu trên
que thử gồm “Add” và “Full”. Nếu mức dầu thấp hơn vạch “Add”, hãy thêm
một phần tư lượng dầu định mức, chờ 2-3 phút và thử lại lần nữa. Nếu dầu
có màu đen hay mùi cháy, hãy kiểm tra cơ cấu hoạt động và thêm dầu nếu
cần thiết.

Lựa chọn dầu hộp số tự động cần phải đúng


chủng loại và không thể tùy tiện như dầu động
cơ. Cơ sở để chọn dầu hộp số ATF phù hợp là
độ nhớt cũng như các thành phần hóa học. Nếu
dùng sai chủng loại, trộn lẫn các loại dầu khác
nhau có thể gây nên hiện tượng đóng cặn, phá
vỡ các tính chất cơ bản. Vì vậy, các hãng xe
thường đưa ra khuyến cáo sử dụng dầu nhớt
cho từng loại hộp số của mình.
Lựa chọn dầu cần đúng
Những điều cần lưu ý: chủng loại
1- Luôn luôn đảm bảo xe dừng hẳn trước khi
chuyển từ “D” sang “R” hay ngược lại. Trong thao tác đậu xe, nhiều người
có thói quen chuyển số khi xe chưa dừng hẳn, xin nói rằng đó là cách hữu
hiệu để phá hỏng hộp số của xe.
2- Khi dừng đèn đỏ, hãy giữ cần số ở “D” bởi các hệ thống đóng mở thủy lực
đều có tuổi thọ của nó. Mỗi lần ta chuyển từ “D” sang “N” khi dừng và từ
“N” sang “D” khi cho xe chạy tiếp, ta đã làm giảm tuổi thọ của hệ thống van,
bộ tua-bin (trong bộ biến mô) và các lá côn. Hộp số tự động không vận hành
như hộp số tay do vậy không hưởng lợi từ việc chuyển sang “N” mỗi khi
dừng đèn đỏ. Tuy nhiên khi dừng lại lâu, bạn có thể chuyển sang “N”.
3- Những chuyến leo đồi liên tục sẽ làm giảm tuổi thọ của hộp số tự động.
Trong những chuyến đi như vậy, lưu ý dừng xe nghỉ cho hộp số nguội bớt
trước khi tiếp tục cuộc hành trình là các bảo vệ hộp số hữu hiệu.
Quy trình bảo dưỡng ôtô được thực hiện như thế nào?

Một chiếc xe hơi có tới hơn 5.000 chi tiết


máy khác nhau, trong quá trình sử dụng,
tính năng của các chi tiết chức năng (bao
gồm cả hệ thống bôi trơn) giảm do mài
mòn, hư hại, ăn mòn…. Sự thay đổi này
xảy ra từ từ với rất nhiều chi tiết trong
quá trình hoạt động của xe. Do đó, nhà
sản xuất quy định thời hạn kiểm tra định
kỳ nhất định cũng như thời hạn điều
chỉnh hay thay thế các chi tiết và cụm chi
tiết mà có thể biết trước được các chi tiết Bảo dưỡng nhằm mục đích luôn
này sẽ bị thay đổi theo thời gian hay đảm bảo
quãng đường xe chạy.
các tính năng của xe ở trạng thái
Mục đích của bảo dưỡng là luôn đảm bảo tốt nhất.
các tính năng của xe ở trạng thái tốt nhất có thể, để tránh những hư hỏng
nhỏ trở lên lớn hơn trong tương lai, để đảm bảo sự an toàn của xe và chủ xe.
Nếu chiếc xe được bảo dưỡng đúng tiêu chuẩn, tuổi thọ của xe có thể tăng,
tính kinh tế nhiên liệu tốt hơn, hoạt động tin cậy hơn.

Bảo dưỡng gồm các công việc: Làm sạch, chẩn đoán, kiểm tra, điều chỉnh,
xiết chặt, thay dầu, mỡ, bổ sung nước làm mát, dung dịch ắc quy. Căn cứ vào
chu kỳ bảo dưỡng và nội dung công việc. Bảo dưỡng kỹ thuật ôtô được chia
làm hai cấp:
- Bảo dưỡng hàng ngày
- Bảo dưỡng định kỳ

Nội dung quy trình bảo dưỡng ôtô:

Bảo dưỡng hàng ngày


1. Việc kiểm tra, chẩn đoán ôtô được tiến hành ở trạng thái tĩnh (không nổ
máy) hoặc trạng thái động (nổ máy, có thể lăn bánh).
2. Quan sát toàn bộ bên ngoài và bên trong ôtô, phát hiện các khiếm khuyết
của buồng lái, thùng xe, kính chắn gió, gương chiếu hậu, biển số, cơ cấu
nâng hạ kính, cửa lên xuống, nắp động cơ, khung, nhíp, lốp và áp suất hơi
lốp, cơ cấu nâng hạ (nếu có) và trang bị kéo moóc...
3. Kiểm tra hệ thống điện: ắc qui, sự làm việc ổn định của các đồng hồ trong
buồng lái, đèn tín hiệu, đèn pha, cốt, đèn phanh, còi, gạt nước, cơ cấu rửa
kính, hệ thống quạt gió...
4. Kiểm tra hệ thống lái: Hành trình tự do của vành tay lái, trạng thái làm việc
của bộ trợ lực tay lái, hình thang lái.
5. Kiểm tra hệ thống phanh: Hành trình tự do của bàn đạp phanh, trạng thái
làm việc và độ kín của tổng phanh, các đường dẫn hơi, dầu, hiệu lực của hệ
thống phanh...
6. Kiểm tra sự làm việc ổn định của động cơ, các cụm, tổng thành và các hệ
thống khác (hệ thống cung cấp nhiên liệu, bôi trơn, làm mát, truyền lực
chính, cơ cấu nâng hạ...)
7. Kiểm tra mức dầu bôi trơn của động cơ, truyền lực chính, hộp tay lái. Nếu
thiếu phải bổ sung.
8. Kiểm tra mức nước làm mát, dung dịch ắc qui...
9. Kiểm tra bình chứa khí nén, thùng chứa nhiên liệu, bầu lọc nhiên liệu, bầu
lọc dầu.
10. Đối với động cơ Diesel cần kiểm tra mức dầu trong bơm cao áp, bộ điều
tốc.
11. Làm sạch toàn bộ ôtô, buồng lái, đệm và ghế ngồi, thùng xe. Lau sạch
kính chắn gió, gương chiếu hậu, đèn pha, cốt, đèn phanh, biển số.

Bảo dưỡng định kỳ:


*Kiểm tra, chẩn đoán, xiết chặt và điều
chỉnh các cụm, tổng thành, hệ thống trên
ôtô. Bao gồm các tổng thành, hệ thống
sau: Động cơ, hệ thống làm mát, hệ thống
bôi trơn, hệ thống cung cấp nhiên liệu, hệ
thống phối khí.
1. Kiểm tra, chẩn đoán trạng thái kỹ thuật
của động cơ và các hệ thống liên quan.
2. Tháo bầu lọc dầu thô, xả cặn, rửa sạch.
Tháo và kiểm tra rửa bầu lọc dầu li tâm. Bảo dưỡng định kỳ xe hơi tại một
Thay dầu bôi trơn cho động cơ, máy nén ga-ra
khí theo chu kỳ, bơm mỡ vào ổ bi của bơm
nước. Kiểm tra áp suất dầu bôi trơn.
3. Kiểm tra, súc rửa thùng chứa nhiên liệu. Rửa sạch bầu lọc thô, thay lõi lọc
tinh.
4. Kiểm tra, xiết chặt các bulông, gudông nắp máy, bơm hơi, chân máy, vỏ ly
hợp, ống hút, ống xả và các mối ghép khác.
5. Tháo, kiểm tra bầu lọc không khí. Rửa bầu lọc không khí của máy nén khí
và bộ trợ lực chân không. Kiểm tra hệ thống thông gió cacte.
6. Thay dầu bôi trơn cụm bơm cao áp và bộ điều tốc của động cơ Diesel.
7. Làm sạch bề mặt két nước, quạt gió, cánh
tản nhiệt, bề mặt ngoài của động cơ, vỏ ly hợp,
hộp số, xúc rửa két nước.
8. Kiểm tra tấm chắn quạt gió két nước làm
mát, tình trạng của hệ thống làm mát, sự rò rỉ
của két nước, các đầu nối trong hệ thống, van
bằng nhiệt, cửa chắn song két nước.
9. Kiểm tra, điều chỉnh khe hở nhiệt supap; Độ
căng dây đai dẫn động quạt gió, bơm nước, Hệ thống làm mát ôtô
bơm hơi.
10. Kiểm tra độ rơ trục bơm nước, puli dẫn động...
11. Kiểm tra áp suất xi lanh động cơ. Nếu cần phải kiểm tra độ kín khít của
supáp, nhóm pittông và xi lanh.
12. Kiểm tra độ rơ của bạc lót thanh truyền, trục khuỷu nếu cần.
13. Kiểm tra hệ thống cung cấp nhiên liệu; kiểm tra các đường ống dẫn;
thùng chứa nhiên liệu; xiết chặt các đầu nối, giá đỡ; kiểm tra sự rò rỉ của
toàn hệ thống; kiểm tra sự liên kết và tình trạng hoạt động của các cơ cấu
điều khiển hệ thống cung cấp nhiên liệu; kiểm tra áp suất làm việc của bơm
cung cấp nhiên liệu..
14. Kiểm tra toàn bộ hệ thống điện. Bắt chặt các đầu nối giắc cắm tới máy
khởi động, máy phát, bộ chia điện, bảng điều khiển, đồng hồ và các bộ phận
khác.
15. Làm sạch mặt ngoài ắc quy, thông lỗ thông hơi. Kiểm tra điện thế, kiểm
tra mức, nồng độ dung dịch nếu thiếu phải bổ sung, nếu cần phải súc, nạp ắc
quy. Bắt chặt đầu cực, giá đỡ ắc quy.
16. Kiểm tra, làm sạch bên ngoài bộ tiết chế, máy phát, bộ khởi động, bộ chia
điện, bộ đánh lửa bằng bán dẫn, dây cao áp, bô bin, nến đánh lửa, gạt mưa,
quạt gió. Tra dầu mỡ theo quy định.
17. Kiểm tra khe hở má vít, làm sạch, điều chỉnh khe hở theo quy định.
18. Kiểm tra, làm sạch điện cực, điều chỉnh khe hở giữa hai điện cực của nến
đánh lửa.
19. Điều chỉnh độ căng dây đai dẫn động máy phát, kiểm tra, điều chỉnh sự
làm việc của rơ le .
20. Kiểm tra hộp cầu chì, toàn bộ các đèn, nếu cháy, hư hỏng phải bổ sung.
Điều chỉnh độ chiếu sáng của đèn pha, cốt cho phù hợp theo quy định.
21. Kiểm tra còi, bắt chặt giá đỡ còi, điều chỉnh còi nếu cần.
22. Kiểm tra các công tắc, đầu tiếp xúc đảm bảo hệ thống điện hoạt động ổn
định
23. Kiểm tra, điều chỉnh bàn đạp ly hợp, lò xo hồi vị và hành trình tự do của
bàn đạp.
24. Kiểm tra các khớp nối, cơ cấu dẫn động và hệ thống truyền động ly hợp.
Đối với ly hợp thuỷ lực phải kiểm tra độ kín của hệ thống và tác dụng của hệ
truyền động, xiết chặt giá đỡ bàn đạp ly hợp.
25. Kiểm tra độ mòn của ly hợp. Nếu cần phải thay
26. Kiểm tra xiết chặt bulông nắp hộp số, các bu lông nối ghép ly hợp hộp số,
trục các đăng. Làm sạch bề mặt hộp số, ly hợp, các đăng.
27. Kiểm tra độ rơ ổ trục then hoa, ổ bi các đăng và ổ bi trung gian.
28. Kiểm tra tổng thể sự làm việc bình thường của ly hợp, hộp số, các đăng.
Nếu còn khiếm khuyết phải điều chỉnh lại. Các vòng chắn dầu, mỡ phải đảm
bảo kín khít.
29. Kiểm tra lượng dầu trong hộp số, cơ cấu dẫn động ly hợp. Nếu thiếu phải
bổ sung.
30. Bơm mỡ vào các vị trí theo sơ đồ quy định của nhà chế tạo.
31. Kiểm tra độ rơ tổng cộng của truyền lực chính. Nếu cần phải điều chỉnh
lại.
32. Kiểm tra độ kín khít của các bề mặt lắp ghép. Xiết chặt các bulông bắt
giữ. Kiểm tra lượng dầu ở vỏ cầu chủ động. Nếu thiếu phải bổ sung.
33. Kiểm tra độ chụm của các bánh xe dẫn hướng, độ mòn các lốp. Nếu cần
phải đảo vị trí của lốp theo quy định.
34. Xì dầu khung, bôi trơn chốt nhíp, các ngõng chuyển hướng, bệ ôtô. Bôi
mỡ phấn chì cho khe nhíp.
35. Bơm mỡ bôi trơn theo sơ đồ quy định của nhà chế tạo.
36. Kiểm tra dầm trục trước hoặc các trục của bánh trước, độ rơ của vòng bi
moay ơ, thay mỡ, điều chỉnh theo quy định.
37. Đối với ôtô, sử dụng hệ thống treo độc lập phải kiểm tra trạng thái của lò
xo, thanh xoắn và các ụ cao su đỡ, giá treo.
38. Kiểm tra độ kín khít của hộp tay lái, giá đỡ trục, các đăng tay lái, hệ
thống trợ lực tay lái thuỷ lực. Nếu rò rỉ phải làm kín, nếu thiếu phải bổ sung.
39. Kiểm tra độ rơ các đăng tay lái. Hành trình tự do vành tay lái. Nếu vượt
quá tiêu chuẩn cho phép phải điều chỉnh lại.
40. Kiểm tra toàn bộ sự làm việc của hệ thống lái, đảm bảo an toàn và ổn
định.
41. Kiểm tra áp suất khí nén, trạng thái làm việc
của máy nén khí, van tiết lưu, van an toàn, độ
căng của dây đai máy nén khí.
42. Kiểm tra, bổ sung dầu phanh.
43. Kiểm tra, xiết chặt các đầu nối của đường
ống dẫn hơi, dầu. Đảm bảo kín, không rò rỉ
trong toàn bộ hệ thống.
44. Kiểm tra trạng thái làm việc bộ trợ lực
phanh của hệ thống phanh dầu có trợ lực bằng Phanh tang trống
khí nén hoặc chân không.
45. Kiểm tra, xiết chặt đai giữ bình khí nén, giá đỡ tổng bơm phanh và bàn
đạp phanh.
46. Tháo tang trống, kiểm tra tang trống, guốc và má phanh, đĩa phanh, lò xo
hồi vị, mâm phanh, giá đỡ bầu phanh, chốt quả đào, ổ tựa mâm phanh. Nếu
lỏng phải xiết chặt lại. Nếu mòn quá tiêu chuẩn phải thay.
47. Kiểm tra độ kín khít của bầu phanh trong hệ thống phanh hơi hoặc xy
lanh phanh chính trong hệ thống phanh dầu. Kiểm tra mức dầu ở bầu chứa
của xy lanh phanh chính
48. Điều chỉnh khe hở giữa tang trống, đĩa phanh và má phanh, hành trình và
hành trình tự do của bàn đạp phanh.
49. Kiểm tra hiệu quả của phanh tay, xiết chặt các giá đỡ. Nếu cần phải điều
chỉnh lại.
50. Kiểm tra, đánh giá hiệu quả của hệ thống phanh.
Có bao nhiêu loại dẫn động trên xe hơi?

Để động cơ truyền lực tới các bánh xe khiến chúng quay, những chiếc xe cần
phải có cơ cấu dẫn động. Tuy nhiên, không phải tất cả các bánh đều trực tiếp
nhận lực từ động cơ, tùy thuộc yêu cầu vận hành giữa các loại xe và tại từng
thời điềm mà người ta có những phương pháp truyền động khác nhau.

Hệ dẫn động cầu sau RWD

Thời kỳ đầu của ngành công nghiệp ô tô thế


giới, tất cả những chiếc xe đều sử dụng hệ dẫn
động cầu sau (RWD - Rear-wheel drive). Những
chiếc xe này nhất thiết phải có trục truyền
chuyển động và một bộ vi sai để truyền công
suất từ động cơ xuống trục sau. Thiết bị này
làm tăng giá thành sản xuất và làm trọng lượng
xe tăng lên. Mecerdes vẫn luôn trung
thành với hệ dẫn động cầu
Xe có hệ dẫn động cầu sau không có sự hỗ trợ sau
của cơ cấu chống trượt thì xe rất dễ bị trượt
ngang hay sa lầy xuống những hố, rãnh. Vì vậy RWD thực sự không hiệu quả.
Tuy nhiên, ở loại xe này, tính năng kiểm soát xe cực tốt vì cặp bánh sau chịu
trách nhiệm của việc tăng tốc, khiến cho cặp bánh trước chuyên biệt với
nhiệm vụ dẫn hướng. Điều này có nghĩa là khi bạn "nhấn" ga, tải trọng xe
dồn vào đúng nơi mong muốn là cầu sau.

Hệ dẫn động cầu trước FWD

Gần như tất cả các xe ngày nay đều sử dụng hệ


dẫn động cầu trước (FWD - Front-wheel drive),
nguyên nhân chính nằm ở chỗ các xe hiện đại
đều có động cơ đặt trước thay vì đặt sau như
trước kia. Vì vậy, để loại bỏ cơ cấu truyền động
từ trước ra sau và tiêu hao nhiều năng lượng,
công suất truyền tới ngay bánh trước là giải
pháp khả thi nhất. Ngoài ra, áp dụng FWD đồng Gần như tất cả các xe hơi
nghĩa với việc các nhà sản xuất có thể giảm bớt đời mới đều sử dụng FWD
các chi tiết, hạ thấp chi phí. Đồng thời, khối
lượng xe giảm đi cũng khiến nó "ăn" ít xăng hơn.

Ưu điểm quan trọng nữa của hệ dẫn động FWD là do động cơ đặt phía trên
trục trước nên trọng lượng của nó được truyền thẳng xuống bánh dẫn động
khiến độ bám đường tăng lên, giúp xe hoạt động tốt ở các mặt đường trơn
trượt.

Các hệ thống dẫn động 4 bánh (4WD - Four-wheel drive)


1 - Hệ thống 4WD bán thời gian (PART-TIME
4WD)

Đây là hệ thống cơ bản nhất, nó được kích hoạt


khi tài xế hoặc cài cầu bằng cần số phụ hoặc
nhấn một nút bấm trong xe. Nếu không chủ
động gài cầu, thì xe sẽ vận hành với 2 bánh dẫn
động và trong hầu hết các trường hợp 2 bánh
dẫn động sẽ là 2 bánh sau.
Nissan Patrol
Đây là hệ thống đơn giản nhất nên không phức tạp và giá thành chế tạo rẻ.
Điều này giải thích cho sự phổ biến của hệ thống trên trên các xe 2 cầu bình
dân. Đặc điểm của hệ thống này là:
- Trong điều kiện thông thường, xe sẽ sử dụng dẫn động 2 bánh.
- Tài xế phải chủ động gài cầu và nhả cầu
- Sau khi gài cầu thì lực kéo sẽ được phân bổ đều cho 4 bánh.
- Trong điều kiện đường cực xấu, tài xế có thể lựa chọn cầu “thấp” hay "Low"
để cải thiện độ bám đường. Hầu hết xe địa hình tầm trung bình dùng loại này
vì đơn giản và chi phí thấp nhưng hoạt động tốt trong địa hình xấu. Các loại
xe điển hình :Vitara, Trooper, Patrol và Land Cruiser...

2 - Hệ thống 4WD cố định (FULL-TIME 4WD)

Xe với hệ thống này không thể chuyển sang chế


độ dẫn động 2 bánh được. Nó luôn luôn vận
hành với lực kéo của động cơ được truyền tới 4
bánh vì vậy người lái được hưởng các ưu điểm
về độ bám đường của hệ thống dẫn động 4
bánh và không cần phải gài cầu. Đặc điểm của
hệ thống này là:
- Tất cả 4 bánh đều được dẫn động Toyota RAV4
- Tài xế không thể chuyển sang chế độ dẫn
động 2 bánh
- Trong điều kiện đường cực xấu, tài xế có thể cài cầu thấp để chống trượt
bánh hoặc vượt qua đường gồ ghề. Các loại xe điển hình: Terios, Toyota
RAV4...

3 - Hệ thống 4WD tự động (AUTOMATIC 4WD)

Hệ thống này được thiết kế nhằm tự động lựa


chọn thời điểm phân bố lực kép cho các bánh xe
khi có tình trạng trượt bánh xảy ra. Được tiếp thị
với nhiều tên khác nhau, hệ thống này họat
động thông qua một vi sai trung tâm hoặc một
trong nhiều cơ cấu ly hợp để chuyển lực kéo
đến các bánh khi hệ thống phát hiện có sự trượt
bánh. Các đặc điểm phân biệt:
- Tài xế sau khi kích hoạt chế độ “auto 4WD” Nissan Murano
(thường thông qua một nút trên bảng điều khiển) thì xe sẽ tự động “cài cầu”
khi cần thiết và tài xế không cần phải quan tâm đến hệ thống này nữa.
- Khi hệ thống kích hoạt, nó sẽ kiểm soát và chuyển lực kéo khi cần thiết đến
cả hai cầu trước và sau hoặc chỉ các bánh không bị trượt.
- Tài xế cũng có thể chọn chế độ cầu thấp để cải thiện khả năng vận hành khi
điều kiện đường sá rất xấu. Các loại xe điển hình: Honda CRV, Nissan
Murano...

4- Hệ thống AWD (All-wheel drive)

Hệ thống AWD vận hành gần giống với 4WD toàn thời gian ở chỗ lực kéo liên
tục được phân bổ tới cầu trước và cầu sau, không thể tác động chủ quan tới
việc gài cầu hay không. Đặc điểm phân biệt:
- Cầu trước và sau đều dẫn động.
- Tài xế không thể chọn chế độ dẫn động một cầu được.
- Tài xế không thể chọn chế độ cầu thấp để cải thiện khả năng vận hành khi
điều kiện đường xá rất xấu. Các loại xe điển hình: Land Cruiser VX hay Pajero
Supreme...
Những dấu hiệu trên đồng hồ và đèn báo của xe cho biết điều gì?

Các đồng hồ trên xe

1-Vôn kế; 2 Công-tơ mét; 3-Đồng hồ đo vòng quay của máy; 4-Đồng
hồ đo nhiệt độ nước làm mát; 5- Đồng hồ xăng; 6-Đồng hồ đo áp
suất dầu

Đồng hồ đo nhiệt độ nước làm mát

Đồng hồ này đo nhiệt độ nước làm mát máy. Khi máy


nóng, nhiệt độ có thể lên tới khoảng 83-94o C, nếu
đang phải dừng xe để chờ đèn đỏ, nhiệt độ có thể tăng
một chút. Nhiệt độ cũng sẽ tăng lên một chút ngay sau
khi bạn tắt máy vì nước làm mát không được làm nguội
ngay, nhưng sẽ trở lại bình thường khi bạn khởi động
máy trở lại.

Nhiệt độ thay đổi trên đồng hồ là dấu hiệu không bình


thường nếu như lúc đó không phải chờ xe quá lâu. Nếu
nhiệt độ xuống quá thấp, bộ ổn nhiệt có thể có vấn đề.
Nếu nhiệt độ lên quá cao, có thể nước làm mát còn quá Đồng hồ đo nhiệt độ
ít, các đường ống có thể bị rò rỉ, nắp của bộ sưởi có nước làm mát
thể bị hở, thời gian đánh lửa đặt sai, hoặc có thể các
dây đai bị trượt... Nhiệt độ nước làm mát được ký hiệu bằng độ F hoặc độ C
hay dùng chữ Cold-Hot

Đồng hồ đo áp suất dầu

Đồng hồ đo áp suất dầu có thể cho biết động


cơ của xe có được bôi trơn tốt không. Khi xe
chở nặng, có thể thấy đồng hồ này tăng lên
một chút, khi giảm tốc độ có thể áp suất dầu
lại giảm xuống. Khi áp suất dầu xuống thấp có
thể do lượng dầu còn ít, dùng loại dầu không Đồng hồ đo áp suất dầu
đúng độ nhờn, máy nóng quá, lọc dầu bị tắc
hoặc đã có trục trặc với động cơ của xe. Áp suất dầu có thể được đo bằng
đơn vị psi hoặc cũng có thể được kí hiệu bằng Low-High.

Đồng hồ đo điện (Ampe kế)

Đồng hồ đo điện sẽ cho biết tình trạng nạp điện của hệ thống điện trên xe.
Trên đồng hồ sẽ hiện dấu (+) khi ắc-qui đang sạc, hoặc dấu (-) nếu ắc-qui
đang sử dụng. Chỉ sau khi khởi động máy, đồng hồ đo điện sẽ cho biết tình
trạng nạp điện của ắc-qui khi đèn và các thiết bị khắc đã tắt. Khi phần năng
lượng được sử dụng để khởi động máy được nạp lại vào trong ắc-qui, kim sẽ
dần dần chỉ vào vạch giữa trên bảng đồng hồ và sẽ hơi nghiêng về phía bên
đang nạp điện (+). Nếu ắc-qui yếu, đồng hồ sẽ chỉ ở trạng thái nạp điện cho
đến khi đủ điện.

Nếu đồng hồ báo ắc-qui nạp nhanh và sử dụng điện cũng nhanh, có thể ắc-
qui sắp hỏng, nếu ắc-qui nạp điện lâu hơn bình thường, có thể dây đai bị
trượt hoặc máy phát điện gặp sự cố. Đồng hồ đo điện cho biết trạng thái của
ắc-qui đang sạc (C) hay đang sử dụng điện (D).

Vôn kế

Vôn kế có thể được dùng thay cho ampe kế, vôn kế


cho biết tình trạng hoạt động của ắc-qui rõ hơn. Mặc
dù hệ thống điện trên xe là 12V nhưng trong thực
tế, xe hoạt động với hiệu điện thế lớn hơn 13V một
chút. Nếu sau khi máy chạy được một lúc lâu mà
vẫn thấy vôn kế chỉ dưới 13V, bạn nên kiểm tra xem
có dây đai nào bị trượt không.

Đồng hồ đo vòng quay của máy


Đồng hồ Vôn kế
Đồng hồ đo vòng quay của máy (1000 vòng/phút)
cho phép theo dõi và lái xe đạt hiệu suất cao nhất với số vòng quay của máy
đạt được là tối đa.

Các đèn cảnh báo trên xe

1-Hỏng hệ thống điều chỉnh khoảng sáng gầm xe

Thấy đèn cảnh báo này trên công-tơ-mét sáng, cần dừng xe kiểm tra, nếu chỉ
do chở quá nặng thì có thể chạy tiếp một cách cẩn thận vì tay lái bị ghì hơn.
Nếu xe không chở nặng hoặc đã trút hết tải mà đèn vẫn báo, nên đến trạm
sửa chữa ngay khi có thể.
2-Hỏng hệ thống hỗ trợ phanh ABS

Tín hiệu báo hỏng ABS (thường do hỏng đồng hồ đo tốc độ quay của bánh
xe) đồng nghĩa với việc hệ thống điện tử sẽ không can thiệp vào quá trình
phanh xe. Chú ý, khi bật khóa điện, đèn báo ABS sẽ sáng lên, nhưng đó chỉ là
test, nếu mọi việc bình thường, mấy giây sau nó sẽ tự tắt đi. Với cảnh báo
này, vẫn có thể tiếp tục chạy xe, nhưng nên thận trọng, vì không có ABS,
phanh trên đường cua hay trơn trượt nguy hiểm hơn rất nhiều.
3-Mòn má phanh

Trên một số xe đời cũ, đèn này sáng khi hệ thống phanh nói chung có vấn đề
hoặc phanh tay đang bị cài. Ở dòng xe hiện đại hơn, nó báo độ dày của má
phanh chỉ còn 2-3 mm, xe chỉ chạy được khoảng 2.000-3.000 km nữa là tới
cốt kim loại. Khả năng cách nhiệt đã rất kém, cần thay ngay má phanh mới.

4-Áp suất dầu máy thấp

Ngay khi thấy đèn báo, cần lập tức tắt máy. Như vậy mới còn hy vọng bảo
toàn được động cơ. Nếu nó chỉ sáng khi vào cua hay khi phanh gấp, nên kiểm
tra mức dầu máy. Nếu sau khúc cua, đèn tắt, có thể tiếp tục chạy theo chế
độ giảm ga và tránh các xử lý đột ngột, tới trạm sửa chữa gần nhất. Ngoài ra,
hiện tượng này cũng có thể do vòng bi trục khuỷu đã mòn.
5-Hỏng túi khí hoặc dây an toàn

Đèn báo sẽ test sáng lên khi bật chìa khóa điện và tự tắt sau mấy giây, nếu
hệ thống an toàn hoạt động bình thường. Trong trường hợp đèn này không
tắt sau khi test hoặc đột nhiên sáng lên khi xe đang chạy, nên đến trạm sửa
chữa ngay khi có thể.
6- Có nước trong bộ vi lọc

Khi đèn báo có nước trong bộ vi lọc bật sáng, hãy nhanh chóng đưa xe đến
trạm sửa chữa gần nhất.
Sử dụng loại dầu nào cho xe tay ga?

Tác dụng và tính chất của dầu nhờn

Trong động cơ, dầu nhờn có nhiều tác


dụng như giảm ma sát giữa hai bộ
phận tiếp xúc trực tiếp với nhau, giải
nhiệt làm mát, làm kín, chống ăn mòn.
Tuy nhiên, tác dụng cơ bản nhất của
nó vẫn là giảm ma sát nên độ nhớt là
chỉ tiêu có ảnh hưởng quan trọng nhất
đến chất lượng của một sản phẩm dầu
nhờn thương mại.

Độ nhớt của dầu thay đổi theo nhiệt


độ. Khi ở nhiệt độ cao, độ nhớt giảm
và ngược lại. Dầu có độ nhớt thấp dễ
di chuyển hơn so với dầu có độ nhớt
cao. Ngoài ra, do trọng lượng của các
phân tử cấu thành nên dầu nhờn có Độ nhớt là chỉ tiêu quan trọng của
liên quan trực tiếp đến độ nhớt của nó dầu....
nên người ta thường gọi thành dầu
nặng hay dầu nhẹ. Dầu nhẹ dùng để chỉ loại có độ nhớt thấp, dầu nặng chỉ
dầu có độ nhớt cao.

Trên thực tế, dầu nhẹ dễ bơm và luân chuyển qua động cơ nhanh hơn.
Ngược lại, dầu nặng thường có độ nhớt cao, di chuyển chậm hơn nên có áp
suất cao hơn nhưng lưu lượng dầu qua bơm lại thấp hơn.

Đặc điểm động cơ của xe tay ga

-Vì đặc điểm cấu tạo và tính thẩm mỹ,


động cơ của xe tay ga được thiết kế nhỏ
gọn hơn, công suất riêng lớn hơn và được
đặt kín ở phía sau. Chính vì thế, động cơ xe
tay ga có nhiệt độ cao hơn hẳn động cơ xe
máy khác do dễ bị bùn đất bám, khuất/kín.

-Chế độ vận hành của động cơ xe tay ga


cao hơn, tốc độ vòng quay cao hơn (8000-
10.000v/p) so với xe máy thông thường
Xe tay ga có những đặc điểm
(5000-6000v/p). Đây cũng là nguyên nhân
khác biệt
khiến nhiệt độ làm việc của dầu động cơ
cũng cao hơn, khoảng 150o-170o C.

-Xe tay ga ít khi bố trí hệ thống côn (ly hợp) nằm chung trong cacte. Do vậy
dầu bôi trơn cần có hệ số ma sát thật thấp để nâng cao hiệu suất động cơ.
-Một số xe tay ga chỉ có bộ phận khởi động bằng điện chứ không có cần đạp
khởi động, dùng dầu không đúng chủng loại trong thời tiết lạnh sẽ khó khởi
động.

Dầu động cơ cho xe tay ga

Những khác biệt của động cơ xe tay ga so với các


loại xe thông thường dẫn đến yêu cầu dẫn đến
dầu động cơ dành cho xe tay ga cũng khác hơn.
Dầu cho xe tay ga cần có khả năng chịu nhiệt độ
cao, độ bền nhiệt tốt, độ nhớt thích hợp để dễ
khởi động và bảo vệ động cơ ở tốc độ cao và đặc
biệt phải có phẩm cấp chất lượng phải cao hơn
dầu động cơ thông thường. Sử dụng dầu bôi trơn
động cơ cho xe tay ga cần chú ý:
Dầu cho xe tay ga cần có
-Sử dụng dầu đúng chủng loại, chỉ số yêu cầu của
khả năng chịu nhiệt độ
nhà sản xuất.
cao
-Sử dụng dầu đặc chế cho xe tay ga, dầu có thành phần tổng hợp (synthetic)
hoặc bán tổng hợp (semi synthetic), nghĩa là sẽ có chỉ số độ nhớt cao vượt
trội (VI>140) đảm bảo độ nhớt dầu luôn ổn định khi nhiệt độ làm việc của
động cơ lên cao, giảm hệ số ma sát và tăng độ bền của màng bôi trơn giúp
động cơ hoạt động luôn ổn định.

-Dầu có phẩm cấp chất lượng cao (API SL...) để đảm bảo dầu có khả năng
chống lại sự ô-xy hoá ở nhiệt độ cao, giữ các chi tiết động cơ luôn sạch khiến
tuổi thọ động cơ sã tăng đáng kể.

-Dầu có độ nhớt đa cấp thấp hơn của xe số (SAE 10W-40) sẽ giúp động cơ dễ
dàng khởi động ngay cả khi nhiệt độ xuống thấp, bảo vệ động cơ ngay từ ban
đầu hay khi vòng quay động cơ hoạt động đến tốc độ tối đa.

Các loại dầu khác của xe tay ga

-Dầu hộp số (bánh răng): Xe tay ga có hộp bánh răng tách rời động cơ nên
có loại dầu bôi trơn riêng. Tuỳ theo loại xe, các nhà sản xuất sẽ yêu cầu
chủng loại cũng như thời gian thay thế.

-Dầu phanh: Các xe tay ga đều sử dụng phanh đĩa, dầu phanh sẽ là chất lỏng
truyền lực phanh. Thông thường dầu phanh có 2 loại với ký hiệu (DOT3-
DOT4), bổ sung và thay mới dầu phanh nên theo quy định của nhà sản xuất.
Sử dụng xe hơi như thế nào để tiết kiệm nhiên liệu?

Các chuyên viên kỹ thuật của những hãng xe hơi hàng đầu thế giới cho rằng
lái xe và bảo quản xe đúng kỹ thuật chính là cách tiết kiệm nhiên liệu tối ưu
nhất.

Lái xe đúng kỹ thuật

Vận tốc và gia tốc đóng vai trò đáng kể


trong việc giảm lượng tiêu hao nhiên
liệu. Bạn càng nhấn ga thì động cơ
càng "khát" nhiên liệu. Khi vận tốc lên
đến 100km/h, lực kéo tăng thêm 10%
cho mỗi lần tăng thêm 10km/h. Lái xe
với vận tốc càng cao thì lượng nhiên
liệu tiêu hao càng nhiều.

Vận hành ở tốc độ thấp, số thấp cũng


Tăng tốc đột ngột, tiêu hao nhiên
như ở tốc độ cao đều tiêu hao nhiên
liệu gấp 4 lần bình thường.
liệu nhiều hơn so với mức trung bình.
Tương tự, tăng tốc đột ngột cũng tiêu hao nhiên liệu gấp 4 lần so với mức
bình thường. Phanh nhiều cũng làm chiếc xe “uống” xăng nhiều hơn do bạn
sẽ phải tăng tốc sau khi phanh, vì vậy hãy giữ khoảng cách an toàn với xe
phía trước để quá trình phanh xảy ra không quá đột ngột.

Xe chở càng nặng thì càng hao nhiên liệu. Nên dọn dẹp các thứ trên xe và bỏ
đi những thứ không cần thiết. Giảm trọng lượng khoảng 40kg, sẽ tiết kiệm
được 3% nhiên liệu. Một người lái xe nhiều kinh nghiệm là biết cách tính toán
quãng đường đi thế nào thuận lợi nhất. Nếu bạn có một lộ trình “liên kết” các
địa chỉ với nhau, bạn không chỉ tiết kiệm được nhiên liệu mà còn đỡ mất thời
gian. Nên nhớ đừng phanh gấp nhiều lần, vì mỗi lần như vậy, chiếc xe phải
"đề-pa" để trở lại vận tốc cũ và lượng nhiên liệu tiêu tốn nhiều hơn.

Chăm sóc động cơ

Cần sử dụng và bảo dưỡng động cơ theo đúng


hướng dẫn kỹ thuật của nhà sản xuất. Có nhiều
yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động của động cơ
như lọc gió, mức dầu bôi trơn, tuổi thọ của bu-
gi... một cái lọc dầu bẩn có thể làm hao nhiên
liệu thêm 4%. Khi thấy đèn báo “check engine”,
bạn phải mang xe đi kiểm tra ngay.

Nhà sản xuất khuyến cáo dùng loại nhiên liệu Sử dụng và bảo dưỡng
nào, dầu nhờn nào thì bạn dùng đúng loại ấy. động cơ theo đúng yêu cầu
Hãy cảnh giác với các loại nhiên liệu được quảng kỹ thuật (ảnh VNE)
cáo là tiết kiệm, có thể chúng sẽ không phù hợp
với động cơ xe bạn. Cũng không nên tin tưởng vào lời quảng cáo các loại
“phụ gia” làm hệ thống máy móc vận hành trơn tru.

Chọn lốp xe

Luôn giữ áp suất lốp đúng tiêu chuẩn, bánh xe


không đủ hơi khiến việc điều khiển tay lái càng
khó và làm lốp xe mau mòn. Bên cạnh đó, ma
sát còn làm tăng nhiệt độ và trong trường hợp
đủ lớn, nó sẽ làm cháy cao su. Do độ bám
đường tăng lên cùng với ma sát nên động cơ sẽ
phải làm việc nhiều hơn. Ngược lại, một vài loại
lốp lại mòn nhanh khi bơm quá căng, bởi vậy,
bạn hãy cố gắng đảm bảo áp suất lốp luôn nằm Luôn giữ áp suất lốp đúng
trong chỉ dẫn kỹ thuật của nhà sản xuất. Nên tiêu chuẩn (ảnh VNE)
kiểm tra định kỳ hệ thống lái của xe, điều này giúp hạn chế hao mòn lốp xe,
giảm tiêu hao nhiên liệu.

Sử dụng điều hoà nhiệt độ hợp lý cũng là một cách tiết kiệm nhiên liệu. Khi
trời nóng, cây số đầu bạn nên hạ tất cả các cửa xuống để nhiệt độ trong xe
giảm dần nhờ gió thổi vào xe, sau đó mới bật điều hòa, để làm giảm sức kéo
của compressor. Chạy trên đường cao tốc, bạn chỉ cần vặn máy lạnh số nhỏ.
Yếu tố thời tiết cũng ảnh hưởng đến mức độ tiết kiệm nhiên liệu của xe. Việc
khởi động xe trong điều kiện thời tiết quá ẩm ảnh hưởng không chỉ đến sự
vận hành của động cơ mà còn đến tiêu thụ nhiên liệu. Điều kiện đường miền
núi và gió mạnh cũng làm xe tiêu hao nhiên liệu nhiều hơn.

Khi bạn chuẩn bị mua xe hãy tính toán một cách tương đối xem nó sẽ ngốn
bao nhiêu nhiên liệu. Khi đó bạn sẽ hình dung được có nên mua chiếc xe
động cơ dung tích lớn và tiêu hao nhiều nhiên liệu hay không.
Cần chú ý những gì khi sử dụng đèn pha?

Theo chức năng làm việc đèn pha thuộc hệ thống tín hiệu và chiếu sáng trên
ôtô, xe máy. Yêu cầu chiếu sáng tiêu chuẩn của đèn pha phải giúp cho người
lái xe quan sát rõ mặt đường (100 -120 m phía trước đối với ôtô và 60 m đối
với xe máy). Khi gặp người đi ngược chiều, đèn cốt làm nhiệm vụ chiếu sáng
gần với khoảng sáng từ 50-75 m và hướng ánh sáng phải đi xuống 300.

Các loại đèn pha, đèn cốt

Tính chất chiếu sáng của đèn hệ thống đèn phụ


thuộc vào kết cấu của phần tử quang học và kết
cấu của bóng đèn (bóng đèn, pha đèn và kính
khuyếch tán ánh sáng). Dây tóc bóng đèn pha
(chiếu xa) đặt đúng tiêu điểm parabol pha đèn
còn dây tóc đèn cốt (chiếu gần) đặt ngoài tiêu
điểm của parabol pha đèn. Kính khuyếch tán có
tác dụng phân bố lại chùm tia ánh sáng của đèn
cho phù hợp với yêu cầu chiếu sáng.
Đèn pha được coi là "mắt"
Hệ đèn pha châu Âu thường dùng 2 đèn, công của chiếc xe
suất đèn pha 50W; công suất đèn cốt 40W. Hệ
đèn pha châu Mỹ thường dùng 4 đèn với công suất đèn pha 50-60W; công
suất đèn cốt 40-50W, khi chiếu xa 4 đèn pha cùng làm việc nhưng khi chiếu
gần chỉ còn 2 đèn cốt làm việc.

Chùm tia sáng chiếu gần của đèn cốt trên xe


châu Âu và xe châu Mỹ khác nhau. Các đèn pha
trên xe châu Âu khi làm việc ở chế độ chiếu sáng
gần (đèn cốt), chùm tia sáng chiếu không đối
xứng và được hướng về phía bên phải khoảng
150 để người lái nhìn rõ hơn phần đường bên
phải của mình và giảm bớt khả năng làm loá mắt
người lái xe đi ngược chiều. Các đèn pha hệ châu
Mỹ khi chiếu gần vẫn giữ nguyên dạng chùm tia
đối xứng do đó tầm nhìn bên phải của người lái
sẽ kém hơn. Đèn pha, cốt thường phân loại theo Bóng đèn halogen
kiểu bóng đèn và loại dây tóc bóng đèn thành các
loại sau:

- Đèn Wolfram: Do đặc tính của wolfram nên khi làm việc, loại đèn này hay bị
đen mặt bóng đèn khiến độ sáng bị giảm nhanh.

- Đèn Halogen: Là loại đèn được nạp khí halogen hay hỗn hợp của halogen
với brom, đèn halogen nhỏ gọn, cường độ sáng lớn (gấp đôi đèn wolfram) và
có khả năng chịu nhiệt độ cao.
-Đèn Xenon: Là loại đèn được nạp khí xenon, có ưu điểm lớn là có chùm tia
sáng với quang phổ gần như ánh sáng mặt trời nên tạo thuận lợi cho người
lái quan sát trong đêm. Đèn xenon thường được lắp trên các dòng xe cao
cấp, với giá thành đắt gấp 5 lần loại đèn thông dụng.

Đèn halogen và đèn xenon

Sử dụng đèn xe như thế nào?

- Vì tầm quan sát ở chế độ cốt là 45 m so với 100-120m của ánh sáng đèn
pha, vì vậy cần sử dụng đèn pha khi tăng tầm quan sát trong đêm. Ngoài ra,
để tăng thêm tính hiệu quả khi sử dụng đèn pha cần giảm ánh sáng tối đa
trong khoang lái (không nên bật đèn trong xe và điều chỉnh các thiết bị ánh
sáng ở chế độ mờ hoặc tắt).

- Nên sử dụng đèn cốt khi có sương mù hoặc


mưa sẽ quan sát rõ đường hơn.

- Luôn có bóng đèn sương mù dự phòng. Đèn


sương mù được thiết kế để sử dụng trong điều
kiện thời tiết có nhiều sương mù nhằm tăng độ
sáng trên mặt đường. Chỉ nên sử dụng đèn sương
mù khi cần thiết và không nên sử dụng thường
xuyên với đèn pha vì có loại đèn sương mù sẽ
làm lệch ánh sáng đèn pha và làm cho người điều
khiển phương tiện ngược chiều giảm tầm quan Sử dụng đèn pha tăng
sát. tầm quan sát trong đêm

- Nên kiểm tra đèn thường xuyên và căn chỉnh pha đèn rọi đúng hướng, tầm
ánh sáng lệch đi 10 cũng làm ảnh hưởng tới hiệu quả chiếu sáng của đèn xe
rất nhiều.

- Luôn giữ cho đèn pha sạch sẽ. Chất bẩn hay bụi bám vào đèn xe sẽ làm
giảm độ sáng của đèn đến 60%. Ngoài việc giữ cho đèn pha sạch sẽ, bạn
cũng phải nên giữ cho kính xe sạch sẽ bằng cách lau chùi thường xuyên, hoặc
sử dụng hệ thống rửa kính xe khi kính xe có nhiều bụi bám vào.
- Thay thế ngay những bóng đèn bị cháy và nên có bóng đèn dự phòng trên
xe. Hầu hết các hệ thống đèn xe đều thuộc loại bóng halogen có thể dễ dàng
thay thế mà không cần bất kỳ dụng cụ nào. Nên đọc hướng dẫn kỹ thuật của
xe để thao tác chính xác, khi thay bóng đèn mới không nên chạm tay vào
bóng ngoài trừ phần đuôi đèn.

- Nên sử dụng pha khi lái một mình trong đêm, sau đó chuyển sang cốt khi có
xe đi ngược chiều trong vòng 150 m (khoảng 3 giây ở tốc độ 90 km/giờ).
Không nên sử dụng đèn pha khi cua xe, vì nếu xe đối diện cũng quên tắt pha
thì hai xe bật pha cùng một lúc sẽ làm cho người lái không thấy đường, rất
nguy hiểm. Khi vượt xe, không nên sử dụng đèn pha, nên duy trì khoảng
cách an toàn và nháy đèn để ra hiệu xin vượt.
Quy trình bảo dưỡng xe gắn máy được thực hiện như thế nào?

Mục đích của bảo dưỡng là luôn đảm bảo các tính năng của xe ở trạng thái
tốt nhất có thể, để tránh những hư hỏng nhỏ trở lên lớn hơn trong tương lai,
để đảm bảo sự an toàn của xe và chủ xe. Nếu chiếc xe được bảo dưỡng đúng
tiêu chuẩn, tuổi thọ của xe có thể tăng, tính kinh tế nhiên liệu tốt hơn, hoạt
động tin cậy hơn. Quy trình bảo dưỡng xe gắn máy được thực hiện theo các
bước sau:

-Lốp xe:
Lốp trước và lốp sau cần được sử dụng đúng
theo quy định, tuổi thọ của một chiếc lốp phụ
thuộc rất nhiều vào cách sử dụng và quá trình
vận hành. Luôn giữ áp suất lốp đúng theo tiêu
chuẩn của nhà sản xuất. Kiểm tra chân chống
đứng, chân chống nghiêng, chỗ để chân đảm
bảo luôn vững vàng và được bôi trơn tốt.

-Động cơ: Luôn giữ áp suất lốp đúng


Kiểm tra tiếng động phát ra từ động cơ nhằm tiêu chuẩn
phát hiện và ngăn chặn các hỏng hóc trong
động cơ. Kiểm tra tình trạng hoạt động của bu-gi, động cơ hoạt động tốt bu-
gi luôn có màu gạch; nếu bu-gi có màu đen, hoặc trắng sáng cho thấy động
cơ hoạt động không đạt hiệu quả tối ưu. Khói thải động cơ màu đen, có thể
nhiên liệu không cháy hết. Khói thải màu trắng, có thể dầu bôi trơn lọt vào
buồng đốt, những hiện tượng này đều biểu hiện các hỏng hóc của động cơ,
cần điều chỉnh, sửa chữa kịp thời để tránh kéo theo những hỏng hóc lớn hơn.

-Dầu máy:
Dầu máy có nhiệm vụ bôi trơn và làm mát động
cơ, sử dụng dầu bôi trơn cần đúng chỉ dẫn của
nhà sản xuất. Dầu cần được kiểm tra thường
xuyên để đảm bảo động cơ luôn có chế độ vận
hành tốt nhất.

-Hệ thống điện:


Theo thời gian, hệ thống điện của xe sẽ kém
dần do sức nóng của động cơ, hoặc do các tác
nhân bên ngoài (nước, ô-xy hóa…). Việc kiểm
tra hệ thống điện nhằm bảo đảm khả năng nạp
điện cho ắc-quy, khả năng khởi động của động
cơ, hệ thống điện đánh lửa hoạt động ở trạng
Dầu máy cần được kiểm tra
thái tốt nhất, giúp duy trì khả năng tiết kiệm
thường xuyên
nhiên liệu của động cơ.

-Ắc-qui:
Ắc-quy có nhiệm vụ cung cấp điện cho bộ phận khởi động (đề) và hệ thống
đèn tín hiệu. Kiểm tra, bảo dưỡng ắc-quy để luôn đảm bảo lượng dung dịch,
điện thế của bình theo tiêu chuẩn. Ắc-quy sẽ hoạt động ổn định và có tuổi
thọ cao hơn.

-Nhông-xích:
Kiểm tra hệ thống xích truyền động. Xích là bộ phận dễ bị đất cát bám vào,
dẫn tới làm mòn nhanh chóng đĩa và nhông. Luôn đảm bảo độ căng, độ bôi
trơn tiêu chuẩn của xích, độ kín của hộp xích.

-Phanh:
Kiểm tra hệ thống phanh xe. Sau một thời gian
sử dụng, cần vệ sinh bên trong đùm xe để tránh
bụi bám quá dày, giảm hiệu quả khi phanh. Đối
với phanh đĩa, bổ xung dầu đúng theo quy định
của nhà sản xuất. Hệ thống ổ bi cũng cần được
kiểm tra thường xuyên, bổ sung mỡ bôi trơn
phù hợp khi cần thiết.

-Chế hòa khí: Bộ chế hòa khí


Kiểm tra và vệ sinh (rửa) chế hòa khí để duy trì
khả năng chế hòa khí tối ưu, góp phần không nhỏ trong việc giảm lượng
nhiên liệu tiêu hao. Vệ sinh bình xăng để tránh hiện tượng đọng nước trong
bình lâu ngày có thể dẫn tới bình xăng bị thủng do gỉ sét. Vệ sinh hệ thống
lọc gió, đảm bảo khả năng cung cấp đủ không khí cho động cơ, giúp động cơ
ít tiêu hao nhiên liệu.

-Khung xe:
Kiểm tra và chống gỉ sét khung xe, sườn xe, vành xe. Công việc này nên thực
hiện ngay sau khi mùa mưa mới bắt đầu hoặc vừa kết thúc. Kiểm tra và bảo
dưỡng hệ thống lái, các loại dây (phanh, đồng hồ tốc độ…).

Tuy nhiên để đảm bảo an toàn, trước mỗi chuyến đi xa hoặc sau mỗi lần đi
qua các con đường ngập nước, nên bảo dưỡng toàn bộ xe. Mỗi khi phát hiện
ra các triệu chứng bất thường của xe, cần cho kỹ thuật viên kiểm tra ngay
nhằm tránh các hỏng hóc lớn hơn.
Bảo dưỡng giảm xóc xe máy như thế nào?

Do đặc điểm cấu tạo, bộ giảm xóc sau hoạt động khá ổn định và ít có trục
trặc, những trục trặc thông thường hay xuất hiện ở bộ giảm xóc trước. Dấu
hiệu để nhận biết khi giảm xóc bị hỏng là xe bị xóc khi lái, khó điều khiển, lốp
mòn nhanh, xe đi qua chỗ xóc phát ra những tiếng kêu lục cục.

Giảm xóc có nhiệm vụ hấp thụ và triệt


tiêu những chấn động từ mặt đường,
đem lại sự cân bằng, thoải mái và an
toàn khi lái xe. Thông thường xe máy có
hai bộ giảm xóc trước và sau. Trong mỗi
ống gồm lò xo, pít-tông, xi-lanh thủy lực
và các chi tiết phụ như ống bọc lò xo,
ống che bụi, đệm cao su giảm chấn...

Bộ phận quan trọng nhất của giảm xóc


xe máy là lò xo và cặp pít-tông thủy lực Giảm xóc có nhiệm vụ hấp thu
(ti giảm xóc). Lò xo có tác dụng đàn hồi, chấn động từ mặt đường
biến dao động va đập ở bánh xe thành
dao động điều hòa êm ái cho phần khung xe. “Ti” giảm xóc có tác dụng dập
tắt nhanh các dao động của khung xe, bảo đảm tính bền vững của xe cũng
như người trên xe. Trong quá trình sử dụng, cần chú ý đến hoạt động (độ
nhún) của giảm xóc để bảo dưỡng sửa chữa ngay khi có sự cố.

Dấu hiệu trục trặc và cách khắc phục

- Khi xe chở nặng, tay lái không cân bằng: Giảm xóc trước của xe có thể đã bị
gãy một bên lò xo, hoặc lò xo hai bên có độ cứng không đều nhau hoặc một
bên pít-tông bị cong. Tùy theo nguyên nhân mà thay lò xo hoặc nắn lại pít-
tông.

- Khi đi, giảm xóc có tiếng kêu cót két: Có


thể ống giảm xóc đã bị méo, lò xo bị gỉ cọ
xát vào ống bọc và thân xi-lanh. Để khắc
phục hiện tượng này, cần tháo giảm xóc,
cạo hết gỉ ở lò xo bôi mỡ làm trơn. Nắn
thẳng lại “ti” thủy lực bằng dụng cụ chuyên
dùng.

- Ở thân giảm xóc có vết dầu bám: “Phớt”


dầu của giảm xóc bị rách (hở) do sử dụng Vết dầu trên thân giảm xóc
lâu ngày, “phớt” dầu lão hóa gây nên hiện
tượng chảy dầu giảm xóc. Lượng dầu giảm xóc bị thiếu hụt, khi xe đi qua chỗ
xóc sẽ nghe thấy những tiếng lục cục khó chịu. Để khắc phục hiện tượng này
cần thay “phớt”, bổ xung hoặc thay mới dầu giảm xóc. Khi thay mới hay bổ
xung dầu giảm xóc cần chú ý chọn đúng chủng loại dầu và đổ đúng quy định
của nhà sản xuất.
Sau khi thay dầu mà giảm xóc vẫn cứng, xe vận hành không êm ái có nghĩa
là lượng dầu đã vượt quá mức quy định, cần xả bớt dầu qua ốc xả ở cuối
giảm xóc. Thông thường, chu kỳ thay dầu của giảm xóc trước từ 10.000 –
20.000 km.

Kiểm tra bộ giảm xóc trước bằng cách bóp chặt phanh trước và nhún mạnh,
giảm xóc còn tốt là mặt pít-tông phải sáng bóng suốt chiều dài, pít-tông và xi-
lanh không được có độ “rơ”. Khi hoạt động, giảm xóc không được có màng
dầu bám trên bề mặt.
Cần chuẩn bị những gì trước khi đi xa?

Chuẩn bị cho một chuyến đi xa

- Các giấy tờ cần thiết trên xe: Giấy phép lái xe hợp lệ, đăng kiểm và bảo
hiểm còn hiệu lực, đăng ký xe, các giấy phép đặc biệt khác tùy loại xe, hàng
hoá và cung đường của xe.
- Các vật dụng cần thiết: Túi cứu thương, đèn pin, bản đồ, bộ đồ sửa xe, lốp
dự phòng, bình cứu hoả, tiền, giấy bút, nước uống, giấy vệ sinh. Điện thoại
phải lưu các số của Bảo hiểm, Cứu hộ, Tư vấn kỹ thuật…
- Các dụng cụ kỹ thuật: Dây câu điện, bộ kích điện ắc-quy; dụng cụ vá săm
xe; bóng đèn pha và đèn tín hiệu dự phòng; một chai dầu máy 1 lít; đèn pin,
hộp đựng dụng cụ thông dụng (tuốc-nơ-vít, kìm, búa...)

Kiểm tra xe trước khi đi xa

- Kiểm tra dầu máy: Rất nhiều động cơ gặp


sự cố do thiếu dầu bôi trơn hay dầu không được
thay kịp thời. Kể cả khi mới thay dầu, bạn cũng
cần có bước kiểm tra này. Để đo mức dầu động
cơ, trước hết, bạn đưa xe tới vùng rộng, bằng
phẳng và để máy nguội. Sau khi tắt động cơ vài
phút bạn mới đo mức dầu bởi nếu đo ngay, dầu
chưa về các-te hết khiến kết quả không chính
xác. Kiểm tra dầu máy
- Kiểm tra nước làm mát: Mực nước trong két nước làm mát có thể nhìn
được từ bên ngoài. Mức nước này phải luôn ở giữa mức thấp nhất và mức
cao nhất. Không nên tháo nắp bộ sưởi lúc đang nóng. Nếu mức nước còn ít
quá thì có thể có rò rỉ, kiểm tra kỹ, nếu có thì phải đi sửa ngay.

- Ắc-quy: Bạn hãy kiểm tra xem có rò rỉ, vết nứt hay có dấu hiệu nào của sự
ăn mòn hay không. Nếu có bạn nên thay bình mới. Kiểm tra lại các đầu điện
cực, nếu các đầu cực bị ăn mòn thì ắc quy sẽ rất dễ bị hỏng, nhất khi đi trên
đường.

- Đảm bảo đủ áp suất lốp: Khi đi xa, lốp không đủ độ căng tạo nên sóng
cơ học mài mòn lốp và gây nguy hiểm khi điều khiển xe do không thể tăng
tốc như ý muốn. Hơn nữa, độ căng không đồng đều giữa các bánh sẽ làm
mất cân bằng và không an toàn khi lái.
- Bộ phận treo và tay lái: Khi đi xa, hành
trình của bạn phải phụ thuộc rất nhiều vào bộ
phận treo và tay lái. Nhưng để kiểm tra các bộ
phận này một cách chính xác, bạn phải đem xe
ra ngoài gara. Kiểm tra bằng mắt thường bốn
thanh giảm xóc (ở gần các bánh xe), nếu như có
vết dầu rỉ ra, bạn nên thay. Nếu giảm xóc bị
thiếu dầu, chiếc xe rất khó khăn khi đi qua
những đoạn đường xấu. Kiểm tra các thiết bị điện
- Lốp “sơ cua”, kích: Kiểm tra áp suất của lốp xe dự phòng khi bạn kiểm tra
áp suất của các lốp xe khác (đảm bảo chúng có cùng áp suất và phải đúng
theo quy định của nhà sản xuất), bạn có thể xem trong sách hướng dẫn sử
dụng xe hoặc có thể tìm trên thành lốp. Kiểm tra xem kích nâng có còn tốt
không, nếu bạn có lắp khóa bánh xe, nhớ là phải luôn có chìa khóa và cờ-lê
để tháo con ốc đó ra.

- Kiểm tra đèn và các thiết bị khác: Ngoài những chi tiết trên, hoạt động
của đèn pha, cần gạt nước cũng quan trọng không kém. Bạn nên thử độ sáng
của đèn pha để có thể thay nếu thấy cần thiết. Cần gạt nước phải hoạt động
tốt, không bị mòn, bình nước rửa phải đầy. Hệ thống điện ổn định, còi hoạt
động tốt là những yêu cầu khác cần chuẩn bị cho một chuyến đi thật an toàn
và suôn sẻ.

Một số kinh nghiệm khi lái xe

- Lái xe trên đường đèo dốc: Kiểm tra xe cẩn


thận trước khi lên và xuống đèo: nhiệt độ máy,
áp suất dầu bôi trơn, áp suất khí nén, phanh,
dầu phanh, các-đăng, vật chèn lốp. Chất lượng
phanh và lái tốt là điều kiện an toàn bắt buộc
khi qua đèo, ghi nhớ nguyên tắc lên đèo số nào
thì xuống đèo bằng số ấy. Nên hãm tốc bằng số
và động cơ, không lạm dụng phanh, chú ý đồng
hồ vòng tua và nhiệt độ máy. Chú ý các biển Chú ý biển báo, gương cầu
báo, gương cầu khi xe vào các khúc cua, con khi xe vào cua
dốc - đó luôn là cạm bẫy, hạn chế vượt, chỉ vượt
khi thật an toàn. Bóp còi trước khi vào cua, luôn phải đi đúng phần đường.

- Lái xe khi mưa - gió: Khi có mưa luôn phải bật đèn và giảm tốc độ, nên
chạy ở tốc độ bằng một nửa so với bình thường. Đường mới ướt sẽ trơn hơn
nên phải xử lý: phanh, lái, xi-nhan sớm hơn. Luôn giữ khoảng cách lớn hơn
với xe cùng chiều, sử dụng gạt mưa, sấy kính đúng chế độ để có tầm nhìn tốt
nhất. Nếu mưa to, không được chạy quá 90 km/h vì hiệu ứng trượt lướt sẽ
xảy ra, nếu thấy xe tròng trành, phải giữ lái và giảm ga, tuyệt đối không
phanh. Không cho xe chạy nhanh qua những vũng nước vì xe sẽ bị lệch
hướng đáng kể. Khi bị ướt các má phanh sẽ ăn lệch hoặc không ăn sẽ rất
nguy hiểm nếu phanh gấp, nên tì nhẹ vào chân phanh để sấy chúng khô trở
lại. Nếu trời bão hoặc gió to tốt nhất tìm chỗ trú vì sẽ có nhiều cây đổ, dây
điện chùng võng, tai nạn bất ngờ rình rập.

- Lái xe đêm: Lái xe đêm nguy hiểm hơn ban


ngày rất nhiều bởi tầm nhìn bị thu hẹp. Ban
đêm, dùng tín hiệu đèn là chính khi tránh, vượt,
gặp xe ngược chiều. Không đi nếu hệ thống đèn
pha, đèn tín hiệu không đảm bảo. Khi gặp xe
ngược chiều, bật đèn cốt, không nhìn trực tiếp
vào đèn pha xe đó, mà nhìn chéo sang phải vào
cạnh đường, vạch sơn trắng hoặc hàng cọc tiêu
để căn lái, khi đến ngang nhau bật ngay đèn Lái xe trong sương mù vô
pha để quan sát đường (khắc phục khoảng "mù" cùng nguy hiểm
của mắt người). Chỉ dừng xe khi thật cần thiết,
nhớ tắt đèn pha, chỉ để đèn đăng-téc và xi-nhan đi thẳng.

- Lái xe khi bị nắng chói: Nắng chói thường gặp khi sáng sớm hoặc chiều
muộn. Cần lau kính trước sạch, dùng kính râm, chắn nắng. Nếu xe ngược
chiều hoặc xe sau bạn bị chói nắng thì cẩn thận trước khi rẽ vì họ khó phát
hiện ra bạn đang bật đèn xi-nhan. Nên đi với tốc độ vừa phải vì tầm nhìn bị
hạn chế.

- Lái xe trong sương mù: Trong sương mù


kinh nghiệm tốt nhất là không lái, nếu phải lái
nên bật cả đèn cốt, đăng-téc, đèn sương mù, xi-
nhan đi thẳng. Nên đi theo đoàn, cách nhau một
tầm nhìn, kiên nhẫn và đi với tốc độ chậm,
không dùng radio, điện thoại. Dùng gạt mưa,
sấy kính đúng chế độ để có tầm nhìn tốt nhất.
Nếu xe bị hỏng, cố gắng đưa xe vào bên phải lề
đường, cùng mọi người rời xe càng sớm càng Chuyển số thấp khi đi qua
tốt để tránh nguy hiểm, chỉ đến khi trời quang lầy
hãy sửa xe. Chú ý với những quãng đường
sương mù hoặc khói xuất hiện theo từng đoạn cách nhau, phải giảm tốc ngay
vì sẽ cực kỳ nguy hiểm nếu trong đám mù là chướng ngại vật, người đi bộ
hoặc hướng đi thay đổi, đáng sợ nhất là một vụ tai nạn đã nằm đó từ trước.

- Lái xe trên đường trơn lầy: Chuyển về số thấp, giữ vô-lăng thẳng, đi ga
nhẹ, tránh làm bánh xe bị trượt (patine), cho xe di chuyển đều càng xa càng
tốt. Nếu bị trượt thì nhẹ nhàng lùi lại một quãng đến chỗ đường bám tốt rồi
lại tiến lên, lùi lại, tiến lên đến khi xe vượt qua được chỗ lầy. Dùng các mảnh
ván, cành cây, cát… lót dưới bánh xe bị trượt để tăng ma sát hoặc dùng sợi
xích, thừng quấn vào lốp để vượt qua quãng lầy. Nếu không được thì tìm xe
khác kéo hoặc nhờ người hỗ trợ.

Ngoài ra để đảm bảo an toàn bạn cần chú ý: tư thế lái đúng, chỉnh ghế lái
phù hợp, điều chỉnh gương chuẩn và hiểu biết về chiếc xe mình đang lái.
Không lái xe khi sức khoẻ yếu, đang dùng thuốc an thần, xúc động hay cơ
thể đang bị ảnh hưởng của rượu cho dù từ ngày hôm trước.
Chọn mua xe máy cũ như thế nào?

Thực tế, việc chọn mua một chiếc xe


cũ vừa ý không dễ. Thông thường
người mua chỉ nhìn vào giá cả theo
chủng loại, cũ hay mới, căn cứ theo
công-tơ-mét, biển số, giấy đăng ký…,
nhưng trên thực tế những thông số
này thường không chính xác. Tốt
nhất, chỉ nên mua xe đã sử dụng
không quá 3 năm, bởi với thời gian
này, động cơ của xe vẫn còn hoạt
động tốt.
Những con số trên công-tơ-mét
Thuận lợi nhất trong việc mua xe máy thường không chính xác
cũ là biết rõ chiếc xe cũng như người
sử dụng, qua đó cũng biết được ưu và nhược điểm của chiếc xe để tiện lợi
cho việc vận hành, chăm sóc bảo dưỡng sau này. Nếu bắt buộc phải mua một
chiếc xe lạ, người tiêu dùng nên lưu ý một số điểm sau:

Kinh nghiệm chọn mua xe máy cũ

- Tổng thể chiếc xe: Để đánh giá chính xác tổng thể một chiếc xe đã qua
sử dụng, cách chính xác nhất là chiếc xe phải được rửa sạch sẽ và quan sát
dưới ánh sáng ban ngày. Theo kinh nghiệm chọn xe cũ, một chiếc xe còn tốt
là phải “đều xe”, nghĩa là tất cả các chi tiết, phụ tùng trên xe có độ mới/cũ
đồng đều nhau. Một chiếc xe vận hành bình thường, ổn định không thể có
những chi tiết quá mới hoặc quá cũ so với tổng thể chiếc xe.

- Giấy tờ: Cần kiểm tra đăng ký của xe và


đối chiếu với biển kiểm soát. Kiểm tra rõ
ràng số khung, số máy, đây là công đoạn
mà rất nhiều người mua xe ngại làm bởi
những hàng số này dài và đôi khi nằm ở
những khu vực rất khó nhìn. Chỉ một
nhầm lẫn nhỏ trên giấy tờ với những con
số cũng đã đủ đem lại rất nhiều điều
phiền toái cho người sử dụng.

- Sơn xe: Quan sát màu sắc của sơn ở Kiểm tra rõ ràng số máy, số
những chỗ khuất rồi so sánh với những khung
nơi khác, nhìn theo chiều nghiêng của thân xe để có thể dễ dàng nhìn thấy
những khu đã vực được “tút” lại bởi màu sơn và độ bóng sẽ không đều nhau.
Nước sơn “gin”, được sản xuất trên dây chuyền công nghiệp thường không
thể bị bong tróc, theo thời gian sử dụng, bề mặt sơn chỉ mòn dần đi.

- Động cơ: Động cơ là phần quan trọng nhất của chiếc xe và cũng là nơi khó
kiểm tra nhất, động cơ xe còn tốt sẽ có những đặc điểm sau:
+ Bề mặt, hình dạng những con ốc trên động cơ không móp méo hay trầy
xước.
+ Dễ khởi động, tiếng nổ chậm, đều (khi để garanti) và ổn định. Bất cứ một
trục trặc nào của các bộ phận trong động cơ (ly hợp, xích cam, xúp-páp, tay
biên…) đều có những tiếng động khác lạ đặc trưng khi động cơ vận hành.
+ Vặn hết ga mà không thấy khói ở ống xả
+ Sang số nhẹ nhàng (xe số). Động cơ hoạt động ngay khi kéo ga (xe ga).
+ Kiểm tra dầu bôi trơn sau khi động cơ làm việc (không được quá ít so với
quy định, không được có ánh kim loại trong dầu)

- Điện, ắc quy: Nên yêu cầu người bán


tháo cốp, mở yên để kiểm tra kỹ hệ
thống điện, ắc quy, IC, đi-ốt nạp. Một
chiếc ắc-qui còn tốt thể hiện ở việc khởi
động xe dễ dàng, đèn xi-nhan/còi hoạt
động ổn định khi xe không nổ máy.

- Giảm xóc: Để kiểm tra giảm xóc trước


cần bóp chặt phanh trước rồi nhún mạnh
nếu thấy tiếng kêu lục cục là giảm xóc
đã kém hoặc bị chảy dầu, giảm xóc trước Nước sơn tốt không thể bị bong,
còn tốt có độ nhún sâu và êm ái, bề mặt tróc như thế này
ống nhún bóng sáng không có tỳ vết hay
vệt dầu loang. Với giảm xóc sau, có thể kiểm tra bằng cách tải nặng (2 - 3
người) nếu không có tiếng kêu lạ, xe cân bằng, êm ái chứng tỏ chất lượng
còn tốt.

- Cảm giác khi lái: Một chiếc xe tốt phải tạo cảm giác an toàn, êm ái khi
vận hành. Máy xe hoạt động ổn định khi tải nặng, xe đi qua chỗ xóc không có
tiếng kêu lạ. Nên kiểm tra hệ thống lái tại những đoạn đường thật phẳng để
đánh giá độ cân bằng của xe. Những chiếc xe đã từng bị đâm mạnh hay có
lỗi kỹ thuật sẽ không thể có độ cân chuẩn của xe.

Tìm mua một chiếc xe cũ còn tốt và giá cả hợp lý là việc làm rất khó. Nhưng
nếu biết được chính xác chất lượng của chiếc xe, từ đó ta có thể định giá xe
một cách chuẩn nhất.
Mô-tô, xe máy có cấu tạo như thế nào?

Sự phát triển của mô-tô 2 bánh

Năm 1885, lịch sử thế giới ghi nhận


chiếc mô-tô đầu tiên ra đời do Gotthieb
Daimler (1834 - 1900 ) sáng chế, thời
gian đầu xe mô-tô 2 bánh phát triển
chậm do điều khiển khó khăn và tốc độ
quá chậm. Đến thế kỷ XX mô-tô 2 bánh
mới được sử dụng rộng rãi ở châu Âu.

Thời kỳ đầu, động cơ của xe được đặt


hình ảnh của chiếc mô-tô đầu tiên
ngay trục bánh xe, xe không có giảm
(1885)
xóc. Dần dần, sau nhiều cải tiến, động
cơ được đưa vào giữa khung xe để đảm bảo cân bằng. Các bộ phận khác như
khung, li hợp (côn), hộp số, phanh, giảm xóc cũng phát triển và hoàn thiện
để xe dễ điều khiển và có tốc độ tối ưu.

Phân loại mô-tô, xe máy: Mô-tô, xe máy được phân loại chủ yếu dựa vào
động cơ:

- Nguyên lý hoạt động: 2 kỳ hoặc 4 kỳ.

- Kết cấu và cách lắp đặt động cơ:


+ Động cơ đặt đứng
+ Động cơ đặt ngang
+ Động cơ hình chữ V

- Dung tích xi-lanh: Có nhiều loại với dung


tích xi-lanh thông thường từ 50 – 1500 cm3

Ngoài ra, mô-tô/xe máy còn được phân loại


theo năm sản xuất, hệ thống đánh lửa, xe
nam/nữ/tay ga hay các xe chuyên dùng
như: thể thao, việt dã, địa hình...

Cấu tạo cơ bản của mô-tô/xe máy Động cơ hình chữ V

- Động cơ: Là bộ máy gồm nhiều chi tiết, liên quan mật thiết với nhau. Đây
là nơi đốt cháy nhiên liệu, nhiệt năng biến thành cơ năng và sinh ra động lực
truyền sang hệ thống truyền động làm cho xe chạy. Động cơ gồm có các hệ
thống chính:

+ Hệ thống trục khuỷu, thanh truyền


+ Hệ thống nhiên liệu
+ Hệ thống đánh lửa
+ Hệ thống bôi trơn, làm mát
+ Hệ thống phân phối khí

- Hệ thống điện: Tùy theo loại xe hệ


thống điện có thể là hệ thống đánh lửa
điện từ hay hệ thống đánh lửa bán
dẫn. Hệ thống điện trên mô-tô/xe máy
có nhiệm vụ sau:

+ Tạo tia lửa điện cao áp vào đúng


thời điểm nhất định để đốt cháy hỗn
hợp nhiên liệu trong xi-lanh động cơ.
+ Cung cấp điện năng có điện áp ổn
định cho hệ thống đèn, còi tín hiệu. Hệ thống đánh lửa bán dẫn
+ Khởi động động cơ (đề)
+ Theo dõi mức nhiên liệu ở bình chứa

- Hệ thống truyền động: Có nhiệm vụ truyền chuyển động từ động cơ đến


bánh xe chủ động, thay đổi mô-men cho phù hợp với tải trọng và hệ thống
đường sá. Hệ thống này gồm: Bộ li hợp, hộp số, nhông trước, nhông sau và
xích. Ở một số loại xe dùng trục các-đăng hoặc dây cu-roa (Vespa) để truyền
động.

- Hệ thống chuyển động: Có tác dụng


biến chuyển động quay của hệ truyền động
thành chuyển động tịnh tiến của xe, nó còn
có tác dụng làm cho xe chuyển động êm
hơn trên mặt đường không bằng phẳng. Hệ
thống này gồm: bánh trước, bánh sau và
giảm xóc.

- Hệ thống điều khiển: Hệ thống này có


tác dụng thay đổi hướng chuyển động của
xe, cho xe chạy chậm hay dừng hẳn. Hệ
thống này gồm tay lái, các cần điều khiển và
hệ thống phanh.
Giảm xóc
- Hệ thống chiếu sáng và tín hiệu: Hệ thống này có tác dụng chiếu sáng,
tạo tín hiệu còi hay đèn khi phanh xe, khi quay xe để đảm bảo an toàn giao
thông cho người sử dụng. Hệ thống này gồm: các đèn pha, cốt, đèn phanh,
đèn xi-nhan, các đèn báo số và còi.

Ngoài những hệ thống trên, mô-tô/xe máy còn có những bộ phận khác như
ống xả để giảm tiếng ồn, cần khởi động, bàn đạp phanh, tay phanh, cần số,
yên xe...

You might also like