You are on page 1of 47

Ngô Thì Nhậm

G.S Vũ Khiêu

Đã 200 năm, từ ngày Ngô Thì Nhậm qua đời sau trận đòn thù tại sân Văn Miếu
(1803). Sau hành động tàn nhẫn và bỉ ổi lấy, vua quan nhà Nguyễn tiếp tục lên án ông
về tội "bất trung, bất hiếu".

Qua những trang sách cũ, đọc lại thơ ông, chúng ta thấy nổi lên những nét rất
đậm đà và rực rỡ về toàn bộ cuộc đời ông. Ta càng hiểu thêm những khát vọng lớn
lao, những suy nghĩ thầm kín, những tâm sự đau thương phản ánh con người ông từ
chiều sâu của tâm hồn. Thơ văn ấy là một bức tranh tuyệt đẹp vẽ lại cuộc đời ông,
người đã đem hết trí lực và tài năng chiến đấu cho lợi ích của nhân dân, cho đạo lý
của cuộc sống, cho vinh dự của Tổ quốc, cho phẩm giá của con người.

Ngô Thì Nhậm sinh ngày 25 tháng 10 năm 1746 tại làng Tả Thanh Oai, huyện
Thanh Oai tỉnh Hà Đông cũ (nay thuộc Hà Nội). Cha ông là Ngô Thì Sĩ, đậu tiến sĩ
làm quan thời Lê Trịnh đồng thời là nhà sử học và nhà thơ. Các em ông đều học giỏi
đỗ cao: Em rể ông là Phan Huy Ích, một trí thức nổi tiếng thời Tây Sơn. Người đương
thời thường khen ngợi gia đình ông: "Họ Ngô một bồ tiến sĩ". Không những gia đình
đã từng đời đời đỗ đại khoa và nhận tước lộc cao của triều đình mà còn nổi tiếng về
văn học được mọi người tôn vinh với danh hiệu Ngô gia văn phái.

Ngô Thì Nhậm 16 tuổi đã soạn quyển Nhị thập thất sử toát yếu. Năm 1765, ông
đậu kỳ thi Hương, tiếp đến năm 1976, ông đỗ khoa sĩ vọng, được bổ chức Hiến sát
phó sứ Hải Dương. Công việc trước tác và sáng tác của ông thực sự bắt đầu từ giai
đoạn này. Năm 1771, Ngô Thì Nhậm hoàn thành quyển Hải Đông chí lược, nghiên
cứu mọi mặt về lịch sử và đời sống của vùng Hải Dương. Năm 1775, Ngô Thì Nhậm
đi thi Hội, đỗ thứ năm hàng Tiến sĩ đệ tam giáp, được bổ Cấp sự trung Bộ Hộ. Năm
1776, được thăng Giám sát ngự sử đạo Sơn Nam, rồi thăng Đốc đồng trấn Kinh Bắc,
năm sau lại kiêm luôn Đốc đồng Thái Nguyên. Năm 1779 Ngô Thì Nhậm chuyển
sang làm Hiệu thư ở tòa Đông Các.

Làm án sát Hải Dương rồi làm đốc đồng hai trấn Bắc Ninh và Thái Nguyên, ông
đã tỏ ra là một thanh niên lỗi lạc, văn võ kiêm toàn. Ngô Thì Sĩ đã từng viết về con:
"Con ta lấy tài năng gặp được tao ngộ dị thường, lấy tâm cơ đáp ứng với ủy nhiệm
khó khăn, lấy trung thành làm liều thuốc để gạt bỏ gian hiểm và làm tiêu tan khí lam
chướng. Tướng sĩ trong một đạo đều tuân theo hiệu lệnh. Kẻ địch ngoài bờ cõi không
lường biết được mưu cơ. Muôn khe, nghìn dặm không đâu cho là xa. Quân đội muôn
bếp thống nhất như một người. Bậc đại trượng phu văn, võ cùng đi đôi bằng phẳng và
hiểm trở coi là một: thật là xứng đáng!". (Trích thư Ngô Thì Sĩ gửi cho con là Ngô
Thì Nhậm).
Sĩ phu đương thời chê trách Ngô Thì Nhậm đã ít nghĩ đến vua Lê mà chỉ hết
lòng với chúa Trịnh, sau lại bỏ cả Lê, Trịnh mà theo Tây Sơn như thế là bất trung.
Người ta lên án ông đã đứng về phía Đặng Thị Huệ và "giết bốn bố" để làm chức thị
lang, như thế là bất hiếu. Người ta phủ nhận những cống hiến vĩ đại của Ngô THì
Nhậm đối với tổ quốc, với nhân dân; coi đó chỉ những hành động xu thời.

Trước tất cả những lời đả kích ấy, Ngô Thì Nhậm đã kiên quyết đi con đường
của mình. "Ta hãy yên tĩnh lòng ta, giữ điều ẩn ước của ta. Khi việc làm của ta thuận
với mệnh trời, thì đem cả thiên hạ bắc lên cân, cũng không cho là lớn.

Ta hãy giữ gìn thân ta, đi con đường rộng lớn của ta. Khi bước đi của ta thấy
hợp với "lý", thì dù có dẵm lên đuôi hổ cũng không sao cả!".

(Vị chi phú).

Ngay từ khi đỗ tiến sĩ, Ngô Thì Nhậm đã được chúa Trịnh tin dùng. Là một
thanh niên học rộng tài cao, ông luôn luôn nghĩ tới những việc lớn của quốc gia, làm
thế nào để dân được ấm no, nước được giàu mạnh? Với tinh thần ấy, ông đã sống
khác các sĩ phu đương thời, luôn luôn băn khăn trước tình trạng kiệt quệ về kinh tế,
rối ren về chính trị, tan rã về tinh thần của thời Lê-Trịnh. Ông điều tra rất cụ thể tình
hình các địa phương, luôn luôn gửi những lời kiến nghị lên chúa Trịnh, dù việc ấy có
thể làm phật ý chúa. Ông xác định "làm người bề tôi thờ một ông vua, biết có thể làm
được mà không làm, thế là bất trung. Đứng ở một triều có thể nói được, mà im lặng
không nói thế là bất thành". Vì lòng trung thành với chúa Trịnh và trước hết là lòng
trung thành với tổ quốc và với nhân dân, mà Ngô Thì Nhậm dám nói thẳng với chúa
Trịnh về những sai lầm trong chính sách của triều đình.

Nhưng tất cả những kiến nghị của Ngô Thì Nhậm đều không được Trịnh Sâm
chấp nhận. Trịnh Sâm lúc mới lên ngôi chúa đã làm được một số việc xuất sắc nhưng
khi "bốn phương đã yên lặng, kho đụn lại sung túc, Sâm dần dần sinh ra xa xỉ, kiêu
căng, cung tần thị nữ kén vào rất nhiều, ngày đêm mặc ý mua vui, không còn e lệ gì
nữa" (Hoàng Lê nhất thống chí). Từ đó Triều đình ngày một mục nát, nhân dân ngày
một đói khổ, các quan chức trong triều thì chia thành phe phái giữa những người ủng
hộ Trịnh Tông và những người theo Đặng Thị Huệ và Trịnh Cán. Các sĩ phu đương
thời chê trách Ngô Thì Nhậm đã đứng về phe Đặng Thị Huệ mà tố cáo âm mưu của
bè lũ Trịnh Tông.

Lúc đó Trịnh Sâm đã ốm đau không còn sống được bao lâu nữa, Trịnh Tông
(con lớn của Sâm) là đứa ngu xuẩn, tàn ác, bất tài, bất lực đã bị chính cha nó ghét bỏ.
Nhân cách của nó, Ngô Thì Nhậm không thể không biết. Con nhỏ của Sâm là Trịnh
Cán (con của Đặng Thị Huệ) lại tỏ ra thông minh khác thường và được Trịnh Sâm đặc
biệt yêu quý nên lập làm thế tử. Trong trường hợp ấy nếu Ngô Thì Nhậm đứng về
phía Đặng Thị Huệ và Trịnh Cán, thì theo lễ giáo cũ ông vẫn là người tận trung với
Trịnh Sâm. Đứng về lẽ phải, đó là một việc làm thức thời, vì ông biết đất nước không
thể trông mong gì được ở Trịnh Tông, tên bạo chúa sau này, còn đối với Trịnh Cán,
ông rất có thể đem tài năng của Y Doãn và Vũ Hầu ra giúp ấu chúa.

Năm 1782, Trịnh Sâm mất, kiêu binh phế Trịnh Cán lập Trịnh Tông lên ngôi
chúa. Thấy tình hình Thăng Long phức tạp, Ngô Thì Nhậm bỏ về sống ở quê vợ, vùng
Sơn Nam trong vòng sáu năm. Ông đã hoàn thành tác phẩm khảo cứu Xuân Thu quản
kiến và tập thơ Thủy vân nhàn vịnh trong thời gian này.

Năm 1786 Nguyễn Huệ ra Bắc đánh đổ nhà Trịnh rồi trả lại đất nước cho vua
Lê.

Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ hai và trong một thời gian rất ngắn vị anh hùng này
đã bộc lộ tài năng và khí phách trong việc phù Lê diệt Trịnh, rất xứng đáng là người
ông vẫn mong mỏi và chờ đợi. Ông quyết tâm tìm đến tới Nguyễn Huệ và tin tưởng
rằng việc làm của mình là đúng. Khác hẳn với các sĩ phu đương thời, ông dứt bỏ
những ràng buộc về giai cấp và nhận thức, đi hẳn với phong trào Tây Sơn và trung
thành tuyệt đối với người anh hùng áo vải.

Cuộc gặp gỡ giữa Quang Trung và Ngô Thì Nhậm là một cuộc gặp gỡ kỳ diệu
giữa người trí thức lỗi lạc với người anh hùng kiệt xuất. Có thể nói Ngô Thì Nhậm là
người duy nhất đã hiểu rõ Quang Trung, và Quang Trung cũng là người duy nhất đã
hiểu hết được tài năng và phẩm chất của Ngô Thì Nhậm. Quang Trung tuyên bố "Ngô
Thì Nhậm vừa là bầy tôi, và là khác" coi ông như là người đáng tin cậy nhất và giao
ngay những công việc rất quan trọng. Ngay từ buổi đầu, Quang Trung đã phong Ngô
Thì Nhậm là Tả thị lang Bộ lại, nghĩa là phụ trách toàn bộ công việc tổ chức và cán
bộ trong nội bộ của mình. Ngay buổi đầu đó, Ngô Thì Nhậm đã lập tức gọi em rể là
Phan Huy Ích viết thư cho bạn là Trần Bá Lãm, giới thiệu một loại trí thức có tài, có
đức về với Quang Trung.

Cuộc rút quân về Tam Điệp là một sách lược kiệt xuất nói lên trình độ mưu trí
và cực kỳ sáng tạo của Ngô Thì Nhậm. Lúc đó các tướng võ như Ngô Văn Sở, Phan
Văn Lân chỉ có biết đánh, còn Nguyễn Văn Dụng thì chỉ muốn lặp lại kinh nghiệm
của Lê Lợi ngày xưa là mai phục. Ngô Thì Nhậm đã bác bỏ cả hai ý kiến đó, so sánh
lực lượng của hai bên, vạch ra sự khác nhau cơ bản của hoàn cảnh lúc bấy giờ và hoàn
cảnh của thời Lê Lợi khi xưa, nêu lên ý nghĩa của "toàn quân rút lui không bị mất một
mũi tên, cho nó ngủ trọ một đêm rồi lại đuổi đi" (Hoàng Lê Nhất Thống chí). Sách
lược rút lui này hoàn toàn phù hợp với ý của Quang Trung và đã tạo điều kiện hết sức
quan trọng để Quang Trung đánh bại quân Thanh.

Sau khi đất nước được giải phóng. Quang Trung rút về Phú Xuân để Ngô Thì
Nhậm ở ngoài Bắc và giao cho toàn quyền đảm đương công việc ngoại giao với nhà
Thanh. Ngô Thì Nhậm lại phát huy óc sáng tạo của mình. Trong việc tiếp xúc với vua
quan nhà Thanh cũng như trong việc giao dịch bằng thư từ, Ngô Thì Nhậm vừa cương
quyết, vừa linh hoạt, vừa nêu cao chủ quyền dân tộc, vừa giữ tình hòa hiếu giữa hai
nước. Với tài ngoại giao, Ngô Thì Nhậm đã góp phần ngăn chặn được cuộc tấn công
trả thù của nhà Thanh, miễn được lễ cống người, vàng, đòi nốt những tỉnh ở vùng Tây
Bắc, yêu cầu phong vương cho Quang Trung, củng cố lòng quý trọng của vua nhà
Thanh đối với Quang Trung. Ngô Thì Nhậm đã thực hiện rực rỡ nhiệm vụ của Quang
Trung giao phó đúng với tinh thần:

"Chiến hòa do ta định đoạt

Thân thiện để người cùng vui"

Ngô Thì Nhậm chỉ cộng tác với Quang Trung có năm năm. Vị anh hùng kiệt
xuất của dân tộc đã từ trần quá sớm. Đó là sự tổn thất không gì bù đắp được của nhân
dân ta thời kỳ bấy giờ. Đó cũng là nỗi đau xót nhất của Ngô Thì Nhậm.

Vua mới còn ít tuổi, công việc quốc gia bị Bùi Đắc Tuyên, cậu ruột của vua
nắm hết. Triều đình Tây Sơn ngày một suy vong, Ngô Thì Nhậm mặc dầu tuổi già,
sức yếu vẫn cố gắng phục vụ triều Tây Sơn, vừa lo lắng cho vận mệnh của đất nước.
Không có cách gì để thuyết phục vua Quang Toản nghe theo mình, ông đã rất đau
buồn lo âu.

Thời kỳ này, Ngô Thì Nhậm đã viết cuốn sách lý luận về Phật giáo nhan đề
Trúc Lâm tôn chỉ nguyên thanh. Trong tập này, Ngô Thì Nhậm đã phát huy cao hơn
nữa tư tưởng của cha mình. Ngô Thì Sĩ, cha ông ngày xưa cũng đã từng muốn thống
nhất cả Khổng giáo, Phật giáo và Lão giáo vào một nguồn gốc (tam giáo nhất
nguyên). Hòa hợp đạo Phạt và đạo Nho. Ngô Thì Nhậm đã trình bày những kiến thức
rất uyên bác với những lý lẽ rất chặt chẽ của mình. Ông dã để lại một di sản văn
chương đồ sộ gồm trên 600 bài thơ và 15 tác phẩm lớn.

Điều đáng quý ở Ngô Thị Nhậm là trong giai đoạn suy vong của triều Tây Sơn,
ông vẫn giữ nguyên vẹn một tấm lòng thủy chung son sắt, luôn luôn tìm mọi cách
củng cố triều đại, phục vụ tổ quốc và nhân dân.

Trong tình hình phức tạp và suy thoái này của nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh sau
khi chiếm lại miền Nam, đã kéo quân ra Bắc, tiêu diệt triều đại Tây Sơn và chấm dứt
cuộc đời của Ngô Thì Nhậm bằng một trận đò thù ở sân Văn Miếu.

Trong suốt cuộc đời mình, Ngô Thì Nhậm đã chứng kiến không biết bao nhiêu
sự thay đổi từ Nam chí Bắc. Hàng chục vua, chúa được đựng lên rồi bị đánh đổ. Cuộc
đấu tranh giành giật quyền vị đất đai, diễn ra liên tiếp trong hàng ngũ phong kiến.
Phong trào nông dân mà đỉnh cao nhất là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã tràn ngập khắp
nơi như vũ bão. Sự vùng dậy của dân tộc đã đánh tan 20 vạn quân xâm lược. Tất cả
những sự kiện to lớn ấy đã thu gọn trong cuộc đời 57 năm của Ngô Thì Nhậm.
Thời thế luôn thay đổi nhưng bản chất con người tri thức chân chính ấy không
thể thay đổi. Dù ở với Lê, Trịnh hay với Tây Sơn, dù trong lúc giữ những trọng tách
lớn của lịch sử hay lúc sa cơ trước mặt quân thù, Ngô Thì Nhậm đã giữ nguyên vẹn
những phẩm chất cao quý của mình. Đó là lòng yêu nước, yêu dân, là đầu óc suy nghĩ
sáng tạo, là sự đấu tranh đến cùng cho chính nghĩa. Cho nên thời thế dù Xuân thu hay
Chiến quốc, dù hưng thịnh hay suy vong, trong thành công hay thất bại, Ngô Thì
Nhậm đã sống như thế và chỉ có thể sống như thế.

(Tạp chí Thăng Long Hà Nội ngàn năm - Số 12/2003)

Phù Đổng Thiên Vương


Di tích & huyền thoại
Trần Thị Vân Anh
Trưởng phòng VHTT
TDTT huyện Gia Lâm

Bạn có thể thăm viếng tượng đài "Thánh Gióng" ở đâu đó, nhưng xin chớ quên
nơi chôn nhau cắt rốn của Người. Gióng - Phù Đổng tên của người anh hùng cũng
chính là tên của một địa danh có thật.
Phù Đổng, đó là một vùng đất nằm kề bên bờ tả ngạn sông Đuống, trước đây
thuộc phủ Tiên Du tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội, cách trung tâm
Hồ Gươm hơn 10 km theo đường chim bay.
Theo truyền thuyết, Phù Đổng là nơi sinh ra Thánh Gióng. Mẹ Gióng ướm bước
chân thần ở vườn cà mà sinh ra. Thời Hùng Vương thứ sáu, giặc Ân xâm lược nước
ta, Gióng lên ba, thoắt nói, thoắt cười, thưa mẹ đòi sứ giả vào, xin nhà Vua sắm cho
ngựa sắt, roi sắt, giáp sắt. Vua Hùng cho người mang đến.
Sau "Bảy nong cơm, ba nong cà. Uống một hơi nước cạn đà khúc sông". Gióng
vươn vai cao lớn khác thường, mặcgiáp sắt, cầm roi sắt, lên ngựa sắt. Ngựa sắt phun
lửa xông vào quân giặc. Trận chiến đấu ác liệt, roi sắt gẫy, Gióng nhổ cả bụi tre đằng
ngà đánh giặc. Giặc tan, Gióng cưỡi ngựa lên núi Sóc Sơn bái vọng Mẹ rồi bay về
trời.
Theo tục truyền, cứ đến ngày 9/4 âm lịch hàng năm, dân làng lại tổ chức lễ hội
Gióng, một sinh hoạt văn hóa dân gian đặc sắc. Qua các diễn xuất trong hội lễ, người
ta có thể liên tưởng những bài học về chiến tranh nhân dân, suy ngẫm cách nhìn kẻ
thù, hiểu thêm về thẩm mỹ truyền thống, cũng như đạo lý ứng xử con người trong
tiến trình lịch sử...
Có rất nhiều người viết về Phù Đổng Thiên Vương, về cả thần tích, di tích và lễ
hội. Song, rõ ràng rằng từ xưa đến nay chưa có một ai để tâm giải mã những hiện
tượng văn hóa liên quan đến Đức Thánh Phù Đổng. Chúng ta hiểu rằng Đức Thánh
Phù Đổng Thiên Vương là một trong "Tứ bất tử". Trong "Tứ bất tử" này của người
Việt thì rõ ràng chỉ chấp nhận Đức Thánh Phù Đổng và Tản Viên Sơn thánh là tư
cách của anh hùng văn hóa đích thực còn Chử Đồng Tử và Mẫu Liễu Hạnh chỉ là
những vị thần về sau mang yếu tố của các thần linh không phải dạng anh hùng văn
hóa vì Chử Đồng Tử và Mẫu Liễu Hạnh là những vị thần đã được quan tâm tới và đề
cao ở thời kỳ sử đã thành văn. Đức thánh Phù Đổng Thiên Vương và Tản viên sơn
thánh là những người được nảy sinh từ thời cổ đại, tiền sử.
Ở đây chúng ta hiểu rằng trong quá trình phát triển của cư dân Việt, các vị anh
hùng văn hóa thường được gắn với các sự kiện rất lớn của người Việt. Nếu như chúng
ta biết rằng Đức thánh Tản Viên ở tận vùng núi cao xa, Ngài là bạn thân của Thủy
Tinh nhưng ở đấy "Sơn thủy hữu tình". Đến khi người Việt lùi xuống phía dưới, biết
đắp đê ngăn lụt thì lúc đó Tản Viên mới trở thành có tính chất là kẻ thù đối với Thủy
Tinh mà biểu hiện bằng sự kiện lấy con gái vua Hùng. Đó là một hiện tượng sử hóa
các anh hùng văn hóa. Nhưng khi đã xuống đến châu thổ cao giáp với châu thổ thấp
thì người Việt lúc đó chủ yếu sử dụng công cụ bằng đồ đồng, đồ đá. Nhưng vì công
cụ này không có cách nào mà khai phá được những châu thổ thấp và đến lúc này
người ta phát hiện ra đồ sắt và chỉ có đồ sắt mới có khả năng chặt được những cây lớn
và khai phá những rừng rậm ở châu thổ thấp, đầm lầy mà thôi. Chính do phát hiện ra
đồ sắt và thấy sức mạnh của sắt vô cùng to lớn như thế nên sức mạnh này được hội tụ
và nhân cách hóa để trở thành một vị thần vĩ đại. Vị thần vĩ đại ấy đã góp phần tạo
nên sức mạnh, đại diện cho sức mạnh của dân tộc khai phá châu thổ thấp. Và, người
Việt chỉ có thể trở thành một quốc gia, một dân tộc đầy đủ khi đã khai phá châu thổ
Bắc Bộ. Cũng chính từ vùng thấp này, người Việt mới tạo đà để phát triển, để ra đi
tiến tới một đất nước to lớn, thống nhất của cộng đồng như ngày nay. Như vậy chúng
ta hiểu rằng Đức thánh Phù Đổng Thiên Vương đã đánh dấu một bước phát triển đặc
biệt của dân tộc chúng ta ở thời kỳ sơ cử, tiền sử. Và, chỉ có từ Ngài mà chúng ta mới
phát triển lên được, đặc biệt là phát triển nông nghiệp. Ở đây với công cụ đồ sắt được
quy tụ vào cái gậy của Ngài, khi Ngài cầm gậy đi đánh giặc. Đó là một cuộc trường
chinh về sản xuất, một cuộc trường chinh với sức mạnh của đồ sắt buổi đầu khai phá
châu thổ Bắc Bộ. Đây là một vị trí tiếp giáp giữa châu thổ cao với châu thổ thấp để
nói lên bước phát triển của dân tộc...
Ở đây chúng ta còn thấy một đặc điểm khác nữa là trong lễ hội có rất nhiều tục
lệ đi theo nhưng đáng quan tâm là ở chỗ con ngựa trắng và ông hiệu cờ là quan trọng
nhất. Khi chúng ta thấy có 28 thiếu nữ tượng trưng cho tướng giặc, thực chất tượng
trưng cho tinh tú. Mà sử dụng những cô bé còn ngây thơ là biểu hiện hồn nhiên như
bầu trời. Người Việt lấy thờ Mẫu làm trọng thì sự ngây thơ ấy cũng xuất phát từ nữ
giới. Đó là một ý kiến. Song, ý kiến này đáng được tin theo, ý kiến khác là người ta đi
rước vào giữa trưa và rước ngựa trắng đi và chỉ ngựa trắng thôi. Ngựa trắng là "Bạch
Mã" tượng trưng cho sức mạnh linh khí của trời và tượng trưng cho phương Đông,
cho mặt trời, cho nên khi rước, người ta cầu cho có được sinh khí tràn về cho trần
gian, cho muôn loài sinh sôi. Và, trong tục lệ của người dân ở đây, nhiều người tin
rằng khi rước ngựa trắng ra thì trời bao giờ cũng nổi gió. Có nghĩa là trời ứng vận vào
người "Thiên nhân hợp khí" mà tạo cho khí thiêng của trời tràn về trần gian. Và, khi
rước về thì sinh khí đó nó hội tụ vào lá cờ đỏ. Lá cờ đỏ là của ông hiệu cờ. Màu đỏ là
màu của sinh khí, màu của sức sống. Màu đỏ gắn với thần linh. Cái màu ấy có tràn về
thì muôn loài mới phát sinh phát triển được. Cho nên vai trò của ông hiệu cờ là rất
quan trọng. Múa cờ đỏ là nói lên cái vận động sinh khí của bầu trời. Trong vận động
sinh khí ấy, ông hiệu cờ đạp lên ba cái bát - tượng trưng cho "Tam sơn". Thông qua
"Tam sơn" mà sinh khí tràn xuống đất và nước. Chỉ có thể thì sức sống mới được phát
triển và cái ước vọng qua ngày hội mới trở thành ước vọng được mùa, ước vọng của
phồn thực, ước vọng của sự no đủ. Và, chính qua nhận thức của người xưa đối với
Phù Đổng Thiên Vương - một uy lực siêu phàm như vậy thì người xưa đã quan tâm
đến nơi thờ của Ngài.
Nơi thờ là đền Phù Đổng Thiên Vương. Ngôi đền này còn để lại rất nhiều dấu
ấn mà chúng ta cần phải trân trọng. Khi nghệ thuật của người Việt trở lại với dân gian
tức là vào thế kỷ XVI, những viên gạch rồng và hoa thể hiện rất rõ rệt ở đền Phù
Đổng.
Chúng ta hãy điểm qua những di tích ở Phù Đổng có liên quan đến truyền
thuyết Thánh Gióng.
Đền Thượng: Đền thờ Thánh Gióng. Theo truyền thuyết, đền đã có từ thời
Hùng Vương và được dựng trên nền nhà cũ của mẹ Gióng. Đến cuối thế kỷ XI, Lý
Thái Tổ cho tu bổ thêm và ra lệnh tổ chức hội Gióng. Đền sát đê, được bố cục theo
hình chữ "Công", quy mô rộng rãi.
Trước sân, ngay sát chân đê có ao rộng, có tên ao Rối, nơi hàng năm có tổ chức
múa rối nước vào ngày hội. Trong ao, dưới bóng cây đa cổ thụ cành lá sum suê là
ngôi thủy đình xinh xắn. Thủy đình được dựng theo kiểu "mái chồng" từ thời Lê
Trung Hưng (thế kỷ XVII) với nhiều bức chạm tinh vi trên gỗ, mà đề tài là những
cảnh sinh hoạt dân gian: người chăn dê, người thổi ống xì đồng... Thủy đình mang
nhiều yếu tố dịch học mà trên đó những mảng chạm nói lên những ước vọng của dân
chúng.
Đó là hai hình ảnh nói lên người quân tử lấy cái trí thức làm đầu, nếu không có
trí thì con người đi vào ngu tối mà sự vô minh, ngu tối thì đồng nghĩa đồng thời là
mầm mống của tội ác. Thông qua đó thấy rằng, người xưa dạy phải lấy cái trí tuệ làm
đầu, nhờ có trí tuệ mà đi vào thiện tâm.
Qua sân gạch đến Nghi môn khá cao mới được xây vào cuối thế kỷ XIX. Phía
trước có đôi rồng đá nét chạm hơi thô nhưng rất khỏe, bên dưới có dòng chữ khắc cho
biết niên đại tạo tác của rồng vào năm Ất Dậu niên hiệu Vĩnh Thịnh, tức năm 1705
dưới triều Vua Lê Dụ Tông. Phía sau có đôi sư tử đá cũng làm vào năm đó.
Tiếp đến là nhà Thiêu hương (đốt hương), cấu tạo giống Thủy đình nhưng nhỏ
hơn, lợp bằng ngói kích tấc khá lớn (20cm x 30cm).
Liền nhà Thiêu hương là hai nhà Tiền tế khá rộng. Nhà ngoài do Điền Quận
công Nguyễn Huy (1610-1675), người làng Phù Dực, cạnh xã Phù Đổng đứng ra xây
dựng. Nhà bên trong do Đặng Công Chất, người chính làng Phù Đổng, đỗ Trạng
nguyên năm 1661, đứng ra hưng công, đáng chú ý ở đây là 39 viên gạch với kích tấc
30 x 20 x 10 (cm), mỗi viên đều chạm khắc hình rồng. Những viên gạch này được lát
ở bậc thềm vào cung. Hai ngôi nhà ba gian phía đông do Đặng Thị Huệ, chúa Trịnh
Sâm (thế kỷ XVIII) cung tiến.
Trong hậu cung 12 gian có tượng Thánh Gióng cao 3m, hai bên có sáu tượng
quan văn, quan võ, hai phỗng quỳ và bốn viên hầu cận "Tứ trấn".
Kiến trúc đền không có gì đặc biệt, nhưng đáng chú ý là những đầu bẩy còn lưu
lại được những mảng chạm vào thời Hậu Lê.
Đền còn lưu được cả thảy 21 đạo sắc phong, đời Lê 12 đạo, đời Tây Sơn 3 đạo,
đời Nguyễn 6 đạo. Cũ nhất là sắc phong Đức Long năm thứ 5 (1634).
Trong Đền, còn nhiều hiện vật có giá trị: chiếc ngai thờ từ thời Lê Trung Hưng
(thế kỷ XVII) chạm trổ tinh vi; đôi chim mang nghệ thuật Trung Hoa do Đặng Thị
Huệ, cung tiến, bình hương, nghê đồng, hai thanh kiếm, câu đối do anh em thi hào
Nguyễn Du cung tiến năm 1818. Bên Đền có một bia đá rất đẹp, cũng là một hiện vật
hiếm thấy tại các ngôi đền khác ở nước ta.
Đền Hạ: đền nằm ngoài đê, ở phía đông đền Thượng, đền là nơi thờ mẹ Thánh
Gióng, cũng gọi là Thánh Mẫu. Trước kia, Thánh Mẫu được thờ chung với Thánh
Gióng ở đền Thượng. Đến năm Chính Hòa thứ 4 (1683), Thánh Mẫu mới thờ ở đền
riêng tại thôn Ngô Xá. Mười năm sau đền lại được thiên về gần chùa Giếng (chùa Tập
Phúc), tại chỗ hiện nay. Đền hiện còn lưu giữ được một số hiện vật có giá trị: đôi
phỗng đá, một bộ dài bạc, hai bình hương đá...
Miếu Ban: ở phía tây đền Thượng, trong xóm Ban, tên chữ là Dục Linh Từ.
Miếu thờ Thánh Mẫu. Tương truyền đây là nơi Gióng ra đời, do đó còn có tên là
"Trài Nòn". Miếu lợp ngói cổ hình mũi hài. Sau Miếu là giếng Bát Nhũ trì (ao tám
vú) giữa giếng nổi lên một gò đất con xinh xắn. Truyền rằng, Thánh Gióng ra đời trên
sập hiện đặt ở đảo này, sau đó được tắm trong chậu đá cũng đặt ở đây. Ngoài ra, còn
có một liềm đá mà người đá mà người ta đã xem là dao cắt rốn cho Thánh Gióng,
nhưng liềm hiện nay không còn nữa.
Cố viên: Theo truyền thuyết, cố viên (vườn xưa), cũng gọi là "vườn rau", là nơi
mẹ Gióng đến hái rau rồi ướm chân mình vào chân người Khổng Lồ, do đó mà mang
thai sinh ra Gióng. Ở đây có một nhà nhỏ gọi là "cây hương", bên cạnh là hòn đá lớn
hình thù đặc biệt với nhiều nét lồi lõm được xem là dấu chân của Người Khổng Lồ.
Còn một tấm bia mang dòng chữ "Đổng Viên Thánh Mẫu cố trạch" (Nhà xưa của
Thánh Mẫu trong vườn Đổng).
Giá Ngự: Ở đây có hai cột trụ và một bệ xây vào đầu thế kỷ XX. Vào ngày hội
đền, dân làng kéo ngựa thờ, gọi là ông giá, từ đến Thượng đến đây trông ra khu soi
bia cạnh Đền Hạ nơi điệu múa cờ được biểu diễn.
Mộ Trần Đô Thống: Mộ ở xóm Vận Hang, trước đền Thượng. Tục truyền Đô
Thống là một tướng của Thánh Gióng, người Phù Dực cầm đạo tiên phong trong đoàn
quân chống giặc Ân. Mộ được xây bằng gạch giữa một khu rộng ngoài bãi sông.
Hàng năm, từ mồng 6 đến mồng 9 tháng 4 âm lịch, dân địa phương lại tổ chức
hội Gióng, ngày lễ chính là ngày mồng 9. Trước ngày này, dân làng đã tổ chức nhiều
trò chơi: Vật, chọi gà, đánh cờ, hát, đặc biệt là hát ải lao - một tục rất cổ. Trong ngày
lễ lớn vui nhất là trò diễn trận, rước kiệu, múa cờ, chia phe diễn lại sự tích Thánh
Gióng đánh giặc Ân.
Nhân vật anh hùng Gióng đã trở thành biểu tượng của sức mạnh và lòng yêu
nước Việt Nam. Hội Gióng là một đỉnh cao của sinh hoạt văn hóa cổ truyền Việt
Nam. Vì thế, người Việt Nam xưa và nay vẫn nhắc nhau lời răn:
"Ai ơi mồng chín tháng tư,
Không đi hội Gióng cũng hư mất đời"
Không chỉ là Làng Phù Đổng. Trong khu vực Đền Hùng ở Vĩnh Phúc, có Đền
Thượng, tức "Cửu trùng tiền điện" được dành để thờ Thánh Gióng. Làng Vệ Linh ở
huyện Sóc Sơn, phía bắc thủ đô Hà Nội, nơi tương truyền Gióng đã trút giáp để cùng
ngựa về trời, cũng có đền thờ Gióng, được nhà nước quân chủ tặng danh hiệu lớn:
"Xung thiên Thần vương".

(Tạp chí Thăng Long Hà Nội ngàn năm - Số 13/2003)

Trần Nhân Tông, một ông Vua-Phật


Trần Trương

Chẳng phải siêu nhân do truyền thuyết thêu dệt, một con người có thật trong
lịch sử bằng xương bằng thịt, sinh ra và lớn lên tại kinh đô Thăng Long. Sau khi đã
hoàn thành sự nghiệp vẻ vang; đánh đuổi ngoại xâm, đem lại quyền sống, quyền mưu
cầu hạnh phúc cho muôn dân Đại Việt, đã từ bỏ ngai vàng, vào Yên Tử tu hành rồi
hiển Phật… Đó là Đức Vua Trần Nhân Tông - một Hoàng Đế minh quân kỳ tài, góp
phần tô thêm trang sử vàng chói lọi của dân tộc thời nhà Trần, tạo lập đỉnh cao nền
văn minh Đại Việt.
Triều đại nhà Trần kéo dài 175 năm, từ năm 1225 đến năm 1400 và trải qua 14
đời vua. Trần Nhân Tông là đời vua thứ 3, sau ông nội là vua Trần Thái Tông và vua
cha là Trần Thánh Tông.
Ngài sinh ngày 7 tháng 12 năm 1258, tức vào ngày 11 tháng 11 năm Mậu Ngọ
và mất ngày 16 tháng 11 năm 1308 tức vào ngày 03 tháng 11 năm Mậu Thân.
"Khi đức vua sinh ra, được tinh anh của thánh nhân, đạo mạo thuần túy, nhan
sắc như vàng, thể chất hoàn toàn, thần khí tươi sáng, gọi là kim Tiên Đồng Tử, ở vào
bên tả có nốt ruồi đen" (1).
Thuở nhỏ, nhà vua thường theo vua cha lên chơi núi Yên Tử, sớm bộc lộ chí
xuất gia tu hành.
Năm 21 tuổi, Ngài được vua cha truyền ngôi báu (1297) và đã làm vua suốt 14
năm trời. Vì là bậc minh quân có biệt tài kinh bang tế thế, Ngài có công lớn trong việc
lãnh đạo toàn dân kháng chiến chống Nguyên Mông thắng lợi, xây dựng đất nước
phồn vinh.
Mười lăm năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng, cũng là mười lăm năm vua Nhân
Tông tu hành và hiển Phật.
"Thế tôn bỏ ngai vàng quý báu, nửa đêm vượt thành, bỏ áo rồng cao sang, non
xanh cắt tóc, mặc chim thước làm tổ trên đỉnh đầu, mặc con nhện chăng tơ trên vai
cánh, tu pháp tịch diệt để tỏ đại chân như, dứt cõi trần duyên mà thành bậc chính giác.
Đức tổ ta là Điều Ngự Nhân Tông Hoàng đế ra khỏi cõi trần, thoát vòng tục lụy, bỏ
chốn cung vua ra giữa son môn…"
Vua Trần đi tu, không phải để trốn đời, yếm thế, mà đi tu để nhập thế, cứu đời.
Có điều, nhà vua không phải cứu đời theo kiểu của một ông Vua, mà là theo kiểu của
thánh nhân.
Làm vua chỉ chăn dân trăm họ. Làm Phật cứu độ cả muôn loài bởi. Bởi vậy, tấm
gương Vua Phật tuy ẩn mà lại hiện, tuy mờ mà lại sáng. Ngài bứt khỏi cái bình
thường để vượt lên trở thành cái phi thường.
Bởi thế, hàng ngàn năm qua, bao triều đại thịnh suy trị vì đất nước này, bao
người đã làm vua. Song có ai được nhân gian ngưỡng vọng, tôn thờ như Vua Phật
Nhân Tông?
Vua Trần đi tu, không để tự biến mình thành lính gác biên thùy như lời nhận
định của Hải Lượng Thiền sư - người tự coi mình là đệ tử Tổ Trúc Lâm vào thế kỷ 18:
"Người ta thấy Điều Ngự Đệ nhất Tổ đến chùa Hoa yên thì bảo là ngài xuất gia. Ta
biết rằng Đức Ngài lúc bấy giờ biết xem thiên hạ là công, trong nước vô sự, nhưng ở
phía bắc vẫn có nước láng giềng mạnh mẽ, sợ người ta dao động, cho nên nhằm được
ngọn núi Yên Tử là núi cao nhất, phía đông nhìn về Yên Quảng, phía bắc liếc sang hai
tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, dựng lên ngôi chùa, thường thường dạo chơi để xem động
tĩnh cốt để ngừa cái mối lo nước ngoài xâm phạm".
Một ông vua biểu trưng cho quyền lực quốc gia, trong tay có hàng vạn binh mã.
Quốc gia lâm nguy mỗi người dân trở thành một chiến sỹ… đâu lại trở thành một cái
tôi hữu hạn biến mình thành lính gác biên thùy.
Thực ra, đỉnh núi Yên Tử - nơi Vua Phật tu hành - không đủ cao để nhìn tới tận
biên cương phương bắc; không thể nhìn xa tận biển Đông. Cái nhìn hạn hẹp, cách lý
giải chủ quan của người đời sau như trên mà ngày nay chúng ta cứ mặc nhiên công
nhận đã làm giảm sút, lệch lạc cái động cơ và mục đích tu hành rất cao cả, thiêng
liêng của Vua Phật Nhân Tông. Việc coi Vua Trần trở thành người lính gác biên thùy
có thế là ý tưởng đẹp đẽ theo kiểu tư duy thời chiến tranh, có tác dụng giáo dục bao
thế hệ biết hy sinh cho cuộc sống yên bình hưởng lạc, xông pha nơi bom đạn chiến
trường, song vô tình đã làm giảm đi cái đẹp lớn lao của ông Vua hóa Phật.
Điều này dễ hiểu, vì lúc xuất gia, Vua Trần không nói cho ai biết vì sao mình lại
đi theo gót chân Bụt, và vì sao lại chọn về Yên Tử… để đời sau mặc sức luận bàn.
Phải chăng Yên Tử có đủ những điều kiện để giúp cho những bậc tu hành trì
đắc đạo, không kém gì xứ sở Phật đà Giá La (NairanJana) của Đức Phật Thích Ca?
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đắc đạo thành Phật là nhờ vào phép tu Thiền Định
dưới gốc cây Bồ Đề. Vua Trần cũng tu thiền, lấp pháp tu thiền để đạt đạo.
Thiền (Dhyana) là sự tập trung tư duy cao độ, được các nhà tu hành thực hiện
bằng cách ngồi im lặng (tĩnh tọa) gọi là tọa thiền, tham thiền nhập định hay thiền
định.
Phật giáo ngày nay chia thành 10 giáo pháp khác nhau, giống như 10 dòng sông
về chung một bến bờ giác ngộ và giải thoát. Các giáo phái khác dựa vào kinh điển,
giáo lý Phật dạy để tu trì, Giáo phái Thiền chủ trương dùng tâm mà truyền tâm. Phật ở
trong tâm. Tâm tức Phật. Phật tức Tâm. Nếu ai thấy được tâm tính thì lập tức thành
Phật. Thiền phái cho rằng tất cả kinh điển chẳng qua như ngón tay chỉ mặt trăng. Đến
như mặt trăng chân lý thì chúng ta không thể dùng văn tự ngôn ngữ mà diễn tả hay
hiểu rõ được. Vì thế, người tu hành theo pháp môn thiền định đứng ngoài kinh luận.
Họ chỉ dùng phép tâm ấn của Phật tỏ để làm môn đơn truyền tâm cho thế hệ sau. Chỉ
khi nào đôi bên tâm đầu ý hợp, thông cảm đạo lý, truyền thụ đượ chân lý thì mới thực
hiện được phép tâm truyền.
Trong khi tham thiền nhập định người tu hành dùng phép điều thân và điều tâm.
Họ điều thân bằng cách tiết chế sự ăn uống, hơi thở và cơ thể theo những cách thức
nhất định của phép tu thiền định. Họ điều tâm bằng cách đưa tâm mình trở về một
trạng thái tĩnh lặng tuyệt đối, không nghĩ việc dữ lành, thoát ly những ý niệm mê ngộ,
sinh tử, tiến đến mà an trú vào cảnh giới tuyệt đối, dẹp trừ ý niệm và ngôn ngữ: trừ
tuyệt tâm tư. Cả thân lẫn tâm trở về với trạng thái hoan lạc tĩnh lặng. Đến một lúc nào
đó, tất cả các ý niệm đều tiêu tán, hơi thở cũng gần như đoạn tuyệt chỉ có một trạng
thái sáng suốt, bên trong không thấy có thân tâm, bên ngoài không thấy có thế giới, đó
chính là cảnh giới ngộ đạo.
Người tu theo pháp môn Thiền Định rất cần tới một nơi yên tĩnh, thanh tịnh để
ngồi thiền. Núi rừng Yên Tử cách biệt với phàm trần là một nơi lý tưởng để tu thiền.
Không bàn tới yếu tố tĩnh mịch, linh thiêng của ngọn núi này mà xét tới tính
khoa học của vấn đề, các nhà nghiên cứu cho rằng: Những quả núi lâu đời giống Yên
Tử như Hy Mã Lạp Sơn (Tây Tạng), Phú Sỹ (Nhật Bản)… đều có lực từ trường khá
lớn. Những luồng điện này sẽ làm tăng thêm lực cho dòng lưu nhân điện trong thân
thể những người ngồi thiền nơi núi đó. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng nhập định
và thành đạo dưới chân núi Hy Mã Lạp Sơn, cạnh núi Tượng Đầu. Sau khi đắc đạo,
ngài vẫn thường cùng với các đệ tử ngồi thiền định trên non Linh Thứu.
Người ngồi thiền mặt quay về hướng nam, lưng xây về hướng bắc là tốt nhất.
Khi ngồi, tư thế lưng phải thật thẳng đứng để cho luồng hỏa hấu của cơ thể lưu
chuyển dễ dàng trong cột sống. Muốn vậy người ta phải kê gối ngồi thiền, hay tận
dụng mặt bằng có độ dốc hơi nghiêng về phía trước. Vị trí ngồi thiền phải ở nơi thanh
tịnh, thoáng khí trong lành. Môi trường ô nhiễm sẽ làm cho khí Prana trong cơ thể
(được tạo ra sau khi tọa thiền) sẽ không được tinh khiết, bất lợi cho việc tạo luồng hỏa
hầu trong cơ thể người thiền.
Vạt núi sườn nàm của Yên Tử hợp cách rất tự nhiên giúp cho người thiền có
được đầy đủ các điều kiện ngoại cảnh để tu thiền, như có lực từ trường, việc ngồi
quay hướng nam, mặt dốc hơi nghiêng về phía trước tự nhiên và không khí trong lành,
thanh tịnh.
Vua về Yên Tử, bởi nơi này thủa trước, đã lưu danh kỳ tích An Kỳ Sinh tu tiên,
đắc đạo. Cuối thời Lý có thiền sư Hiện Quang, đầu thời Trần có nhà thiền sư Đạo
Viên, Tiêu Diêu. Đại Đăng là thầy độ của Điều Ngự Giác Hoàng cũng tu hành và đắc
đạo ở đây. Cho nên, việc Đức Điều Ngự Giác Hoàng lựa chọn Yên Tử để tu hành
không phải là vô căn.
Người tu thiền theo chính pháp và đạt đạo có được những quyền năng siêu việt
mà người thường không dễ gì có được. Phật giáo truyền rằng:
Nhờ phép tu Thiền Định, Tôn Giả Mục Kiền Liên có khả năng xuất thần du
hành các cõi Phật. Xuống cả địa ngục để quan sát chúng sinh, bay qua mười ức cõi
Phật đến quốc đọ của Đức Phật Thích Ca có tầm âm vang được bao xa.
Nhờ phép tu Thiền Định, Tôn Giả Phú Lâu Na cùng Mục Kiều Liên đã từng
vâng mệnh của Đức Phật Thích Ca xuât thân từ hư không bay vào trong ngục giảng
thuyết pháp yếu và truyền trao tâm pháp yếu cho Vua Tần-Đà-TaLa là vua nước Ma-
Kiệt-Đà đang bị giam cầm. Tôn Giả A Na Luật tuy bị mù lòa có khả năng thiên nhãn
thông (nhìn xa ngàn dặm). Tôn giả Xá Lợi phất mắt có thể nhìn thấy 60 tiểu kiếp
người về trước, Tôn giả A Nan Đà nhìn thấy cõi Tây Phương cực lạc mà ở đó Đức
Phật A Di Đà đã phóng ra muôn vàn ánh hào quang rực rỡ. Đức Thích Ca Mâu Ni có
phép tha tâm thông (thấy được lòng người khác) nên từ xa đã đọc được tư tưởng của
đại lệ tử Tu-Bồ-Đề.
Các nhà sư tu thiền khẳng định rằng: tuy ngồi thiền trong am cỏ Ngọa Vân trên
đỉnh núi Yên Tử. Đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông đã dùng hào quang
định lực của mình mà quán chiếu trong, ngoài, trên dưới, mọi sự với Ngài đều thông
tỏ.
Trên đỉnh núi Yên Sơn, cách biệt với kinh kỳ. Vua Phật Nhân Tông vẫn rõ được
triều chính, nhiều lần về triều khuyên bảo vua Anh Tông tu dưỡng tâm tính, kìm bớt
lòng dục, xa rời tửu sắc, gìn giữ chân tâm… xứng đáng trở thành bậc quân vương tôn
kính. Ngài còn biết rõ được biên cương phương bắc, phương tây và phương nam, có
được những quyết sách lớn lao và đúng đắn nhằm gìn giữ tình bang giao giữa các
nước láng giềng và Đại Việt, giữ vững, nền an ninh chính trị nước nhà.
Trên non Yên Tử, Ngài hoàn thiện hệ thống giáo lý của Pháp phái Trúc Lâm
Giáo lý Trúc Lâm đã trở thành nền tảng tư tưởng và đạo đức của thời đại hoàng kim
triều Trần, giai đoạn phật giáo là Quốc Đạo.
Cho nên, việc từ bỏ ngôi vua vào núi để tu hành của Vua Trần Nhân Tông
tưởng chừng xuất thế, nhưng đích thực lại nhập thế tích cực. Từ chức vụ cao sang của
Nhà Vua, Vua Trần trở về ngôi tôn quý Nhà Phật. Nhà Vua từ cái nhất thời, hữu hạn
mà trở về cái vô hạn, vĩnh hằng. Không phải lúc chết, Vua Trần mới hóa Phật. Cái tên
Vua Bụt (Phật) đã được tôn vinh cho Vua Trần khi Ngài còn tại thế.
"Bụt ở cung nhà, chẳng phải tìm xa. Nhân thiếu gốc nên ta tìm Bụt; Đến biét
hay Bụt chính là ta" (2).
Hàng năm, mỗi độ xuân về, hàng triệu cháu con của Rồng Tiên đất Việt và bạn
bè bốn phương lại về Yên Sơn lễ Phật và vãng cảnh.
Họ bồi hồi tưởng niệm đức Vua Trần. Một ông vua đã khước từ phú quý, vinh
hoa, tước vị cao sang, giã biệt chốn phồn hoa đô hội lên non xanh Yên Tử tu hành,
trút bỏ một cuộc sống lý tưởng của người thường để trở thành một đức Phật Đại Hùng
Đại Lực, Đại Bi và Đại Trí, xứng danh là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni của Việt Nam.
Chú thích:
1. Trích "Đại Việt sử ký toàn thư"
2. Cư Trần Lạc Đạo Phú - Trần Nhân Tông, trích hợp tuyển văn học VN thế kỷ
X-XVII. Nxb Văn học HN-tr.111.

(Tạp chí Thăng Long Hà Nội ngàn năm - Số 13/2003)

Những điều ít được biết về hoàng đế Quang


Trung

Nguyễn Tấn Tuấn

Nguyễn Huệ quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, cùng
dòng họ với Hồ Quý Ly và Hồ Xuân Hương. Năm Ất Mùi (1655), quân Nguyễn
chiếm được 7 huyện ở sông Lam, bắt dần đưa vào Đàng trong khai hoang. Cụ tổ bốn
đời của Nguyễn Huệ bị bắt vào Nam. Lúc đầu ở Tây Sơn Nhất thuộc huyện Quy
Ninh, phủ Quy Nhơn. Đến đời Hồ Phi Phúc dời đến ở ấp Kiên Thành, huyện Tuy
Viễn, nay là thôn Kiên Mỹ, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, Bình Định. Hồ Phi Phúc
và bà vợ là Nguyễn Thị Đồng sinh ra 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn
Huệ. Nguyễn Huệ sinh năm 1753 tại một ngôi nhà nhỏ bên bờ sông Côn, nơi có bến
Trường Trầu, cùng với giếng nước, cây me xưa vẫn còn đến ngày nay. Thuở nhỏ,
Nguyễn Huệ có tên là Hồ Thơm. Ba anh em Nguyễn Huệ đều theo học thầy giáo Hiếu
- một nhà nho bất đắc chí với chính sách tàn ác của Trương Phúc Loan nên trốn vào
Quy Nhơn mở trường dạy học ở ấp An Thái (An Nhơn ngày nay). Biết tài năng khác
thường của ba anh em Tây Sơn, nên ông đã truyền cho họ hoài bão và ý chí của mình.
Ông thường kể với họ việc chúa Nguyễn mưu biến Đàng trong thành một nước riêng
biệt, sống xa hoa đàng điếm; Quyền thần Trương Phúc Loan mặc sức đặt quan lập
chúa, hãm hại người trung, vơ vét tiền của. Vàng bạc châu báu của Loan sáng rực cả
sân. Ông khích lệ, cổ vũ cho sự nghiệp lớn của họ bằng câu sấm: "Tây khởi nghĩa,
Bắc thu công", nghĩa là Tây Sơn khởi nghĩa sẽ lập nên sự nghiệp lớn ở đất Bắc, các
con phải gắng sức. Mùa xuân năm 1771, lúc Nguyễn Huệ 18 tuổi, cuộc khởi nghĩa
bùng nổ, đất Tây Sơn sôi động. Lá cờ nghĩa bằng lụa đỏ dài 10m được dựng lên với
khẩu hiệu lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo và lời hịch kể tội Trương Phúc Loan:
"Giận phó quốc ra lòng bội thượng, nên Tây Sơn xuống nghĩa cần vương". Trong
sách viết về nhà Tây Sơn được phổ biến dưới thời Nguyễn, con người và sự nghiệp
Nguyễn Huệ đã bị xuyên tạc. Nhưng qua những tài liệu ấy, kết hợp với những tài liệu
mới phát hiện gần đây, ta có thể thấy vài nét chân dung Nguyễn Huệ. Ông có mái tóc
xoăn da săn, mắt sáng, tiếng nói sang sảng như chuông, nhanh nhẹn và khỏe mạnh.
Ông "có một con mắt nhỏ, nhưng cái tròng rất lạ, ban đêm ngồi không có đèn thì ánh
sáng từ mắt soi sáng cả chiếu" (Tây Sơn lược thuật). Thậm chí, một cung nhân của
nhà Lê nói rằng: "Nguyễn Huệ trỏ tay, đưa mắt, ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hơn
sợ sấm sét...". (Hoàng Lê nhất thống chí).

Tiếng nói của Nguyễn Huệ cũng rất đặc biệt, như tiếng chuông, lời nói ngắn
gọn, giản dị, thấm vào lòng người, tạo nên sự gần gũi, đồng cảm sâu sắc. Một lần ở
Thanh Hóa, Nguyễn Huệ ngồi trên mình voi nói lớn: "Chư quân, hãy vì ta giết sạch
chó Ngô đi. Nếu ai không muốn chiến đấu thì hãy xem ta trong một trận giết hàng vài
vạn mạng người, đấy không phải là chuyện lạ đâu". Huệ vừa dứt lời, quân lính dạ ran
như sấm, rung động núi rừng, trời đất biến đổi cả cảnh sắc, chiêng trống đồng thời
vang lên (Lê Quý kỷ sự). Nguyễn Huệ được xem là một bậc anh hùng dũng mãnh và
có tài cầm quân. Năm lần vào Nam, 3 lần ra Bắc, đều ẩn hiện như quỷ thần. Mỗi lần
xông trận, ông thường dẫn quân đi đầu. Ngày mồng 5 tết Kỷ Dậu, trời còn chưa sáng,
Nguyễn Huệ thân chinh đốc chiến cho hơn trăm voi tiến lên trước, bộ binh theo sau,
đánh nhau kịch liệt với quân Thanh. Giữa trưa, ông cùng với tướng sĩ, chiến bào
nhuộm đen khói thuốc súng, tiến vào Thăng Long, kết thúc chiến dịch Ngọc Hồi -
Đống Đa lịch sử. Tuy là võ tướng, nhưng Nguyễn Huệ rất am hiểu văn chương. Ông
là hoàng đế đầu tiên mạnh dạn dùng chữ Nôm để viết các văn bản của triều đình và
cho lập Viện "Sùng chính", Bắc phong La Sơn phu tử nguyễn Thiếp làm viện trưởng
để lo việc dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm dùng vào việc dạy học cho nhân dân.

Hàng ngày, Nguyễn Huệ ứng đối, pha trò rất giỏi. Lần ra Bắc diệt họ Trịnh, khi
Nguyễn Hữu Chỉnh ngỏ ý làm mối công chúa Lê Ngọc Hân cho ông, Huệ đã nói làm
cho mọi người đều cười ầm: "Vì dẹp loạn mà ra, để rồi lấy vợ mà về, bọn trẻ nó cười
cho thì sao. Tuy nhiên, ta mới chỉ quen gái Nam Hà, chưa biết con gái Bắc Hà, nay
cũng thử xem có tốt không...". Tuy vậy, Nguyễn Huệ rất nhân hậu, biết trọng nhân tài
và giàu lòng thương người, với người tài và biết thời thế như Trần Văn Kỷ, Ngô Thì
Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thiếp... thì ông tin dùng đối đãi rất hậu. Với kẻ có tài
nhưng không chịu cộng tác, ông vẫn mở cho họ con đường sống: "Đáng lẽ trẫm phải
ra oai sấm sét, khép các ngươi vào tội không chịu làm tôi, tịch thu gia sản và giết các
ngươi để tỏ rõ phép thường. Nhưng các ngươi như người có bệnh nạng mà tối tăm
nhầm lẫn... Trẫm một lòng yêu tiếc nhân tài, không thể chốc lát quên được. Nên đặc
trách ban ơn tha tội cho các ngươi".

Trong gia đình, Nguyễn Huệ sống với vợ con rất tình cảm. Ông có hai bà hoàng
hậu. Bà chính cung quê ở Quy Nhơn, là anh em cùng mẹ khác cha với Thái sư Bùi
Đắc Tuyên và Hình bộ thượng thư Bùi Văn Nhật. Bà này sinh được 5 nguời con, 3
trai, 2 gái. Nguyễn Quang Toản là con cả, được lập làm Thái tử, về sau là vua Cảnh
Thịnh. Bà họ Phạm là một phụ nữ thôn dã, nhưng có lẽ do gắn bó với Nguyễn Huệ từ
rất sớm nên được ông quý trọng, thương yêu. Khi bà bị bệnh nặng, ông đã mời một
thầy thuốc người Tây tên là Gi-ra vào chữa. Nhưng khi Gi-ra đến nơi thì bà đã mất.
Trong một bức thư viết ngày 17/7/1791, giáo sĩ Séerard đã kể: "Chánh hậu của Tiên
vương (Quang Trung) mất vào khoảng tháng ba và ông đã khóc bà một cách sầu
thảm".

Bắc cung hoàng hậu là công chúa Lê Ngọc Hân, con gái thứ chín vua Lê Hiển
Tông và bà nguyên phi Nguyễn Thị Huyền người làng Phù Ninh, huyện Đông Ngàn,
phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay là xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, Hà Nội). Ngọc Hân
sinh ngày 27 tháng tư năm Canh Dần (1770) tại quê ngoại, mất năm Kỷ Mùi (1799).
Ngọc Hân đã sinh hạ cho Nguyễn Huệ một con trai là Nguyễn Văn Đức và một con
gái là Nguyễn Thị Ngọc, sau này đều bị triều đình nhà Nguyễn giết hại. Công chúa
Ngọc Hân là người phụ nữ tài sắc vẹn toàn, vua Quang Trung rất yêu và có phần tự
hào về bà. Hôm cưới, ông đắc ý nói với Ngọc Hân: "Con trai con gái nhà vua đã có
mấy người được vẻ vang như nàng?". Hôm lễ tế vua Lê Hiển Tông, Nguyễn Huệ mặc
đồ tang, đứng coi xét lễ nghi hết sức chu đáo... Nguyễn Huệ sống khoan dung, nhân
hậu nên những người gần gũi ông đều tỏ lòng cảm kích. Bài thơ khóc chồng của công
chúa Ngọc Hân thật cảm động, chứng tỏ tình yêu và lòng ngưỡng mộ của bà với tài,
đức, công lao sự nghiệp của Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ...

(Tạp chí Thăng Long Hà Nội ngàn năm - Số 14/2003)

Nguyễn Qúy Đức (1648 - 1720)


Quang
Bình

Nguyễn Qúy Đức, húy là Tộ, hiệu là Đường Hiên, ở làng Thiên Mỗ, nay là xã
Đại Mỗi, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Năm 29 tuổi, đời Lê Hy Tông (1676), ông đã đỗ
nhất giáp tiến sĩ đệ tam danh, tức Thám Hoa.
Năm Canh Ngọ (1690) ông được cử làm chánh sứ sang nhà Thanh cùng Nguyễn
Danh Nho. Năm Giáp Tuất (1794) thăng tả thị lang bộ Lễ, làm bồi tụng ở phủ chúa,
năm 1695 được thăng đô Ngụ sử. năm 1696, vì có việc xử án không thỏa đáng, ông đã
bị giáng xuống tả thị lang bộ Binh. Năm 61 tuổi (1708), ông được thăng Thượng thư
bộ Binh, được phong Tá lý công thần, ông cấm đoán mọi việc phiền hà, hạch sách,
nhũng nhiễu dân - Ông là người khoan dung, cảm thông với nỗi khó khăn vất vả của
nông dân, vì vậy thường khoan hồng với người trốn thuế hoặc thiếu thuế, bớt tạp dịch,
ông được dân ca ngợi "Tể tướng Qúy Đức, thiên hạ yên tức" (Tể tướng Qúy Đức,
thiên hạ yên vui). Năm Giáp Ngọ(1714) được thăng hàmthiếu phó, tước Liêm Quận
Công. Năm Đinh Dậu (1717), thăng Thái Phó Quóc lão, vinhphong Tá lý công thần.
Năm 72 tuổi, ông dâng sớ xin về trí sĩ. Hàng ngày ông dạo chơi quanh vùng, có khi
vác cuổca đồng cùng nông dân, khi cùng các bạn văn chương cùng nhau xướng họa.
Ông đã dành 10 mẫu ruộng được triều đình ban cho để tặng dân làng và trích ra 4 mẫu
lập chợ Khánh Nguyên, tức chợ Mỗ ngày nay. Ông là người thẳng thắn, không xu
nịnh, được người đời kính trọng.Tính tình ông đôn hậu, thương người, hòa nhã và
bình dân nên được mọi người kính trọng, yêu mến. Nguyễn Qúy Đức luôn thể hiện là
một vị trung thần. Khi bàn luận chính sự, có điều gì chưa thỏa đáng thì kiên quyết giữ
ý kiến của mình, không ai lay chuyển nổi. Làm văn thì không cần trau chuốt, không
chuộng lối tầm chương trích cú nhưng ý tứ vẫn tinh tế, chặt chẽ. Việc sửa sang, trang
trí nhà Thái học, dựng bia Tiến sĩ (ở Văn Miếu), ông đều đích thân trông coi cho đến
khi hoàn thành tốt đẹp. Nguyễn Qúy Đức là nhà sử học, cùng với Lê Hi hoàn chỉnh
bản thảo cuối cùng của bộ Đại việt sử lý toàn thư (in năm 1697).
Nhận xét về ông, Phan Huy Chú viết: "Ông là người khoan hậu trầm tĩnh. Ngày
thường, thù tiếp ai thì dễ dàng, vui vẻ. Khi bàn luận trước mặt chúa, việc gì chưa thỏa
đáng, ông cố giữ ý kiến mình, bàn đến ba, bốn lần, không ai ngăn được. Ông làm văn
không cần trau chuốt mà ý sâu. Triều đình có chế tác gì lớn, phần nhiều do tay ông
thảo. Ông làm tể tướng 10 năm, về chính sự chuộng khoan hậu...".
Sự nghiệp trước tác và chấn hưng văn học, giáo dục của Nguyễn Qúy Đức cũng
khá rạng rỡ.Về thơ, ông có Thi châu tập, Hoa trinh thi tập và 72 bài thơ chép trong
Toàn Việt thi lục. Ngoài ra ông còn có một số thư văn nôm chép lẫn với thơ văn chữ
Hán trong sách Nguyễn Qúy thị văn phả, gồm 5 tập, hiện còn được lưu giữ tại nhà con
cháu ông.
Khi còn nhỏ, Nguyễn Qúy Đức đã nổi tiếng thông minh, nhanh nhẹn. Gia phả
họ Nguyễn Qúy làng Đại Mõ còn ghi lại một bài thơ của Nguyễn Qúy Đức khỉa chơi
chùa Trấn Quốc.Bài thơ theo thể "thuận nghịch độc", tức là đọc xuôi, đọc ngược đều
thành thơ, đọc xuôi là thơ chữ Hán, đọc ngược là thơ chữ Nôm. Bài thơ như sau:
Đọc xuôi:
Trang nghiêm cảnh tĩnh thảm chi viên
Thú vị màu ni thế giới tiên
Hương phất bàng mai hoa bích vựng
Nguyệt lai lung trúc ấn thanh liên
Sương đàm bích diệp hoa lung viện
Tuyết ánh ngân đài nguỵet trú thuyền
Lương văn bối kinh phô ngọc ấn.
Quang phòng chiếm liểu liểu chân thiên.
Đọc ngược:
Thiên chân leo lẻo chiếm phong quang
An ngọc phô linh buổi văn lương
Thuyền chứa nguyệt đài ngần ánh tuyết
Viện lồng hoa diệp biếc đầm sương
Sen xanh ấn trúc lung lay nguyệt
Vừng biế hoa mia phảng phất hương
Tiên giới thế này màu vị thú
Vườn chi đất tĩnh cảnh nghiêm trang.
Ông là người ham thích thơ văn cổViệt Nam, sao lục tàng trữ ở nhà. Bài tiểu
dẫn khi khắc lại sách Quần hiền phú tập của Hoàng Sần Phu có đoạn viết: Sách Quần
hiền phú tập bản khắc cũ tan nát không còn. Năm Đinh Dậu (1717) đã nhân được một
bản sao cũ của nhà Nguyễn Qúy Đức, đem về hiệu đính và chú giải..." Hiện nay thư
viện Khoa học xã hội còn giữ được một bản sao chép sách Quần hiền phú tập, 6
quyển, cộng 214 tờ... Rõ ràng nhờ sự ham thích thơ văn cổ của Nguyễn Quý ĐỨc mà
Quần hiền phú tậpcòn lại đến ngày nay.
Tương truyền, Nguyễn Qúy Đức là người đối đáp giỏi nổi tiếng. Khi còn nhỏ,
một lần gặp quan huyện trong một quán nước,quan huyện hỏi:
- Cậu đã học sách gì rồi?
Đức đáp: đã học hết sách luận ngữ. Ông huyện liền ra một về đối toàn chữ trong
sách Luận ngữ:
Thực vô cầu bão, cư vô cầu an, quân tử chí.
(Ăn không cần no, ở không cần yêu, đúng chí quân tử)
Đức ứng khẩu đối ngay, cùng dùng toàn chữ trong Luận ngữ:
Chiêu nhi bất lai, lung nhi bất khứ, xã tắc thần
(Vẫy không chịu lại, xua không chịu đi, phò xã tắc đáng mặt bề tôi)
Ông huyện rất kinh ngạc, hết lời khen ngợi.
Có lần Đức đi chăn trâu, chẳng may để trâu ăn khoai của làng Cầu Đơ. Ông phủ
đi qua, sai lính bắt trâu. Đức xin trâu về, ông phủ ra điều kiện phải đối được vế đối
của ông thì mới tha. Vế đối như sau:
Khoai Đơ xanh tốt nhờ về phủ
(Câu này có nghĩa là khoai xanh tốt là do được phủ rơm rạ,cũng có nghĩa là nhờ
quan phủ)
Đức nghe xong, đối luôn:
Lĩnh Mỗ vàng trơn bởi cónghè.
(Nghè là lấy chày nện tấm lĩnh cho mịn mặt, còn có nghĩa là ông nghè).
Quan phủ khen về đối có khẩu khí hơn người, liền trao trả trâu cho Đức.
Tương truyền một lần chúa Trịnh Cương xem bài thơ Lăng mẫu tống sứ giả của
Lê Thánh Tông thấy thiếu 2 câu vì thất truyền, chỉ còn 6 câu:
Đình phô đằng đẵng ngựa rời chân
Nỗi mẹ con này gửi sứ quân
Nhớ Hán, lòng còn son một tấm
Thương Lăng, tóc đã bạc mười phân
.....
Minh thiếp lá vàng dầu mỏng mảnh
Về thời khuyên nó nghĩa quân thần.
Chúa Trịnh Cương bảo các quan nghĩ 2 câu để bổ khuyết, Chưa ai nghĩ ra thì
Nguyễn Qúy Đức đã đọc 2 câu (đúng như lối thơ nôm đời Hồng Đức, câu 5-6 chỉ có 6
chữ):
Niềm trung hiếu khôn hai vẹn
Hội công danh dễ mấy lần
Chúa ngợi khen và thưởng cho hai hốt bạc.
Ở Quốc Tử Giám hơn 10 năm, ông đã có nhiều công lao trong việc đào tạo nhân
tài cho đất nước. Ông cũng có công lớn trong việc xây dựng Đại thành điện, hai bên
giải vũ ở Quốc Tử Giám và trông coi việc dựng 20 tấm bia tiến sĩ (Văn Miếu) trong
20 khoa thi từ 1656 đến 1715 và đứng tên nhuận sắc nhiều bài văn bia.
Tại xã Đại Mỗ hiện còn giữ được bức vẽ chân dung ông. Nhà vuông "Lạcthọ
đình" do ông xây dựng ở quê hương, trồng cây từng cây bách, làm chỗ họp mặt vui
chơi của các phụ lão, nay tuy không còn, nhưng tấm biển "Lạc thọ đình" đề tên ngôi
nhà âý, vẫn còn giữ được.
Tục ngữ xưa có câu: "Nhất Mỗ, nhì La, thứ ba Canh Cót" để chỉ những làng của
huyện TỪ Liêm cũ có nhiều người hiển đạt và nổi tiếng về văn học. Xếp hàng đầu là
làng Đại Mỗ vì có gia đình Nguyễn Qúy, Nguyễn Qúy Đức và con là Nguyễn Qúy Ân
đều đỗ tiến sĩ, cháu nội là Nguyễn Qúy Kinh đỗ hương cống (cử nhân), ba đời đều giữ
những chức vụ trọng yếu trong triều, khi mất đều được phong làm phúc thần.Hiện nay
ở địa phương còn truyền tụng câu đối:
Đỉnh giáp nhất môn thiên hạ hữu
Phúc thần tam diệp thế gian vô
Dịch:
Khoan giáp một cửa tập trung, họa có trong thiên hạ Phúc thần ba đời tiếp nối,
không thấy ở thế gian.
Nguyễn Đức Qúy, một danh nhân của Thăng Long - Hà Nội đã làmvẻ vang,
rạng rỡ thêm cho dòng họ Nguyễn Qúy, cho quê hương Đại Mỗ - Từ Liêm và truyền
thống ngàn nămvăn hiến của đất "kinh sư muôn đời".

(Tạp chí Thăng Long Hà Nội ngàn năm - Số 21/2004)

Những gương mặt tuổi trẻ Thăng Long


PGS.TSKH.
Nguyễn Hải Kế
Người tiêu biểu cho không chỉ thế hệ đầu tiên được sinh thành trên kinh thành
mang tên Thăng Long, mà còn cho muôn đời với sự nghiệp vẻ vang "cẩm quân tất
thắng, trị nước an dân" đó là Ngô Tuấn, tự Thượng Kiệt, ở phường An Xá trên bãi
sông Nhị... Mồ côi cha từ khi mới 13, Ngô Tuấn được chú, được thầy Lý Công Ân hết
lòng dạy dỗ, chăm sóc. Cho đến trước tuổi 20, ở ngôi trường Bái Ân, ở các thư phòng
hay các võ trường khác của Thăng Long, Tuấn đã dồn tâm sức của mình vào việc học
tập võ nghệ, binh pháp, các sách văn chương, đạo đức khác... Chính những tháng năm
ấy đã chuẩn bị cho con đường phát triển tiếp tục, vẻ vang của ngô Tuấn.
Từ năm 23 tuổi (1041) Ngô Tuấn được bổ làmthị vệ trong cung vua Lý. Hai
năm sau, ông đã được trông coi tất cả việc trong cung.
Năm 43 tuổi, Lý Thường Kiệt (trước đó Ngô Tuấn đã mang họ vua) đi vùng
Thanh Nghệ, lập lại trật tự trị an của cả vùng năm châu, sáu huyện, ba nguồn, hai
mươi bốn động.
Năm 51 tuổi, ông trực tiếp kinh lý làm yên biên cương phía Nam của Đại Việt
rồi về Thăng Long làm Phụ quốc Thái úy, đỡ đần vị vua mới 7 tuổi (1072).
Năm 1075, Lý Thường Kiệt dẫn đại quân ngược lênphía Bắc "tiênphát chế
nhân" - tiêu diệt - trước sào huyệt gây tội ác của giặc, lậpphòng tuyến sông Cầu, chôn
vùi cuồng vọng xâmchiếm nước ta của quân xâm lược nhà Tống...
Năm 1300, tức là sau 230 năm ngày Quốc Tử Giám khai trường, có một cậu bé
quê làng Thổ Hoàng: Thiện Thi (Ân - Thi - Hưng Yên) đến nhập trường và trở thành
người Thăng Long. Cậu người họ Nguyễn, tên là Cốt sau này đổi thành Ngạn -
Nguyễn Trung Ngạn. Mười bốn năm sau, cậu học trò trưởng thành trên mảnh đất
Thăng Long và được vua Trần giao cho nhiệm vụ làm Chánh sứ sang YênKinh
(Trung QUốc) đặc trách công việc ngoại giao với nhà Nguyên trong hoàn cảnh hết
sức khó khăn phức tạp. Nguyễn Trung Ngạn không một chút nề hà, đã hăng hái ra đi
và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Chính trong chuyến đi này, vị chánh sứ trẻ tuổi đã
viết hàng trăm bài thơ thể hiện ý chí tình cảm của lớp thah niên sinh ra và lớn lên
trong hào khí Đông A, tự nâng mình lên trong trường trí tuệ lớn Thăng Long và rất tự
biết mình.
Đây là bài thơ Nguyễn Trung Ngạn tự nói về mình:
"Giới Hiền tài đáng bậc quan cao,
Tuỏi trẻ đà lám chí nuốt trâu,
Tuổi mới mới mười hai vào thái học,
Đến năm mười sáu dự thi đình,
Hai mươi bốn tuổi làm quan giám
Hai mươi sáu tuổi sáng sứ Yên Kinh"
Bài thơ như một bài sơ yếu lý lịch rõ ràng, trung thực, mà người đọc cảm thấy
như một truyện thần kỳ, thậm chí có người gán cho là "Kiêu Thi" (thơ kiêu căng tự
phụ) là khoe khoang, khoác lác.
Sau bốn năm tu nghiệp ở Thăng Long, Nguyễn Trung Ngạn vào thi đình và đỗ
Hoàng Giáp, Vị Hoàng Giáp đầu tiên trong lịch sử Việt Nam tuổi vừa 16, thật cũng là
chuyện lạ.Thế nhưng đâu phải lúc này Thăng Long chứng kiến những lạ như vậy.
Nửa thế kỷ trước, nhà Trần bắt đầu đặt thêm học vị Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám
hoa (gọi tắt là tam khôi) tặng cho những người đỗ xuất sắc nhất trong các kỳ thi đình,
thì các vị tam khôi đầu tiên đều rất trẻ: Trạng nguyên Nguyễn Hiền 13 tuổi, Bảng
nhãn Lê Văn Hưu 18 tuổi, Thám hoa Đặng Ma La 14 tuổi. Hoàng giáp Nguyễn Trung
Ngạn đã từng làm nên công nghiệp lớn, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng, trong đó
có chức Đại doãn ở Thăng Long là chức quan đứng đầu chính quyền ở kinh đô. Bảng
nhãn Lê Văn Hưu sau trở thành nhà sử học lớn, tác giả bộ Đại Việt Sử Ký 30 quyển,
là bộ quốc sử đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
Đúng như nhà bác học Lê Qúy Đôn (thế kỷ XVIII) nhận xét, vào hai thời Lý
Trần có tiếng là văn minh, các tài năng liên tục xuất hiện, Thăng Long trở thành cái
nôi của những "thần đồng" - (có hay bộcphát tài năng ngay từ lúc còn ít tuỏi).
Cùng đỗ khoa thi năm1304 với Nguyễn Trung Ngạn, nhưng đỗ đầu là cậu
hócinh nhỏ bé, đen đủi mới từ vùng đồng chiêm trũng của Lan Khê, Bàng Hà (Thanh
Hà - Hải Dương) nhậpvào hàng ngũ học sinh ThăngLong và Mạc Đĩnh Chi... Vua
Trần Anh Tông chưa thật tin người đỗ cao nhất trong kỳ thi quốc gia sắp được nhận
danh hiệu Trạng nguyên cao qúy là một cậu bé hình dáng xấu xí, muốn thử tài Mạc
Đĩnh Chi, bắt cậu ngay lậptức phải vịnh bài thơ Hoa sen giếng ngọc của Hàn Dũ.
Không một chút lúng túng, Mạc Đĩnh Chi cho Trần AnhTông nghe bài "Ngọc tỉnh
liên phú" vừa họa lại rất tài tình bài thơ của Hàn Dũ, vừa thể hiện đầy đủ phẩmchất,
cốt cách của người tí thức Đại Việt. Bài phú ứng đối kỳ diệu ấy của Mạc Đĩnh Chi trở
thành một kiệt tác, thànhbông sen vàng tỏa "hương thơm bay thấu từng mây", thơm
mãi với đất trời, lòng người nước Việt. Với bài phú ấy, vua Trần Anh Tông không thể
không nhận Mạc Đĩnh Chi làm Trạng nguyên và cho ông ra Long Môn của Phượng
Thành đi xem phố phường Thăng Long ba ngày liền.
Kinh thành Thăng Long vào một ngày đầu hè năm1299,vì vui quá chén mà vua
Trần Anh Tông bỏ quên công việc trong triều. Khi tỉnh rượu được biết Thượng hoàng
buổi sáng từ Thiên Trương lên, không vừa lòng, đã mang theo ý định xử phạt vua và
trăm quan, xuống thuyền bỏ về Thiên Trường, Anh Tông lo sợ, cuống cuồng, hớt hải
chạy ra bến sông. Giữa lúc đó vua gặp được một cậu bé đang mải mê đọc sách quên
hết cả mọi việc xung quanh, hỏi ra mới biết là học trò, vua có ý nhờ cậu thảo hộ mình
bài biểu tạ tội, rồi đưa cậu cung xuôi thuyền về chỗ Thượng hoàng Sau khi đọc xong
bài biểu (như bản tự kiểm điểm) của vua Trần Anh Tông, Thượng hoàng Trần Nhân
Tông phải thốt lên "bài biểu của người làm rất hợp lòng ta" và quyết định tha lỗi cho
Trần Anh Tông. Sau lần được xóa án "kỷ luật" này, Trần Anh Tông đưa cậu học trò
Đoàn Nhữ Hài lên làm chức Ngự Sử trung tán.
Phải chăng chỉ do duyên may mà từ một cậu học sinh Thăng Long có dịp được
thi thố tài năng cứu giúp vua Trần, Đoàn Nhữ Hài đã được vua Trần đặc biệt tin dùng
cất nhắc lên chức vụ cao cấp trong triều? Xưa nay, chức Ngự Sử Thường dành cho
các vị từng đỗ qua Tiến sĩ, bụng chứa thiên kinh vạn quyển, biết đủ chuyện xa gần,
lại phải bậc tuổi tác nghiệm qua chuyện đời, chuyện chính trị, để có thể can gián vua.
Vì lẽ thông thường như vậy, nhiều người không khỏi bàng hoàng trước sự xuất hiện
quá đột ngột của Đoàn Nhữ Hài, đã làm thơ chê bai ông
"Đài ngự sử ôn câu cổ ngữ
Miệng Đoàn Trung Tán sữa còn hôi"
Nhưng sự dèm pha ấy không một chút làm mờ đi ngôi sao sáng chói vừa xuất
hiện.Sách đại Việt SỬ ký toàn thư cho hay: "Nhữ Hài là cận thần của vua, vua nói
năng hành động gì đều được biết cả"
Năm 24 tuổi, sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ngoại giao với Chiêm Thành
ở phía nam, Đoàn Nhữ Hài được bổ làm Thamtự chánh sự, năm sau ông lại được cử
giữ luôn các việc ở Viện Xu mật - công việc mà trước đóchỉ có tôn thất họ Trần mới
được nắm giữ. Ba năm sau, ông được triều đình cử đi ổn định tình hình ở vùng Châu
Ô - Lý (Quảng Bình - Quảng Trị).. Ở bất cứ nơi đâu và trong hoàn cảnh nào, Đoàn
Nhữ Hài vẫn luôn là người đứng mũi chịu sào gánh vác mọi trách nhiệm nặng nề.
Vượt qua thói thường, qua những lời dị nghị, ghen ghét, coi thường tuổi trẻ, của
đám quan lại trong triều, tin yêu, thử thách trên công việc thực tế và tin cậy trao
nhiệm vụ cho Đoàn Nhữ Hài... đó chính là con mắt xanh tinh tường của hai vua Trần,
là thể hiện cụ thể phẩm chất, năng lực, người cầm đầu Đại Việt khi tin dùng thế hệ trẻ.
Có một thực tế lịch sử không thể phủ nhận là nhiều danh nhân lịch sử văn hóa
Việt Nam tỏng nhiều lĩnh vực: chính trị, văn hóa,... đều có tuổi thiếu thời gắn bó với
Thăng Long như Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Ninh Tốn, Lê Qúy Đôn, Nguyễn Du...
Cất tiếng chào đời năm 1380 tại Thăng Long, trong nhà ông ngoại - tư đồ Trần
Nguyên Đán, tuổi thơ của Nguyễn Trãi đã trải qua thời suy vi của đất nước cuối triều
Trần. Một thuở vua sáng tôi hiền chỉ còn trong cổ tích. Trong lớp người bất lực cuối
thế kỷ ấy, có người đã tìm về vùng nước biếc, non xanh, đi ở ẩn, có người như cha
con Trần Nguyên Đán trở trăn "mượn lửa thuyền chài đọc sách xưa" và "thơ cũ ba lần
đọc Đại Đông". Nhưng trơ đi trở lạib ài thơ Đại Đông trong thiên Tiểu Nhã của Kinh
Thi cũng không tìm ra lối thoát cho dân, cho nước... cho chính mình. Sách thánh hiền
xưa đã nhạt màu thiêng! Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh đã tìm thấy niềm an
ủi, gửi gắm hy ọng của mình vào cậu bé mới sáu tuổi đã chăm đọc sách (Lục tuế nhi
đồng phả ái thư) Nguyễn Trãi.
Trong môi trường văn hóa của gia đình, của Thăng Long, Nguyễn Trãi đã dồn
tâm trí vào việc học tập. Và "tuổi trẻ rừng nho nức tiếng thơm" - nổi tiếng học giỏi
trong thế hệ của mình.
Con đường trở thành người dâng kế sách "Tâm Công" đánh vào lòng người cho
Lê Lợi, cho nghĩa quân Lam Sơn đánh thắng quân Minh, cho đất nước thanh bình,
con đường đưa Nguyễn Trãi trở thành anh hùng dân tộc, hẳn không tách rời với
những tháng năm thiếu thời.
Gia huynh bất tại thực vô ngư
Trần lô thanh lậu tam canh nguyệt.
(Đồng tiền không có nên cơm ăn không có cá
Nhà bụi bặm, để ánh trăng canh ba soi lọt)
Đó là những câu tả thực về căn nhà, về những bữa cơm của cậu bé Ninh Tốn
(quê ở Côi Trì - Ninh Bình), lên Thăng Long trọ học vào giữa thế kỷ XVIII. Giữa
phồn hoa của kinh thành, chuyện đói nghèo của cậu bé tở thành chủ đề đàm tiếu và
chê bai của đám trẻ nhỏ cùng lứa (khước tương an bảo mạn hồ lô - đem chuyện ăn no
và ngủ yên ra làm trò cười cợt ta). Thế nhưng, cậu bé Ninh Tốn lại không lấy đó làm
phiền muộn. Bọn trẻ chi cúi đầu bàn tán lăng nhăng về chuyện gạo, nước, củi đóm ấy
kia làm sao hiểu được niềm vui, nỗi đam mê của cậu. Bởi vì ngay từ khi nhỏ tuổi,
trong hoàn cảnh khó khăn nghèo túng ấy, Ninh Tốn đã xác định, "Nam tử chỉ yêu kỳ
sự nghiệp bất tu thích thích thuyết tân toan" (Làm trai chỉ cốt nên công nghiệp: đừng
có âu sầu với đắng cay).
Tuyên ngôn vào đời và ước hẹn với chính mình "đã làm trai thì phải làm con
trai giỏi" của cậu học trò nghèo Ninh Tốn đã trở thành động lực mạnh mẽ, dồn sức
vào học hành, trở thành "bậc tài tử đời nay" thành "kẻ lão luyện trong văn mặc, sở
trường cả thơ phú trước thuật" như nhận xét của bạn bè ông. Nghiệm trải từ suốt
tháng năm tuổi nhỏ trong môi trường Thăng Long đã cho phép Ninh Tốn không chỉ
trở thành viên quan biết gần dân: thương dân giữa đám quan lại tham nhũng, hèn kém
cuối thời Lê Mạt, mà đã nâng tầm trí tuệ tình cảm của ông, đưa ông đến với triều đại
tiến bộ Tây Sơn.
Lê Qúy Đôn sinhnăm 1726 tại làng Diên Hà, huyện Hưng Nhân, Thái Bình, ông
là nhà bác học lỗi lạc có nhiều hiểu biết bao quát về tri thức đương thời, người viết
đến 50 bộ sách gồm cả các lĩnh vực thơ, văn, sử, địa, triết học, y học, thiên văn học,
nông học trong đó có sách như một bách khoa toàn thư tập hợp, sắp xếp tất cả các tri
thức về khoa học xã hội và khoa học tự nhiên... Trí tuệ tuyệt vời của nhà bác học
đứng đầu thời đại ấy sớm được nuôi dưỡng hình thành từ trường học lớn Thăng Long.
Trong lịch sử Thăng Long nói chung, ở thế kỷ XVIII nói riêng, không ít lần
xuất hiện những "Tràng An tứ hổ", "Trang An thất hổ" (Bốn, hay bảy "hổ báo" của
Tràng An).
"Trang An ngũ tuyệt" (Năm đấng tuyệt vời của Tràng An)...
Đó là những danh hiệu mà đương thời dành xưng tụng những người tài giỏi,
thông minh nổi tiếng trong học hành, văn chương của đất Thăng Long, trong số đó có
những cậu bé thần đồng. Chẳng hạn: Nguyễn Du, Nguyễn Hành... được xếp vào
"Tràng An ngũ tuyệt".
Nguyễn Du là con Nguyễn Nghiễm, là em Nguyễn Khản, đều là quan cho nhà
Trịnh và đều là những người giỏi thơ văn. Nguyễn Du cất tiếng khóc chào đời là
Thăng Long vào năm1675, lên 13 tuổi ông đã được phong tước Hoàng Tín đại phu và
được Hoàng Ngũ Phúc ban cho một thanh bảo kiếm vì Phúc nhận thấy ở cậu bé này
có tướng mạo "khôi ngô, hùng vĩ". Lên 6 tuổi Nguyễn Du bắt đầu đi học. Mấy năm
liền, hết cha mất, anh mất rồi mẹ qua đời. Năm 13 tuổi, Nguyễn Du phải sống với
anh. Tình hình chính trị Thăng Long lúc này rất phức tạp và gia đình Nguyễn cũng tan
nát dần. Năm 19 tuổi Nguyễn Du thi đỗ tú tài và bốn năm sau (năm 1788) ông bắt đầu
một cuộc đời lênh đênh nổi chìm thật vất vả gian truân, nhưng lại có nhiều điều kiện
gần gũi và thông cảm với nỗi thống khổ của quảng đại quần chúng nhân dân. Nguyễn
Du làm sao có thể viết được truyện Kiều nếu không có những năm tháng "giữa dòng
trôi dạt cánh bèo lênh đênh" này? Nhưng 23 năm sống ở Thăng Long cũng là thời
gian vừa đủ để nhà thơ trang bị cho mình vốn tri thức cần thiết trước khi lăn vào bão
táp của cuộc đời. Đây là thời kỳ đắp móng xây nền cho tài năng sáng tạo kỳ diệu của
Nguyễn Du.
Sau này mỗi dịp được trở lại Thăng Long, Nguyễn Du lại sống dậy thấy được
những kỷ niệm sâu sắc thời trẻ:
"Nhà xưa đã hóa đường này
Cung xưa bỗng hóa thành nay lạ lùng
Gá quan nay đã cong bòng
Bạn thân nay đã nên ông cả rồi
Suốt đêm không ngủ bồi hồi
Vi vu tiếng sáo một thời trăng trong"
Trước mắt ông "đường sá ngang dọc quân cả đường cũ" "bạn bè hồi trẻ kẻ mất
người còn", thậm chí ngay cả khi gặp lại người gảy đàn cầm ơ bờ hồ Giám 20 năm
trước cũng làm cho ông xúc động luyến nhớ tuổi thơ gắn bó với Thăng Long.
Chính Thăng Long đã chuẩn bị những chất liệu đầu tiên cho Nguyễn Du trở
thành nhà thơ thiên tài của dân tộc.
Cao Bá Quát được người đời khen là nhà thơ vào bậc thánh, được chính vua Tự
Đức kính phục, thừa nhận "Văn như Siêu Quát vô tiền Hán" (văn như Nguyễn Văn
Siêu và cao bá Quát thì đến thời tiền Hán cũng không ai sánh kịp) thế mà ông lại thấy
thật là vô duyên khi mình cứ phải làm một nhà thơ.
Theo Cao Bá Quát: Tài trai sống ở trên đời đã không làm được việc phơi gan bẻ
gãy chấn sông, giữ vững cương, lại ngồi nhìn bọn lang sói nghênh ngang. Đếnlúc tuổi
già thì mặc áo gấm ban ngày về bôi nhọ quê hương... Đến lúc già thì gối đầu vào vợ
con mà chết. Giả sử hạng người ấy xuống suối vàng có gặ lại Chu Văn An, Nguyễn
Trãi thì cũng mặt dày, trống ngực đánh, thần sắc rũ rượi ra mà thôi".
Cao Bá Quát người làng Phú Thị - Gia Lâm, nhưng từ thuở thơ ấu đã là cậu bé
ngang tàng ở khu cổng thành cửa Nam, khu vực Hồ Tây ấy, đã quẳng bút, cầm gươm,
dẫn đầu đoàn quân nông dân xông thẳng về phía "bọn lang sói nghênh ngang" thể
hiện trọn vẹn chí làm trai.
Người Thăng Long tự ví mình với hoa sói, hoa nhài, loài hoa hương thơm trẻ
mãi, hương hoa biểu tượng của sự mẫn cảm và thanh lịch của bản sắc văn hóa, kết
tinh văn minh, trí tuệ, văn hóa của Thăng Long. Tắm mình trong truyền thống văn
hóa, trong nhịp sống Thăng Long, mang theo cái "ngát hương hoa sói, hoa nhài" bước
vào đời và trở thành thần đồng như Nguyễn Trung Ngạn: Đoàn Nhữ Hài, thành ông
vua vừa giỏi cầm gươm vừa tài cầm bút Trần Nhân Tông, thành thiên tài quân sự anh
hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn, thành nhà văn hóa kiệt xuất tiêu biểu của thiên tài Việt
Nam Nguyễn Trãi, nhà bác học Lê Qúy Đôn... từ trường học lớn - Thăng Long - họ
trở thành nhà chính trị, quân sự và nhà văn Ngô Thì Nhậm, thiên tài tiếng Việt
Nguyễn Du, nhà thơ chiến sĩ Cao Bá Quát,... Đất Thăng Long ngàn năm văn vật đã
đào luyện nên tài năng của họ từ thời tuổi ấu thơ. Và trí tuệ, tài năng của họ lại góp
phần làm nên một Thăng Long ngàn năm văn hiến.
Trong lòng Tổ quốc Việt Nam, Thăng Long - Hà Nội - lắng hồn núi sông ngàn
năm, cả nước với và vì Thăng Long - Hà Nội... Đến lượt mình, mảnh đất ngàn năm
văn vật này lại chắt mình, chưng cất tinh hoa, thành nguồn sữa ngọt thơm chăm sóc,
dưỡng nuôi các thế hệ trẻ của mình, của đất nước.
(Tạp chí Thăng Long Hà Nội ngàn năm -
Số22/2004)

An Dương Vương trong tâm thức nhân dân ta


Dương Trung Quốc

"Chết thì bỏ con bỏ cháu


Sống thì không bỏ mồng Sáu tháng Giêng"
Câu ca với những lời lẽ quả quyết nhưng lại rất mộc mạc, hồn nhiên ấy là nói về
tình cảm thiết tha với ngày Hội làng của dân xã Cổ Loa và 7 xã xung quanh, thuộc
huyện Đông Anh, ngoại ô Hà nội. Tâm điểm của lễ hội là tòa Thành ốc (Cổ Loa) và
tâm linh của lễ hội hướng về An Vương Vương. Đó là những di tích và nhân vật gắn
liền với một thời đoạn lịch sử vẫn còn chất đầy huyền thoại tiếp nối thời đại các vua
Hùng cũng vần vũ những đám mây ngũ sắc của những huyền thoại.

Nếu thời đại các vua Hùng còn định vị đuowjc bởi địa danh Phong Châu mà các thế
hệ sau tôn phong là Đất Tổ và xây dựng ngôi Đền thờ Tổ thì tên tuổi của An Dương
Vương còn lại một chứng tích vật chất đầy sức thuyết phục, cũng là chứng tích vật
chất về một cái mốc đầu tiên ghi nhận Hà Nội hôm nay bao gồm cả vùng đất từng là
kinh đô trước khi Lý Công Uẩn định đô ở Thăng Long hơn một thiên niên kỷ.

Về An Dương Vương, "Từ điển bách khoa Việt Nam" viết một cách ngắn gọn:
"tên thật là Thục Phán, người sáng lập và là vua nước Âu Lạc. Có giả thiết cho là thủ
lĩnh người Tây Âu ở vùng núi phía Bắc đã từng xung đột với vua Hùng và cũng là
người chống Tần thắng lợi (214 - 208 trước CN), nối ngôi vua Hùng, hợp nhất Tây
Âu và Lạc Việt thành nước Âu Lạc, đóng đô ở Cổ Loa. Tục truyền An Dương Vương
được rùa thần giúp đỡ cho móng làm lẫy nỏ rất hiệu nghiệm, nên đã đánh bại nhiều
lần xâm lược của Triệu Đà. Sau đó Triệu Đà dùng mưu (cho con trai là Trọng Thủy
sang cầu hôn với con gái An Dương Vương là Mỵ Châu) lấy cắp lẫy nỏ thần rồi mới
đem quân sang đánh (179 trước CN) An Dương Vương thua chạy đến Nghệ An, nhảy
xuống biển tự tử"
Lời giảng nghĩa ngắn ngủi ấy cố gắng khẳng định một nhân vật có thật và một
thời đại có thật trong lịch sử dân tộc ta là cái gạch nối giữa thời đại các vua Hùng với
những thời đại sau đó trong dòng mạch liên tục của một quốc gia tự chủ và đã tạo
dựng được một nền văn minh có bản sắc riêng biệt bên cạnh một nền văn minh lớn
cũng là một mối thử thách thường trực và khủng khiếp từ phương Bắc tràn xuống.
Nhưng trong lời giảng nghĩa ấy vẫn phải nhắc đến những từ "giả thiết", "tục
truyền"...
Bởi lẽ, từ nhiều thế kỷ trước trong các cuốn sách như "Viện điện u linh"; "Lĩnh
Nam chích quái", "đại Việt sử ký toàn thư" hay các tác phẩm của Nguyễn Trãi (Dư
địa chí). Phan Huy Chú (lịch triều hiến chương loại chí) đều nhắc tới An Dương
Vương họ Thục tên Phán là con của vua Thục (đất Tứ Xuyên - Trung Quốc ngày nay)
vì xung khắc của tổ phụ với Hùng Vương của nước Văn Lang mà mang quân đánh
chiếm, lập nước Âu Lạc, xưng vương và xây thành Cổ Loa. Nhưng rồi cuối thế kỷ
XIX, một số sử thần lại cho rằng Âu Lạc và người đứng đầu Thục Vương không dính
dáng gì đến nước Ba Thục mà chỉ là một thế lực ở lân cận "gắn liền với nước Văn
Lang". Sang đầu thế kỷ XX, có học giả còn cực đoan hơn khi cho rằng" nước Nam
không có An Dương Vương nhà thục" (Nguyễn Văn Tố" còn một số sử gia người
Pháp lại khẳng định "Trước nhà hán không có lịch sử An Nam"...
Nhưng trong tâm thức của nhiều người Việt Nam nhất là của dân "bát xã hộ
nhi" (tám làng thờ cúng và tham gia tế lễ trong ngày hội ở Chùa Thượng) thì An
Dương Vương chính là Vua Chủ ăn sâu vào

(Tạp chí Thăng Long Hà Nội ngàn năm - Số 4/2001)

Ngự sử đại phu Trương Đỗ


Dân Quang

Thiếu niên xuất chúng tướng quân phục


Tráng tuế tằng thừa Ngự sử thông
Tam gián bất tòng thân tự thoái
Gia đình thanh bạch túc môn phong
Tạm dịch:
Tuổi trẻ khác người, tướng phải phục
Lớn lên làm tới Ngự sử quan
Ba lần can, vua không nghe, từ chức
Trong sạch nhà nghèo tạo nếp quen
Đó là bốn câu thơ chữ Hán tương truyền của người đương thời ca ngợi quan
Ngự sử đài đại phu - Trung Đô tổng quản Trương Đỗ còn lưu trong dân gian quê ông.
Trương Đỗ không oc năm sinh, năm mất, chie biết ông sống vào thế kỷ XIV
thời nhà Trần, lớp kê stục của danh thần Chu Văn An (1292 - 1371), làm quan đời vua
Duệ Tông (1373 - 1377) và Phế Đế (1377 - 1388). Theo đại Việt Sử ký toàn thư,
Trương Đỗ quê gốc ở làng Phù đái, huyện Đồng Lại, xứ Đông (nay là thôn Phù Tải,
xã Thanh Giang, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương), ra ngụ ở phường Cơ Xá và
Nghi Tàm, thành Thăng Long đã nhiều năm.
Tính cách nhân vật này được Toàn thư thuật lại như sau: "Đỗ là người thanh
liêm không thích giao du nhiều, tính tình phóng khoáng và có chí lớn. Lúc còn nhỏ,
có lần đi chơi Hồ Tây xem tướng quân tập bắn, nói đùa rằng: -Nghề ấy có khó gì! Vị
tướng ngạc nhiên: - Vậy mi có bắn trúng được không? Đỗ đáp: - Cứ thử xem! Bèn
bắn ba phát trúng cả ba.
Vị tướng kinh ngạc, muốn nhận làm con nuôi song Đỗ không theo. Sau thi đỗ
tiến sĩ, làm quan có tiếng thanh liêm.
Bình sinh, ông rất khâm phục danh nho họ Chu, đời vua Trần Dụ Tông (1341 -
1369) đã dũng cảm dâng "Thất trảm sớ" xin chém bảy tên gian thần.
Vào năm Bính thìn (1376) quân Chiêm thành quấy rối biên giới phía nam. Vua
Trần sai quan Hành khiển Đỗ Tử Bình đem quân vào giữ châu Hóa. Vua Bình đem
quân vào giữ Châu Hóa. Vua Chiêm là Chế Bồng Nga đem 15 mâm vàng dâng triều
đình nhà Trần tạ lỗi. Đỗ Tử Bình biển thủ đồ lễ, tâu sai với triều đình là Chế Bồng
Nga ngạo mạn hỗ xược, phải trừng trị, cho nên vua Trần giận lắm mới quyết ý thân
chinh.
Tháng 6 năm ấy, Duệ Tông xuống chiếu xuất quân. Triều Trần lúc này sau kỳ
tích ba lần thắng Nguyên - Mông, đang thoái trào. Gian thần lộng hành, loạn lạc bất
yên, trăm họ lầm than, gây chiến tranh lúc này là không nên. Các quan ngự sử trung
tán Lê Tích, đại tướng quân Dỗ Lễ đã can ngăn không được. Ngự sử đại phu Trương
Đỗ dâng "bãi chiến sớ" ba lần, phân tích rõ:
"Chiêm thành trái mệnh, tội ấy đáng chết. Song địch ở cõi tây xã cách, núi sông
hiểm trở. Nay bẹe hạ lại mới lên ngôi, chính hóa chưa nhuần thấm tới phương xa, nên
sửa văn đức cho họ tự phải thần phục. Nếu họ không theo, lúc ấy cử tướng đi đánh
cũng chưa muộn"
Can vua ba lần, vua không nghe, Trương Đỗ bèn treo mũ, ấn từ quan bỏ về.
Tháng 10, Duệ Tông duyệt quân ở Bạch Hạc; tháng chạp từ Thăng Long dẫn 12
vạn quân lên đường.
Tháng Giêng năm Đinh Tỵ (1377), quân Trần tiến vào cửa Thị Nại (Quy Nhơn)
đánh đồn Thạch Kiểu, rồi tấn công kinh đô Đồ Bàn. Chế Bồng Nga rút quân ra ngoài
bao vây, nhưng lại cho lính trá hàng, khai vua Chiêm đã bỏ thành chạy trốn, phải tiến
vào chiếm thành ngay. Duệ Tông tưởng thật thúc quân hối hả vào Đồ Bàn, đại tướng
Lễ ngăn cũng không được. Quân Trần sa vào bẫy phục binh, bị đánh tơi bời từ bốn
phía, thua to, Duệ Tông chết trong đám loạn quân. Đỗ Tử Bình và Hồ Quý Ly ở hậu
quân không dám đem binh ứng cứu.
Bình luận sự kiện ba lần dâng "bãi chiến sớ" của Trương Đỗ, về sau sử gia Ngỗ
Sĩ Liên viết:
"Trương Đỗ nói không giấu lời, thế là xứng chức: nói đến ba lần, thế là cố can;
mà vua không nghe, thế là tâm trí vua đã mê rồi. Người có trách nhiệm phải nói,
không được nghe thì đi, thế là sự tiến lui của Đỗ hợp lẽ phải vậy. Tuy lời nói thẳng
thường trái tai vua, mà lợi cho thân vua, nên lấy việc này làm gương.
Duệ Tông mất trong chiến tranh vì không nghe lời can của các trung thần mà
nổi bật là Trương Đỗ.
Sau đó, triều đình Phế Đế mời ông trở lại làm quan thăng đến chức Đình úy tự
khanh, Trung Đô phủ tổng quản cho đến khi về hưu và mất.
Như vậy, Trương Đỗ không chỉ là quan ngự sử đại phu mà còn làm Tổng quản
phủ Trung Đô gồm hai huyện Vĩnh Xương và Quảng Đức - tức kinh thành Thăng
Long - trong những năm cuối đời.
Mảnh đất nghìn năm văn hiến đã tự hào có một danh thần khí phách Chu Văn
An, lại có thêm một tổng quản Thăng Long Trương Đỗ thanh liêm, cương trực, dũng
cảm đáng được kính trọng.
(Tạp chí Thăng Long Hà Nội ngàn năm - Số 4/2001)

TRẦN NHÂN TÔNG - SỰ TÍCH VÀ TRUYỀN


THUYẾT
THANH HỒNG

Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, triều đại nhà Trần kéo dài 175 năm, từ năm
1225 đến năm 1440 và trải qua 14 đời vua. Trần Nhân Tông (1258 - 1308) là đời Vua
thứ ba, sau ông nội là vua Trần Thái Tông và vua cha là Trần Thánh Tông.
Sử sách viết rằng năm Mậu ngọ 1258, quân Nguyên tiến hành xâm lược nước ta
lần thứ nhất. Với thái độ ngạo mạn, chúa Mông Cổ là Mông Kha ra lệnh cho Ngột
Lương Hợp Thai,một tên tướng được mệnh danh là "bách chiến bách thắng" đem một
đạo quân ngót 3 vạn từ thượng nguồn sông Hồng (phía Lào Cai) tiến sang nước ta.
Với ý chí quật cường, triều Trần do vua Trần Thái Tông đứng đầu nhanh chóng tổ
chức chống giặc, giữ nước. Quân Mông Cổ hung hãn tiến vào Thăng Long. Trong
triều có người lo sợ khuyên nhà vua nên "nhập Tống" (ý muốn nói nên dự vào Tống,
vì lúc này Tống chưa bị diệt). Trần Thái Tông kể chuyện đó với thái sư Trần Thủ Độ.
Với khí phách hào hùng, thái sư Trần Thủ Độ đã khẳng khái tâu trình: "đầu tôi chưa
rơi, bệ hạ không có gì phải lo!". Sau đó, nhà Trần tổ chức phản công, đánh tan quân
giặc ở Đông Bộ đầu (phía nam kinh thành Thăng Long). Quân giặc đại bại phải tháo
chạy. Đó là ngày 24 tháng Chạp năm ấy.
Trong lễ mừng chiến thắng, vua Trần Thái Tông đã truyền ngôi cho con là Thái
tử Hoảng, còn mình trở thành Thái thượng hoàng. Thái tử Hoảng lấy vương hiệu là
Trần Thánh Tông, công chúa Thiên Cảm thành hoàng hậu. Ngày 11 tháng 11 năm
Mậu Ngọ, thái tử Trần Khâm cất tiếng khóc chào đời. Tương truyền khi Trần Khâm
mới sinh là một cậu bé tai dài, trán rộng, sắc mặt có ánh vàng nên sau đó được vua
cha gọi yêu là "Kim Phật" nghĩa là đức Phật bằng vàng.
Lớn lên, thái tử Trần Khâm thông minh, lanh lợi, học đâu hiểu đó, văn võ song
toàn. Thái tử thường được ông bà nội cho đi lễ Phật trong nội điện và các chùa trong
kinh thành, ngoài ra còn nghiên cứu một số kinh sách về đạo Phật,do đó tính cách
ngay từ nhỏ đã tỏ ra rất nhân từ.
Tới năm Kỷ Mão (1279), Trần Khâm 20 tuổi, được cha truyền ngôi, lấy vương
hiệu Trần Nhân Tông. Là người nổi tiếng khoan hòa và nhân ái, Trần Nhân tông đã
thực hiện một chính sách đại đoàn kết từ trong hoàng tộc đến ngoài muôn dân, chăm
lo bồi dưỡng sức dân, tuyển dụng và đề bạt người có tài bằng thi cử thay cho chế độ
quý tộc cha truyền con nối, nới rộng tinh thần dân chủ. Ông nổi tiếng là một ông vua
rất nghiêm minh và có tài trị quốc an dân. Có chuyện kể rằng ông đã từng phạt tượng
tên quan Châu Diễn là Phí Mạnh về tội tham ô. Nhưng sau khi Phí Mạnh chịu tội và
tỏ ra ăn năn, vua đã cho về nhiệm sở, Phí Mạnh đã trở lại thanh liêm, được dân chúng
ca ngợi. Sử sách cũng chép lại chuyện tướng quân Trần Khánh Dư do phạm tội với
triều đình đã bị tước quyền, phải về vùng núi Chí Linh làm nghề sơn tràng, bán than
làm kế sinh nhai. Khi đất nước bị xâm lược, vua Trần Nhân Tông vẫn nhớ đến ông,
cho vời ra và giao cho ông chỉ huy một đạo quân đánh giặc. Cảm ân nghĩa ấy, Trần
Khánh Dư đã anh dũng xông pha nơi chiến trận, lập nhiều công lớn.
Có một lần, trên đường hành quân, dân vùng nọ đã cử nhiều bô lão tới dâng vua
gạo, rượu, lợn và hoa quả để khao thưởng tướng sĩ, trong đó có mâm quả xoài rất quý.
Vua Trần Nhân Tông ban thưởng cho các tướng lĩnh gần đó. Không rõ sao tướng
quân Hoàng Cự Đà lại không có phần. Sau đó, giữa lúc quân Nguyên đuổi cánh quân
của Hoàng Cự Đà rất gấp thì gặp thái tử, thái tử hỏi: "Có biết giặc Nguyên ở hướng
nào không?", Cự Đà ngoái lại nói: "Đi mà hỏi cái bọn ăn xoài hôm qua ấy" rồi bỏ đi
mất khiến cho thái tử suýt bị sa vào tay giặc. Sau khi giành thắng lợi, nhà vua mở
triều, bình công luận tội. Thái tử kể chuyện trên và đề nghị triều đình khép Cự Đà
trọng hình, nhưng trước bá quan văn võ, Trần Nhân Tông phán: "Tội Cự Đà đáng
chết, nhưng xét cho cùng cũng là lỗi tại trẫm: chia lộc nước mà không công bằng.
Thôi tha cho, để Cự Đà lập công chuộc tội. Tất nhiên, Cự Đà xấu hổ vô cùng "chỉ vì
một miếng ăn mà quên việc nước, suýt hại cả đến thân mình".
Đối với dân, Trần Nhân Tông đã tin tưởng ở họ và từng nói về những người nô
tì: "Ngày thường thì bao nhiêu người hầu hạ chung quanh, đến khi nước nhà gặp nạn
thì chỉ có họ thôi!" Sử cũ nhận xét: "vua nói thế là vì cảm động việc họ đã một lòng đi
theo trong buổi lầm cát bụi". Vì thế nên sau khi "muôn thuở vững âu vàng", người đã
khen thưởng các gia đồng có công diệt giặc cứu nước, và cho các nô tì được phép
chuộc mình.
Dưới triều đại ông, hai cuộc hội nghị nổi tiếng được ghi vào sử sách là hội nghị
các vương hầu tướng lĩnh ở bến Bình Than và hội nghị các bô lão cả nước ở điện
Diên Hồng để bàn mưu kế, thống nhất ý chí chống giặc. Ông được xem là vị vua có
tinh thần "thân dân" nhất đời Trần. Ông đã cùng với vua cha lãnh đạo quân dân Đại
Việt, giành thắng lợi rực rỡ trong hai lần đọ sức với 50 vạn quân Nguyên Mông, lập
nên chiến công lừng lẫy trong lịch sử dân tộc.
Không những là một vị vua anh minh, Trần Nhân Tông còn là một nhà văn hóa,
một nhà thơ xuất sắc của thế kỷ XIII. Trong thơ ông có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
tư duy triết học và cảm quan thế sự, có tinh thần lạc quan yêu đời, tấm lòng vị tha của
một nhân cách lớn và sự rung động tinh tế, lòng yêu tự do, phóng khoáng của một tâm
hồn nghệ sỹ. Điều đặc biệt là ở thơ văn Trần Nhân Tông có sự hòa hợp khó chia tách
giữa một ngòi bút vừa nghiêm cách cung đình, vừa bình dị dân dã; có cả những kiến
thức sách vở uyên bác lẫn với sự từng trải lịch lãm và tính hồn nhiên, trong sáng, chân
thành.
Năm quý Tỵ (1293), sau khi truyền ngôi cho con là Trần nh Tông, Trần Nhân
Tông lui về hành cung Thiên Trường làm Thái thượng hoàng. Ngoài việc tham gia
triều chính khi cần thiết, ông còn dành nhiều thời gian nghiên cứu văn học, triết học
và Phật học. Tới tháng 8 năm Kỷ Hợi (1299), Trần Nhân Tông lên núi Yên Tử tu
hành, sáng lập thiền phái Trúc Lâm và trở thành đệ nhất Tổ. Ông đi tu không phải để
trốn đời, yếm thế mà đi tu để nhập thế, cứu đời.
Chính Trần Minh Tông, cháu của Trần Nhân ông trong lời đề tựa tập thơ "đại
hương hải án" của Trần Nhân Tông đã từng ca ngợi: "Thế Tôn (chỉ đức Phật Thích
Ca) bỏ ngai vàng quý bái, nửa đêm vượt thành, bỏ áo rồng cao sang, non xanh cắt tóc.
Mặc chim thước làm tổ trên đàu, cho con nhện chăng tơ trên vai cánh, tu phép tịch
diệt, để tỏ đạo chân như, dứt cõi trần duyên mà thành bậc chính giác. Đức Tổ ta là
Điều NGự Nhân Tông hoàng đế, ra khỏi cõi trần, thoát vòng lụy tục, bỏ chốn cung
vua, ra giữ sơn môn. Nghiễm nhiên đến nay, vẫn như còn đó, tiếng thơm bất hủ, dấu
cũ còn twoi!"
Sau này, danh nho nhà Lê Ngô Thời Nhậm (thế kỷ XVIII) đã viết:
"Trần Nhân Tông đi tu là để giữ nước, là xây dựng một giáo lý đúng đắn đê duy
trì nền độc lập lâu dài cho đất nước".
"Trung tâm học thuyết của Phật giáo Trúc Lâm là: Thiền tại tâm, lấy giáo lỹ để
củng cố tinh thần, Trần Nhân Tông rất coi trọng chữ TÂM"
Việc Trần Nhân Tông lên Yên Tử tu hành đã để lại nhiều truyền thuyết đáng
nhớ và gắn bó chặt chẽ với những di tích và danh thắng nổi tiếng trên núi Yên Tử.
Tục truyền rằng sau khi vượt dốc vào Yên Tử, thầy trò Trần Nhân Tông gặp mộ
dòng Suối Tắm. Trong trưa hè oi ả, tiếng suối mùa mưa réo rắt hòa với tiếng chim
rừng lảnh lót, hoa rừng muôn sắc tỏa hương theo gió thơm ngào ngạt. Vua Trần đóng
khố, nhoài mình nơi dòng nước trong xanh. Dòng suối cuốn trôi bụi trần ra sông biển.
Để người sau tắm suối dưới bóng cây râm mát, nhà vua trồng cây đa bên bờ suối, kể
từ dịp ấy, suối được đặt tên là Suối Vua Tắm.
sau khi tắm suối xong, thầy trò tiếp tục lên đường, đến một quả núi tròn như
mâm xôi. Bấy giờ đang là buổi trưa, Bảo Sái mở túi lục tìm cơm chay cho thầy mới
giật mình sực nhớ là suất ăn của hai thầy trò đã đưa cho 3 tên cướp ở cửa rừng.Vua
Trần vui vẻ cùng Bảo Sái uống nước suối trừ cơm rồi nằm nghỉ trưa trên núi mâm xôi
này. Về sau, nơi đây dựng chùa mang tên Cấm Thực (không ăn) như thể khắc ghi
hành động quên mình cứu độ chúng sinh của vị hoàng đế tu hành thuở ấy.
Khi Trần Nhân Tôn lên Yên Tử, vua Anh Tông vì không yên tâm nên đã sai các
cung tần mỹ nữ đi theo hầu hạ. Trần Nhân Tông khuyên họ trở lại triều đình hoặc trở
về quê cũ làm ăn, song các cung nữ đã trẫm mình xuống suối Hồ Khê để tỏ lòng trung
trinh. Trần Nhân Tông xót thương, cho lập đàn tràng làm lễ giải oan những linh hồn
cung nữ. Nơi lập đàn tràng sau dựng chùa Giải Oan và suối Hổ Khê cũng được đổi tên
thành suối Giải Oan từ thuở ấy.
Truyền thuyết còn kể rằng niên hiệu Long Hưng thứ 16, ngày mông 5 tháng 10,
chị gái của vua Trần Nhân Tông là công chúa Thiên Thụy cho người lên núi, tâu rằng:
"Công chúa bệnh tình nguy kịch, muốn được trông thấy điều ngự lần cuối". Trần
Nhân Tông liền chống gậy xuống núi, chỉ có một người đi theo. Ngày mồng 10 tới
kinh đô, ngày 16 dặn dò xong lại trở về núi. Trên đường về, người như linh cảm thấy
số mệnh mình nên đã qua một số chùa để giã từ tăng hữu. Tối hôm ấy, người nghỉ
chân ở chùa Siêu Loại (huyện Thuận Thành). Sáng hôm sau, người đi đến chùa Cổ
Pháp (huyện Nam Sách). Ngày 17, người nghỉ chân ở chùa Sùng Nghiêm (huyện Chí
Linh). Ngày 18, người đến chùa Tú Lâm gần đó. Thấy đau đầu, người liền nói với hai
nhà sư Tử Nan và Hoàng Trung rằng: "Ta muốn lên am Ngoa Vân, nhưng chân không
bước nổi, biết làm sao đây?". Hai nhà sư thưa: "Đệ tử xin hết sức giúp đỡ". Tới quá
chiều mới lên được đỉnh núi Ngoạ Vân (đây là ngọn núi cao nhất vùng thuộc làng
Yên Sinh, huyện Đông Triều, quê gốc họ Trần. Trong thời gian tu ở Yên Tử, Trần
Nhân Tông đã cho lập một am ở nơi đây, đặt tên là Ngọa Vân (nằm trên mây), từ đó
thành tên núi. Đôi khi người dừng chân nơi đây đọc sách và tham thiền, nên đã có lối
mòn đi tắt sang Yên Tử, Trần Nhân Tông cảm ơn hai nhà sư và bảo: "Thôi xuống núi
ngay đi, chăm chỉ việc tu hành, chớ coi sinh tử là chuyện chơi"
Ngày 19, Trần Nhân Tông sai người hầu là Pháp Không lên núi Yên Tử gọi là
Bảo Sái. Bảo Sái tới suối Doanh, trông thấy một đám mây đen từ phía Ngoạ Vân bay
qua núi Lỗi, đến chỗ suối thì nước dâng cao mấy trượng rồi lại phẳng lặng như
thường. Bỗng thấy hai con rồng, đầu to như đầu ngựa cùng nghển cổ lên cao đến một
trượng, hai mắt sáng như sao, một lúc thì biến mất. Ngày 21, Bảo Sái tới Ngọa Vân.
Trần Nhân Tông cười nói: "Ta sắp đi đây, sao ngươi tới muộn thế? Trong pháp thuật
có chỗ nào chưa hiểu thì hỏi ngay đi"
Mấy ngày liền, trời đất tối tăm, gió gào dữ dội, mưa như trút nước. Bỗng đêm
ngàymồng hai, rạng ngày mồng ba tháng 11, trời quang mây tạnh. Vua hỏi: "giờ này
là giờ gì?". Bảo Sái thưa: "Bây giờ là giờ Tý". Vua đẩy cửa sổ ra và nói: "giờ của ta
đó!". Nói xong, người nằm dáng sư tử, rồi tịch ngay trong am trên núi. Đó là ngày
mồng ba tháng mười một năm Mậu Thân (1308). Trần Nhân Tông hưởng thọ 51 tuổi.
Có sự tích còn kể rằng trước khi tịch diệt về cõi niết bàn, người bảo mọi người
hãy xuống núi, sau đúng một trăm ngày mới đến được đến gần, thấy núi thơm thì hãy
tới để hỏa táng thi hài, nếu không thì thôi. Mọi người tuân theo, đúng một trăm ngày
sau tới lưng chừng núi đã thấy thoang thoảng mùi thơm. Khi tới nơi thấy người vẫn
nằm nghiêng dáng sư tử một mầm trúc non xanh mọc xuyên qua đùi trái. Đời sau còn
lưu luyến trong dân gian bài thơ về hình ảnh này, trong đó có câu: "Thân Tổ nằm
nghiêng, trúc một mầm...". Tuên theo di chúc, Pháp Loa đã hỏa thiêu thi hài người,
sau đó lấy tro thi hài viên thành một ngàn viên xã lỵ, một số đưa về táng ở cung vua,
một số táng ở vườn Huệ Quang trên Yên Tử.
(Tạp chí Thăng Long Hà Nội ngàn năm - Số 5/2002)

Nguyễn Bỉnh Khiêm - những giá trị vững bền với


nhân dân, đất nước, thời đại
TSKH. Nguyễn Hải Kế

Năm 1985, dịp kỷ niệm trọng thể lần thứ 400 ngày giỗ của Nguyễn Bỉnh
Khiêm, tại Hải Phòng đã có một Hội nghị khoa học toàn quốc về ông.
15 năm sau đổi mới, cùng với đông đảo nhân dân cả nước về quê Trạng làm lễ
dâng hương, dự lễ hội, các nhà quản lý, nghiên cứu, hoạt động văn hóa, xã hội lại tổ
chức hội thảo khoa học về Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Cả hai lần tụ hội với gần 100 bản tham luận của các nhà nghiên cứu khoa học xã
hội, nhân văn đã đề cập đến nhiều phương diện của tài năng và bản lĩnh Tuyết Giang
Phu Tử. Trên cơ sở phana tích thời đại Nguyễn Bỉnh Khiêm, mối quan hệ giữa ông
với bối cảnh văn hóa Việt nam thế kỷ XVI, hành trang, nhân cách, thái độ ứng xử của
ông với các tập đoàn mạc, Lê, Trịnh, Nguyễn, lý giải những quan điểm triết học mà
Nguyễn Bỉnh Khiêm gửi gắm trong văn chương... cho đến như lời sấm Trạng Trình,
các nhà khoa học đã thống nhất, làm sáng rõ vai trò và những đógn góp của với thời
đại, khẳng định tài năng kiệt xuất của ông trong giáo dục, triết học, văn học...
Cũng ngay trong các cuộc hội thảo này, các nhà khoa học cũng đã khẳng định:
"Trạng Trình còn những điều gì đó vẫn là bí ẩn", "những vấn đề đặt ra trong nghiên
cứu Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn luôn luôn có ý nghĩa thời sự, là những vấn đề còn để
ngỏ", "Trong việc tiếp tục khám phá các giá trị văn hóa tốt đẹp của truyền thống,
trong đó có gương mặt nổi bật của Nguyễn Bỉnh Khiêm, con người đang sống đến tận
hôm nay, trong mọi tâm thứ" (1)

Không phải chỉ từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, các thế hệ cháu con của
Nguyễn Bỉnh Khiêm mới trở về, mới khám phá về ông. Trong hơn 4 thế kỷ qua,
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1492 - 1585) đã thuộc vào lớp người đặc biệt, dạng giá trị đặc
biệt trong lịch sử văn hóa Việt Nam, trong tâm thức của mọi tầng lớp nhân dân: nông
dân, học trò, doanh nhân, trí thức, quan lại. Nhân cách, trí tuệ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã
trở thfnh giá trị văn hóa không phải của một thời, của riêng một tầng lớp nào, mà của
muôn đời nhân dân, đất nước.

Không nên quên trong lịch sử Việt Nam:


a) Việc đỗ cao như ông không ít. Lượng tiến sĩ của nho học Việt Nam không
phải hàng 2 mà 3 con số. Danh hiệu Trạng nguyên cũng không phải dành riêng cho
một mình ông, mà có trên 40.
b) Làm quan bên cạnh Vua mà ghét thói gian, nịnh, lộng quyền của đám gian
thần, dâng sớ "trảm" đòi tiêu trừ bọn chúng, thì trước Nguyễn Bỉnh Khiêm đã vằng
vặc tấm gương dũng cảm, tiết tháo dám viết sớ đòi giết 7 đứa gian thần ("Thất trảm
sớ") chấn động quỷ thần của Chu Văn An.
c) Cáo quan về ở ẩn, dồn tâm, trút trí vào việc đào luyện học trò cũng đâu phải
từ Nguyễn Bỉnh Khiêm mở ra. Trước và sau ông "tiến vi quan, thoái (hay đạt) vì sư"
(Tiến thì là quan, lui hay đạt thì làm thầy giáo) đã trở thành cách, thành mô hình hành
sự của các thế hệ sĩ phu Việt Nam.
d) ở "mà" vẫn tiếp "hiện" trong vai trò "tư vấn" cho chính quyền, thậm chí cho
cả các thế lực đang chống đối nhau cũng không phải là chuyện hiếm trước và sau thời
ông.
Nhắc lại những chuyện trên để thấy rằng những danh hiệu, những hành động
như đã nêu trên đâu phải là "chuyện xưa nay hiếm" của lịch sử - văn hóa Việt Nam.
Thậm chí, với tư cách là trí thức, trong mối quan hệ giữa những cặp, những tình
huống đối lập: "trọc" và "thanh", "danh-lợi", "hành-tfng", "trung-nịnh", "chấp kinh-
tòng quyền" vốn thường xuyên được đặt ra trong cách hành động, lựa chọn của xã hội
xưa, thì những điều trên lại gắn bó, lại như khôngtránh khỏi với phận quan lại trí thức
phong kiến Việt Nam. Và vì thế, cũng từ rất lâu, những (a), (b), (c), (d) đó thành
những biểu trưng hay như là "chuẩn", dẫu không tuyên bố, nhưng lại được coi là
thước đo tài trí, nhân cách, tấm lòng của các bậc sĩ-hoạn trước thời cuộc, trước nhân
dân, đất nước. Những tiêu chuẩn vừa cân đo được, vừa chỉ là ước lệ xã hội trên đây
đâu phải là "chuyện xưa nay hiếm" của lịch sử - văn hóa Việt Nam...
Không ít những trí thức phong kiến Việt Nam đã được "đo" đã có trong "lý lịch"
của mình ít nhất một tiêu chuẩn trên. Và, cũng chỉ cần một trong những chuẩn đó, họ
cũng đã có giá (thậm chí trở thành huyền thoại) trong người đương thời, lưu danh với
hậu thế tùy từng phạm vi thời gian và không gian: từ gia tộc, xóm làng đến quốc gia,
dân tộc. Với Tuyết Giang Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm thì không chỉ là một, mà cả và
đủ tất cả những tiêu chuẩn trên đều xảy đến với cuộc đời ông. Nhưng, không phải một
danh hiệu đó làm nên giá trị Nguyễn Bỉnh Khiêm. Khác với các loại người "giá áo túi
cơm" trằn trọc, lao tâm khổ tứ vì danh, vì lợi, vì cái danh tiến sĩ, bảng nhãn, thám
hoa... vốn không ít trong lịch sử thi cử nho học Việt nam, ông thuộc lớp người không
phải sống vì danh hiệu, trở thành gí trị vì những danh hiệu, áo mão. Cũng như Chu
Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm chẳng đã cởi bỏ chiếc áo đại triều để trở
về với Bạch Vân đó sao. Phải chăng chính điều đó khiến cho ông, cho những người
như ông trở thành giá trị không chỉ với đương thời, của riêng dòng họ, riêng một
vùng?
Điều căn bản gì đã tạo nên điều đó?
Vì ông là bách-khoa-thư của thế kỷ XVI, của những thê skỷ tiếp sau? tri thức
của ông có thể giải đáp nhiều câu hỏi của nhân gian, là cẩm nang trước: nhân vấn nạn
cuộc đời.
Có không ít những vấn đề của cuộc đời Nguyễn Bỉnh Khiêm muốn hiểu, muốn
biét, muốn giải đáp cho chính mình mà ông chưa hay, mà không thể giải đáp được.
Đọc thơ tâm sự của ông thấy luôn canh cánh
(1) Xem: Hội đồng lịch sử Hải Phòng, Viện Văn học Việt Nam: Trạng Trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm (kỷ yếu hội nghị khoa học). Tái bản lần thứ nhất - Hải Phòng
2001)
trước những hiện thực, khi thì hiện lên tên thơ: "thương loạn", "ghét chuột"...
khi thành những cật vấn chính mình, hoạc tung vào trời xanh, mây trắng:
Tá vấn ngô dân hà dĩ lạc
(ướm hỏi dân ta coi cái gì là niềm vui?)
Gươm trời nỡ để tay phàm tuốt
Búa nguyệt chi cho đứa độc mài?
Nhà dột bởi đâu?
...
Trước ông, từ Chu Văn An đến Nguyễn Trãi, sau ông đến Nguyễn Du, Nguyễn
Khuyến thử hỏi có ai trả lời được những đòi hỏi thường xuyên, nhức nhối của "thái
bình thiên tử, thái bình dân", của thói đời ấm lạnh?
Nhưng đó không phải là vấn đề của riêng một thế kỷ nào, quốc gia nào trong
lịch sử.
Nhân loại đã từng viện dẫn đủ mọi lý thuyết, mô hình, cách thức: từ tín ngưỡng,
tôn giáo đến khoa học thực chứng để từng bước khắc phục, sửa sai, uốn nắn, nhưng
hẳn không một nhà lạc quan, lãng mạn chủ nghĩa nào dám khẳng định một sớm, một
chiều khắc phục được những vấn nạn như trở thành thuộc tính ấy trên đây. ở Việt
nam, từ buổi cuối Trần đến trước thế kỷ XX, đứng trước vấn nạn này, trong tay những
nhà cầm quyền, quản lý đất nước, trước các bậc trí thức vẫn không có gì, chưa lấy gì
thay được Nho giáo mặc dầu từ đầu thế kỷ XVI trở đi đã thấy mô hình quân chủ Nho
giáo là bế tắc, và phải tân trang, phải :ngụy Nho". Điều đó lý giải vì sao từ Nguyễn
Bỉnh Khiểm, các thức giả Nho học Việt Nam càng đối chiếu kinh điển nho giáo để dọi
vào, hành sự trong đời thường, thói thường càng trăn trở, càng lúng túng nhiều hơn.
Bất chấp tất cả những đau khổ, nhữc nhối, thậm chí dẫn đến cả bi kịch cho cuộc
đời mình, từ Chu Văn An "tấc lòng chưa lạnh như tro đất" (thốn tâm thù vị như khôi
thổ), đến Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm... "tấm lòng lo trước thiên hạ đến già
chưa thôi" (lão lai vị ngải tiên ưu chí). Dẫu thời đại, hoàn cảnh lịch sử có cách xa
nhau, nhưng với các ông đều có chung một nỗi niềm, chung dòng máu đỏ cho những
trái tim chân thành và nhiệt tâm yêu nước, thương dân, gắn bó cuộc đời. Chính điều
đó là căn bản, đầu tiên, bền vững của nhân cách trí thức của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Nhưng tầm vóc trí thức, giá trị của Nguyễn Bỉnh Khiêm nói riêng vớitư cách là
một trí thức không chỉ đo bằng những điều đó.
Đầu thế kỷ XV, trước còn, mất của vận mệnh đất nước, văn hóa dân tộc, tríc
thức, trí tuệ Nguyễn Trãi "ngẫm nay suy trước, xét cho cùng mọi lẽ hưng vong" xây
thành đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn của khởi nghĩa Lam Sơn, đưa dân tộc
Việt Nam đi đến khúc hkải hoàn Đại cáo Bình Ngô.
Nửa sau thế kỷ XVI...
Với một đất nước đang trong cảnh nội chiến Trịnh - Mạc, và đang tích chứa một
cuộc chiến nữa, một cuộc chiến không tránh khỏi, sẽ bùng nổ bất kỳ lúc nào qua mâu
thuẫn mất còn của hai thế lực Trịnh - Nguyễn, thì giải pháp Nguyễn Bỉnh Khiêm
trong việc tham vấn cho các thế lực chính trị lúc đó, trên thực tế đã vừa góp phần đẩy
lùi cuộc chiến đến hàng thế kỷ (hay là bớt đi cho thế kỷ XVI một cuộc chiến) vừa chỉ
ra, thức tỉnh một tiềm năng kinh tế, văn hóa của vùng phía Bắc, đặc biệt là phía Nam.
Giải pháp Nguyễn Bỉnh Khiêm trước hiện tình đất nước nửa cuối thê skỷ XVI
hẳn không thể coi là giải pháp tình thế, là thái độ vô trách nhiệm của bậc trí thức trước
thời cuộc, trước đất nước. Ngược lại, trước những áp lực thực tiễn, gay cấn, cam go
không phải chỉ từ một phía, trước hoàn cảnh đất nước lúc đó, phương án của Nguyễn
Bỉnh Khiêm là phương án của Nguyễn Bỉnh Khiêm là phương án tối ưu, phương án
hạn chế đến mức thấp nhất, tránh đến mức thấp nhất đau khổ cho dân, cho nước.
Giải pháp đó chỉ có thể có được ở trí - tâm lực Nguyễn Bỉnh Khiêm, của những
người như ông. Đó là giải pháp của trí tuệ minh mẫn, là thực học (chứ không phải học
giả), gắn liền tri thức với thực tiễn của đất nước, được nâng cao, được thôi thúc bởi
lòng yêu nước, thương dân, bởi ý thức trách nhiệm của mình trước vận mệnh đất
nước. Đó cũng là con đường, là Đạo của những trí thức Việt Nam chân chính:
"Kính nhớ tiên sinh
Đông Hải hun đúc tinh thần
Nam Sơn đắp xây đức độ
...
Đạo tiên sinh muôn thuở vẫn còn..."
Đó là những câu đầu và kết trong văn tế Nguyễn Bỉnh Khiêm do các trí thức,
học trò của ông là Đinh Thì Trung soạn, Trương Thời Cử đọc trước mộ ngày đưa ông
về nơi an nghỉ cuối cùng (mùa đông năm 1585)
Đã hơn 415 năm qua đi, từng đấy thời gian hậu thế không ngừng tìm hiểu và
nhận từ cuộc đời, nhân cách, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm những giá trị tiếp truyền
cho thời đại, đất nước, nhân dân mình. Vượt qua những khuôn sáo, quy cách thông
thường của một bài truy điệu, thể hiện tình cảm của thế hệ học trò - lớp tri thức đương
thời do Nguyễn Bỉnh Khiêm trực tiếp đào tạo với ông... mà như nói dùm những tình
cảm, nhận thức về ông, nhận từ ông của muôn thế hệ.
Hà Nội, tháng 1 năm 2002

(Tạp chí Thăng Long Hà Nội ngàn năm - Số 5/2002)

Về lai lịch một "người thăng long gốc": Lý Thường


Kiệt
GS. LÊ VĂN LAN

Trông ra phố Nam Đồng ngày trước (nay: phố Nguyễn Lương Bằng) và ngôi đình
làng Nam Đồng (Năm Đồng). Đình thờ Lý Thường Kiệt, với cớ: nơi đây là đất mai
táng người anh hùng dân tộc thời Lý.

Thông tin này cần được kiểm chứng, nhưng, dù sao thì cũng có phần phù hợp (phụ
họa) được với một "tín hiệu chìm" khác: không một dòng sử quan phương nào chép
về việc đã đưa linh cữu vị đại danh thần đồng thời là đại danh tướng Lý triều, sau khi
mất, về một nơi nào - thường, theo quy luật trung cổ, thì phải là nơi chính quán - mà
lại ở ngoài Thăng Long! Có nghĩa ông là người Thăng Long.

Hiện có hai thuyết, xuất nhập về chi tiết, nhưng đại để, thì đều trực tiếp nói rõ: Lý
Thường Kiệt gốc người Thăng Long. Cả hai thuyết đều chỉ ra rằng: Lý Thường Kiệt
là người Làng An (Yên) Xá (Sau đổi là Cơ Xá) trên bãi sông Hồng, phía sau thành
Thăng Long. Nhưng, thuyết thứ nhất (dựa vào sách "Tây Hồ chí") cho rằng, trước khi
trở thành người (và phúc thần) An (Yên) Xá, thì quê gốc Lý Thường Kiệt là: Làng
Bình Sa.
Vào thời Lý Thái Tổ định đô, do việc mở mang kinh thành, làng Bình Sa phải di dời
ra mạn bãi sông Hồng, nhường đất cho vua xây thành. Người Bình Sa, vì lẽ đó, trở
thành người An (yên) Xá, tức Cơ Xá. Còn thuyết thứ hai, thì cũng nói đến việc Lý
Thường Kiệt dời quê gốc ra bãi sông Hồng để thành người An (Yên) - Cơ Xá, nhưng
lại (theo sự chỉ dẫn quan phương của các sách "Đại Việt sử ký toàn thư", "Lịch triều
hiến chương loại chí"...) mà cho rằng chốn quê gốc ấy, là: phường Thái Hòa.

Nay, thử làm việc dung hợp hai thuyết này, thì có thể thấy ra một điều là: trong khi
chỉ định làng Bình Sa như một chốn quê gốc của Lý Thường Kiệt, thuyết thứ nhất
cũng đồng thời chỉ định vị trí xa xưa của làng này, là ở phía nam Hồ Tây. Và, khi
nghiên cứu về vị trí của phường Thái Hòa, nhiều học giả đã cho rằng phường này vào
thời Lý ở về mạn Tây thành Thăng Long (chỗ có núi Cung, gần các làng Ngọc Hà -
Vĩnh Phúc xưa). Thế thì, ở đây, chẳng có gì là mâu thuẫn (khác biệt) cả (hoặc nhiều).
Bởi vì: núi Cung (Ngọc Hà - Vĩnh Phúc) cũng chính là miền đất ở sát ngay bờ nam
Hồ Tây (chỉ cách có một con đê - thành, cũng chính là vòng tường đất "La Thành"
(đại La Thành) thời Lý Trần mà nay là đường Hoàng Hoa Thám.

Vậy, có thể cho rằng: Quê gốc của Lý Thường Kiệt là ở đất phía nam Hồ Tây, đồng
thời là mạn tây (ngoài cửa Tây) thành Thăng Long. Cái tên Bình Sa (diễn nôm là "Bãi
cát phẳng") của đất ấy, gần với đặc trưng cảnh quan tự nhiên (thiên nhiên) của nơi này
thuở sơ khai nên có thể là địa danh cổ truyền và hồi cổ, về và từ thời "tiền Thăng
Long" khi đất kinh kỳ còn chưa được mấy khai phá (khai thác). Còn, tên Thái Hòa
(các cổ thư quan phương, chép kèm với tên này, đều dùng rõ chữ "phường"), gần với
văn hóa phong kiến (cung đình), nên có thể là địa danh - cũng của nơi này - thuộc về
thời "đô thị hóa trung cổ" (cung đình hóa): "Thời kỳ Thăng Long" cả hai địa danh đều
thuộc về, và chỉ về, một địa điểm (địa bàn): quê gốc của Lý Thường Kiệt.

(Chính từ chỗ này mà ta hiểu ra được: vì sao, sách" Tây Hồ chí" (và "Long thành vật
sự") lại chép rõ về con đường mà ngày xưa, Lý Thường Kiệt đã thường đi để theo học
thầy Lý Thường Kiệt đã thường đi để theo học thầy Lý Công ẩn ở trường Bái Ân , là:
men theo bờ nam Hồ Tây; và, vì sao, lời kể dân gian vùng núi Cung, lại giỉ thích rằng:
Sở dĩ núi có tên này, là bởi vì ngày xưa, ở đây có cung điện (phủ đệ, dinh thự) của
một vị quan lớn lắm!)

Việc tìm hiểu con đường (cung cách) dẫn đến chỗ Lý Thường Kiệt trở thành người -
Thăng Long - gốc từ nghìn năm trước, sẽ (và đã) là một trường hợp vừa điển hình,
vừa hiếm lạ - để nghiên cứu ra được nhiều vấn đề dân số học Thăng Long (trong đó,
có vấn đề về nguồn gốc và đặc trưng cư dân đô thị này) vào lúc mới định đô.
Hiện có một đầu mối - đúng hơn: một đầu mối kép - rất quan trọng, có thể giúp vào
việc lần giở (mở) lại con đường ấy. Đó là: người cha của Lý Thường Kiệt, không phải
họ Lý, mà là họ Ngô, và: ông họ Ngô này, có nhiều liên quan đến đất Thanh Hóa.

Tất nhiên các tài liệu, đều chép: họ tên người cha của Lý Thường Kiệt là Ngô An
Ngữ, và: vào năm 1031 (lúc ấy, Lý Thường Kiệt 13 tuổi - "tuổi ta", tức: tính cả "tuổi
mụ") ông họ Ngô này - giữ một chức quan võ của Lý triều - đã vâng mệnh vua Lý
Thái Tông, từ Thăng Long, vào "đi tuần" miền Thanh Hóa, và mất tại đó.

Sự việc này, lâu nay, chỉ được sử sách khai thác ở khía cạnh trình bày về nhân cách
Lý Thường Kiệt, tức chỉ quản g bá cho tính hiếu thảo của chú bé Ngô Tuấn - tên thực
của Lý Thường Kiệt, khi ấy - đã "đêm ngày thương khóc" cái chết của cha đẻ mình,
như thế nào. Nhưng gần đây, với việc dòng họ Ngô hiện đại, đã lập và công bố "tộc
phả họ Ngô" (với nhiều chi tiết, tình tiết) phong phú, thú vị - tuy một số trong đó cũng
còn cần được kiểm chứng giám định thêm) ta đã có thể nhận ra nhiều manh mối hơn,
của sự việc này, ấy là căn cứ vào "Tộc phả họ Ngô" - Ngô An Ngữ, đầu tiên, đã theo
giúp Lý Công Uẩn, khi ông này còn (và mới) là một quan chức triều Tiền Lê ở Hoa
Lư, do đó, khi có việc dời đô (Hoa Lư) và định đô (Thăng Long) năm 1010, Lý Công
Uẩn đã mang theo cả Ngô An Ngữ về triều đình Thăng Long. Trở thành người Thăng
Long (một đời), Ngô An Ngữ đã lấy vợ (bà này, họ Hàn) là người phường Thái Hòa
khi ấy, và, 9 năm sau ngày định đô - tức: năm 1019 - thì sinh hạ được cậu con trai đầu
lòng, hết sức khôi ngô, tuấn tú, cho nên (bèn) đặt tên là: Ngô Tuấn - cái tên đầu tiên
và chính gốc của Lý Thường Kiệt, trước khi được vua Lý và Lý triều ưu ái ban cho
(đổi gọi) cái tên này.

"Tộc phả họ Ngô" còn cho biết: Ngô An Ngữ đã từ Thanh Hóa mà đi theo Lý Công
Uẩn! Như vậy, ông này là một "chuyên gia" về Thanh Hóa. Và vì thế (nhờ thế) vẫn
tiếp tục phục vụ triều đại Lý Thái Tông với tư cáhc này Ngô An Ngữ mới đuực phái
đi tuần" (hoặc: "tuần kiểm") miền Thanh Hóa 1031, và mất ở đó.

Vì sao Ngô An Ngữ có nhiều gắn bó (liên quan) đến Thanh Hóa vậy? Tiếp tục tra tìm
trong "Tộc phả họ Ngô", ta thấy ra một điều quan trọng và thú vị: ông họ Ngô này,
chính là trực hệ (thế hệ sau) của ông họ Ngô khác, vốn đã được chính sử nhiều lần nói
đến, với tư cách và hành trang của một nhân vật lịch sử đích thực: Sứ quân Ngô
Xương Xí, từng - trong thời "Loạn Thập nhị sứ quân" (giữa thế kỷ X) - có căn cứ/và
hùng cứ/ở đất Bình Kiều - Thanh Hoá.

Ngược được từ Ngô An Ngữ lên tới Ngô Xương Xí, thì, đến nay, ta đã có thể - dễ
dàng và may mắn - gặp được chính sử. Bởi vì, tất cả các tài liệu sử cũ đều lưu chép:
Ngô Xương Xí là con của Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập - hoàng tử trưởng của
Ngô Vương Quyền. Từ những rối ren của vương triều Ngô sau khi Ngô Quyền mất
(năm 944), rồi Ngô Xương Ngập cũng mất (năm 944), rồi Ngô Xương Ngập cũng mất
(năm 954), và em của ngô Xương Ngập (chú của Ngô Xương Xí) là Nam Tấn Vương
Ngô Xương Văn rồi cũng mất (năm 965), mở đầu/ và ở trong/cục diện "Loạn thập nhị
sứ quân", Ngô Xương Xí đã tự mình cũng trở thành một "sứ quân", tranh giành quyền
lực với các "sứ quân" khác, nhờ (dựa vào) căn cứ Bình Kiều của mình ở Thanh Hóa.

Vì sao, trong khi các "sứ quân" khác, đều chiếm lĩnh và dựa vào các căn cứ của họ ở
ngoài miền trung du và đồng bằng Bắc Bộ, thì riêng Ngô Xương Xí lại lựa chọn/và
chạy vào/trong đất Thanh Hóa?

Dễ dàng giải đáp điều này: Bởi vì, "bà nội" (Dương Thị Như Ngọc) và cả "ông trẻ"
(Dương Tam Kha - em trai bà nội nữa), rồi "cụ ngoại" (Dương Đình (Diên) Nghệ)
nữa, của Ngô Xương Xí, đều là người ở/và lập nghiệp từ/Thanh Hoá: Đất Dương Xá
(làng Giàng)! và, đây mới là điều quan trọng nhất: chính ông nội của Ngô Xương Xí
(tức: "cụ nội" của Ngô An Ngữ, và "kỵ nội" của Ngô Tuấn - Lý Thường Kiệt) là Ngô
Quyền (Ngô Vương Quyền) tuy quê gốc ở Đường Lâm (Sơn Tây) nhưng cũng lại
chsinh là rể đất Thanh (con rể của Dương Đình (Diên) Nghệ) và cũng đã từng từ đây
mà lập nghiệp: đem lực lượng (của họ Dương) từ đất Thanh ra Bắc, mở "chiến dịch
kép" - tiêu diệt kẻ phản bội Kiều Công Tiễn ở Đại La và cả phá quân xâm lược Nam
Hán ở Bạch đằng, năm 938!

(Roc ra điều này, ta sẽ lại có cơ sở và tiền lệ, để hiểu: vì sao mỗi khi đất Thanh Hóa
có điều bất ổn (dưới triều đại Lý Thái Tông), hoặc cần quản lý tốt (dưới triều đại Lý
Nhân Tông), thì ở tất cả những trường hợp ấy, đến lượt Lý Thường Kiệt: Ông đều
được phái đi từ Thăng Long, để "thanh tra, vỗ về", hoặc "trị nhậm, mở mang", và đều
"hoàn thành nhiệm vụ" rất tốt đẹp và trở về kinh kỳ.

Lý Thường Kiệt (Ngô Tuấn), vậy, không những là người Thăng Long gốc (đời thứ
hai), mà còn là cháu chắt chút (đời thứ năm) của cụ Tổ ("Kỵ") Ngô Quyền.

Con đường để Lý Thường Kiệt trở thành một nhân vật lịch sử lớn, vậy là đã trải qua
một hành trình trăm năm - dài từ thê skỷ X chuyển qua thê skỷ XI - và đã dẫn qua
nhiều miền đất nước - từ quê nội Sơn Tây, qua quê ngoại Thanh Hoá, mà về đến
Thăng Long. Đấy là con người biết kế tục truyền thống (tinh anh) của dòng họ, và biết
kế tục giá trị (tinh hoa) của nhiều nguồn, để mà một khi đã trở thành người thị dân
kinh đô, thì ở trên "đất rồng thiêng", biết hưởng dụng (khai thác) các vị thế thuận lợi
của và từ chốn kinh kỳ vào lúc mới định đô và khai sáng vương triều, nỗ lực lập trí
và hành động, do đó, thăng tiến mạnh mẽ được cho cuộc đời và sự nghiệp bản thân,
đồng thời, thăng hoa đẹp để được cho chốn quê hương kinh kỳ của đất nước này.

(Tạp chí Thăng Long Hà Nội ngàn năm - Số 7/2002)

Từ chú bé kiếm củi, trở thành Lưỡng quốc Trạng


Nguyên
Trần Hồng Đức

Mạc Đĩnh Chi (1272 - 1346), người xã Lũng động, huyện Chí Linh, nay là thôn Lũng
động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh hải Dương. Thửo hàn vi,, Mạc Đĩnh Chi mồ
côi cha từ nhỏ, nhà nghèo, hai mẹ con phải đi vào rừng sâu hái củi để kiếm sống hàng
ngày. Bà mẹ đã chịu hy sinh tất cả để cố nuôi con cho con được đi học, trong những
năm tháng nhọc nhằn, tủi nhục, mẹ vẫn cắn răng chịu đựng, mẹ chỉ ao ước con mình sẽ
có ngày đỗ đạt để giúp ích cho đời, thoát khỏi cảnh nghèo, niềm tin ấy đã giúp mẹ vượt
qua mọi gian khổ. Hiểu được lòng mẹ. mạc Đĩnh Chi càng ra sức học tập. Vốn là cậu
bé có tư chất thông minh lại phải sống trong cảnh mô côi nghèo khổ, bị người đời
khinh rẻ, nên Mạc Đĩnh Chi sớm nhận ra rằng chỉ có học tập, học thành tài mới là con
đường đưa cậu bé thoát khỏi cảnh nghèo khổ và cũng là để thể hiện phẩm chất thanh
cao của con người từ sự đỗ đạt mà đi lên. Vì vậy, không mấy lúc Mạc Đĩnh Chi ngơi
đọc sách, nghiền ngẫm, nghĩa sách, kể cả lúc vai gánh củi đi bán. Không có sách học,
thì mượn thầy mượn bạn. Mạc Đĩnh Chi cố học nhiều cuốn sách quý. Không có tiền
mua nến để đọc sách, thì Mạc Đĩnh Chi đốt củi, hết củi thỉ lầy lá rừng đốt lên mà học,
thật là vô cùng gian khổ, nhưng chú bé không hề nản chí. Do có nghị lực phi thường,
cộng với tính thông minh trác việt, chẳng bao lâu Mạc Đĩnh Chi đã nổi tiếng thần đồng
nho học xứ Hải Đông.

Khoa thi Giáp Thìn (1304), thi hội, Mạc Đĩnh Chi đỗ Hội nguyên, thi Đình, ông được
chấm đỗ Trạng Nguyên, nhưng khi vào ra mắt nhà vua, vua Trần Nhân Tông thấy ông
tướng mạo xấu cí, có ý không muốn cho ông đỗ đầu. Biết ý, ông đã làm bài "Ngọc tỉnh
liên phú". Đó là bài phú bằng chữ Hán để gửi gắm chí khí của mình. Bài phú đề cao
được phẩm chất trác việt và phong thái cao quý của một người khác thường, vượt xa
người khác về mọi mặt. Song không muốn a dua với người tầm thường để mong cho
đời biết đến. Ông dùng hình tượng một bông sen sinh ra trong giếng ngọc ở núi Hoa
Sơn do một vị đạo sĩ kỳ dị hái mang xuống cõi trần. Vua Trần Anh Tông xem xong
khen là thiên tài mới cho đậu Trạng nguyên, ban cờ hiển vinh quy bái tổ.

Sau khi trở về kinh đô, nhà vua cho vời Trạng vào bệ kiến, hỏi việc chính trị, Trạng nói
đâu ra đấy, vua rất hài lòng, ban cho Trạng chức Hàn lâm học sĩ, sau thăng dần đến
chức Thượng thư, rồi Đại Liêu ban Tả Bộc Xạ (tương đương chức Tể tướng).

Năm Đại Khánh triều vua Trần Minh Tông (1314 - 1329), vua nhà Nguyên sai sứ sang
phong vương cho nhà vua, Mạc Đĩnh Chi được cử làm Chánh sứ sang nhà Nguyên đáp
lễ. Trong quá trình đi sứ của ông đã biểu hiện rất xuất sắc tài năng ngoại giao và tầm trí
tuệ vĩ đaị của ông khiến cho vua tôi nhà Nguyên vô cùng kính phục.

Trên đường đi sứ, ngay trên biên giới hai nước, ông đã chứng tỏ tài ứng đối. Khi đoàn
sứ giả tới ải Pha Lũy (tức Mục Nam Quan). Cửa ải đóng chặt, có một vế đối dán sẵn ở
cửa ải như sau:

- Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan.

Nghĩa: Qua cửa quan chậm, cửa quan đóng, mời khách qua đường qua cửa quan.

Vế đối hiểm hóc ở chỗ có 4 chữ quan và 3 chữ quá. Mạc Đĩnh Chi và đoàn sứ giả biết
rằng đây là mưu kế của bọn quan lại nhà Nguyên ra điều kiện để được mở cửa quan.
Nếu đoàn sứ giả không đối được thì sẽ không vào được biên giới Trung Hoa. Như vậy
sẽ ảnh hưởng tới quốc thể.

sau khi suy nghĩ một chút, Mạc Đĩnh Chi đã đối lại:

- Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối.

Nghĩa là: Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, xin tiên sinh đối trước

Vế đối cũng có 4 chữ đối và 2 chữ tiên. Tình thế đổi khác. Tưởng đã bí thế mà lại hóa
ra một câu đối hay, viên quan nhà Nguyễn chịu là vị Trạng nguyên đất Việt có taif ứng
biến nên lập tức xuống mở cửa ải, ân cần đón đoàn sứ giả.

Ngay lần gặp mặt đầu tiên: vua quan nhà Nguyên muốn làm nhụt chí của đoàn sứ giả,
tự cho mình như mặt trời đỏ, ra vế đối ý kiêu căng:

Nhật hỏa, vân yên, bạch đản thiêu tàn thỏ ngọc.
Nghĩa là: "Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày thiêu cháy vầng trăng"

Vế đối còn có ý ám chỉ đối phương yếu và nhát như thỏ.

Nghe xong Mạc Đĩnh Chi đối lại:

Nguyệt cung, tinh đạn hoàng hôn xạ lạc kim ô.

Nghĩa là: "Trăng là cung, sao là đạn, buổi chiều tối bắn rụng mặt trời"

Vế đối rất chỉnh và tài tình, đã nêu cao được ý chí và sức mạnh của đại Việt. vế đối còn
rất đẹp về hình ảnh mặt trăng lưỡi liềm giống như cây cung, muôn ngàn vì sao lấp lánh
giống như những viên đạn. Hơn nữa vế đối còn có ý ám chỉ đối phwong là con quạ vì
kim ô vừa nghĩa là mặt trời, lại vừa có nghĩa là con quạ sắt. Vua Nguyên thấy mình bị
trả miếng rất đau, nhưng hết sức phục tài viên sứ nước Đại Việt. Vì vậy, vua tỏ ra vui
vẻ:

- Quả là danh bất hư truyền . Lời đồn đại về tài năng của người thật chẳng ngoa. Nói
rồi, vua Nguyên sai ban rượu ngon và bắt viên nội giám xuất nhiều vàng bạc trong kho
để tặng thưởng Mạc Đĩnh Chi.

Đoàn sứ giả nước Đại Việt đang chuẩn bị về nước vì đã hoàn thành sứ mệnh vua giao,
thì một tình huống bất ngờ đã xảy ra:

Công chúa nhà Nguyên qua đời, vua Nguyên sai sứ thần của triều đình đến gặp Mạc
Đĩnh Chi và nói:

Thưa tiên sinh, hôm nay đại bất hạnh cho hoàng tộc, bà trưởng công chúa đã mất,
Thánh thượng biết ngài là người có giọng đọc tốt, hơn nữa tên sinh lại là người ngoài
nên Triều đình có ý muốn nhờ tiên sinh đọc bài điếu văn cho thêm phần trang trọng.

Mạc Đĩnh Chi nhận lời:

Tôi cũng muốn đến để viếng công chúa và chia buồn với nhà vua, nhưng chẳng hay bài
đíu văn này, triều đình muốn tôi phải viết ý tứ gì?

Sứ giả nhà nguyên nói:

Bài điếu văn đã được viết sẵn rồi. Chỉ dám phiền tiên sinh đọc mà thôi
Tang lễ được cử hành rất linh đình để khoe sự giàu sang và truyền thống nghi lễ của
nước lớn. Đến ngày cuối cùng là ngày an táng công chúa, Mạc Đĩnh Chi được mời vào
cung để đọc điếu văn.

Ông được một viên văn quan long trọng nâng hai tay ngang đầu chuyển cho ông bài
điếu văn

Một sự kiện cổ kim không tiền khoáng hậu có một không hai xảy ra. Bài điếu văn chỉ
có một chữ là chữ "Nhất" rất to.

Trước sự việc như vậy, Mạc Đĩnh Chi không hề bối rối vì ông biết chắc chắn thế nào
người Nguyên thử tài mình bằng những cách thức vô cùng hiểm hóc.

Sau một thoáng suy nghĩ , ông lấy giọng đọc sang sảng lâm ly bài điếu sau:

Thanh thiên nhất đóa vân

Hồng lô nhất điểm tuyết

Thượng uyển nhất chỉ hoa

Quảng Hàn nhất phiến nguyệt

Y! vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết.

Nghĩa:

Trời xanh có một đám mây

Trong bầu vũ trụ có một điểm tuyết

Trong vườn thượng uyển có một cành hoa

Cung Quảng Hàn có một vầng trăng

Than ôi! mây đã tan, tuyết đã tan, hoa đã tàn

Vầng trăng đã khuyết

Đọc xong với vẻ mặt buồn rầu, ông nghiêm trang bước ra trước sự xúc động nghẹn
ngào của những cung phi mỹ nữ và trước vẻ tưng hửng của vua tôi nhà Nguyên vì họ
đã giương bẫy để sứ nước Đại Việt chui lại ung dung do tài trí tuyệt vời mà sứ giả nước
Đại Việt lại ung dung đi ra trước sự khâm phục của mọi người. Mạc Đĩnh Chi lại tạo ra
một kỳ tích có một không hai trong lịch sử văn chương chữ nghĩa trong thoừi đại của
ông.

Mạc Đĩnh Chi làm quan trải 3 triều vua: Trần Anh Tông (1293 - 1314), Trần Minh
Tông (1314 - 1329), Trần Hiếu Tông (1329 - 1341) đến chức Đại Liêu ban Tả bộc xạ
(Tể tướng) đứng đầu triều.

Khi làm quan thì ông nổi tiếng là trung thực và thanh liêm, hết lòng vì dân vì nước, đến
lúc già về hưu chỉ có nếp từ đường (thờ tổ tiên) nhỏ bé mà thôi, thường ngày ông vẫn
ra ngồi nơi quán lá uống bát nước vối, chuyện trò thân mật với dân làng, ông sống
thanh bạch, giản dị như những người dân quê.

Ngày nay để tưởng nhớ công lao của ông, Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh đều có
đường phổ, trường học mang tên Mạc Đĩnh Chi.

(Tạp chí Thăng Long Hà Nội ngàn năm - Số 7/2002)

Sự vô tư và trung thực của Tô Hiến Thành


Tô Hiến Thành sinh năm nào không rõ, chỉ biết thuộc thời kỳ Lý Anh Tông, ông là một
bậc lão thần của nhà Lý và thời Lý Cao Tông, ông được quyền thay vua nhỏ tuổi nhiếp
chính sự.

Tô Hiến Thành mất vào tháng 6 năm Kỷ Hợi (1179). Đó là một tổn thất lớn cho triều
Lý, bởi lúc bấy giờ, vua Lý Cao Tông mới 8 tuổi, chưa thể tự quyết đoán được mọi
việc phức tạp của nước nhà, trong lúc đó, bà Chiêu Linh thái hậu vẫn chưa chịu từ bỏ
mưu đồ truất phế Lý Cao Tông để đưa Lý Long Xưởng là tên vô đạo lên thay. Cả triều
đình lấy đó làm mối lo lớn, nhất là bà Đỗ Thái Hậu (tức bà Thụy Châu thái hậu, mẹ đẻ
của vua Lý Cao Tông)

Lúc Tô Hiến Thành trở bệnh nguy kịch, có một câu chuyện rất cảm động, phản ánh
nhân cách khả kính của ông, đã được sánh Đại Việt Sử lược chép lại như sau:

"Trước đây, khi Hiến Thành ở trên giường bệnh, chỉ có quan tham tri chính sự là Vũ
Tán Đường ngày đêm hầu hạ ở bên cạnh. Quan gián nghị đại phu là Trần Trung Tá, vì
nhiều công việc bận, không có thời giờ rảnh rỗi tới thăm Hiến Thành được. Khi bệnh
tình đã nguy kịch, Bà Đỗ Thái hậu tới thăm và hỏi Hiến Thành rằng:

- Nếu có mệnh hệ nào thì ai thay ông được?

Hiến Thành đáp:

- Người mà bình nhật thần biết chỉ có Trung Tá mà thôi.

Thái Hậu nói:

- Tán Đường ngày ngày hầu hạ thuốn thang cho ông, ông không nói tới là làm sao?

Hiến Thành đáp:

- Bệ hạ hỏi ai có thể thay thần nên thần mới nói đến Trung Tá, còn nếu như Bệ hạ hỏi
người hầu hạ phụng dưỡng, thì phi Tán Đường ra, còn ai nữa.

Thái hậu tuy khen Hiến Thành là trung, nhưng rồi cũng không nghe lời ông, Đỗ An
Thuận (các sách khác chép là Đỗ An Di, có lẽ do Di và Thuận mặt chữ Hán gần giống
nhau nên chép lầm)

Đỗ An Thuận là em ruột của Đỗ Thái hậu trông coi việc triều chính"

Xin nói thêm: Tô Hiến Thành mất, Vua bãi chầu 7 ngày, ăn chay 3 ngày để tỏ rõ sự đặc
biệt kính trọng.

Sách đại Việt sử ký toàn thư sau khi lược chép lại chuyện này, đã trân trọng ghi lại lời
bàn của Sử thần Ngô Sĩ Liên như sau:

"Tô Hiến Thành nhận việc kí thác con côi, hết lòng trung thành, khéo xử trí khi có biến
cố, tuy bị gió lay sóng dập mà vẫn đứng vững như cột đá giữa dòng, khiến trên yêu
dưới thuận, không thẹn với phong độ của đại thần ngày xưa. Huống chi, đến lúc sắp
chết còn vì nước tiến cử người hiền, không hề vì ơn riêng. Thái Hậu không dùng lời nói
này của Hiến Thành là việc không may cho nhà Lý vậy"

(Tạp chí Thăng Long Hà Nội ngàn năm - Số 7/2002)


Sắc bất ba đào

Đến chơi nhà người quen gặp lúc trời mưa, ra về không được chúng ta thường mỉm
cười nói với chủ nhà:
Vũ vô kiểm tỏa năng lưu khách! Cơn mưa không xiềng, không xích mà giữ khách ở
lại được. Khi nói đến chữ "vũ vô kiềm tỏa" chúng ta nhớ ngay đến câu đối lại:
Sắc bất ba đào dị nịch nhân
Sắc đẹp của đàn bà không phải là sóng gió mà vẫn làm cho người ta chìm đắm. Nạn
nhân nhiều lắm, kể sao cho xiết, nói sao cho cùng!
Vụ án tình xưa nhất mà lịch sử Việt Nam có ghi chép tường tận là chuyện Trọng Thủy
- Mỵ Châu.
Trọng Thủy là con của Thiệu Vũ Vương (Triệu Đà) có nhiệm vụ giúp cha thôn tính
nước Âu Lạc của An Dương Vương.
An Dương Vương có người con gái rất đẹp là Mỵ Châu (còn gọi là Lan Châu), giỏi
nghề chế tạo cung và mũi tên bằng đồng.
Triệu Vũ Vương đã hơn một lần thua chạy trước nhhững mũi tên đồng của quân
Thục, sai con là Trọng Thủy đến xin ở rể với vua Thục và lén học nghề chế tạo cung
đồng, tên đồng. Học nghề xong Trọng Thủy xin cáo biệt trở về đất Bắc. Lúc lâm biệt,
chàng trao một tấm nệm lông ngỗng cho vợ và dặn rằng:
Ngày sau chắc có sự giao binh giữa hai nước, sợ vợ chồng ta sẽ thất tán, không tìm
gặp lại nhau được. Thiếp hãy nhận tấm nệm lông ngỗng này, chạy đi đâu, nhớ đánh
dấu đường bằng vài sợi lông để biết nơi mà tìm tới.
Sự việc sau này diễn biến đúng như lời tiên liệu của Trọng Thủy.
Quân Triệu vào xâm lược, Thục An Dương Vương thua, phải bỏ thành Cổ Loa mà
chạy. Nhà vua vẫn mang công chúa ái nữ phía sau yên. Quân Triệu truy kích. Nhà vua
nghi ái nữ đồng tình với giặc, liền tuốt kiếm giết nàng, rồi tự trầm ở bờ biển Mộ Dạ
(Nghệ An)
Tuy quân Triều chiến thắng, song Trọng Thủy buồn tình, thất vọng đâm đầu xuống
giếng sâu ở thành Cổ Loa mà thác.
Chuyện tình yêu bi đát được các nhà bình luận quân sự, văn học xưa nay phân tích
khá nhiều.
Tùy Viên thi thoại phê rằng:
Cha con vua Triệu mở non sông,
Một đóa Lan Châu thực khéo trồng
Ba ngàn cung đồng theo chú rể,
Gớm cho lòng gái vị nhà chồng!
Chu Mạnh Trinh có bài "Quá Cổ Loa, yết Mỵ Châu miếu, đề bích"
(Qua thành Cổ Loa, yết miếu Mỵ Châu, đề thơ trên vách tường), tạm dịch:
Tình chồng vốn nặng,
đức cha dày
Mang mối kỳ oan mãi đến nay
Thần trảo không thiêng,
rùa cũng mất
Minh Châu ứa lệ, bạng chìm đây
Bia tàn cây cỗi nghìn năm cũ
Bể biếc trời xanh một dạ này!
Quạnh quẽ ngôi đền,
ngoài miếu điện
Tiếng quyên kêu dứt bóng
trăng chầy
Tương truyền rằng Trọng Thủy gieo mình xuống giếng sâu ở thành Cổ Loa. Nước
giếng này có đặc tính rửa ngọc chân trâu rất sáng đẹp. Nước Việt ta vẫn phải tiến
cống thứ nước quý lạ đặc biệt này để cho các bà hậu phi bênTàu rửa ngọc. Việc đài tải
gian nan quá đỗi.
Một sứ thần nước Việt làm gan đổ thứ nước này đi, múc nước giếng thường thế nào.
Ngọc rửa bằng nước giếng thường không sáng đẹp, vua Tàu hỏi thì sứ giả đáp rằng:
ấy là vì tại lâu ngày, khí thiêng đã tan biến mất đi!
Thế là nước ta tránh khỏi cái nạn nước rửa ngọc.
Còn chuyện tên đồng thì có thực trăm phần trăm. Năm 1959, ở thành Cổ Loa khai
quật được hàng vạn mũi tên đồng ba cạnh sắc bén. Các nhà khảo cổ đã minh định niên
đại và xác nhận đó là những mũi tên đồng được chế tạo cách bây giờ gần 2000 năm.
Mối tình Trọng Thủy - Mỵ Châu là mối kỳ oan muôn thuở, người đời xúc động, bùi
ngùi:
Tình chàng cùng với nghĩa cha,
Bên thì nghĩa trọng, bên là
tình thâm
Nỗi oan dai dẳng ngàn năm,
Ngọc châu nước giếng tiêu trầm
được sao?
Những chuyện cận đại, hiện đại thường có nhiều tình tiết gay cấn, ly kỳ hơn chuyện
người xưa.
Như năm 1936, cả thế giới đều bàng hoàng, sửng sốt khi nghe tin vua Edouard VIII
nước Anh thoái vị. Vua thoái vị vì thần dân vương quốc không thể chấp nhận một
thiếu phụ Mỹ làm mẫu nghi thiên hạ! Bà này đã ly dị một lần... Thế là nhà vua trả
ngai vàng lại cho quốc dân, chỉ còn giữ tước vị nguyên sẵn có là quận công Windsor.
Nói cho đúng, quận côngWindsor cũng được hưởng hạn phúc với người đẹp.
Ông vua thoái vị này có phúc hơn John Fizgerald Kennedy rất nhiều. Tổng thống
Kennedy đâu có hưởng ân ái gì nhiều với giai nhân tuyệt sắc Marilyn Monroe. Ông bị
ám sát chết năm 1963, chưa hết mọt nhiệm kỳ tổng thống. Cả ông và cô đào màn bạc
này đều bạc mệnh đúng y như câu:
Mỹ nhân tự cổ như danh tướng,
Bất hứa nhân gian kiến
bạch đầu
(Xưa này người đẹp như danh tướng,
Không hẹn trần gian thấy
bạc đầu!)
J.F Kennedy có địa vị còn cao hơn cả danh tướng vì ông là tổng thống một đệ nhất
cường quốcthế giới.
Không có gì mạnh hơn những đợt sóng ái tình
Người đẹp gây tai họa nhiều cho đất nước Trung Hoa là Dương Quý Phi. Tình nhân
của nàng là An Lộc Sơn khởi quân từ Ngũ Dương tiến chiếm Trường An đã gây ra
một cuộc nội chiến làm dân số nhà Đường hao hụt trên 2/3. Trước cuộc nổi loạn An -
Sử, dân số nhà Đường là 54 triệu, sau 9 năm nội chiến, dân số nàh Đường chỉ còn trên
17 triệu mà thôi.
Người xưa dùng chữ "khuynh thành, khuynh quốc" để miêu tả nhan sắc giai nhân là
đúng hết sức.
Người gây nhiều sóng gió cho vương nghiệp nhà Triệu là Cù Thị, người làm sụp đổ
vương nghiệp nhà trịnh là Tuyên Phi Đặng Thị Huệ.
Bà ngoại tình với Huy Quận Công Hoàng Đình Bảo. Ca dao thời bấy giờ có câu:
Trăm quan cómắt như mờ
Để cho Huy Quận vào sờ
Chính cung!
Rồi quân Tam Phủ nổi dậy, giết chết Hoàng Đình Bảo, truất phế Trịnh Cán, phù lập
Trịnh Khải làm Đoan Nam Vương.
Rồi quân Tây Sơn tiến ra Bắc Hà. Đoan Nam Vương Trịnh Khải thua trận, chạy trốn
và tự mổ bụng, moi ruột ra mà chết.
Biết bao nhiêu là sóng gió chung quanh một cuộc ái tình?
Các nhà quân - chính thời chiến quốc có câu:
Nước mình có tự đánh mình thì sau người ta mới đánh mình được. (quốc tất tự phạt,
nhiên hậu nhân phạt chi).
Tự đánh không bằng gươm đao mà tự đánh bằng son phấn. Sự vong diệt càng tủi nhục
hơn!

(Tạp chí Thăng Long Hà Nội ngàn năm - Số 7/2002)

You might also like