You are on page 1of 12

XẾP HẠNG SỨC MẠNH TÀI CHÍNH CÁC NGÂN HÀNG - PHẦN 1

( Rating.com.vn - Sunday 11.22.09 9:36 pm )

Tháng 9 và tháng 12 năm 2006, Moody's đã xuất bản theo yêu cầu Bản update
phương pháp xếp hạng sức mạnh tài chính của các ngân hàng. Yêu cầu này được
thực hiện cùng với kế hoạch kết hợp phân tích rủi ro vỡ nợ liên đới (JDA) trong xếp
hạng các ngân hàng và các tổ chức nhận tiền gửi khác của Moody's, để phản ánh
các nguồn hỗ trợ bên ngoài khác nhau có thể đem lại lợi ích cho các chủ nợ của
ngân hàng. 

GIỚI THIỆU
Xếp hạng sức mạnh tài chính các ngân hàng (BFSRs) của Moody’s phản ánh quan điểm của Moody’s về nội lự
các ngân hàng hay sức mạnh tài chính tương đối của bản thân nó so với tất cả các ngân hàng khác được xếp
trên toàn cầu. Phân bổ một BFSR là bước đầu tiên trong quy trìnhxếp hạng rủi ro tín dụng ngân hàng của Mo
xếp hạng sức mạnh tài chính của Moody’s không phải là xếp hạng rủi ro tín dụng . BFSRs không đặt trọng tâm
xác suất trả nợ đúng hạn hay các khoản thua lỗ mà nhà đầu tư phải gánh chịu khi xảy ra sự kiện rủi ro tín
Thay vào đó,  BFSRs là một thước đo xác suất mà một ngân hàng có thể sẽ phải phụ thuộc vào nguồn hỗ trợ
ngoài) để tránh đổ vỡ tín dụng .
Các xếp hạng khác cho các ngân hàng của Moody’s, bao gồm xếp hạng nợ và tiền gửi ngân hàng, được quyế
sau khi xem xét cả BFSR của ngân hàng và khả năng ngân hàng có thể sẽ nhận được các khoản hỗ trợ bên n
cũng như các rủi ro bên ngoài có thể gây trở ngại cho hoạt động của ngân hàng trong việc thực hiện đúng hạ
nghĩa vụ nợ trong và ngoài nước của nó. Moody’s đã xuất bản một phương pháp xếp hang riêng biệt miêu
nhân tố khác được kết hợp với BFSRs như thế nào để quyết định mức phân loại rủi ro tín dụng của ngân hàng.
Phương pháp xếp hạng này thiết lập bốn nhân tố phân tích chính để giải thích BFSRs của Moody’s. Tất nhi
không bao gồm tất cả các nhân tố phản ánh hạng mức tín nhiệm mà Moody’s đưa ra, nhưng nó có thể giúp
đọc hiểu các nhân tố chính mà Moody’s tin rằng nó sẽ tác động chủ yếu đến hoạt động của ngân hàng, khả năn
trì lợi thế cạnh tranh và đáp ứng các nghĩa vụ nợ của nó mà không cần phải phụ thuộc vào nguồn hỗ trợ bên ng
Moody’s cũng nhận ra rằng, mặc dù phương pháp này tạo ra sự tương thích hợp lý với phân loại của Moody
chỉ là một công cụ đế giúp các nhà phân tích và hội đồng xếp hạng của Moody’s đạt tới quyết định xếp hạng
cùng. Chúng tôi sẽ tiếp tục mở rộng và cải thiện phương pháp này dựa trên cơ sở nỗ lực tối đa để gia tăng sự
bạch trong phương pháp xếp hạng của chúng tôi cũng như cải thiện và mở rộng các thước đo định lượng của c
tôi.
XẾP HẠNG SỨC MẠNH TÀI CHÍNH CÁC NGÂN HÀNG CỦA MOODY’S
Rủi ro tín dụng của ngân hàng có liên quan đến (1) sức mạnh tài chính nội tại, (2) khả năng mà ngân hàng sẽ
từ các khoản hỗ trợ bên ngoài khi có nhu cầu và (3) rủi ro ngân hàng không thể hoàn trả các khoản nợ vì các
động trở ngại của chính phủ
Không giống như xếp hạng nợ hay tiền gửi ngân hàng, BFSRs không nhằm tính xác suất trả nợ đúng hạn ha
khoản thua lỗ mà nhà đầu tư phải gánh chịu khi khả năng trả nợ của ngân hàng suy yếu. BFSRs cũng khô
lường khả năng mà ngân hàng sẽ nhận được nguồn vốn bên ngoài như các chủ sở hữu của nó, các tập đoàn
nghiệp hay từ các tổ chức của chính phủ và cũng không đề cập đến các rủi ro từ phía chính phủ, mà có thể can
vào ngân hàng, qua đó tác động đến khả năng hoàn trả đúng hạn các nghĩa vụ nợ trong và ngoài nước. Thay và
BFSRs đo lường khả năng mà một ngân hàng sẽ cần đến nguồn hỗ trợ bên ngoài đã đề cập ở trên để tránh tình
vỡ nợ .
Để phân biệt các hạng mức tín nhiệm nợ và tiền gửi ngân hàng với BFSRs, chúng tôi sử dụng các biểu tượng
nhau từ A tới E, với A là sức mạnh tài chính nội tại lớn nhất và E là thấp nhất. Một dấu “+” có thể được thêm
các hạng mức dưới A và một dấu “-” có thể được thêm vào các hạng mức trên E để chỉ ra những ngân hàng
đánh giá cao hơn hay thấp hơn so với các mức xếp hạng.
Moody’s giới thiệu BFSRs vào năm 1995, và hiện tại đã phân hạng cho hơn 1000 ngân hàng và tổ chức tài
nhận tiền gửi trên toàn thể giới. Các nhân tố được xem xét khi phân hạng BFSRs được miêu tả trong phương
xếp hạng ngân hàng của Moody’s vào năm 1999, và liên tục được cập nhật cho đến nay.
CƠ SỞ XẾP HẠNG VÀ CÁC QUY TẮC CỦA BẢNG ĐIỂM
Xếp hạng ngân hàng của Moody’s phản ánh quan điểm của Moody’s về rủi ro tín dụng dài hạn bởi vì chúng được
sử dụng để đánh giá các khoản nợ có thể hoàn trả trong một thời gian dài. Kinh nghiệm quá khứ cho thấy rằng nếu
chỉ nhìn vào tình hình tài chính hiện tại của một ngân hàng thì không luôn luôn dự báo chính xác tình hình tài chính
tương lai và sức mạnh tài chính của nó. Chúng tôi tin rằng có những nhân tố định tính nhiều ý nghĩa mà nó đóng
một vai trò quan trọng khi quyết định sự ổn định và khả năng dự báo hoạt động kinh doanh và tài chính của một
ngân hàng qua thời gian. Vì vậy cách tiếp cận phân tích của Moody’s bao gồm phân tích các nhân tố định tính có ý
nghĩa  quan trọng, phân tích định lượng và kết hợp chặt chẽ với các phán xét và điều chỉnh theo kinh nghiệm của
các chuyên gia.

Chúng tôi tập trung vào 5 nhân tố xếp hạng chính mà chúng tôi tin rằng nó là then chốt để hiểu được sức mạnh tài
chính và rủi ro của một ngân hàng.

1. Lợi thế kinh tế (tạm dịch dựa vào phân tích các nhân tố phụ của nó, nguyên bản là “franchise value”)
2. Vị thế rủi ro
3. Môi trường kinh doanh
4. Môi trường pháp lý
5. Nền tảng tài chính

Phần tiếp theo chúng tôi sẽ xem xét lại 5 nhân tố xếp hạng chính và thảo luận tại sao mỗi nhân tố lại quan trọng đối
với BFSRs. Để trợ giúp cho các nhàn phân tích và khách hàng của Moody’s, chúng tôi đã phát triển một Bảng điểm
để cung cấp BFSR ước lượng, BFSR ước lượng này được sử dụng như bước đầu tiên bởi các nhà phân tích và hội
đồng xếp hạng khi quyết định BFSR của một ngân hàng.
Một vài thước đo hoàn toàn là định lượng, trong khi những thước đo khác là định tính. Nếu dữ liệu thô không sử
dụng được, chúng tôi sẽ sử dụng các ước lượng dựa trên kinh nghiệm và kỹ năng vốn có. Đối với các ý kiến có liên
quan đến định tính, chúng tôi cung cấp cách giải thích mà chúng tôi tin tưởng có thể giúp phân biệt các mức rủi ro
tại các ngân hàng khác nhau. Để ngăn chặn tác động mang tính chu kỳ của ngành, hầu hết các thước đo tài chính
chúng tôi sử dụng được tính trung bình trong 3 năm. 
Việc lựa chọn các nhân tố trong Bảng chấm điểm của chúng tôi được thiết kế để phản ánh các nhân tố mà các nhà
phân tích và hội đồng xếp hạng của Moody’s đã nghiên cứu cẩn thận cho tới hiện nay, với giả thiết rằng chúng dễ
dàng để đo lường hay miêu tả theo một cách nhất quán trên toàn cầu, và dựa trên các thông tin có thể sử dụng và
được công bố rộng rãi. Chúng tôi cảm thấy rằng hội đồng xếp hạng hiện tại đặt tỷ trọng cho các nhân tố chắc chắn
cao hơn các nhân tố khác, nên chúng tôi cố gắng để “bắt chước” các trọng số đó; đối với các nhân tố mà chúng tôi ít
chắc chắn hơn, chúng tôi thường sử dụng trọng số như nhau đối với tất cả các nhân tố phụ trong cùng một hạng
mục. Chúng tôi cũng tiến hành kiểm tra và xác nhận sự tương quan để đánh giá khả năng dự báo BFSRs hiện tại so
với bảng điểm của chúng tôi.
Như đã trình bày ở trên, Bảng điểm BFSR chỉ được dùng như một công cụ hỗ trợ các nhà phân tích và hội đồng xếp
hạng của Moody’s đạt được một quyết định xếp hạng. Nó cũng được sử dụng để thể hiện sự minh bạch đối với các
khách hàng của Moody’s và giúp cải thiện tính nhất quán và có thể so sánh của BFSRs của Mody’s trên toàn cầu.
Tuy nhiên, hội đồng xếp hạng hay các nhà phân tích đều không bị ràng buộc bởi bảng điểm nếu họ tin tưởng rằng
nó không phản ánh chính xác quan điểm của Moody’s về rủi ro tín dụng tương lai của một ngân hàng trong tương
quan so sánh với các ngân hàng được xếp hạng khác
Vì vậy, chúng tôi hoàn toàn lường trước được rằng sẽ có một vài ngân hàng mà BFSRs không tương thích với điểm
số mà chúng tôi ước tính. Bảng điểm được thiết kế để tương thích tốt ở một mức độ có thể chấp nhận đối với BFSRs
của 1,000 ngân hàng hiện tại được xếp hạng, nhưng nó có thể không phù hợp hoàn toàn đối với mỗi ngân hàng
trong đó. Có rất nhiều lý do tại sao BFSR của ngân hàng khác so với bảng điểm ước lượng được như các vấn đề về
kế toán của ngân hàng, mô hình kinh doanh, môi trường pháp lý và môi trường kinh doanh mà nó giới hạn khả năng
có thể so sánh của các nhân tố xếp hạng chính hay các thước đo định lượng. Nếu tồn tại sự khác biệt giữa BFSR với
điểm số ước tính, các nhà phân tích và hội đồng xếp hạng của Moody’s sẽ cân nhắc xem thử điểm số đo lường rủi ro
của một ngân hàng cụ thể về mặt cơ bản có thể so sánh trên phạm vi toàn cầu hay không, hoặc xem thử có nhân tố
quan trọng nào khác mà bảng điểm đã không xem xét thỏa đáng hay không. Moody’s sẽ cố gắng để so sánh các
ngân hàng như vậy với các ngân hàng có hoạt động tương tự trên toàn cầu, để chắc rằng chúng tôi duy trì tính nhất
toàn cầu trong BFSRs của chúng tôi. 
Trong khi bảng điểm BFSR căn cứ chủ yếu vào ngân hàng bán lẻ và hoạt động cho vay truyền thống, nó được ứng
dụng đến tất cả các ngân hàng nhận tiền gửi, không quan tâm đến các mô hình kinh doanh cụ thể mà ngân hàng đó
đang theo đuổi. Mở rộng ra, các nhà phân tích và hội đồng xếp hạng tin rằng dữ liệu rủi ro của một ngân hàng có thể
không được phản ánh thỏa đáng vì sự khác biệt về mô hình kinh doanh, nên họ có thể tính đến các điều chỉnh những
thước đo hiện tồn hoặc những thước đo khác miễn là phân tích được thực hiện trong bối cảnh có thể so sánh ở phạm
vi toàn cầu, không xét riêng lẻ trong một khu vực.
Bên cạnh các vấn đề trên, số lượng lớn các nhân tố trong bảng điểm xếp hạng làm cho chúng ít nhiều bị “pha
loãng”, nên các ngân hàng sẽ khó đạt được mức điểm cao nhất trong ước lượng BFSR. Tuy nhiên, vì bảng điểm chỉ
được sử dụng để làm một công cụ xếp hạng, chúng tôi tin rằng hội đồng xếp hạng sẽ có thể nhận ra được các ngân
hàng đó, trên cơ sở so sánh toàn cầu, đáng nhận được hạng mức tín nhiệm lớn nhất.
TẦM QUAN TRỌNG TƯƠNG ĐỐI CỦA CÁC NHÂN TỐ CÓ THỂ THAY ĐỔI
Để tối đa hóa sự minh bạch và nhất quán, phương pháp này được ứng dụng đối với tất cả các ngân hàng trong toàn
cầu. Tuy nhiên, tầm quan trọng tương đối của các nhân tố xếp hạng khác nhau có thể thay đổi giữa các ngân hàng
trong phạm vi toàn cầu đối với một vài trường hợp quan trọng.
Đầu tiên, Moody’s tin rằng các ngân hàng trong thị trường đang phát triển đối mặt với những thử thách khác về căn
bản so với các thị trường phát triển. Những ngân hàng hoạt động trong thị trường phát triển có lợi thế nhờ báo cáo
tài chính và môi trường môi trường pháp lý minh bạch và hiệu quả hơn, cho phép những người quan sát bên ngoài
đặt trọng số lớn hơn khi ra quyết định tín dụng. Nói cách khác, biến động kinh tế cao hơn trong thị trường đang phát
triển cũng như môi trường pháp lý tiềm ẩn nhiều yếu kém hơn, báo cáo tài chính ít tin cậy, biểu thị rủi ro tương đối
khi sử dụng các báo cáo tài chính của các ngân hàng trong thị trường đang phát triển.
Vì lý do này, trong khi Moody’s phân chia tỷ trọng 50% đối với nhân tố “Nền tảng tài chính” của các ngân hàng
trong thị trường phát triển, thì nhân tố này chỉ chiếm tỷ trọng 30% đối với các ngân hàng trong thị trường đang phát
triển.
Thứ hai, trong thị trường đang phát triển, môi trường pháp lý thường không rõ ràng và dễ thay đổi; môi trường kinh
doanh biến động nhiều hơn. Do đó, trong các nhân tố định tính của bảng điểm BFSR, Modody’s đặt tỷ trọng lớn
hơn cho môi trường pháp lý và kinh doanh đối với các ngân hàng trong thị trường đang phát triển.
Cuối cùng, khi quyết định rủi ro tương đối của một ngân hàng trong từng nhân tố, mỗi nhân tố phụ tương ứng nhìn
chung được phân chia tỷ trọng bằng nhau trong bảng điểm xếp hạng (các ngoại lệ sẽ được phân tích sau). Tuy nhiên,
đặc biệt với “Vị thế rủi ro”, Moody’s tin rằng ở đó có một vài nhân tố phụ nên nhận được tỷ trọng cao hơn. Đó là
những nhân tố hàm chứa các tính huống như một ngân hàng tập trung cao vào các khoản cho vay cá nhân hoặc cho
vay tập trung vào một ngành, khoản cho vay đến các nhân sự cấp cao trong ngân hàng ở mức độ cao hoặc những
ngân hàng mà có hệ thống kiểm soát yếu kém và ban quản trị có nhận thức nghèo nàn về rủi ro của ngân hàng.
Trong những tình huống như vậy, chúng tôi tin rằng những yếu tố rủi ro cao sẽ triệt tiêu các lợi thế của ngân hàng và
tầm quan trọng tương đối của các nhân tố phụ trong bảng điểm cũng được điều chỉnh theo.
(Còn tiếp)
Lê Tất Thành - www.rating.com.vn
XẾP HẠNG SỨC MẠNH TÀI CHÍNH CÁC NGÂN HÀNG - PHẦN 2
( Rating.com.vn - Sunday 11.22.09 9:33 pm )

Phần này trình bày các nhân tố xếp hạng sức mạnh tài chính các Ngân hàng của
Moody's, bao gồm: Lơi thế kinh tế, Vị thế rủi ro, Môi trường pháp lý, Môi trường
kinh doanh và Nền tảng tài chính

NHÂN TỐ 1: LỢI THẾ KINH TẾ


Đánh giá lợi thế kinh tế của một ngân hàng là yếu tố trung tâm trong phân tích của chúng tôi. Một lợi thế kinh tế
vững chắc là nhân tố chính làm cơ sở để tạo ra và duy trì nguồn thu nhập của một tổ chức, do đó, giúp các ngân
hàng duy trì và cải thiện khả năng phòng chống rủi ro trong những thị trường mục tiêu của nó. Tóm lại, các ngân
hàng có lợi thế kinh tế mạnh có vị thế tốt hơn khi chống chọi với các điều kiện thị trường khó khăn kéo dài 

Trong bảng điểm, Moody's tập trung vào 4 nhân tố phụ để đánh giá lợi thế kinh tế: Thị phần và tính ổn định, đa
dạng hóa khu vực địa lý, tính ổn định của nguồn thu nhập, tính đa dạng hóa nguồn thu nhập

1. Thị phần và tính ổn định

Nhân tố phụ đầu tiên mà chúng tôi xem xét là thị phần và khả năng duy trì thị phần trong dài hạn. Thị phần lớn với
một thương hiệu được nhận biết rộng rãi có liên quan chặt chẽ với khả năng trả giá (lãi suất) của ngân hàng. Những
yếu tố này như các rào cản các đối thủ khác giành lấy thị phần và như một chỉ báo cho sự ổn định vị thế và khả năng
bảo vệ mình của ngân hàng trước các đối thủ cạnh tranh.

Thị phần được sử dụng cho nhân tố phụ này được quyết định dựa trên nơi mà ngân hàng có thu nhập ròng chiếm đa
số. Nó thường dựa trên khu vực địa lý, sản phẩm và khách hàng. Đối với những ngân hàng hoạt động trong nhiều
khu vực địa lý khác nhau và/ hoặc nhiều hoạt động kinh doanh khác nhau, chúng tôi sẽ cố gắng ước lượng % thị
phần thích hợp của nó.

Quy mô của bất kỳ lĩnh vực kinh doanh nào đều phụ thuộc vào đặc điểm của khách hàng, sản phẩm và sự tồn tại
hoặc thiếu hụt của luật pháp hay các rào cản thâm nhập ngành. Thị trường thích hợp đối với các sản phẩm ngân
hàng bán lẻ có thể là địa phương, trong khi đối với các sản phẩm khác là toàn quốc hay đa quốc gia. Thị trường
tương ứng cũng có thể bao gồm các đối thủ cạnh tranh phi ngân hàng tùy thuộc vào sần phẩm hay dịch vụ mà họ
đưa ra

Từ đặc điểm của thị trường, một ngân hàng không cần phải lớn mới có được thị phần lớn. Một ngân hàng nhỏ
nhưng chi phối thị trường trong một phạm vi nhỏ và được bảo vệ, có thể có giá trị kinh tế được duy trì và nó sẽ
chuyển thành nguồn thu nhập ổn định hơn so với các ngân hàng khác. Nói cách khác, một ngân hàng với quy mô
tương tự hoặc thậm chí lớn hơn mà cạnh tranh trong thị trường ở phạm vi toàn cầu có thể có thị phần hạn chế hơn.

Tuy nhiên, chúng tôi cũng nhận ra rằng vị thế thị trường của ngân hàng có thể thay đổi theo thời gian. Xu hướng
gần đây cũng sẽ được xem xét, cũng như các đặc điểm cụ thể của từng thị trường riêng biệt.

2. Đa dạng hóa khu vực địa lý

Nhân tố phụ thứ hai đánh giá mức độ đa dạng hóa khu vực kinh doanh của một tổ chức tín dụng. Nhìn chung, sự tập
trung quá mức hoạt động cho vay tại một khu vực địa lý đơn lẻ với các hoạt động kinh tế không được đa dạng hóa
làm gia tăng rủi ro tín dụng, suy yếu chất lượng tài sản và dễ bị tác động bởi các chu kỳ kinh doanh.

Mở rộng ra, với một ngân hàng nhỏ trong một khu vực đơn lẻ, chúng tôi tin rằng ngân hàng đó nhiều khả năng phải
chịu sự biến động thu nhập lớn hơn các ngân hàng được đa dạng hóa khu vực hoạt động. Khu vực địa lý hạn chế
thường phụ thuộc vào một số ít ngành kinh tế hơn các khu vực khác. Tuy nhiên, chúng tôi nhận ra rằng, vẫn có
những ngoại lệ. Một vài khu vực nhỏ hơn có thể vẫn được đa dạng hóa cao, ngược lại các khuc vực lớn hơn có thể
kém đa dạng hóa hơn

3. Tính ổn định nguồn thu nhập

Nhân tố phụ thứ 3 mà chúng tôi xem xét là mức độ có thể dự báo kết quả các lĩnh vực kinh doanh chính của một tổ
chức tín dụng. Chúng tôi đánh giá cao các ngân hàng dựa trên hoạt động bán lẻ vì nó có thể tạo ra dòng thu nhập
sau khi điều chỉnh rủi ro có thể dự báo được, và nó là tài sản vô giá trong giai đoạn thị trường biến động hoặc lâm
vào tình trạng kiệt quệ tài chính. Sự ổn định thu nhập này thường là kết quả của những mối quan hệ khách hàng bền
vững, danh mục cho vay gồm nhiều khoản nhỏ (granular loan portfolios) mà thường thấy ở các ngân hàng bán lẻ
truyền thống. Ngân hàng bán sỉ/ ngân hàng dành cho doanh nghiệp thường chịu tính biến động cao hơn trong một
thời gian ngắn và bị chi phối bởi các nhân tố nằm ngoài tầm kiểm soát của các ngân hàng. 

Chúng tôi chú thích rằng việc phân tích khả năng dự báo được kết quả các mảng kinh doanh chính của một ngân
hàng cũng là một bộ phận không thể thiếu trong đánh giá năng lực quản trị rủi ro và vị thế rủi ro của một ngân hàng.

4. Tính đa dạng hóa nguồn thu nhập

Nhân tố thứ 4 mà chúng tôi phân tích là mức độ đa dạng hóa hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trong bảng đánh
giá, chúng tôi tập trung vào xem xét một ngân hàng có tính đa dạng hóa hay không, những ngân hàng nào mà chỉ
dựa vào một lĩnh vực kinh doanh duy nhất, chúng tôi gọi là monoline, và nó sẽ nhận điểm E cho nhân tố phụ này.
Niềm tin quá mức vào một hoạt động kinh doanh duy nhất có thể làm cho tổ chức tín dụng dễ bị tổn thương trước
những thay đổi tiềm ẩn đột ngột và không thể dự báo trong thị trường mà nó hoạt động, trong khi lại không có
nguồn thu nhập khác để tự bảo vệ trước tình trạng mất khả năng thanh toán. Trong bảng điểm xếp hạng, chúng tôi
định nghĩa một ngân hàng như là một monoline nếu hơn 80% thu nhập ròng của nó xuất phát từ một hoạt động hay
một sản phẩm duy nhất. Ví dụ như các tổ chức mà tạo ra hơn 80% lãi ròng từ thẻ tín dụng, cho thuê tài sản hoạt
động và tài chính, cho vay mua ô tô, bao thanh toán, tín dụng bất động sản, tài trợ dự án, cho vay đầu tư chứng
khoán ... Riêng đối với các ngân hàng bán lẻ, bởi đặc tính tự nhiên của nó đã được đa dạng hóa giữa hoạt động cho
vay và nhận tiền gửi, sẽ không được coi như là monoline.

Nếu một ngân hàng monoline có được lợi thế từ thị phần lớn và thu nhập ổn định, những yếu tố tích cực đó sẽ được
thể hiện ở các nhân tố phụ tương ứng. Tuy nhiên, chúng tôi tin rằng điểm số thấp hơn đối với nhân tố phụ "Đa dạng
hóa nguồn thu nhập" thì thích hợp vì những ngân hàng monoline dễ bị tổn thương hơn trước những thay đổi tiềm ẩn
của thị trường mà không có nguồn thu nhập khác bù đắp.

NHÂN TỐ 2: VỊ THẾ RỦI RO

Vị thế rủi ro của ngân hàng là một nhân tố định tính quan trọng trong phân tích tín dụng của Moody's. Cách tiếp cận
của ban quản lý để quản trị các rủi ro là thành phần chính yếu làm nền tảng cho các quyết định mang tính chiến lược
và có thể là nền tảng cho cả các quyết định tiếp theo sau đó. Chúng tôi nhận thấy rằng các quy tắc, quan điểm về rủi
ro thì song hành với chiến lược của ngân hàng.

Trong phương pháp phân tích của chúng tôi, chúng tôi dựa trên sự kết hợp các đánh giá định tính và định lượng để
có thể cung cấp cái nhìn thấu đáo về các nguyên tắc quản trị rủi ro và hiệu lực quản trị rủi ro của một ngân hàng.
Quản trị rủi ro ám chỉ việc giảm thiểu hoặc kiểm soát rủi ro mà ngân hàng phải đối mặt. Những rủi ro này ảnh
hưởng đến khả năng dự báo thu nhập và lợi nhuận cơ bản của ngân hàng, và trong một vài trường hợp gây nguy
hiểm đến vị thế tín dụng của ngân hàng nếu chúng không được quản trị hợp lý. Các nhân tố phụ khi đánh giá Vị thế
rủi ro là quản trị xung đột lợi ích trong tổ chức, quyền kiểm soát và quản trị rủi ro, tính minh bạch của báo cáo tài
chính , mức độ tập trung rủi ro tín dụng, quản trị thanh khoản, tham vọng rủi ro thị trường

1. Quản trị xung đột lợi ích trong tổ chức

Bao gồm: quyền sở hữu và tính phức tạp của tổ chức, rủi ro nhân sự chủ chốt, và rủi ro liên quan đến các nhóm lợi
ích khác nhau trong nội bộ

a. Quyền sở hữu và tính phức tạp của tổ chức


Moody's tin rằng tại các ngân hàng có cơ cấu sở hữu phức tạp, ban quản trị có thể gặp khó khăn nhiều hơn khi áp
dụng quan điểm giám sát độc lập đối với các cổ đông đang nắm quyền kiểm soát ngân hàng. Người ta có thể cho
rằng, các cổ đông lớn, các chủ sở hữu mang tính gia đình, có thể khuyến khích các quyết định mang đến lợi ích dài
hạn. Tuy nhiên, ban giám đốc của một tổ chức bị kiểm soát phải quản trị các xung đột lợi ích tiềm tàng giữa lợi ích
của các cổ đông nắm quyền kiểm soát và lợi ích của các cổ đông thiểu số. Nhiệm vụ của ban quản trị trở nên khó
khăn hơn khi cơ cấu tổ chức có tính phức tạp cao và/ hoặc khi các cổ đông kiểm soát nắm giữ các vị trí điều hành
chủ yếu.

b. Rủi ro nhân sự chủ chốt


Cách đánh giá chất lượng quản trị của Moody được bao hàm bởi một nhóm các nhân tố xếp hạng sức mạnh tài
chính, ví dụ, quan điểm chiến lược và thành tích tài chính quá khứ của ngân hàng. Một yếu tố khác cũng rất quan
trọng là mức độ mà một ngân hàng phụ thuộc vào một ủy viên ban quản trị riêng lẻ hoặc một nhóm các ủy viên, mà
những cá nhân này chi phối các vị trí ra quyết định chủ yếu. Từ đó, chúng tôi tin điều này có thể tạo ra rủi ro nhân
sự chủ chốt, vì việc đánh mất các cá nhân như vậy có thể tác động bất lợi đến tương lai của ngân hàng, ngay cả đối
với các ngân hàng đã có quy trình tuyển chọn người kế vị rõ ràng

c. Rủi ro liên quan đến các nhóm lợi ích khác nhau trong nội bộ
Một quy trình phê duyệt tín dụng độc lập cần thiết đối với khả năng thanh toán của ngân hàng. Chúng tôi tin rằng sự
mở rộng tín dụng dành cho các nhân viên trong nội bộ ngân hàng - mà còn được gọi là các khoản cho vay đến
những người có liên quan - ám chỉ rằng các tiêu chuẩn xét duyệt đã bị phá vỡ, hoặc tối thiểu cũng nói lên rằng các
tiêu chuẩn đã không được áp dụng một cách chuẩn mực. Những khoản vay như vậy có thể tạo ra nhiều khó khăn
hơn đối với ban quản trị, bởi vì các xung đột lợi ích cố hữu của nó. Những khoản cho vay này đặc biệt gây ra nhiều
rắc rối, khi nó được xét duyệt cho các cổ đông nắm quyền kiểm soát hoặc các thành viên quản trị ngân hàng (hoặc
những người có liên quan với họ). 

Tính độc lập thấp làm gia tăng rủi ro của ngân hàng. Vì lý do này, Moody tin rằng sự có mặt của một vài thành viên
quản trị độc lập trong ban quản trị của ngân hàng thì quan trọng (như tiến sĩ Trần Xuân Giá là một thành viên độc
lập của ACB) và nó sẽ làm tăng điểm số đối với các ngân hàng kém cỏi chưa bổ nhiệm các thành viên quản trị độc
lập và không quan tâm đến cơ cấu sở hữu

2. Quyền kiểm soát và quản trị rủi ro

Chúng tôi quan tâm tới hệ thống quản lý, hệ thông kiểm soát nội bộ và sự cân bằng giữa chúng như là một phương
tiện để giảm rủi ro kinh doanh và rủi ro tổng thể của ngân hàng. Chú ý rằng quyền kiểm soát tại ngân hàng đang
được chia nhỏ trong những năm gần đây, phản ánh sự phức tạp ngày càng cao hơn để tạo ra sự hòa hợp trong ngân
hàng, tầm quan trọng gia tăng trong các hoạt động kinh doanh tại một số ngân hàng, tác dộng của tiến bộ kỹ thuật,
sự mở rộng tự do tài chính, và sự thay đổi các luât lệ. Cũng trong thời gian này, các ngân hàng đang đầu tư nguồn
lực lớn hơn để đo lường và kiểm soát rủi ro kinh doanh, theo như Basel II, các ngân hàng phải nắm giữ một tỷ lệ
vốn tổi thiểu để đảm bảo cho các rủi ro kinh doanh

3. Tính minh bạch của báo cáo tài chính


Tính minh bạch của báo cáo tài chính là một yếu tố quan trọng trong phân tích chiến lược và vị thế rủi ro của ngân
hàng, vì dữ liệu tài chính và hoạt động kinh doanh được báo cáo bởi ngân hàng là điểm khởi đầu trong phân tích tín
dụng của chúng tôi. Thêm vào đó, báo cáo tài chính nghèo nàn thường che dấu các rủi ro trong ngân hàng. Vì vậy,
chúng tôi tin rằng sự minh bạch và thông tin tài chính đúng hạn thì phù hợp với những ngân hàng có sức mạnh tài
chính vững vàng.

Các nhân tố được xem xét khi đánh giá tính minh bạch BCTC của ngân hàng là: thông tin tài chính được báo cáo có
thể so sánh được trong phạm vi toàn cầu, các báo cáo thường xuyên và đúng hạn, chất lượng các thông tin được báo
cáo bởi ngân hàng

a. Thông tin tài chính được báo cáo có thể so sánh được trong phạm vi toàn cầu: Moody's tin rằng các báo cáo
tài chính được thiết lập dựa trên IFRS, US, GAAP hay bất kỳ tiêu chuẩn kế toán tương tự nào mang tính toàn cầu,
hoặc được kiểm toán bởi các công ty hàng đầu đề có thể so sánh được với nhau. Bất kỳ một sai lệch có ý nghĩa nào
xảy ra sẽ làm cho điểm số minh bạch tài chính của ngân hàng giảm xuống
b. Các báo cáo thường xuyên và đúng hạn: Theo quan điểm của chúng tôi, các báo cáo tài chính theo quý và năm
cần được báo cáo thường xuyên và đúng hạn mới có thể đạt được điểm số xếp hạng cao

c. Chất lượng các thông tin được báo cáo bởi ngân hàng: Chất lượng thông tin tài chính khác nhau một cách có ý
nghĩa tại các ngân hàng được chúng tôi xếp hạng. Nhìn chung, chúng tôi mong đợi rằng các ngân hàng sẽ đưa ra các
báo cáo tài chính được trình bày rõ ràng và dễ hiểu hơn đến người sử dụng, công khai tất cả các thông tin quan trọng
như danh mục các khoản cho vay lớn, các khoản nợ xấu, mức trích lập dự phòng cho các khoản nợ xấu, tổng tài sản
đã điều chỉnh rủi ro. Chúng tôi cũng tiếp xúc với ban quản trị để có hiểu biết toàn diện hơn về rủi ro tín dụng, rủi ro
lãi suất, rủi ro tỷ giá và giá trị tại rủi ro của ngân hàng

4. Mức độ tập trung rủi ro tín dụng

Sự tập trung tín dụng lớn trong các khoản cho vay, kinh doanh và danh mục đầu tư gia tăng rủi ro tín dụng của một
ngân hàng. Vì vậy, chúng tôi tin rằng các khoản tín dụng lớn cung cấp cho một vài người vay tiền, ngành hay khu
vực đơn lẻ là căn nguyên tiềm tàng của biến động thu nhập.

Các thước đo mà chúng tôi sử dụng để đo lường mức độ tập trung rủi ro tín dụng là mức độ tập trung rủi ro tín dụng
vào khách hàng và mức độ tập trung rủi ro tín dụng vào ngành.

5. Quản trị thanh khoản

Moody's tin rằng hầu hết các ngân hàng phá sản đầu tiên và trước hết là bởi vì mất thanh khoản. Khi một ngân hàng
hoạt động mà không có tiền mặt, nó không thể thực hiện được các chức năng của mình. Nói một cách khác, thanh
khoản mạnh có thể giúp một ngân hàng yếu về các mặt khác duy trì được nguồn tiền thỏa đáng để tài trợ cho chính
bản thân nó trong suốt giai đoạn khó khăn. Vì vậy, một trong những mục tiêu cốt yếu trong phân tích sức mạnh tài
chính của ngân hàng là đánh giá khả năng tự tài trợ trong giai đoạn khó khăn về tài chính.

Phân tích khả năng quản trị rủi ro thanh khoản của Moody's bắt đầu bằng việc đánh giá mức độ các tài sản không có
khả năng thanh khoản của ngân hàng được tài trợ chủ yếu bởi các khoản nợ có ổn định hay không (chủ yếu là các
khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng, nợ dài hạn hay vốn cổ phần). Những ngân hàng có nguồn tài trợ ổn định
vượt trội các tài sản kém thanh khoản nhìn chung đối mặt với rủi ro thanh khoản thấp.

6. Tham vọng rủi ro thị trường

Khi đánh giá tham vọng rủi ro thị trường của ngân hàng, giả định của chúng tôi là đối với một tham vọng rủi ro lớn
hơn, họ cũng kỳ vọng đạt được một tỷ suất sinh lợi lớn hơn. Vì tỷ suất sinh lợi kỳ vọng trong trường hợp này gia
tăng tính biến động thu nhập và vì vậy quy mô của các khoản tổn thất tín dụng tiềm ẩn không được mong đợi gia
tăng và ngược lại.

Người ta có thể cho rằng, thực tiễn quản trị rủi ro làm cho nhà quản trị chọn mức độ rủi ro tương thích với rủi ro
mục tiêu của toàn ngân hàng và hạng mức tín nhiệm mà nó mong muốn duy trì. Cách đánh giá năng lực quản trị rủi
ro của Moody's nhằm vào đánh giá mối quan hệ giữa tham vọng rủi ro và khả năng quản trị rủi ro của nó.

Mục tiêu của Moody's khi phân tích rủi ro thị trường là đánh giá độ nhạy của các khoản mục kinh doanh đối với các
biến tài chính chính yếu bao gồm lãi suất, giá cổ phần, tỷ giá hối đoái và độ trải rộng tín dụng (credit spread).
Chúng tôi xem xét kết quả thông qua kiểm định mô phỏng tình trạng kiệt quệ tài chính hoặc đo lường các tài sản có
rủi ro (economic capital) hoặc nếu không có giá trị, chúng tôi tìm kiếm các thước đo rủi ro thị trường khác như VaR
hoặc phân tích độ nhạy cảm lãi suất

NHÂN TỐ 3: MÔI TRƯỜNG PHÁP LÝ

Moody tin rằng sức mạnh tài chính của một ngân hàng có thể bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các luật lệ ngân hàng. Sức
mạnh tài chính của một ngân hàng thường được cải thiện cùng với sự tồn tại một hệ thống luật pháp ngân hàng độc
lập được tín nhiệm các điều khoản phù hợp với thực tiễn toàn cầu và được giải thích rõ ràng. Mục tiêu chính của hệ
thống pháp lý ngân hàng thường tập trung bảo vệ người gửi tiền vào ngân hàng và thúc đẩy xây dựng một hệ thống
ngân hàng lành mạnh để hỗ trợ cho tăng trưởng và phát triển kinh tế.

1. Tính độc lập

Khi đánh giá môi trường pháp lý, đầu tiên chúng tôi xem xét sự độc lập của các nhà làm luật mà chúng tôi tin tưởng
là cần thiết đối với một hệ thống pháp lý ngân hàng hiệu quả. Từ đó, chúng tôi mở rộng xem xét các tiêu chuẩn và
luật lệ có bị tác động bởi các ngành kinh doanh hay yếu tố chính trị không, các luật lệ có dễ hiểu và rõ ràng hay
không

2. Các tiêu chuẩn

Các tiêu chuẩn ngân hàng được ban hành nhằm gia tăng tính minh bạch và cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ
thống ngân hàng. Để đánh giá các tiêu chuẩn này, chúng tôi dựa trên các tiêu chuẩn thực hành tốt nhất mà được ban
hành bởi Basel.

Nhiều nhà làm luật đã mở rộng các tiêu chuẩn do Basel ban hành và trông có vẻ tốt về mặt lý thuyết, nhưng chúng
lại không theo sát và không có hiệu lực trong thực tế. Một số nhà làm luật thì ngầm thông qua các luật lệ bất thành
văn và thuyết phục về mặt đạo đức nghề nghiệp, nhưng chúng lại rất hiệu quả. Tuy nhiên, nếu thiếu sót các luật lệ
và tiêu chuẩn được ban hành, thì tính độc lập của các nhà làm luật và chất lượng giám sát nhất thiết phải được nâng
cao lên nhiều lần.

Theo quan điểm của Moody's, các nhà làm luật nên thiết lập các tiêu chuẩn về cấp phép thành lập, vốn, chất lượng
tài sản, tính thanh khoản.

a. Cấp phép thành lập: Các tiêu chuẩn để được cấp phép hoạt động quan trọng bởi vì các ngân hàng được thành
lập mới luôn có rủi ro cao hơn các ngân hàng đã đi vào hoạt động ổn định. Một số lượng lớn các ngân hàng đăng ký
mới không được quản lý và giám sát cẩn thận có thể tạo ra rủi ro đáng kể không chỉ đối với ngân hàng đó mà còn
đối với cả hệ thống ngân hàng.

b. Yêu cầu vốn tối thiểu là phấn thiết yếu trong các luật lệ ngân hàng, chúng tôi xem xét các ngân hàng có thi hành
hiệp ước vốn Basel một cách thận trọng hay không

c. Chất lượng tài sản: Các nhà làm luật thiết lập các tiêu chuẩn về chất lượng tài sản và giám sát việc thực hiện các
tiêu chuẩn đó. Chúng tôi xem xét định nghĩa của ngân hàng về nợ xấu có thận trọng và đồng nhất hay không, các
hướng dẫn dự phòng tổn thất tín dụng, tái phân loại nợ và các bút toán xóa nợ có đáng tin cậy hay không, các điều
khoản hạn chế cho vay số lượng lớn đối với các thành phần có liên quan đến nhân viên cấp cao trong ngân hàng...

d. Tính thanh khoản: Vấn đề này đã được đề cập ở trên, nhưng ở đây chúng tôi nói về khía cạnh pháp lý của nó.
Tức là các nhà làm luật có hướng dẫn và yêu cầu quản trị thanh khoản không, có yêu cầu báo cáo thường xuyên về
vị thế thanh khoản không, các ngân hàng có kế hoạch đối phó với các tính huống xấu xảy ra bất ngờ như khi không
thể thâm nhập thì trường vốn trong một thời gian dài hay khi xảy ra các cú sốc kinh tế hay không.

3. Sự giám sát (không đề cập)


4. Sự cưỡng chế thi hành (không đề cập)
5. Sự trưởng thành của hệ thống pháp luật (không đề cập)

6. Sức khỏe của hệ thống ngân hàng

Như đã ám chỉ ở trên, sức khỏe tài chính của hệ thống ngân hàng trong một quốc gia có tương quan với sức mạnh
của môi trường pháp lý ngân hàng. Trong khi sức khỏe tài chính của hệ thống ngân hàng phải chịu tác động từ sự
biến đổi các nhân tố vĩ mô vượt ngoài tầm kiểm soát của các nhà làm luật, sự tồn tại luật lệ ngân hàng và hệ thống
giám sát hiệu quả, đáng tin cậy và tiên phong có thể giúp ngân hàng khắc phục được phần nào các bất lợi này.

NHÂN TỐ 4: MÔI TRƯỜNG KINH DOANH

Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thường bị chi phối bởi môi trường kinh doanh của nó, và ở những nơi mà các
điều kiện đặc biệt khó khăn, các ngân hàng thường được nói là nạn nhân trong môi trường của họ. Chu kỳ kinh tế
khắc nghiệt, các quyết định mang tính chính trị gây nguy hại cho hoạt động kinh doanh, hệ thống luật pháp yếu kém
và môi trường cạnh tranh không công bằng có thể tác động riêng lẻ hoặc kết hợp với nhau làm suy yếu khả năng
thanh toán của ngân hàng. Trong nhiều nhân tố, Moody's tin rằng các nhân tố chính là biến động của nền kinh tế,
hiệu quả của hệ thống pháp luật, hiệu quả của các tổ chức chính trị và xã hội, động lực cạnh tranh và cấu trúc ngành
ngân hàng

Trong phân tích ban đầu của chúng tôi về môi trường kinh doanh để cho điểm sức mạnh tài chính tập trung vào 3
thước đo khác nhau, tất cả chúng đều có thể được định lượng. Chúng tôi chọn các thước đo này như là cách tốt nhất
để nắm bắt các khác biệt lớn trong các môi trường kinh doanh khác nhau. Thực tế, Moody's đánh giá môi trường
kinh doanh của một nước ít nhất một lần trong mỗi năm. Đánh giá đó sẽ được áp dụng đối với tất cả các ngân hàng
hoạt động trong cùng hệ thống. Đối với những ngân hàng có một phần tài sản hoặc lợi nhuận đáng kể (hơn 20%) từ
quốc gia khác (quản lý trực tiếp hoặc công ty con), chúng tôi sẽ tính toán điểm môi trường kinh doanh đối với mỗi
nhân tố phụ dựa trên hỗn hợp tài sản và lợi nhuận của nó. Từ đó, phản ánh môi trường kinh doanh tổng thể của ngân
hàng

1. Tính ổn định của nền kinh tế

Một sự sụt giảm lớn trong tốc độ tăng trưởng kinh tế tương quan với sự suy yếu trong chất lượng tài sản. Vì vậy, khi
tất cả các điều kiện khác là như nhau, những quốc gia với các chu kỳ kinh tế biến động mạnh hơn thì rủi ro hơn đối
với các hoạt động kinh doanh.

Chu kỳ kinh tế ở các nền kinh tế công nghiệp hóa cao thường biến động ít hơn, với tăng trưởng GDP tăng giảm từ 1
-2% trong suốt 2/ 3 của 20 năm qua. Các nền kinh tế đang phát triển biểu hiện sự biến động mạnh hơn trong chu kỳ
kinh tế, với độ lệch chuẩn của tốc độ tăng trưởng GDP trong khoảng 7 -12%. Dựa trên độ lệch chuẩn của tốc độ
tăng trưởng GDP danh nghĩa, chúng tôi tính điểm nhân tố "Tính ổn định của nền kinh tế" cho mỗi quốc gia. 

2. Liêm chính và tham nhũng

Tham nhũng có thể làm cho môi trường kinh doanh không thể dự báo được và lãng phí. Tham nhũng trong nền kinh
tế tạo ra khó khăn đối với các ngân hàng, thậm chí ngay cả khi hoạt động kinh doanh trong nội bộ của nó không có
tham nhũng.

Tại cấp độ vĩ mô, tham nhũng gây lãng phí và các nguồn lực không được phân phối đúng nơi, vì vậy giới hạn tăng
trưởng kinh tế. Tại cấp độ vi mô, tham nhũng có thể làm hủy hoại thông tin kế toán và các thông tin khác mà các
quyết định tín dụng được đưa ra dựa trên các thông tin đó.

Bởi vì rất khó để có thể đánh giá chính xác mức độ tham nhũng dựa trên các dữ liệu thô. Vì vậy, chúng tôi chọn chỉ
số Khả năng kiểm soát tham nhũng của World Bank (WB CC) - chỉ số nhằm xếp hạng mức độ sử dụng tài sản công
hay quyền lực chính trị để tư lợi trong mỗi quốc gia. Điểm số cho mỗi quốc gia sẽ dựa trên chỉ số này. (Việt Nam có
điểm số là - 0.76 trong năm 2008, đứng thứ 167 trong 212 quốc gia được World Bank xếp hạng).

3. Hệ thống luật pháp

Phần lớn hoạt động kinh doanh của ngân hàng dựa trên các hợp đồng, khế ước vay nợ, các khoản bảo đảm, thế
chấp, ký quỹ và các hợp đồng phái sinh. Hầu hết các nhà quản trị giảm nhẹ hoặc kiểm soát rủi ro dựa trên các dự
báo và sự công bằng của hệ thống luật pháp. Giá trị tiền tệ theo thời gian cũng đặt ra một phần bù rủi ro dựa trên sự
tiến triển của hệ thống luật pháp

Từ các lý do này, chúng tôi cho điểm hệ thống luật pháp của mỗi quốc gia căn cứ vào thời gian một ngân hàng
chuyển nhượng xong quyền sở hữu bất động sản thế chấp khi khách hàng không thể trả được nợ. Theo kinh nghiệm
của chúng tôi, thời gian này ít hơn một năm đối với các quốc gia có ngân hàng hiệu quả - tòa án thân thiện và luât lệ
vững chắc. Tuy nhiên, những nơi mà tòa án không hiệu quả, tham nhũng hoặc bảo hộ cho lợi ích của các cá nhân,
ngân hàng có thể tốn từ 5 -10 năm xử lý bất động sản thu hồi nợ, điều này có thể làm sụt giảm đáng kể giá trị các tài
sản thế chấp của ngân hàng.

NHÂN TỐ 5: NỀN TẢNG TÀI CHÍNH

Nền tảng tài chính là cách tương đối dễ dàng để so sánh hiệu quả hoạt động của các ngân hàng trong phạm vi toàn
cầu, bởi vì nhìn chung ngân hàng có hai hoạt động chính là mươn tiền và cho vay tiền. Moody's xem xét nhân tố
nền tảng tài chính theo 4 nhân tố phụ sau: khả năng sinh lợi, tính thanh khoản, an toàn vốn, hiệu quả hoạt động, chất
lượng tài sản.

1. Khả năng sinh lợi

Khả năng sinh lời là yếu tố chính quyết định thành công hay thất bại dài hạn của một tổ chức tài chính. Nó đo lường
khả năng tạo ra giá trị kinh tế và từ đó gia tăng các nguồn lực để duy trì hoặc cải thiện khả năng phòng chống rủi ro
cho các chủ nợ. Moody's tin rằng sự tái tạo khả năng sinh lợi là biện pháp đầu tiên để chống lại các khoản thua lỗ tín
dụng. Tuy nhiên, thu nhập cần được đo lường theo sự biến động. Trong các tỷ số của chúng tôi, chúng tôi tìm được
tỷ số đảm bảo cho các chủ nợ trong khi đo lường thu nhập mà có liên quan với bảng cân đối tài sản và các rủi ro
khác. Ngoài ra, chúng tôi cũng nhận thức được rằng các nhà quản trị ngân hàng có thể sẽ phải để tâm đến các nhu
cầu của cổ đông. Mở rộng ra, các tỷ số như tăng trưởng ROE hay EPS sẽ tác động đến các chiến lược của ban quản
trị, nên chúng tôi sẽ quan sát chúng để phán đoán các áp lực mà nhà quản trị phải đối mặt.

2. Tính thanh khoản 

Tất thanh khoản hầu như luôn là nguyên nhân gần nhất làm cho các ngân hàng phá sản, trong khi thanh khoản mạnh
giúp các ngân hàng yêu kém về các mặt khác có thể duy trì thỏa đáng nguồn tiền trong suốt thời gian khó khăn. Một
trong những mục tiêu chính trong phân tích BSFRs là đánh giá khả năng tự tài trợ của nó khi gặp phải tính trạng suy
kiệt tài chính.

3. An toàn vốn 

So với hầu hết các ngành khác, ngân hàng có đòn bẩy tài chính cao. Theo thống kê, các ngân hàng phá sản hều hết
bởi thua lỗ trong danh mục cho vay, mô hình kinh doanh nghèo nàn hoặc lừa đảo. Các nhân tố này rốt cuộc đều làm
suy giảm nguồn vốn, nhưng sự suy giảm vốn không phải là căn nguyên dẫn đến sự phá sản của ngân hàng. Như
chúng tôi đã nói nhiều lần, vốn thì quan trọng, nhưng nó không phải là chỉ báo cho sức khỏe tín dụng, và vì vậy
hiếm khi tác động đến mức xếp hạng. Thực tế, theo dữ liệu lịch sử, tỷ số đòn bẩy có tương quan dương với mức xếp
hạng - các ngân hàng được xếp hạng cao có đòn bẩy cao hơn các ngân hàng được xếp hạng thấp hơn. Bởi vì chúng
tôi tin rằng lợi ích từ mở rộng mô hình kinh doanh, một "hỗn hợp" các hoạt động kinh doanh được đa dạng hóa,
quản trị rủi ro tốt và ổn định, thu nhập có thể dự báo được vượt trội các bất lợi do tỷ số vốn yếu gây ra. 

Theo như các quy định đặt ra, các ngân hàng phải đáp ứng yêu cầu an toàn vốn tối thiểu. Các ngân hàng có nguồn
vốn thặng dư, vượt quá yêu cầu an toàn vốn tối thiểu có nhiều thuận lợi hơn khi thâm nhập thị trường vốn và cung
cấp cho ban quản trị sự linh hoạt tài chính để nắm bắt các cơ hội thâu tóm, mua lại hay tái cơ cấu hoạt động. 

Các tranh luận về nguồn vốn trở nên nổi bật hơn tại thời điểm xảy ra hoạt động thâu tóm. Bởi vì các tổ chức tài
chính thường gia tăng đòn bẩy tài chính để tài trợ cho giao dịch này. Ở một khía cạnh khác, nguồn vốn cũng đáng
chú ý hơn khi một ngân hàng có tình trạng tài chính yếu kém. 

4. Hiệu quả hoạt động

Ngân hàng là ngành tập trung cao yếu tố công nghệ và con người, và chính sách cắt giảm chi phí là tiêu điểm chiến
lược để các ngân hàng đạt được hiệu quả hoạt động cao hơn. Sư gia tăng đối thủ cạnh tranh và các sản phẩm ngân
hàng làm cho việc tăng doanh thu trở thành một nhiệm vụ khó khăn. Phân tích của chúng tôi tập trung vào cả những
nỗ lực của ban quản trị để kiểm soát và cắt giảm các chi phí, và kết quả đem lại thực sự.

5. Chất lượng tài sản 

Chất lượng tài sản quyết định thu nhập trong tương lai của ngân hàng, tạo ra hay xói mòn nguồn vốn. Danh mục các
khoản cho vay nhìn chung là thành phần lớn nhất trong bảng cân đối tài sản của một ngân hàng. Vì vậy, chất lượng
các khoản cho vay được xem là thành phần chính quyết định khả năng trả nợ của ngân hàng.

CÁC TỶ SỐ ĐƯỢC CHỌN

Vì xếp hạng của Mody's phân loại rủi ro mà có thể so sánh trên phạm vi toàn cầu. Nên bảng điểm của Moody's tập
trung vào các tỷ số vừa có ý nghĩa trong đánh giá rủi ro tín dụng và vừa có thể tính toán được đối với hầu hết các
ngân hàng trên thế giới. Để giảm biến động khi xét bất kỳ một giai đoạn riêng lẻ nào, chúng tôi chọn cách tính toàn
các tỷ số trung bình trong 3 năm: 

1. Khả năng sinh lợi

Thu nhập trước thuế và dự phòng thua lỗ tín dụng/ tổng tài sản đã điều chỉnh rủi ro trung bình: lợi nhuận
trước khi trích lập dự phòng phản ánh thu nhập cốt lõi của một ngân hàng, và đảm bảo cho việc bù đắp các khoản lỗ
nếu có trong tương lai. Lợi nhuận được tính với tài sản sau khi đã điều chỉnh rủi ro, như là một khoản đảm bảo cho
những người gửi tiền. Cách tính này cung cấp một đánh giá tốt hơn về rủi ro so với việc dùng tổng tài sản, bởi vì nó
phản ánh rủi ro trong bảng cân đối và kế toán ngoài bảng. Dù sao, chúng tôi cũng biết rằng việc đánh giá tài sản rủi
ro này vẫn chưa thật sự hoàn hảo. Khi dữ liệu về tài sản đã điều chỉnh rủi ro không thể tiếp cận được, chúng tôi sẽ
tính nó dựa trên bảng cân đôi kế toán, kế toán ngoài bảng và các trọng số rủi ro tiêu chuẩn, những ước lượng này
cũng tương đương tổng tài sản đã điều chỉnh rủi ro. 

Thu nhập thuần/ Tổng tài sản đã điều chỉnh rủi ro trung bình: Thu nhập ở đây được tính sau tất cả các chi phí. 

2. Tính thanh khoản 

(Nguồn vốn từ thị trường trừ tài sản có tính lỏng)/ Tổng tài sản: Nguồn vốn từ thị trường bao gồm tất cả các
khoản nợ ngắn và dài hạn. Tỷ số này thể hiện mức độ phụ thuộc của ngân hàng vào nguồn vốn bên ngoài

3. An toàn vốn 

Tỷ số trong Basel I (Tier 1 Basel Regulotory Ratio): Đây là tỷ số theo Basel I được báo cáo bởi các ngân hàng
(Nguồn vốn/ Tài sản đã điều chỉnh rủi ro). Tỷ số này được ưa chuộng bởi vì nó gần với vốn cổ phần và không bao
gồm nợ dưới chuẩn. Các khoản nợ dưới chuẩn thường không thể giảm thiểu thiệt hại trừ phi có tính thanh khoản
cao, và chúng không cung cấp sự đảm bảo trước rủi ro mất khả năng thanh toán.

Vốn cổ phần hữu hình/ Tổng tài sản đã điều chỉnh rủi ro: Chỉ số này phản ánh rủi ro của tài sản ngân hàng
(trong và ngoài bảng cân đối kế toán). Vốn cổ phần hữu hình được tính bằng tổng vốn cổ phần trừ đi các khoản : cổ
phần ưu đãi, lợi ích cổ đông thiểu số, dự phòng lãi lỗ chưa thực hiện từ kinh doanh chứng khoán, dự phòng định giá
lại tài sản, điều chỉnh dòng tiền phát sinh chưa thực hiện từ các công cụ phái sinh, lợi thế thương mại và các tài sản
vô hình khác.

4. Hiệu quả hoạt động

Tỷ số này được đo lường bởi tổng chi phí không bao gồm lãi vay phải trả để tạo ra tổng thu nhập (mà được tính toán
như Tổng thu nhập lãi thuần + Tổng thu nhập phi lãi vay bao gồm cả lợi nhuận hay thua lỗ từ hoạt động kinh doanh
chứng khoán). Tỷ số này đo lường hiệu quả của ngân hàng và khả năng tạo ra lợi nhuận mà không cần phải gia tăng
doanh thu

5. Chất lượng tài sản

Tỷ số nợ xấu/ Tổng nợ: Các khoản nợ xấu bao gồm các khoản cho vay sụt giảm giá trị như được định nghĩa tại
IAS 39, dành cho các ngân hàng kế toán theo IFRS hoặc hệ thống kế toán tương tự; hoặc các khoản cho vay không
tích lũy + các khoản cho vay tích lũy quá hạn 90 ngày hoặc nhiều hơn đối với các ngân hàng kế toán theo tiêu chuẩn
của Mỹ hoặc các hệ thống kế toán tương tự; đối với các ngân hàng không kế toán theo IFRS, Moody's sẽ ước lượng
mức độ các khoản cho vay có vấn đề bằng cách phân loại các nợ của ngân hàng.

Tỷ số Nợ xấu/ (Vốn cổ phần thường + Dự phòng tổn thất tín dụng): Chúng tôi cộng các khoản Dự phòng tổn
thất tín dụng vào mẫu số hơn là trừ ra khỏi tử số, để dễ so sánh đối với các ngân hàng khác nhau về chính sách dự
phòng và xóa bỏ tài sản (write-off).

(Hết) 

Lê Tất Thành - www.rating.com.vn 


Lược dịch dựa trên bản xếp hạng sức mạnh tài chính các Ngân hàng của Moody's (2006)

You might also like