You are on page 1of 23

Tác động của một số chính sách kinh tế ảnh

hưởng tới quá trình phát triển kinh tế.


Thực hiện chủ trương của Đại hội VI về đổi mới kinh tế, trong
đó quan tâm hàng đầu tới đổi mới lĩnh vực nông nghiệp, nông
thôn, Bộ chính trị, Ban bí thư đã ra nhiều chỉ thị, nghị quyết
nhằm điều chỉnh cơ chế quản lý vĩ mô, tạo điều kiện thuận lợi
cho quá trình đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, như: chính
sách một giá; đảm bảo tự do lưu thông, tiêu thụ trên thị
trường cả nước; thương mại hóa vật tư; từng bước xác lập vai
trò tự chủ của kinh tế hộ; giải quyết những vấn đề cấp bách
về ruộng đất… (Vấn đề này được thể hiện rõ trong Nghị quyết
10 của Bộ chính trị Về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp,
tháng 4/1998 và Nghị quyết HNTƯ 6 (khóa VI, 3/1989).
Sau đại hội VIII, Đảng và Nhà nước tiếp tục đề ra chủ trương, chính
sách khuyến khích phát triển hợp tác xã; ban hành quy chế quản lý và
sử dụng vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch nhà nước cho các dự án
đóng mới tàu đánh bắt cá; đẩy mạnh hoàn thành việc giao đất, cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp.
Chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, vật nuôi, hội nhập mở rộng không gian thị trường tiêu
thụ đã có tác động mạnh đến sản xuất, nâng cao thu nhập
cho nông dân nhất là xuất khẩu. Công tác khuyến nông,
khuyến lâm đã có tác dụng tích cực trong việc hướng dẫn, hỗ
trợ nông dân sản xuất, ứng dụng khoa học công nghệ. Nhiều
giống lúa đặc sản tuy năng suất không cao, nhưng bán được
giá, một số loại cây ăn quả có sản lượng lớn và có thương
hiệu, các mô hình thâm canh, luân canh, ứng dụng công nghệ
cao đã và đang phát triển nhân rộng. Các dịch vụ vật tư,
phân bón, thuốc trừ sâu, bảo vệ thực vật đã cung cấp kịp thời
phục vụ cho sản xuất. Việc quảng bá, xúc tiến thương mại về
hàng nông sản được quan tâm. Mối liên kết giữa sản xuất -
khoa học, công nghệ - tiêu thụ đã mang lại kết quả thiết
thực. Ngày càng xuất hiện nhiều mô hình nông dân sản xuất
giỏi thu nhập cao, những cánh đồng có giá trị lớn trên một
đơn vị diện tích.
Trong những năm qua, nhờ có một số chính sách lớn mang
tính đột phá tạo động lực ở thời kỳ đầu: khoán 100, khoán
10, giao ruộng đất cho nông dân sử dụng lâu dài, xóa đói,
giảm nghèo nên đã làm thay đổi căn bản nông nghiệp, nông
thôn, nông dân. Đây là khu vực đổi mới đạt được nhiều kết
quả nhất. Sản lượng lương thực tăng gấp đôi, xuất khẩu tăng,
đời sống nông dân được cải thiện, bộ mặt nông thôn thay đổi.

Nhưng đến nay các chính sách đó đã bão hòa, suy giảm có
mặt hạn chế kìm hãm nhưng chưa có chính sách mới thay
thế. Điều đáng nói là chính sách đất đai về cơ bản vẫn duy trì
"hạn điền" mâu thuẫn với sản xuất hàng hóa lớn. Nông dân ai
cũng có đất, nhưng đất không đủ sống, không đủ làm kinh tế
hàng hóa, nhiều nông dân trả ruộng, bỏ ruộng đi tìm việc làm
ở thành phố, cá biệt có nơi bỏ đất hoang hóa, những nông
dân chân chính không bao giờ muốn thế. Không có chính sách
hỗ trợ khi nông dân gặp thiên tai, dịch bệnh, đất bị thu hồi.
Cơ giới hóa không vào cuộc được vì quy mô nhỏ lẻ, manh
mún. Chăn nuôi, một trong hai ngành chính của nông nghiệp
nhưng về cơ bản còn nhỏ lẻ, hộ gia đình không có khả năng
phòng chống dịch bệnh trong khi dịch bệnh liên tiếp tái diễn.
Việc liên kết "3 nhà", "4 nhà" chủ yếu là hoạt động tự phát
chưa có chính sách khuyến khích hỗ trợ để áp dụng rộng rãi.

Cần có chính sách đột phá về ruộng đất, giải quyết một
cách căn bản vấn đề sở hữu, sử dụng đất đai trong nông
nghiệp, khắc phục sở hữu hình thức. Giải quyết tốt quan hệ
sở hữu và sử dụng làm cho ruộng đất có khả năng sinh sôi,
sử dụng có hiệu quả để phát triển chứ không phải sở hữu
danh nghĩa. Đất đai là sở hữu toàn dân, Nhà nước là người
đại diện với các quyền năng quan trọng: xây dựng chiến lược,
quy hoạch, giao quyền sử dụng cho các thể nhân, pháp nhân
có khả năng sử dụng có hiệu quả và thu thuế. Người sử dụng
phải được thuận lợi trong dồn điền, đổi thửa, cho phép những
người có khả năng tích tụ, tập trung đủ lớn để hình thành các
hộ sản xuất hàng hóa, trang trại, công ty kinh doanh nông
nghiệp, đất phải gắn với những con người cụ thể có khả năng
phát triển, với quy mô đủ lớn. Chuyển từ một nước nông
nghiệp sang công nghiệp, cơ cấu đất đai phải thay đổi căn
bản, lấy hiệu quả sử dụng đất là thước đo cho chính sách.
Thị trường quyền sử dụng đất phải công khai minh bạch để
làm cơ sở cho việc quản lý sử dụng ruộng đất có hiệu quả.
Nông dân gắn với các hộ lớn, trang trại, công ty để có thu
nhập ổn định. Một bộ phận nông dân được đào tạo để chuyển
sang công nghiệp, dịch vụ, xuất khẩu lao động. Những người
ở lại nông thôn an tâm sống bằng nghề nông với tư cách chủ
hộ hoặc làm việc trong các trang trại, công ty, nếu tổ chức
sản xuất với quy mô hộ nhỏ lẻ, biệt lập không còn phù hợp.
Có chiến lược sử dụng đất nông nghiệp hợp lý. Trong 10 năm
qua, chúng ta đã thu hồi hàng ngàn héc ta đất làm khu công
nghiệp, là những nơi đất tốt nhất. Nhà nước không có khả
năng kiểm soát bỏ mất nguồn thu quan trọng để tái đầu tư
cho nông nghiệp, nông thôn. Đã đến lúc phải chấm dứt tình
trạng này. Phải tìm cách làm mới, đầu tư kết cấu hạ tầng tốt
ở những vùng khác, đất đai cằn cỗi, khó phát triển nông
nghiệp để kêu gọi đầu tư. Để hội nhập có hiệu quả, phải tìm
mọi giải pháp nâng cao chất lượng, giá trị và khả năng cạnh
tranh của nông sản mà chúng ta có lợi thế. Xây dựng chiến
lược quy hoạch các vùng chuyên canh lớn, đầu tư kết cấu hạ
tầng chủ yếu từ Nhà nước, không thể máy móc xã hội hóa.
Chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng có lợi, ứng
dụng công nghệ và quy trình sản xuất hiện đại để nâng cao
chất lượng hàng hóa. Thực hiện các giải pháp đồng bộ để
giảm chi phí sản xuất, liên kết nông dân với công ty chế biến
xuất khẩu, các nhà khoa học, khuyến khích các công ty nước
ngoài có uy tín đầu tư vào công nghiệp chế biến để tăng thu
nhập cho nông dân. Cần phải có đột phá về tư duy để chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng có lợi cho nông dân, đây là
một sự đánh đổi có lựa chọn. Nên chăng ngoài bảo đảm an
ninh lương thực, có thể thu hẹp diện tích trồng lúa, phát triển
chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, nuôi trồng thủy sản,
để lại bao nhiêu diện tích, xuất khẩu bao nhiêu gạo là vừa,
dồn sức cho những cây trồng, vật nuôi có giá trị gia tăng lớn
hơn. Đồng bằng sông Cửu Long là trọng điểm lúa gạo, là
điểm sáng xuất khẩu, gần 20 năm xuất khẩu gạo nhưng vẫn
là vùng còn khó khăn phải tiếp tục tìm lời giải. Lao động việc
làm cũng phải tính. Hiện tại 9 triệu héc-ta đất canh tác, 24
triệu lao động nếu không có giải pháp mạnh để rút bớt lao
động từ nông nghiệp cho công nghiệp dịch vụ và cư dân đô
thị, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển dịch lao động thì
vấn đề nông dân, nông thôn vẫn dậm chân tại chỗ. Có chính
sách hỗ trợ tổ chức lại sản xuất ở nông thôn: thủ công
nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp để thực hiện "ly
nông bất ly hương".
Hội thảo: "Tác động chính sách tiền tệ đối với hoạt
động kinh doanh của ngân hàng thương mại Việt Nam”.

Năm 2008 kinh tế thế giới diễn biến hết sức phức tạp và biến
động nhanh chóng. Trong những tháng đầu năm, hầu hết các
nền kinh tế thế giới phải tập trung đưa ra các giải pháp mạnh
mẽ để chống lạm phát do “cơn bão giá “ lan rộng trên toàn
cầu. Giá dầu thô liên tục tăng cao, đến trung tuần tháng 7-
2008 lên tới đỉnh điểm là 147 USD/thùng; giá gạo có thời
điểm lên tới 1.200 USD/tấn; giá vàng lên tới trên 950
USD/ounce. Các mức giá đó cao nhất trong hàng chục năm
qua trên thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, USD mất giá mạnh
so với các loại ngoại tệ chủ chốt khác, có thời điểm 1 EURO
đổi được hơn 1,62 USD. Trước bối cảnh đó NHTW hàng loạt
nước phải thực hiện thắt chặt tiền tệ, tăng cao lãi suất chỉ
đạo, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc.

Tuy nhiên kinh tế thế giới đã và đang biến đổi hết sức nhanh
chóng vượt ra ngoài dự báo của NHTW, các định chế tài
chính, các nhà khoa học kinh tế nổi tiếng, cũng như cả giới
đầu cơ. Cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ khủng tín
dụng thứ cấp nhà ở tại Mỹ đã nhanh chóng lan ra toàn cầu.
Tính đến nay có gần 20 Ngân hàng và định chế tài chính Mỹ
bị đổ vỡ, nhiều ngân hàng khác tại châu Âu cũng bị quốc hữu
hoá, sáp nhập, bị thôn tính, bị thua lõ nặng. Giá dầu mỏ sụt
giảm với tốc độ “ khủng khiếp, đến đầu tháng 12-2008 cuống
chỉ còn 40 USD/thùng, giá vàng cũng giảm nhanh, đồng USD
mạnh lên so với các loại ngoại tệ mạnh khác trên thị trường
quốc tế. Giá gạo và một số mặt hàng lương thực khác giảm
hơn 2/3. Tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ và nhiều quốc gia khác gia
tăng, sức mua giảm. Thương mại thế giới giảm tới 10%, mức
giảm thấp nhất trong gần 20 năm qua. Thị trường chứng
khoán sụt giảm thê thảm, hàng nghìn tỷ USD bị bốc hơi.

Trước sự đột ngột “ quay đầu “ nhanh chóng như vậy của
kinh tế thế giới, NHTW các nước cũng đã phản ứng hết sức
linh hoạt, ngay lập tức chuyển sang thực hiện chính sách tiền
tệ nới lỏng, thực hiện cắt giảm mạnh mạnh lãi suất cơ bản,
cắt giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, đưa về mức thấp nhất trong
nhiều năm qua. Bộ tài chính và NHTW các nước bơm hàng
chục tỷ USD, thậm chí hàng trăm tỷ USD và các nước châu
Âu giành tới gần 3.000 tỷ USD để bơm vào hệ thống ngân
hàng thương mại, bơm vào nền kinh tế, cứu một loạt định
chế tài chính, đảm bảo thanh khoản cho các NHTM. Đồng thời
tăng mức bảo hiểm tiền gửi, hoặc cam kết bảo hiểm không có
giới hạn tiền gửi cho người dân. Tuy nhiên cho đến nay cuộc
khủng hoảng tài chính thế giới chưa có dấu hiệu được ngăn
chặn hoàn toàn và không biết còn diễn ra tới đâu và tác động
đến mức nào. Chỉ số chứng khoán trên các thị trường chứng
khoán chủ chốt khác vẫn liên tục mất điểm.

Đồng thời Chính phủ một loạt nước trên thế giới công bố các
kế hoặch kích thích kinh tế khổng lồ để ngăn chặn đà uy
giảm, thúc đẩy tăng trưởng. Riêng Chính phủ Trung Quốc đưa
ra kế hoặch tài chính trị giá tới 586 tỷ USD cho chương trình
kích cầu nền kinh tế theo hướng nói trên.

Nền kinh tế Việt Nam cũng chịu tác động ở mức độ khác nhau
của kinh tế thế giới, cộng với những nguyên nhân nội tại của
nền kinh tế đất nước, của thiên tai, dịch bệnh, nên trong
những tháng đầu năm 2008 lạm phát cũng tăng rất cao. Chỉ
số CPI tăng cao nhất trong khoảng 16 năm qua. Thực hiện chỉ
đạo của Chính phủ, ngày từ đầu năm 2008, NHNN đã thực
hiện đồng bộ các giải pháp thắt chặt tiền tệ để chống lạm
phát, như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng các loại lãi suất
chủ đạo, phát hành 20.300 tỷ đông tín phiếu bắt buộc đối với
các NHTM, kiểm soát chặt chẽ vốn cho vay đầu tư chứng
khoán, đầu tư bất động sản; tăng cường quản lý các bàn đại
lý thu đổi ngoại tệ.

Sau đó, việc thắt chặt tiền tệ kiềm chế lạm phát đã có những
tác động góp phần thực hiện hiệu quả mục tiêu chống lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và tăng
trưởng bền vững, từ đầu tháng 9-2008, cũng theo chỉ đạo của
Chính phủ, NHNN đã chuyển dần sang linh hoạt hơn trong
điều hành chính sách tiền tệ, tăng lãi suất tiền gửi dự trữ bắt
buộc, tăng lãi suất tín phiếu bắt buộc của NHNN. Tiếp theo đó
từ đầu tháng 10 đến đầu tháng 12-2008, NHNN thực hiện
nhiều đợt giảm dần lãi suất cơ bản và các loại lãi suất khác
do NHNN điều hành, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, cho phép các
TCTD được thanh toán trước hạn tín phiếu bắt buộc, nới rộng
biên độ giao dịch ngoại tệ của NHTM với khách hàng.Đặc biệt
là thời điểm đầu tháng 12-2008, góp phần thực hiện các giải
pháp cấp bách ngăn chặn suy giảm kinh tế, khắc phục đình
trệ sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo
chỉ đạo của Chính phủ, NHNN có các quyết định mang tính
đồng bộ và mạnh mẽ hơn theo hướng linh hoạt hơn nữa trong
điều hành chính sách tiền tệ. Những quyết định đó đã đưa lãi
suất trên thị trường dần trở về tương ứng với mức trước khi
thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, đáp ứng tốt hơn nhu
cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng
như của các thành phần kinh tế.

Tuy nhiên những diễn biến kinh tế vĩ mô trong và ngoài nước,


sự tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu, cũng như
điều hành các công cụ của chính sách tiền tệ của NHNN đã
tác động đến hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam,
như thiếu thanh khoản, lãi suất thị trường liên ngân hàng
tăng cao, lãi suất huy động vốn tăng cao nhưng lãi suất cho
vay nằm trong giới hạn của lãi suất cơ bản và luật dân sự.
Đến thời điểm hiện nay, mặc dù lãi suất cho vay đã giảm rất
lớn nhưng vốn cho vay ra của các NHTM vẫn rất khó khăn.
Nhìn chung nguồn thu của các NHTM bị giảm và quản trị điều
hành của các NHTM cũng bị động, luôn phải xử lý với các tình
huống xẩy ra.

Để góp phần đánh giá khách quan, khoa học những kết quả
đạt được và nhận diện đầy đủ những khó khăn, vướng mắc
cần khắc phục và rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết,
đề xuất giải pháp cho thời gian tới trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng thương mại, Trường Đại học Ngân hàng
thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Ngân hàng Liên Việt tổ
chức cuộc hội thảo với chủ đề: Tác động chính sách tiền tệ
đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại Việt
Nam”.

Sau hơn 1 tháng gửi thư mời viết bài cho hội thảo, đến nay
Ban tổ chức đã nhận được hơn 46 bài viết của các nhà khoa
học trong và ngoài ngành, các nhà hoặch định chính sách và
nghiên cứu tại hệ thống NHNN và một số cơ quan khác có liên
quan, cán bộ giảng dạy đào tạo tại một số trường đại học,
học viện ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, nhà quản trị
điều hành NHTM và một số tác giả khác quan tâm đến vẫn đề
này. Đặc biệt là Ban tổ chức đã nhận được nhiều bài của cán
bộ lãnh đạo các cấp, chuyên gia cao cấp trong hệ thống
NHTM, NHTM cổ phần Liên Việt cho dù bận rất nhiều công
việc kinh doanh nhưng cũng đã viết và gửi kịp thời tới hội
thảo.
Nội dung tất cả các bài tham luận đã bám sát vào chủ đề nói
trên của hội thảo. Ban tổ chức đã tiến hành biên tập, phân
loại thành 2 nhóm khác nhau và đóng thành tập kỷ yếu hội
thảo.

Ban tổ chức đánh giá cao những ý kiến đánh giá, phân tích,
những đề xuất gợi ý của các bài tham luận đối với Chính phủ,
NHNN, các bộ ngành và cơ quan có liên quan, các NHTM. Ban
tổ chức cũng xin chân thành cảm ơn sự tham gia cộng tác
nhiệt tình của các tác giả có bài viết và những người khác
quan tâm tới chủ đề hội thảo.

Ban tổ chức hội thảo


Một số chính sách và biện pháp thực hiện các mục
tiêu quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội (Chương I)

Theo các mục tiêu quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội TP.HCM đến
năm 2010, diện tích sẽ được đô thị hóa gấp 4,2 lần hiện nay (685 km2
so với 165 km2) và dân số khoảng 7,2 triệu người, gấp 1,5 lần năm
1995. Tốc độ tăng trưởng kinh tế, dự kiến 15%/năm trong giai đoạn
1996 - 2000 và 14%/năm thời kỳ 2001 - 2010, sẽ đưa mức
GDP/người vào năm 2010 vào khoảng 4.600 USD, cao hơn mức bình
quân cả nước theo dự kiến khoảng 4,8 lần (hiện nay khoảng 3 lần).

Với vị trí vai trò của một trung tâm nhiều chức năng, thời gian qua
TP.HCM luôn luôn thể hiện là một địa bàn có tốc độ tăng trưởng kinh
tế cao ở nước ta. Tốc độ tăng trưởng GDP trong giai đoạn 1991 -
1995 trung bình hàng năm là 12,6% so với mức bình quân 8,5%/năm
của cả nước.

Tuy nhiên, sự tăng trưởng kinh tế trong các năm qua, mới chỉ là sự
trỗi dậy của tiềm năng kinh tế dưới tác động của chính sách kinh tế
mở (mở bên trong và mở ra bên ngoài), còn mang tính tự phát, chưa
thực sự vận hành theo mục tiêu quy hoạch. Để có thể phát triển
nhanh, bền vững, cân bằng cả 2 mặt kinh tế và xã hội, đặc biệt là
đóng vai trò thúc đẩy cho mục tiêu phát triển kinh tế chung của cả
nước, TP.HCM đang đứng trước các vấn đề sau đây:

1. Làm thế nào để xử lý một cơ cấu kinh tế hợp lý trong mối quan hệ
với khu vực và cả nước, trong điều kiện còn tồn tại việc xác lập và
quản lý phát triển kinh tế theo qui mô ranh giới hành chính tỉnh, thành
như hiện nay. Việc bố trí lực lượng sản xuất, chủ yếu vẫn còn dựa
theo ranh giới hành chính và thuộc trách nhiệm của chính quyền mỗi
địa phương. Vấn đề phân công và gắn kết như thế nào để lợi thế của
từng địa phương phát huy vì lợi ích phát triển chung của cả nước.

2. Với chính sách kinh tế mở và cơ chế quản lý hiện hành, mới là điều
kiện cần, nhưng chưa phải là điều kiện đủ, để Nhà nước có thể dẫn
dắt sự phát triển theo mục tiêu của mình, hạn chế mặt tiêu cực của thị
trường hóa và phát triển nhanh, mà hiện nay đang nổi lên 2 vấn đề
lớn: (1) phá vỡ môi trường; (2) xây dựng công trình tự phát trên một
hạ tầng kỹ thuật còn ọp ẹp sẽ để lại hậu quả rất lâu dài.

3. Sự tập trung các dự án có vốn đầu tư nước ngoài ở những nơi có


nhiều lợi thế, trong điều kiện các doanh nghiệp trong nước mới phát
triển còn rất nhỏ bé, sẽ dẫn đến hệ quả là, trong tương lai các DNNN
lại tiếp tục mất lợi thế để cạnh tranh. Đây là hệ quả tự nhiên của mục
tiêu tăng trưởng nhanh nhưng không có vốn. Do đó, sự cân đối các
nguồn vốn đầu tư dựa trên mục tiêu tăng trưởng là bài toán có ý nghĩa
chiến lược đang đặt ra trong quy hoạch phát triển kinh tế của TP.

4. Sự phát triển của TP.HCM có gắn kết được với cả VPTKTTĐ PN và


liệu có tạo ra ảnh hưởng sự phát triển dây chuyền đến các nơi như
ĐBSCL, miền Nam Trung bộ và Tây Nguyên, hay chỉ tạo ra sức hút
làm chậm sự phát triển của các vùng lân cận và tạo sức ép di chuyển
dân cư, như số phận các thị xã, thị trấn lân cận các đô thị lớn thường
xẩy ra.

5. Quy hoạch dựa trên điều kiện khách quan, nhưng mục tiêu luôn
luôn phản ánh ý muốn chủ quan. Do đó, đã được quy hoạch, thì cần
có cơ chế và chính sách vận hành thế nào, để các vấn đề đặt ra trong
bài toán phát triển đồng thời được giải quyết, mà thực trạng pháp lý
chung hiện nay chưa có.
I. Các tồn tại về mặt cơ chế, chính sách biện pháp trong quản lý
phát triển

1. Các tồn tại do chính sách và cơ chế chung

1.1. Chưa hình thành cơ chế và chính sách để quản lý phát triển một
đô thị có qui mô lớn:

Cho đến nay, chúng ta vừa có quy hoạch phát triển kinh tế trên qui mô
vùng vừa có theo địa phương, nhưng việc thực thi quy hoạch đó dựa
trên trách nhiệm và thẩm quyền của các đơn vị hành chính cấp tỉnh
giống nhau. Trong thể chế hành chính của nước ta hiện nay, không có
một mối dây ràng buộc nào về sự liên đới trách nhiệm giữa chính
quyền các địa phương trong phát triển kinh tế. Ngay cả các Bộ của
TW cũng chưa hình thành một mối liên kết trách nhiệm nào đối với
việc triển khai thực hiện quy hoạch trên một địa bàn hành chính. Về
nguyên tắc, ở một qui mô phát triển nào cũng phải có cơ chế tổ chức
quản lý phát triển tương ứng. Việc triển khai thực hiện quy hoạch phát
triển, không dựa trên cơ chế kế hoạch hóa mang tính chỉ huy, mà dựa
trên sự vận động của cơ chế thị trường, nên đòi hỏi cơ chế và vai trò
điều tiết của Nhà nước thích hợp. Nhưng hiện nay, cơ chế trách
nhiệm trong việc quản lý theo ngành và theo lãnh thổ vẫn còn là cơ
chế thiếu rõ ràng.

1.2. Sự tồn tại tính địa phương trong phát triển:

Tính địa phương trong phát triển, trước hết xuất phát từ cách xây
dựng và thực hiện kế hoạch, ngân sách theo cơ chế hiện hành và
trách nhiệm, thẩm quyền của chính quyền địa phương trong việc phát
triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Mỗi địa phương đều có trách nhiệm
từ khâu quy hoạch, kế hoạch và triển khai thực hiện, nhưng luôn luôn
bị giới hạn trong tầm nhìn về lợi ích của địa phương mình. Sự chi phối
của các Bộ trong trách nhiệm quản lý ngành trên một địa bàn lãnh thổ
chưa cụ thể và còn rất hạn chế. Cơ chế quản lý ngành và quản lý lãnh
thổ đang rất trục trặc trong vận hành. Ví dụ, vừa qua tiến hành quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội theo đề án này, cố gắng tìm kiếm một
cơ chế phối hợp giữa địa phương và ngành rất khó khăn, còn cơ chế
phối hợp có tính chất vùng giữa các địa phương càng khó khăn hơn.

Nếu xét trên bình diện kinh tế vĩ mô, thì 53 tỉnh, thành của ta chưa thể
hiện là các bộ phận của "một dàn nhạc" của nền kinh tế quốc dân, mà
xây dựng như các "dàn nhạc" nhỏ, để cuối cùng nền kinh tế quốc dân
là gồm theo phép tính cộng các "dàn nhạc" đó lại. Đối với TP.HCM,
mà vị trí của nó có tầm quan trọng đối với nền kinh tế cả nước (hiện
nay đang chiếm 18% GDP của cả nước và đến năm 2010 dự báo sẽ
lên trên 30%) đang cần có cơ chế vận hành cụ thể, từ quy hoạch, kế
hoạch đến triển khai thực hiện vừa phù hợp với khuôn khổ chính sách
và pháp luật chung của cả nước, vừa phù hợp với chức năng nhiệm
vụ, quản lý, phát triển trên địa bàn của chính quyền địa phương và do
đó, cũng sẽ khắc phục được tính địa phương trong phát triển.

1.3. Thể chế hành chính và tài chính công vừa không tạo được tính
chủ động cho sự phát triển của địa phương, vừa không kiểm soát
được tính kỷ cương trong thực hiện.

Trong thể chế hành chính và tài chính công hiện hành mang lại hai
tính chất hoàn toàn mâu thuẫn nhau:

- Vừa tập trung (1).

- Vừa phân tán (2).


(1) Tính chất tập trung thể hiện ở khía cạnh pháp lý. Ví dụ: mọi tài sản,
các nguồn thu - chi ngân sách đều đưa vào một khái niệm Nhà nước,
chịu sự chi phối tuyệt đối của bộ máy hành chính TW. Chính quyền
địa phương, về pháp lý, không có thẩm quyền quyết định về kế hoạch
phát triển và ngân sách thuộc trách nhiệm mình thực hiện, mà phải để
phê duyệt trước để đưa vào cân đối kế hoạch. Do đó, thực chất
TP.HCM (cũng như các tỉnh khác) chỉ là một cấp dự toán ngân sách.

(2) Tính chất phân tán thể hiện ở khía cạnh vận hành. Bởi vì, do tập
trung quá độ nên bộ máy hành chính TW không đủ khả năng chỉ đạo
điều hành kiểm soát và giám sát, tất yếu dẫn đến cơ chế ủy nhiệm
theo "phương thức khoán". Đây là nguyên nhân dẫn đến sự cục bộ,
địa phương.

Về mặt luật pháp, cách tổ chức nhà nước của chúng ta hiện nay,
không có khái niệm "chính quyền địa phương" hiểu theo nghĩa một
pháp nhân có tài sản riêng, do đó, trên thực tế khó phân định lãnh vực
trách nhiệm của chính quyền địa phương và của chính quyền TW, mối
quan hệ pháp lý giữa các chính quyền địa phương... nhất là mối quan
hệ trong việc thực hiện chức năng của chính quyền trong phát triển
kinh tế. Đây là mối quan hệ cần xử lý khi tổ chức nền sản xuất theo
địa bàn lãnh thổ, dựa trên lợi thế so sánh về kinh tế, chứ không dựa
trên đơn vị hành chính của Nhà nước. Một khi đã thống nhất nội dung
và mục tiêu quy hoạch phát triển trên địa bàn TP.HCM thì cần xem đó
là một bộ phận trong tổng thể quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
nước ta, mà chính quyền địa phương chỉ là người được Chính phủ ủy
nhiệm tổ chức thực hiện với trách nhiệm và quyền hạn tương ứng với
nội dung công việc.
1.4. Về các định chế kinh tế tài chính chưa đáp ứng chức năng vận
hành cho sự phát triển:

Đặc điểm nổi bật về các định chế kinh tế, tài chính ở nước ta hiện nay
là sự hình thành các công cụ vận hành của nền kinh tế thị trường thay
thế dần trung tâm kế hoạch hóa mang tính chất chỉ huy, bao gồm việc
xác định các chủ thể độc lập, có chức năng khác nhau nhằm thực hiện
các mục tiêu của nền kinh tế và chế định hóa các chính sách kinh tế
thành các công cụ điều chỉnh vĩ mô, tạo nên "luật chơi" cho các chủ
thể kinh doanh hoạt động.

1.4.1. Đang hình thành sự phân định giữa các chủ thể trong nền kinh
tế:

Hiện nay đã xác định bước đầu sự biệt lập của 2 chủ thể: Nhà nước
(1) và doanh nghiệp (2). Đối với chủ thể thứ nhất, thực hiện chức
năng quản lý Nhà nước, cũng chính là cai trị (hiểu theo nghĩa rộng).
Đối với chủ thể thứ hai, có chức năng kinh doanh tức là tạo ra các sản
phẩm và dịch vụ cho xã hội. Các Luật Công ty, Luật DNTN, Luật Đầu
tư nước ngoài, Luật DNNN... là các định chế cho loại chủ thể thứ hai
vận hành.

1.4.2. Đang hoàn thiện các nhân tố của nền kinh tế tiền tệ:

Trong quá trình chuyển nền kinh tế từ tính chất hiện vật sang nền kinh
tế tiền tệ, các định chế tài chính, tiền tệ, tín dụng ngân hàng được xem
là hệ thống các công cụ quản lý vĩ mô và vận hành nền kinh tế then
chốt. Với sự ra đời 2 pháp lệnh về tổ chức và hoạt động ngân hàng
năm 1990, Luật Công ty năm 1991 là cơ sở bước đầu cho nền kinh tế
tiền tệ hoạt động.
Các tổ chức tài chính, tín dụng, ngân hàng phát triển khá mạnh trong
các năm qua ở TP.HCM. Trong đó có trên 20 chi nhánh, liên doanh và
văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngoài. Các ngân hàng
thương mại cổ phần và công ty tài chính trong nước phát triển nhiều
về số lượng, nhưng nhỏ về quy mô. Hoạt động của các tổ chức trên
nặng về kinh doanh, nhẹ về mục tiêu phát triển chung. Trong khi đó,
thiếu vai trò định hướng, điều phối và kiểm soát một cách hữu hiệu
của Nhà nước.

Trên địa bàn TP.HCM hiện nay, đang có xu hướng phát triển nhanh về
lãnh vực kinh doanh tiền tệ, nhưng còn non yếu về thị trường vốn
(trung hạn và dài hạn). Sự xâm nhập của các tổ chức kinh tế tài chính
nước ngoài vào khu vực nói chung và TP.HCM nói riêng nhanh hơn
sự phát triển từ bên trong. Xét về loại hình các tổ chức tài chính tín
dụng, chúng ta đang thiếu các định chế tài chính trung gian như quỹ
đầu tư, công ty đầu tư... để tham gia thị trường vốn trung - dài hạn.
Bài toán vốn trong cơ chế vận hành theo quy hoạch sẽ hướng đến sự
phát triển các định chế tài chính trung gian.

1.5. Chính sách và công cụ quản lý kinh tế vĩ mô thiếu ổn định, nhất


quán và mang tính hệ thống để tạo hành lang thuận lợi cho sự phát
triển:

Hoạt động kinh tế ở TP.HCM trong thời gian qua, cũng như ở nhiều
địa phương khác, dễ nhìn thấy hiện tượng đổ xô ra mua bán lẻ quá
nhiều, số người kinh doanh không chuyên nghiệp, vốn liếng ít đã gia
tăng nhanh vượt quá nhu cầu của xã hội, tạo nên một sự phát triển
hỗn độn. Trên thị trường luôn bị các "cú xốc" với những cơn khủng
hoảng thiếu và thừa nối tiếp nhau trên một số thị trường hàng hóa vật
tư chiến lược như: sắt thép, phân bón, xi măng, giấy...
Đây mới chỉ là một trong những hiện tượng gây lãng phí nguồn lực tài
chính của nền kinh tế vì vòng chu chuyển vốn của xã hội bị chậm lại
trong các đợt khủng hoảng thừa tạm thời, nhưng liên tiếp diễn ra từ
mặt hàng này sang mặt hàng khác.

Đặc biệt là hệ thống pháp luật điều chỉnh các hành vi kinh doanh theo
quan hệ cơ chế thị trường chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, vừa thiếu
vừa không đồng bộ. Nhưng vấn đề quan trọng hơn ở chỗ luật còn quá
nhiều kẽ hở cho tiêu cực nảy sinh, làm giàu bất chính, việc kiểm tra thi
hành luật còn buông lỏng, sự vi phạm luật chưa được xử lý nghiêm
minh. Những người kinh doanh chân chính, cả giám đốc DNNN và
DNTN, nếu chấp hành đúng luật thì không thể nào tồn tại trước những
đối thủ cạnh tranh có được ưu thế nhờ hệ thống qua con đường tiêu
cực (lợi thế cạnh tranh bất chính). Trong một môi trường kinh doanh
như thế sẽ làm nản lòng những nhà đầu tư muốn làm ăn một cách căn
cơ, tính toán lâu dài. Hiện tượng nhiều người nối đuôi nhau kinh
doanh theo kiểu "chiến dịch" từ vàng, đôla, xe máy đến địa ốc... mang
tính chất đầu cơ, đã làm méo mó các mục tiêu phát triển. Vai trò dẫn
dắt của Nhà nước về đầu tư theo định hướng có tác dụng còn rất hạn
chế, tác dụng của các công cụ điều tiết gián tiếp của Nhà nước đối với
các hoạt động kinh tế của toàn xã hội chưa có hiệu quả cao. Chính
sách thuế là một công cụ quản lý vĩ mô quan trọng, nhưng vẫn nặng
về mục tiêu tận dụng nguồn thu, nhẹ về mục tiêu khuyến khích phát
triển. Hệ thống thuế hiện hành vừa dễ bị thất thu trong hành thu, vừa
dễ gây ra tâm lý "sưu cao thuế nặng" đối với người kinh doanh nhỏ.

Nhìn chung, các công cụ quản lý vĩ mô chưa thiết lập được một cơ
chế vận hành phù hợp với đặc tính của thị trường và do đó, hiệu quả
tác động của vai trò Nhà nước chưa cao.
2. Các tồn tại chủ quan trong điều hành của TP

Hiện nay, ngoài tác động do các chính sách và cơ chế chung nêu trên,
về mặt chủ quan của TP trong vai trò của Nhà nước về quản lý phát
triển còn có những hạn chế, thể hiện chủ yếu ở sự thiếu chuẩn bị
những điều kiện cần thiết cho sự tăng trưởng kinh tế nhanh và tác
động của cơ chế thị trường.

Với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 12,6% trong giai đoạn 1991
-1995 đã bộc lộ một số yếu kém trong vai trò quản lý phát triển của
Nhà nước (địa phương) ở các mặt sau đây:

2.1. Tự phát và thiếu đồng bộ trong xây dựng và phát triển:

Quy hoạch tổng mặt bằng và xây dựng đô thị vừa qua chưa gắn liền
với nội dung quy hoạch kinh tế - xã hội, nên còn phổ biến hiện tượng
xây dựng và phát triển tự phát. Nhiều khu vực dân cư xây dựng mới
không đồng bộ với xây dựng hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội (y tế,
giáo dục, văn hóa), mà hệ quả là chỉ sau vài năm đã quá tải.

2.2. Thiếu chuẩn bị cho đầu tư:

Thiếu sự chuẩn bị (hoặc chuẩn bị sơ sài) các dự án để kêu gọi đầu tư


(trong nước và ngoài nước), việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài còn
mang tính thụ động, đối phó, đôi khi chạy theo ý muốn của nhà đầu tư.
Thiếu các biện pháp có hiệu quả để dẫn dắt nhà đầu tư đi theo kế
hoạch và mục tiêu định sẵn. Chưa chú ý đúng mức và chưa có biện
pháp có hiệu quả để khuyến khích các nhà đầu tư trong nước và huy
động nguồn vốn trong nước. Chưa đánh giá đúng mức tầm quan trọng
trong công tác chuẩn bị các dự án đầu tư, để dành ngân sách thỏa
đáng cho việc này. Đây cũng là nguyên nhân chính đưa đến phát triển
tự phát.

2.3. Chậm đổi mới hoạt động các cơ quan hành chính nhà nước:

Mặc dù, nền kinh tế nhiều thành phần đã tồn tại và phát triển hàng
chục năm, hoạt động kinh tế là hành vi của toàn xã hội, nhưng các cơ
quan có chức năng quản lý nhà nước, chủ yếu chỉ quan tâm đến
doanh nghiệp của mình. Chủ trương tách chức năng quản lý hành
chính với quản lý kinh doanh đối với các cơ quan hành chính nhà
nước đã đề ra từ Đại hội Đảng bộ TP lần thứ V (1991), nhưng thiếu
biện pháp thực hiện và để kéo dài trong nhiều năm. Do đó, chức năng
quản lý hành chính của Nhà nước trong hoạt động kinh doanh đối với
mọi chủ thể kinh doanh trên địa bàn đã không tương ứng với thực tiễn
diễn ra, mà hệ quả là mất trật tự, thiếu kỷ cương, không hạn chế được
các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, phát sinh nhiều tiêu cực về xã
hội.

2.4. Chậm đổi mới bộ máy hành chánh nhà nước:

Bộ máy hành chính nhà nước ở địa phương về cơ bản vẫn chưa có
sự đổi mới để thích nghi với vai trò và nhiệm vụ của Nhà nước trong
điều kiện vận hành của cơ chế thị trường, vẫn tiếp tục cồng kềnh,
nặng nề, nhưng chưa thực hiện tốt được chức năng hoạch định,
hướng dẫn, điều tiết, yểm trợ và giám sát hoạt động của mọi thành
phần kinh tế. Tình trạng chồng chéo chức năng, nhưng thiếu trách
nhiệm cụ thể giữa các cơ quan hành chính nhà nước kể cả mối quan
hệ ngang (sở - ban - ngành TP) và mối quan hệ dọc (TP - quận, huyện
- phường, xã) vẫn tiếp tục tồn tại, làm cho hiệu lực quản lý nhà nước
kém.
2.5. Chậm chuẩn bị con người cho mục tiêu phát triển:

Đội ngũ viên chức hành chính nhà nước trong các lĩnh vực quản lý
nhà nước trên địa bàn chậm được đào tạo, sàng lọc để nâng cao chất
lượng theo yêu cầu đổi mới. Cho đến nay vẫn chưa có dấu hiệu thành
công trong việc tinh giảm bộ máy hành chính nhà nước - giảm số
lượng, tăng chất lượng. Sự bất cập của đội ngũ viên chức hành chính
nhà nước trước yêu cầu phát triển kinh tế nhanh đã bộc lộ rất rõ. Đây
sẽ là một thử thách lớn đối với giai đoạn phát triển tới.

Đội ngũ cán bộ chủ chốt có đủ năng lực và phẩm chất để quản trị các
DNNN, và để tham gia vào các liên doanh với các thành phần kinh tế
khác (trong nước và nước ngoài) cũng chưa được chuẩn bị từ khâu
quy hoạch đào tạo đến bố trí sử dụng. Đây là vấn đề vô cùng bức xúc
hiện nay, khi chúng ta muốn tổ chức lại các DNNN thành những tổ
chức kinh tế mạnh của Nhà nước và mở rộng việc tham gia vốn vào
các doanh nghiệp khác (trong nước và nước ngoài).

Xét cho cùng, đối với TP chúng ta, trong việc chuẩn bị các điều kiện
cho sự phát triển trong giai đoạn mới, việc chuẩn bị con người là có ý
nghĩa quyết định. Chung quy lại, thế mạnh của TP chúng ta vẫn là con
người: tính năng động trong kinh doanh, giàu sáng tạo trong lao động,
nhạy bén với cái mới, có trình độ khoa học - kỹ thuật và đặc biệt là
tính thực tế trong hoạt động. Đó là các đặc tính cần thiết cho sự phát
triển và cũng chính là tiềm năng của TP chúng ta. Vấn đề đặt ra, là
làm sao có chính sách, cơ chế, biện pháp tổ chức thực hiện khả dĩ có
thể biến tiềm năng trên thành hiện thực.

2.6. Thiếu định hướng đầu tư theo trọng điểm để khai thác lợi thế so
sánh:
Mặc dù, trong 3 năm gần đây, ngân sách nhà nước đã tập trung đầu
tư để cải thiện điều kiện hạ tầng kỹ thuật rất có hiệu quả. Tuy nhiên,
vẫn còn tình trạng khá phân tán một phần vốn đầu tư theo diện rộng,
đặc biệt là trong khu vực sự nghiệp kinh tế, thiếu sự tập trung theo
chiều sâu. Cho đến nay, các ngành sản xuất CN thuộc địa phương
quản lý vẫn phổ biến ở trong tình trạng lạc hậu so với các xí nghiệp
cùng loại do TW quản lý, thậm chí so với một số địa phương khác.
Nhà nước chưa đầu tư thỏa đáng, hoặc có biện pháp kích thích các
thành phần kinh tế khác đầu tư vào chiều sâu để đẩy mạnh một số
ngành kinh tế mũi nhọn, tạo ra sản lượng lớn, chất lượng cao khả dĩ
cạnh tranh được trên thị trường. Việc đầu tư và khuyến khích đầu tư
khoa học - kỹ thuật vào sản xuất còn quá chậm. Khoảng cách giữa
nghiên cứu khoa học và ứng dụng vào đời sống kinh tế còn rất lớn.
Tiềm năng khoa học của TP chưa được phát huy đúng mức. Cơ bản,
cho đến nay, nền sản xuất của TP (cả CN lẫn TM - DV) vẫn phát triển
theo chiều ngang và đang đứng trước nguy cơ sẽ chựng lại, nếu
chậm đầu tư theo chiều sâu.

You might also like