Professional Documents
Culture Documents
Chiếc 1910 24HP do Giuseppe Merosi thiết kế là chiếc xe đầu tiên không còn
mang nhãn hiệu Darracq. Sau đó Merosi cũng tiếp tục thiết kế nhiều mẫu xe
ALFA mới được trang bị động cơ mạnh mẽ hơn (40-60hp). ALFA cũng tham
gia vào các giải đua xe quốc tế tuy nhiên do ảnh hưởng của chiến tranh thế
giới thứ nhất, ALFA đã phải ngưng sản xuất xe trong 3 năm.
Năm 1920, ALFA đổi tên thành Alfa Romeo và mẫu xe đầu tiên ra mắt là
chiếc Torpedo 20-30HP. Giuseppe Merosi vẫn là nhà thiết kế chính cho Alfa
Romeo và công ty vẫn tiếp tục cho ra đời những mẫu xe hơi dân dụng và xe
đua danh tiếng (trong đó có cả chiếc 40-60HP và RL Targa Florio).
Tuy nhiên, đầu những năm 1970, Alfa lại một lần nữa gặp khó khăn về tài
chính. Chính phủ Italia buộc phải bán Alfa Romeo cho Fiat, tập đoàn Alfa
Lancia Spa ra đời, mở đầu cho kỷ nguyên của Alfa và Lancia. Cho đến nay,
Alfa Romeo vẫn thuộc sở hữu của Fiat.
Audi AG ra đời như thế nào?
Hiếm nhà sản xuất xe hơi nào lại có lịch sử phát triển hào hùng hay
sở hữu một bộ sưu tập những chiếc xe danh tiếng thế giới như Audi.
Không chỉ đi đầu trong lĩnh vực nghiên cứu, phát triển công nghệ
mới cho xe hơi, Audi còn xứng đáng là "bá chủ" trên các đường đua
đường trường.
Năm 1933, Horch giới thiệu hàng loạt động cơ V8 với dung tích xi lanh 3,0L,
3,5L và 3,8L (công suất cực đại 70-92hp). Năm 1935, Horch giới thiệu chiếc
xe thể thao mui xếp Type 853 sử dụng động cơ I8. Năm 1937, Horch chiếm
tới hơn 50% thị phần xe trên 4.0L.
Từ trước khi sát nhập với Audi, Horch và
DKW thành Auto Union AG, Wanderer đã
sử dụng động cơ OHC do Giáo sư
Porsche thiết kế. Wanderer lần lượt giới
thiệu model W21 và W22 (1933), W40,
W45 và W50 (1935). Động cơ Horch V8
dần được thay thế bằng động cơ I6. Auto
Union ngày càng đạt được nhiều tiến bộ
vượt bậc trong việc phát triển hộp số tự
động và tìm kiếm vật liệu mới để sản
Thiết kế tinh tế
xuất thân xe.
Hơn nữa, nhận thấy việc sản xuất khung gầm bằng gỗ và nội thất bọc da quá
tốn kém, Auto Union AG hợp tác với Dynamit AG (Troisdorf) để nghiên cứu,
phát triển thân xe bằng plastic. Lần đầu tiên trong lịch sử ngành công nghiệp
ô tô Đức người ta đã tiến hành một chương trình kiểm tra độ cứng của gỗ,
thép tấm và plastic.
Auto Union AG mở rộng khá nhanh trong giai đoạn 1933-1939 với doanh thu
tăng từ 65 triệu lên 276 triệu (Reichsmark) và 23,000 nhân công. Sản lượng
hàng năm của Auto Union cũng tăng vọt: Xe máy từ 12,000 xe/năm lên
59.000 xe/năm và ô tô từ 17.000 xe/năm lên 67.000xe/năm. So với năm
1932 (năm thành lập Auto Union), năm 1938, sản lượng của Horch tăng gấp
đôi, Wanderer tăng gấp 5 lần còn DKW tăng tới 10 lần.
Sự chuyển giao quyền sở hữu Auto Union đặt dấu chấm hết cho kỷ nguyên
động cơ hai kỳ. Gần 30.000 chiếc ô tô mang nhãn hiệu DKW bị tiêu huỷ. Nhà
máy của Auto Union được dùng làm nơi lắp ráp VW Beetle. Cuối năm 1965,
Auto Union phục hồi đôi chút nhờ có sự ra đời của những chiếc xe Audi bốn
kỳ mới. Ngày 10/03/1969, Auto Union GmbH sát nhập với NSU Motorenwerke
AG, và ngày 01/01/1969đổi tên là Audi NSU Union AG. Sản lượng của cả NSU
và Audi tăng đều đặn đến cuối 1973 nhưng đến năm 1974, do ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng dầu mỏ, sản lượng của Audi NSU Union AG giảm mạnh, từ
400.000 xe (1973) xuống
còn 330.000 xe (1974).
Ngày 01/01/1985, Audi NSU Union AG được đổi tên thành AUDI AG. Trụ sở
của công ty đồng thời cũng được chuyển về Ingolstadt. Cũng trong năm
1985, lần đầu tiên công ty dạt tổng vốn đầu tư lên tới 1 tỉ DM. Mùa thu năm
1986, Audi giới thiệu Audi 80 mới với thân xe mạ kẽm. Đến năm 1986, khi
Audi 80 trở nên lạc hậu, Audi cho ra mắt chiếc Audi 89 và mẫu xe này nhanh
chóng được ưa chuộng rộng rãi. Năm 1987, Audi giới thiệu Audi 90 mới và
trang nhã với hàng loạt những tính năng mới.
Năm 1988, Audi tung ra thị trường chiếc xe hạng sang đầu tiên, chiếc Audi V8
trang bị động cơ V8 3,6L - 4 van. Năm 1992, chiếc xe Audi 80 TDI du hành
một vòng quanh thế giới, vượt qua quãng đường 40.273km với vận tốc trung
bình 85,8km/h và mức tiêu hao nhiên liệu 3,78L/100km (74,7mpg). Năm
1991, Audi đạt mức doanh thu kỷ lục 14,8 tỉ DM. Sự ra đời của Audi A4 đã
đem lại thành công rực rỡ cho Audi: Năm 1995, 120.000 chiếc Audi A4 được
tiêu thụ ở Đức.
Cuối năm 1995, danh tiếng của Audi
càng được củng cố hơn khi hai chiếc
concept TT Coupé và TT Roadster ra đời.
Tiếp đó, Audi giới thiệu chiếc compact 2
cửa Audi A3 (1996) và Audi A6 (1997).
Mặc dù không thông dụng như xe của Mercedes-Benz hay BMW, nhưng ô tô
của Audi vẫn luôn là biểu tượng của công nghệ cao và thiết kế tinh tế.
Thương hiệu Toyota ra đời như thế nào?
Quay ngược thời gian trở về với năm 1936, để chón chào sự kiện chiếc xe du
lịch đầu tiên ra đời, Toyoda Automatic Loom Works Ltd. đã tổ chức một cuộc
thi thiết kế biểu trưng nhằm quảng bá hình ảnh của công ty. Yêu cầu đặt ra
đối với biểu trưng này đó là phải khơi gợi cảm giác hưng phấn giống như
đang ngồi trên một chiếc xe chạy với vận tốc cao. 27.000 thí sinh đã hưởng
ứng cuộc thi này.
Năm 1989, nhằm tạo ra một hình ảnh và một thông điệp nhất quán về
thương hiệu Toyota, và cũng để tách biệt Toyota khỏi thương hiệu xe hơi
hạng sang Lexus, Toyota đã thiết kế mẫu logo mới – chính là logo hiện nay
của Toyota.
Không chỉ có vậy, ngày nay, khi thương hiệu Toyota đã trở nên nổi tiếng toàn
thế giới và là lựa chọn hàng đầu của người tiêu dùng, 3 hình elíp này còn
biểu hiện những đặc tính rất riêng của Toyota. Đó là chất lượng, sự tin cậy và
tinh thần không ngừng đổi mới.
BMW có lịch sử phát triển như thế nào?
Tòa nhà "tổng hành dinh" của BMW được xây dựng mô
phỏng theo hình dáng của bốn chiếc xi-lanh
Trước Thế chiến II
BMW được Karl Friedrich Rapp thành lập vào tháng 10/1913. Ban đầu, thực
chất đây là một nhà máy sản xuất động cơ máy bay (Bayerische Flugzeug-
Werke) có trụ sở tại Milbertshofen, Munich. Do gặp khó khăn về tài chính,
Rapp phải cầu viện trợ giúp từ Camillo Castiglioni và Max Friz và công ty được
cơ cấu lại thành Bayerische Motoren Werke GmbH (BMW GmbH).
Sau Thế chiến II, BMW bị quân Đồng Minh cấm mọi hoạt động sản xuất cho
đến tận năm 1952. Ở miền Đông, nhà máy của BMW ở Eisenach chịu sự quản
lý của Tập đoàn Awtowelo, một doanh nghiệp quốc doanh. Kể từ đó, các xe
của BMW mang thương hiệu EMW đến tận năm 1955. Ở miền Đông, nhà sản
xuất máy bay Bristol BAC quản lý các nhà máy của BMW, sau đó đem các
mẫu 326, 327 và 328 về Anh dưới danh nghĩa bồi thường thiệt hại chiến
tranh.
Năm 1952, lần đầu tiên sau Chiến tranh thế giới thứ 2 BMW tái sản xuất xe
du lịch song mẫu xe này đã không thể len chân vào thị trường xe hạng nhất.
Năm 1959, BMW dự định sát nhập với Daimler-Benz song Chủ tịch Hội đồng
Quản trị của BMW - Kurt Golda đã thuyết phục được cổ đông lớn nhất
Herbert Quandt thay đổi quyết định.
Hiện nay là thương hiệu xe hơi của DaimlerChrysler nhưng ban đầu, "jeep"
được dùng để chỉ chiếc Bantam BRC - một chiếc xe quân sự. Mẫu xe này
cũng được Willys-Overland và Ford Motor Company tham gia sản xuất trong
thời kỳ Chiến tranh Thế giới lần thứ II. Ngoài ra, người ta còn dùng từ "jeep"
để chỉ dòng xe SUV - xe thể thao đa dụng.
Cả 3 mẫu xe này (mỗi mẫu 1500 chiếc) đã được đem đi thử nghiệm, cuối
cùng Willys, do trả thầu thấp nhất, đã trúng thầu hợp đồng chế tạo xe jeep
đầu tiên. Công ty này đã
Xe jeep nhanh chóng được nhân bản trên hầu khắp thế giới, với nhiều phiên
bản khác nhau. Mẫu xe này thậm chí còn phục vụ Hồng quân Liên Xô trong
suốt Chiến tranh Thế giới lần thứ 2)
Jeep quân sự
Bantam phát triển mẫu thiết kế thử nghiệm thành model BRC-40 - đây là một
chiếc xe nhẹ, dễ điều khiển. Trái ngược hẳn với BRC-40 là mẫu MA - chắc
chắn và mạnh mẽ. Đây chính là dòng xe đã phục vụ Hồng quân Liên Xô.
Trong khi đó, model MB (1942-1945) lại giành được sự tín nhiệm tuyệt đối từ
phía quân đội Hoa Kỳ. "Người hùng" của cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ 2
đã thay đổi hoàn toàn cách nhìn của người Mỹ về xe hơi. Cái tên Jeep cũng ra
đời trong thời điểm lịch sử này.
M422 là mẫu xe AMC chế tạo dành riêng cho lính thuỷ đánh bộ Hoa Kỳ - đây
là mẫu xe sử dụng động cơ V4 làm mát bằng không khí. Một chiếc Jeep khá
quen thuộc nữa chính là dòng xe Humvee hiện nay được quân đội Hoa Kỳ hết
sức ưa chuộng - HMMWW (Highly Mobile Multi-Purpose Wheeled Vehicle).
Từ thành công của dòng MB, Willys đã phát triển những chiếc xe jeep dân sự
(civillian jeep). Hầu hết các dòng xe jeep dân sự được sản xuất với số lượng
rất hạn chế (vài chục chiếc), ngoại trừ mẫu CJ-5 với hơn 600.000 chiếc được
sản xuất liên tục trong gần 30 năm. Willys cũng phát triển chiếc DJ
(Dispatcher Jeep) thành những chiếc jeep mui cứng. Sau này, vào khoảng
giữa thập niên 80, AMC lại tung ra thị trường mẫu Jeep Wrangler (doanh số
khoảng 623.000 chiếc).
Jeep dân sự
Biểu tượng Ford ra đời từ bao giờ?
Suốt hơn 100 năm lịch sử nghiên cứu, chế tạo và phát triển xe hơi,
Ford đã không ít lần thay đổi mẫu mã biểu
trưng của mình.
Bằng việc kết hợp chữ Ford cách điệu với kiểu dáng hình ô-van, năm 1911,
Ford đưa ra logo và sử dụng thống nhất tại các đại lý ở Anh. Tuy nhiên, trên
các sản phẩm và trong các giao dịch thương mại, Ford vẫn dùng logo đầu
tiên cho đến tận thập niên 1920.
Đã có thời gian Ford thay thế hoàn toàn logo hình ô-van bằng logo cánh chim
hình tam giác trên các sản phẩm của mình. Logo này được thiết kế tượng
trưng cho tốc độ, sự nhẹ nhàng, sự duyên dáng và ổn định. Logo có hai màu,
vàng và xanh sậm, trên đó mang dòng chữ “Universal Car”. Henry Ford không
thích biểu tượng này, chính vì vậy chẳng bao lâu sau người ta không còn thấy
nó trên các sản phẩm của Ford.
Model A 1927 là mẫu xe đầu
tiên có gắn logo hình oval
trên lưới tản nhiệt. Với nền
màu xanh hoàng gia thẫm
tương tự với logo ngày nay
của Ford, logo này được sử
dụng trong hầu hết các mẫu
xe Ford cho đến cuối thập
niên 1950. Mặc dù logo hình
ô-van vẫn được sử dụng
thống nhất trong toàn bộ
các giao dịch thương mại,
nhưng mãi đến giữa thập niên 1970, người ta mới lại thấy biểu trưng hình ô-
van này xuất hiện trở lại trên các xe Ford.
Năm 1976, logo Ford hình ô-van với hai gam màu xanh và bạc trở thành dấu
hiệu chứng nhận thương hiệu của Ford Motor Company, nhằm thể hiện một
hình ảnh nhất quán về công ty, các nhà máy, cơ sở vật chất cũng như các
mẫu xe và tất cả những tài sản thuộc Ford Motor Company.
Ngày 17/06/2003, kỷ niệm 100 năm thành lập, Ford Motor Company đã đưa
ra một phiên bản mới của logo hình ô-van có đôi chút thay đổi, nhưng không
nhiều và không dễ nhận thấy. Logo hoàn toàn mới này có tên là "Logo Kỷ
niệm 100 năm ngày thành lập" (Ford Centennial Logo).
Sứ mệnh trường tồn của Ford: sản phẩm tuyệt vời, công ty
hùng mạnh và vì một thế giới tươi đẹp hơn.
Biểu tượng của Audi có ý nghĩa như thế nào?
Năm 1932, Auto Union quyết định chọn biểu tượng 4 hình tròn xếp lồng vào
nhau, tượng trưng cho 4 công ty tiền thân của tập đoàn sản xuất xe hơi này.
Tất cả các hình tròn có kích thước hoàn toàn bằng nhau, nằm bình đẳng trên
một đường ngang, lồng vào nhau, thể hiện sự đoàn kết và tôn trọng lẫn
nhau.
Horch
Audi
Sau khi rời khỏi Horch & Cie., Horch thành lập một công ty ô tô khác và vẫn
tiếp tục sử dụng nhãn hiệu Horch. Horch & Cie. đã kiện ông vì vi phạm bản
quyền thương hiệu. Do đó, Horch phải tìm thương hiệu mới cho công ty của
mình. Theo tiếng Đức cổ, từ "horch" có nghĩa là "lắng nghe", và Horch đã sử
dụng một từ Latin đồng nghĩa với từ "horch", đó là từ "audi", để đặt tên cho
những chiếc ô tô của ông. Tuy nhiên, rất nhiều người lại cho rằng Audi là từ
viết tắt của "Auto Union Deutschland Ingolstadt" (Ingolstadt Auto
Corporation, Germany).
Chiếc xe mang nhãn hiệu Audi lần đầu tiên xuất hiện trên thị trường năm
1910. Sau Thế chiến I, Audi mở đầu trang sử mới cho ngành công nghiệp ô
tô thế giới: Lần đầu tiên ở xe thương mại vô lăng được đặt bên trái và cần số
được đặt ở giữa xe, giúp cho việc lái xe trở nên dễ dàng hơn rất nhiều. Audi
bắt đầu sản xuất ô tô sử dụng động cơ 2612cc, và sau đó là động cơ 4 xi
lanh 3564 cc, 4680 cc và 5720 cc.
Năm 1923, Audi ra mắt mẫu xe đầu tiên sử dụng động cơ 6 xilanh 4655 cc.
Bên cạnh đó Audi cũng thiết kế và sản xuất hệ thống phanh hơi. Năm 1927,
lần đầu tiên động cơ 8 xilanh của Audi (còn được gọi là Imperator - Kẻ thống
trị) xuất hiện trên thị trường. Tuy nhiên, vào thời điểm này phân khúc xe
hạng sang trên toàn thế giới tụt dốc nghiêm trọng. Từ năm 1928 Audi thuộc
sở hữu của Jörgen Skafte Rasmussen, chủ sở hữu tập đoàn DKW.
DKW
Vào những năm 1920, DKW trở thành nhà sản xuất xe máy và động cơ lớn
nhất trên thế giới. Năm 1929, động cơ 8 xy lanh được sử dụng trong mẫu
Audi Zwickau và Audi Dresden. Cũng vào năm đó, những mẫu xe sử dụng
động cơ 4 xi lanh (theo bản quyền của Peugoet) và 6 xi lanh cũng được giới
thiệu.
Wanderer
Ảnh audi.com
Ôtô ra đời như thế nào?
Không phải là phát minh trong ngày một ngày hai, cũng không phải của một
nhà phát minh nào đó, lịch sử của xe hơi là một cuộc cách mạng trên toàn
cầu. Theo ước tính thì có khoảng 100 nghìn bằng sáng chế đã được cấp cho
những người phát minh ra những chiếc ôtô hiện đại ngày nay. Tuy nhiên,
chúng ta hãy ngược dòng thời gian để tìm hiểu về chiếc ôtô từ những ngày sơ
khai nhất.
Năm 1771, Cugnot là người đầu tiên trên thế giới gặp tai nạn khi lái xe ôtô.
Chiếc xe đã đâm vào một bức tường đá trên đường di chuyển. Tiếp đó là một
loạt những điều không may xảy ra với nhà phát minh này: một trong những
nhà tài trợ của Cugnot đã qua đời trong khi những người khác thì bị lưu vong
nước ngoài do những biến động chính trị. Điều này đã khiến cho công việc
của Cugnot phải dừng lại do không còn tiền để trang trải cho mọi chi phí.
Sau Cugnot cũng đã có nhiều người tiếp tục sáng chế và cải tiến xe hơi nước
và nó đã trở thành một phương tiện di chuyển phổ biến ở nhiều nước trong
những năm sau đó.
Trở lại với những chiếc xe chạy bằng động cơ dầu. Năm 1885, kĩ sư cơ khí
người Đức Karl Benz đã thiết kế và cho ra đời chiếc xe ôtô chạy bằng động cơ
đốt trong đầu tiên trên thế giới. Ban đầu nó được thiết kế với ba bánh, nhưng
đến năm 1891, Benz đã cải tiến và biến nó trở thành chiếc xe ô-tô bốn bánh.
FIAT (Fabbrica Italiana Automobili Torino) được thành lập ngày 11/07/1899)
tại Turin, Italy. Người đứng đầu tập đoàn này là Giovanni Agnelli, người sáng
lập và đồng thời là Chủ tịch kiêm Giám đốc Điều hành đầu tiên của Fiat. Năm
1900 đánh dấu sự ra đời của nhà máy Fiat đầu tiên tại Carso Dante với 150
nhân công. Bốn năm sau, năm 1904, cả thế giới được biết đến logo hình ovan
màu xanh của Fiat.
Chỉ một vài năm sau đó, Fiat bắt tay vào việc
cải tổ công nghệ. Chính những nỗ lực này của
Fiat khiến nó trở thành một trong những nhà
sản xuất xe hơi đáng gờm nhất, đồng thời
những chiếc xe của Fiat luôn dẫn đầu trong
việc phá các kỷ lục của ngành công nghiệp xe
hơi, không chỉ trong lĩnh vực công nghệ mà còn
cả trên các đường đua.
Những biểu tượng đầu tiên
Năm 1916, Fiat khởi công xây dựng xưởng chế của tập đoàn Fiat
tạo xe hơi mang tên Lingotto. Việc xây dựng và trang bị diễn ra suốt 6 năm
trời. Nhà máy cao 5 tầng này không chỉ là xưởng sản xuất xe hơi lớn nhất
châu Âu mà còn nhanh chóng trở thành biểu tượng của ngành công nghiệp
xe hơi Italy. Cũng trong thời gian này, Fiat bắt tay vào những lĩnh vực mới –
xe động cơ điện, xe thương mại, xe lửa và thậm chí là thép. Công ty tiếp tục
vươn tới thị trường Liên Xô.
Trong thời kỳ Chiến tranh Thế giới thứ 1, sản
xuất của Fiat chủ yếu phục vụ mục đích quân
sự. Fiat lâm vào khủng hoảng trầm trọng khi
chiến tranh kết thúc nhưng nhà sản xuất xe hơi
này nhanh chóng phục hồi và lấy lại được vị thế
của mình – Đó là nhờ chính sách cắt giảm chi
phí sản xuất được phát động năm 1923, khi đó
Giovanni Agnelli đã được đề bạt là Tổng Giám
đốc Điều hành của Fiat. Fiat quyết định tiến một
bước xa hơn: sản xuất xe hơi trên quy mô lớn
để cắt giảm chi phí tối da, nhờ đó hạ giá thành
sản phẩm. Thời gian này Fiat còn được biết đến
với những chương trình chăm sóc sức khỏe, câu
lạc bộ thể thao và các trường kỹ thuật.
Giovanni Agnelli, ông tổ của
Dưới chính sách của nhà cầm quyền Mussolini, tập đoàn Fiat
Fiat buộc phải thu hẹp quy mô hoạt động của
mình và nhắm vào thị trường nội địa. Công nghệ sử dụng trên những mẫu xe
thương mại và xe tải nhanh chóng được cải tiến và thay đổi để đáp ứng nhu
cầu của người tiêu dùng trong nước.
Chiến tranh Thế giới thứ 2 ảnh hưởng không nhỏ tới cơ cấu và quy mô sản
xuất của Fiat. Nhiều nhà máy, xưởng sản xuất bị phá hủy. Năm 1945,
Giovanni Agnelli qua đời. Người lên nắm quyền thay ông là Vittorio Valletta đã
đề ra kế hoạch tái thiết vào năm 1948. Năm 1958, Fiat đầu tư vào cả hai lĩnh
vực: xe hơi và máy nông nghiệp. Trong thời gian này, Italy trở thành trung
tâm phát triển kinh tế hàng đầu châu Âu và chính ngành công nghiệp xe hơi
nước nhà là nguồn động lực thiết yếu dẫn đến sự phát triển vượt bậc về kinh
tế đó.
Năm 1978, Fiat giới thiệu hệ thống lắp ráp tự động sử dụng hệ thống robot
(Robogate). Năm 1979, bộ phân chế tạo xe hơi được tách ra thành một công
ty độc lập có tên là Fiat Auto S.P.A, với quyền sở hữu các thương hiệu Fiat,
Lancia, Autobianchi, Abarth, Ferrari. Ban đầu, Fiat chỉ sở hữu 50% cổ phần
của Ferrari, nhưng sau đó, con số này nhanh chóng tăng lên thành 87%.
Năm 1984, Fiat tiếp quản Alfa Romeo và đến năm 1993 là thương hiệu
Maserati danh tiếng.
Kể từ năm 2000 đến nay, Fiat hầu như không trải qua nhiều thay đổi đáng
kể, ngoài những mẫu xe mới vẫn lần lượt ra mắt người tiêu dùng và một mục
tiêu nhất quán – sự đổi mới và công nghệ vượt trội để vững bước trong thế
kỷ 21.
Acura ra đời như thế nào?
Cho dù đã khẳng định được vị thế của mình trên đất Mỹ, Honda vẫn quyết
định tạo ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử phát triển của mình khi thành
lập nhãn hiệu Acura cho riêng thị trường Bắc Mỹ. Vậy là từ tháng 3/1986,
Acura được Honda sử dụng như một nhãn hiệu độc lập cho các dòng xe hạng
sang ở Mỹ, Canada, Mexico và Hồng Kông, bao gồm xe đa dụng, xe gia đình
và xe thể thao.
Thành công tiếp nối thành công, Acura tiếp tục tấn công vào thị trường xe
thể thao đa dụng với mẫu xe huyền thoại MDX. Năm đầu tiên của thế kỷ 21
chứng kiến chiếc MDX giành danh hiệu Xe thể thao đa dụng uy tín nhất năm
2001 do tạp chí Motor Trend bình chọn.
Năm 2003, Acura khiến cho những vị khách hàng khó tính nhất cũng phải hài
lòng khi trang bị cho mẫu xe mới TL với những tiện nghi như Bluetooth và
đầu DVD. Ngay lập tức mẫu xe này trở thành chiếc xe hạng sang bán chạy
nhất Hoa Kỳ vào năm 2004.
Không tự mãn với những gì mình đạt được, sau tiện nghi và độ an toàn đó là
những cải tiến về sức mạnh của động cơ. Năm 2004, chiếc Acura RL 2005 trở
thành chiếc xe được mong đợi nhiều nhất với động cơ mạnh mẽ và hệ thống
dẫn động bốn bánh chủ động SH-AWD™ được coi là cuộc cách mạng về động
cơ ở Bắc Mỹ.
Trong 5 năm từ 2000 đến 2005, Acura xếp vị trí thứ 3 đến thứ 8 trong bảng
phân hạng mức độ hài lòng của khách hàng tại Mỹ. Năm 2005, doanh số toàn
cầu của Acura đạt 743.000 chiếc và 11 tháng đầu năm 2006 là 661.500.
Từ năm 2004-2006, chiếc TSX trong suốt 3 năm liền được bình chọn vào top
10 của Car and Driver. Acura RDX cũng không chịu kém phần khi giành được
danh hiệu "Xe An toàn nhất" do Viện An toàn giao thông Quốc gia Mỹ (IIHS)
bình chọn cho xe SUV hạng trung.
Acura RDX
Sau gần hai thập kỷ nghiên cứu và phát triển, sự ra đời của Acura là bằng
chứng cho sự nỗ lực không ngừng của Honda trong việc chinh phục những
thượng đế khó tính tại thị trường Bắc Mỹ. Acura không chỉ đơn thuần là
thương hiệu xe hơi độc lập của Honda, mà hơn thế nữa nó còn là thương hiệu
xe hơi hạng sang đầu tiên của Nhật Bản. Có thể nói, Acura là kẻ tiên phong
đặt những viên gạch đầu tiên, là kẻ dẫn đường cho những chiếc xe quốc tịch
Nhật Bản trong con đường xâm chiếm thị trường Bắc Mỹ. Theo chân Acura,
Lexus (Toyota) và Infiniti (Nissan) mới biết tìm đường sang Bắc Mỹ.
Khi tên tuổi của Acura đã được chứng nhận bởi những người Mỹ khó tính,
Honda quyết định đưa đứa con tài năng của mình sang chinh phục thị trường
Mexico (2004) và Trung Quốc (2006). Gần đây, Honda Motor cũng thông báo
sẽ bắt đầu bán các sản phẩm mang nhãn hiệu Acura tại quê hương vào năm
2008. Honda dự tính thiết lập 2.400 đại lý Acura trên toàn quốc và doanh số
khoảng 800.000 xe/năm. Hiện tại, các sản phẩm của Acura được bán ở Nhật
dưới tên khác như mẫu RL là Honda Legend, Acura TL là Inspire còn mẫu xe
thể thao đa dụng MDX là Accord.
Như vậy, không phải đơn giản mà Acura được vinh dự đứng trong hàng ngũ
những dòng xe hạng sang. Thành công đó, bên cạnh sự tiếp sức của công ty
mẹ thông qua những nền tảng ban đầu, phần lớn là nhờ có những nỗ lực của
bản thân. Giờ đây, Acura có thể tự hào khi được ngành công nghiệp xe hơi
toàn thế giới coi là một trong những thương hiệu chuyên sản xuất những
chiếc xe với thiết kế tinh tế đầy sức trẻ và sáng tạo, động cơ mạnh mẽ, và
được sản xuất hết sức tinh xảo.
Citroen ra đời như thế nào?
André Gustave Citroen sinh ngày 5/2/1878 tại Paris, cụ nội của André Gustave
Citroen vốn là người xứ Amsterdam (Hà Lan) chuyên sống bằng nghề buôn
bán hoa quả. Năm 1870, trong lần đi mở cửa hàng kinh doanh tại Warzava,
ông Levie Citroen đã quen và cưới bà Amalia, một phụ nữ người Balan. André
Gustave Citroen là con thứ ba của ông bà Levie Citroen. André Gustave
Citroen được gia đình cho nhập học tại trường Lyce’e Condorcet nổi tiếng chỉ
dành cho giới thượng lưu và giàu có. Chính tại ngôi trường này André
Gustave Citroen đã học cùng và làm quen với cậu bé Louis Renault cùng tuổi
và sau này trở thành đối thủ cạnh tranh lớn nhất của ông trong lĩnh vực xe
hơi.
Vốn là con nhà thợ kim hoàn, lại học bách khoa A.G.Citroen
nên André Gustave Citroen tỏ ra rất khéo tay và thông minh với lĩnh vực cơ
khí. André Gustave Citroen thấy rằng các bánh răng bằng gỗ tuy dễ làm
nhưng rất chóng hỏng.Vì vậy ông đã tìm tòi nghĩ cách sản xuất bánh răng
chuyên dụng từ kim loại và là người đầu tiên phát minh các loại bánh răng
kim loại chuyên dụng. Ngay lập tức ông đăng ký bản quyền sáng chế và bắt
đầu đi vào con đường sản xuất chế tạo hàng cơ khí.
Năm 1924, công ty cơ khí ôtô Mors được chuyển đổi thành công ty cổ phần
và André Gustave Citroen là người nắm giữ đa số cổ phần. Ông cũng là người
trực tiếp điều hành sản xuất và kinh doanh của công ty. Bắt đầu từ đây là
những năm hoàng kim của xe ôtô Citroen. Ông chủ André Gustave Citroen trở
thành nổi danh trong giới công nghiệp ôtô châu Âu và thế giới.
Chỉ trong vòng 10 năm, từ năm 1919 đến 1929, công ty xe hơi Citroen đã
phát triển với một tốc độ chóng mặt. Mặt bằng sản xuất và lắp ráp của công
ty đã tăng từ 198.000 m2 lên 850.000 m2. Số lượng nhân công tăng từ 4.000
lên hơn 32.000 người. Thay vì mỗi năm xuất xưởng vài nghìn xe thì 10 năm
sau, năng lực sản xuất của Citroen đã là 102.891 chiếc. Và điều kỳ diệu là
Citroen sản xuất xe nào là bán được ngay xe đó.
André Gustave Citroen quảng cáo nhiều nhưng không hẳn là nhằm vào một
loại xe, một sản phẩm cụ thể. Ông quảng bá thương hiệu Citroen. Những gì
mà các doanh nghiệp lớn ngày nay vẫn làm và gọi là quan hệ công chúng thì
André Gustave Citroen đã thực hiện cách đây gần 90 năm.
André Gustave Citroen đặc biệt năng động và sáng tạo với những ý tưởng
mới để quảng bá thương hiệu. Ngày nay trong nhiều nghiên cứu cũng như
sách giáo khoa về Marketing và thương hiệu, những gì mà André Gustave
Citroen đã làm luôn được coi là mẫu mực. Citroen là một trong rất ít doanh
nghiệp lúc đó có cả một bộ phận quảng cáo chuyên nghiệp. André Gustave
Citroen đã thuê Pierre Euge’ne Louys, một nhà báo, một chuyên gia thông tin
làm giám đốc quảng cáo cho mình.
André Gustave Citroen cũng tự tạo ra các sự kiện, đã tổ chức Triển lãm xe
Citroen năm 1931 trên khu đất rộng hơn 15.000 m2 giữa quảng trường Place
de l’ Europa.André Gustave Citroen rất chú ý chăm sóc hệ thống đại lý bán
hàng. Và ông có ý tưởng thường xuyên tổ chức các chuyến tham quan xưởng
sản xuất và xưởng lắp ráp xe Citroen dành cho đại lý và khách hàng ruột.
Cũng với cách nghĩ đó, André Gustave Citroen còn tổ chức những chuyến
thám hiểm châu Phi, những cuộc chinh phục sa mạc Sahara với hàng nghìn
cây số. Đương nhiên ông chỉ dùng xe ô tô Citroen để phục vụ cho các đoàn
đi.Ông đã táo bạo sử dụng cả tháp Eiffel kỳ vĩ để phục vụ cho mục đích
quảng cáo thương hiệu Citroen.
Vào một tối tháng 7 năm 1925 cả thành Paris đột nhiên sáng rực bởi ánh đèn
từ tháp Eiffel với dòng chữ Citroen khổng lồ cao tới 25 m. André Gustave
Citroen đã phải dùng tới gần 250.000 chiếc bóng đèn các màu, gần 600 km
dây điện các loại. Tổng diện tích được chiếu sáng là khoảng 1.200 m2.
Từ đó trở đi cho tới năm 1936, Citroen vẫn thường xuyên sử dụng đèn trang
trí tại tháp Eiffel để quảng cáo cho thương hiệu và các dòng xe mới ra của
hãng. Năm 1989, kỷ niệm tháp Eiffel tròn 100 tuổi, người dân Paris và khách
du lịch khắp mọi nơi trên thế giới lại có dịp xem lại hình ảnh thương hiệu
Citroen được quảng cáo bằng đèn theo mẫu cũ trước kia của Gustave Citroen,
người đã khai sinh ra nó.
Báo đốm Jaguar ra đời như thế nào?
Ngày 04/09/1922, tại một thị trấn phía nam bờ biển vùng Blackpool (Anh),
hai thanh niên trẻ tuổi nhưng rất say mê motor William Lyons và William
Walmsley đã thành lập nên Swallow Sidecar với tham vọng sản xuất
những chiếc xe 3 bánh (sidecar). Lúc đầu, Swallow Sidecar Company chỉ có
hai tầng gác tại Blackpool để làm trụ sở và xưởng. Toàn bộ công việc được
thực hiện bằng tay. Nhắc đến Jaguar không thể không nhắc đến Arthur
Whittaker, người đã giúp những chiếc xe đầu tiên của Swallow Sidecar đến
với khách hàng một cách nhanh chóng và ấn tượng nhất.
Đây cũng là điểm khởi đầu cho mối liên minh mới giữa Lyons và Bertie Henly,
người điều hành garage nổi tiếng nước Anh, Henlys. Với giá 175 bảng hay
185 bảng cho phiên bản mui cứng, Austin Seven Swallow luôn “cháy hàng”.
Không dừng lại ở đó, Lyons còn tiếp tục cho ra mắt mẫu xe có vỏ Swallow
gắn trên khung gầm lớn hơn, mang tên Morris Cowley. Ảnh hưởng của
Swallow ngày càng lớn khi Austin Seven Swallow Saloon trình làng năm 1928
và tiếp tục gặt hái thành công.
Năm 1933, tên của công ty một lần nữa lại được
đổi thành SS Cars Ltd dưới sự điều hành của
Giám đốc Lyons. Năm 1936, SS Cars hoàn toàn
thuộc sở hữu của Lyons.
Chiến tranh Thế giới thứ 2 nổ ra, SS Cars tập trung cho chiến tranh và quay
trở về sản xuất dòng xe sidecar. Khi chiến tranh kết thúc, Lyons quyết định
đổi tên SS Cars thành Jaguar Cars Ltd do tên viết tắt của hãng trùng với
tên gọi của lực lượng phát xít Đức.
Jaguar là tên gọi loài báo đốm nổi tiếng châu Mỹ, biểu tượng của sức mạnh
và quyền lực trong văn hóa các nước Nam Mỹ. Người dân ở đây tin rằng,
Jaguar là điểm nối giữa sự sống và cái chết. Jaguar sinh ra để bảo vệ các
hoàng đế. Dù Lyons không thực sự thích nhưng cuối cùng, cái tên "Jaguar"
vẫn được thông qua. Ngay sau khi ra mắt tại khách sạn Mayfair, London, SS
Jaguar nhận hàng loạt đơn đặt hàng bởi nó có giá chỉ bằng một phần tư
Bentley dù không hề thua kém về chất lượng. Thế nhưng, mãi 11 năm sau,
Lyons mới chính thức đưa biểu tượng chú báo đốm Bắc Mỹ đang vồ mồi lên
chiếc Jaguar Mark VIII 1956. Biểu tượng đó đã đi theo Jaguar 30 năm sau và
là hình mẫu để các kỹ sư thiết kế theo đúng vóc dáng mạnh mẽ, tràn trề
nhựa sống và hoang dã của loài vật được mệnh
danh là chúa tể rừng xanh.
Năm 1966, William Lyons giữ chức Giám đốc
Điều hành kiêm Chủ tịch và Tổng Giám đốc.
Ngày 11/07/1966, Jaguar Cars Ltd. tuyên bố
hợp nhất với British Motor Corporation Ltd. Chỉ 2
năm sau đó, sự sát nhập của Jaguar với Leylang
biến nhà sản xuất xe hơi này trở thành tập đoàn
sản xuất xe hơi lớn nhất nước Anh.
Năm 1972, Lyons nghỉ hưu, khiến cho cả một Báo đốm Jaguar
thời gian dài sau đó hãng gặp khá nhiều sóng gió với những chiến lược
không rõ ràng. Mãi đến tháng 04/1980, “vị cứu tinh” của Jaguar mới xuất
hiện, đó là John Egan – người được coi là đã hồi sinh Jaguar. Vị giám đốc 40
tuổi này thực sự đã đem lại hơi thở mới cho hãng sản xuất xe hơi Jaguar. Bởi
vậy, năm 1985, việc Jaguar ổn định và phát triển trở lại không hề khiến
ngành công nghiệp xe hơi ngạc nhiên.
Cuối năm 1989 đầu năm 1990, Ford mua lại Jaguar và đến năm 1999, hãng
trở thành một trong những nhãn hiệu xe độc lập của Ford Motors, giống như
Aston Martin và Volvo.
Trong suốt 84 năm lịch sử nghiên cứu và chế tạo, Jaguar đã cống hiến cho
ngành sản xuất xe hơi hàng loạt mẫu xe cũng như các sản phẩm khác nhau.
Đến nay, Jaguar vẫn luôn tự hào với triết lý chế tạo những chiếc xe đẹp nhất,
nhanh nhất trên cơ sở kết hợp giữa trí thông minh công nghệ với sự sang
trọng đương đại.
"Chiến binh" Ural ra đời như thế nào?
Ngay từ thời chiến tranh thế giới thứ nhất, quân đội các nước châu Âu đã
dùng đến môtô. Khi đó, môtô không phải chỉ là một phương tiện giao thông,
mà còn là một loại xe tác chiến. Trong thời gian giữa hai cuộc thế chiến, kỹ
thuật môtô quân sự được tiếp tục hoàn thiện ở Anh, Mỹ, Pháp. Thế nhưng,
vượt trội hơn cả trong lĩnh vực này là nước Đức. Đến năm 1939, trong trang
bị của quân đội Đế chế Đức đã có những chiếc môtô mạnh mẽ và chắc chắn
mang nhãn hiệu BMW, DKW, Zundapp. Môtô có tính năng chạy mọi địa hình
không tồi và trên thùng xe thường có đặt khẩu cối cá nhân hoặc súng trung
liên.
Đầu năm 1941, những chiếc xe môtô hạng nặng M-72 đã được trình ra với
các nhà quân sự, xe được chấm điểm “ưu” để đưa vào sản xuất hàng loạt
ngay lập tức tại một số công xưởng. Quân đội đã nhận được một phương tiện
giao thông mới, đa năng và khá bền chắc. Cũng như người anh em Đức của
nó, M-72 là phương án xe môtô thuyền, có thể trang bị súng cối cá nhân.
Tháng 10 năm 1941, khi thủ đô Nga nằm trong tình thế bị bao vây, xưởng
môtô Matxcơva được sơ tán về Ural, thành phố Irbit. Đơn sơ, thiếu thốn là
tình cảnh tại cơ sở thứ nhất chuyên sản xuất môtô hạng nặng của Liên xô.
Nhưng chỉ đến tháng 2 năm 1942, xưởng môtô Irbit đã cho đời ra loạt sản
phẩm đầu tiên. Tính chung, những năm chiến tranh, chỉ riêng từ Irbit đã cung
cấp cho quân đội 9800 chiếc xe. Ngoài ra, các môtô M-72 còn được sản xuất
tại Tiumen và thành phố Gorki (nay là Nijni Novgorod).
Người sáng lập Bugatti huyền thoại không phải ai khác chính là Ettore
Bugatti, sinh ngày 15 tháng 9 năm 1881 tại Milan, Ý, trong một gia đình
nghệ sĩ mà tên tuổi của người cha đã vượt qua những danh giới địa lý của
nước Ý, nhà điêu khắc Carlo Buggatti. Sau khi tốt nghiệp Trung học ông theo
học tại Viện hàn lâm Nghệ thuật (Milan), nhưng sức cuốn hút của nghệ thuật
cũng không giữ chân ông được bao lâu. Ông rời Viện Hàn Lâm để theo học
nghề tại xưởng sản xuất xe đạp Prinetti & Stucchi. Năm 17 tuổi ông đã chế
tạo những chiếc xe 3 bánh gắn động cơ, vào những năm cuối của thế kỷ 18
ông tham dự một giải đua xe với chiếc xe đầu tiên của ông.
Sau gần mười năm làm việc cho nhiều hãng sản xuất xe hơi, Ettore Bugatti
thành lập hãng riêng của mình tại Molsheim, gần Strasbourg vào năm 1909.
Ông đã thuyết phục được một ngân hàng cho vay tiền để chế tạo 10 chiếc xe
hơi và 5 động cơ máy bay.
Vào năm 1924, Bugatti giới thiệu mẫu xe đua Model 35 với động cơ 2 lít 8 xi
lanh và đây cũng là chiếc xe trang bị lazăng đúc đầu tiên . Với hơn 2000
chiến thắng chiếc Model 35 trở thành chiếc xe đua thành công nhất mọi thời
đại.
Trong giai đoạn Đai suy thoái, măy mắn thay, Bugatti giành được hợp đồng
xây dựng một loại tàu siêu tốc cho chính phủ Pháp, với những kinh nghiệm
tích luỹ lâu năm ông không những đã làm hài lòng chính phủ mà còn giúp
công ty của mình vượt qua cơn sóng gió.
Đến khi Thế chiến II kết thúc thì Bugatti lại lâm vào cảnh túng quẫn do không
còn khả năng khôi phục lại sản xuất nhà máy Molsheim và vào ngày 21 tháng
8 năm 1947, ông qua đời tại Quân Y viện Paris do nhiễm bệnh phổi.
Mặc dù chỉ có 7900 chiếc xe được sản xuất trong giai
đoạn Bugatti điều hành công ty, nhưng vẫn có rất
nhiều chiếc xe trong đó vẫn còn cho đến ngày nay-
một minh chứng cho tài năng cũng như cống hiến
của Bugatti cho lịch sử phát triển ô tô thế giới. Với
những đóng góp to lớn của mình cho ngành công
nghiệp xe hơi thế giới, Ettore Bugatti thật xứng đáng
nhận danh hiệu "Nghệ nhân Chế tạo Xe hơi" - Automobile Artist.
Thunderbird ra đời như thế nào?
Trong nửa thế kỷ tồn tại và phát triển, Thunderbird (T-bird) được coi như một
trong những chiếc xe biểu tượng cho ngành công nghiệp ôtô Mỹ. Nó cũng là
yếu tố giúp Ford Motor Company tạo dựng và duy trì danh tiếng hàng đầu tại
nước Mỹ.
Khoảng thời gian Thế chiến II diễn ra, không hề có một sự sáng tạo nào ở
các công ty ôtô. Đến cuối thập kỷ 40, nhu cầu về xe hơi bùng nổ và một
trong những dòng xe được ưa chuộng nhất chính là những chiếc ôtô thể thao.
Trở về từ châu Âu, những người lính Mỹ mang theo các mẫu xe thể thao
danh tiếng của Italy, Đức, Pháp và Anh. Cùng lúc đó, môn đua ôtô trở nên
phổ biến với các trường đua được xây mới, các cuộc đua được tổ chức khắp
nơi.
Thunderbird thực sự là câu trả lời mà Ford dành cho chiếc roadster Corvette
của Chevrolet. Nhưng trong khi chiếc Corvette chỉ trung thành với một kiểu
dáng duy nhất thì Thunderbird đã xuất hiện với rất nhiều phiên bản khác
nhau, từ những chiếc coupe hardtop (hardtop là thuật ngữ chỉ xe mui cứng
không có thanh chống ở giữa) và xe 4 cửa. Dễ hiểu vì sao Thunderbird lại
được yêu thích. Nó kết hợp được những phẩm chất của một chiếc xe thể thao
sang trọng với những đặc điểm mà người Mỹ rất chuộng. Chỉ có hai chỗ ngồi
nhưng T-bird năm 1972 là chiếc xe đầu tiên dài tới hơn 5 m, trong khi mẫu
Thunderbird 2005 cũng có chiều dài hơn 4,7 m. Trong bất cứ giai đoạn nào,
Thunderbird cũng luôn được trang bị những tiện nghi hàng đầu và động cơ
mạnh mẽ nhất, ngay cả vào thời kỳ khủng hoảng dầu lửa thập kỷ 70. Có thể
chia 50 năm của Thunderbird ra làm 4 giai đoạn, 1955-1963, 1964-1975,
1976-1997, 1998-2004.
Ngay từ những chiếc xe đầu tiên, nhà sản xuất đã lựa chọn lắp cho nó một
động cơ V8. Từ 1958 đến 1960, xe Thunderbird gắn động cơ dung tích 5,8 lít,
công suất 300 mã lực. Tuy vậy, khách hàng có thể lựa chọn chiếc xe với động
cơ tới 7 lít và sức mạnh tương đương 350 mã lực. Năm 1961, lần đầu tiên
Thunderbird có những cải tiến đáng kể về dáng vẻ bên ngoài, bỏ đi những
vây nhọn phía trên hai đèn đuôi hình tròn, đèn pha vuông, và nhất là có thêm
một phiên bản mui xếp (convertible). Từ năm 1961 đến 1963, trang bị tiêu
chuẩn cho xe Thunderbird là động cơ V8 dung tích 6,4 lít, công suất 300-340
mã lực.
Mỗi năm, đội ngũ kỹ sư thiết kế của Ford đều thực hiện những công việc làm
mới chiếc xe của họ, khi thì ở nội thất, khi thì vuốt lại các đường nét bên
ngoài. Tuy nhiên, mẫu xe năm 1967 mới thực sự có nhiều điểm khác với
những đời trước. Khung gầm được thiết kế hoàn toàn mới, phần mặt trước xe
đơn giản hơn, đèn pha giấu bên dưới nắp ca-pô, chỉ nhô lên khi người điều
khiển xe bấm nút khởi động. Vì thế cho đến năm 1971, mọi cải tiến chỉ là ở
vài chi tiết tại mặt trước và sau xe.
Chiếc xe năm 1976 có thể coi là chiếc Thunderbird lớn nhất và sang trọng
nhất. Nhưng dường như điều đó không mang lại nhiều hiệu quả về mặt kinh
tế nên ở phiên bản ra sau đó, nhà sản xuất đã thu hẹp các kích thước của xe
lại, dù toàn bộ tiện nghi không thay đổi, nhờ thế giảm được 450 kg trọng
lượng. Thân xe Thunderbird 1980 được chuyển thành dạng unibody (gồm các
tấm thép gắn với nhau), nhẹ hơn 360 kg so với xe trước đó, và cũng ngắn
hơn 431 mm.
Năm 1983 là một trong những năm thành công của Ford Thunderbird. Tháng
2 năm đó, chiếc coupe Thunderbird Turbo được trình làng và gây sự chú ý tại
bất kỳ nơi đâu nó xuất hiện. Chiếc xe chỉ được trang bị một động cơ
turbocharged 2,3 lít, hộp số sàn 5 cấp. Từ đầu thập kỷ 80, phần thùng sau xe
dần được thu gọn lại nhưng kiểu nắp ca-pô vươn dài về phía trước đầy ngạo
nghễ vẫn là kiểu cách mà người Mỹ ưa thích. Phiên bản 1989 gây nên một
cơn sốt. Chiếc xe Super Coupe này có trục cơ sở dài hơn, bề ngang cũng rộng
hơn, hệ thống treo độc lập phía sau, phanh đĩa ở cả 4 bánh với động cơ
supercharged V6.
Tuy nhiên, phiên bản của năm 2002 một lần nữa giúp Thunderbird giành
danh hiệu Xe của năm do tạp chí Motor Trend trao. Thành công này có thể
dự báo được khi chiếc Thunderbird 2001 (xe concept) đã thu hút nhiều sự
quan tâm khi được Ford giới thiệu tại khắp các triển lãm ôtô lớn trên thế giới.
Dẫu vậy, đánh giá của các nhà chuyên môn không phải bao giờ cũng đúng
với những nhu cầu của khách hàng. Có số lượng bán ra không nhỏ nhưng
Thunderbird 2002 không đạt được mục tiêu mà hãng sản xuất đề ra. Ford hy
vọng phiên bản 2005, tung ra vào nửa sau của năm 2006 thực sự là một
chiếc xe để chúc mừng sinh nhật 50 tuổi của Thunderbird.
Cadillac ra đời như thế nào?
Năm 1908, tức là chỉ vài năm sau khi sản xuất được động cơ 4 xi lanh đầu
tiên, Cadillac lại khiến cả nền công nghiệp xe hơi sửng sốt khi trình diễn
những bộ phận xe hơi dễ dàng lắp đặt ở nhiều vị trí khác nhau. Đây chính là
sự kiến đặt nền móng cho sản xuất xe hơi trên quy mô lớn trên thế giới, đồng
thời giúp Cadillac giành được danh hiệu cao quý Dewar Trophy của CLB Xe
hơi Hoàng Gia - Royal Automobile Club (Anh). Cũng từ thời điểm này, biểu
trưng của công ty tự hào được gắn thêm slogan “Tiêu chuẩn của Thế giới”.
Tuy nhiên, Cadillac dường như đã cố tình đi ngược lại trật tự của công nghiệp
xe hơi toàn cầu khi đặt ra mục tiêu “Chất lượng phải đi trước Số lượng” và
dồn toàn bộ nguồn lực vào thiết kế một chiếc xe tuyệt vời nhất có thể.
Năm 1910, Model Thirty của Cadillac là chiếc xe đầu tiên giã từ hệ thống khởi
động bằng tay nhờ có hệ thống khởi động điện và bộ phận đánh lửa. Đây
được coi là một phát minh tuyệt vời bởi không ít lái xe đã bị gãy tay hoặc vỡ
xương hàm bởi hệ thống khởi động bằng tay. Một lần nữa danh hiệu Dewar
Trophy lại được trao cho Detroit, và Cadillac trở thành nhà chế tạo xe hơi
duy nhất đạt được danh hiệu cao quý này 2 lần.
Thập niên 20 càng khẳng định vị thế và sự tín nhiệm của giới xe hơi đối với
Cadillac khi Cadillac giới thiệu chiếc cần gạt nước và kính chiếu hậu, đồng thời
thoả mãn những khách hàng khó tính nhất bằng cách thay đổi thiết kế thân
xe phong cách hơn và sang trọng hơn.
Năm 1927, lần đầu tiên mối liên hệ giữa hình dáng và chức năng của một
chiếc xe được một nhà chế tạo xe hơi thực sự để mắt đến. Chiếc mui trần
LaSalle trở thành chiếc xe đầu tiên được tạo dáng bởi một nhà thiết kế, chứ
không phải bởi một kỹ sư ôtô như trước đây.
Cuối thập niên 20, Cadillac đồng nghĩa với sự tạo dáng đẹp mắt và sang
trọng. Cadillac đã khởi động thập niên 30 bằng việc ra mắt động cơ V-16
trang bị cho xe du lịch, cùng với nó là những mẫu biểu trưng khách nhau cho
động cơ V-8, V-12 và V-16. Đến năm 1936, Cadillac đã sở hữu khoảng 68
mẫu thân xe khác nhau. Năm 1938, Cadillac đã giành thêm một cái “nhất”
nữa trong lịch sử phát triển của mình bằng cách đưa từ “sunroof” (cửa sổ
trời) vào từ điển Hoa Kỳ.
Thập kỷ 60 tiếp tục ghi dấu những thành tựu công nghệ của Cadillac với hệ
thống phanh tự điều chỉnh, hệ thống điều hòa nhiệt độ, thông khí và làm
nóng nhiệt tĩnh, tiếp theo đó là sự ra đời của bộ đèn pha bật tắt tự động, dây
an toàn cho ghế trước, tấm sưởi điện cho các ghế ngồi và hệ thống âm thanh
stereo.
Cadillac chào mừng thập niên 70 với dây chuyền sản xuất xe du lịch lớn nhất
thế giới – chiếc Eldorado 8.2L - 400hp. Từ năm 1975-1978, Cadillac tiếp tục
dẫn đầu ngành công nghiệp xe hơi với những cải tiến không ngừng: hệ
thống túi khí và thiết bị trung hòa khí thải tiên tiến.
Bằng việc thiết kế lại những mẫu xe cổ điển của thập niên 30 và 40, ngay từ
đầu những năm 1980, Cadillac đã dấy lên phong trào “hoài cổ” có ảnh hưởng
lớn đến toàn bộ ngành công nghiệp xe hơi thế giới. Không ngủ quên với
những thành công liên tiếp, Cadillac tiếp tục đầu tư vào công nghệ và trở
thành nhà chế tạo xe hơi đầu tiên sử dụng bộ vi xử lý tích hợp để kiểm soát
hệ thống đánh lửa, nạp nhiên liệu và hoạt động tổng thể của cả chiếc xe.
Năm 1984, Hệ thống Phân phối Chìa khóa vàng đã đặt ra những tiêu chuẩn
mới cho việc bán xe, bao gồm việc tìm hiểu thông số kỹ thuật và tính năng
của xe và chạy thử xe. Chính nhờ những nỗ lực này mà chỉ vài năm sau đó,
Cadillac đã được J.D.Power bình chọn là nhà sản xuất xe hơi hàng đầu về việc
thỏa mãn khách hàng mua xe.
Năm 1992, chiếc Cadillac Seville vinh dự đạt
danh hiệu “Chiếc xe của Năm” nhờ những
tính năng tuyệt hảo như hệ thống kiểm soát
độ bám đường của xe, hệ thống chống bó
cứng phanh và hệ thống treo cảm biến tốc
độ.
Đến nay, trải qua hơn 100 năm không ngừng nỗ lực và phát triển, Cadillac
vẫn luôn tự hào với những danh hiệu “đầu tiên” và “số một” đã làm rạng
danh dòng họ Cadillac mà nó mang tên.
Mercedes-Benz nổi tiếng với những dòng xe nào?
A-Class
C-Class
Lần đầu tiên xuất xưởng vào tháng 6/1993, dòng C-Class được coi là một
trong những chiếc xe Mercedes-Benz có giá “dễ chịu” nhất. Phiên bản thứ hai
của dòng xe này được giới thiệu ra thị trường vào tháng 7/ 2000 (hiện đã sản
xuất được trên 1,5 triệu chiếc) và người tiêu dùng trên toàn thế giới đang
đón chờ phiên bản thứ 3 của C-Class - được thông báo là sẽ xuất hiện vào
năm 2007 này. Những yếu tố làm nên thành công của chiếc xe là công nghệ
cao kết hợp với nhu cầu sử dụng đa dạng. Chiếc xe mới của năm 2005 được
trang bị thêm một số công nghệ mới như sơn chống trầy xước sử dụng công
nghệ Nano, đèn Bi-xenon với hướng chiếu sáng thay đổi theo góc lái, hệ
thống truyền động 4 bánh 4Matic…
E-Class
CLS-Class
Mercedes-Benz CLS là một thành viên của đại gia đình xe du lịch Mercedes.
Được bán ra thị trường châu Âu mùa thu năm 2004, CLS- Class dài hơn dòng
E-Class khoảng 15,2cm, bảo đảm cho 2 chỗ ngồi phía sau của xe có được sự
tiện nghi và thoải mái. Dòng xe này là sự dung hoà giữa dòng E-Class và S-
Class, được coi là đối thủ đáng gờm của BMW 6-series, Cadillac STS và Lexus
GS. Chính vì sự thông dụng của dòng xe này mà một số mẫu xe ra đời sau
của các hãng khác như Audi A7, Porsche Panamera và Aston Martin Rapide
đều bị coi là ăn theo mẫu xe này. Được thiết kế với phong cách thể thao, xe
có 4 chỗ ngồi như trên những chiếc coupé 2 cửa cỡ lớn nhưng không phải là
2+2 mà là 4 chỗ thực thụ vì chiếc xe có 4 cửa và chiều dài 4,913m, nằm giữa
khoảng chiều dài 4,818m của E-class và 5,163m của S-class có trục cơ sở dài
(long wheelbase).
CLK-Class
M-Class
Một trong những chiếc SUV tiêu biểu của Mercedes-Benz là dòng M-Class,
dòng SUV đầu tiên được trang bị hệ thống kiểm soát ổn định (stability
control). Hệ thống 4-ETS (Four Electronic Traction Support) không chỉ phân
chia lực kéo tới bánh xe tốt hơn, mà còn hỗ trợ tài xế khi đổ dốc. 4-ETS tự
động giám sát hoạt động phun nhiên liệu cho xi-lanh và phân phối lực phanh
đến từng bánh xe, giúp xe xuống dốc ổn định và an toàn. Đặc biệt, hệ thống
Headlamp Assist tự động bật pha xenon khi trời tối hay chạy vào các đường
hầm. Bên cạnh đó, hệ thống túi khí trước và túi khí bên cho hành khách ở
hàng ghế trước, kết hợp với các hệ thống an toàn hoàn hảo khác của
Mercedes, đã giúp M-Class được giới bảo hiểm đánh giá là có độ an toàn gần
như tuyệt đối.
S-Class
Mercedes-Benz S-Class được coi là lá cờ đầu của những chiếc xe sedan hạng
sang cỡ lớn với sự tổng hợp tất cả tinh hoa về công nghệ ôtô được Mercedes
trang bị trên các xe sedan của mình. Nếu không kể đến chiếc limousine
Mercedes-Benz 600 thì đây có thể coi là chiếc xe hạng sang lớn nhất của
Mercedes-Benz. Cái tên S-Class bắt nguồn từ tiếng Đức - "Sonderklasse", có
nghĩa là “hạng đặc biệt”. Có được lái thử S-Class và hưởng thụ những tiện
nghi, thoải mái nó đem lại mới cảm nhận hết được sự sáng suốt của
Mercedes-Benz khi đặt cho chiếc xe này cái tên đó.
S-Class
Một số người sành về xe còn cho rằng S ở đây còn có thể là từ viết tắt của
“super” vì chiếc xe này quả thực có tỉ số nén tương đối cao và động cơ mạnh
mẽ đến hoàn hảo. Xe S-Class càng ngày càng hoàn thiện hơn và chứng tỏ
khả năng thích hợp cao cho mọi đối tượng phục vụ và yêu cầu về nhiên liệu
với các loại động cơ mới được trang bị trên xe như V6-245hp, V8
Kompressor-500hp, V12-500hp, diesel V6-204hp ... Ngoài ra, S-Class còn nổi
bật bởi sự tiện nghi và độ an toàn cao, với hệ thống treo khí nén toàn phần
chủ động ABC (Active Body Control) với chức năng chống lắc ngang.
SL-Class
Mercedes-Benz SL-Class là một đại diện hàng đầu của dòng roadster “made-
in-Mercedes”. Tương tự những dòng xe khác của nhà sản xuất xe hơi Đức
này, SL là từ viết tắt của “Sport Leicht”, nghĩa là “Sport Light” - những chiếc
xe thể thao nhỏ và trọng lượng rất nhẹ. Lần đầu ra mắt vào năm 1954, chiếc
300SL đã nhanh chóng hấp dẫn người tiêu dùng bởi loại cửa mở ngược lên
phía trên - tượng trưng cho đôi cánh đại bàng dang rộng. Kể lần đầu tiên ra
mắt năm 1954, Mercedes-Benz SL-Class đã trải qua 5 thế hệ. Suốt hơn 50
năm qua, những chiếc xe thuộc gia đình SL-Class vẫn là ước mơ của hầu hết
người dân trên thế giới. Tính đến nay đã có hơn 600.000 chiếc SL được bán
ra. Với tổng số 100.000 sản phẩm và chiếm hơn 40% thị trường, SL-Class
đang đứng đầu thị phần Roadster trên thế giới.
SLK-Class
Mercedes-Benz SLK-Class ra đời năm 1997 là
hiện thân cho những tham vọng ngút trời của
những người thiết kế và chế tạo ra nó – đó là
“Sportlich” (thể thao), “Leicht” (nhẹ) và “Kurz”
(ngắn). Sự nổi tiếng của SLK một phần có lẽ là
do những chiếc mui cứng có thể đóng mở dễ
dàng để trở thành xe “mui trần”. Mặc dù không
phải là người tiên phong trong lĩnh vực này,
nhưng Mercedes-Benz có thể coi là người tái SLK-Class
sinh những chiếc mui cứng đóng mở được. Chỉ
trong vòng 3 năm xuất hiện trên thị trường, đã có tới 100.000 chiếc SLK-Class
tới tay khách hàng. SLK kết hợp sự tiện dụng, thể thao và những tiện ích mà
không một mẫu xe nào cùng đẳng cấp có được. SLK-Class được xây dựng
trên nền tảng thiết kế của F1 với mui dài, cửa rộng và đuôi ngắn. Những "tín
đồ" của SLK-Class cho rằng "mọi chi tiết của SLK hoàn hảo và thống nhất tới
mức bất cứ thay đổi nào cũng trở nên thừa thãi".
Mercedes-Benz SLR McLaren là một siêu xe thể thao được liên kết sản xuất
giữa DaimlerChrysler và McLaren Cars - là sự kết tinh những kinh nghiệm chế
tạo và phát triển xe đua của hai hãng trong thời gian dài. Động cơ V8
supercharged do AMG sản xuất đạt công suất 626 mã lực, mô-men xoắn
780Nm. Chiếc xe mất 3,8 giây để tăng tốc từ 0 đến 100km/h và vận tốc tối
đa có thể lên đến 334km/h. Đây là một trong những chiếc xe số tự động có
vận tốc lớn trên thế giới được lắp ráp tại McLaren Technology Centre, Anh.
Chiếc xe này có giá €443.066 (tương đương 300.000 bảng Anh hoặc 450.000
đô la Mỹ), nhưng những người bỏ tiền mua SLR McLaren cho rằng số tiền đó
chẳng thấm vào đâu so với những gì mà nó mang lại.
Mitsubishi Motors ra đời như thế nào?
Năm 1931, nền công nghiệp Nhật Bản chứng kiến một cuộc “tiểu cách mạng”
trong ngành cơ khí khi động cơ diesel lần đầu tiên được phát triển và ứng
dụng trong các phương tiện đi lại – đó chính là động cơ 450AD phun nhiên
liệu trực tiếp. Chỉ một năm sau đó, Mitsubishi tiếp tục xuất xưởng chiếc xe
buýt đầu tiên – chiếc B46 – to nhất và có công suất lớn nhất thời bấy
giờ. Thập niên 30 được coi là thời đại vàng của Mitsubishi khi hãng lần lượt
giới thiệu những ý tưởng và sản phẩm “đầu tiên” không chỉ đối với chính
hãng mà còn đối với ngành công nghiệp xe hơi Nhật Bản.
Thời gian này, với những hậu quả do chiến tranh để lại, nhu cầu về xe
thương mại ở Nhật tăng cao, nhưng nhiên liệu vẫn là một bài toán nan giải.
Chiếc xe buýt B1 của Mitsubishi thực sự là nền tảng lý tưởng cho xe cứu hoả
và các xe chuyên dụng khác. Năm 1947, Mitsubishi tiếp tục trình làng chiếc
xe buýt động cơ điện MB46 và chiếc R1 – xe buýt có động cơ đặt sau đầu
tiên của Nhật Bản.
Năm 1962, Mitsubishi giới thiệu Minica - chiếc compact 4 chỗ siêu nhỏ động
cơ xăng 2 kỳ, 359cc không chỉ giúp người tiêu dùng tiết kiệm dược một
khoảng thuế kha khá mà còn rất tiết kiệm nhiên liệu và hoạt động hết sức
bền bỉ. Năm 1969, chiếc Colt Galant với thiết kế khí động học và động cơ
Saturn SOHC giúp Mitsubishi một lần nữa được ngẩng cao đầu với hàng loạt
những giải thưởng do người tiêu dùng bình chọn. Bên cạnh nhưng thành
công này, Mitsubishi cũng không quên nghiên cứu chế tạo xe thương mại,
điển hình là chiếc xe buýt Rosa hay xe tải Canter.
Đến cuối thập niên 1960, hoạt động bộ phận nghiên cứu và chế tạo xe hơi đã
đạt đến đỉnh cao và đây là lý do khiến cho các nhà lãnh đạo của Mitsubishi
Heavy Industries không thể chần chừ trong việc tách bộ phân này thành một
công ty độc lập. Năm 1970, Mitsubishi Motors Corporation (MMC) ra đời.
Một trong những trọng tâm của MMC đó là phát triển hơn nữa cơ sở vật chất
tại Nhật Bản, tiến hành các hoạt động từ nghiên cứu và phát triển, sản xuất
và phân phối cho đến dịch vụ hậu mãi. Tuy nhiên, chính tại xứ sở Kangaroo
MMC đã khẳng định sự vượt trội và tin cậy trong các sản phẩm của mình khi
chiếc Galant 16GLS giành chiến thắng tại giải đua đường trường Southern
Cross Rally. Tiếp đó Lancer 1600GSR liên tiếp chiến thắng tại Southern Cross
Rally và East Africa Safari Rally (1974 và 1976).
Lancer 1600GSR
Kết thúc thập niên 70 là hai giải thưởng dành cho chiếc Colt 1400 GLX - ”Xe
của Năm” (do tạp chí Japan's Motor Fan magazine bình chọn) và chiếc L200 -
"Xe bán tải của Năm" (do tạo chí Pickup, Van & 4WD magazinetrao tặng).
Không còn nghi ngờ gì nữa, việc sản phẩm của MMC được tín nhiệm và ưa
chuộng trên toàn thế giới chỉ còn là vấn đề thời gian. Thông qua việc tài trợ
xe cho các sự kiện thế giới như Olympics 1984 tại Sarajevo và Universiade
Games 1987 tại Zagreb, Mitsubishi đã quảng bá sản phẩm của mình đến với
hàng triệu khán giả trên toàn thế giới .
Hirokazu Nakamura trở thành chủ tịch MMC năm 1989 và điều hành công ty
theo một chiến lược hoàn toàn mới. Chiếc xe Pajero trở nên phổ biến ở khắp
mọi nơi, kể cả ở những con phố chật chội nhất Tokyo. Vào thời điểm này mặc
dù doanh số bán ra của dòng SUV và xe tải không ngừng tăng trưởng tại thị
trường Hoa Kỳ, nhưng các nhà sản xuất xe hơi Nhật Bản vẫn hết sức lo ngại
và cho rằng điều kỳ diệu đó mãi mãi vẫn chỉ là một giấc mơ xa vời đối với thị
trường trong nước. Trái với xu hướng này, Nakamura vẫn đầu tư một khoản
khá lớn vào việc phát triển dòng SUV. Các nhà sản xuất xe hơi Nhật Bản đã
chê cười Nakamura, cho rằng ông đã đánh một canh bạc mạo hiểm. Thế
nhưng, canh bạc này Nakamura đã là người chiến thắng. Hàng loạt những
chiếc xe dẫn động 4 bánh như Pajero, Delica Space Gear... đã làm dấy lên
một làn sóng của dòng xe SUV tại Nhật Bản vào giữa thập kỷ 90.
Năm 1991, Chrysler bán dần cổ phần của mình
trong Mitsubishi, chỉ giữ lại khoảng 3%. Kể từ
đó, Mitsubishi trở thành một nhà sản xuất xe hơi
tương đối độc lập và giao dịch giữa Mitsubishi
với Chrysler chỉ còn trên phương diện giấy tờ.
Đến năm 1993 thì toàn bộ cổ phần Mitsubishi
còn lại của Chrysler đã được bán ra thị trường
mở, nhưng Chrysler vẫn cung cấp một số động Mitsubishi Grandis
cơ và hệ thống treo cho Mitsubishi Hoa Kỳ. Đổi
ngược lại, Mitsubishi cũng tham gia quảng bá sản phẩm của Chrysler.
Cuộc khủng hoảng tài chính ở châu Á diễn ra năm 1997 gần như đánh quỵ
MMC khi doanh số của tập đoàn liên tục suy giảm ở hầu hết các thị trường.
Phải mất nhiều năm MMC mới khôi phục lại vị thế của mình trên các thị
trường. Dự kiến trong năm 2007 này, MMC sẽ đạt doanh số hơn 1,5 triệu
chiếc trên toàn cầu. Tại Việt Nam, Mitsubishi được biết đến với những chiếc
xe SUV như Pajero, Jolie hay chiếc van Grandis sang trọng.
Tại sao Rolls-Royce được mệnh danh là dòng xe "hoàng gia"?
Từ xa xưa, châu Âu đã là mảnh đất khai sinh những thương hiệu danh tiếng
và quý tộc. Rolls-Royce là một trong số ít những thương hiệu đó. Trong suốt
hơn 100 năm lịch sử nghiên cứu, chế tạo và phát triển, Rolls-Royce luôn là
lựa chọn hàng đầu của những nhà quý tộc, những người giàu sang bậc nhất
xã hội và những người đứng đầu bộ máy quản lý nhà nước. Thật vậy, Rolls-
Royce là niềm đam mê khát khao cháy bỏng không chỉ bởi sự vượt trội về
động cơ, độ tin cậy và an toàn đạt gần đến mức hoàn hảo mà còn bởi những
đường nét tinh tế và nội thất sang trọng đến ngưỡng mộ.
Ngủ quên trên chiến thắng, ảnh hưởng của Thế chiến thứ nhất, và một phần
là do Rolls bất ngờ qua đời trong một vụ tai nạn máy bay (1910), mãi đến
năm 1922, Rolls-Royce mới xuất xưởng chiếc xe thứ hai - chiếc Phantom I.
Cuối thập niên 1920, dòng xe Phantom (I, II và III) đã tạo ra một cuộc cách
mạnh về hệ thống treo, giúp Rolls-Royce vượt xa các đối thủ khác trong chế
tạo động cơ. Năm 1931, Rolls-Royce mua lại toàn bộ thương hiệu Bentley -
một trong những đối thủ đáng gờm của hãng.
Thế chiến thứ hai lại là những năm tháng dài
tập trung mọi nguồn lực vào phát triển động
cơ máy bay. Sau khi chiến tranh kết thúc,
Rolls-Royce đưa ra một chiến lược sản xuất
xe hơi hoàn toàn mới - chấm dứt quá trình
chế tạo xe hơi thủ công. Thay vào đó là một
dây chuyền dập thân xe tiêu chuẩn. Thế
nhưng trên thực tế thì những mẫu xe ra đời
năm 1946 của Rolls-Royce vẫn dựa trên Chiếc Sliver-Ghost đầu tiên
những thân xe được làm thủ công, chỉ có của RR
thân xe của Bentley là theo quy trình tiêu
chuẩn mới.
Thập niên 1950 mở ra một trang sử mới cho Rolls-Royce khi hãng nhận được
hợp đồng chế tạo và cung cấp xe hơi cho các vị nguyên thủ quốc gia, trong
đó phải kể đến mẫu Phantom IV dành cho Công chúa Elizabeth và Công tước
xứ Edinburgh, chiếc xe của quốc vương Iran, và 3 chiếc xe chống đạn của
Tổng tư lệnh Tây Ban Nha Franco. Xe Rolls-Royce còn vinh dự được phục vụ
hai vị lãnh tụ Liên Xô như Lenin và Stalin. Mỗi chiếc xe một dáng vẻ, một
cách trang bị hoàn toàn khác nhau, nhưng lại rất vừa ý chủ nhân của chúng
bởi sự tiện nghi, an toàn và thoải mái đến hoàn hảo. Năm 1959, lần đầu tiên
Rolls-Royce chế tạo một thân xe hoàn chỉnh. Trước đây, hãng chỉ sản xuất
khung gầm, sau đó thuê một công ty khác hoàn thành nốt phần thân xe.
Sau hàng loạt những thành công vang dội và những thành tựu rực rỡ về hàng
không, đường bộ và đường thuỷ, năm 1966, Rolls-Royce đã thâu tóm toàn bộ
nguồn lực hàng không của Anh quốc. Năm 1971, một số rắc rối với động cơ
do chính hãng chế tạo đã khiến Rolls-Roce bị quốc hữu hóa và tách thành hai
công ty độc lập: một chuyên sản xuất động cơ máy bay và một tập trung vào
chế tạo xe hơi. Năm 1973, Rolls-Royce Motors được thành lập và đến năm
1980 thì được bán lại cho Vickers - một đại gia trong ngành công nghiệp.
Năm 1998, Volkswagen mua lại Rolls-Royce Motors, với quyền sở hữu toàn bộ
thương hiệu Bentley và nhà máy của Rolls-Royce tại Crewe, Anh. Tuy nhiên,
do những thiếu sót không đáng có, cuối cùng thương hiệu Rolls-Royce lại về
tay của BMW. Mẫu xe mới nhất của Rolls-Royce và cũng là mẫu xe đầu tiên
do BMW quảng bá là chiếc Phantom được trang bị động cơ 6.75l - xuất xưởng
tháng 01/2003.
Một lý do nữa khẳng định sự "quý và hiếm" của Rolls-Royce đó là mỗi năm
hãng này chỉ sản xuất một số lượng xe ít ỏi: không quá 1000 chiếc và hiện
nay, toàn bộ quá trình chế tạo xe Rolls-Royce vẫn được thực hiện tại một nhà
máy duy nhất của Rolls-Royce ở Anh.
Trong năm 2007 này, Rolls-Royce dự định sản xuất 3 mẫu xe đó là Phantom,
Phantom Extended Wheelbase và Phantom Drophead Coupé.
Tập đoàn Rolls-Royce ra đời như thế nào?
Thành công bước đầu đã khiến cho hai ông chủ quyết định phải tiến thêm
một bước nữa trong việc thiết lập một mối ràng buộc chặt chẽ giữa hai bên,
đó là thành lập một công ty chung vào tháng 3/1906 lấy tên là Rolls-Royce.
Chiếc xe mang thương hiệu Rolls-Royce đầu tiên Silver Ghost ra đời năm
1907 nhanh chóng được bình chọn là “chiếc xe tốt nhất thế giới”.
Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra. Đáp lại lời
kêu gọi của Tổ quốc, Rolls-Royce thiết kế động
cơ máy bay đầu tiên - chiếc Eagle - được coi là
chủ lực của không quân Đồng minh. Nhờ có sự
ra đời của Eagle, lần đầu tiên con người có thể
bay vượt biển Đại Tây Dương, đồng thời mở
được đường bay thẳng từ Anh đến Australia.
Cuối thập niên 1920, Rolls-Royce phát triển Silver Ghost chiếc xe đầu
động cơ “R”, giúp Anh tham dự cuộc thi thuỷ tiên của RR
phi cơ quốc tế International Schneider Trophy.
Ngay lập tức, động cơ “R” đã lập một kỷ lục thế giới mới về vận tốc máy bay:
hơn 650 dặm/ giờ (1931), tiếp theo đó là hàng loạt những kỷ lục cả trên mặt
đất lẫn đại dương.
Quan trọng hơn cả là những thành tựu này chính là bàn đạp giúp Rolls-Royce
phát triển động cơ máy bay Merlin. Chiến tranh Thế giới thứ 2 nổ ra với nhu
cầu khổng lồ về Merlin khiến cho Rolls-Royce từ một công ty vô danh trở
thành một đại gia trong lĩnh vực động cơ máy bay.
Bên cạnh đó, Rolls-Royce cũng bắt tay vào phát
triển tua bin máy bay chạy bằng khí đốt. Thành
công này giúp Rolls-Royce có được sự tự tin
khẳng định mình trong việc chế tạo tua bin
chạy bằng khí đốt và nhanh chóng dẫn đầu lĩnh
vực này. Năm 1953, Rolls-Royce tham gia vào
thị trường hàng không dân dụng và chỉ một vài
năm sau đó đã giành được 2 cái “nhất”: Comet
trở thành chiếc máy bay phản lực tua bin đầu Một trong những chiếc
tiên phục vụ những chuyến bay vượt Đại Tây động cơ máy bay đầu tiên
Dương năm 1960 và động cơ Conway trong của RR
chiếc Boeing 707 là chiếc động cơ phản lực
cánh quạt đầu tiên được sử dụng trong hàng không dân dụng.
Cuối thập niên 50, ở Anh có 4 đại gia về động cơ máy bay là Armstrong
Siddeley, Blackburn, Bristol, de Havilland và Napier. Năm 1959, Bristol sát
nhập với Armstrong Siddeley, thành lập công ty Bristol Siddeley. Năm 1961,
Blackburn, de Havilland và Napier sát nhập với Rolls-Royce. Nhưng cuối cùng,
toàn bộ nguồn lực hàng không của Anh cũng được hợp nhất khi Rolls-Royce
và Bristol Siddeley sát nhập năm 1966.
Cuối thập niên 60, Rolls-Royce giới thiệu động cơ RB211 trang bị cho chiếc
Lockheed L-1011 Tri-Star nhưng chính những vấn đề do RB211 gây ra đã
khiến Rolls-Roce bị quốc hữu hóa năm 1971. Rolls-Royce lại được trả về cho
khu vực tư nhân năm 1987. Trải qua một vài sát nhập nho nhỏ, Rolls-Royce
trở thành công ty duy nhất của Anh có khả năng cung ứng động cơ cho cả
đường không, đương thuỷ và đường bộ.
Năm 1990, Rolls-Royce thành lập một liên doanh chế tạo động cơ máy bay
với BMW. Năm 1998, Rolls-Royce Motor Cars được bán cho Volkswagen, mặc
dù BMW lại sở hữu tên và nhãn hiệu của Rolls-Royce. Đến năm 2000 Rolls-
Royce nắm toàn bộ quyền sở hữu liên doanh với BMW và chính thức đổi tên
thành Rolls-Royce Deutschland Ltd & Co KG nhưng chỉ 3 năm sau đó BMW đã
mua lại toàn bộ Rolls-Royce.
Ngày nay, Rolls-Royce vẫn giữ vững vị trí thứ hai về sản xuất động cơ máy
bay dân dụng, động cơ máy bay phòng không và là một trong những tên tuổi
tiêu biểu cho ngành chế tạo động cơ tàu biển và giải pháp năng lượng thế
giới.
Thương hiệu Lincoln ra đời như thế nào?
Là một trong những nhãn hiệu xe hơi của Ford Motors, Lincoln ra đời khá
muộn mằn so với người anh em Ford, nhưng những thành công mà Lincoln
đạt được đã làm rạng danh dòng họ Ford trên toàn thế giới.
Chỉ trong vòng 2 năm sau đó, Lincoln đã trở thành lựa Biểu tượng của
chọn hàng đầu của những người nổi tiếng và những gia Lincoln
đình quý tộc, trong đó phải kể đến Thomas Edison, W.C. Fields và Herbert
Hoover.
Thập niên 30, tại Hoa Kỳ, cái tên Lincoln đã được rất nhiều người tiêu dùng
ưa chuộng bởi thiết kế trang nhã, nội thất sang trọng và sự uy tín hàng đầu.
Thế nhưng, chỉ đến khi mẫu Zephyr xuất xưởng thì Lincoln mới thực sự được
coi là thành công, ít nhất là về mặt tài chính. Mặc dù có dáng vẻ tương đối
chạy theo “mốt” của thời đại, đó là những chiếc xe dài có dáng thuôn và hơi
có phần điệu đà nhưng Zephyr khiến cả ngành công nghiệp xe hơi nể phục
bởi đây chính là một trong những chiếc xe đầu tiên thực sự theo các nguyên
lý khí động học.
Chiếc Zephyr (1937)
Cuối thập niên này, tức là khoảng năm 1938, Edsel Ford quyết định giới thiệu
một dòng xe mới ra thị trường - chiếc Continental. Edsel đã tự mình lái thử
chiếc xe này, để thử nghiệm tính hoàn hảo của nó, đồng thời cũng là để
quảng bá và tiếp thị chiếc xe đến với công chúng. Chính những đường cong
độc đáo, quyết đoán của Continental đã đem lại một hình ảnh tươi mới, sống
động và là bàn đạp cho sự phát triển của Lincoln. Frank Lloyd Wright gọi
chiếc Continental là “chiếc xe đẹp nhất mọi thời đại”.
"Tất cả vì Tổ quốc"
Chiến tranh Thế giới lần thứ 2 nổ ra đồng nghĩa với việc Lincoln, giống như
bao nhà sản xuất xe hơi khác, phải tạm dừng công cuộc chế tạo và thiết kế
xe hơi. Tất cả vì Tổ quốc – Lincoln đã huy động mọi nguồn lực kề vai sát
cánh cùng cả nước Mỹ trong cuộc chiến này. Chính nhờ những cơ sở vật chất
hiện đại của Lincoln mà Ford mới có thể sản xuất thành công và cung cấp
một số lương khổng lồ động cơ xe tăng cho quân Đồng minh, thân xe tăng lội
nước và hơn 140.000 thân xe jeep. Bởi vậy mà sau chiến tranh, Lincoln và
các nhà sản xất xe hơi khác, chủ yếu thiết kế dựa trên việc khai thác các mẫu
xe trước đó.
Những năm 1950, chứng kiến sự thay đổi vượt bậc của Lincoln về mọi mặt.
Hàng loạt những phát minh và cải tiến mới từ vô-lăng, hệ thống phanh, cho
đến bộ lốp không săm và ghế điều chỉnh tự động - tất cả đều có mặt trên
chiếc Lincoln Premier. Bên cạnh đó, chiếc Continental Mark II cũng đem lại
diện mạo mới cho Lincoln và trở thành một trong những chiếc xe đẹp nhất và
gợi cảm hứng nhất của thập niên này.
Chiếc Continental của tổng thống Ronal
Reagan
Bước sang thập kỷ mới, Lincoln giới thiệu Continental phiên bản mới - một
chiếc xe được cả giới xe hơi ngưỡng mộ bởi nó không chỉ đơn thuần là một
chiếc xe “hoàn toàn mới” mà thực sự là một cuộc “tiểu cách mạng” về phong
cách. Nếu những phiên bản trước đây là đại diện cho chủ nghĩa ấn tượng với
sự trau chuốt đến cầu kỳ về từng đường nét thì nay, Continental hấp dẫn và
quyến rũ bởi sự giản đơn và tinh tế. Ngoài ra, người tiêu dùng có thêm lựa
chọn – đó là dòng xe mui trần. Được coi là chiếc xe thay đổi diện mạo Lincoln
chỉ trong một đêm, Continental phiên bản mới là chiếc xe đầu tiên được phng
danh hiệu “Thiết kế của năm” bởi Viện Thiết kế Công nghiệp.
Đón chào thập kỷ 70 với những chiếc xe sang trọng bậc nhất. Nội thất bên
trong không chỉ tinh xảo đến kinh ngạc mà không gian rộng rãi tạo cho người
ngồi trong xe cảm giác như đang hoàn toàn thư giãn trong chính căn phòng
của mình. Cũng trong khoảng thời gian này Lincoln đã tạo nên một xu hướng
thời trang hoàn toàn mới. Bằng việc ký kết với những nhà tạo mẫu hàng đầu
thế giới như Givenchy, Gucci, Cartier… tên tuổi của những nhà thiết kế này
đã trở nên cực kỳ nổi tiếng và gắn liền với những chiếc xe mang thương hiệu
Lincoln.
Ngay từ đầu thập niên 1990 các nhà kinh tế học đã dự đoán rằng Lincoln sẽ
phải đối mặt với thử thách không nhỏ khi phải chia sẻ thị phần với các đối thủ
Nhật và châu Âu. Khó khăn không làm Lincoln lùi bước. Năm 1990, chiếc
Town Car đoạt danh hiệu “Chiếc xe của năm” . Năm 1993, chiếc Mark VIII
không chỉ hấp dẫn người tiêu dùng bởi những đường nét tuyệt hảo bên ngoài
mà còn chinh phục cả những người lái xe - những người thực sự làm chủ nó -
bởi thiết kế nội thất đem lại sự thoải mái tối ưu. Năm 1998, Lincoln Navigator
ra mắt, được coi là chiếc SUV siêu hạng cỡ lớn thực sự.
Hiện tại, mục tiêu của Lincoln không chỉ là tầng lớp trung niên giàu sang. Nhà
sản xuất xe hơi này đang nhắm đến những khách hàng trẻ tuổi hơn. "Mở
hàng" cho thế kỷ 21 là chiếc xe thể thao 2000 LS - một địch thủ đáng gờm
của nhiều nhà sản xuất xe hơi trong phân khúc xe thể thao sang trọng. Ngoài
ra, Lincoln còn tung ra phiên bản Navigator 2003 mới hàng loạt những tính
năng tuyệt hảo hơn hẳn so với các dòng xe cùng phân hạng. Cũng là một
thiếu sót lớn nếu không kể đến chiếc Aviator 2002, mẫu SUV mới nhất của
Lincoln được đông đảo giới chơi xe ngưỡng mộ - chiếc xe này đã làm thay đổi
hoàn toàn quan niệm về dòng xe SUV.
Logo của Cadillac có lịch sử như thế nào?
Năm 1902, chiếc logo đầu tiên của Cadillac được thiết
kế và ra mẳt đúng vào dịp thành lập công ty. Chiếc
logo này được tạo dáng dựa trên chiếc huy hiệu truyền
thống của dòng họ Cadillac, bao gồm một vương miện
nhỏ ở phía trên và huy hiệu của dòng họ Cadilac nằm
ở chính giữa, bao quanh là vòng nguyệt quế được cách
điệu bằng vòng hoa tulip.
Logo này lần đầu tiên xuất hiện trên chiếc xe đầu tiên Logo Cadillac đầu
của Cadillac - chiếc Model A Runabout - chiếc xe được tiên
coi là kẻ tiên phong trong lĩnh vực công nghệ thời điểm đó. Mặc dù được đưa
vào sử dụng từ tháng 09/1902 nhưng mãi đến năm 1905 thì logo của Cadillac
mới được đăng ký và đến tháng 8/1906 mới trở thành thương hiệu chính
thức.
Chỉ hai năm sau, cùng với việc được nhận danh hiệu
Dewar Trophy, Cadillac tự hào giới thiệu slogan mới
của công ty “Tiêu chuẩn của thế giới”. Chính vì vậy mà
dòng chữ “La Mothe Cadillac” trên logo cũng nhanh
chóng được thay thế bằng slogan mới này. Chiếc
vương miện được hình tượng hoá và có nhiều chi tiết
hơn, đồng thời sự tương phản màu sắc trên chiếc huy
hiệu cũng trở nên rõ nét hơn. Thêm vào đó, sự giản
lược vòng nguyệt quế và thay thế vào đó là một vòng
Logo Cadillac 1908
tròn khiến cho logo của Cadillac trở nên sắc nét hơn,
hiện đại và trẻ trung hơn.
Từ năm 1916 đến năm 1918, vòng hoa tulip lại xuất hiên trong logo Cadillac
và đến năm 1920 thì chiếc vương miện nhập hẳn vào với chiếc huy hiệu.
Đến thập niên 1930, để tôn vinh vị trí của dòng động cơ có xi-lanh xếp thành
hình chữ V (V-8, V12, V16), các nhà thiết kế của Cadillac đã thay thế vòng
tròn nguyệt quế ở ngoài bằng đôi cánh - biểu tượng cho động cơ chữ V.
Theo thời gian, trải qua một số biến đổi nhỏ, đôi cánh
lồng bên ngoài huy hiệu Cadillac được đơn giản hoá
cho mảnh hơn, nhưng ngày càng sải rộng hơn. Thiết
kế mới này không chỉ độc đáo và ấn tượng mà hơn thế
nữa còn rất phù hợp với thiết kế khí động học của
những chiếc xe xuất xưởng trong thời kỳ này.
Sau khi Chiến tranh Thế giới lần thứ 2 kết thúc, đôi
cánh được thay thế bằng biểu tượng hình chữ V, mà
Logo Cadillac 1920
the Cadillac, là sự tôn vinh sự mạnh mẽ của động cơ
Cadillac.
Đến năm 1957, chữ V được thiết kế lại đôi chút cho phù hợp với xu hướng
thiết kế của các mẫu xe Cadillac trong thập niên 50 này, đó là dài hơn, rộng
hơn nhưng thân xe lại thấp hơn – toát lên vẻ sang trọng, quý phái và khẳng
định đẳng cấp của chủ nhân của chúng.
Giữa thập kỷ 70, vòng hoa bao quanh chiếc huy hiệu
được hình tượng hoá nhiều hơn và cũng không còn
mang hình ảnh tràng hoa tulip nữa. Tuy nhiên, các nhà Logo Cadillac 1970
thiết kế Cadillac vẫn chưa hài lòng và vào năm 1975,
trên nắp ca-po của xe Cadillac chỉ còn thấy chiếc huy hiệu mang hình ảnh của
dòng họ Cadillac kiêu hãnh, được bao quanh bởi một vòng nguyệt quế bằng
crôm.
Năm 1998-1999, một lần nữa những thay đổi trong chiến lược phát triển và
thiết kế của Cadillac lại được thể hiện thông qua logo của họ.
Biểu tượng hoàn toàn mới này mang những màu sắc Logo hiện nay của
chủ đạo và truyền thống của Cadillac, đó là đỏ, đen, Cadillac
xanh nước biển, bạc và vàng trên nền platin. Tuy
nhiên, thay đổi rõ nét nhất đó là chiếc vương miện được cách điệu thành hình
chóp của chiếc huy hiệu, đồng thời hình ảnh những chú thiên nga truyền
thống trên chiếc huy hiệu của dòng họ Cadillac cũng bị lược bỏ.
Những con số có ý nghĩa thế nào trên biển kiểm soát?
Bộ Công an quy định (hiện hành) tên các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
Ương được thay bằng ký hiệu số phục vụ công tác đăng ký quản lý phương
tiện giao thông cơ giới đường bộ. Ký hiệu của mỗi địa phương dùng chung
cho cả đăng ký xe ôtô, xe môtô, xe gắn máy.
Theo quy định, trên biển số xe ôtô, xe môtô sau ký hiệu (số) tên của địa
phương là chữ (phần sê-ri đăng ký) được thể hiện thứ tự từ A - Z. Riêng
môtô, xe máy vì số lượng đăng ký quá lớn nên trong ký hiệu sê-ri còn có cả
số đứng sau chữ cùng xếp theo thứ tự.
Căn cứ thông tư số 01/2002/ thị trường - BCA (C11) ngày 04/01/2002 của Bộ
Công an (thay thế thông tư số 15/2000/TT - BCA ngày 8/12/2000) hướng dẫn
tổ chức đăng ký, cấp biển số phương tiện giao thông cơ giới đường bộ. Theo
đó, Thông tư có quy định, ban hành kèm theo "Danh mục các cơ quan, đơn
vị đăng ký xe ôtô tại Cục Cảnh sát Giao thông Đường bộ-Đường sắt, Bộ Công
an, mang biển số đăng ký ký hiệu 80"; cụ thể là các cơ quan đơn vị sau đây:
- Xe không làm kinh doanh của cơ quan hành chính nhà nước; cơ quan quyền
lực nhà nước; cơ quan xét xử, kiểm sát; lực lượng Công an nhân dân; các cơ
quan của Đảng; tổ chức chính trị - xã hội: Biển số nền màu xanh, chữ và số
màu trắng. Sê-ri biển số sử dụng 1 trong 5 chữ cái sau đây: A, B, C, D, E.
- Xe của các doanh nghiệp; xe làm kinh tế của cơ quan quản lý nhà nước; tổ
chức sự nghiệp; sự nghiệp có thu; xe cá nhân: Biển số nền màu trắng, chữ và
số màu đen. Sê-ri biển số sử dụng 1 trong 15 chữ cái sau đây: F, H, K, L, M,
N, P, R, S, T, U, V, X, Y, Z.
- Xe của các liên doanh nước ngoài, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, xe
thuê của nước ngoài có ký hiệu "LD".
- Các xe mang biển kiểm soát màu đỏ: Ký hiệu chữ gồm 2 chữ cái đi liền
nhau, trong đó chữ cái đầu tiên có nghĩa là:
Ở Việt Nam, biển xe màu trắng với ký hiệu số, 2 chữ và năm số (mã quốc tịch
và dãy số thứ tự), tất cả được phân biệt với nhau bằng dấu gạch ngang (VD:
80-NG-269-01) được cấp cho các đối tượng có yếu tố nước ngoài.
Trong đó, ký hiệu số bao gồm 2 chữ số chỉ ra nơi đăng ký của phương tiện
giao thông đó. Nếu chiếc xe đượcđăng ký tại Cục Cảnh sát giao thông đường
bộ - đường sắt, nó sẽ mang biển 80-NN hoặc 80-NG. Ngược lại, nếu chiếc
xe thuộc sự quản lý của cơ quan Cảnh sát Giao thông địa phương nơi nó
thường trú thì sẽ mang ký hiệu số của tỉnh, thành đó (29-NN, 29-NG...).
Xe của cơ quan đại diện ngoại giao; cơ quan lãnh sự và nhân viên nước ngoài
có thân phận ngoại giao làm việc cho các cơ quan đó: biển số nền màu trắng,
chữ và số màu đen; có sê-ri ký hiệu "NG" màu đỏ. Riêng biển số xe của Đại
sứ và Tổng Lãnh sự có thêm gạch màu đỏ đè ngang lên giữa các chữ số chỉ
quốc tịch và thứ tự đăng ký.
Xe của tổ chức quốc tế và nhân viên nước ngoài có thân phận ngoại giao làm
việc cho các tổ chức đó: biển số nền màu trắng, chữ và số màu đen; có sê-ri
ký hiệu "QT" màu đỏ. Riêng biển số xe của người đứng đầu cơ quan đại diện
các tổ chức của Liên hợp quốc, có thêm gạch màu đỏ đè ngang lên giữa các
chữ số chỉ quốc tịch và thứ tự đăng ký.
Xe của tổ chức; văn phòng đại diện; cá nhân người nước ngoài (kể cả lưu học
sinh): biển số nền màu trắng, chữ và số màu đen, có ký hiệu "NN".
Giấy phép lái xe được phân hạng như thế nào?
Hệ thống giấy phép lái xe (GPLX) Việt Nam gồm 10 hạng, xây dựng trên cơ
sở cấu hình, tải trọng và mục đích thiết kế phương tiện cơ giới. Ngoài ra còn
có các quy định cụ thể về thời hạn, đối tượng sử dụng xe và chuyển đổi bằng
lái.
Ngày 18/12/2001, Bộ Giao thông Vận tải ban hành "Quy chế quản lý sát hạch
cấp giấy phép lái xe cơ giới đường bộ". Trong đó, việc hệ thống hoá, hiệu lực
và phân hạng bằng lái được quy định như sau:
Hạng A1: Cho phép điều khiển xe môtô 2 bánh có dung tích xi-lanh từ 50cc
đến dưới 175cc.
Hạng A2: Cho phép điều khiển xe môtô 2 bánh nói chung, không giới hạn
dung tích xi-lanh.
Hạng A3: Cho phép điều khiển môtô 3 bánh, xe lam, xích lô máy và các loại
xe hạng A1, không áp dụng với phương tiện hạng A2.
Hạng A4: Cho phép điều khiển các loại máy kéo có tải trọng đến 1.000 kg.
Mặt sau của giấy phép lái xe hạng A1
Hạng B1: Dùng cho lái xe không chuyên nghiệp, được quyền điều khiển:
Hạng B2: Cấp cho lái xe chuyên nghiệp, quy định quyền điều khiển các
phương tiện hạng B1 và các xe cẩu bánh lốp có sức nâng thiết kế dưới 3.500
kg.
Hạng C: Cấp cho lái xe chuyên nghiệp, quy định quyền điều khiển:
- Ôtô tải và xe chuyên dùng có tải trọng thiết kế từ 3.500 kg trở lên.
- Đầu kéo, máy kéo 1 rơ-moóc hoặc sơ-mi rơ-moóc có tải trọng thiết kế từ
3.500 kg trở lên.
- Cần cẩu bánh lốp có sức nâng thiết kế từ 3.500 kg trở lên.
Hạng D: Cấp cho lái xe chuyên nghiệp, quy định quyền điều khiển:
Hạng E: Cấp cho lái xe chuyên nghiệp, quy định quyền điều khiển:
Hạng F: Cấp cho người đã có giấy phép lái xe hạng B2, C, D, E để điều khiển
các loại xe tương ứng có kéo rơ-moóc trọng tải thiết kế lớn hơn 750 kg.
- Khi có giấy phép lái xe hạng A2 phải tuân thủ quy định của Chính phủ về đối
tượng được sử dụng loại xe 2 bánh từ 175 cc trở lên.
Trong vòng 30 ngày trước khi giấy phép lái xe hết hạn, người có giấy phép
này phải làm đơn xin đổi kèm theo giấy chứng nhận sức khỏe, gửi đến cơ
quan có thẩm quyền cấp lại bằng lái.
GPLX mới tương ứng với những hạng giấy phép mà người xin cấp đã được
cấp ở nước ngoài. Ví dụ, GPLX nước ngoài có cả hạng ôtô, xe máy thì bằng lái
được đổi cũng có hạng tương ứng. Trừ trường hợp môtô từ 175cc trở lên,
trước đây do chính sách hạn chế trong nước mà người nước ngoài cũng
không được cấp.
Sau khi nhận hồ sơ đầy đủ hợp lệ, với người nước ngoài, GPLX được giao vào
thứ sáu hàng tuần, thời hạn tối đa là 10 ngày. Với người Việt Nam, theo quy
định của Sở Giao thông Công chính Hà Nội, cứ 11 ngày sau thì người xin cấp
tới nhận giấy phép mới.
Giấy phép lái xe của Việt Nam có được công nhận ở nước ngoài?
Hiện nay, Việt Nam đã ký thỏa thuận với các nước trong khối ASEAN về việc
công nhận GPLX lẫn nhau. Theo đó, công dân Việt Nam khi đến làm việc ở
các nước ASEAN có thể đổi GPLX để được lái xe tại các nước đó. Còn với các
nước chưa có thỏa thuận về thủ tục ngoại giao trong việc đổi GPLX nên việc
chấp nhận đổi GPLX của Việt Nam hay không là tùy từng nước. Với mối quan
hệ mật thiết với Việt Nam, Pháp đã chấp thuận đổi GPLX của Việt Nam ra
GPLX tại Pháp theo đúng hạng bằng lái xe được cấp.
Mã VIN có ý nghĩa như thế nào?
VIN là từ viết tắt của Vehicle Identification Number (số nhận dạng xe),
bao gồm 17 ký tự và được đánh số theo nhiều cách khác nhau. VIN được coi
như “chứng minh thư” của một chiếc xe và các nhà sản xuất thường ghi lên
những phần dễ bị biến dạng và thay đổi nhất của xe như: cửa, động cơ hoặc
thân phía góc.
Tiêu chuẩn của mã VIN được ban hành chính thức theo chuẩn ISO 3779 vào
tháng 2 năm 1977 và sửa lần cuối vào năm 1983.
Số VIN đã được tiêu chuẩn hóa chứa 17 ký tự. Hệ thống số VIN ở châu Âu
khác Bắc Mỹ và khác với ký hiệu VIN quốc tế. Tuy nhiên, chúng vẫn có một
vài điểm chung như ký tự đầu tiên của VIN cho biết nước sản xuất như Mỹ
(số 1 hoặc 4), Nhật Bản (J). Bên cạnh đó, ký tự thứ 10 của tất cả các hãng xe
đều chỉ năm sản xuất.
Trong 17 số/ký tự, mã năm sản xuất của các năm sản xuất xe đều là số thứ
10. Đây là một trong những thông tin quan trọng nhất mà người mua cần
biết khi kiểm tra xe cũ. Ký tự thứ 10 được ghi theo nguyên tắc sau: trước
năm 2000 là chữ cái còn sau đó là chữ số. Ví dụ, 1990(L), 1991(M), 1992(N),
1993(P), 1994(R), 1995(S), 1996(T),1997(V), 1998(W), 1999(X), 2000(Y),
2001(1), 2002(2), 2003(3)....
Những loại xe nào được quyền ưu tiên?
Luật Giao thông Đường bộ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
được phê chuẩn năm 2002 quy định quyền ưu tiên và cấp độ ưu tiên của một
số loại xe như sau:
Khi có tín hiệu của xe ưu tiên, mọi người tham gia giao thông phải nhanh
chóng giảm tốc độ. Tránh hoặc dừng lại sát lề đường bên phải để nhường
đường. Nghiêm cấm các hành vi gây cản trở xe ưu tiên.
- Tín hiệu của xe chữa cháy: Xe chữa cháy có đèn quay trên nóc xe phát sáng
màu đỏ hoặc xanh và có còi phát tín hiệu ưu tiên.
- Tín hiệu của xe quân sự, xe công an đi làm nhiệm vụ khẩn cấp:
+ Xe quân sự có đèn quay trên nóc xe phát sáng màu đỏ, cờ hiệu quân sự
cắm ở đầu xe phía bên trái người lái và có còi phát tín hiệu ưu tiên.
+ Xe công an có đèn quay trên nóc xe phát sáng màu xanh hoặc đỏ, cờ hiệu
công an cắm ở đầu xe phía bên trái người lái và có còi phát tín hiệu ưu tiên.
- Tín hiệu của xe cứu thương: Xe cứu thương có dấu chữ thập màu đỏ trên
thành xe, đèn quay trên nóc xe phát sáng màu đỏ và có còi phát tín hiệu ưu
tiên.
Xe cứu thương
- Tín hiệu của xe hộ đê, xe đang làm nhiệm vụ khắc phục sự cố thiên tai khẩn
cấp:
+ Xe làm nhiệm vụ cứu hộ đê có biển "xe hộ đê" gắn ở kính phía trước của
xe và có cờ hiệu hộ đê.
+ Xe đang làm nhiệm vụ khắc phục sự cố thiên tai hoặc tình trạng khẩn cấp
và xe cứu nạn giao thông : có đèn quay trên nóc xe phát sáng màu vàng và
có còi phát tín hiệu ưu tiên.
Xe cảnh sát
Xe ưu tiên chỉ được sử dụng tín hiệu của xe ưu tiên khi đi thực hiện nhiệm vụ
khẩn cấp. Các Bộ quản lý xe ưu tiên phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ
quy định cụ thể về tiêu chuẩn còi, đèn của xe ưu tiên và có trách nhiệm kiểm
tra việc sử dụng tín hiệu của xe ưu tiên thuộc ngành mình quản lý. Tất cả các
phương tiện giao thông cơ giới đường bộ không thuộc loại xe ưu tiên sử dụng
còi, cờ, đèn, biển hiệu của xe ưu tiên là hành vi vi phạm pháp luật.
Autogas là gì?
Autogas nếu hiểu theo nghĩa thông thường có nghĩa là ô tô dùng nhiên liệu
thể khí. Autogas sử dụng khí đốt thiên nhiên thông thường NG (natural gas)
hoặc gaz nén CNG (compressed natural gas) có áp suất từ 50 – 200 kg/cm2,
với thành phần chủ yếu là khí methal. Loại hình Autogas này đã có từ những
năm 50 của thế kỷ trước và cho đến nay trên thế giới đã có hơn 1 triệu xe
Autogas dùng gaz nén NGV (natural gas for vehiche).
Khí hóa lỏng LPG là sản phẩm phụ của nhà máy chế biến dầu mỏ và nhà máy
tách khí. Thành phần chủ yếu của LPG là Butal và Propal hỗn hợp theo tỷ lệ
nhất định và được chứa trong bình với áp suất dưới 20 kg/cm2. LPG có tỷ
trọng từ 0,5 – 0,25, không màu, không mùi và không có tính độc. LPG chính
là một sản phẩm dầu mỏ được dùng rất phổ biến từ lâu trong các ngành kinh
tế quốc dân như là một nguyên liệu cho các ngành công nghiệp chế tạo hóa
chất, chế tạo phân bón, tổng hợp các chất mỹ phẩm...
LPG dùng làm nhiên liệu cho Autogas có những ưu điểm sau:
- Có trị số octan rất cao (95 – 100) rất có lợi cho việc chống kích nổ, tăng
hiệu suất nhiệt của động cơ, có thể dùng tỷ số nén cao (10 – 12).
- Sử dụng nhiên liệu LPG ít hao mòn xúp-páp, xi-lanh, séc-măng. Tăng tuổi
thọ của động cơ. Bởi nhiên liệu LPG dễ cháy và cháy hoàn toàn, khi cháy
không tạo muội, không khói.
- Động cơ sử dụng nhiên liệu LPG không gây tác động xấu đối với dầu nhờn,
nên quá trình lão hóa dầu nhờn kéo dài.
- Chuyển đổi đồng nhiên liệu: xe lắp động cơ Các chi tiết chuyển đổi
diesel sau khi chuyển đổi sử dụng cả diesel và Autogas
nhiên liệu khí, trong đó diesel đóng vai trò làm
mồi.
Tùy thuộc từng kiểu xe, bình chứa khí sẽ ảnh hưởng ở mức độ khác nhau đến
thể tích khoang xe. Ví dụ như dòng xe sedan sẽ mất khoảng 10 - 15% thể
tích khoang chứa đồ. Tuy nhiên, với một số loại xe, có thể lắp bình chứa bên
ngoài hoặc lắp vào hộc đựng bánh dự phòng.
- LPG lỏng từ bình chứa cao áp, đặt khoang sau xe, đi qua van cách ly đầu
bình tới van solenoid LPG bằng đường ống dẫn. Van solenoid này sẽ đóng khi
công tắc nhiên liệu bật sang vị trí xăng hoặc khi xe không hoạt động.
- Trong quá trình giảm áp, nhiệt độ bộ giảm áp hoá hơi giảm rất nhiều. Để bù
nhiệt, nước từ hệ thống làm mát sẽ được dẫn qua thiết bị này.
- Quá trình hoạt động của hệ thống nhiên liệu LPG được kiểm soát một cách
chặt chẽ nhờ một hệ thống điều khiển điện tử và hàng loạt các cảm biến áp
suất, nhiệt độ, nồng độ, khí thải.
Tại nước ta năm 1983 đã chuyển đổi xe Zin 130 chạy bằng gaz nén (CNG),
năm 1997 Công ty Sài Gòn Petro đã cho chạy 20 xe taxi ở tp Hồ Chí Minh sử
dụng gaz hóa lỏng LPG và xây dựng trạm cấp LPG cho xe taxi. Từ năm 2001
tới nay, việc chuyển đổi bắt đầu cho nhiều loại xe từ Lada đến Nissan...
AMG có lịch sử như thế nào?
Mercedes-AMG GmbH là một bộ phận của Daimler Chrysler AG, có trụ sở tại
Affalterbach (Đức). Mercedes-AMG chuyên phát triển và cải tiến các loại xe
đua và dân dụng. Cái tên AMG bắt nguồn từ những chữ cái đầu của các nhà
sáng lập: Werner Aufrecht và Erheard Melcher, kết hợp với Grossasphach (tên
quê hương của Aufrecht) nơi 2 người khởi nghiệp vào năm 1967.
Những ngày đầu mới khai sinh ở Old Mill, quy mô của AMG chỉ là 2 chiếc ga-
ra. Kể từ đó đến nay, lịch sử công ty đã có rất nhiều thay đổi. tuy nhiên, điều
mà hầu như không thể thay đổi chính là bầu nhiệt huyết của AMG đối với tính
năng của những chiếc xe. Chất lượng, sự an toàn cũng như niềm đam mê và
sự tận tụy trong công việc của các kỹ sư, tất cả chỉ nhằm tạo mục đích tạo ra
những chiếc Mercedes có thể đáp ứng và thỏa mãn mọi đam mê của người
hâm mộ.
Có một điều đặc biệt, các mẫu xe AMG từ xưa đến nay chỉ được sản xuất với
số lượng hạn chế. Năm 2000, số lượng xe AMG tiêu thụ trên toàn thế giới chỉ
khoảng 10.000 chiếc. Trong đó có khoảng 40% được tiêu thụ tại thị trường
Mỹ. Cũng tại thị trường tiềm năng nhưng khó tính này, AMG có mặt tại hơn
300 nhà cung cấp xe Mercedes, đối thủ của AMG chính là những mẫu xe hạng
sang của các hãng: BMW, Audi, Ford, Jaguar...
Với tính năng đầy ấn tượng, những thiết kế sắc sảo và tiêu chuẩn an toàn là
hàng đầu, mỗi chiếc Mercedes đã là một kiệc tác cơ khí. Mercedes-AMG nâng
những đặc điểm đó lên một tầm cao mới với thiết kế thể thao hơn, hấp dẫn
hơn và có những tính năng đáng nể hơn. Ngoài nâng cấp động cơ và cải tiến
một số chi tiết liên quan đến tính năng vận hành của chiếc xe, AMG còn quan
tâm đến nhu cầu của khách hàng ở từng khu vực khác nhau. Đó chính là lý
do khiến các mẫu xe AMG ở Mỹ có những tính năng khác biệt nhất định so với
các mẫu xe ở Đức. Do quy định tiêu chuẩn an toàn tại Mỹ, những khác biệt
này được thể hiện ở những vị trí bố trí túi khí hay hệ thống điều khiển động
cơ.
SLK 55 AMG
Động cơ được AMG thiết kế và sản xuất bằng các chất liệu hàng đầu, nhưng
điểm khác biệt lớn nhất chính là quá trình lắp ráp từ chi tiết rời được làm
hoàn toàn bằng tay bởi chính các kỹ sư. Mọi động cơ của AMG đều được
trang bị hệ thống phun nhiên liệu điện tử của Bosch.
Không chỉ động cơ, trên cơ sở các thiết kế của Mercedes-Benz, những chiếc
xe qua "lò" AMG được cải tiến để phù hợp với cường độ hoạt động như một
xe đua chuyên nghiệp. Đơn cử hệ thống phanh đĩa lớn với 8 hoặc 4 piston
cho bánh trước, 4 hoặc 2 piston cho bánh sau, chế tạo bằng ceramic hoặc
hợp kim nhẹ có khả năng chịu nhiệt cao. Hệ thống treo thể thao với khả năng
chỉnh thụ động và chủ động, vành hợp kim, lốp xe bản rộng. Phần thân xe
cũng được cải tiến nhằm làm giảm chỉ số cản gió, tăng khả năng làm mát
động cơ, với các cánh lướt gió và các rãnh luân chuyển dòng không khí xung
quanh xe.
CL 65 AMG
Hộp số trên xe AMG mới nhất đều là hộp số tự động thể thao với khả năng
chuyển số tay, đặc biệt là hộp số AMG Speed Shift được trang bị trên các xe
E55, S55, CL55, SL55 và CLK55 với nút chuyển số ngay trên vô lăng như các
xe Công thức1, rút ngắn thời gian chuyển số tới 35%. Các hệ thống điện tử
tương tự như các xe cùng loại của Mercedes nhưng được hiệu chỉnh lại cho
phù hợp với động cơ mới. Nội thất sang trọng truyền thống của Mercedes hòa
trộn cùng phong cách thể thao AMG, với các chi tiết trang trí mạ, ốp gỗ. Sở
hữu những chiếc AMG luôn là mơ ước của mọi tay lái sành sỏi trên thế giới.
Bảo trì, bảo dưỡng hộp số tự động như thế nào?
Khi lá côn bị mài mòn, các mạt kim loại bị trộn lẫn trong dầu hộp số dẫn đến
sự tắc nghẽn trong hệ thống thủy lực khiến hộp số “chết yểu” do hiện tượng
mất tuần hoàn của hệ thống thủy lực. Sự tăng nhiệt của dầu hộp số cũng là
kẻ thù của hộp số tự động. Hiện tượng này xuất hiện khi xe vận hành liên tục
trong trạng thái: dừng - vận hành - dừng hay chở quá tải hay leo dốc thường
xuyên. Khi dầu hộp số quá nhiệt, độ nhớt của dầu giảm dần, nó trở nên loãng
hơn và do đó bảo vệ các lá côn cũng như các thiết bị chuyển động khác kém
hơn dẫn tới gia tăng sự mài mòn.
Dầu hộp số trong hơn dầu động cơ nên rất khó đọc trên que thử. Vì vậy, cách
tốt nhất là bạn đặt que thử lên một miếng vải trắng, sạch. Các ký hiệu trên
que thử gồm “Add” và “Full”. Nếu mức dầu thấp hơn vạch “Add”, hãy thêm
một phần tư lượng dầu định mức, chờ 2-3 phút và thử lại lần nữa. Nếu dầu
có màu đen hay mùi cháy, hãy kiểm tra cơ cấu hoạt động và thêm dầu nếu
cần thiết.
Bảo dưỡng gồm các công việc: Làm sạch, chẩn đoán, kiểm tra, điều chỉnh,
xiết chặt, thay dầu, mỡ, bổ sung nước làm mát, dung dịch ắc quy. Căn cứ vào
chu kỳ bảo dưỡng và nội dung công việc. Bảo dưỡng kỹ thuật ôtô được chia
làm hai cấp:
- Bảo dưỡng hàng ngày
- Bảo dưỡng định kỳ
Để động cơ truyền lực tới các bánh xe khiến chúng quay, những chiếc xe cần
phải có cơ cấu dẫn động. Tuy nhiên, không phải tất cả các bánh đều trực tiếp
nhận lực từ động cơ, tùy thuộc yêu cầu vận hành giữa các loại xe và tại từng
thời điềm mà người ta có những phương pháp truyền động khác nhau.
Ưu điểm quan trọng nữa của hệ dẫn động FWD là do động cơ đặt phía trên
trục trước nên trọng lượng của nó được truyền thẳng xuống bánh dẫn động
khiến độ bám đường tăng lên, giúp xe hoạt động tốt ở các mặt đường trơn
trượt.
Hệ thống AWD vận hành gần giống với 4WD toàn thời gian ở chỗ lực kéo liên
tục được phân bổ tới cầu trước và cầu sau, không thể tác động chủ quan tới
việc gài cầu hay không. Đặc điểm phân biệt:
- Cầu trước và sau đều dẫn động.
- Tài xế không thể chọn chế độ dẫn động một cầu được.
- Tài xế không thể chọn chế độ cầu thấp để cải thiện khả năng vận hành khi
điều kiện đường xá rất xấu. Các loại xe điển hình: Land Cruiser VX hay Pajero
Supreme...
Những dấu hiệu trên đồng hồ và đèn báo của xe cho biết điều gì?
1-Vôn kế; 2 Công-tơ mét; 3-Đồng hồ đo vòng quay của máy; 4-Đồng
hồ đo nhiệt độ nước làm mát; 5- Đồng hồ xăng; 6-Đồng hồ đo áp
suất dầu
Đồng hồ đo điện sẽ cho biết tình trạng nạp điện của hệ thống điện trên xe.
Trên đồng hồ sẽ hiện dấu (+) khi ắc-qui đang sạc, hoặc dấu (-) nếu ắc-qui
đang sử dụng. Chỉ sau khi khởi động máy, đồng hồ đo điện sẽ cho biết tình
trạng nạp điện của ắc-qui khi đèn và các thiết bị khắc đã tắt. Khi phần năng
lượng được sử dụng để khởi động máy được nạp lại vào trong ắc-qui, kim sẽ
dần dần chỉ vào vạch giữa trên bảng đồng hồ và sẽ hơi nghiêng về phía bên
đang nạp điện (+). Nếu ắc-qui yếu, đồng hồ sẽ chỉ ở trạng thái nạp điện cho
đến khi đủ điện.
Nếu đồng hồ báo ắc-qui nạp nhanh và sử dụng điện cũng nhanh, có thể ắc-
qui sắp hỏng, nếu ắc-qui nạp điện lâu hơn bình thường, có thể dây đai bị
trượt hoặc máy phát điện gặp sự cố. Đồng hồ đo điện cho biết trạng thái của
ắc-qui đang sạc (C) hay đang sử dụng điện (D).
Vôn kế
Thấy đèn cảnh báo này trên công-tơ-mét sáng, cần dừng xe kiểm tra, nếu chỉ
do chở quá nặng thì có thể chạy tiếp một cách cẩn thận vì tay lái bị ghì hơn.
Nếu xe không chở nặng hoặc đã trút hết tải mà đèn vẫn báo, nên đến trạm
sửa chữa ngay khi có thể.
2-Hỏng hệ thống hỗ trợ phanh ABS
Tín hiệu báo hỏng ABS (thường do hỏng đồng hồ đo tốc độ quay của bánh
xe) đồng nghĩa với việc hệ thống điện tử sẽ không can thiệp vào quá trình
phanh xe. Chú ý, khi bật khóa điện, đèn báo ABS sẽ sáng lên, nhưng đó chỉ là
test, nếu mọi việc bình thường, mấy giây sau nó sẽ tự tắt đi. Với cảnh báo
này, vẫn có thể tiếp tục chạy xe, nhưng nên thận trọng, vì không có ABS,
phanh trên đường cua hay trơn trượt nguy hiểm hơn rất nhiều.
3-Mòn má phanh
Trên một số xe đời cũ, đèn này sáng khi hệ thống phanh nói chung có vấn đề
hoặc phanh tay đang bị cài. Ở dòng xe hiện đại hơn, nó báo độ dày của má
phanh chỉ còn 2-3 mm, xe chỉ chạy được khoảng 2.000-3.000 km nữa là tới
cốt kim loại. Khả năng cách nhiệt đã rất kém, cần thay ngay má phanh mới.
Ngay khi thấy đèn báo, cần lập tức tắt máy. Như vậy mới còn hy vọng bảo
toàn được động cơ. Nếu nó chỉ sáng khi vào cua hay khi phanh gấp, nên kiểm
tra mức dầu máy. Nếu sau khúc cua, đèn tắt, có thể tiếp tục chạy theo chế
độ giảm ga và tránh các xử lý đột ngột, tới trạm sửa chữa gần nhất. Ngoài ra,
hiện tượng này cũng có thể do vòng bi trục khuỷu đã mòn.
5-Hỏng túi khí hoặc dây an toàn
Đèn báo sẽ test sáng lên khi bật chìa khóa điện và tự tắt sau mấy giây, nếu
hệ thống an toàn hoạt động bình thường. Trong trường hợp đèn này không
tắt sau khi test hoặc đột nhiên sáng lên khi xe đang chạy, nên đến trạm sửa
chữa ngay khi có thể.
6- Có nước trong bộ vi lọc
Khi đèn báo có nước trong bộ vi lọc bật sáng, hãy nhanh chóng đưa xe đến
trạm sửa chữa gần nhất.
Sử dụng loại dầu nào cho xe tay ga?
Trên thực tế, dầu nhẹ dễ bơm và luân chuyển qua động cơ nhanh hơn.
Ngược lại, dầu nặng thường có độ nhớt cao, di chuyển chậm hơn nên có áp
suất cao hơn nhưng lưu lượng dầu qua bơm lại thấp hơn.
-Xe tay ga ít khi bố trí hệ thống côn (ly hợp) nằm chung trong cacte. Do vậy
dầu bôi trơn cần có hệ số ma sát thật thấp để nâng cao hiệu suất động cơ.
-Một số xe tay ga chỉ có bộ phận khởi động bằng điện chứ không có cần đạp
khởi động, dùng dầu không đúng chủng loại trong thời tiết lạnh sẽ khó khởi
động.
-Dầu có phẩm cấp chất lượng cao (API SL...) để đảm bảo dầu có khả năng
chống lại sự ô-xy hoá ở nhiệt độ cao, giữ các chi tiết động cơ luôn sạch khiến
tuổi thọ động cơ sã tăng đáng kể.
-Dầu có độ nhớt đa cấp thấp hơn của xe số (SAE 10W-40) sẽ giúp động cơ dễ
dàng khởi động ngay cả khi nhiệt độ xuống thấp, bảo vệ động cơ ngay từ ban
đầu hay khi vòng quay động cơ hoạt động đến tốc độ tối đa.
-Dầu hộp số (bánh răng): Xe tay ga có hộp bánh răng tách rời động cơ nên
có loại dầu bôi trơn riêng. Tuỳ theo loại xe, các nhà sản xuất sẽ yêu cầu
chủng loại cũng như thời gian thay thế.
-Dầu phanh: Các xe tay ga đều sử dụng phanh đĩa, dầu phanh sẽ là chất lỏng
truyền lực phanh. Thông thường dầu phanh có 2 loại với ký hiệu (DOT3-
DOT4), bổ sung và thay mới dầu phanh nên theo quy định của nhà sản xuất.
Sử dụng xe hơi như thế nào để tiết kiệm nhiên liệu?
Các chuyên viên kỹ thuật của những hãng xe hơi hàng đầu thế giới cho rằng
lái xe và bảo quản xe đúng kỹ thuật chính là cách tiết kiệm nhiên liệu tối ưu
nhất.
Xe chở càng nặng thì càng hao nhiên liệu. Nên dọn dẹp các thứ trên xe và bỏ
đi những thứ không cần thiết. Giảm trọng lượng khoảng 40kg, sẽ tiết kiệm
được 3% nhiên liệu. Một người lái xe nhiều kinh nghiệm là biết cách tính toán
quãng đường đi thế nào thuận lợi nhất. Nếu bạn có một lộ trình “liên kết” các
địa chỉ với nhau, bạn không chỉ tiết kiệm được nhiên liệu mà còn đỡ mất thời
gian. Nên nhớ đừng phanh gấp nhiều lần, vì mỗi lần như vậy, chiếc xe phải
"đề-pa" để trở lại vận tốc cũ và lượng nhiên liệu tiêu tốn nhiều hơn.
Nhà sản xuất khuyến cáo dùng loại nhiên liệu Sử dụng và bảo dưỡng
nào, dầu nhờn nào thì bạn dùng đúng loại ấy. động cơ theo đúng yêu cầu
Hãy cảnh giác với các loại nhiên liệu được quảng kỹ thuật (ảnh VNE)
cáo là tiết kiệm, có thể chúng sẽ không phù hợp
với động cơ xe bạn. Cũng không nên tin tưởng vào lời quảng cáo các loại
“phụ gia” làm hệ thống máy móc vận hành trơn tru.
Chọn lốp xe
Sử dụng điều hoà nhiệt độ hợp lý cũng là một cách tiết kiệm nhiên liệu. Khi
trời nóng, cây số đầu bạn nên hạ tất cả các cửa xuống để nhiệt độ trong xe
giảm dần nhờ gió thổi vào xe, sau đó mới bật điều hòa, để làm giảm sức kéo
của compressor. Chạy trên đường cao tốc, bạn chỉ cần vặn máy lạnh số nhỏ.
Yếu tố thời tiết cũng ảnh hưởng đến mức độ tiết kiệm nhiên liệu của xe. Việc
khởi động xe trong điều kiện thời tiết quá ẩm ảnh hưởng không chỉ đến sự
vận hành của động cơ mà còn đến tiêu thụ nhiên liệu. Điều kiện đường miền
núi và gió mạnh cũng làm xe tiêu hao nhiên liệu nhiều hơn.
Khi bạn chuẩn bị mua xe hãy tính toán một cách tương đối xem nó sẽ ngốn
bao nhiêu nhiên liệu. Khi đó bạn sẽ hình dung được có nên mua chiếc xe
động cơ dung tích lớn và tiêu hao nhiều nhiên liệu hay không.
Cần chú ý những gì khi sử dụng đèn pha?
Theo chức năng làm việc đèn pha thuộc hệ thống tín hiệu và chiếu sáng trên
ôtô, xe máy. Yêu cầu chiếu sáng tiêu chuẩn của đèn pha phải giúp cho người
lái xe quan sát rõ mặt đường (100 -120 m phía trước đối với ôtô và 60 m đối
với xe máy). Khi gặp người đi ngược chiều, đèn cốt làm nhiệm vụ chiếu sáng
gần với khoảng sáng từ 50-75 m và hướng ánh sáng phải đi xuống 300.
- Đèn Wolfram: Do đặc tính của wolfram nên khi làm việc, loại đèn này hay bị
đen mặt bóng đèn khiến độ sáng bị giảm nhanh.
- Đèn Halogen: Là loại đèn được nạp khí halogen hay hỗn hợp của halogen
với brom, đèn halogen nhỏ gọn, cường độ sáng lớn (gấp đôi đèn wolfram) và
có khả năng chịu nhiệt độ cao.
-Đèn Xenon: Là loại đèn được nạp khí xenon, có ưu điểm lớn là có chùm tia
sáng với quang phổ gần như ánh sáng mặt trời nên tạo thuận lợi cho người
lái quan sát trong đêm. Đèn xenon thường được lắp trên các dòng xe cao
cấp, với giá thành đắt gấp 5 lần loại đèn thông dụng.
- Vì tầm quan sát ở chế độ cốt là 45 m so với 100-120m của ánh sáng đèn
pha, vì vậy cần sử dụng đèn pha khi tăng tầm quan sát trong đêm. Ngoài ra,
để tăng thêm tính hiệu quả khi sử dụng đèn pha cần giảm ánh sáng tối đa
trong khoang lái (không nên bật đèn trong xe và điều chỉnh các thiết bị ánh
sáng ở chế độ mờ hoặc tắt).
- Nên kiểm tra đèn thường xuyên và căn chỉnh pha đèn rọi đúng hướng, tầm
ánh sáng lệch đi 10 cũng làm ảnh hưởng tới hiệu quả chiếu sáng của đèn xe
rất nhiều.
- Luôn giữ cho đèn pha sạch sẽ. Chất bẩn hay bụi bám vào đèn xe sẽ làm
giảm độ sáng của đèn đến 60%. Ngoài việc giữ cho đèn pha sạch sẽ, bạn
cũng phải nên giữ cho kính xe sạch sẽ bằng cách lau chùi thường xuyên, hoặc
sử dụng hệ thống rửa kính xe khi kính xe có nhiều bụi bám vào.
- Thay thế ngay những bóng đèn bị cháy và nên có bóng đèn dự phòng trên
xe. Hầu hết các hệ thống đèn xe đều thuộc loại bóng halogen có thể dễ dàng
thay thế mà không cần bất kỳ dụng cụ nào. Nên đọc hướng dẫn kỹ thuật của
xe để thao tác chính xác, khi thay bóng đèn mới không nên chạm tay vào
bóng ngoài trừ phần đuôi đèn.
- Nên sử dụng pha khi lái một mình trong đêm, sau đó chuyển sang cốt khi có
xe đi ngược chiều trong vòng 150 m (khoảng 3 giây ở tốc độ 90 km/giờ).
Không nên sử dụng đèn pha khi cua xe, vì nếu xe đối diện cũng quên tắt pha
thì hai xe bật pha cùng một lúc sẽ làm cho người lái không thấy đường, rất
nguy hiểm. Khi vượt xe, không nên sử dụng đèn pha, nên duy trì khoảng
cách an toàn và nháy đèn để ra hiệu xin vượt.
Quy trình bảo dưỡng xe gắn máy được thực hiện như thế nào?
Mục đích của bảo dưỡng là luôn đảm bảo các tính năng của xe ở trạng thái
tốt nhất có thể, để tránh những hư hỏng nhỏ trở lên lớn hơn trong tương lai,
để đảm bảo sự an toàn của xe và chủ xe. Nếu chiếc xe được bảo dưỡng đúng
tiêu chuẩn, tuổi thọ của xe có thể tăng, tính kinh tế nhiên liệu tốt hơn, hoạt
động tin cậy hơn. Quy trình bảo dưỡng xe gắn máy được thực hiện theo các
bước sau:
-Lốp xe:
Lốp trước và lốp sau cần được sử dụng đúng
theo quy định, tuổi thọ của một chiếc lốp phụ
thuộc rất nhiều vào cách sử dụng và quá trình
vận hành. Luôn giữ áp suất lốp đúng theo tiêu
chuẩn của nhà sản xuất. Kiểm tra chân chống
đứng, chân chống nghiêng, chỗ để chân đảm
bảo luôn vững vàng và được bôi trơn tốt.
-Dầu máy:
Dầu máy có nhiệm vụ bôi trơn và làm mát động
cơ, sử dụng dầu bôi trơn cần đúng chỉ dẫn của
nhà sản xuất. Dầu cần được kiểm tra thường
xuyên để đảm bảo động cơ luôn có chế độ vận
hành tốt nhất.
-Ắc-qui:
Ắc-quy có nhiệm vụ cung cấp điện cho bộ phận khởi động (đề) và hệ thống
đèn tín hiệu. Kiểm tra, bảo dưỡng ắc-quy để luôn đảm bảo lượng dung dịch,
điện thế của bình theo tiêu chuẩn. Ắc-quy sẽ hoạt động ổn định và có tuổi
thọ cao hơn.
-Nhông-xích:
Kiểm tra hệ thống xích truyền động. Xích là bộ phận dễ bị đất cát bám vào,
dẫn tới làm mòn nhanh chóng đĩa và nhông. Luôn đảm bảo độ căng, độ bôi
trơn tiêu chuẩn của xích, độ kín của hộp xích.
-Phanh:
Kiểm tra hệ thống phanh xe. Sau một thời gian
sử dụng, cần vệ sinh bên trong đùm xe để tránh
bụi bám quá dày, giảm hiệu quả khi phanh. Đối
với phanh đĩa, bổ xung dầu đúng theo quy định
của nhà sản xuất. Hệ thống ổ bi cũng cần được
kiểm tra thường xuyên, bổ sung mỡ bôi trơn
phù hợp khi cần thiết.
-Khung xe:
Kiểm tra và chống gỉ sét khung xe, sườn xe, vành xe. Công việc này nên thực
hiện ngay sau khi mùa mưa mới bắt đầu hoặc vừa kết thúc. Kiểm tra và bảo
dưỡng hệ thống lái, các loại dây (phanh, đồng hồ tốc độ…).
Tuy nhiên để đảm bảo an toàn, trước mỗi chuyến đi xa hoặc sau mỗi lần đi
qua các con đường ngập nước, nên bảo dưỡng toàn bộ xe. Mỗi khi phát hiện
ra các triệu chứng bất thường của xe, cần cho kỹ thuật viên kiểm tra ngay
nhằm tránh các hỏng hóc lớn hơn.
Bảo dưỡng giảm xóc xe máy như thế nào?
Do đặc điểm cấu tạo, bộ giảm xóc sau hoạt động khá ổn định và ít có trục
trặc, những trục trặc thông thường hay xuất hiện ở bộ giảm xóc trước. Dấu
hiệu để nhận biết khi giảm xóc bị hỏng là xe bị xóc khi lái, khó điều khiển, lốp
mòn nhanh, xe đi qua chỗ xóc phát ra những tiếng kêu lục cục.
- Khi xe chở nặng, tay lái không cân bằng: Giảm xóc trước của xe có thể đã bị
gãy một bên lò xo, hoặc lò xo hai bên có độ cứng không đều nhau hoặc một
bên pít-tông bị cong. Tùy theo nguyên nhân mà thay lò xo hoặc nắn lại pít-
tông.
Kiểm tra bộ giảm xóc trước bằng cách bóp chặt phanh trước và nhún mạnh,
giảm xóc còn tốt là mặt pít-tông phải sáng bóng suốt chiều dài, pít-tông và xi-
lanh không được có độ “rơ”. Khi hoạt động, giảm xóc không được có màng
dầu bám trên bề mặt.
Cần chuẩn bị những gì trước khi đi xa?
- Các giấy tờ cần thiết trên xe: Giấy phép lái xe hợp lệ, đăng kiểm và bảo
hiểm còn hiệu lực, đăng ký xe, các giấy phép đặc biệt khác tùy loại xe, hàng
hoá và cung đường của xe.
- Các vật dụng cần thiết: Túi cứu thương, đèn pin, bản đồ, bộ đồ sửa xe, lốp
dự phòng, bình cứu hoả, tiền, giấy bút, nước uống, giấy vệ sinh. Điện thoại
phải lưu các số của Bảo hiểm, Cứu hộ, Tư vấn kỹ thuật…
- Các dụng cụ kỹ thuật: Dây câu điện, bộ kích điện ắc-quy; dụng cụ vá săm
xe; bóng đèn pha và đèn tín hiệu dự phòng; một chai dầu máy 1 lít; đèn pin,
hộp đựng dụng cụ thông dụng (tuốc-nơ-vít, kìm, búa...)
- Ắc-quy: Bạn hãy kiểm tra xem có rò rỉ, vết nứt hay có dấu hiệu nào của sự
ăn mòn hay không. Nếu có bạn nên thay bình mới. Kiểm tra lại các đầu điện
cực, nếu các đầu cực bị ăn mòn thì ắc quy sẽ rất dễ bị hỏng, nhất khi đi trên
đường.
- Đảm bảo đủ áp suất lốp: Khi đi xa, lốp không đủ độ căng tạo nên sóng
cơ học mài mòn lốp và gây nguy hiểm khi điều khiển xe do không thể tăng
tốc như ý muốn. Hơn nữa, độ căng không đồng đều giữa các bánh sẽ làm
mất cân bằng và không an toàn khi lái.
- Bộ phận treo và tay lái: Khi đi xa, hành
trình của bạn phải phụ thuộc rất nhiều vào bộ
phận treo và tay lái. Nhưng để kiểm tra các bộ
phận này một cách chính xác, bạn phải đem xe
ra ngoài gara. Kiểm tra bằng mắt thường bốn
thanh giảm xóc (ở gần các bánh xe), nếu như có
vết dầu rỉ ra, bạn nên thay. Nếu giảm xóc bị
thiếu dầu, chiếc xe rất khó khăn khi đi qua
những đoạn đường xấu. Kiểm tra các thiết bị điện
- Lốp “sơ cua”, kích: Kiểm tra áp suất của lốp xe dự phòng khi bạn kiểm tra
áp suất của các lốp xe khác (đảm bảo chúng có cùng áp suất và phải đúng
theo quy định của nhà sản xuất), bạn có thể xem trong sách hướng dẫn sử
dụng xe hoặc có thể tìm trên thành lốp. Kiểm tra xem kích nâng có còn tốt
không, nếu bạn có lắp khóa bánh xe, nhớ là phải luôn có chìa khóa và cờ-lê
để tháo con ốc đó ra.
- Kiểm tra đèn và các thiết bị khác: Ngoài những chi tiết trên, hoạt động
của đèn pha, cần gạt nước cũng quan trọng không kém. Bạn nên thử độ sáng
của đèn pha để có thể thay nếu thấy cần thiết. Cần gạt nước phải hoạt động
tốt, không bị mòn, bình nước rửa phải đầy. Hệ thống điện ổn định, còi hoạt
động tốt là những yêu cầu khác cần chuẩn bị cho một chuyến đi thật an toàn
và suôn sẻ.
- Lái xe khi mưa - gió: Khi có mưa luôn phải bật đèn và giảm tốc độ, nên
chạy ở tốc độ bằng một nửa so với bình thường. Đường mới ướt sẽ trơn hơn
nên phải xử lý: phanh, lái, xi-nhan sớm hơn. Luôn giữ khoảng cách lớn hơn
với xe cùng chiều, sử dụng gạt mưa, sấy kính đúng chế độ để có tầm nhìn tốt
nhất. Nếu mưa to, không được chạy quá 90 km/h vì hiệu ứng trượt lướt sẽ
xảy ra, nếu thấy xe tròng trành, phải giữ lái và giảm ga, tuyệt đối không
phanh. Không cho xe chạy nhanh qua những vũng nước vì xe sẽ bị lệch
hướng đáng kể. Khi bị ướt các má phanh sẽ ăn lệch hoặc không ăn sẽ rất
nguy hiểm nếu phanh gấp, nên tì nhẹ vào chân phanh để sấy chúng khô trở
lại. Nếu trời bão hoặc gió to tốt nhất tìm chỗ trú vì sẽ có nhiều cây đổ, dây
điện chùng võng, tai nạn bất ngờ rình rập.
- Lái xe khi bị nắng chói: Nắng chói thường gặp khi sáng sớm hoặc chiều
muộn. Cần lau kính trước sạch, dùng kính râm, chắn nắng. Nếu xe ngược
chiều hoặc xe sau bạn bị chói nắng thì cẩn thận trước khi rẽ vì họ khó phát
hiện ra bạn đang bật đèn xi-nhan. Nên đi với tốc độ vừa phải vì tầm nhìn bị
hạn chế.
- Lái xe trên đường trơn lầy: Chuyển về số thấp, giữ vô-lăng thẳng, đi ga
nhẹ, tránh làm bánh xe bị trượt (patine), cho xe di chuyển đều càng xa càng
tốt. Nếu bị trượt thì nhẹ nhàng lùi lại một quãng đến chỗ đường bám tốt rồi
lại tiến lên, lùi lại, tiến lên đến khi xe vượt qua được chỗ lầy. Dùng các mảnh
ván, cành cây, cát… lót dưới bánh xe bị trượt để tăng ma sát hoặc dùng sợi
xích, thừng quấn vào lốp để vượt qua quãng lầy. Nếu không được thì tìm xe
khác kéo hoặc nhờ người hỗ trợ.
Ngoài ra để đảm bảo an toàn bạn cần chú ý: tư thế lái đúng, chỉnh ghế lái
phù hợp, điều chỉnh gương chuẩn và hiểu biết về chiếc xe mình đang lái.
Không lái xe khi sức khoẻ yếu, đang dùng thuốc an thần, xúc động hay cơ
thể đang bị ảnh hưởng của rượu cho dù từ ngày hôm trước.
Chọn mua xe máy cũ như thế nào?
- Tổng thể chiếc xe: Để đánh giá chính xác tổng thể một chiếc xe đã qua
sử dụng, cách chính xác nhất là chiếc xe phải được rửa sạch sẽ và quan sát
dưới ánh sáng ban ngày. Theo kinh nghiệm chọn xe cũ, một chiếc xe còn tốt
là phải “đều xe”, nghĩa là tất cả các chi tiết, phụ tùng trên xe có độ mới/cũ
đồng đều nhau. Một chiếc xe vận hành bình thường, ổn định không thể có
những chi tiết quá mới hoặc quá cũ so với tổng thể chiếc xe.
- Sơn xe: Quan sát màu sắc của sơn ở Kiểm tra rõ ràng số máy, số
những chỗ khuất rồi so sánh với những khung
nơi khác, nhìn theo chiều nghiêng của thân xe để có thể dễ dàng nhìn thấy
những khu đã vực được “tút” lại bởi màu sơn và độ bóng sẽ không đều nhau.
Nước sơn “gin”, được sản xuất trên dây chuyền công nghiệp thường không
thể bị bong tróc, theo thời gian sử dụng, bề mặt sơn chỉ mòn dần đi.
- Động cơ: Động cơ là phần quan trọng nhất của chiếc xe và cũng là nơi khó
kiểm tra nhất, động cơ xe còn tốt sẽ có những đặc điểm sau:
+ Bề mặt, hình dạng những con ốc trên động cơ không móp méo hay trầy
xước.
+ Dễ khởi động, tiếng nổ chậm, đều (khi để garanti) và ổn định. Bất cứ một
trục trặc nào của các bộ phận trong động cơ (ly hợp, xích cam, xúp-páp, tay
biên…) đều có những tiếng động khác lạ đặc trưng khi động cơ vận hành.
+ Vặn hết ga mà không thấy khói ở ống xả
+ Sang số nhẹ nhàng (xe số). Động cơ hoạt động ngay khi kéo ga (xe ga).
+ Kiểm tra dầu bôi trơn sau khi động cơ làm việc (không được quá ít so với
quy định, không được có ánh kim loại trong dầu)
- Cảm giác khi lái: Một chiếc xe tốt phải tạo cảm giác an toàn, êm ái khi
vận hành. Máy xe hoạt động ổn định khi tải nặng, xe đi qua chỗ xóc không có
tiếng kêu lạ. Nên kiểm tra hệ thống lái tại những đoạn đường thật phẳng để
đánh giá độ cân bằng của xe. Những chiếc xe đã từng bị đâm mạnh hay có
lỗi kỹ thuật sẽ không thể có độ cân chuẩn của xe.
Tìm mua một chiếc xe cũ còn tốt và giá cả hợp lý là việc làm rất khó. Nhưng
nếu biết được chính xác chất lượng của chiếc xe, từ đó ta có thể định giá xe
một cách chuẩn nhất.
Mô-tô, xe máy có cấu tạo như thế nào?
Phân loại mô-tô, xe máy: Mô-tô, xe máy được phân loại chủ yếu dựa vào
động cơ:
- Động cơ: Là bộ máy gồm nhiều chi tiết, liên quan mật thiết với nhau. Đây
là nơi đốt cháy nhiên liệu, nhiệt năng biến thành cơ năng và sinh ra động lực
truyền sang hệ thống truyền động làm cho xe chạy. Động cơ gồm có các hệ
thống chính:
Ngoài những hệ thống trên, mô-tô/xe máy còn có những bộ phận khác như
ống xả để giảm tiếng ồn, cần khởi động, bàn đạp phanh, tay phanh, cần số,
yên xe...