Professional Documents
Culture Documents
TRƯỜNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
THƠ
HỘI NGHỊ
Cần Thơ,
Thơ, 12-2010
GIỚI THIỆU
ðào tạo theo học chế tín chỉ là một loại hình quản lý ñào tạo có nhiều ưu ñiểm
và mang lại hiệu quả cao. ðiều này ñã ñược thực tiển của nhiều nước chứng minh, và
hiện nay hầu hết các nước tiên tiến ñều áp dụng quản lý ñào tạo theo học chế tín chỉ.
Trường ðại Học Cần Thơ (ðHCT) ñã bắt ñầu áp dụng học chế tín chỉ từ năm 1995, tuy
nhiên, học chế tín chỉ một cách ñầy ñủ mới ñược bắt ñầu từ học kỳ 1 năm học 2007-
2008. ðến nay, sau 3 năm thực hiện, học chế tín chỉ ñã ñi vào nề nếp, chương trình ñào
tạo, quy trình quản lý, và các quy ñịnh liên quan ñã ñược xây dựng khá ñầy ñủ. Phương
pháp giảng dạy của thầy cô giáo và phương pháp học tập của sinh viên cũng ñược thích
ứng dần với phương pháp ñào tạo mới này.
Thực chất của nguyên tắc ñào tạo theo học chế tín chỉ là cách quản lý ñào tạo
một cách mềm dẻo giúp sinh viên thực hiện việc học tập một cách linh ñộng, có thể tự
xây dựng kế hoạch học tập phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của từng cá nhân. Tuy nhiên,
trong thời ñại kinh tế tri thức, nhất là sau khi các nước châu Âu ký thỏa thuận chấp nhận
tiến trình Bolona (Bolona Process, 1988), và sự phát triển như vũ bảo của internet,
phương thức giáo dục thay ñổi lớn so với trước ñây. Giáo dục chuyển theo hướng học
suốt ñời (longlife learning), quản lý ñào tạo chuyển theo hướng lấy người học làm trung
tâm (student-centered education). Thầy không chỉ dạy sinh viên kiến thức mà còn dạy
sinh viên cách học, cách ñọc tài liệu, tìm kiếm thông tin... Thầy không chỉ dạy sinh viên
mà còn học từ sinh viên. Sinh viên không chỉ học những ñiều thầy dạy mà còn học cả
những ñiều thầy không dạy. Sinh viên không chỉ học kiến thức mà còn phải rèn luyện
kỹ năng mềm, rèn luyện khả năng làm việc nhóm thì mới ñáp ứng ñược yêu ña dạng của
xã hội.
Vì những thay ñổi to lớn như thế nên phương pháp ñào tạo phù hợp, ñào tạo theo
học chế tín chỉ, không chỉ mang tính mềm dẻo mà còn bao gồm nhiều ñặc ñiểm khác
như số giờ lên lớp ít hơn ñể dành thời gian cho sinh viên tự học, làm bài tập nhiều hơn,
làm nhiều bài tập theo nhóm, thảo luận nhóm,... ñánh giá môn học theo nhiều thành
phần ñiểm, thi/kiểm tra nhiều ñợt trong một học kỳ, cho ñiểm theo mức cách khoảng
A,B,C,D,F ñể buộc sinh viên phải học liên tục ngay từ ñầu học kỳ, phải tự xây dựng
phương án học phù hợp nếu muốn ñạt ñược ñiểm tối ưu... ðể ñạt ñược ñặc ñiểm trên,
Quy Chế 43 về ñào tạo theo học chế tín chỉ của Bộ Giáo dục và ðào tạo quy ñịnh
chương trình ñào tạo 120 tín chỉ (thời gian lên lớp rút ngắn từ 30% ñến 50% so với
trước ñây), ñể học 1 giờ trên lớp sinh viên phải sử dụng 2 giờ chuẩn bị (tự học).
i
Vì số giờ lên lớp giảm ñáng kể nên yếu tố quyết ñịnh chất lượng ñào tạo theo học
chế tín chỉ là phải làm thế nào ñể sinh viên tự học nhiều hơn. ðây chính là mục ñích của
hội nghị "ðánh giá tình hình sử dụng hai tiết tự học của sinh viên" sẽ ñược tổ chức
vào ngày 05/01/2011 tại trường ðHCT. ðể chuẩn bị cho hội nghị này ban tổ chức
(BTC) ñã thông báo và kêu gọi tất cả các ñơn vị trong trường và sinh viên tham gia viết
bài tham luận cho hội nghị. ðến nay BTC ñã nhận ñược 28 bài báo cáo của các ñơn vị
và sinh viên. Ngoài ra, ðoàn TTNCS HCM trường ðHCT cũng ñã tổ chức giao lưu với
sinh viên ñể trao ñổi về tình hình sử dụng 2 giờ tự học vào ngày 16/12/2010 và tổng hợp
thành báo cáo tham dự hội nghị. Tất cả các bài báo cáo ñã ñược ñưa vào tập kỹ yếu này
ñể phổ biến trong hội nghị.
BTC tin tưởng rằng trong hội nghị này chúng ta sẽ ñược nghe nhiều ý kiến quý
báu từ nhiều phía, từ cả cán bộ lẫn sinh viên, ñể từ ñó chúng ta có thể nắm ñược bức
tranh tổng thể về tình hình tự học của sinh viên, nắm ñược ưu nhược ñiểm về vấn ñề tự
học, và các yêu cầu về vật chất cũng như tinh thần ñể giúp sinh viên thực hiện việc tự
học tốt hơn. Dựa trên thông tin này Ban Giám hiệu sẽ tìm giải pháp phát huy ưu ñiểm,
khắc phục nhược ñiểm, ñầu tư phương tiện, cơ sở vật chất ñể nâng cao hiệu quả tự học
của sinh viên hầu bảo ñảm tính ưu việt của học chế tín chỉ và nâng cao chất lượng ñào
tạo của trường ðHCT.
Thay mặt BTC tôi chân thành cám ơn sự hợp tác tích cực của tất cả thầy cô giáo,
cán bộ và sinh viên trong toàn trường ñể có ñược tập kỹ yếu này.
ii
MỤC LỤC
--- oOo ---
Trang
1. Tình hình và giải pháp thực hiện 2 giờ tự học của sinh viên Khoa Công nghệ.
Trần Trung Tín, Phó Trưởng Khoa Công nghệ .....................................................1
2. Một số giải pháp giúp sinh viên thực hiện 2 giờ tự học của khoa Công nghệ
Thông tin và Truyền thông.
Nguyễn Văn Linh, Khoa Công nghệ Thông tin &T T.............................................7
3. ðánh giá việc sử dụng 2 giờ tự học của sinh viên.
Châu Thị Thúy Hằng, Lớp Công nghệ Hóa K33, Khoa Công nghệ ....................13
4. Hai tiết tự học của sinh viên – Thực trạng và phương hướng giải quyết.
Hồ Thị Hà - Khoa Khoa học Chính Trị................................................................ 19
5. Các ý kiến ñóng góp về việc sử dụng 2 tiết tự học trong sinh viên.
ðoàn TNCSHCM Trường ðại học Cần Thơ........................................................23
6. Hai tiết tự học trong sinh viên – thực trạng và giải pháp.
ðinh Minh Quang – Bộ môn Sư phạm Sinh học, Khoa Sư phạm ........................27
7. Tự học – Thực trạng, Nguyên nhân và Giải pháp.
Nguyễn Thị Thu Thủy - Ngô Thị Bảo Châu, Khoa KHXH và Nhân văn..............29
8. Một số giải pháp nâng cao kỹ năng tự học cho sinh viên ngành Quản lý công
nghiệp.
Phạm Thị Vân - Bộ môn Quản lý Công nghiệp, Khoa Công nghệ.......................33
9. Một số ý kiến ñề xuất về việc quản lý, nâng cao chất lượng 2 giờ tự học của sinh
viên.
Lê Thị Nguyệt Châu, Khoa Luật...........................................................................39
10. Một số ý kiến về việc tự học của sinh viên.
Nguyễn Thế Thảo Trúc - Bộ môn Sư Phạm Toán, Khoa Sư Phạm. .....................45
11. ðánh giá của Cố vấn học tập về 2 tiết tự học của sinh viên Khoa Luật.
ðoàn Nguyễn Phú Cường, Khoa Luật. ...............................................................47
12. Tăng cường khả năng tự học của sinh viên – ðâu là giải pháp?
Phạm Bích Như, Khoa Khoa học Tự Nhiên. ........................................................55
13. Một hướng biên soạn giáo trình tự học.
Nguyễn Thị Thu Thuỷ - BM Ngữ văn, Khoa KHXH & NV...................................59
14. Tham luận về 2 giờ tự học của sinh viên.
ðại diện cố vấn học tập, Khoa MT-TNTN. ..........................................................67
15. Ý kiến về 2 giờ tự học của sinh viên.
Huỳnh Thu Hòa, Khoa Khoa học Tự nhiên......................................................... 71
iii
16. ðánh giá tình hình thực hiện 2 giờ tự học của sinh viên Ngành Thú Y.
Nguyễn Hữu Hưng, Bộ môn Thú y, Khoa NN-SHƯD. ........................................ 73
17. ðề xuất về 2 tiết tự học của sinh viên.
Huỳnh Văn Hiến và Trương Thị Ngọc ðiệp - BM Ngoại ngữ văn, KHXH&NV. 75
18. Báo cáo về 2 tiết tự học của sinh viên.
Võ Thành Danh - Khoa Kinh tế-QTKD................................................................79
19. Cố vấn học tập trong học chế tín chỉ: vai trò và một số ñề xuất.
Trần Ngân Bình, Bộ môn Hệ thống Thông tin, Khoa CNTT&TT. .......................81
20. Một số nhận xét xung quanh vai trò của cố vấn học tập trong việc ñào tạo theo
học chế tín chỉ.
Bộ môn Hóa, Khoa Sư phạm. ...............................................................................85
21. ðóng góp kinh nghiệm ñánh giá phương pháp tự học của sinh viên theo
học chế tín chỉ.
Trương Trọng Ngôn, Phó Bộ môn CNSH Phân tử, Viên NCPT CNSH. ..............87
22. Khơi Dậy Tiềm Năng Tự Học Của Sinh Viên.
Nguyễn Khánh Sơn – Trung tâm ðảm bảo chất lường & Khảo thí. ....................89
23. Báo cáo về việc tổ chức hai tiết tự học của sinh viên.
Khoa Khoa học Chính Trị. ...................................................................................99
24. Tham luận về 2 tiết tự học của sinh viên.
Viện NCPT ðồng bằng sông Cửu Long. ............................................................101
25. ðánh giá thực trạng vấn ñề tự học của sinh viên theo học chế tín chỉ và
ñề xuất các giải pháp cải thiện.
Khoa Thủy sản....................................................................................................105
26. Tham luận của TT Thông tin&QTM.
Trần Thanh ðiện – Trung tâm Thông tin – QTM. .............................................113
27. Một số ý kiến về 2 tiết tự học của sinh viên.
Bộ môn Sư phạm Vật lý, Khoa Sư phạm. ...........................................................121
28. Báo cáo chuyên ñề 2 giờ tự học của sinh viên.
Bộ môn Gíao dục thể chất. .................................................................................123
iv
TÌNH HÌNH VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN HAI GIỜ TỰ HỌC CỦA
SINH VIÊN KHOA CÔNG NGHỆ
I. ðẶT VẤN ðỀ
Nước ta ñã bước vào giai ñoạn hội nhập và cạnh tranh ñầy ñủ với thế giới. Nghị quyết
TW2 về giáo dục và ñào tạo khoa học và công nghệ ñã nêu rõ nhiệm vụ cấp bách của ngành
giáo dục trong việc ñào tạo nhân tài, tạo nguồn nhân lực cho ñất nước, phục vụ tốt sự nghiệp
công nghiệp hóa và hiện ñại hóa là ñổi mới mạnh mẽ phương pháp giảng dạy, khắc phục lối
truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học, lấy người học làm
trung tâm, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện ñại vào quá
trình dạy và học, ñảm bảo ñiều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho người học, nhất
là sinh viên ñại học. ðào tạo kỹ thuật công nghệ bậc ñại học trong bối cảnh toàn cầu hoá là
một trong những yếu tố quan trọng quyết ñịnh sự thành công trong bối cảnh hội nhập kinh tế
thế giới ở nước ta.
Một trong 7 giải pháp ñề ra trong Nghị quyết 14/2005/NQ-CP ngày 2/11/2005 là ñổi
mới nội dung, phương pháp và quy trình ñào tạo theo hướng áp dụng quy trình ñào tạo mềm
dẻo và liên thông, xây dựng thể chế nhập học linh hoạt. Bộ Giáo Dục và ðào Tạo ñã chủ
trương áp dụng phương thức ñào tạo theo học chế tín chỉ. Trường ðại học Cần Thơ ñã triển
khai áp dụng ñào tạo theo học chế tín chỉ từ năm học 2007-2008 (Khoá 33). Tự học là một
trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng ñến kết quả học tập của sinh viên theo học chế tín
chỉ. Sinh viên có thể thực hiện giờ tự học tại nhà, thư viện hay bất kỳ ñịa ñiểm nào do người
II. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG HAI GIỜ TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN KHOA CÔNG
NGHỆ
Sử dụng phương pháp ñiều tra 281 sinh viên từ năm thư 3 và thứ 4 của 7 chuyên ngành
khác nhau tại Khoa Công Nghệ. Qua phân tích kết quả ñạt ñược, tham luận xin báo cáo thực
trạng tổng quan về việc thực hiện hai giờ tự học của sinh viên tại Khoa Công Nghệ trong
thời gian qua. Do thời gian và ñiều kiện không cho phép tiến hành ñiều tra trên diện rộng
nên kết quả phân tích mang tính tham khảo.
Qua khảo sát phần lớn sinh viên hiểu ñược học chế tín chỉ và phương pháp học tập mới.
Tuy nhiên, vẫn còn một số lượng lớn sinh viên chưa hiểu ñúng bản chất của học chế tín chỉ
như trình bày tại Hình 1. Học chế tín chỉ có ñặc ñiểm quan trọng nhất là mỗi người học có
thể học theo năng lực và ñiều kiện của riêng mình. ðặc ñiểm này buộc người dạy phải sử
dụng phương pháp giảng dạy sao cho phát huy ñược tính chủ ñộng của sinh viên, giúp sinh
viên biết cách tự học. ðể ñảm bảo 1 giờ học ở lớp của sinh viên cần ít nhất 2 giờ học cá
nhân. Theo yêu cầu này thì tổng thời gian học của sinh viên bao gồm phần nổi là 1 giờ học
ở lớp, và một phần chìm là ít nhất có 2 giờ chuẩn bị cá nhân. Tuy nhiên, qua ñiều tra vẫn
còn một số lượng lớn sinh viên 136/281 chưa hiểu ñúng về thời gian tự học của mình như
trình bày tại Hình 2.
120
160
140
100
120
80 100
80
60
60
40 40
20
20
0
Hai giờ Ba giờ Một giờ Bốn giờ
0 chuẩn bị chuẩn bị chuẩn bị chuẩn bị
Cá thể hóa việc SV tự do lập Chương trình SV ñược lựa
học tập KHHT mềm dẻo chọn cách học cá nhân cá nhân cá nhân cá nhân
Hình 1. Bản chất của học chế tín chỉ Hình 2. Thống kê trả lời số giờ tự học ít nhất
cho 1 giờ ở lớp
Tình hình thực hiện giờ tự học của sinh viên ñể chuẩn bị hoặc củng cố kiến thức cho
một giờ trên lớp chưa ñược tốt. Kết quả ñiều tra cho thấy có ñến 84/281 sinh viên chỉ thực
hiện 1 giờ tự học và 65/281 sinh viên không thường xuyên tự học mà chỉ tập trung học vào
thời gian thi như trình bày tại Hình 3. Một số lý do chủ yếu sinh viên không thực hiện ñủ số
giờ tự học: thứ nhất là ña số sinh viên ñăng ký tổng số tín chỉ trên một học kỳ là 20 TC. Như
vậy tổng số giờ sinh viên phải làm việc trong một tuần là 60 giờ (20 giờ ở lớp + 40 giờ tự
học). Sinh viên không còn thời gian ñể sinh hoạt cá nhân, chơi thể thao, giải trí, v.v…Thứ
140
90
120
80
70 100
60
80
50
40 60
30
40
20
10
20
0
0
Thực hiện ñủ 2 Thực hiện hơn 2 Thực hiện 1 giờ Không thực hiện
giờ tự học giờ tự học tự học giờ tự học mà
Thực tập quá PPGD không kích Học quá nhiều Không có máy
chỉ tập trung học nhiều thích SV tự học trên lớp tính và phương
khi thi tiện học
Hình 3. Thống kê tình hình tự học của sinh Hình 4. Thống kế lý do sinh viên chưa thực
viên hiện ñủ số giờ tự học
Phương pháp giảng dạy là một trong những yếu tố quan trọng tác ñộng ñến quá trình học
tập của sinh viên. Phương pháp giảng dạy học phần phụ thuộc vào tính chất kiến thức học
phần, số lượng sinh viên trong lớp học phần, kinh nghiệm giảng dạy và nghệ thuật truyền
ñạt của người Thầy. Kết quả khảo sát cho thấy là hầu hết giảng viên ñã thay ñổi phương
pháp giảng dạy ñược thể hiện thông qua báo cáo nhóm, giao bài tập cho sinh viên như trình
bày tại Hình 5. Nơi sinh viên chọn ñể học tập cá nhân chủ yếu là ở nhà 137/281 và ở thư
viện là 91/281 như trình bày tại Hình 6.
140
160
120
140
100
120
100 80
80
60
60
40
40
20 20
0
Dưới 10% học 50% học phần 80% học phần 100% học phần 0
phần Ở nhà - ký túc xá Công viên Quán coffee Thư viện
Hình 5. Thống kế số học phần có giao bài Hình 6. Thống kê nơi sinh viên chọn học tập
tập hoặc báo cáo nhóm cá nhân
Mặc dù, Khoa Công Nghệ ñã mời chuyên gia có nhiều kinh nghiệm ñể hướng dẫn tân
sinh viên xây dựng phương pháp và kỹ năng học ñại học trong nhiều năm qua. Hơn nữa, các
Bộ môn ñều tổ chức giới thiệu ngành nghề, ñịnh hướng nghề nghiệp cho tân sinh viên.
Nhằm giúp các tân sinh viên có ñịnh hướng tương lai, ñam mê ngành nghề, xây dựng kế
120
140
100
120
100 80
80 60
60
40
40
20
20
0
0
Nhiều bài SV tăng tính tự SV và GV thống GV giảm thuyết Học nhóm Học một Học với Tất cả ñiều
tập/báo cáo học nhất phương giảng ở lớp - mình một bạn ñúng
thức liên lạc tăng hướng dẫn
SV cách học khác
Hình 7. Thống kê yếu tố quan trọng ảnh Hình 8: Phương pháp tự học hiệu quả
hưởng ñến kết quả học tập
3. Phương pháp giảng dạy
Không có một phương pháp giảng dạy vạn năng nào có thể áp dụng cho mọi ñối tượng,
hoàn cảnh, học phần. Người Thầy phải biết sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp hiệu quả
nhất. Lựa chọn phương pháp giảng dạy tích cực và lấy sinh viên làm trung tâm. Bên cạnh ñó
tranh thủ thời gian hướng dẫn sinh viên rèn luyện một số kỹ năng tự học, phương pháp học
và giao hệ thống các nhiệm vụ tự học, hướng dẫn sinh viên ñiều chỉnh, hoàn thiện thêm nội
dung mà giảng viên chuẩn bị. Một số phương pháp có thể áp dụng trong giảng dạy kỹ thuật
[1] Kỷ yếu hội thảo “ðào tạo theo học chế tín chỉ trong các trường ñại học, cao ñẳng giai
ñoạn 2007-2010”, tổ chức tại Cần Thơ, 9/2010
[2] Thông báo kết luận Hội thảo ñào tạo tại ðà Lạt ngày 14-15/6/2010;
http://moodle.yds.edu.vn/yds2/?Content=ChiTietTin&menu=&idTin=1658
[3] Lâm Quang Thiệp; “ Về phương pháp dạy, học và ñánh giá thành quả học tập trong
học chế tín chỉ”
[4] Phạm Phú Anh Hu; ðỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
[5] http://webcache.googleusercontent.com/search?q=cache:l_o3aUxM6osJ:kiemviec.com
/vi/cam-nang/sinh-vien-tu-hoc-o-nha-chua-den-3-
giotuanmon.35A4EE4D.html+gi%E1%BB%9D+t%E1%BB%B1+h%E1%BB%8Dc+
c%E1%BB%A7a+sinh+vi%C3%AAn&cd=6&hl=vi&ct=clnk&gl=vn
Từ học kỳ 2 năm học 2007-2008, thực hiện chủ trương của nhà trường, khoa
Công nghệ Thông tin và Truyền thông (CNTT&TT) ñã tiến hành ñào tạo theo học
chế tín chỉ, áp dụng quy chế 43 của bộ Giáo dục và ðào tạo. Theo quy chế 43, tương
ứng với mỗi giờ lên lớp, sinh viên có 2 giờ tự học. Nhằm giúp sinh viên thực hiện 2
giờ tự học một cách có hiệu quả, khoa CNTT&TT ñã có một số giải pháp chung trên
bình diện cấp khoa và các giải pháp của từng giảng viên. Báo cáo này trình bày tóm
tắt một số giải pháp ñó.
1. Tình hình chung
a. Tổ chức bộ môn
Khoa có 4 bộ môn gồm: Hệ thống thông tin (HTTT), Công nghệ phần mềm
(CNPM), Mạng máy tính & Truyền thông (MMT&TT) và Khoa học máy tính
(KHMT).
b. Chương trình ñào tạo
Khoa quản lý 6 chương trình ñào tạo gồm: Hệ thống thông tin (52480104), Kỹ
thuật phần mềm (52480103), Mạng máy tính & Truyền thông (52480102), Khoa học
máy tính (52480101), cao ñẳng Hệ thống Thông tin và Liên thông cao ñẳng-ñại học
Hệ thống Thông tin.
c. ðội ngũ giảng viên
Hiện tại khoa có 54 giảng viên. Về trình ñộ có 9 tiến sĩ, 34 thạc sĩ và 11 kỹ sư.
Về chức danh có 8 giảng viên chính và 46 giảng viên.
d. Tổng số sinh viên
Khoa ñang quản lí 2200 sinh viên, trong ñó có 1.492 sinh viên ñại học, 77
sinh viên liên thông, 17 sinh viên học chuuwong trình thứ hai, 304 sinh viên cao
ñẳng và 310 sinh viên vừa làm vừa học.
e. Về thư viện và máy tính
Thư viện khoa có 2150 ñầu sách, 25 giáo trình và khoảng 1200 tài liệu tham
khảo các loại. Thư viện khoa có 5 máy tính kết nối internet ñể sinh viên tra cứu và
tham khảo tài liệu.
Hiện nay khoa có 11 phòng máy với 427 máy tính nối mạng và kết nối
internet dùng cho công tác giảng dạy và học tập của sinh viên. Trong ñó khoa bố trí
một phòng máy có 40 máy tính có cấu hình mạnh dùng cho sinh viên thực hành tự
do.
2. Các giải pháp chung của khoa nhằm giúp sinh viên tự học
a. Xây dựng hệ thống e-learning
Từ năm học 2007-2008, khoa ñã xây dựng hệ thống hỗ trợ học tập trực tuyến
theo hình thức e-learning tại ñịa chỉ: http;//elcit.ctu.edu.vn. Hệ thống là một hệ quản
trị ñào tạo mã nguồn mở Moodle. Hệ thống quản lý nội dung số của các bài giảng,
ngân hàng câu hỏi, các bài tập, các thảo luận… Hệ thống trợ giúp giảng viên trong
việc thiết kế và phổ biến bài giảng ñiện tử, tổ chức diễn ñàn thảo luận, kiểm tra, ñánh
Tóm lại, công tác tổ chức tự học cho sinh viên là một công tác khó, ñòi hỏi
phải có sự nỗ lực của cả thầy và trò, ñồng thời phải có sự hỗ trợ từ phía bộ môn,
khoa, trường. Những giải pháp ñược trình bày ở trên chưa nhiều và chưa hẳn ñã tối
ưu do vậy báo cáo này chỉ mong muốn góp phần nhỏ bé ñể quý thầy cô tham khảo,
ngõ hầu nâng cao chất lượng ñào tạo của khoa CNTT&TT nói riêng và trường ðại
học Cần Thơ nói chung.
Từ năm 2007, ðại học Cần Thơ ñã chuyển ñổi sang ñào tạo theo học chế tín
chỉ, ñây ñược coi là một bước ñột phá trong ñào tạo nói chung và trong lĩnh vực dạy
và học nói riêng. Học chế tín chỉ là một hình thức ñào tạo ñược hầu hết các nước tiên
tiến trên thế giới áp dụng vì nó phân chia kiến thức ñào tạo thành những ñơn vị học
tập mà sinh viên có thể tự sắp xếp ñể tích lũy ñược ở những thời gian và không gian
khác nhau. Tùy ñiều kiện của mỗi người, người học có thể học nhanh hơn hay muộn
hơn so với tiến ñộ bình thường, có thể thay ñổi chuyên ngành học ngay giữa tiến
trình học tập mà không phải học lại từ ñầu. Học chế tín chỉ còn tạo ra một "ngôn ngữ
chung" giữa các trường ðH, tạo ñiều kiện cho việc chuyển ñổi giữa các trường trong
nước và trên thế giới, rất thuận lợi trong các chương trình ñào tạo liên kết. Tuy nhiên,
học chế tín chỉ cũng ñòi hỏi sinh viên muốn học tốt trên lớp sinh viên phải có 2 tiết
tự học ở nhà. Nhưng một thực tế hiện nay phần lớn sinh viên chưa sử dụng triệt ñể,
ñúng mục ñích về 2 tiết tự học này. Vậy thực trạng như thế nào? Và phương hướng
giải quyết ra sao ñể 2 tiết tự học của sinh viên ngày càng ñạt hiểu quả tốt?
1. Thực trạng.
- Thành tựu
+ ðược sự quan tâm và chỉ ñạo sát sao của các cấp lãnh ñạo trường.
+ ða phần các giảng viên ñã nắm bắt ñược nội dung và phương thức
ñào tạo của HCTC, nên ñã nhanh chóng thay ñổi nôi dung và phương pháp giảng
dạy. Từ vị trí thấy là “trung tâm” sang hợp tác, trò làm “trung tâm”. Giảng viên ñóng
vai trò chỉ ñạo và giám sát quá trình học tập trên lớp và tự học của sinh viên, nên
chất lượng giáo dục ngày càng phát triển.
+ phương thức ñào tạo này giúp tăng tính chủ ñộng, sáng tạo của người học
thông qua việc sinh viên phải nâng cao tính tự học của mình nên, chủ ñộng phát biểu
ý kiến cá nhân, chủ ñộng ñặt câu hỏi cho Giảng viên và ñặc biệt còn có một số sinh
viên còn rất mạnh dạn trong việc trình bày các ý kiến, quan ñiểm ñối nghịch với các
Nhằm ghi nhận những thông tin phản ánh của sinh viên về tình hình sử dụng 2
tiết tự học, ðoàn trường ñã tổ chức Hội nghị sinh viên ñể thảo luận về vấn ñề này.
Qua thảo luận của 200 sinh viên của các khoa, bộ môn trực thuộc trường cho thấy
một số lớn sinh viên có khái niệm chưa rõ ràng về 2 tiết tự học, dẫn ñến sử dụng kém
hiệu quả 2 tiết này. ðiều này cũng cho thấy các bộ phận trong nhà trường cần có
cách giải thích rõ ràng, cụ thể và có ñịnh hướng về việc sử dụng 2 tiết tự học ñể sinh
viên thực hiện tốt hơn nhiệm vụ học tập của mình.
1. Quan niệm của sinh viên về “2 tiết tự học”
Qua ghi nhận cho thấy sinh viên có cách hiểu khác nhau về 2 tiết tự học.
Nhiều sinh viên cho rằng 2 tiết tự học chính là thời gian tương ñương 100 phút mà
họ ñọc tài liệu liên quan ñến bài học của mình ở nhà trước khi ñến lớp. Một số khác
lại cho rằng “2 tiết tự học” là một khái niệm không thể ño ñược bằng thời gian là 100
phút mà nó phải ñược ño bằng khối lượng kiến thức thu nhận ñược trong lúc học bài,
làm bài.
ðặc biệt, có ý kiến cho rằng ñây là khoảng thời gian mà sinh viên tự mình chủ
ñộng trong việc ñọc tài liệu hoặc ñi làm thêm, dạy thêm, tiếp xúc thực tế công việc
và các hoạt ñộng xã hội, nghĩa là bất kỳ việc gì có thể tích lũy kiến thức về bài học
chứ không chỉ là ñọc tài liệu hay làm bài tập.
Một số sinh viên sa vào trung bình chủ nghĩa thì lại nghĩ rằng thời gian lên lớp
học bấy nhiêu là ñủ, nếu không học ñược thì thôi, có thời gian rảnh muốn làm gì thì
làm, thực ra là không hiểu 2 tiết tự học dùng ñể làm gì.
Tuy có nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng ña phần sinh viên chưa chắc chắn
về việc sử dụng 2 tiết tự học của mình, thực tế vẫn còn tồn tại tư tưởng tranh thủ thời
gian không ñến lớp ñể ñi làm thêm, giải trí, … ñến khi cần thì học dồn, học qua loa
và sau khi thi thì hầu như không còn nhớ ñược kiến thức bài học.
2. Thực trạng sử dụng 2 tiết tự học của sinh viên
Với cách hiểu như trên, sinh viên cũng có nhiều cách sử dụng 2 tiết tự học
khác nhau:
Một số sinh viên sử dụng thời gian tự học ñể học nhóm, giải bài tập, ñến thư
viện ñọc tài liệu, sách báo liên quan ñến bài trên lớp của họ. Một sinh viên chia sẻ,
trong lúc tổ chức học nhóm, các bạn có thể ñặt ra các tiêu chí thi ñua trong nhóm ñể
cùng phấn ñấu và tổng kết vào cuối học kỳ.
Những sinh viên không thích hoặc không có ñiều kiện tổ chức nhóm thì ñến
học tại trung tâm học liệu, lên mạng tìm thông tin hoặc tự học thêm ở nhà.
Một số khác, thay vì ñọc tài liệu thì tận dụng thời gian ñể ñi làm thêm, tiếp
xúc người nông dân, các nhà kinh doanh và tích lũy kinh nghiệm, xem ñó là những
chuyến thực tế ngắn hạn.
Còn lại một bộ phận sinh viên không sử dụng thời gian này vào việc học, thời
gian học ñối với họ là thời gian lên lớp, làm một số bài tập do giảng viên giao (tỉ lệ
Trên ñây là một số ghi nhận và ñề xuất của Ban chấp hành ðoàn trường nhằm
nâng cao chất lượng việc sử dụng 2 tiết tự học trong sinh viên.
Qua trao ñổi với một số sinh viên của Khoa Sư phạm cho thấy ña phần sinh
viên trong Khoa Sư phạm chưa nắm ñược một cách sâu sắc về học chế tín chỉ và
thuật ngữ “hai tiết tự học” mà trường ðại học Cần Thơ ñã và ñang áp dụng. Nhiều
sinh viên khi ñược hỏi về thế nào là “hai tiết tự học” và sử dụng hai tiết này như thế
nào thì họ ñều cho rằng 2 tiết tự học là (1) thời gian tự học của họ như làm bài tập
nhóm, tập giảng, (2) thời gian họ làm thêm, dạy kèm. Vậy “hai tiết tự học” là gì?
“Hai tiết tự học” ñược hiểu là thời gian mà sinh viên phải làm việc ở nhà trước khi
ñến lớp như ñọc tài liệu, làm bài tập... Thời gian này tương ñương với thời gian 1 tiết
học trên lớp.
Kết quả khảo sát cho thấy ña phần sinh viên cho rằng “hai tiết tự học” chính là
thời gian 100 phút mà họ ñọc bài trước ở nhà, ñọc sách báo liên quan ñến bài học
trước khi lên giảng ñường. Số sinh viên còn lại nhận ñịnh rằng “hai tiết tự học” là
một khái niệm không thể ño ñược bằng thời gian là 100 phút mà nó là khoảng thời
gian mà sinh viên tự mình chủ ñộng trong việc học tập như học nhóm, làm bài tập
nhóm, ñọc tài liệu hoặc ñi làm thêm, dạy thêm (học tập từ thực tế).
Phần lớn sinh viên cho rằng thời gian học tập trên lớp như thế là còn ít nên họ
có rất nhiều thời gian ñể tự học, học nhóm, giải bài tập, tập giảng,… nên kết quả học
tập của họ ñạt tương ñối tốt. Thậm chí họ còn có ñủ thời gian ñể có thể ñi dạy kèm,
làm thêm ñể tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm nghề nghiệp cho bản bân. ðây là
những hoạt ñộng rất có ít cho sinh viên, chúng giúp sinh viên có cơ hội rèn luyện
nghiệp vụ trước khi ñi thực tập sư phạm ở các trường trung học phổ thông cũng như
là ñi dạy sau khi tốt nghiệp.
Một số ít sinh viên phản ánh rằng thời gian học tập trên lớp quá nhiều, giảng
viên giao cho họ nhiều bài tập nên họ không ñủ thời gian chuẩn bị bài trước ở nhà.
ðây là nguyên nhân chính làm cho kết quả học tập của họ không tốt.
Số sinh viên còn lại cho rằng một số thầy cô giảng dạy không thu hút ñược họ
nên làm cho họ chán, không muốn học làm ảnh hưởng ñến thời gian tự học của họ.
3. Một biện pháp do sinh viên kiến nghị nhằm giúp họ sử dụng tốt “hai tiết tự
học”
Sinh viên phải tự thân mình quản lý thời gian học tập và vui chơi giải trí phù
hợp. Mỗi môn học, mỗi chuyên ngành sẽ có những phương pháp học tập phù hợp,
sinh viên không nên gập khuôn một phương pháp nào trong việc học tập.
Sinh viên phải tự mình tìm ra phương pháp học tập thích hợp, có thể là học
nhóm cũng có thể là tự học hay là phương pháp ñôi bạn học tốt miễn sao họ thấy
thoải mái trong học tập là ñược.
Thầy cô nên thường xuyên cập nhật bài giảng của mình ñặc biệt là ñối với
một số môn bên chuyên ngành ñịa lý nhằm giúp sinh viên học tiếp thu bài giảng tốt
hơn.
Thầy cô nên tăng cường cho bài tập thảo luận nhóm liên quan ñến bài giảng
ñặc biệt là những bài giảng chuyên ngành hẹp ñể giúp họ học tốt hơn.
Thầy cô nên sử dụng kết hợp các slides bài giảng cùng với bảng phấn ñể giúp
sinh viên ñỡ thấy nhàm chán khi chỉ mỗi chiếu slides và giảng.
Khoa nên tăng số lượng sách, ñầu sách ñặc biệt là sách ngoại văn, tăng thời
gian mượn sách nhằm giúp sinh viên có nhiều thời gian ñể nghiên cứu tài liệu và làm
bài tập.
Nhà trường nên tăng cường thời gian mở của phòng tự học ñể ñáp ứng tốt hơn
nữa thời gian tự học của sinh viên.
Tóm lại, trong 3 giải pháp trên thì giải pháp 1 là quan trọng nhất, vì sinh viên
có tự thân quản lý ñược thời gian học tập và vui chơi giải trí của mình thì sinh viên
mới có thể ñạt ñược kết quả tốt trong học tập cũng như cuộc sống.
Trong quá trình hội nhập tiến tới chương trình “tín chỉ hóa”, tự học là một yêu
cầu bức thiết. Luật Giáo dục ñã ghi rõ: “Phương pháp giáo dục ñại học phải coi
trọng việc bồi dưỡng năng lực học nghiên cứu, tạo ñiều kiện cho người học phát
triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực
nghiệm, ứng dụng”.
Tuy nhiên, cũng như một số trường khác, vấn ñề tự học của sinh viên (SV)
Trường ðại học Cần Thơ còn nhiều ñiều ñáng bàn. Thiết nghĩ, cần thiết nêu lên thực
trạng, chỉ ra nguyên và tìm ra những giải pháp cụ thể mang tính chất khả thi mới có
thể giúp SV giải quyết vấn ñề tự học.
I. Thực trạng
Trong xu hướng rút ngắn thời gian lên lớp (chương trình 135 tín chỉ, rồi 120
tín chỉ), nhiều SV cảm thấy thời gian học tập sao quá nhàn hạ ñể họ có thể cho phép
mình ñược vui chơi thoải mái. Thật vậy, biết làm gi ñây bởi vì thời gian lên lớp mỗi
ngày chỉ có mấy tiết. Còn tự học ư ? Biết học cái gi khi kiến thức của nhân loại là vô
tận và con ñường tiếp cận nó là vô cùng ña dạng, nhiều nẻo, nhiều ñường !
Bên cạnh ñó tình trạng học “ñối phó” diễn ra phổ biến trong SV. Hầu hết SV
chưa chủ ñộng ñược thời gian, chưa biết sắp xếp hợp lí thời gian cho toàn bộ chương
trình cũng như kế hoạch học tập hàng tháng, hàng tuần, hàng ngày của mình.
ða số SV chưa biết và cũng chưa có ý thức chủ ñộng tìm kiếm kiến thức mới.
Giảng viên (GV) dạy tới ñâu, SV học ñến ñó, GV dặn ñiều gì thì SV học và làm ñiều
ấy. Một số SV học theo lối thực dụng: những phần nào giảng viên cho cho thi, liên
quan ñến ñiểm số thì mới ñầu tư học tập.
Khả năng ứng dụng và tiêu hoá kiến thức của nhiều SV chưa sâu. ðối với SV,
kiến thức ở giảng ñường dường như tách rời thực tế. SV chưa thấy ñược kiến thức
sách vở là bắt nguồn từ cuộc sống và mục ñích cuối cùng của chúng là sẽ trở lại phục
vụ cuộc sống. ðối với SV nhiều vấn ñề khoa học trở nên trừu tượng, mơ hồ, chúng
tồn tại chơi vơi, dường như không có ñất sống. Muốn tìm ñược mảnh ñất sống thực
sự cho chúng không gì hơn là phải ñầu tư tự nghiên cứu, tự học.
SV cũng chưa thấy ñược mối quan hệ giữa các các học phần, các ñơn vị kiến
thức. Kiến thức mình ñang học có liên quan gì với kiến thức trước và sau nó. Do vậy,
SV cũng chưa biết vận dụng cái ñã biết ñể giải quyết những vần ñề chưa biết và cần
biết.
Từ những ñặc ñiểm nêu trên dẫn ñến một hậu quả khá nghiêm trọng là khả
năng nghiên cứu của ña số SV còn yếu kém. ðiều này, ñồng thời, dẫn ñến một hệ lụy
sau cùng là sau khi ra trường, khả năng phát hiện vấn ñề, xử lí tình huống, giải quyết
công việc của hầu hết SV là không cao.
Phần ñánh giá: ðể khuyến khích, ñộng viên SV, chúng ta nên ñánh giá kết quả tự
học của các em.
- ðánh giá mức ñộ hoàn thành của các nhóm bằng cách cho ñiểm cả nhóm, tối ña
3 ñiểm/tổng cộng 10 ñiểm của môn học.
- ðể ñảm bảo cũng như kiểm tra chắc chắn rằng các thành viên trong nhóm cùng
hoàn thành sản phẩm, chúng ta có thể gọi bất kỳ một thành viên của nhóm trình ày
ngắn gọn (tóm tắt) vấn ñề hay hỏi một phần nhỏ của vấn ñề (ñể tiết kiệm thời gian)
trước khi cho ñiểm cả nhóm. Phần này chỉ chiếm từ 20-30% tổng số ñiểm.
- Có thể chọn thêm một số câu hỏi quan trọng (khoảng 10 câu - trong danh sách
câu hỏi ban ñầu) cộng thêm những câu hỏi mà các nhóm ñã thực hiện ñể cho thi kết
thúc học phần. ðiều này thúc ñẩy quá trình tự học của SV. Tuy nhiên, chúng ta nên
cho ñề theo dạng “ñề mở” – ñược tham khảo tài liệu; ñặc biệt, nên cho theo dạng
nhiều câu hỏi nhỏ (khoảng 5-7 câu), yêu cầu trả lời ngắn gọn ñể kiểm tra quá trình tự
tham khảo tài liệu của SV. Chỉ nên cho 1 -2 câu hỏi trong danh sách các câu hỏi ñã
cho SV tự học (ñã phô tô tài liệu cho lớp).
Trên ñây là ý kiến cá nhân của người viết, rất mong nhận ñược sự ñóng góp của
quý Thầy Cô, các bạn ñể hoàn thiện bài tham luận; cũng như ñể chúng ta chia sẻ, ñúc
kết những kinh nghiệm quý báu trong quá trình giảng dạy nhằm nâng cao khả năng
“tự học” của SV; với mục ñích cuối cùng là nâng cao hiệu quả ñào tạo - tức ñào tạo
ra những SV tích cực, năng ñộng, chủ ñộng, sáng tạo, ñáp ứng yêu cầu ngày càng
cao của xã hội hiện ñại ngày nay.
1. ðặt vấn ñề
Dạy học ñược xem là con ñường giáo dục cơ bản nhất ñể thực hiện mục ñích
của quá trình giáo dục tổng thể, trong ñó tự học là phương thức cơ bản ñể người học
nhằm ñạt ñược những hệ thống tri thức phong phú và thiết thực. Theo ðiều 5 của
Luật Giáo dục (2005) quy ñịnh “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực,
tự giác, chủ ñộng, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực
tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”; “ñảm bảo thời
gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, phát triển phong trào tự học, tự ñào tạo...”;
“tạo ra năng lực tự học sáng tạo của mỗi học sinh”.
Theo “Qui chế ðào tạo ñại học và cao ñẳng hệ chính qui theo hệ thống tín chỉ”
(thường gọi là Qui chế 43): Tín chỉ ñược sử dụng ñể tính khối lượng học tập của sinh
viên. Một tín chỉ ñược qui ñịnh bằng 15 tiết học lý thuyết, 30 – 45 tiết thực hành, thí
nghiệm hoặc thảo luận; 45 – 90 giờ thực tập tại cơ sở; 45 – 60 giờ làm tiểu luận, bài
tập lớn hoặc ñồ án tốt nghiệp ðối với những học phần lý thuyết hoặc thực hành, thí
nghiệm, ñể tiếp thu ñược một tín chỉ sinh viên phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị cá
nhân. Theo ðại học Quốc Gia Hà Nội: Hoạt ñộng dạy - học ñược tổ chức theo ba
hình thức: Lên lớp, thực hành và tự học tương ứng với ba kiểu giờ tín chỉ: Giờ tín chỉ
lên lớp, giờ tín chỉ thực hành và giờ tín chỉ tự học. Theo ñó một giờ tín chỉ lên lớp
bao gồm 1 tiết (50 phút) giáo viên giảng bài và 2 tiết sinh viên tự học; một giờ tín
chỉ thực hành bao gồm 2 tiết giáo viên hướng dẫn, giúp ñỡ sinh viên thực hành thực
tập và 1 tiết sinh viên tự học; một giờ tín chỉ tự học bao gồm 3 tiết sinh viên tự học.
Qua ñó cho thấy nếu muốn áp dụng hệ thống tín chỉ thành công ñòi hỏi Giáo viên-
Sinh viên phải thực hiện tốt 2G tự học.
ðối với sinh viên (SV) ngành Quản lý công nghiệp (QLCN), tự học càng có ý nghĩa
quan trọng hơn, bởi vì nó không chỉ là yếu tố quyết ñịnh chất lượng học tập, mà còn
rèn luyện cho họ sự tìm tòi nghiên cứu ñể ñáp ứng nhu cầu công tác trong tình hình
kinh tế phát triển và ñặc biệt là công nghiệp nước ta ñang ñổi mới từng ngày, bởi lẽ
nếu một người làm công tác quản lý trong thời ñại công nghiệp phát triển mà không
tự tìm tòi học hỏi nghiên cứu sẽ không ñáp ứng ñược nhu cầu xã hội.
Theo Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Cảnh Toàn, “tự học là tự mình ñộng não, suy
nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ và có cả cơ bắp cùng các phẩm chất của mình, cả
ñộng cơ tình cảm, nhân sinh quan, thế giới quan ñể chiếm một lĩnh vực hiểu biết nào
Tự học là hoạt ñộng cần thiết và là phương pháp học tập tích cực ở bậc ñại
học. ðây là một hình thức tổ chức hoạt ñộng nhận thức của cá nhân nhằm chiếm lĩnh
hệ thống tri thức và kỹ năng do chính bản thân người học tiến hành. Khi SV tự mình
huy ñộng mọi phẩm chất, năng lực của bản thân ñể tiến hành các hoạt ñộng tìm tòi,
khám phá ñộc lập nhằm mục ñích chiếm lĩnh tri thức là họ tiến hành họat ñộng tự
học.
Thực tế hiện nay việc tự học của SV còn rất hạn chế. Một trong những nguyên
nhân của tình trạng này là do phần lớn chúng ta chưa chú ý làm tốt công tác quản lý
ñối với hoạt ñộng này. Vì vậy, ñể nâng cao hiệu quả tự học của SV từng ngành học
cần có những biện pháp quản lý phù hợp với ñặc trưng của ngành.
Ngành Quản lý công nghiệp ñào tạo kỹ sư có khả năng về tổ chức thực hiện,
quản lý, ñiều hành các công việc từ văn phòng ñến nhà máy, có khả năng làm việc
nhóm, chủ trì các buổi hội thảo/ thảo luận, báo cáo trước ñông người, do ñó ñể ñáp
ứng yêu cầu công tác, ñòi hỏi sinh viên phải có khả năng xác ñịnh ñúng mục tiêu ñể
có ñộng cơ và thái ñộ làm việc ñúng, có khả năng nhận ñịnh công việc nhằm ñưa ra
những hoạch ñịnh phù hợp và có khả năng tổ chức lãnh ñạo nhóm, có khả năng trình
bày và báo cáo. Do ñó, việc tự học ñể ñáp ứng yêu cầu học theo chuyên ñề, thảo
luận, báo cáo nhóm là hết sức cần thiết ñối với SV ngành QLCN
ðể tìm hiểu việc sử dụng giờ tự học của SV, chúng tôi ñã tiến hành khảo sát
200 SV thuộc ngành QLCN gồm 4 nhóm ñối tượng: năm 1, năm 2, năm 3, và năm 4,
mỗi nhóm 50 SV (50% nam, 50% nữ), về học lực: G: 10,6 %, khá: 54,2%, TB:31,23
%, Kém: 4%, ñiều này cũng dễ thấy bởi qua kết quả khảo sát thì tỷ lệ SV có phương
pháp học phù hợp và có lập kế hoạch còn thấp, chỉ có 61.4% sinh viên có phương
pháp học tập phù hợp, (trong ñó hơn 50% nhóm sinh viên năm 1 trả lời chưa tìm
ñược phương pháp học phù hợp) và 64,75% có lập kế hoạch học tập hằng tuần, tuy
nhiên chỉ có 34,2% trong số có lập kế họach thực hiện ñúng theo kế hoạch.
- Nhận thức của SV về tác dụng của việc tự học chưa cao: SV chỉ mới nhìn
thấy tác dụng của tự học ñối với kết quả học tập (49,76%) mà chưa thấy ñược tác
dụng của hoạt ñộng này ñối với sự phát triển kỹ năng của người làm công tác quản lý
(22%) và chỉ (29%) SV nhận thấy việc tự học sẽ giúp họ rèn luyện kỹ năng sống.
3.1.2. Nhận ñịnh về công tác quản lý giờ tự học trong sinh viên của bộ môn
Quản lý Công nghiệp
Theo tôi, trước hết sinh viên phải có trách nhiệm về việc sử dụng giờ tự học
của mình, kế ñến là vai trò của các giáo viên môn học và cố vấn học tập. Thông qua
hoạt ñộng giảng dạy, các GV trực tiếp hướng dẫn cho SV phương pháp tự học, giao
bài tập và giới thiệu tài liệu tham khảo và cách tìm tài liệu cho sinh viên, CVHT và
giáo viên dạy lớp có ñiều kiện thuận lợi trong việc theo dõi, ñôn ñốc nhắc nhỡ SV tự
giác, tích cực trong việc tự học.
Nhìn chung, công tác quản lý giờ tự học của SV ñã ñược Thầy Cô ở bộ môn
thực hiện thông qua phương pháp giảng dạy như giao bài tập, ñồ án, chuyên ñề, quản
lý giờ tự học thông qua thảo luận nhóm và hướng dẫn, báo cáo ñịnh kỳ. Tuy nhiên,
4. Một số giải pháp nhằm nâng cao việc tự học của sinh viên:
Qua kết quả khảo sát và những vấn ñề thảo luận trên, chúng tôi ñề xuất một số
biện pháp nhằm ñẩy mạnh việc tự học của SV như sau:
- Nâng cao nhận thức, bồi dưỡng ñộng cơ học tập - tự học tích cực cho SV
thông qua giáo dục truyền thống nhà trường, qua CVHT và GV môn học nhằm trang
bị và nâng cao nhận thức cho SV về mục tiêu, yêu cầu ñào tạo, giúp sinh viên xác
ñịnh ñúng ñộng cơ học tập ñể có thái ñộ học tập tốt.
- Tăng cường việc xây dựng kế hoạch tự học của SV thông qua CVHT giúp
SV biết xây dựng và quản lý kế hoạch tự học; giúp SV thực hiện kế hoạch tự học và
sử dụng thời gian tự học có kết quả, tránh trường hợp xây dựng kế họach nhưng
không thực hiện ñúng theo kế hoạch.
- GV môn học cần hướng dẫn SV xác ñịnh nội dung tự học của môn học, như
giao nhiệm vụ cụ thể cho SV thông qua bài tập, báo cáo nội dung của từng phần.
- GV môn học giúp sinh viên sử dụng các phương pháp tự học một cách hiệu
quả, hướng dẫn cho SV phương pháp tự học: chọn tài liệu nghiên cứu, chọn sách,
cách tra cứu tài liệu phù hợp với môn học,… Trường, khoa, bộ môn cần tổ chức các
hội thảo về phương pháp tự học cho SV theo ñịnh kỳ ñảm bảo hiệu quả.
- Tăng cường biên soạn giáo trình, bài giảng, tài liệu hướng dẫn ñáp ứng yêu cầu
về tài liệu tham khảo và trang bị ñủ các phương tiện dạy học cần thiết, chuyển cách trình
bày truyền thống kiểu thống kê- giải thích- minh họa sang cách tổ chức các hoạt ñộng
học tập tìm tòi khám phá, qua ñó SV tự chiếm lĩnh nội dung kiến thức, bài giảng phải
luôn bổ sung và cập nhật những thông tin, kiến thức mới.
- ðối mới phương pháp giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực học tập của
sinh viên, kích thích người học tăng cường hoạt ñộng tự học, tự nghiên cứu, giảm tỷ lệ lý
thuyết trình bày trên lớp của GV, dành thời gian cho SV thực hành giải quyết các tình
huống; tăng cường sử dụng phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn ñề; tăng
cường tổ chức hoạt ñộng học tập theo nhóm.
- Tổ chức cho sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học và hướng dẫn sinh viên áp
dụng những kiến thức ñã học vào thực tế, dưới hình thức nghiên cứu ứng dụng những
kiến thức ñã học vào thực tế, chọn lọc các ví dụ minh hoạ, các bài tập từ thực tế gắn với
ngành học; làm cho SV thấy rõ vai trò và trách nhiệm của việc tự học, tự học sẽ mang lại
hiệu quả trong nghiên cứu khoa học.
- Tăng cường kiểm tra ñánh giá kết quả học tập của sinh viên, chọn lựa phương
pháp, thời gian kiểm tra ñánh giá phù hợp.
5. Kết luận
ðể ñạt ñược mục tiêu ñào tạo theo hệ thống tín chỉ, ñiều cần quan tâm nhất là
làm thế nào ñể sinh viên phát huy hết năng lực của mình, tìm ñược phương pháp tự
học phù hợp với ngành học, môn học; thấy ñược mục ñích ñộng cơ học tập ñể có
thái ñộ học tập ñúng ñắn; hiểu ñược tự học không chỉ nhằm ñạt ñược kết quả học tập
tốt, mà tự học còn giúp sinh viên rèn luyện kỹ năng làm việc và kỹ năng sống tốt.
Tuy nhiên, hiện nay nhiều SV còn rất thụ ñộng trong phương pháp học, từ ñó
dẫn ñến chưa sử dụng tốt 2G tự học/ 1G lên lớp, nhiều SV cảm thấy rất nhàn khi học
tín chỉ (vì thời lượng lên lớp ít hơn so với học niên chế), bởi họ chỉ học theo bài thầy
cô giảng và nghĩ rằng như thế là ñủ. ðể xóa ñi những suy nghĩ ñó người GV phải
tích cực, không nên ñề ra mục ñích truyền thụ nhiều kiến thức, mà phải là dạy sinh
viên cách học, cách ñọc tài liệu, cách nhìn nhận và giải quyết vấn ñề, giúp SV tìm
ñược cách học cho mình; qua ñó không chỉ giúp họ quen với việc tự học, tự nghiên
cứu, mà dần dần trở thành người ham tự học, tự nghiên cứu và ñiều ñó sẽ giúp họ
học suốt ñời.
Từ năm học 2007-2008, Trường ðại học Cần Thơ ñã thực hiện ñào tạo theo học chế
tín chỉ triệt ñể. Tín chỉ là một ñơn vị ño lường khối lượng kiến thức của một học
phần, khối lượng công việc mà sinh viên phải làm ñể hoàn thành một học phần nào
ñó, thông thường bao gồm chuẩn bị bài, lên lớp, làm bài tập, học bài, chuẩn bị cho
việc thi cử, v.v… Chuyển sang học chế tín chỉ có nghĩa là chuyển từ cách học cũ, chỉ
học trên lớp, ít hoạt ñộng tự học sang hình thức học mới mà hình thức học này phần
lớn dựa trên hoạt ñộng tự học của sinh viên. Vì vậy, ñể áp dụng thành công học chế
tín chỉ cần có sự thay ñổi về phía người dạy, người học, phương tiện học tập, môi
trường học tập, v.v…
Trong phạm vi hội nghị này, chúng tôi trình bày quan ñiểm của mình về hoạt ñộng tự
học của sinh viên cũng như những yếu tốhỗ trợ khác.
“Tự học” = “chuẩn bị”? Nếu như hiểu từ chuẩn bị là chuẩn bị ñể tiếp thu kiến
thức trên lớp thì nó sẽ không tương ñương với tự học. Tự học, theo chúng tôi là:
- Ghi chép, theo dõi, tiếp thu kiến thức trên lớp
- Tìm hiểu thêm tài liệu, thông tin nâng cao của chủ ñề
- Sau khi thi kiểm tra và phân tích những lỗi mà mình mắc phải
Không thể chối cãi rằng có một bộ phận sinh viên rất tích cực học tập và rất chủ
ñộng trong việc học. Họ có chuẩn bị bài ở nhà, tham dự ñầy ñủ các buổi học, tích
Hội nghị 2 tiết tự học của sinh viên – 12/2010 39
cực tham gia làm việc nhóm, tìm tòi thông tin từ nhiều nguồn khác nhau v.v.. Và
ñây là những sinh viên có kết quả học tập tốt, có khả năng học tập ở bậc cao hơn.
Một số ñông sinh viên còn học theo kiểu ñối phó, thời gian học chủ yếu là những
lúc kiểm tra và thi. Thi xong thì kiến thức cũng bị mai một do không nắm bắt ñược
vấn ñề sâu sắc, không biến kiến thức ñược giảng dạy, cũng như không tích lũy kiến
thức từ các nguồn khác thành kiến thức của bản thân. Thường những sinh viên này
có kết quả học tập trung bình khá và họ có thể có kết quả vượt trội ñối với những
môn học mà họ yêu thích. Một bộ phận khác không quan tâm ñầu tư thích ñáng
việc học, hoặc không có khả năng tiếp thu dẫn ñến kết quả kém. Tuy nhiên, dù
thuộc nhóm sinh viên nào, sinh viên cũng chưa lượng hóa ñược khối lượng học tập
mà họ ñã bỏ ra ñể hoàn thành môn học. Vì vậy, việc quy ñịnh ñể tiếp thu 1tín chỉ,
sinh viên phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị cá nhân chưa thực sự ñược sinh viên
thực hiện triệt ñể cũng như giảng viên chưa sử dụng chuẩn mực này nhiều trong
việc ñánh giá sinh viên.
Sinh viên cần nắm rõ quỹ thời gian của mình, có thể thử xem ñể ñọc tài liệu của 2
giờ học trên lớp thì mình cần bao nhiều thời gian, học xong rồi xem lại bài, phát triển
bài, học nhóm là bao nhiêu…Sinh viên cần nắm rõ thời gian học, thời gian thi. Thực
tế thì sinh viên chưa quản lý tốt quỹ thời gian, có khi ñầu tư quá nhiều thời gian cho
một kế hoạch, học phần nào ñó, hoặc do phải làm thêm nhiều làm ảnh hưởng ñến kế
hoạch học tập chung; hoặc ñợi ñến lúc thi mới học; một số sinh viên học cùng lúc hai
ngành mà không bố trí, sắp xếp thích hợp dẫn ñến việc không thể theo học, hoặc
tham gia thi ñược; có một số sinh viên lơ ñễnh việc học, thậm chí không biết thời
gian thi.
ðối với giảng viên, Khoa cần phải xem xét việc bố trí thời gian, lịch học, yêu cầu
môn học có hợp lý hay không, có tình trạng tập trung quá nhiều bài tập cho sinh viên
dẫn ñến khối lượng học tập quá nhiều cho các em trong cùng một khoảng thời gian?
i) Sinh viên phải có kỹ năng ñọc, hiểu tài liệu của học phần. Khi ñọc sinh viên phải
có khả năng chọn lọc, ñánh dấu những phần quan trọng trong tài liệu. ðể hỗ trợ sinh
viên thực hiện tốt hoạt ñộng này thì ñòi hỏi giảng viên phải có ñề cương thật chi tiết.
Trong ñó nêu rõ yêu cầu của từng tiết giảng, tài liệu, câu hỏi… của từng tiết giảng và
xem ñây là “hợp ñồng” giữa giảng viên với sinh viên. Vì vậy, giảng viên cần phải chi
tiết hóa ñề cương và khi giảng dạy phải bám sát kế hoạch, thời gian.
ii) Kỹ năng ghi chép. Kỹ năng ghi chép tốt ñòi hỏi quá trình rèn luyện của sinh viên.
Họ phải lắng nghe tốt, không ñể suy nghĩ của mình lấn át việc ghi chép. Hiện nay, số
40 Hội nghị 2 tiết tự học của sinh viên – 12/2010
lượng giảng viên sử dụng PowerPoint presentation khá nhiều trong giảng dạy. Tuy
nhiên, sự ñầu tư ñể soạn ñược bài giảng pp tốt là chưa nhiều, nhiều giảng viên chỉ
copy nguyên xi từ tài liệu sang nên chưa phát huy hiệu quả hoặc như thầy ðỗ Văn
Xê ñã quan sát và nhận xét rằng “chúng ta thay ñổi từ ñọc chép sang chiếu chép!”.
Sau giờ lên lớp, sinh viên ít khi xem lại phần ghi chép của mình và cũng ít khi chép
lại bài, bổ sung những thông tin còn thiếu hoặc thông tin có tính liên hệ, nâng cao.
iii) Liên hệ các chủ ñề lại với nhau xem mối quan hệ giữa chúng như thế nào ñể giải
quyết chủ ñề lớn của cả học phần và mối quan hệ giữa các học phần trong chương
trình với nhau.
iv) Phát triển, nâng cao chủ ñề thông qua việc tìm hiểu thêm tài liệu tham khảo ở thư
viện, internet, v.v…
v) Học nhóm, tìm câu trả lời cho những phần chưa biết.
vi) Kỹ năng làm bài thi. Sau khi thi xem lại phần nào mình làm ñúng, làm sai.
Thông thường ở một số quốc gia, bộ phận tư vấn sinh viên thường hay tổ chức các
hội thảo về phương pháp học tập cho sinh viên khi sinh viên mới vào trường. Các hội
thảo này cung cấp một số thông tin cụ thể ñể cho sinh viên biết về môi trường,
phương pháp giảng dạy, phương pháp học tập mới… Trong ñiều kiện của trường ta
hiện tại, chúng ta có thể hướng dẫn, hỗ trợ sinh viên theo nhiều hình thức như:
+ Mời các Thầy cô có chuyên môn về vấn ñề này hướng dẫn một vài buổi về
phương pháp học cho sinh viên.
+ Phối hợp với các ñoàn thể tổ chức những buổi sinh hoạt chuyên ñề nhằm
mục ñích giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm học tập giữa những sinh viên có thành
tích nổi trội với những sinh viên khác.
+ Mở diễn ñàn trao ñổi về phương pháp học, kinh nghiệm học tập hiệu quả
theo học chế tín chỉ nhằm duy trì việc giao lưu giúp ñỡ lẫn nhau ñược ổn ñịnh,
bền vững hơn.
Bên cạnh ñó, phòng Công tác sinh viên có thể xúc tiến, xây dựng bộ phận hỗ trợ sinh
viên. ðối với hoạt ñộng hỗ trợ học tập có thể phối hợp với các ñơn vị ñào tạo ñể thực
hiện tốt hơn.
Môi trường học tập là nơi mà sinh viên có thể thực hiện các hoạt ñộng học tập của
mình. Ngoài các phòng học, nơi sinh viên “bắt buộc” phải học thì hệ thống thư viện,
các phòng tự học, nơi ở của sinh viên là nơi họ tiến hành các hoạt ñộng học tập. ðể
xây dựng môi trường học tập tốt, một mặt phải bảo ñảm những ñiều kiện vật chất cụ
Sinh viên phải chọn cho mình nơi học tốt nhất trong ñiều kiện cho phép và phải quản
lý ñược môi trường học của mình. Khi vào môi trường ñó, sinh viên chỉ có một
nhiệm vụ duy nhất là học và chỉ tập trung vào việc học mà thôi.
Hiện tại, nhà trường có quan tâm ñầu tư nhưng chưa ñủ. Mặt khác, trình ñộ ngoại
ngữ của sinh viên còn hạn chế nên việc sử dụng tài liệu ngoại văn còn gặp nhiều khó
khăn. Nhà trường nên quan tâm tăng cường học liệu, có thể dựa vào những dự án ñể
mua bản quyền và dịch tài liệu tham khảo cho cán bộ, sinh viên.
Khi thực hiện việc chuyển ñổi sang học chế tín chỉ, giảng viên ñược nhấn mạnh rằng
phải giảm giờ lên lớp, tăng cường giờ tự học cho sinh viên nhưng phải ñảm bảo kiến
thức cho sinh viên. Như vậy, phương pháp giảng dạy phải thay ñổi. Giảng viên
không chỉ giảng những gì mình biết hoặc mình muốn truyền ñạt mà còn phải theo
nhu cầu của sinh viên. Sinh viên có ñiều kiện nghiên cứu chương trình, tài liệu và sẽ
có những lựa chọn, những yêu cầu cụ thể vì chương trình học ñược tổ chức hết sức
mềm dẻo, sinh viên ñược ñăng ký học những học phần phù hợp với ñiều kiện, hoàn
cảnh của mình. Tuy nhiên, trên thực tế thì phương pháp giảng dạy của giảng viên có
thực sự ñược chuyển ñổi hoàn toàn? Một số giảng viên phản ánh rằng do sinh viên
chưa ñược chuẩn bị kỹ cho nên giảng viên vẫn phải tiếp tục giảng như trước, có
nghĩa là vẫn phải cung cấp những thông tin mà các em có thể ñọc trước hoặc tự tìm
hiểu ñược, nếu không giảng thì…không biết làm gì vì hỏi gì các em cũng không biết,
hoặc các em không chuẩn bị các bài tập nhóm. Hoặc giảng viên quan ngại rằng sinh
viên không có ñủ học liệu học tập nên thay vì ñể sinh viên tự tìm hiểu thông tin thì
giảng viên cung cấp luôn thông tin. ðiều này làm cho học chế tín chỉ giảm ñi ý
nghĩa, sinh viên vẫn còn thụ ñộng tiếp thu kiến thức.
Vì vậy, giảng viên cần suy nghĩ ñưa ra phương pháp giảng dạy hợp lý nhất cho học
phần mình phụ trách cũng như thương lượng những yêu cầu ñối với khoa, trường ñể
chuẩn bị tốt các ñiều kiện học tập tốt nhất có thể. Sau ñó, giảng viên nên trao ñổi,
cam kết với sinh viên về phương pháp giảng dạy và ñề nghị sinh viên cùng với mình
tuân thủ những cam kết ñó. Giảng viên cũng cần phân tích, lắng nghe nhiều hơn
những nhu cầu cũng như vướng mắc của sinh viên và phải nghiêm túc, công bằng
trong việc ñánh giá sinh viên ñể chất lượng giảng dạy ñược tốt hơn.
42 Hội nghị 2 tiết tự học của sinh viên – 12/2010
Ngoài các yếu tố trên thì ñể học tốt, sinh viên phải thích học, phải xác ñịnh rõ ñộng
cơ, mục ñích học tập của mình không chỉ học ñể có một công việc tốt cho bản thân,
giúp ích gia ñình và rộng hơn là xã hội mà học là ñể làm mới bản thân mình, là ñể
mình vươn lên một tầm cao hơn.
Tóm lại tự học không phải là một phong trào chỉ diễn ra một lần; ñó là cả một quá
trình vận ñộng mà ở ñó phải ñủ các ñiều kiện về giảng viên, về học liệu, cơ sở vật
chất và quan trọng nhất là nhận thức trong từng cán bộ giảng dạy và từng sinh viên.
Hiện nay, học chế tín chỉ là hình thức ñào tạo ñược xem là tiên tiến trên thế
giới vì mục ñích ñào tạo của nó là hướng vào sinh viên, coi người học là trung tâm
trong quá trình dạy - học. Với hình thức này, người học sẽ nâng cao khả năng tự học,
tự nghiên cứu, tuy nhiên ñào tạo theo tín chỉ ñòi hỏi sinh viên, người phải chủ ñộng
hơn trong việc tiếp thu kiến thức và quản lý thời gian (chủ ñộng lựa chọn môn học,
giáo viên, giờ học...), phải có kỹ năng tự học và tự nghiên cứu. Thế nhưng thói quen
học vẹt và chỉ học theo giáo trình hoặc bài vở của thầy cô ñã hình thành trong người
học từ lớp 1 ñến lớp 12 khi lên ñại học việc yêu cầu người phải chủ ñộng ñã khiến
không ít sinh viên gặp khó khăn hoặc cảm thấy mất phương hướng. Một nguyên
nhân khác không kém phần quan trọng là sinh viên chưa có ý thức cũng như chưa có
thói quen coi những giờ tự học, những buổi chuẩn bị là một phần của môn học. Bên
cạnh ñó Giáo trình áp dụng cho học chế tín chỉ vẫn là những giáo trình cũ của
chương trình ñào tạo theo niên chế ñược chỉnh sửa (chưa ñược ñầu tư ñúng mức).
ðể giúp sinh viên hình thành thói quen tự học cũng như chuẩn bị bài trước khi
lên lớp ñòi hỏi tất cả giáo viên phải chủ ñộng thay ñổi phương pháp giảng dạy nhằm
kiểm tra ñược sự chuẩn bị bài của sinh viên trong khi học và cuối buổi học phải yêu
cầu sinh viên chuẩn bị gì cho buổi học tiếp theo. Nếu giáo viên cho sinh viên kiểm
tra kiến thức chuẩn bị (10-20 phút) trước khi dạy từ 6-9 lần trong học kỳ (giáo viên
sẽ tăng số ñiểm kiểm tra từ 3 ñiểm lên 5 ñiểm) chắc chắn các em phải học bài cũ và
chuẩn bài mới. Tuy nhiên ñể làm ñiều này ñòi hỏi lớp học phải có số lượng hạn chế
không quá 40 SV ñối với học phần lý thuyết, và nhà trường phải có chế ñộ ưu ñãi
cho giáo viên vì họ ñã ñầu tư rất nhiều thời gian cho các bài tập nhóm, kiểm tra
nhóm. Bên cạnh ñó sinh viên không nên ñăng ký quá 8 học phần trong một học kỳ vì
các em sẽ không có thời gian tự học và chuẩn bị bài theo từng nhóm môn học. Ngay
cả việc chọn thời gian và ñịa ñiểm lợp lý ñể các em học nhóm cho các môn học là rất
khó khăn.
Nếu như ở trung học chúng ta luôn có Thầy Cô là chủ nhiệm theo sát mọi hoạt ñộng
của lớp thì ñến bậc ðại học vai trò ấy lại ñược quý thầy cô Cố vấn học tập ñảm trách.
Cố vấn học tập là người giúp ñỡ hỗ trợ các bạn sinh viên từ những ngày ñầu bở ngỡ
bước vào giảng ñường ðại học ñến khi các bạn hoàn thành khóa học trở thành các
tân cử nhân. Cố vấn học tập sẽ giúp ñỡ, ñịnh hướng cho các bạn trong việc cơ cấu
nhân sự của lớp ñến viêc xây dựng kế hoạch học tập và cả là người chia sẻ, tháo gỡ
những khó khăn trong suốt khóa học…và trong ñó việc hướng dẫn cho sinh viên một
phương pháp học tập tốt là trọng trách hết sức quan trọng và cần thiết. Nhìn chung,
không phải tất cả sinh viên luật không biết cách tự học. ðiều ñó phản ánh qua kết
quả cuối năm của sinh viên các chuyên ngành nhưng từ những công tác thực tế của
cố vấn học tập trong việc hỗ trợ tư vấn sinh viên về phương pháp học tập tốt và với
yêu cầu của hội nghị này. Chúng tôi xin ñưa ra các vấn ñề khó khăn của sinh viên
gặp phải trong vấn ñề thực hiện Quy chế ñào tạo ñại học và cao ñẳng hệ chính quy
theo hệ thống tín chỉ Ban hành kèm theo Quyết ñịnh số 43/2007/Qð-BGDðT sau
ñây gọi tắt là Quy chế 43. Trong bối cảnh ñó chúng tôi cũng xin trình bày một số
phương pháp giúp ñỡ sinh viên tự học theo quy chế trên của các thầy cô khoa Luật
thực hiện trong vài năm nay.
I- Những khó khăn trong quá trình tự học của sinh viên khoa luật
1.1. Hiểu thế nào về quy ñịnh của Bộ
Theo quy chế 43: “ðối với học phần lý thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm, ñể tiếp thu
ñược một tín chỉ sinh viên phải dành ít nhất 30 giờ ñể chuẩn bị cá nhân”. Vậy có
phải ñây là một phương pháp học tập? Chúng tôi thắc mắc quy chế của Bộ, 30 giờ
chuẩn bị cá nhân ñó ñược hiểu thế nào?
Thứ nhất, nó là khoảng thời gian tối thiểu nhưng chỉ là sự chuẩn bị cho những tiết
trên lớp mà thôi tức là khoảng thời gian ñể sinh viên hấp thụ kiến thức, trao dồi kiến
thức sẽ không có? Nếu hiểu như vậy thì 30 giờ ñó không thể là ñủ ñể tiếp thu hết một
tín chỉ vì chỉ là chuẩn bị mà không có sự trao dồi lại kiến thức ñã học trên lớp.
Tất cả chúng ta ñều nhận thấy khả năng và ý thức tự học của sinh viên ta rất
kém qua từng tiết dạy. Vậy nguyên nhân do ñâu, có phải do sinh viên ta không ñược
thông minh, không thể tự học ñược? Hay do một nguyên nhân nào khác? Theo tôi
nguyên nhân sâu xa nhất ñó chính là phương pháp giáo dục của ta, phương pháp
truyền ñạt của người thầy ngay từ khi các em cấp sách ñến trường ñã tạo cho học
sinh, sinh viên không thể tách ra khỏi người thầy, chính phương pháp giảng dạy thầy
dạy gì thì biết ñấy từ mẫu giáo, tiểu học, trung học, ñã hình thành ở các em thói quen
học tập thụ ñộng. Ngay cả các em khi học phổ thông ñược cho là có ý thức tự học thì
ña số cũng chỉ dừng lại ở mức ñộ ñối với các môn xã hội thì có thể ngoài những gì
thầy giảng trên lớp thì có thể xem thêm trong sách giáo khoa, ñối với những môn tự
nhiên thì có thể giải thêm nhiều bài tập, chứ các em cũng chưa thật sự tự tìm hiểu
thêm những kiến thức mới mà thầy cô chưa hề ñề cập ñến. Và chính nguyên nhân ñó
ñã dẫn ñến hệ quả là các em không ý thức ñược tầm quan trọng của việc tự học. Một
nguyên nhân khác nữa, trong tư tưởng của các bậc phụ huynh và cả các em học sinh
thì ñiểm số là quan trọng nhất và các em ñều nghĩ chỉ cần học những gì thầy cô dạy
là ñủ ñể ñạt học sinh giỏi, xuất sắc rồi và suy nghĩ ñó ñã theo các em khi các em
bước chân vào giảng ñường ñại học. Với cương vị là Cố vấn học tập, tôi ñã chứng
kiến sự trưởng thành của các em qua từng năm học mặc dù chưa toàn diện. Khi các
em mới bước chân vào trường, vì ngành Toán ứng dụng là một ngành mới nên câu
hỏi mà các em thường ñặt ra cho tôi, và các thầy cô trong bộ môn là em học xong
ngành này ra trường em có thể làm gì hoặc xin ñược việc làm ở ñâu? Khi ñó các em
chưa ý thức ñựợc ñể tìm ñược một việc làm và làm tốt ñược công việc ñó thì các em
cần gì? Các em chỉ suy nghĩ ñơn giản học xong những gì thầy cô dạy ñủ ñiều kiện tốt
nghiệp là sau ñó có thể có ñược một việc làm? Và có nhiều em còn suy nghĩ nếu em
ra trường mà không có việc làm là lỗi của thầy cô dạy chưa tốt nên nhà tuyển dụng
không nhận các em. Nhưng sau nhiều buổi trò chuyện với các em cũng như theo dõi
quá trình và kết quả học tập rèn luyện của các em tôi dần nhận thấy có sự chuyển
biến trong suy nghĩ của các em về việc tự học, nhiều em ñã ý thức ñược ñi học ñại
học không chỉ ñể học kiến thức mà còn học cả cách học, các kỹ năng sống, kỹ năng
giao tiếp. Và theo tôi tất cả các kỹ năng này ñều có thể hình thành từ thói quen tự
học. Nếu chúng ta có khả năng tự học thì chúng ta có thể giải quyết ñược nhiều vấn
ñề thí dụ thực tế nhất là nếu chúng ta vì một lí do nào ñó mà không thể ñến lớp vài
buổi thì vấn ñề này giải quyết ñựợc khá dễ dàng, còn nếu ta không có khả năng tự
học thì coi như phần kiến thức ñó ñã hỏng và có thể những buổi học sau dù có thầy
cô hướng dẫn nhưng chúng ta cũng sẽ không tiếp thu tốt vì kiên thức trong một môn
TÓM TẮT: Từ việc ñối chiếu sự khác nhau giữa hai quan ñiểm dạy học (lấy
người dạy làm trung tâm và lấy người học làm trung tâm) bài viết nêu lên sự khác
nhau về ñịnh hướng biên soạn giáo trình giữa hai quan ñiểm, sau ñó trình bày
một mô thức chung có thể áp dụng cho việc biên soạn giáo trình tự học .
ABSTRACT: Fistly, the paper discusses the differences between the two
approaches: a learner-centered approach and a teacher-centered approach…
Secondly, discusses the differences in designing the teaching material between
them. Lastly, it presents the format of the material for self-study.
Keywords: Introduction, Activities, Basic information, Assessment, Feedback
information.
Title: A way of writing teaching materials for self-study.
1. MỞ ðẦU
Song song với việc chuyển ñổi xu hướng ñào tạo từ niên chế sang tín chỉ,
ñổi mới phương pháp dạy - học là một yêu cầu bức thiết. Làm sao cắt giảm giờ lên
lớp mà vẫn ñảm bảo ñược nội dung và chất lượng giảng dạy là vấn ñề ñược ñặt ra
ñối với cán bộ giảng dạy và nhà quản lí giáo dục. Giải quyết ñược vấn ñề này ñòi
hỏi phải có nhiều giải pháp ñồng bộ từ phía giáo viên và học viên. Bài viết này xin
chia sẻ một kinh nghiệm nhỏ liên quan việc biên soạn giáo trình nhằm hỗ trợ sinh
viên trong quá trình tự học, giúp giáo viên giúp tiết kiệm thời gian trên lớp.
2. HAI QUAN ðIỂM DẠY HỌC, HAI CÁCH BIÊN SOẠN GIÁO
TRÌNH
Quan ñiểm dạy học chi phối mạnh mẽ phương pháp, hiệu quả dạy - học và
cách biên soạn giáo trình. Sau ñây là hai quan ñiểm dạy học tồn tại ở Việt Nam
trước ñây và hiện nay :
Theo ñó việc biên soạn giáo trình cũng có nhiều khác biệt.
Giáo trình tập trung vào người dạy Giáo trình tập trung vào người học
- Nhiệm vụ: trình bày, giải thích ñể - Nhiệm vụ: dẫn dắt, gợi mở ñể người
người học hiểu vấn ñề. ñọc suy nghĩ, tự rút ra vấn ñề, qua ñó
hiểu vấn ñề.
- Chú trọng ghi nhớ lí thuyết. - Chú trọng giải quyết vấn ñề
- Người học tiếp thu ñơn giản, một - Người học tích cực thực hiện các hoạt
chiều. ñộng quan sát, thí nghiệm, thực hành .
- ðánh giá nhiều chiều:
- ðánh giá một chiều: Giáo viên → học viên
Giáo viên → học viên. Học viên → học viên.
Học viên tự ñánh giá mình
*
* *
*
*
* *
5. Hình thức ñánh giá: Tài liệu nêu rõ hình thức ñánh giá và kế hoạch kiểm
tra, ñánh giá cụ thể ñối với môn học . ðiều này có thể giúp sinh viên chủ ñộng
trong kế hoạch học tập của mình.
6. Tài liệu tham khảo, bao gồm nguồn tài liệu từ sách vở hay tìm kiếm qua
mạng…
7. Cách sử dụng giáo trình: Giáo trình tự học chỉ có ý nghĩa khi ñược sinh
viên sử dụng ñúng cách. Tác giả cần ñề ra những nguyên tắc sử dụng giáo trình và
nhắc nhở sinh viên thực hiện ñúng theo hướng dẫn.
“Chủ ñề này hoàn thành trong 3 tiết. Qua chủ ñề này, học viên có thể trình
bày ñược khái niệm chiếu vật, phân biệt ñược nghĩa biểu vật và nghĩa chiếu vật;
xác ñịnh và phân tích ñược các phương thức chiếu vật cơ bản trong tiếng Việt.
Qua ñó, nhận thức rõ vai trò của chiếu vật trong giao tiếp nói chung, trong hội
thoại nói riêng. ðồng thời, có ý thức sử dụng ngôn ngữ sao cho ñạt hiệu quả.”
[3, 33]
Ghi nhớ - tái hiện Ghi nhớ - tái hiện Ghi nhớ - vận dụng
giản ñơn sáng tạo giải quyết vấn ñề
b. Từng cá nhân ñọc phần 5.2.2 “Tính chất và nguyên tắc thực hiện kiểm
tra miệng” ở phần tài liệu, rồi trao ñổi ý kiến với bạn cùng nhóm về hai vấn ñề
sau ñây:
- Mối quan hệ giữa ba tính chất nhận thức: ghi nhớ - tái hiện ñơn giản, ghi
nhớ tái hiện sáng tạo, ghi nhớ - vận dụng – giải quyết vấn ñề.
- Nêu một số hoạt ñộng trong kiểm tra miệng nhằm minh hoạ cho mỗi tính
chất ấy.
c. Xem cảnh kiểm tra miệng thứ nhất và kiểm tra miệng thứ hai trong băng
hình, sau ñó thảo luận nhóm theo hai câu hỏi sau ñây:
- Những kĩ năng và thái ñộ nào của học sinh ñược ño lường qua một phần
kiểm tra miệng mà các bạn ñã xem ?
- ðiều gì dẫn ñến sự khác nhau trong kết quả ñánh giá trên cùng một bài
học? [2, 21d]
ðối với hoạt ñộng thí nghiệm hay trải nghiệm, có mấy nguyên tắc thiết kế
hoạt ñộng mà giáo viên cần chú ý ñể tài liệu hướng dẫn học tập không là quá khó
ñối với học viên:
- Những chỉ dẫn hoạt ñộng hay câu hỏi dẫn dắt phải ñi từ cái ñã biết ñến
cái chưa biết. Nếu cần, giáo trình có thể gợi ý học viên xem lại những
tài liệu, sách vở ñã học, hay những nguồn tài liệu chưa học có liên quan
nhưng không quá khó.
- Câu hỏi không nên quá lớn, nên ñi từ ñơn giản ñến phức tạp, từ chi tiết
ñến tổng quát, từ cụ thể ñến trừu tượng.
Do vậy kiểm tra, ñánh giá phải kịp thời, thiết thực. ðánh giá của giáo trình
tự học phải liên tục, nó không chỉ ñược thiết kế ở cuối môn học mà cần ñược trải
ñều sau các chủ ñề, các ñề mục. Nguyên tắc ñánh giá là ñi từ dễ ñến khó, bao gồm
cả kiểm tra lí thuyết lẫn thực hành.
Hình thức ñánh giá cần ña dạng hoá. Giáo trình có thể sử dụng kết hợp và
linh ñộng các hình thức như:
- Tự luận (thông qua trình bày, giải thích, phân tích, ñánh giá,...)
- Trắc nghiệm (thông qua các dạng ñiền khuyết, ghép cột A và B, sắp xếp
nội dung kiến thức và khái niệm, chọn câu trả lời ñúng nhất, xác ñịnh
ñúng / sai...)
- Sơ ñồ hoá / mô hình hoá kiến thức (dưới các dạng vẽ sơ ñồ khái niệm;
sơ ñồ lịch sử, tiến trình; tóm tắt bằng biểu bảng...)
.....
3.2.4. Thông tin phản hồi
Thông tin phản hồi là phần ñáp án ñúng, hoặc các gợi ý cho các câu hỏi,
tình huống ñược nêu ở phần ñánh giá. Phần này ñược ñặt sau phần ñánh giá của
mỗi chủ ñề hoặc cuối giáo trình.
ðể cho kiến thức của thông tin phản hồi không trùng lặp với kiến thức phần
thông tin cơ bản, các câu hỏi ñánh giá nên tránh dạng yêu cầu tái hiện giản ñơn
(tức ñơn thuần yêu cầu người học thuộc lòng thông tin cơ bản). Câu hỏi ñánh giá
phải nâng cao, yêu cầu người học suy luận, khái quát, vận dụng, sáng tạo.
4. Kết luận
Biên soạn giáo trình theo hướng tự học thực chất là thiết kế tài liệu hướng
dẫn học tập, ở ñó vai trò của người hướng dẫn hiện diện khắp nơi nhưng không
làm thay, học viên phải tự trải nghiệm, suy nghĩ ñể giải quyết vấn ñề, khái quát
hoá vấn ñề.
Cũng giống như quy trình giảng dạy của giáo viên trên lớp, quy trình biên
soạn giáo trình tự học cũng ñầy ñủ các thao tác của phương pháp dạy học tích cực:
nêu mục tiêu bài học, hướng dẫn các hoạt ñộng, trình bày kiến thức, kiểm tra ñánh
giá, giải ñáp các tình huống, các thắc mắc, các bài tập:
Mục tiêu
Kiến thức của nhân loại là mênh mông, thời gian trên lớp dù bao nhiêu
cũng không thể truyền ñạt ñầy ñủ, do ñó dạy học không phải chỉ ñơn thuần là dạy
tri thức mà còn cần phải dạy phương pháp học tập. Thông qua hình thức hướng
dẫn hoạt ñộng, trên cơ sở thông tin cơ bản ñã cung cấp, người dạy có thể gợi ý ñể
người học mở rộng, tự ñào sâu kiến thức từ nhiều nẻo, nhiều nguồn, nhiều cách
thức khác nhau. Bằng con ñường này, kiến thức của người học sẽ ñược tích lũy
dần dần, chắc chắn, sâu sắc, vững bền.
Trên ñây là những kinh nghiệm nhỏ mà qua quá trình trải nghiệm chúng tôi
ñã thu thập ñược. Trong phạm vi bài viết, khó có thể trình bày cặn kẽ hết các vấn
ñề.
1. Dạy học theo hướng lấy học sinh làm trung tâm – Dự án Child fund – Việt Nam
– Hà Nội 2005.
2. Sổ tay chỉ dẫn biên soạn môñun – Bộ Giáo dục và ðào tạo – Dự án phát triển
giáo viên tiểu học, Hà Nội 2006.
3. Ngữ dụng học – Tài liệu dùng cho giáo Tiểu học trình ñộ ñại học, bồi dưỡng
giáo viên và cán bộ quản lí giáo dục - Nguyễn Thị Ngọc ðiệp, Nguyễn Thị Hồng
Nam, Nguyễn Thị Thu Thuỷ, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 2010.
4. Sổ tay giảng viên (Tài liệu hướng dẫn giảng viên thực hiện học chế tín chỉ - Lưu
hành nội bộ) – Trường ðại học Cần Thơ, Nhà xuất bản ðại học Cần Thơ, 2010.
Từ năm học 2007-2008, trường ðại Học Cần Thơ áp dụng học chế tín chỉ cho
tất cả các lớp ñào tạo chính qui của Trường. Vài năm sau học chế tín chỉ ñược áp
dụng cho các ñơn vị liên kết và cả ở bậc ñào tạo Cao học. Hiện nay học chế tín chỉ ñã
ñược áp dụng cho tất cả bậc học, ngành học hệ chính qui và hệ vừa làm vừa học của
trường ðại Học Cần Thơ.
Việc áp dụng một học chế mới ắt phải có những thuận lợi và khó khăn, ñòi
hỏi phải có ñiều kiện (con người và phương tiện) và thời gian. Bài này ñề cập tới
việc quản lý 2 giờ tự học của người học.
Chương trình ñào tạo 4 năm gồm 120 tín chỉ. Mỗi học phần thường có 2 hay 3
tín chỉ. Một tín chỉ ứng với 15 giờ lý thuyết hoặc 30 giờ thực hành. Theo qui chế học
vụ, giờ học thực hành là bắt buộc, còn giờ học lý thuyết có linh ñộng hơn, nhưng
người học phải tham dự ít nhất là 80% giờ dạy lý thuyết của giảng viên.
Người dạy (giảng viên) có nhiều cách giới thiệu (truyền ñạt) môn học. ðối với
người học (sinh viên) ngòai việc học tại lớp hay phòng thực hành, còn phải dành một
lượng thời gian tự học, theo qui chế ñào tạo theo tín chỉ là gấp ñôi giờ học ñể có thể
nắm vững những kiến thức của học phần. ðó là 2 giờ tự học của sinh viên ứng với 1
giờ giảng của giảng viên. Giờ học của sinh viên có thể quản lý/theo dõi ñược, nhưng
làm sao quản lý/theo dõi giờ tự học?
1. Trước hết, phải là ý thức của người học. Nguời học tín chỉ phải chủ ñộng
tìm kiến thức trong lớp, ngòai lớp, trong thư viện, ngòai thực tiễn ña dạng của cuốc
sống. Trong giờ giảng, giảng viên chỉ trình bày các vấn ñề cốt lõi của môn học, nên
sinh viên cần bổ sung thêm các chi tiết có liên quan. Sinh viên tự thấy những ñiểm
còn yếu hay còn thiếu trong kiến thức của mình mà tự bổ sung. Việc bổ sung kiến
thức không nhất thiết phải thực hiện trên bàn học, mà có thể ở mọi nơi và mọi lúc.
Việc tự học này có thể nhiều hơn (hay ít hơn!) 2 giờ tương ứng với 1 giờ trên lớp
học. Người học phải ý thức rằng: Bằng cấp là cần thiết nhưng kiến thức là quan
trọng.
Bộ Môn Thú Y xin báo cáo với Trung tâm ñảm bảo chất lượng và khảo thí
trường ðại Học Cần Thơ về việc thực hiện về học chế tín chỉ của Ngành Thú Y. Từ
năm học 2007-2008, Trường ðại học Cần Thơ ñã thực hiện ñào tạo theo hệ thống tín
chỉ triệt ñể trên cơ sở Quy chế 43 của Bộ Giáo dục và ðào tạo ban hành ngày 15
tháng 8 năm 2007 về ñào tạo ñại học và cao ñẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ.
Một trong những nội dung quan trọng của học chế tín chỉ như ðiều 3, mục 3 ñã quy
ñịnh “ðối với những học phần lý thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm, ñể tiếp thu ñược
một tín chỉ, sinh viên phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị cá nhân”.
Chủ trương ñẩy mạnh việc tự học trong sinh viên trong chương trình ñào tạo theo hệ
thống tín chỉ của ngành thú y Trường ðại Học Cần Thơ. Ngành Thú Y ñược ñào tạo
trong 5 năm bao gồm 9 học kỳ học các môn cơ sở, các môn chuyên ngành và 1 học
kỳ sinh viên làm luận văn tốt nghiệp. Với tổng số tín chỉ là 152 tín chỉ. Bộ môn Thú
Y sau khi tập hợp ý kiến của các sinh viên khối ngành thú y tập trung vào các vấn ñề
sau:
Có rất nhiều sinh viên có ý kiến là khó thực hiện ñược việc học tập theo tỷ lệ 1 tiết
lên lớp bằng 2 tiết tự học ở nhà (1 tín chỉ sinh viên phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị
cá nhân) vì một số lý do chủ quan và khách quan:
1. Khách quan:
- Các học phần của sinh viên những năm cuối là các học phần chuyên ngành, thực
hành nhiều nên gần như phải lên lớp sáng, chiều hàng ngày, thậm chí có học phần
phải học cả ngày chủ nhật. Do vậy ít còn thời gian tự học.
- Trung tâm học liệu chưa bố trí phục vụ chiều thứ 2, thứ 6 nên rất khó ñể có tài liệu
tự học vào các thời gian trên cũng như không cho sinh viên mượn sách về nhà, không
cho photo một số sách nên sinh viên rất thiếu tài liệu ñể tự học.
- Có khó khăn trong phần bố trí giờ dạy thực hành cho nên việc học tập có trùng lắp.
-Việc thực hành thực tế ngòai trường cần ñược thực hiện nhiều hơn mặc dù chương
trình có 3 môn thực tập thực tế ngòai trường, nhưng cần phải ñược có thời gian thực
tế dài hơn sẽ bổ ích cho sinh viên về kiến thức lý thuyết khi ra trường.
2. Chủ quan:
- Sinh viên chưa quen, chưa chủ ñộng và chưa tích cực trong việc tự học
- Có khá nhiều sinh viên ñăng ký học bằng 2, nên thời gian dành cho chuyên ngành
chính không ñược ñào sâu. ðây là vấn ñề cần ñược lưu tâm trong thời gian tới
- Vì cuộc sống kinh tế ngày một khó khăn, gia ñình không ñảm ñương nỗi nên số
sinh viên còn phải tranh thủ ñi làm thêm, dạy thêm ñể kiếm tiền ñể phụ
gia ñình ñóng học phí và tự trang trải cuộc sống.
- Việc học ngọai ngữ và tin học là rất cần thiết cho sinh viên khi ra trường tìm việc
làm nên rất nhiều sinh viên những năm cuối do phải cố gắng hoàn thiện ngoại ngữ,
tin học vào các buổi tối nên còn rất ít thời gian cho tự học.
- Ngoài ra vẫn còn khá nhiều sinh viên chưa sử dụng tốt 2 tiết tự học do không tự
giác học tập (chỉ tập học khi gần tới giờ kiểm tra và thi chính thức, việc sử dụng
nhiều thời gian buổi tối ñể xem tivi hoặc lên mạng ñể chat hoặc chơi game )
Một trong những yêu cầu có tính quyết ñịnh ñến chất lượng học tập của SV là
tự học ít nhất hai tiết ñối với mỗi hai tiết lên lớp. Trong tham luận này, chúng tôi
trình bày một số công việc cụ thể ñể giúp SV thực hiện có hiệu quả việc tự học này.
Xây dựng lòng ham học của SV: Một số thầy cô thường than phiền là SV
ngày nay ít có lòng ham học hỏi và có tính ù lì trong học tập. ðiều này chưa có kết
quả nghiên cứu ñể kết luận nhưng cũng là ñiều mà CVHT vần lưu ý khi sinh hoạt với
SV. CVHT cần xây dựng cho SV lòng yêu nghề nghiệp tương lai. CVHT cần nêu rõ
yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ… mà SV cần có khi ra trường. Trên cơ sở ñó
CVHT sẽ giáo dục cho SV tinh thần ham học tập và rèn luyện khi ngồi ở giảng
ñường ñại học.
Hoạch ñịnh thời khóa biểu học tập dự kiến: CVHT có thể xây dựng một thời
khóa biểu giả ñịnh trong ñó có số môn học trong học kỳ, mỗi môn sẽ cần tự làm gì
trong 02 tiết tự học… Thực tế có thể sẽ khác nhưng việc vạch ra kế hoạch giả ñịnh sẽ
giúp SV phần nào hình dung và có phương pháp học tập nhất ñịnh.
Trong suốt quá trình SV học tập, CVHT cần theo dõi, ñộng viên và hỗ trợ kịp
thời ñể SV thực hiện nhiệm vụ học tập trên lớp và ngoài giờ lên lớp hiệu quả.
2. Những ñề nghị ñối với giảng viên phụ trách môn học
Hiện nay theo quan sát chủ quan của chúng tôi, rất ít giảng viên (GV) ñưa ra
bảng chương trình học tập và ñánh giá (syllabus) cho SV trong khi ñó ñây là một
việc rất ñáng nên làm ñối với tất cả các môn. Hiện nay chúng ta ñang từng bước hoàn
thiện việc giới thiệu ñề cương chi tiết môn học ñể SV nắm. Tuy nhiên, ở từng môn
học cụ thề trong buổi học ñầu tiên giảng viên nhất thiết phải phát cho SV một bảng
chương trình học tập và ñánh giá trong ñó nêu thật rõ những nội dung cốt lõi của
những buổi học, các bài tập mà SV phải làm, những chương sách, bài báo…mà SV
nhất thiết phải thực hiện trước và/hoặc sau khi lên lớp. ðiều này sẽ giúp SV ñịnh
hướng thật rõ những gì mình phải thực hiện, tránh trường hợp SV chỉ ñược nghe nói
chung chung là phải ñọc sách và/hoặc xem báo.
Hình thức ñánh giá trong học chế tín chỉ cho phép GV ñánh giá SV theo nhiều
mảng nhỏ từ việc tham gia trong lớp (không phải chỉ ñơn giản là kiểm diện như
thường thấy ở một số lớp), việc thực hiện bài tập cá nhân, bài tập nhóm nhỏ, thuyết
trình, thi giữa kỳ, thi hết môn…Nhiệm vụ của GV là cần thông báo ñể SV nắm ñược
yêu cầu của từng hình thức kiểm tra, ñánh giá mà mình sẽ áp dụng. Việc có bảng
chương trình chi tiết (syllabus) và nêu rõ hình thức học tập, ñánh giá và nhất là có
bảng “phân công” rõ ràng cho mỗi buổi học giúp SV mà cũng là yêu cầu SV có
những hoạt ñộng, kế hoạch học tập cụ thể ñể ñạt yêu cầu môn học.
Hơn ai hết, SV phải ý thức việc học tập của SV là vì lợi ích thiết thực cho hiện
tại và tương lai của mình. SV cần dựa theo thời khóa biểu mỗi học kỳ ñể xây dựng kế
hoạch học tập hợp lý và ñầu tư thời gian, công sức ñể học tập và rèn luyện cho bản
thân.
SV cần chủ ñộng hơn trong việc trao ñổi với CVHT và GV phụ trách môn học
nếu thấy còn chưa hiểu rõ yêu cầu môn học và việc tự học.
Có thể nói Trường hiện nay ñã có nhiều ñiều chỉnh, uốn nắn ñể công tác ñào
tạo theo tín chỉ thuận lợi hơn. Chúng tôi ñề nghị Trường cần dần dần xây dựng quy
chế làm việc với GV rõ ràng và cụ thể hơn. Một trong những việc cần làm là xây
dựng lịch làm việc của GV trong ñó có tính ñến “Giờ Văn phòng” (Office hours) như
là một phần giờ mà GV phải thực hiện và ñược trả lương. Cơ sở vật chất có thể chưa
cho phép mỗi GV có phòng làm việc ñể SV ñến trong giờ văn phòng nhưng cần thiết
xây dựng loại hình hoạt ñộng này. ðây sẽ là một trong những dịp quan trong ñể SV
xem lại những gì mình làm trong phần tự học, biết mình ñang ñi ñúng hay sai hướng
ñối với những phần việc ñược giao ñể ñiều chỉnh phù hợp và phục vụ các giờ lên lớp
tốt hơn.
Việc học tập có hiệu quả trong hai tiết tự học là ñiều quan trọng ñối với mỗi
SV. ðể giờ học này ñạt chất lượng tốt rất cần tính chủ ñộng của SV. Tuy nhiên,
CVHT và gGV cần thực hiện những bước hướng dẫn ñể SV rèn luyện thói quen này.
Bên cạnh ñó, GV cần thiết phải phải có hình thức kiểm tra việc tự học của SV và
ñánh giá cụ thể ñể ñảm bảo SV học tập ñạt kết quả cao.
Võ Thành Danh
Khoa Kinh tế - QTKD
ðể chuẩn bị cho Hội thảo 2 tiết tự học của sinh viên ñược Trường tổ chức vào
tháng 12/2010; trên cơ sở thống kê ý kiến của các bộ môn, Khoa Kinh tế - QTKD
thống kê lại các ý kiến bày tỏ những thuận lợi, cũng như khó khăn của các em trong
quá trình học tập theo cơ chế tín chỉ hóa:
1. Khó khăn
- Số lượng SV trên lớp có những nhóm quá ñông (trên 70, 80 SV);
- Sinh viên trong cùng nhóm báo cáo có lịch học khác nhau nên khó tập họp ñể
làm bài tập nhóm
- Có nhiều môn học yêu cầu làm bài tập nhóm nên SV phải phân bố thời gian cho
các bài tập nhóm nên bài tập chưa phân tích sâu, chưa thể hiện hết khả năng của SV
- Một số sinh viên thụ ñộng trong việc tiếp nhận và xử lý thông tin từ bài giảng;
mặc dù ñược cung cấp bài giảng nhưng không có sự chuẩn bị trước; SV vẫn còn xem
nặng thành tích, chỉ quan tâm ñến những thông tin liên quan ñến kỳ thi cuối kỳ. Khả
năng học tập và tích cực học tập của SV cũng không giống nhau nên khó khăn hơn
trong việc tổ chức lớp học, có SV tích cực nhưng cũng có SV rất thụ ñộng, chỉ khi
ñến lớp mới xem tài liệu và cũng không chịu phát biểu ý kiến.
- SV chỉnh sửa KHHT quá nhiều ở mỗi lần ñăng ký cho mỗi học kỳ (thay ñổi vị
trí, thay ñổi môn học)
- Vấn ñề họp lớp CVHT cũng gặp khó khăn như: mượn không ñược phòng và do
SV học theo tín chỉ hoá nên SV học rải rác nhiều nơi, giờ học cũng khác nhau.
- Khi sinh viên muốn thay ñổi KHHT là chính xác nhưng khi SV thay ñổi vị trí
môn học thì không cần làm ñơn vì khi xét tốt nghiệp cũng không cần những môn học
này. Trường hợp SV muốn thay ñổi vị trí môn học không cần phải làm ñơn thì rất dễ
dẫn ñến rất lộn xộn cho việc ñăng ký, sắp xếp nhóm môn học cho Trường
- CVHT phụ trách ngành 2 song song hiện còn vất vả. Theo quy ñịnh của
Trường, CVHT ngành 1 phải hướng dẫn SV lập KHHT ngành 2, do các Khoa quản
lý chương trình học cũng rất khác nhau nên CVHT ngành 1 không thể tư vấn ñầy ñủ
cho SV. Chính vì lý do này, CVHT ngành 2 phải tư vấn cho từng học viên học ngành
2 song song vì các sinh viên ñến riêng lẻ, ñến từ các lớp các khoa khác nhau nên
không thể tập trung ñược.
2. ðề xuất
- Mỗi GV chỉ nên cố vấn 1 lớp và mỗi lớp có sĩ số khoảng 40-50 SV;
Qua ba năm xuyên suốt làm công tác cố vấn học tập (CVHT) cho lớp Cao
ðẳng Tin Học K33, tôi xin nêu một vài suy nghĩ của mình về vai trò của một CVHT,
ñặc biệt trong ñào tạo theo học chế tín chỉ và một số ñề xuất xung quanh nhiệm vụ
của CVHT hiện nay.
I. Vai trò của cố vấn học tập:
Trước hết tôi nhận thấy thực hiện tốt vai trò của CVHT là một việc làm rất có
ý nghĩa ñối với sinh viên (SV) nhất là trong những năm ñầu tiên. Vừa rời ghế nhà
trường phổ thông, các tân SV của chúng ta bước vào ngưỡng cửa ñại học với nhiều
bâng khuâng và bỡ ngỡ. Các em không những phải nhanh chóng làm quen với môi
trường mới, thầy cô, bạn bè mới mà quan trọng hơn là phải nhanh chóng nắm bắt và
làm quen với cách học mới, với những kỹ năng mới từ những việc nhỏ như cách thức
gửi email cho giáo viên, làm sao ñể biết ñược ñịa chỉ email của một giáo viên nào ñó,
phải tìm thông báo về một vấn ñề nào ñó ở ñâu… cho ñến những việc quan trọng
như lên kế hoạch học tập cho bản thân, cách thức ñăng ký học phần, cách tra cứu
ñiểm của mình, v.v… Tất cả những việc này ñều hết sức mới mẻ và phức tạp ñối với
các em vì các em ñược chuyển từ một môi trường học tập nơi mà các em không phải
tự lựa chọn môn gì ñể học, học kỳ nào sẽ học; lớp học thường nhỏ với những bạn bè
cố ñịnh qua nhiều năm và luôn luôn có cô giáo chủ nhiệm bên cạnh ñưa mọi thông
tin liên quan ñến với các em một cách trực tiếp. Một vấn ñề thực tế là ña số SV của
ta ñến từ các vùng nông thôn, nơi mà các em ít có cơ hội tiếp cận với Internet hay
máy tính. Có nhiều em thậm chí không biết phải làm sao ñể vào ñược email của mình
sau khi nhận tài khoản và mật khẩu từ trung tâm học liệu. Vấn ñề càng khó khăn hơn
khi thời gian thích nghi dành cho các em là không nhiều, khoảng một học kỳ ñầu
tiên, bắt ñầu từ học kỳ thứ hai là các em phải tự chủ trong việc học tập của mình. Vì
vậy, vai trò của một CVHT, ñặc biệt trong năm ñầu tiên, là hết sức quan trọng ñể
giúp các em vượt qua ñược giai ñoạn khó khăn ban ñầu này.
II. Một số ñề xuất liên quan ñến các nhiệm vụ của CVHT:
ðể tạo ñược sự trợ giúp hiệu quả cho SV, ñồng thời tiết kiệm ñược thời gian,
công sức không chỉ của CVHT mà của cả SV cũng như các cán bộ phòng ban có liên
quan, chắc chắn ai cũng sẽ nghĩ ñến một website thông tin cho sinh viên. Hiện nay
trang web của phòng công tác SV ñã có và ñã cung cấp thông tin khá ñầy ñủ. Tuy
nhiên, hình thức tổ chức thông tin theo tôi là chưa hợp lý vì chưa dựa trên việc phân
tích hệ thống một cách khoa học. Chẳng hạn như hiện nay ta có thể thấy biểu mẫu
ñăng ký thuế thu nhập cá nhân xuất hiện trên trang văn bản của phòng công tác sinh
viên! Trái lại, thông tin về các quy trình là những thông tin hết sức cần thiết cho SV
thì hiện nay trình bày như những siêu liên kết trong một thông báo, nội dung quy
trình ñược trình bày ở dạng file Word, còn các ñơn từ biểu mẫu liên quan ñến quy
trình này thì nằm ở một trang web khác mà SV phải tự ñi tìm. Theo tôi, mỗi quy
Bộ môn Hóa
Khoa Sư phạm
Trong ñào tạo theo học chế tín chỉ, giảng viên làm cố vấn học tập (CVHT) là
người có ảnh hưởng nhiều ñến sự thành công trong việc học tập cũng như lựa chọn
nghề nghiệp của sinh viên. Do ñó, nhiệm vụ chính của CVHT nên hiểu là tư vấn về
học tập, nghiên cứu khoa học và giúp ñịnh hướng việc làm cho sinh viên. Trong khi
ñó thực tế cho thấy tại trường ñại học Cần Thơ cũng như ña số các trường ñại học và
cao ñẳng khác, CVHT phải kiêm nhiều nhiệm vụ khác gần giống như giáo viên chủ
nhiệm ở trường phổ thông. ðiều này ít nhiều cũng gây ảnh hưởng ñến sự chuyên tâm
và hiệu quả của việc làm CVHT.
Trước hết, ñể làm tốt vai trò tư vấn về học tập thì bản thân người CVHT phải
luôn luôn quan tâm theo dõi ñể nắm vững các chủ trương, ñịnh hướng phát triển của
ngành ñược triển khai từ các cấp quản lý. ðặc biệt là ñã có và cũng sẽ có nhiều lần
cải cách giáo dục. Trong ñó, cải cách giáo dục bao gồm cải tiến nội dung chương
trình ñể cập nhật kiến thức khoa học mới; ñổi mới phương pháp giảng dạy và cải tiến
cả phương thức quản lý giáo dục.
Những năm gần ñây, do việc áp dụng học chế tín chỉ còn mới mẻ nên nảy sinh
rất nhiều vấn ñề trục trặc cần phải giải quyết mà việc giải quyết này mất khá nhiều
gian và gây không ít phiền hà cho CVHT và cả sinh viên. ðơn cử một vài thí dụ là:
- Sự cố kẹt mạng trong những ngày cao ñiểm của ñợt ñăng ký môn học, hậu quả là
sinh viên không ñăng ký ñược môn học theo ñúng thời gian qui ñịnh, phải làm ñơn từ
thủ tục xin cứu xét.
- Qui ñịnh ràng buộc là không ñược ñăng ký quá 20 tín chỉ trong 1 học kỳ, trong khi
học kỳ ñầu tiên trường áp ñặt sẵn chỉ có khoảng 10 tín chỉ, cộng với số tín chỉ không
ñạt phải học lại ở mỗi học kỳ, và do ñặc thù của một số ngành như sư phạm thì có 2
học kỳ không thể ñăng ký nhiều tín chỉ ñược, kết cuộc là sinh viên khó ñảm bảo tiến
ñộ học tập và ra trường ñúng thời gian qui ñịnh…
Ngoài ra, chương trình ñào tạo, số tín chỉ, mã số môn học, cách thức ñánh giá
kết quả học tập… luôn luôn thay ñổi; sự phân cấp trách nhiệm quản lý chưa rõ ràng,
thủ tục hành chính còn nhiều rườm rà, áp lực thi cử với mức ñộ khó của các môn học
ở các ngành khác nhau gây tâm lí chán nãn và bỏ học… Tất cả những ñiều này cũng
làm phát sinh thêm công thêm việc cho người làm công tác CVHT.
Thứ hai, ñể làm tốt công tác tư vấn nghiên cứu khoa học thì bản thân CVHT
cũng phải là người ñã từng trải và thường xuyên tham gia hoạt ñộng này. Công tác
này không phải là không có nhiều cơ hội nhưng trên thực tế ở nhiều ngành chưa phát
triển lắm vì nhiều lý do khác nhau (phương tiện, kinh phí, thời gian…). Do ñó có
nhiều trường hợp làm thì vẫn làm nhưng hiệu quả rất thấp. ðiều ñó dẫn ñến phong
Thứ ba là về công tác ñịnh hướng nghề nghiệp cho sinh viên. ðây cũng là một
công việc tương ñối khó khăn ở một số ngành. Một lý do khách quan là tùy ñặc ñiểm
nhu cầu thị trường lao ñộng của xã hội ở từng giai ñoạn cũng như hậu quả ñể lại của
việc hoạch ñịnh ñào tạo không phù hợp từ nhiều năm trước mà có ngành thì sinh viên
học xong dễ tìm việc làm, có ngành lại rất khó tìm việc và nạn thất nghiệp vẫn kéo
dài dài. Do ñó, CVHT ñòi hỏi phải là người có kiến thức, có tầm nhìn xa về chiến
lược ñể giúp các em ñịnh hướng thích nghi với thị trường lao ñộng. Ngoài ra còn có
lý do mang tính chủ quan là ñôi khi các em còn non trẻ nên có sự ngộ nhận về năng
lực và hay thay ñổi sở thích nghề nghiệp, lập trường quan ñiểm sống… Vì vậy
CVHT còn phải quan tâm sâu sắc ñể phát hiện chia sẻ, ñộng viên nhằm giúp sinh
viên ñịnh hướng ñúng mục tiêu học tập gắn với sở thích và khả năng của cá nhân, ñể
tránh sự “lầm lỡ” trong học tập và lựa chọn nghề nghiệp, rơi vào tình trạng hoang
mang, bỏ dỡ và “làm lại cuộc ñời”.
Với ba nhiệm vụ chính nêu trên vừa có thể gọi là nhiệm vụ trọng tâm, vừa có
coi là giới hạn vai trò của CVHT. Vì nếu vượt quá giới hạn này thì khối lượng công
việc kiêm nhiệm khá lớn, tất yếu ảnh hưởng ñến các công tác giảng dạy, nghiên cứu
và học tập nâng cao trình ñộ của người giảng viên. Do ñó, cũng trong một bài tham
luận, Thạc sĩ Trần Văn Hùng-Trường ñại học Duy Tân có ñề cập vấn ñề cần xác ñịnh
ñúng và rõ ràng vai trò, chức năng của cố vấn học tập trong việc ñào tạo theo học chế
tín chỉ như sau:
1-Tư vấn và ñịnh hướng quá trình học tập và lựa chọn nghề nghiệp của sinh viên
2-Giám sát quá trình học tập và lựa chọn nghề nghiệp của sinh viên
3-Tham mưu cho lãnh ñạo trường, khoa và bộ môn các vấn ñề liên quan ñến công tác
quản lý ñào tạo, nghiên cứu khoa học và ñào tạo theo nhu cầu xã hội.
Tự học của sinh viên ñược ñặt ra như một nhu cầu bức thiết ñể ñổi mới phương pháp
dạy học (PPDH), nâng cao chất lượng giáo dục và ñào tạo. Việc ñổi mới PPDH cần
cụ thể và thực chất với việc tự học của sinh viên. Nếu ñổi mới PPDH chỉ thiên về
người dạy với những sơ ñồ giáo án, hình thức, nội dung bài giảng, hoặc có quan tâm
ñến người học với những hình thức giáo ñiều như: giáo án ñiện tử, học trò làm trung
tâm,… mà không ñổi mới tận gốc, tận chính bản thân việc dạy và học hiện thời, tại
môi trường, ñối tượng, bài học cụ thể,.. thì khó có thể gây ra sự “ñột phá” nào trong
giảng dạy và học tập ở nhà trường. Làm sao ñề có cuộc “cách mạng” thực sự trong
học tập, nếu như người học không tự giác, tự học và người dạy không dạy (hoặc
không muốn, không biết) tự học.
Một trong những nội dung của ñổi mới phương pháp dạy học mà lâu nay người ta
hay nói nhiều là tạo ñiều kiện hay nói khác ñi là tạo ñộng lực cho người học “tính tự
học, tự nghiên cứu”. Nói thì vậy, nhưng tạo ñiều kiện ra sao và bằng phương pháp
nào mới là ñiều ñáng bàn. Phương pháp dạy mới là “dạy học giúp sinh viên phát hiện
và giải quyết vấn ñề”. ðây là phương pháp dạy học phi truyền thống, trong ñó giáo
viên tạo ra những tình huống có vấn ñề, ñiều khiển sinh viên phát hiện vấn ñề, hoạt
ñộng tự giác và tích cực giải quyết vấn ñề, thông qua ñó mà lĩnh hội tri thức, phát
triển kỹ năng. Có thể nói ñánh giá phương pháp tự học của sinh viên ta cần tập trung
vào 03 vấn ñề như sau:
1. Ýnghĩa của công tác kiểm tra ñánh giá nhận thức của sinh viên.
2. Các chỉ tiêu của công tác kiểm tra ñánh giá.
3. Các hình thức kiểm tra ñánh giá và mối quan hệ của các hình thức ñó.
Như vậy, ñổi mới phương pháp dạy-học là một yêu cầu khách quan của thực tế vừa
là ñộng lực phát triển, ñòi hỏi mỗi thầy giáo nhận thức sâu sắc ñược vai trò và trách
nhiệm tích cực tham gia vào quá trình ñổi mới ở ñại học, ñòi hỏi sinh viên phải thay
ñổi vai trò, cách học cho phù hợp. Phương pháp ñánh giá tự học sinh viên không
những là nghệ thuật mà còn là kinh nghiệm của người dạy. Nó cũng ñặt ra cho những
nhà quản lý những yêu cầu mới trong việc trang bị cơ sở vật chất ñáp ứng yêu cầu
dạy học, ñánh giá xếp loại sinh viên, giảng viên,… ðây là nghĩa vụ, trách nhiệm và
cũng chính là lương tâm của của mỗi người thầy trước những thử thách to lớn trong
công cuộc ñổi mới, hội nhập và phát triển của ñất nước.
Khác với bậc phổ thông, nhất là theo học chế tín chỉ, ñối
với sinh viên, nền móng tự chịu trách nhiệm các kết quả học
tập ngày càng cao. ðòi hỏi sinh viên phải chủ ñộng khai thác
tối ña tiềm năng tự cảm nhận bằng ý thức của mình trong việc
học. Sinh viên phải chuyển ñổi cách học từ tiếp thu thụ ñộng
sang cách học năng ñộng, tích cực.
Ảnh từ Internet ðây là giai ñoạn tiếp thu có ý thức. (Ý thức rõ ràng hơn)
Tuy nhiên, giai ñoạn tiếp thu có ý thức luôn xãy ra theo hai hướng tích
cực và ngược lại. Hướng thứ nhất, sinh viên chăm học, ñạt kết quả học tập tốt
hay các kỳ thi trong nước và quốc tế là ñáng trân trọng. Hướng thứ 2, ở ñây là
hướng sinh viên “mất hướng thú-chán học”. Thử tìm hiểu nguyên nhân và ñề
ra các giải pháp truyền một phần hứng thú, khơi dậy tiềm năng tự học.
3. Các nguyên nhân
3.1. Áp lực “làm thầy vẫn hơn làm thợ” (ñầu vào)
Do tác ñộng từ gia ñình: học nghề nào dễ kiếm nhiều tiền và tác ñộng của
xã hội: nào việc làm “hot”, nào lương bổng, và nào ñịa vị, nên học sinh ñều chỉ
muốn bước vào ngưỡng cửa ñại học. Phần lớn thí sinh ñạt ñược mục tiêu và
vào ngành “hot”, nhưng chưa hẳn phù hợp với khả năng thực của chính mình.
Khi ñến giảng ñường, số sinh viên này sẽ dễ hụt hẫng và chán học. Có sinh
viên tặc lưỡi “phải dè”, khi nhận ra mình là ai. Họ kỳ vọng, hướng ñến học
bằng 2, ngành 2 hay có những ngã rẽ khác. Họ không toàn tâm, toàn lực với
ngành ñang học.
3.2. Áp lực “ñời sống gia ñình và mặt bằng trình ñộ” (Quá trình)
(Nguồn: Internet)
3.4. Thiếu sự tương tác cần thiết trong lớp học (Quá trình)
Giảng viên hướng dẫn sinh viên cách học phương pháp học hướng việc
học của sinh viên ñến cá thể phát triển kỹ năng tự học.
3.4.1. Trò mất hứng thú-chán học (Quá trình)
3. Một số yêu cầu giảng dạy ở ñại học theo hệ tín chỉ
1) Giảng viên và sinh viên giao tiếp trong và ngoài lớp học;
Prepare-Organize Work
Rethink Evaluate
5. Tư vấn: khơi dậy tiềm năng tự học-Nội lực: Một kết quả khảo sát sơ bộ,
hiện nay có sinh viên tự học trung bình không quá
3G/tuần. So với dự tính học theo hệ tín chỉ sinh viên tự
học ít nhất 30 G/tuần. Như vậy sinh viên cần phải xem lại
quỹ thời gian của minh dành cho việc tự học.
Mục 3. và 4. (một trong nhưng gợi ý) ở trên cho thấy
ñều ñòi hỏi sinh viên phải nhận thức vận dụng tiềm năng tự học-nội lực và làm
việc một cách có khoa học. ðể thực hiện, sinh viên nhận biết “mình” là ai, khả
năng thế nào và phải làm việc như ra sao? Công tác tư vấn cần tăng cường hơn.
Sinh viên nhận thức ñược ñộng cơ bên trong (intrinsic motivation) cho
việc học tập, nó xuất phát từ bên trong của mỗi cá nhân, nó bắt nguồn từ khao
khát học ñến say mê học (tự học). Vì “Khao khát là nguồn gốc của mọi thành
công”. Sinh viên tự ñặt và trả lời các câu hỏi cho sư khao khát học tập của
mình. Từ ñó sinh viên kết hợp hài hòa với các ñộng cơ bên ngoài (extrinsic
motivation) tích cực (từ thầy, bạn, …).
6. ðánh giá năng lực của sinh viên/người lao ñộng: Kiến thức, Kỹ năng,
và thái ñộ (cả quá trình dựa qui ñịnh, qui chế và các tiêu chuẩn ñang áp dụng).
Luật Giáo dục Việt Nam sửa ñổi năm 2005 viết: "Về chương trình giáo dục:
ñối với giáo dục nghề nghiệp, giáo dục ñại học có thể ñược tiến hành theo hình thức
tích luỹ tín chỉ hay theo niên chế". Nghị quyết của Chính phủ số 14/2005/NQ-CP
ngày 02/11/2005 về ñổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục ñại học Việt Nam giai
ñoạn 2006-2020 cũng có nêu: "Xây dựng và thực hiện lộ trình chuyển sang chế ñộ
ñào tạo theo hệ thống tín chỉ, tạo ñiều kiện thuận lợi ñể người học tích luỹ kiến thức,
chuyển ñổi ngành nghề, liên thông, chuyển tiếp tới các cấp học tiếp theo ở trong
nước và ở nước ngoài". Thực hiện lộ trình ñó, từ năm 2007, trường ðại học Cần Thơ
ñã chuyển ñổi hình thức ñào tạo từ niên chế sang ñào tạo theo học chế tín chỉ, hình
thức ñào tạo mà người học không phải học những gì ở người thầy có mà học những
gì họ cần. ðặc ñiểm của học chế tín chỉ là sinh viên ñược chủ ñộng tự chọn ñăng ký
môn học theo cấu trúc trương trình ñào tạo theo kế hoạch học tập, nhu cầu của mình.
Học chế tín chỉ là quy trình ñào tạo trao quyền chủ ñộng cho người học, tạo cơ hội
cho người học tự quyết ñịnh về tiến ñộ và tốc ñộ tích lũy của mình.
Sau 3 năm thực hiện, “bộ máy” tổ chức việc học tập theo học chế tín chỉ ñã
dần hoàn thiện, sinh viên cũng tiếp cận ñược với hình thức ñào tạo năng ñộng này.
Tuy nhiên, còn vấn ñề cần phải tiếp tục trao ñổi là việc sử dụng thời gian tự học theo
tỷ lệ 30 giờ tự học/ 1 tín chỉ của sinh viên.
Nhận thức tầm quan trọng thời gian tự học của sinh viên khoa quản lý học
phần, trên cơ sở thực tiễn ñã có những biện pháp tích cực:
- Tổ chức hội thảo khoa học về việc giảng dạy và học tập theo chế ñộ tín chỉ
nhằm thay ñổi phương pháp giảng dạy, thay ñổi cách thức ñánh giá ñể nâng cao tính
tự học của sinh viên.
- ðầu tư và thường xuyên cập nhật nguồn tài liệu thư viện khoa.
- Tạo ñiều kiện thuận lợi nhất cho sinh viên tham khảo, nghiên cứu tài liệu.
Tuy nhiên, vẫn có những yếu tố khách quan gây khó khăn cho việc nâng cao
tính tự học của sinh viên:
Viện NC PT ðBSCL
Trường ðại học Cần Thơ bắt ñầu học chế tín chỉ từ học kỳ II năm học 2007-
2008. Trải qua gần ba năm thực hiện, học chế tín chỉ ñang ñược giảng viên và sinh
viên của Trường chấp nhận như một tất yếu cho sự phát triển của nền giáo dục toàn
diện. Thực hiện học chế tín chỉ có nghĩa là chúng ta ñang ñi ñúng với giáo dục ñại
học: sinh viên tự học, tự nghiên cứu, giảm sự nhồi nhét kiến thức của giảng viên, và
do ñó phát huy ñược tính chủ ñộng, sáng tạo của người học.
Trong phương thức ñào tạo theo tín chỉ, tự học ñược xem như một thành phần
hợp pháp trong cơ cấu giờ học của sinh viên, là một trong ba kiểu giờ tín chỉ: giờ tín
chỉ lên lớp, giờ tín chỉ thực hành và giờ tín chỉ tự học. Nội dung tự học ñưa vào bài
kiểm tra và bài thi. ðể hoàn thành 1 tín chỉ sinh viên cần có 30 tiết tự chuẩn bị và tự
học. Câu hỏi ñặt ra là sinh viên tổ chức như thế nào và học những gì trong thời lượng
30 tiết ñó ñể ñạt ñược hiệu quả tốt khi kết thúc học phần?
Trong thời gian vừa qua, các hình thức tự học của sinh viên trường ðại học
Cần Thơ ñược biết ñến như học nhóm, học qua mạng, tự học ở nhà, ñi thực tế…Sinh
viên nghiên cứu khoa học và Luận văn tốt nghiệp cũng là một hình thức tự học. ða
số sinh viên ñã có ñáp ứng tốt với học chế tín chỉ và ñạt ñược những kết quả nhất
ñịnh. Sinh viên PTNT nói riêng cũng ñã hòa mình vào xu thế chung với sự hỗ trợ ñắc
lực của ñội ngũ cán bộ giảng viên Viện NC Phát triển ðBSCL.
Một số kết quả ñạt ñược trong học tập của sinh viên PTNT
- Khóa 32 tốt nghiệp ñạt 37,68 % loại xuất sắc-giỏi, 62,32 % loại khá, không có
loại trung bình.
- Kết quả thực hiện học phần Luận văn và Tiểu luận tốt nghiệp ñạt 93% loại
giỏi và 7% loại khá, không có loại trung bình và yếu kém.
- Kết quả học tập các khóa 33, 34, 35 ñạt kết quả rất khả quan, ñiểm tích lũy
của các em có chiều hướng tăng dần theo từng học kỳ. Thống kê tháng
10/2010 cho thấy ñiểm trung bình tích lũy sinh viên ngành PTNT ñạt 3,28 %
loại xuất sắc, 27,05 % loại giỏi, 62,70% loại khá, 6,56% loại trung bình.
Không có sinh viên bị ñuối sức trong học tập, ngoại trừ sinh viên ham chơi,
bỏ học.
- Hầu hết sinh viên ñều hoàn thành tốt những sản phẩm học phần như bài tập về
nhà, bài báo cáo, seminar,…
1. ðặt vấn ñề
Thực hiện chủ trương của Bộ Giáo dục và ðào tạo, từ năm học 2007-2008,
Trường ðại học Cần Thơ (ðHCT) ñã chuyển ñổi sang học chế tín chỉ. Những thành
công bước ñầu tại Trường ñã cho thấy việc chuyển ñổi này là chủ trương ñúng, phù
hợp với xu thế phát triển của thời ñại, tạo ñiều kiện cho giáo dục Việt Nam hội nhập
với nền giáo dục thế giới.
Tuy nhiên, sự thay chuyển ñổi từ ñơn vị học trình sang tín chỉ, số giờ giảng dạy
trên lớp giảm ñáng kể nhưng nội dung kiến thức không thay ñổi, ñã ñặt ra yêu cầu cán
bộ giảng dạy (CBGD) phải thay ñổi phương pháp giảng dạy (PPGD), ñặc biệt là ứng
dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong giảng dạy. ðối với sinh viên cũng cần thích
ứng với cách ñào tạo mới này.
Chỉ thị 55/2008/CT- BGDðT ban hành ngày 30 tháng 9 năm 2008 "Về tăng
cường giảng dạy, ñào tạo và ứng dụng CNTT trong ngành giáo dục giai ñoạn 2008-
2012" ñã yêu cầu ñẩy mạnh một cách hợp lý việc triển khai ứng dụng CNTT trong ñổi
mới phương pháp dạy và học, trong ñó nhấn mạnh phát huy tính tích cực tự học, tự tìm
tòi thông tin của người học; tạo ñiều kiện ñể người học có thể học ở mọi nơi, mọi lúc,
tìm ñược nội dung học phù hợp. Chỉ thị cũng yêu cầu triển khai mạnh mẽ e-learning;
tổ chức cho giáo viên, giảng viên soạn bài giảng ñiện tử e-learning trực tuyến; tổ chức
các khoá học trên mạng, tăng tính mềm dẻo trong việc lựa chọn cơ hội học tập cho
người học.
ðối với Trường ðHCT, trong thời gian qua khi áp dụng ñào tạo theo học chế
tín chỉ, Trường ñã có chú ý ñến việc ứng dụng CNTT trong dạy và học. Trong báo
chính trị, phần ñánh giá tình hình thực hiện nghị quyết ðại hội ñại biểu ðảng bộ lần
thứ IX, nhiệm kỳ 2005-2010 nêu rõ "Cải tiến phương pháp giảng dạy và học tập,
CBGD ñã áp dụng nhiều phương pháp dạy học khác nhau tùy theo học phần: phương
pháp nêu vấn ñề, phương pháp hợp tác giao tiếp, phương pháp tình huống thông qua
thảo luận nhóm, PPGD thông qua nghiên cứu, phương pháp e-learning. Số lượng sinh
viên ñến ñọc sách tại các thư viện, truy cập thông tin tại các phòng máy tính có kết nối
mạng Internet ngày càng tăng cho thấy tinh thần tự học, chủ ñộng của sinh viên ngày
càng cao. Hiện nay, có 1.131 học phần (chiếm 65,5 %) ứng dụng CNTT trong giảng
dạy".
Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể, chúng ta chưa phát huy tối ña cơ sở vật chất,
nguồn lực và ñiều kiện sẵn có ñể có thể ñẩy mạnh công tác ñổi mới PPGD theo học
chế tín chỉ, chưa có chính sách khuyến khích việc ứng dụng CNTT trong công tác dạy
và học, ñặc biệt là ứng dụng e-learning trong khi ñây là thế mạnh của Trường qua
nhiều năm hợp tác quốc tế về lĩnh vực này.
Dokeos
Bảng 1: Thống kê việc tham gia học tập của sinh viên, học phần Thương mại ñiện tử,
học kỳ 1, năm học 2010-2011
3.2. Công tác ñào tạo, tập huấn hệ thống e-learning cho CBGD
Tổ chức các lớp tập huấn thường xuyên cho CBGD có nhu cầu ứng dụng e-
learning vào công tác giảng dạy cho môn học do mình phụ trách. ðể làm tốt ñược ñiều
này, Trường cần dành một phần kinh phí nhiệm vụ công nghệ thông tin hàng năm cho
1. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành ðảng bộ Trường ðHCT tại ñại hội ñại
biểu lần thứ X nhiệm kỳ 2010-2015
2. Báo cáo Bộ Giáo dục và ðào tạo về tình hình hoạt ñộng của Trường trong ba
năm (2006-2008) - Trường ðHCT
3. Chỉ thị 55/2008/CT- BGDðT "Về tăng cường giảng dạy, ñào tạo và ứng dụng
công nghệ thông tin trong ngành giáo dục giai ñoạn 2008-2012" - Bộ Giáo
dục và ðào tạo
4. Các số liệu thống kê từ hệ thống e-learning của Trường ðHCT:
http://lms.ctu.edu.vn/
1. Một vài ñánh giá về thực trạng tự học của Sinh viên hiện nay
- ða số sv không chuẩn bị ñủ 2t
- SV muốn tự học nhưng ñôi khi bế tắc khi gặp những vñ mới
- ða số sv tích cực tự giác tự học, một số sv thỉnh thoảng nghỉ học trên lớp chưa
chuẩn bị bài trước ở nhà, một số còn thụ ñộng
- SV không chuẩn bị bài, bài tập trước ở nhà theo yêu cầu của GV, nghỉ học quá
nhiều, khi có kt mới ñi học
- Tinh thần tự học tự giác nghiên cứu rất hạn chế
- Rất yếu, sv ít khi tự học, thường ñến thi mới học
- Ý thức còn kém
- SV chưa tích cực tự học, chưa hoàn thành tốt các nhiệm vụ về nhà
- Thói quen tự học chưa cao, phải nhắc nhở, ñộng lực học tập chưa ñược thường
xuyên
- Sv không thực hiện ñủ tg tự học theo quy ñịnh
- SV dùng tg tự học ñể học thêm ngành 2, làm thêm, học ngoại ngữ, tin học,…
- Khả năng tự học sv ngày nay thua cả sv khi còn học chế ñộ ñơn vị học trình
Bộ môn Giáo dục Thể chất xin báo cáo lại theo thống kê tình hình 2 giờ tự
học của sinh viên, như sau: