Professional Documents
Culture Documents
Bảng 3.5. Lượng chất thải và thể tích nước thải tính cho 1 đưon vị
nguyên liệu.
Bảng 3.6. Tổng lượng chất thải (kể cả các nguồn khác) sau thiết bị
tách API.
Bảng 3.7. Tổng lượng chất thải (kể cả các nguồn khác) sau thiết bị
tách API tính cho 1 thùng dầu.
Bảng 3.8. Tổng lượng chất thải của các quá trình xử lí.
Bảng 3.9. Dự đoán lượng nước thải và lượng chất thải tính theo 1
đơn vị sản phẩm.
Dưới đây là lượng các chất ô nhiễm chủ yếu trong một số dòng
thải lọc dầu.
1) Nước thải loại muối( Nước thải từ quá trình loại muối)
Dòng thải này trong các nhà máy lọc dầu có thể chiếmkhoảng
5,7% thể tích dầu thô được chế biến(từ 3.2-8.7%). Nồng độ các
chất ô nhiễm của một số nhà máy lọc dầu như sau:
+ Các sunphua: từ 0-13mg/l, trung bình 4.3mg/l, khoảng
0.25kg/tấn dầu thô.
+ Các phenol:’’10-24’’’15 ‘ ‘ ‘ 0.9
+ Dâu : 20-516’’’169’’’10.0
+ BOD : 68-610 256 15
+ COD(4h,KmnO4) 124-470 ‘’291’’17
+ pH: 7.2-9.1 ‘’’’’’’’ 8.2
2) Nước ngưng tụ chuatừ hơi nước bị ngưng tụ trong chưng
cất và cracking). Nồng độ các chất ô nhiễm của một số nhà
máy lọc dầu như sau:
+ H2S: từ 300-11000mg/l, trung bình 4200mg/l.
+ NH3 100----7000 3100
+ Các phenol 100-1000 420
+ pH 7.5-9.5 8.5
3) Nước ngưng tụ chứa phenol từ các quá trình cracking: với
một sốnhầmý lọc dầu, nồng độ các chất ô nhiễm như sau:
+ Các sunphua: từ 40-15600mg/l, trung bình 4500mg/l
+ Các phenol: 15-1400 350
+ NH3; 86-6975 2000
+ Dầu 3-100
+ BOD 120-3040
Chú ý rằng, các giá trị nồng độ này chỉ tương ứng với một số nhà
máy lọc dầu. Tuy nhiên, với các nhà máy lọc dầu nói chung thì đây
đều là những thông số quan tâm trong xử lí nước thải. Ngoài ra,
người ta còn quan tâm đến lượng chất rắn lơ lửng, hàm lượng các
kim loại nặng..
i- Sơ đồ thu gom nước thải để xử lí
Sơ đồ chỉ gồm một số phân xưởng cơ bản có thải nước, các quá
trình khác có thải nước cũng có thể bổ sung vào sơ đồ này.
k- Xử lí nước thải lọc dầu ngay tại nguồn thải.
Phân tách các chất thải lỏng chứa hoá chất và các chất có mùi ngay
tại nguồn thải chúng để xử lí trước khi thải nước vào hệ thống thu
gom nước thải lọc dầu được cho là biện pháp kinh tế và hiệu quả
nhất để giảm thiểu các hoá chất và các chất có mủi. Phân xưởng
nào là nguồn gốc của các chất thải phải được nghiên cứu để có
những sự thay đổi cần thiết có thể trong quá trình hoạt động nhằm
giảm các chất thải. Trong một số trwongf hợp, nước thải từ một
quá trình xử lí có thể được dùng để xử lí nước thải từ các nguồn
khác. Các dòng thải chính có thể được xử lí riêng biệt là: các dòng
chứa nhũ tương dầu trong nước, nước chứa lưu huỳnh, cặn bùn axit
và nước thải có tính kiềm đã sử dụng.
Để đánh giá tổng thể về tính hiệu quả của các hoạt động xử lí tại
nhà máy trong việc giảm ô nhiễm nước thải cần có các thông tin
chi tiết về các lưu lượng nước thải, và nồng độ các chất ô nhiễm từ
tất cả các phân xưởng chế biến lọc dầu và các phân xưởng phụ trợ.
với các thông tin như vậy có thể xác định được các ảnh hưởng ô
nhiễm thay thế của phân xưởng này chứ không phải của phân
xưởng kia hoặc phải cải thiện hoạt động chung của toàn nhà máy
hay là các công việc quản lý.
Cải thiện hoạt động chung của toàn nhà máy và các công việc quản
lý sẽ giảm lượng chất thải nhiều hơn so với chỉ thay đổi các quá
trình sản xuất. Dùng các công nghệ tiên tiến sẽ giảm được đáng kể
lượng nước thải.
Các phương pháp đều khiển xử lí tại nhà máy quan trọng bao gồm
các quá trình tách và thu hồi, trung hoà và oxi hoá kiềm đã sử
dụng, xử lí nước cứng và kiểm soát nhiệt độ.
2.2.2. Nước thải hoá dầu
a- Các dòng nước thải chủ yếu
Trong các nhà máy hoá dầu, nước thải từ các quá trình khác nhau
được phân tách và thu hồi trong các hệthống cống rãnh riêng biệt
nghĩa là qua hệ thống nước thải, các kênh nước mưa và các cống
nước thải sinh hoạt. Các dòng nước thải thường gặp trong
nhầmýhoá dầu bao gồm:
1) Nước thải chứa dầu bao gồm nước thải riêng biệt từ các nhà
máy sản xuất hợp chất thơm (thơm hoá AP), nhà máy sản
xuất olephin(OP), etylglylcol(EG), vinylclorua(VC)…..
2) Nước thải xử lí từ các quá trình alkyl hoá benzen chứa florua
3) Nước chua đã sử dụng chứa sunphua từ các nhà máy sản xuất
olephin
4) Nước thải xử lí từ phân xưởng polypropylen chứa bột polỵme
và các kim loại nặng
5) Các dòng xyanua loãng hay đặc từ các nhà máy sản xuất
acrynitril, sợi acrylic và acrylat.
6) Nước thải xử lí chứa vụn cao su từ nhầmý cao su
polybutandien
7) Nước mưa bị ô nhiễm nặng từ các phân xưởng xử lí, phụ trợ
hay các khu vực bốc dỡ.
8) Nước thải từ các tháp làm mát
9) Nước thải sinh hoạt
b- Các đặc tính cơ bản của nước thải
Nước thải từ các quá trình nêu trên có đặc tính riêng tuỳ thuộc vào
quá trình và công nghệ xử lí. Một số thông số có trong nước thải
hoá dầu được cho trong bảng sau:
Bảng 3.10. Đặc tính nước thải từ nhà máy hoá dầu.
+ Quy định BPT: công nghệ kiểm soát khả thi nhất sẵn có , cho tất
cả các chất ô nhiễm.
+ Quy định BAT: công nghệ sẵn có nhất có thể thực hiện đạt hiệu
quả kinhtế, bao gồm sunphat, phenol, COD, NH3, crôm tổng và
crom(IV).
+ Quy định BCT: công nghệ kiểm soát ô nhiễm phổ biến nhất, bao
gồm tổng chất rắn lơ lửng (TSS), dầu và pH
+ Quy định NSPS: tiêu chuẩn thực hiện cho các nguồn mới
Dưới đây là một số tiêu chuẩn nước thải lọc dầu.
Bảng 3.12: Tiêu chuẩn nước thải lọc dầu của Ấn Độ và quốc tế
Bảng 3.13. So sánh tiêu chuẩn Ấn Độ(MINAS) và quy định NSPS
Nước thải của các nhà máy lọc dầu cần đáp ứng các tiêu chuẫn đã
được đặt ra, không hcỉ theo các tiêu chuẩn quốc gia mà còn theo
các tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Các nhà máy lọc dầu mới xây
dựng càng phải đảm bảo các tiêu chuẩn nước thải và phải căn cứ
vào các tiêu chuẩn khắt khe nhất.
Nước mưa bão chứa chất bẩn thải ra nế được xử lí riêng biệt với
nước thải sản xuất sẽ có các tiêu chuẩn sau:
+ Dầu và mỡ: 1.5mg/l, max
+ Tổng cacbon hữu cơ: 110mg/l, max
3.2. Phương pháp xử lí nước thải lọc dầu
3.2.1. Phương pháp xử lí
a- Phân loại
Có nhiều cách phân loại các phương pháp xử lí khác nhau nhưng
người ta thường phân chia theo đặc tính vả theo cấp xử lí
+ Theo đặc tính: có các kiểu xử lí như cơ, hoá, sinh học
+ Theo cấp xử lí: có thể chia thành 3 cấp xử lí để loại bỏ các chất ô
nhiễm trong nước thải lọc dầu đó là:
- Xử lí cấp I: như các phương pháp phân tách trọng lực
- Xử li cấp II: như các phương pháp trung hoà, đông tụ và
lắng hoá học, sục khí hoà tan
- Xử lí cấp III: dùng các phương pháp hoá, lí và sinh học như
bể khí hoá bùn hoạt tính, màng lọc(thết bị lọc, giọt, oxi hoá, tháp
làm mát…)
b- Các phương pháp xử lí
Để thuận tiện cho việc nghiên cứu, các phương pháp xử lí được
chia thành 5 kiểu có đặc điểm chúng: vật lí, hoá học, sinh học, cấp
III và xử lí tại nhà máy.
B1- Phương pháp vật lí(xử lí vật lí)
Nước thải lọc dầu có thể chứa các chất rắn thô, nổi hay lơ lửng,
dầu mỡ…Chúng cần được loại bỏ trước khi xử lí hoá học và sinh
học. Các quá trình cơ bản, phổ5 biến trong xử lí vật lí là
thành(lưới) chắn, lọc sạn, bẫy dầu mỡ, kết bông(tủa bông), lắng,
lọc nổi(tuyển nổi), kết tuẩ không dùng chất hoá học, thêm bùn hoạt
tính hay chất pha chế.. Phương pháp xử lí này cơ bản loại bỏ các
vật liệu trơ có thể gây cản trở các xử lí tiếp theo
+ Thanh(lưới) chắn: Mục đích của lưới chắn là loại bỏ các vật liệu
nổi có kích thước lớn cũng như tránh sự bám dính trong thiết bị lọc
và gây cản trở quá trình khí hoá trong bùn hoạt tính. Chúng có thể
làm sạch bằng tay hay thiết bị cơ học. Khi làm sạch bằng tay thì
vận tốc giới hạn của dòng là khoảng 0.45m/giây
+ Bể lọc sạn: Bể lọc sạn để loạ bỏ các loại sạn như cát, sỏi… có
trọng lượng riêng lớn hơn vật liệu hữu cơ lơ lửng. Mục đích của
việc này là bảo vệ các thiết bị cơ học và tránh lắng đọng trong
đường ống. Hai kiểu bể lọc sạ thwowngf dùng là bể lọc sạn dòng
chảy ngang và bể lọc sạn khí hoá
+ Lắng cấp I: Mục đích là lgiảm hàm lượng chất rắn lơ lửng có thể
lắng được trong nước thải. Tại đây, nước thải được để yên tĩnh, các
hạt có trọng lượng riêng lớn hơn nước thải sẽ lắng xuống và
những chất có trọng lượng riêng nhỏ hơn sẽ nổi lên trê. Khoảng
50-60% chất rắn lơ lửng và khoảng 20-40% BOD(ở 20oC) có thể
được loại bỏ tại bể lắng được thiết kế phù hợp. Thời gian lưu lại
phổ biến là 90-150phút khi lưu lượng dòng chảy trung bình. Trong
1 ngày, 1m3 bể lắng có thể xử lí 20-40m3 nước thải
+ Phân tách dầu: Trong nước, dầu có thẻ tồn tại ở dạng tự do hay
nhũ tương. Cần loại bỏ dầu tự do trước khi phá nhũ tương dầu
nước. Người ta thường cố gắng để dầu tự do nổi trong các bể được
thiết kế phù hợp và sau đó nó được hớt bằng tay hay đĩa quay. Vận
tốc năng giọt dầu đượctính theo định luật Stoke. Có thể dùng nhiều
loại thiết bị phân tách dầu khác nhau như thết bị tách API, CPI,
DAF, TPS. Các thiết bị tách trọng lực được thiết kế cơ bản để loại
bỏ dầu nổi và các chất rắn lắng được. Hiệu quả loại bỏ dầu có thể
tách đựoc là 50-90% và các chất rắn lơ lửng là 10-85%. Các thết bị
tách trọng lực cũng loại bỏ được BOD, COD và phenol. Các loại
bỏ này là khá lớn(40-50%) tuỳ thuộc vào đặc tính nước thải.
Phenol có khả năng hoà tan trong dầu và như vậy có thể chíêt được
từ nước thải và loại bỏ cùn với dầu nhờ thiết bị tách.
Hiệu quả loại bỏ dầu của các thiết bị tách trọng lực chj ảnh hưởng
lớn bởi việc quản lí nước thải tại nhà máy cũng như bởi việc thiết
kế và vận hành của bản thân thiết bị tách. Phàn lớn dầu có thể tách
đựoc trong hệ thống nước thải có thể được laọi bỏ với hiệu sấut
cao nhờ thiết bị tách trọng lực này nhưng chất lượng dòng ra(thay
đổi từ 20-150mgdầu/l) sẽ tốt hơn nhiềunếu kiểm soát tại nguồn thải
có hiệu quả vì kiểm soát tại nguồn thải là biện pháp để tối thiểu
hoá lượng dầu vào hệ thống cống rãnh ở vị trí đầu tiên. Hơn nữa,
dầu ở dạng nhũ tương và đặc biệt dầu bao phủ lên chất rắn là rất
khó loại bỏ bằng các thiết bị tách trọng lực.
Thiết bị tách API có thể làm việc bình thường mà không cần dùng
một hoá chát, chất đông tụ hay chất trợ gúp nào. Dầu và mỡ được
tách tử thiết bị này chính là dầu ưu sẽ được thu hồi và tái sử dụng
trong lọc dầu. Gần đây, các thiết bị tách đĩa mái ngói (TPS) hoặc
các thiết bị phân tách đĩa nhã cũng được dùng để tách dầu tự do ra
khỏi nước thải. TPS hoạt động tốt hơn các thiết bị tách trọng lực vì
nó giảm quãng nâng của các giọit dầu trước khi tiến đến bề mặt mà
ở đó chúng kết hợp là thành lớp dầu tự do và được hớt ra.
Các thiết bị tách trọng lực là các phòng hình vuông được trang bị
các thiết bị cạo bùn và hớt dầu và thiết kế của thết bị dựa vào việc
loại bỏ các giọt dầu đường kính0.015 cm hay lớn hơn. Hiệu quả
loại bỏ dầu loà khoảng 98%
Nhũ tương đựoc coi là hỗn hợp của hai chất lỏng không hoà tan
vào nhau, một trong hai chất lỏng phân tán trong chất lỏng còn lại
ở dạng các giọt lỏng. Trong nước thải lọc dầu chứa cả hai loại nhũ
tương dầu trong nước và nước trong dầu. Các tác nhân pháp nhũ
thường hấp phụ lên trên bề mặt của các hạt nhũ tương làm giảm độ
bền của nũ tương. Các tác nhân đó là xà phòng, muối sunphat, axit
sunphonic và axit naphtenic, hợp chất amon dạng tứ diện, ete và
các este hữu cơ.
Người ta thường dùng công nghệ sục khí hoà tan(DAF) để loại bỏ
dầu nhũ twong. Công nghệ này có thể được dùng riêng biệt hay kết
hợp với quá trình đông tụ. Sự kết hợp này có thể loại bỏ 97% dầu,
75% chất rứan lơ lửng, giảm 80% BOD và COD. Sự giảm này thay
đổi theo đặc tính của dòng thải.
Cơ chế cơ bản mà nhờ đó nhũ tương dầu trong nước bị phá bao là
sự trung hoà điện tíchcủa giọt dầu bằng cách tạ ra hạt kết tủa keo
tụ, mục đích này có thể đạt được bằng cách điều chỉnh pH từ 5-6
rồi sau đso kết tủa các chất phá nhũ như axit sunphonic, axit
naphtenic bằng cáhc thêm vôi tôi (Ca(OH)2 cho đến khi đạt pH từ
7.5-8.5
Cũng có thể dùng các chất điện phân cation để phá nhũ của dầu.
Nó có ưu thế so với các phương pháp truềyn thống. Chất hấp phụ
polypropylen cũng có thể dùng để phá nhũ. Chất hấp phụ này là
chất ưa dầu, kị nước. Khi đi quá nước thải nó sẽ hấp phụ dầu lên
trên bề mặt của nó
Các chất đông tj khác như sunphat sắt III , sunphát sắt II, clorua
canxi, cacbonat canxi và vôi tôi đã được dùng để phá nhũ trong các
thaiết bị tách dầu. Một loại chất đông tụ có thể có hiệu qủ cho nhà
máy lọc dầu này nhưng có thể không có hiệu quả đối với nhà máy
lọc dầu khác. Do vậy, phải căn cứ vào thực tế nhà máy để chọn
chất đông tụ. Các hạt kết tủa keo tụ được tạo ra trong quá trình xử
lí như vậy hấp phụ phần lớn dầu và tuỳ thuộc vào nồng độ dầu ban
đầu. Sau khi xử lí, dòng thải có thể chứa hàm lượng dầu khoảng
10mg/l hoặc thậm chí thấp hơn
Xử lí nước thải lọc dầu bằng quá tình bay hơi bị giới hạn khắt khe
bởi vị trí địa lý, khí hậu và khả năng đất đai. Đây rõ ràng là
phương pháp hấp dẫn ở những nơi các quy tắc dòng thải cho phép
Tuyển nổi không có hoá chất, giống như quá trình bay hơi, không
được sử dụng rộng rãi trong xử lí nước thải lọc dầu. Nhìn chung,
có thể so sánh nó với thiết bị tách trọng lực nhưng nó loại bỏ dầu
tốt hơn. Hơn nữa, một lượng các hợp chất sunphua sẽ được oxi hoá
nhờ oxi hoà tan của không khí
Thỉnh thoảng, cũng cần tách NH3 nếu pH có tính kiềm, có thể bằng
phương pháp sục khí. Hấp phụ bằng cacbon được dùng để làm
giảm các chất hữu cơ. Thẩm thấu ngược cũng có thể dùng để loại
bỏ các chất hữu cơ và vô cơ.
B2) Phương pháp hoá học
Sau khi loại bỏ sạn và các chất trôi nổi thì tiến hành loại bỏ các
chất hữu cơ hoà tan và lơ lửng. Các quá trình và biện pháp quan
trọng liên quan đến xử lí hoá học bao gồm đông tụ, kết bông, lắng
hoá học, tuyển nổi có thêm hoá chất…
+ Đông tụ, kết bông và lăng hoá học: quá trình sục khí hoà tan có
và không có quá trình kết bông được dùng để xử lí nwocs thải có
hàm lượng dầu thấp. Với điều kiện phù hợp, quá trình sục khí có
thể giảm lượng dầu xuống còn thấp hơn 10mg/l khi dùng các chất
đông tụ và các chát trợ đông tụ. Tuy nhiên, quá tình sục khí hoà tan
yêu cầu nhiều kỹ năng. Sự giám sát thường xuyên và tiêuthụ năng
lượng nhiều hơn so với các thiết bị tách trọng lực. Do vậy nó ít
được dùng hơn
Hiệu qủ loại bỏ chất ô nhiễm của các phương pháp đông tụ, lắng
và tuyển nổi có dùng hoá chất được đánh giá là có mức độ ngang
nhau. Các phương pháp hoá học có hiệu quả hơn các thiết bị tách
trọng lực, đặc biệt khi loại bỏ dầu nhũ tương. Ngoài ra, phơng
pháp đông tụ hoá học có thẻ loạih bỏ nhiều BOD hơn so với tuyển
nổi bằng không khí không có hoá chất. Tuyển nổi không khs hoá
học loại bỏ được một phần sunphua hoà tan do chúng bị oxi hoá và
amoniac đựoc tách ra do không khí.
Sunphat nhôm, vôi, sunphat sắt khiđược dùng có thể cho kết quả
tốt hơn so với trường hợp chỉ dủng lắng đơn giản. Trong điều kiện
thuận lợi có thể giảm 90% các chất lơ lửng. Xử lí hoá học được
quan tâm nhiều hơn vì.
- Có sự giảm về chi phí hoá chất( hoá chất rẻ hơn)
- Ngày càng hiểu cơ chế đông tụ rõ hơn
- Nó cải thiện các quá trình xử lí bùn
Khi sử dụng các biện pháp này cần phải quan tâm đến thời gian ổn
định, vân tốc lắng, cơ chế, khuấy trôn, khoảng pH tối ưu..;
+ Kết tủa sunphua: Hydroxyt natri(NaOH) khi được dùng đẻ loại
bỏ các hợp chất lưu huỳnh và phenol có thể tạo ra sunphua natri và
các sản phẩm khác theo một số phản ứng sau. (gõ phán ứng vao)
Nếu nước kiềm đã sử dụng thải ra từ quá trình rửa xăng cracking
bằng kiềm thì nó sẽ chứa một ít sunphua natri Na2S và các hợp
chất lưu huỳnh mà chủ yếu là mecaptan và thiophenol. Trong một
số nhà máy lọc dầu lượng nước kiềm thải ra chứa nồng độ sunphua
rất cao thì dùng muối sắt để kết tủa các hợp chất sunphua được coi
là phương pháp hiệu quả và kinh tế hơn so với dùng phương pháp
trung hoà sau khi tách bằng không khí hay hơi nước. Phương pháp
kết tủa sunphua đặc biệt tác dụng đối với nước thải chứa các hợp
chất sunphua và mecaptan vì sau đó sunphua sắt cũng kết tủa (viết
công thức)
Nếu dùng clo và sunphat sắt III thì sẽ hiệu quả hơn. Các phản ứng
thực hiện tối ưu trong khoảng pH có tính kiềm
+ Lọc hoá học: loại bỏ các chất lơ lửng còn lại. Phương pháp này
có thể đi kèm hoặc không có đông tụ hoá học
+ Tách khí hoá học(hấp thụ hoá học): loại bỏ các hợp chất amon và
H2S
+ Trao đổi ion: loại bỏ photphat, nitơ và chất rắn hoà ban
B3) Phương pháp sinh học
Xử lí sinh học là biện pháp cơ bản cấp I để loại bỏ các chất ô
nhiễm như phenol, cặn sunphuavà BOD. Nó cũng được dùng để
loại bỏ dầu không thu hồi được trong xử lí cấp II. Các mầm vi
khuẩn và các chất dinh dưỡng trong nước thải có dầu sẽ thúc đẩy
quát trình phân huỷ sinh học miễn là có đủ oxi hoà tan và thời gian
cần thiết
Các phương pháp sinh học được dùnh để xử lí nước thải lọc dầu
bao gồm bùn hoạt tính, thiết bị lọc giọt, hồ sực khí và hồ oxi hoá.
Tất cả các phưoơg pháp sinh học này đều yêu cầu loại bỏ dầu trước
khi sử dụng
Trong hệ thống xử lí sinh học chỉ có một mối quan hệ duy nhất và
quan trọng giữa amoniac và BOD trong nước thải. Các tổ chức hữu
cơ phát triển để oxi hoá các chất hữu có cần khoảng 5 kg NH3 và 1
kg photpho cho mỗi 100 kg BOD loại bỏ. Các chất dinh dưỡng này
có thể không phải thêm vào hệ thống xử lí lọc dầu vì gần như luôn
có đủ amoniac và photpho có mặt trong nước thải.
Tính axit hoặc tính kiềm sẽ thay đổi kèm theo sự phát triển sinh
học. Sự thay đổi này cơ bản vì dioxit cacbon(CO2) tạo ra trong quá
trình oxi hoá sinh học và sẽ tạo ra bicacbonat trong nước thải
BOD của dầu khoáng là tương đối cao vì khoảng 3-4mg O2 mới
phân huỷ được 1mg hydrocacbon. Tuỳ thuộc và thành phần hoá
học mà nhu cầu oxi của các loại dầu từ 3.1-3.5mg/mg dầu. So với
một số chất khác thì giá trị này lớn hơn nhiều: như 1.07mg O2/1mg
gluco, 1.18mg/1mg xellulo, 1.5-1.8mgO2/1mg protein và 2.5-2.9
mgO2/1mg dầu thực vật. Người ta thấy rằng, các vi khuẩn trong
các màng sinh học và bùn hoạt ítnh có thể loại bỏ 84% dầu trong
nước thải lọc dầu.
Mỡ và dầu có sức kháng cự đối với quá trình phân huỷ ki khí và
khi có trong bùn chúng tạo ra sự tích luỹ lớp váng dầu dư thừa
trong thiết bị phân hủy làm tắc các lỗ của thiết bị lọc và cản trửo
việc sử dụng các thiết bị lọc đồng thời cũng ngăn cản việc dùng
phân bón bùn. Khi các chất đo được thải lẫn trong nước thải hay
các dòng thải đã xử lí chúng thường tạo ra các màng trên bề mặt và
lắng đọng ở các dải đất ven bờ
Biết lượng dầu và mỡ trong nước thải sẽ giúp ích cho việc khắc
phục các khó khăn trong vận hành nhà máy, xác định hiệu quả của
nhà máy và đìều khiển sự thải các chất này vào daòng thu hồi. Biết
lượng mỡ trong bùn có thể trợ giúp cho việc phán đoán mức độ
phân huỷ và loại nước, đồng thời chỉ ra sự phù hợp trong việc dùng
phân bón bùn đặc biêt. Tuỳ thuộc vào kiểu chất oxi hoá được dùng,
các phương pháp sinh học dùng các vi tổ chức hữu cơ được tập
hợp vào nhóm phương pháp xử lí ưa khí( khi có mặt các phân tr
oxi tự do) hoặc nhóm phương pháp xử lí kị khí( khí không có mặt
oxi tự do)
Tốc độ phân huỷ của các vi sinh vật là hàm quan trọng của bề mặt
phân chia dầu nước. Bề mặt phân chia dầu nước càng lớn thì tốc độ
phân huỷ của các vi sinh vật càng nhanh. Người ta thấy rằng, việc
loạibỏ dầu bằng các vi sinh vật xem ra là khả thi với số lượng các
vi khuẩn thchs hợp( khaỏng 51-61% dầu thô được tận thu bởi các
loài sinh vật trong thời gian 21 ngày).
+ Phương pháp xử lí ưa khí: Các phương pháp xử lí ưa khí thường
dùng là thiết bị lọc giọt, bùn hoạt tính, mương(bể) oxi hoá, các hồ
khí hoá(sục khí), ao oxi hoá.
- Thiết bị lọc giọt: Thiết bị này đưa nước thả tiếp xúc với vùng
phát triển sinh học.
Các thiết bị này có thẻ giảm hàm lượng dầu và phenol trong nước
thải lọc dầu
- Xử lí bùn hạot tính: Công nghệ này được dùng cho các quá tình
xử lí quy mô lớn. Bảng sâu đưa ra số liệu xử lí bùn hoạt tính ở 3
nhà máy lọc dầu:
Bảng 3.14: Giá trị trung bình khi xử lí bùn hoạt tính củ 3 nhà máy
lọc dầu.
Xử lí bùn hoạt tính có ưu điểm hơn so với thiết bị lọc giọt:
- Yêu cầu diện tích nhỏ
- Không có mùi và sự khó chịu
- Ít yêu cầu về áp suất
- Chi phí xây dựng thấp hơn
- Ao oxi hoá: Phương pháp này khá đơn giản, dùng các vi sinh vật
để loại bỏ chất thải nhiễm dầu. Trong thời gian 30 ngày, lượng
sunphua giảm từ 15 xuống 0mg/l, phenol giảm từ 20 xuống 7 mg/l
và dầu giảm từ 15 xuống 0mg/l, thời gian lưu là yếu tố quan trọng
đảm bảo tính hiệu quả của ao oxi hoá.
- Các bể(hồ) khí hoá(sục khí): Đây thường là các hồ chiều sâu 2.4-
3.0m. Nước thải được sục khí bằng không khí khuếch tán hay các
thiết bị sục khs bề mặt cơ học.
+ Phương pháp kị khí: Thường dùng các hồ kị khí. Các hồ kị khí
để xử lí nước thải được thiết kế trên cơ sở sự phân huỷ kị khí và
hoạt động như các thiết bị phân huỷ mở. Lợi ích chính của các hồ
kị khí là:
- Lượng chất hữu cơ có thể cao tính trên 1 đơn vị diện tích của các
hồ kị khí
- Chi phí đầu tư thấp vì chỉ cần đào đắp
- Chi phí vận hành thấp vì yêu cầu dinh dưỡng ít hơn nhiều so với
xử lí ưa khí
- Lượng bùn dư thừa bị thải là ít nhất
B4) Xử lí cấp III
Xử lí dòng nước thải cấp III trong nhà máy lọc dầu được giới hạn
bởi phương pháp dùng cacbon hoạt tính và quá trình ozon hoá.
Mục đích cơ bản của xử lí cấp III là loại bỏ các chất hữu cơ chịu
nhiệt khó phân huỷ và một lượng nhỏ hợp chất phenol còn dư
chuyển nhiệt từ các quá trình xử lí sinh học. Cácbon hoạt tính và
ozon hoá là các phương pháp rất có hiệu quả trong việc loịa bỏ các
chất này. Quá trình clo hoá không được dùng cho mục đích này vì
sẽ tạo ra các chất clorophenol có mùi vị rất khó chị
B5) Xử lí tại nhà máy
Các quá trình xử lí chủ yếu có thể áp dụng cho các dòng thải riêng
biệt hoặc nhóm các dòng thải trong nàh máy lọc dầu là tách nước
chua, trung hoà và oxi hoá kiềm thải, phân tách nước tháo bình,
thu hồi bùn dầu loãng và điều khiển nhiệt độ.
Các thiết bị tách nước chua được thiết kế cơ bản để loại bỏ các hợp
chất sunphua và có thể loạ bỏ 85-99% các hợp chất này. Nếu thêm
axit vào nước thải thì sẽ không loại bỏ được NH3 cũng sẽ được
tách với % thay đổi theo nhiệt độ và pH. Nếu thêm axit vào nước
thải thì sẽ không loại bỏ được NH3. Như vậy, hiệu quả loại bỏ NH3
trong nước chua thay đổi từ 0-95%. Tuỳ thuộc vào các điều kiện
như pH của nước thải, nhiệt độ và áp suất riêng phần của chất bẩn,
các hợp chất phenol và hợp chất xyanua có thể được tách đến 30%.
BOD và COD cũng được giảm đi vì đã tách được phenol và các
hợp chất lưu huỳnh thành sunphat, quá trình oxi hoá không được
áp dụng cho kiềm chứa phenol vì phenol ức chế quá trình oxi hoá.
Nước tháo bình không được thải vào hệ thống cống của nhà máy vì
dòng thải này có thể tích lớn và là dòng thải không liên tục, nồng
độ đầu rất cao sẽ làm rối loạn hệ thống xử lí nước thải lọc dầu.
Nước tháo bình được xử lí riêng biệt bằng gia nhiệt, lắng và lọc.
Dầu thu hồi thường được chuyển tới hệ thống bùn dầu.
Kiểm soát nhiệt độ ngày càng trở lên quan trọng vì tiêu chuẩn dòng
thải trở lên khắt khe hơn. Để giảm tải nhiệt mà không thay đổi quá
tình sản xuát thường chỉ nhờ vào việc tăng lượng nước tái sử dụng
trong tháp làm mát, các điểm phu sương hoặc các thiết bị làm mắt
không khí ống có gân khô. Một số nhà máy lọc dầu đã dủng các
tháp làm mát như là các thiết bị xử lí sinh học, đặc biệt cho các
chất thải chứa phenol.
Bùn xử lí và bùn tạo ra trong quá trình xử lí nước thải bằng các
phương pháp sinh học nhìn chung được loạ nước và đốt bỏ hoặc
vứt bỏ. Đốt bùn phải được điều khiển nghiêm ngặt để tránh gây ô
nhiễm không khí.
1.2. Tình hình sử dụng nước trong công nghiệp lọc hoá dầu
Trong công nghiệp lọc hoá dầu, vẫn chưa có thống kê chính xác
chung về nhu cầu nước sử dụng. Theo một số tài liệu thì lượng
nước dùng để chế biến 1 tấn dầu thô thường từ 10-120m3, tuỳ
thuộc vào đặc tính dầu thô và hệ thống dây chuyền công nghệ.
Tính riêng trong lĩnh vực hoá dầu thì để tạo ra 1 tấn sản phẩm cần
trung bình khoảng 50m3 nước. Để sản xuất ra 1 lít xăng cần
khoảng 10 lít nước, 1 tấn tơ nhân tạo vítcô cần khoảng 800m3
1 tấn than là sản phẩm phụ của quá trình luyên cốc cần khoảng
11m3 nước…
Hiện nay, các nhà máy lọc dầu trên thế giới hàng năm chế biến
khoảng 4 tỉ tấn dầu thô (khoảng 25 tỉ thùng hay 800 tỉ gallon). Như
vậy, các nhà máy lọc dầu trên thế giới tiêu thụ lượng nước rất lớn,
hàng tỉ m3 nước trong 1 năm và chúng cũng tạo ra một lượng nước
thải đáng kể. Lượng nước tiêu thụ trong các nhà máy lọc có thể
chiếm trên 3% tổng lượng nước công nghiêp. Nước làm mát chiếm
khoảng 90% tổng nhu cấu nước sử dụng của các nhà máy lọc dầu.
Khoảng trên 1/3 các nhà máy lọc dầu sử dụng lại nước làm mát đó
từ 10 đến 15 lần. Một số ít nhà máy lọc dầu dùng hệ thống làm mát
1 lần. Đa số các nhà máy lọc dầu dùng hệ thống làm mát tuần
hoàn. Hệ thống làm mát tuần hoàn cần lượng nước làm mát nhiều
hơn khoảng 2 lần so với hệ thống làm mát 1 lần nhưng lượng nước
bổ sung lại ít hơn khoảng 25 lần. Tuy nhiên, các nhà máy lọc dầu
dùng hệ thống làm mát tuần hoàn có lượng nước tiêu thụ trên 1 tấn
dầu xử lí nhiều hơn khoảng 24 lần so với các nhà máy lọc dầu
dùng hệ thống làm mát 1 lần.
Với các nhà máy lọc dầu tiêu thụ nước ít, trung bình một nhà máy
lọc dầu không có phân xưởng cracking sử dụng khoảng 9-10m3
nước trên 1 tấn dầu thô, còn các nhà máy lọc dầu có phân xưởng
cracking thường dùng khoảng 12-13m3 nước trên 1 tấn dầu thô.
Các nhà máy lọc dầu được cấu tạo bởi các phân xưởng xử lí khác
nhau thì lượng nước yêu cầu bổ sung cho các phân xưởng cũng
thay đổi, trung bình cần khoảng 3m3 nước cho 1 tấn sản phẩm
polime hoá và alkyl hoá và khoảng 0.4m3 nước cho 1 tấn sản phẩm
ở phân xưởng chưng cất.
Trong nhà máy lọc dầu, phân xưởng cung cấp nước là phân xưởng
phụ trợ không thể thiếu. Các nguyồn nước của riêng nhà máy lọc
dầu đáp ứng khoảng 95% các nhu cầu sử dụng nước. Các nguồn
nước mặt cung cấp khoảng 86% nhu cầu nước sử dụng đó, phần
còn lại thường lấy từ nước ngầm. Chỉ khoảng 1% nhu cầu nước sử
dụng được lấy từ hệ thống nước thải đô thị nhưng đã được xử lí lại.
Chỉ một lượng rất nhỏ nước xử lí (nước công nghiệp) được sử
dụng lại. Có nhà máy lọc dầu đã sử dụng lượng nước kiềm từ quá
trình trung hoà các chất thải của quá trình alkyl hoá để thêm vào
các bình ngưng tụ baromet của tháp chưng cất chân không. Tuy
nhiên, sự tạo nhũ tăng lên nhều và quy trình bị loại bỏ. Cũng có
nhà máy lọc dầu đã sử dụng các dòng nước thải chứa sunphua từ
các bộ phận tách trong các quá trình cracking để điều khiển nhiệt
độ trong thiết bị cracking xúc tác tần sôi bằng cách bơm các dòng
thải vào vùng phản ứng. Tuy nhiên, có nhiều vấn để nảy sinh từ
việc tận dụng này như vấn đề tạo gôm, ngộ độc xúc tác, tái sinh
xúc tác…
Có nhiều trường hợp các dòng nước thải lọc dầu sau khi xử kí có
thể dầu tái sử dụng như việc dùng nước thải chứa phenol hoặc
nước ngưng tụ của quá trình tách sunphua làm nước bổ sung vào
thiết bị khử muối trong dầu thô. Chỉ một số ít các nhà máy lọc dầu
sử dụng một số các phương pháp đó nhưng chỉ ở mức độ giới hạn
nào đó
Chỉ khoảng 6% lượng nước thu hồi được dùng làm nước xử lí.
Nước xử lí chỉ chiếm khoảng 1,4% tổng lượng nước sử dụng. Có
rất ít thông tin về việc tái sử dụng nước xử lí nhưng việc tái sử
dụng có thể có ý nghĩa. Lĩnh cực tái sử dụng nước có hiệu quả nhất
là tuần hoàn nước làm mát.
Như đã nêu ở trên, trong lọc dầu, nước chủ yếu được dùng làm
mát, một lượng nước tương đối nhỏ được dùng làm nguyên liệu
nồi hơi, cho xử lí, phục vụ sinh hoạt, phòng cháy và các mục đích
khác. Người ta nhận thấy rằng, một nhà máy lọc dầu có công suất
khoảng 50000 thùng dầu/ngày(khoảng 3 triệu tấn dầu/năm) tạo ra
hơn 1 tỉ Btu(hơn 1 tỉ KJ) trong 1 giờ và khoảng 50% lượng nhiệt
đó được loại bỏ bằng nước. Kể đến các mục đích sử dụng nước
khác và giả định nhiệt độ nước làm mát tăng 30oF thì người ta dự
đoán rằng nhà máy lọc dầu đó sẽ cần khoảng 160m3/phút để thu
hồi lượng nhiệt đó. lượng nước này có thể cung cấp nhu cầu nước
sinh hoạt của một thành phố (khoảng 230000m3) trong thời gian
tương ứng.
Trong lọc hoá dầu, hơi được ngưng tụ thành lỏng trong các thiết bị
ngưng tụ và các thiết bị làm mát được dùng để hạ thấp nhiệt độ của
sản phẩm lỏng đến nhiệt độ cho phép bảo quản an toàn. Bình
thường, nước là chất làm mát trung gian thường được dùng trong
các thiết bị này. Tuy nhiên, các nhà máy lọc hoá dầu đều tiết kiệm
cả nhiệt và nước bằng cách làm mát các sản phẩm có nhiệt độ cao
nhờ nguồn nguyên liệu dầu thô đưa vào và bằng các dòng lỏng có
nhiệt độ thấp hơn khác. Như vậy, người ta thường dùng các biện
pháp trao đổi nhiệt giữa các sản phẩm và giữa sản phẩm và nguyên
liệu.
Nhu cầu nước của các nhà máy lọc hoá dầu trước đây là không lớn
lắm và việc sử dụng nước cũng khá đơn giản, nước chỉ cần cho
làm mát và để tạo hơi đầy đủ cho các bơm hơi. Trong các nhà máy
lọc hoá dầu hiện đài thì việc sử dụng nước đã thay đổi, tương đối
phức tạp và cho nhiều mục đích khác nhau.
Chưng cất chân không dầu thô và dầu thô đã được tách bớt các
phân đoạn nhẹ(cặn khí quyển) cần thiết được dùng trong hầu hết
các nhà máy lọc dầu và phương pháp chưng lôi cuốn theo bằng hơi
nước dùng bơm phun hơi nước là phương pháp được dùng rộng rãi
nhất để tạo ra độ chân không cho các quá trình chưng phân đoạn
này. Khi dùng các bơm phun hơi nước, hơi được dẫn qua miệng
vòi phun để tạo ra độ chân không. Trong tháp chưng cất, hơi nước
bay hơi và cuốn theo các cấu tử và phần hơi tách ra từ tháp chưng
cất đó cần được ngưng tụ lại để tách nước và các sản phẩm . Trong
các quá trình xử lí, hơi đi ra ở đỉnh có thể được ngưng tụ và thu hồi
các chất có giá trịn trong các thiết bị trao đổi nhiệt như thiết bị trao
đổi nhiệt loại ống chùm và vỏ ống. Các chất có khả năng ngưng tụ
còn lại phải được tách ra trước khi thải dòng hơi đỉnh đó ra không
khí. Phương pháp thường dùng là phun nước trực tiếp trong một
thiết bị gọi là thiết bị ngưng tụ baromet(thiết bị ngưng tụ trực tiếap
loại baromet). Các chất hữu cơ, dầu và hơi nước đã ngưng tu (chất
lỏng ngưng tụ) được hoà trộn trong một thể tích nước làm mát lớn.
Hỗn hợp và dung dịch loãng đó có xu hướng tạo thành các loạ nhũ
tương rất khó tách và thu hồi.
Trong các nhà máy lọc hoá dầu, các thiết bị ngưng tụ bề mặt(thiết
bị ngưng tụ gián tiếp) cũng có thể được dùng thay thế các thiết bị
ngưng tụ baromet. Các thiết bị ngưng tụ đó thường gồm một loạt
các thiết bị trao đổi nhiệt loại ống chùm vỏ ống trong đó các chất
có khả năng ngưng tụ được tách ra và nước được dùng để làm mát
không tiếp xúc trực tiếp với chất ngưng tụ. Trong nhiều trường hợp
chất lỏng ngưng tụ có nồng độ cao và có thể được thu hồi. ngoài ra
chúng có thể bị đốt bỏ hay xử lí riêng biệt. Nước làm mát không bị
nhiễm bẩn dầu và các chất hữu cơ khác có thể được tái sử dụng sau
khi đã loại bỏ bớt nhiệt(hạ thấp nhiệt độ). Mặc dù thiết bị ngưng tụ
bề mặt gián tiếp có nhiều ưu điểm hơn so với thiết bị ngưng tụ
trực tiếp baromet nhưng chúng có chi phí lắp đặt cao nhất, chi phí
vận hành và bảo dưỡng cao hơn và tuổi thọ thiết bị ngắn hơn. Các
vòi phun hơi nước ngưng tụ bề mặt được dùng trong nhiều nhà
máy lọc dầu mới hơn và chúng đóng vai tròn quan trọng trong việc
giảm bớt lưọng nước thải.
Công nghệ giảm nhu cầu làm mát bằng nước và do đó giảm lượng
nước dùng để làm mát có một số ưu điểm. Ở các vùn khô cằn,
nước trở thành quý giá thì việc sử dụng các thiết bị làm mát loại
ống trao đổi nhiệt có gân là rất quan trọng. Phương pháp làm mát
này dùng không khí cưỡng bức thổi qua các dãy ống trao đổi nhiệt
có gân mà nước làm mát đã sử dụng chảy trong đó. Nhiệt được
truyền từ nước qua bề mặt các ống trao đổi nhiệt tới dòng không
khí theo phương thức đối lưu và bức xạ. Lợi thế lớn nhất của
phương pháp xử lí này là nước được chảy trong một hệ thống tuần
hoàn kín và nhu cầu nước bổ sung là tối thiểu. Một lợi thế khác
nữa là nước có chất lượng rất cao có thể được dùng và sự ăn mòn
gần như không có. Các lợi ích gián tiếp khác của việc giảm lượng
nước tổng cộng là các đường ống dẫn nước nhỏ hơn và các chi phí
cho bơm nước thấp hơn.
Việc duy trì dòng sản phẩm ổn định trong nhà máy lọc dầu là điều
mong muốn nhưng đòi hỏi sự điều khiển cứng nhắc và thường rất
khó. Qui trình phổ biến trong xử lí sản phẩm được yêu cầu là: tạo
ra sản phẩm nóng từ quá trình xử lí có sẵn, làm mát chúng và dự
trữ chúng để cung cấp như là sản phẩm cuối cùng hay các sản
phẩm trung gian cho các quá trình xử lí tiếp theo. Trước khi các
sản phẩm trung gian có thể được xử lí tiếp, nó cần phải gia nhiệt
lại. Nếu sử dụng máy tính và các tiến bộ công nghệ khác có thể
giảm lượng dự trữ trung gian và do đó giảm lượng yêu cầu gia
nhiệt và làm mát, tổng yêu cầu nước làm mát của nhà máy lọc dầu
sẽ giảm đi. Như vậy, tối ưu hoá vấn đề sử dụng nhiệt sẽ làm giảm
lượng nước yêu cầu.
Từ đó có thể thấy răng, mặc dù tổng lượng sản phẩm dầu mỏ đang
tăng lên nhưng lượng nước lấy vào gần như không tăng. Việc giảm
lưu lượng các dòng nước thải nhờ áp dụng quá trình làm mát hiệu
quả hơn là có khả năng thực hiện.
Các mục đích sử dụng nước khác nhau trong nhà máy lọc hoá dầu
yêu cầu các chất lượng nước khác nhau. Ví dụ, nước mặn có thể
được dùng để làm mát một lần và nước đã khử khoáng chất lượng
cao được dùng cho các nồi hơi cao áp. Mặc dù, trong nhà máy lọc
hoá dầu, chất lượng nước được xem là ít quan trọng hơn khối
lượng nước nhưng nước có chất lượng tốt vẫn được mong muốn.
1.2. Cung cấp nước trong công nghiệp lọc hoá dầu
Trong nhà máy lọc hoá dầu, các hệ thống cung cấp nước khác nhau
được tạo ra để cung cấp nước cho các mục đích khác nhau. Hệ
thống cung cấp nước tuần hoàn được cho là đáp ứng các nhu cầu
sản xuất trong nhà máy lọc hoá dầu . Hệ thống này được dựa trên
việc sử dụng nước nhiều lần sau một lần lấy từ nguồn nước. Nước
nóng chảy ra từ các thiết bị ngưng tụ và các thiết bị làm mát chảy
nhờ trọng lực hoặc dưới áp suất cao tới ccs đơn vị cung cấp nước
tuần hoàn. Ở đó, nó chảy qua các thiết bị tách dầu tức thời và các
hệ thống làm mát đặc biệt như bể, bể phun hoặc tháp làm mát
nước. Thiết bị làm mát nước hiệu quả nhất là tháp làm mát. Các
tháp làm mát nước của hệ thống tuần hoàn được thiết kế đặc biêt.
Trong thiết bị đó, nước được cho chảy xuống bề mặt của đệm(gỗ
mỏng, chướng ngại vật khác) ở dạng màng mỏng hay giọt lỏng.
Trong một số thiết kế, các vòi phun được dùng để phun nước.
Nước chảy xuống được làm mát bằng gió tự nhiên của không khí
bên ngoài(tháp làm mát tuần hoàn tự nhiên) hoặc bằng gió nhân
tạo được tạo ra bởi các quạt(tháp làm mát gió cơ học). Trong các
tháp gió cơ học, nước có thể được làm mát từ 45-50oC xuống 25-
28oC. Nước đã được làm mát được thu gom lại trong các bể của
tháp và được dưa trở lại các nơi tiêu thụ bằng các bơm áp lực 0.3-
0.4 MPa(khoảng 3-4at).
Các nhà máy lọc dầu lớn thường có vài hệ thống cung cấp nước
tuần hoàn:(1) để cung cấp cho các thiết bị liên quan đến xử lí dầu
mỏ và các sản phẩm dầu mỏ, nước này trong trường hợp khẩn cấp
từ nhà máy mà không cần tách hỗn hợp dầu mỏ và các sản phẩm
dầu mỏ lỏng; (2) để cung cấp cho các thiết bị của phân xưởng chế
biến khí và để làm mát các ổ trục của bơm và các máy nén, nước
này không được o nhiễm các sản phẩm dầu mỏ; (3) để cung cấp
cho các thiết bị ngưng tụ hỗn hợp baromet, nước sau khi sử dụng
chứa một lượng lớn các sản phẩm dầu mỏ, khi xử lí dầu chua thì
nó chứa H2S và (4) để cung cấp cho các thiết bị mà từ đó sáp
parafin và mỡ có thể xâm nhập vào nước
Có thể chia hệ thống tuần hoàn nước thành hai loại: hệ thống tuần
hoàng không làm biến chất nước và hệ thống tuần hoàn làm biến
chất nước.
Hệ thống tuần hoàn không làm biến chất nước: Tuần hoàn nghĩa là
tái sử dụng không hạn chế cùng một lượng nước cho trước cho
cùng một mục đích mà không hay ít bị ô nhiễm. Nước bổ sung sẽ
thay thế lượng nước mất mát khác nhau ở các dạng long(rò gì, mất
mát do cuốn the) hoặc bay hơi trong trường hợp bay hơi thường
xuyên xảy ra, Bình thường, nước không được thay đổi hay biến
chất khi thêm các ion bên ngoài, các khí hoà tan hoặc do sự khuếch
tán của các chất rắn vô cơ và hữu cơ trong suốt quá trình làm việc.
Chỉ các muối ban đầu tj lại và tích luỹ do nước bay hơi. Hai ví dụ
điển hình của hệ thống tuần hoàn là quá trình làm mát thiết bị trong
hệ thóng tuẩn hoàn mở(hở) và hệ thống cấp nước cho nồi hơi với
việc quay trở lại của các chất lỏng ngưng tụ.
Tỉ lệ tuần hoàn nước có thể cao và nồng độ các muối có khả năng
hoà tan khác nhau bị tăng lên trong suốt quá trình bay hơi. Do vậy,
phải tinh chế sơ bộ các muối có khả năng hoà tan ít trong nước bổ
sung và dòng nước chảy ra trong hệ thống. Việc xác định tỉ số
nồng độ C trong tuần hoàn là cơ sở để tinh chế, với C là tỉ số giữa
lượng nước cung cấp hoặc lượng nước bổ sung A và lượng nước
tổn thất như là nước lỏng hay do dòng thải ra D, nghĩa là C=A/D
Nếu gọi E là lượng bay hơi , tỉ số nồng độ C có thể được biểu diễn
như tỉ số của hàm lượng muốn trong nước tuần hoàn S với hàm
lượng muốn trong nước bổ sung s, nghĩa là C=S/s=A/D=(E+D)/D.
Tỉ số tuần hoàn R=Q/A với Q là lưu lượng nước tuần hoàn cũng có
thể được dùng để xác định mức độ tinh chế.
Trong hệ thống làm mát tuần hoàn hở, C có thể thay đổi từ 1-6
hoặc thậm chí 10. Trong thực tế, tỉ số này có thể được đo bằng
cách so sánh nồng độ clo trong hệ thông với nồng độ clo của nước
bổ sung vì không có muốn clorua nào được tạo ra. Trong hệ thống
cung cấp nước cho nồi hơi, C còn cao hơn nhiều, có thể C=100.
Hệ thống tuần hoàn làm biến chất nước: Hệ thống tuần hoàn này là
hệ thống tuần hoàn mà nước sử dụng trong hệ thống bị ô nhiễm,
các cấu tử bên ngoài được đưa vào nước bổ sung. Sự ô nhiễm đó
có thê:
+ Xảy ra cùng với quá trình làm mát như:
- Rửa khí khi có mặt HCl
- Rửa khí khi có mặt SO2, khí hơi của nồi hơi
- Rửa khíkhi có mặt HF, HCN, khí từ các lò đốt
- Cặn bẩn(cặn thép) và dòng cuốn theo chứa dầu và cặn dầu
- Hoà tan NH3
- Hoà tan hợp chất lưu huỳnh khi vận chuyển xỉ và dập tắt
trong quá trình cốc hoá
+ Xảy ra ngoài quá trình làm mát như:
- Súc rửa thiết bị làm tăng lượng muối hòa tan
- Rửa khí
- vận chuyển vật liệu chứa các chất rắn lơ lửng hay các muối
Nếu lượng ô nhiễm được xem xét, độ mặn và những chất bẩn trong
nước bổ sung trở thành yếu tố không quan trọng thì khi đó không
cần xử lí sơ bộ nữa. Nếu chỉ cho phép lượng ô nhiễm thấp thì
những chất bẩn trong nước bổ sung phải tiếp tục được xử lí.
Người ta có thể dùng một số hệ thống cải thiện các điều kiện xử lí
nước ô nhiễm tại các thiết bị cung cấp nước tuần hoàn. Tổn thất
nước trong các hệ thống tuần hoàn được bù lại bằng cách thêm
nước sạch từ bể hay các nguồn thải đã được tinh chế. Sau đó nước
được xử lí bằng photphat, axit vàclo để ngăn chặn sự kết tủa của
các muốn canxi và magie từ nước tuần hoàn, sự tạo cặn bẩn trong
thiết bị trao đổi nhiệt và sự phát triển của cá tổ chức hữu cơ sinh
học trong nước.
Nước sạch được dùng để cung cấp nguyên liệu cho các nồi hơi,
chuẩn bị các thuốc thử, rửa một số sản phẩm và cung cấp lại hệ
thống nước tuần hoàn. Hệ thống nước sạch bao gồm các thiết bị
lấy nước từ nguồn, các trạm bơm nâng cấp 1, cấp 2 và thỉnh thoảng
có cấp 3, các cấu trúc lọc, các thùng hút và các đường ống.
Nước có thể uống được dùng để cung cấp cho sinh học. Nguồn
nước này là nước ngầm hoặc nước sông được xử lí đặc biệt.
Hệ thống nước cứu hoả bao gồm trạm bơm và đường ống chạy
theo các đường và phân phối tới toàn bộ nhà máy lọc dầu. Đường
ống nước cứu hoả được trang bị vòi nước máy lắp đặt theo tính
toán thích hợp nhưng tối đa 150m có 1 cái. Tại nhà máy lọc hoá
dầu, đường ống cứu hoả được kết hợp hoặc là với đường ống nước
sạch dùng cho sản xuất hoặc là với đường ống nước sinh hoạt,
thỉnh thoảng, các hệ thống nước cứu hoả riêng cũng được lắp đặt.
Nước cung cấp cho cứu hoả được dự trữ đặc biệt, thường trong các
bể ngầm hay các hồ cứu hoả. Hệ thống cung cấp nước tuần hoàn,
cung cấp nước sạch và các dòng thải đã được xử lí là các nguồn dự
trữ nước cho cứu hoả.
1.3. Tái sử dụng nước trong công nghiệp lọc dầu
Trong nhà máy lọc hóa dầu, tuần hoàn nước có thể không phải là
cách sử dụng nước có hiệu quả kinh tế nhất, quá trình này có thể
làm giảm giá trị của nước. Tái sử dụng nước cũng có thể được sử
dụng. tái sửdụng nước được hiểu là dùng vào hai hay nhiều mục
đích khác nhau mà có thể phân tách bởi các giai đoạn trung gian
hay gia đoạn xử lí.
Trong tái sử dụng nước, mụch đích sử dụng sau thường yêu cầu
chất lượng nước thấp hơn, thường không quý bằng mục đích thứ
nhất và do đó xử lí trong gian là không cần thiết. Ví dụ, nước có
thể được dùng vào nhiều mục đích như: Nước mặt có thể được
dùng trong hệ thống làm mát một lần hay tuần hoàn hở sau đó lại
được dùng tiếp để rửa hay làm sạch khí lò đố.
1.5. Lựa chọn nguồn nước cho công nghiệp lọc hoá dầu
Ngoài việc đánh giá kinh tế, có thể căn cứ vào các yếu tố sau để
lựa chọn nguồn nước:
+ Tính tương hợp của nguồn nước với mục đích sử dụng nó: cân
bằng cacbonat, độ cứng, nhiệt độ, nồng độ yêu cầu và các mức độ
SO2, SiO2, Ca2+, Cl-, …
+ Tính tương hợp của nước với các kiểu hệ thống xử lí đã có( các
quá trình màng, trao đổi ion…).
Bảng sau gợi ý cho việc lựa chọn các nguồn nước sẵn có tuỳ thuộc
vào mục đích sử dụng. Nước biển có thể được dùng mà không cần
giảm độ mặn của nó khi dùng để làm mát các thiết bị ngưng tụ và
thu hồi sản phẩm phụ ngoài khơi (thu hồi dầu). Trong phần lớn các
trường hợp cần phải loại muối trước khi sử dụng.
Bảng 2.1- Các mục đích sử dụng nước chủ yếu và các nguồn nước
lựa chọn.
Mục đích sử dụng Nguồn nước được chấp
nhận(sau khi xử lí)
Nước dùng để xử lí, nước sản Nước có nồng độ khoáng trung
xuất có giá trị bình
Nước uống, nước giếng khoan
hoặc nước mặt chỉ bị ô nhiễm
nhẹ
Nước đã loại khoáng dùng làm Nước giếng khoan hay nước mặt
nguyên liệu nồi hơi, loại muối… chỉ bị ô nhiễm nhẹ
Nước làm mát trong hệ thống Nước mặt có nồng độ Cl- thấp
tuần hoàn hở dùng các tháp làm Nước thải sau khi xử lí cấp III
mát
Nước làm mát trong hệ thống Nước mặt, nước biển, nước thải
làm mát một lần cho các thiết bị đã xử lí
ngưng tụ và các thiết bị trao đổi
nhiệt
Nước rửa khí hay rửa sạch sản Nước mặt hay nước thải đã xử lí
phẩm, nước vận chuyển, đốt cấp II
đuốc
2. Các mục đích sử dụng nước chủ yếu
2.1. Mục đích sử dụng nước chủ yếu
Trong công nghiệp, nước được dùng vào nhiều mục đích khác
nhau. Phần này chỉ đề cập đến các mục đích sử dụng nước có tính
chất công nghiệp, không kể đến nước dùng cho mục đích sinh hoạt
tại nhà máy. Có nhiều cách để phân loại các mục đích sử dụng
nước.
2.1.1. Phân loại theo tính chất sử dụng(tính chất trao đổi)
Theo cách này, có thể chia nước sử dụng trong công nghiệp thành
hai nhóm chính: nước tiếp xúc trực tiếp và nước không tiếp xúc
trực tiếp(Theo SIC: standard Industrial Classifications)
a- Nước tiếp xúc trực tiếp: Có thể gồm một số loại sau:
1) Nước dùng để vận chuyển sản phẩm, nguyên liệu hay các
chất hoá học.
2) Nước rửa và làm sạch thiết bị, sản phẩm, đường ống,..(nước
súc, rửa và làm sạch).
3) Nước làm dung môi hoà tan.
4) Nước để pha loãng.
5) Nước dùng để gia nhiệt và làm mát tiếp xúc trực tiếp(trao đổi
nhiệt trực tiếp).
6) Nước dùng cho sản xuất, xử lí.
b- Nước không tiếp xúc trực tiếp: Có thể gồm một số loại sau:
1) Nước làm nguyên liệu cho nồi hơi
2) Nước dùng để gia nhiệt(trao đổi nhiệt gián tiếp).
3) Nước dùng làm mát(trao đổi nhiệt gián tiếp).
4) Nước dùng để ngưng tụ, làm mát(trao đổi nhiệt gián tiếp)
2.1.2. Phân loại theo mục đích sử dụng
Theo cách này, có thể chia thành nhiều loại khác nhau, cụ thể như
sau:
a- Nước để tạo hơi nước: dùng làm nguêyn liệu cho nồi
hơi, máy giữ ẩm không khí,..
b- Nước dùng để trao đổi nhiệt, để ngưng tụ hơi, để làm
mát các chất lỏng và chất rắn hay thiết bị, để gia nhiệt,
dùng làm lưu chất cho các thiết bị cắt gọt..
c- Nước dùng để rửa(làm sạch) khí: nước đóng vai trò như
dung môi hấp thụ tạp chất trong hõn hợpkhí.
d- Nước dùng để súc, rửa, làm sạch và vận chuyển chất
rắn hay ion: dùng trong nhiều ngành công nghiệp khác
nhau như làm sạch than, quặng, sản phẩm nông nghiệp,
vận chuyển bột giấy, xử lí bề mặt, nhúng để xử lí bề
mặt..
e- Nước dùng để dập tắt(quenching): dùng để dập tắt lửa,
ánh sáng, hạ thấp nhiệt độ.. nưh trong luyện cốc, nghiền
thành bột, làm xỉ hạ thấp nhiệt độ trong nhiều thiết bị
phản ứng..
f- Nước dùng để duy trìn áp suất: đưa vào những khu vực
giảm áp để làm tăng áp suất như quá trình thu hồi dầu
thứ cấp trong khai thác dầu..
g- Nước dùng để cung cấp năng lượng động học: để cạo
sạch cặn bẩn, gỉ sắt.. trong đó dòng nước là dòng lưu
thể có năng lượng cao.
h- Nước dùng cho sản xuất và xử lí: Nước đóng vai trò
như một thành phần của sản phẩm hay tham gia vào
quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm như sản xuất bia,
nước giả khát và nhiều quá trình xử lí vật lí, hoá học
khác như chưng cất, reforming..
2.1.3. Phân loại theo mụch đích sử dụng
Theo cách này có thể chia thành hai loại như sau:
a- Nước dùng cho một mục đích
1) Nước dùng trong các hệ thống mở(hở) hoặc bổ sung trực tiếp
2) Nước dùng trong hệ thống tuần hoàn, có hoặc không có sự
biến chất nước.
b- Nước được dùng cho hai hay nhiều mục đích khác nhau như
trong hệ thống tái sử dụng
2.1.4. Phân loại theo các ngành công nghiệp
Theo cách này có bao nhiêu ngành công nghiệp thì có bấy nhiêu
loại nước, ví dụ như:
a- Nước làm nguyên liệu nồi hơi: càng mềm càng tốt,
không chứa nhiều nitrat hay các chất hữu cơ để tránh
đóng cặn hay ăn mòn nồi hơi
b- Nước cho các thiết bị chưng cất rượu: tinh khiết và mát,
có thể chứa lượng nhỏ các tởchcs hữu cơ, ít muối clorua
natri và clorua magie
c- Nước cho nhà máy giấy:có mặt sắt sẽ gây hại, dư vôi…
d- Nước cho nhà máy đường: nếu nước giàu sunphat và
cabonat và đặc biệt là nitrat thì quá trình kết tinh sẽ rất
khó thu nhiều mật đường, đường dễ bị chảy; nước chứa
các vi chất hữu cơ có thể gây phân huỷ đường..
e- Nước cho các nhà máy nước giải khát: chứa ít vôi và
cacbonat magie..
f- Nước cho nhà máy hoá chất: tuỳ yêu cầu cụ thể mà yêu
cầu chất lượng nước khác nhau.
g- Nước cho nhà máy lọc dầu
h- Nước cho nhà máy điện, thép,xi măng..
2.1.5- Sơ đồ phân loại mục dích sử dụng nước
Sử dụng Làm mát
Hệ thống xử lí trong
ống
Đường phụ
2.2. Mục đích sử dụng nước trong công nghiệp lọc hoá dầu
Trong công nghiệp lọc hoá dầu chủ yếu sử dụng vào mục đích sau
1) Nước dùng làm mát, ngưng tụ làm mát
2) Nước dùng để súc rửa và làm sạch
3) Nước dùng làm nguyên liệu nồi hơi
4) Nước dùng để xử lí
5) Nước dùng để phòng cháy chữa cháy
6) Nước dùng cho sinh hoạt và cho các mục đích khác
Trong đó nước dùng để làm mát chiểm khoảng 90-92%, nước dùng
để rửa dầu, sản phẩm dầu, thiết bị và thùng chứa chiếm khoảng
5%; nước dùng để xử lí chiếm khoảng 1.4%(0.1-1m3/tấn dầu xử
lí); nước dùng cho các mục đích còn lại chiếm khoảng 1.6-3.6%
Trong hoá dầu, nhìn chung nước cũng được dùng cho các mục đích
trên. Chất lượng nước yêu cầu tuỳ thuộc vào từng nhà máy. Rất
khó liệt kê yêu cầu chất lượng nước của các nhà máy hoá dầu này.
3.2.2. - Chọn các phương pháp xử lí
a- Lượng chất thải và phương pháp ở một số nhà máy lọc dầu
Có nhiều phương pháp xử lí nươc thải lọc dầu như đã trình bày ở
trên. Mỗi phương pháp có ưu điểm riêng và chúng thường được sử
dụng kết hợp. tuỳ theo đặc tính nước thải và tiêu chuẩn nước thải
mà người ta chọn các phương pháp xử lí thích hợp để chi phí thấp
nhưng vẫn đạt hiệu quả cao.
Các phương pháp phổ biến thường dùng để xử lí nước thải lọc dầu
là phân tách trọng lực, kết bông, lọc nổi và xửu lí sinh học
Dưới đây là một ví dụ lựa chọn phương pháp xử lí khi biết lượng
chất thải.
Khi sử dụng các phương pháp tách trọng lực, kết bông, lọc nổi vả
xử lí sinh học có thể giảm đáng kể lượng chất thải lọc dầu. Căn cứ
vào tình hình cụ thể có thể kết hợp thêm các biện pháp xử lí khác.
c- Mức độ sử dụng các phương pháp khác nhau
Như vậy, mỗi nhà máy lọc dầu có thể sử dụng các hệ thống
phương pháp và thiết bị xử lí nước thải khác nhau. Tất cả các
nhà máy lọc dầu đều dùng một số loại phân tách trọng lực để
loại bỏ dầu có thể tách được. Các phương pháp và thiết bị khác
được sử dụng ở các mức độ khác nhau. Dưới dây là bảng mức
độ sử dụng các phương pháp trong một số nhà máy lọc dầu đã
được nghiên cứu. Mức độ sử dụng các phương pháp này có thể
thay đổi theo thời gian cũng như số lượng nhà máy lọc dầu.
Thiêu, đốt bao gồm đốt tại đuốc, lò đốt nồi hơi và các thiết bị
đốt riêng khác, chỉ dùng khi có tách và bay hơi. Có thể 90-100%
nhà máy yêu cầu dùng các phương pháp xử lí sinh học cấp II.
c- Hiệu quả xử lí nước thải của một số phương pháp
Tổng kết hiệu quả các quá trình xử lí nước thải trong loại bỏ các
chất ô nhiễm lọc dầu cơ bản được cho trong bảng dưới đâyy. Để
thuận tiện cho việc nghiên cứu, các phương pháp xử lí được sắp
xếp theo đặc điểm chung. Trong bảng cũng chứa một thông số
là đầu vào xử lí có khả năng nhất (Đv) (DPPI: Most probable
process influent) chỉ ra kiểu và/ hoặc quy mô của trước tiên
được yêu cầu để tận dụng có hiệu quả nhất các phương pháp xử
lí triêng biệt đã xem xét.
Bên cạnh tính hiệu quả loại bỏ các chất ô nhiêm, bảng tổng kết
cũng chứa các thông tin định tính về sự ảnh hưởng của các quá
trình xử lí khác nhau lên 3 đặc tính ô nhiễm quan trọng chung là
pH, độ độc và nhiệt độ. Khoảng hiệu quả loại bỏ và các ảnh
hưởng định tính dựa trên các số liệu sẵn có từ các nhà máy lọc
dầu thực tế.
Bảng 3.17. Hiệu quả xử lí nước thải lọc dầu dựa trên chất lượng
dòng ra (%)
Cần chú ý rằng, BOD và COD được loại bỏ như bảng trên nhờ
thiết bị tách trọng lực không bao gồm BOD và COD đóng góp vào
dầu có khả năng tách thực tế đã được loại bỏ. Nếu kể cả những
lượng thực đó sẽ tạo ra hiệu quả loại bỏ chất hữu cơ cao không
thực tế trái với lượng chất bẩn thực tế phân tán trong nước thải.
Bảng trên chỉ ra rằng bùn hoạt tính và cacbon hoạt tính là các
phương pháp xử lí sinhhọc hiệu quả nhất để loại bỏ các chất hữu
cơ. Hiệu quả loại bỏ BOD là 70-95%, COD từ 30-70, phenol và
xyanua là 65-99%. Hiệu quả loại bỏ các chất rắn lơ lửng là tốt
ngoại trừ trường hợp nồng độ các chất rắn ra khỏi hồ sục khí cao
hơn trong nước thải đầu vào.
Dưới đấy (bảng 3.18) là kết quả xử lí nước thải lọc dầu của một số
phương pháp xử lí khi nồng độ chất thải khác nhau.
3.2.3- Xử lí dòng nước thải đặc biệt
Khi cần xử lí các dòng nước thải đặc biệt như nước thải chứa nhiều
dầu, phenol, HF, nước chua, nước kiềm, H2SO4, kim loại… người
ta có thể dùng các hệ thống xử lí nước thải riêng biệt để giảm nồng
độ các chất cần xử lí xuống giới hạn cho phép trước khi đưa vầo hệ
thống xử lí nước thải chung toàn nhà máy. Sau đây là một số
phương pháp và hệ thống xử lí.
a-Loại bỏ hợp chất phenol: có thể dùng nhiều hệ thống xử lí khác
nhau như hệ thống xử lí lỏng-không khí, hệ thống xử lí Esso,
Mobil, Petrolite, Standar Oil…
b- Loại HF: Dùng các thiết bị loại flo chứa hợp chất nhôm(Al),
vôi, … để thu AlF, CaF2…
c- Loại sunphua, amon(H2S, NH3): có thể dùng hệ thống oxi hoá
không khí dùng dòng hơi nước, dùng hệ thống xử lí Universal,
Clauss…, các tháp làm ngọt..
d- Loại kiềm: có thể dùng hệ thống của Standard Oil, Mobil…
Bảng 3.18. Kết quả xử lí nước thải lọc dầu của một số phương
pháp xử lí