You are on page 1of 77

NHÀ CẦM QUYỀN CỘNG SẢN

VIỆT NAM TỪNG NÓI GÌ VỀ BIÊN


GIỚI VIỆT-TRUNG VÀ QUAN HỆ
VIỆT-TRUNG ?
(2 tài liệu của Bộ Ngoại giao
CSVN năm 1979)

Tài liệu tham khảo

Khối 8406 Tự do Dân chủ cho Việt Nam


09-2009
MỤC LỤC

Tài liệu 1
VẤN ĐỀ BIÊN GIỚI GIỮA

VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC


Lời nhà xuất bản (trang 06)

I- Sự hình thành biên giới lịch sử giữa VN và TQ và sự thoả thuận năm 1957-1958 về
biên giới giữa hai nước. (07)

II- Tình hình Trung quốc lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam từ năm 1954 đến nay. (08)

1- Từ xâm canh, xâm cư đến xâm chiếm đất. (09)

2- Lợi dụng việc xây dựng các công trình hữu nghị để đẩy lùi biên giới sâu vào lãnh thổ
Việt Nam. (10)

3- Đơn phương xây dựng các công trình ở biên giới lấn sang đất Việt Nam. (11)

4- Từ mượn đất của Việt Nam đến biến thành lãnh thổ của Trung Quốc. (11)

5- Xê dịch và xuyên tạc pháp lý các mốc quốc giới để sửa đổi đường biên giới. (12)

6- Làm đường biên giới lấn sang đất Việt Nam. (12)

7- Lợi dụng việc vẽ bản đồ giúp Việt Nam để chuyển dịch đường biên giới. (12)

8- Dùng lực lượng vũ trang uy hiếp và đóng chốt để… (13)

9- Đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. (13)

III- Hai cuộc đàm phán giữa Chính phủ VN và Chính phủ TQ để giải quyết những vấn đề
biên giới giữa hai nước. (16)

Cuộc đàm phán lần thứ nhất. (16)

Cuộc đàm phán lần thứ hai. (17)

IV- Tình hình Trung Quốc gây khiêu khích, xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ của Việt Nam
từ năm 1978 đến nay. (21)

V- Con đường đúng đắn để giải quyết các vấn đề về biên giới giữa Việt Nam và Trung
Quốc. (24)

Liên lạc với


Khối 8406 Tự do Dân chủ cho Việt Nam

http://khoi8406vn.blogspot.com/

vanphong8406@gmail.com

Tài liệu 2
SỰ THẬT VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM - TRUNG QUỐC

TRONG 30 NĂM QUA (1949-1979)


Chú dẫn của Nhà xuất bản (32)

PHẦN THỨ NHẤT

VIỆT NAM TRONG CHIẾN LƯỢC CỦA TRUNG QUỐC (32)

I- Việt Nam nam trong chiến lược toàn cầu của Trung Quốc (34)

II- Việt Nam trong chính sách Đông nam Á của Trung Quốc (38)

PHẦN THỨ HAI

TRUNG QUỐC VỚI VIỆC KẾT THÚC CUỘC CHẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG NĂM 1954. (44)

I- Sau Điện Biên Phủ, nhân dân Việt Nam có khả năng giải phóng hoàn toàn đất nước. (44)

II- Lập trường của Trung Quốc ở Giơ-ne-vơ khác hẳn lập trường của Việt Nam, nhưng phù hợp
với lập trường của Pháp. (45)
III- Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 về Đông Dương và sự phản bội của những người lãnh đạo
Trung Quốc. (46)

PHẦN THỨ BA

TQ VỚI CUỘC ĐẤU TRANH CỦA NHÂN DÂN VN ĐỂ GIẢI PHÒNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT
NƯỚC NHÀ (1954−1975) (51)

I- Thời kỳ 1954−1964 : Những người cầm quyền Trung Quốc ngăn cản nhân dân VN đấu tranh
để thực hiện thống nhất nước nhà. (52)

II- Thời kỳ 1965−1969 : Làm yếu và kéo dài cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. (56)

III- Thời kỳ 1969−1973 : Đàm phán với Mỹ trên lưng nhân dân Việt Nam. (62)

IV- Thời kỳ 1973−1975: Cản trở nhân dân Việt Nam giải phóng hoàn toàn miền Nam. (68)

PHẦN THỨ TƯ

TRUNG QUỐC VỚI NƯỚC VIỆT NAM HOÀN TOÀN GIẢI PHÓNG VÀ THỐNG NHẤT (từ tháng 5
năm 1975 đến nay) (73)

I- Trung Quốc sau thất bại của Mỹ ở Việt Nam. (73)


II- Điên cuồng chống Việt Nam nhưng còn cố giấu mặt. (77)

III- Điên cuồng chống Việt Nam một cách công khai. (80)

PHẦN THỨ NĂM

CHÍNH SÁCH BÀNH TRƯỚNG CỦA BẮC KINH, MỐI ĐE DỌA ĐỐI VỚI ĐỘC LẬP DÂN TỘC,
HÒA BÌNH VÀ ỔN ĐỊNH Ở ĐÔNG NAM CHÂU Á. (89)

Lời giới thiệu

Toàn thể Đồng bào Việt Nam hiện nay, từ trong ra tới ngoài nước, không ai không phẫn uất và
tủi nhục trước tình trạng Đảng và Nhà cầm quyền CSVN ngày càng quỵ lụy và khiếp nhược trước
Trung Quốc. Nỗi khiếp nhược và quỵ lụy này đã bộc lộ rõ nét kể từ 2 Hiệp định Việt-Trung đầy bất
bình đẳng năm 1999 và 2000, vốn đã khiến VN mất gần 1000 km2 lãnh thổ và hơn 10.000 km2 lãnh
hải. Tiếp đó, năm 2001, là lời hứa cho TQ đến Tây Nguyên, vùng đất quan trọng về mặt an ninh và
sinh thái, để khai thác bauxite. Lời hứa dại dột và nguy hiểm này đã được thực hiện từ cuối năm
2007. Song song đó, CSVN luôn miệng ca tụng tình hữu nghị Việt-Trung bằng cách nhắc đi nhắc lại
“16 chữ vàng” và bịt miệng bất cứ ai lên tiếng phản đối kẻ thù truyền kiếp xâm lược.

Thế nhưng, cách đây đúng ba thập niên, vào năm 1979, sau cuộc chiến biên giới phía Bắc (từ
17-02 đến 05-03), CSVN đã không ngớt lời chửi bới, tố cáo và kết án Trung Quốc thậm tệ. Có hai
văn kiện quan trọng đã được soạn thảo vào dịp này, đó là “Bị vong lục của Bộ Ngoại giao về việc
Trung Quốc khiêu khích, xâm lấn lãnh thổ VN ở vùng biên giới”, công bố ngày 15-03-1979, và cuốn
“Sự thật về quan hệ Việt -Trung trong 30 năm (1949-1979) của Bộ ngoại giao, nhằm vạch trần bộ
mặt phản động của bọn bành trướng Bắc Kinh đối với VN suốt một thời gian dài”, công bố ngày 04-
10-1979. (Theo lời nhà xuất bản).

Qua văn kiện thứ nhất, CSVN tố cáonhà cầm quyền Bắc Kinh “thi hành chính sách bành
trướng đại dân tộc và
học đòi thái độ hống hách của các triều đại phong xưa,
kiếnđã gây ra bao vụ khiêu khích biên giới, lấn chiếm đất đai
của VN, phá hoại hai cuộc đàm phán Việt-Trungnăm 1974 và năm 1977 để giải quyết vấn đề biên giới. Ngày 17-02-
1979 họ lại phát động cuộc chiến tranh xâm lược”. Qua văn kiện thứ hai, CSVN tố cáo CSTQ, từ 1949 đến 1979, đã ba
lần phản bội nhân dân VN: sau hội nghị Genève, trong “cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, và sau khi “miền Nam
được giải phóng hoàn toàn”.
Ngoại trừ những lời khẳng định lếu láo về cái gọi là “cuộc chiến chống Mỹ cứu nước”, “giải phóng miền Nam” và
những lời tâng bốc cách trâng tráo dành cho đảng CSVN, hai tài liệu này xem ra đã nói thật về mối quan hệ “cá lớn nuốt
cá bé” giữa hai đảng CS, về mối “hiểm họa bành trướng” ngàn đời từ Trung Quốc, về thực trạng biên giới Việt Nam bị
lấn chiếm dần dần và cách thô bạo.
Trong tình trạng thần phục hiện nay của CSVN trước Anh cả Đỏ, các tài liệu nói đây đã bị tiêu hủy hoặc cấm lưu
hành, nên việc phổ biến nó lại cho Đồng bào,
ểnthi
nghĩ là cần thiết. Kính mời Quý vị mở xem.
Khối Tự do Dân chủ cho Việt Nam 8406
Lời nhà xuất bản

Việt Nam là một nước độc lập có chủ quyền. Đường biên giới Việt Nam và Trung Quốc đã hình
thành rõ rệt trong nhiều thế kỷ trước. Đã nhiều lần trong lịch sử, nước ta đã cử các sứ bộ sang
Trung Quốc họp hoặc hội nghị với Trung Quốc (như hai cuộc Hội nghị Vĩnh Bình giữa nhà Lý và nhà
Tống năm 1033 và năm 1084) để ấn định biên cương.

Đến thế kỷ thứ XIX, đế quốc Pháp thiết lập chế độ thực dân ở nước ta, Chính phủ Pháp nhân
danh Việt Nam và triều đình nhà Thanh ký các Công ước 1887, 1895 giải quyết vấn đề biên giới Việt
Nam và Trung Quốc, chính thức công nhận đường biên giới đó. Đồng thời đường biên giới đó được
cụ thể hoá bằng 310 cột mốc quốc giới trên thực địa, đã có phần lợi cho phía Trung Quốc.

Mặc dù vậy, để xây dựng biên giới hữu nghị lâu dài giữa Việt Nam và Trung Quốc vì lợi ích của
cả hai dân tộc, tháng 12 năm 1957, Ban Chấp hành trung ương Đảng ta đã đề nghị nguyên tắc giữ
nguyên trạng đường biên giới do lịch sử để lại, mọi vấn đề biên giới và lãnh thổ phải do hai Chính
phủ quyết định, mọi vấn đề tranh chấp có thể xảy ra về biên giới và lãnh thổ cần được giải quyết
bằng thương lượng hòa bình. Tháng 4 năm 1958, phía Trung Quốc trả lời đồng ý với đề nghị của
Đảng ta.

Nhưng trong thực tế, thái độ của phía Trung Quốc trái ngược hẳn. Thi hành chính sách bành
trướng đại dân tộc và học đòi thái độ hống hách đè nén các dân tộc, các nước láng giềng của các
triều đại phong kiến trước đây, nhà cầm quyền Bắc Kinh trong nhiều năm nay đã gây ra bao nhiêu
vụ khiêu khích biên giới, lấn chiếm đất đai của Việt Nam, phá hoại hai cuộc đàm phán giữa Việt
Nam và Trung Quốc năm 1974 và năm 1977-1978 để giải quyết vấn đề biên giới. Ngày 17 tháng 2
năm 1979 họ lại phát động cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, ồ ạt tiến đánh 6 tỉnh của Việt Nam
tiếp giáp với Trung Quốc với 60 vạn quân.

Để giúp bạn đọc hiểu được thực chất của vấn đề biên giới Việt –Trung, thấy rõ thiện chí của
Đảng, Chính phủ và nhân dân ta, thái độ phản trắc của những người cầm quyền Trung Quốc, Nhà
xuất bản Sự Thật xuất bản cuốn sách này. Cuốn sách gồm toàn bộ bản “Bị vong lục của Bộ Ngoại
giao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc nhà cầm quyền Trung Quốc gây
khiêu khích, xâm lấn lãnh thổ Việt Nam ở vùng biên giới” công bố ngày 15-03-1979 tại Hà Nội.

Chúng tôi chú thích thêm một số điểm ở cuối sách để bạn đọc tham khảo. Xin trân trọng giới
thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.

Tháng 3 năm 1979

NHÀ XUẤT BẢN SỰ THẬT

I- Sự hình thành biên giới lịch sử giữa Việt Nam và Trung Quốc và sự thoả thuận năm
1957-1958 về biên giới giữa hai nước.

1- Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng giáp giới nhau trên đất liền và trên biển
(vịnh Bắc Bộ). Đường biên giới giữa hai nước đã được hình thành qua quá trình lịch sử lâu dài.
Trước khi bị Pháp áp đặt chế độ thực dân, Việt Nam đã là một nước độc lập có chủ quyền, có
đường biên giới rõ rệt, ổn định với Trung Quốc.

Cách đây gần 100 năm, Chính phủ Pháp và triều đình nhà Thanh Trung Quốc đã ký kết các
Công ước 1887-1895 giải quyết vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, chính thức công
nhận về cơ bản đường biên giới vốn có đó.

Việc hoạch định biên giới đã được hai bên cùng tiến hành theo từng đoạn từ tháng 1 năm
1886 đến tháng 3 năm 1887; ngày 26 tháng 6 năm 1887 hai Chính phủ nói trên đã ký Công ước
hoạch định biên giới tại Bắc Kinh. Điều 1 của Công ước này đã hoạch định đoạn biên giới giữa Việt
Nam với các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và một phần tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Điều 2 của
Công ước đã hoạch định biên giới trong vịnh Bắc Bộ và đoạn biên giới giữa Việt Nam và phần còn
lại của tỉnh Vân Nam cho đến sông Đà. Chính phủ Pháp và triều đình nhà Thanh lại ký tại Bắc Kinh
Công ước ngày 20 tháng 6 năm 1895 bổ sung cho Công ước năm 1887 nói rõ thêm về đoạn biên
giới giữa Việt Nam và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) [1].

Việc cắm mốc đã được tiến hành từ đầu năm 1890 đến tháng 6 năm 1897. Hệ thống mốc giới
gồm trên 310 mốc đã cụ thể hoá đường biên giới trên thực địa; nói chung các mốc giới đó còn tồn
tại cho đến ngày nay.

Thực tế, từ ngày ký các Công ước, các chính quyền kế tiếp nhau ở hai bên đều thực hiện chủ
quyền trong vùng đất và phần vịnh Bắc Bộ do đường biên giới phân định. Tuy nhiên các chính
quyền phản động của Trung Quốc từ 1949 về trước cũng đã lấn chiếm trên 60 điểm của Việt Nam.

Như vậy, đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc chạy suốt trên đất liền và trong vịnh
Bắc Bộ đã được hoạch định rõ ràng trong các Công ước ký kết giữa Chính phủ Pháp và triều đình
nhà Thanh trong những năm 1887-1895 và đã được chính thức cắm mốc (trên đất liền). Đó là một
đường biên giới hoàn chỉnh cả trên đất và trong vịnh Bắc Bộ, có cơ sở lịch sử trong đời sống chính
trị lâu đời của hai dân tộc, có giá trị pháp lý quốc tế vững chắc, có đầy đủ yếu tố thực tế để nhìn
nhận tại thực địa.

Qua các văn kiện trao đổi, Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc đã nhiều lần xác
nhận đường biên giới lịch sử đó.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng cuộc đàm phán và ký kết Công ước hoạch định biên giới đã được
tiến hành song song với việc đàm phán ký kết Công ước về thương mại giữa Pháp và nhà Thanh.
Triều đình nhà Thanh ra sức liên kết hai vấn đề này để gây sức ép với Pháp. Trong quá trình
thương lượng, vì mục đích sớm mở rộng buôn bán với Trung Quốc, thành lập các lãnh sự quán
Pháp trên đất Trung Quốc và nhanh chóng thực hiện kế hoạch bình định Việt Nam, Pháp đã cắt
nhượng cho nhà Thanh mũi Bắc Luân, vùng Giang Bình, tổng Bát Tràng-Kiến Duyên, tổng Đèo
Luông, tổng Tụ Long và một số nơi khác, làm thiệt hại cho nhân dân Việt Nam.

2- Mặc dù vậy, tháng 11 năm 1957, Ban Chấp hành trung ương Đảng Lao động Việt Nam (tức
Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay) đã nêu với phía Trung Quốc: hai bên giữ nguyên trạng [2]
đường biên giới do lịch sử để lại, vấn đề quốc giới là vấn đề quan trọng nên cần được giải quyết
theo những nguyên tắc pháp lý đang có hoặc được xác định lại và phải do Chính phủ hai nước
quyết định, mọi tranh chấp có thể xảy ra về biên giới, lãnh thổ cần được giải quyết bằng thương
lượng. Đây là một chủ trương đúng đắn, hợp tình hợp lý, phù hợp với thực tế lịch sử và luật pháp
quốc tế. Tháng 4 năm 1958, Ban Chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc trả lời đồng ý
với đề nghị của phía Việt Nam.

Sự thoả thuận nói trên của hai Đảng có ý nghĩa nguyên tắc và thực tiễn to lớn vì không những
để giải quyết các vấn đề bất đồng về biên giới và lãnh thổ mà còn để xây dựng đường biên giới hữu
nghị lâu dài giữa hai nước. Đó là những ý nghĩ chân thành và lòng mong muốn thật sự của Đảng,
Chính phủ và nhân dân Việt Nam, cho nên phía Việt Nam luôn luôn triệt để tôn trọng sự thoả thuận
giữa hai Trung ương Đảng.

Nhưng thái độ của phía Trung Quốc lại trái ngược hẳn: họ vi phạm ngày càng nghiêm trọng sự
thoả thuận đó và không tôn trọng nguyên tắc giữ nguyên trạng đường biên giới do lịch sử để lại và
đã lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam ở 90 điểm trên toàn tuyến biên giới Việt Trung từ 1949 đến nay.
II- Tình hình Trung quốc lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam từ năm 1954 đến nay.

Trong một phần tư thế kỷ vừa qua, nhà cầm quyền Trung Quốc đã lần lượt lấn chiếm hết khu
vực này đến khu vực khác của Việt Nam, từ khu vực nhỏ hẹp đến khu vực to lớn, từ khu vực quan
trọng về quân sự đến khu vực quan trọng về kinh tế. Họ đã dùng đủ mọi thủ đoạn, kể cả những thủ
đoạn xấu xa mà các chế độ phản động của Trung Quốc trước kia không dùng.

Dưới đây là một số thủ đoạn chính

1- Từ xâm canh, xâm cư đến xâm chiếm đất.


Lợi dụng đặc điểm là núi sông hai nước ở nhiều nơi liền một dải, nhân dân hai bên biên giới
vốn có quan hệ họ hàng, dân tộc, phía Trung Quốc đã đưa dân họ vào những vùng lãnh thổ Việt
Nam để làm ruộng, làm nương, rồi định cư những người dân đó ở luôn chỗ có ruộng, nương, cuối
cùng nhà cầm quyền Trung Quốc ngang ngược coi những khu vực đó là lãnh thổ Trung Quốc.

Khu vực Trình Tường thuộc tỉnh Quảng Ninh là một thí dụ điển hình cho kiểu lấn chiếm đó.
Khu vực này được các văn bản và các bản đồ hoạch định và cắm mốc xác định rõ ràng là thuộc
lãnh thổ Việt Nam: đường biên giới lịch sử tại đây đi qua một dãy núi cao, chỉ rõ làng Trình Tường
và vùng chung quanh là lãnh thổ Việt Nam. Trên thực tế, trong bao nhiêu đời qua, những người dân
Trình Tường, những người Trung Quốc sang quá canh ở Trình Tường đều đóng thuế cho nhà
đương cục Việt Nam. Nhưng từ năm 1956, phía Trung Quốc tìm cách nắm số dân Trung Quốc sang
làm ăn ở Trình Tường bằng cách cung cấp cho họ các loại tem phiếu mua đường, vải và nhiều
hàng khác, đưa họ vào công xã Đồng Tâm thuộc huyện Đông Hưng, khu tự trị Choang-Quảng Tây.
Nhà đương cục Trung Quốc nghiễm nhiên biến một vùng lãnh thổ Việt Nam dài 6 km, sâu hơn 1,3
km thành sở hữu tập thể của một công xã Trung Quốc, thành lãnh thổ Trung Quốc. Từ đó, họ đuổi
những người Việt Nam đã nhiều đời nay làm ăn sinh sống ở Trình Tường đi nơi khác, đặt đường
dây điện thoại, tự cho phép đi tuần tra khu vực này, đơn phương sửa lại đường biên giới sang đồi
Khâu Thúc của Việt Nam. Tiếp đó họ đã gây ra rất nhiều vụ hành hung, bắt cóc công an vũ trang
Việt Nam đi tuần tra theo đường biên giới lịch sử và họ phá hoại hoa màu của nhân dân địa
phương. Trình Tường không phải là một trường hợp riêng lẻ, còn đến trên 40 điểm khác mà phía
Trung Quốc tranh lấn với thủ đoạn tương tự như xã Thanh Lòa, huyện Cao Lộc (mốc 25, 26, 27) ở
Lạng Sơn, Khẳm Khau (mốc 17−19) ở Cao Bằng, Tà Lùng, Làn Phù Phìn, Minh Tân (mốc 14) ở Hà
Tuyên, khu vực xã Nặm Chay (mốc 2−3) ở Hoàng Liên Sơn với chiều dài hơn 4 km, sâu hơn 1 km,
diện tích hơn 300 ha.

Có thể nói đây là một kiểu chiếm đất một cách êm lặng.

2- Lợi dụng việc xây dựng các công trình hữu nghị để đẩy lùi biên giới sâu vào lãnh
thổ Việt Nam.
Năm 1955, tại khu vực Hữu Nghị quan, khi giúp Việt Nam khôi phục đoạn đường sắt từ biên
giới Việt-Trung đến Yên Viên, gần Hà Nội, lợi dụng lòng tin của Việt Nam, phía Trung Quốc đã đặt
điểm nối ray đường sắt Việt-Trung sâu trong lãnh thổ Việt Nam trên 300 m so với đường biên giới
lịch sử, coi điểm nối ray là điểm mà đường biên giới giữa hai nước đi qua. Ngày 31 tháng 12 năm
1974, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà đã đề nghị Chính phủ hai nước giao cho ngành đường
sắt hai bên điều chỉnh lại điểm nối ray cho phù hợp với đường biên giới lịch sử nhưng họ một mực
khước từ bằng cách hẹn đến khi hai bên bàn toàn bộ vấn đề biên giới thì sẽ xem xét. Cho đến nay
họ vẫn trắng trợn ngụy biện rằng khu vực hơn 300 m đường sắt đó là đất Trung Quốc với lập luận
rằng “không thể có đường sắt của nước này đặt trên lãnh thổ nước khác”.

Cũng tại khu vực này, phía Trung Quốc đã ủi nát mốc biên giới số 18 nằm cách cửa Nam quan
100 m trên đường quốc lộ để xoá vết tích đường biên giới lịch sử, rồi đặt cột kilômét 0 đường bộ
sâu vào lãnh thổ Việt Nam trên 100 m, coi đó là vị trí đường quốc giới giữa hai nước ở khu vực này.

Như vậy họ đã lấn chiếm một khu vực liên hoàn từ đường sắt sang đường bộ thuộc xã Bảo
Lâm, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn của Việt Nam, dài 3,1 km và vào sâu đất Việt Nam 0,5 km.
Năm 1975 tại khu vực mốc 23 (xã Bảo Lâm, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn) họ định diễn lại thủ
đoạn tương tự khi hai bên phối hợp đặt đường ống dẫn dầu chạy qua biên giới: phía Việt Nam đề
nghị đặt điểm nối ống dẫn dầu đúng đường biên giới, họ đã từ chối, do đó bỏ dở công trình này.

Khi xây dựng các công trình cầu cống trên sông, suối biên giới, phía Trung Quốc cũng lợi dụng
việc thiết kế kỹ thuật làm thay đổi dòng chảy của sông, suối về phía Việt Nam, để nhận đường biên
giới có lợi cho phía Trung Quốc.

Cầu ngầm Hoành Mô thuộc tỉnh Quảng Ninh được Trung Quốc giúp xây dựng vào năm 1968.
Một thời gian dài sau khi cầu được xây dựng xong, hai bên vẫn tôn trọng đường biên giới ở giữa
cầu, vật liệu dự trữ để sửa chữa cầu sau này cũng được đặt ở mỗi bên với số lượng bằng nhau tính
theo đường biên giới giữa cầu. Nhưng do Trung Quốc có sẵn ý đồ chỉ xây một cống nước chảy nằm
sát bờ Việt Nam nên lưu lượng dòng chảy đã chuyển hẳn sang phía Việt Nam, từ đó phía Trung
Quốc dịch đường biên giới trên cầu quá sang đất Việt Nam. Thủ đoạn như vậy cũng được thực hiện
đối với cầu Pò Hèn (Quảng Ninh), đập Ái Cảnh (Cao Bằng), cầu Ba Nậm Cúm (Lai Châu)…

3- Đơn phương xây dựng các công trình ở biên giới lấn sang đất Việt Nam.
Trên đoạn biên giới đất liền cũng như ở các đoạn biên giới đi theo sông suối, tại nhiều nơi,
phía Trung Quốc đã tự tiện mở rộng xây dựng các công trình để từng bước xâm lấn đất.

Tại khu vực mốc 53 (xã Đàm Thuỷ, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng) trên sông Quy Thuận
có thác Bản Giốc, từ lâu là của Việt Nam và chính quyền Bắc Kinh cũng đã công nhận sự thật đó.
Ngày 20 tháng 2 năm 1970 phía Trung Quốc đã huy động trên 2.000 người kể cả lực lượng vũ trang
lập thành hàng rào bố phòng dày đặc bao quanh toàn bộ khu vực thác Bản Giốc thuộc lãnh thổ Việt
Nam, cho công nhân cấp tốc xây dựng một đập kiên cố bằng bê tông cốt sắt ngang qua nhánh sông
biên giới, làm việc đã rồi, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên sông và ở cồn Pò Thoong, và ngang
nhiên nhận cồn này là của Trung Quốc.

Các thị trấn Ái Điểm (đối diện với Chi Ma, Lạng Sơn), Bình Mãng (đối diện Sóc Giang, Cao
Bằng) vốn đã nằm sát các mốc giới 43 và 114, lại ngày càng được phía Trung Quốc mở rộng ra lấn
sang đất Việt Nam từ hàng chục đến hàng trăm mét với công trình, nhà cửa, trường học, khu phố…

Bằng cách tổ chức lâm trường, trồng cây gây rừng, làm đường chắn lửa, đặt hệ thống điện
cao thế, điện thoại lấn vào lãnh thổ Việt Nam, Trung Quốc đã biến nhiều vùng đất khác của Việt
Nam thành đất của Trung Quốc.

4- Từ mượn đất của Việt Nam đến biến thành lãnh thổ của Trung Quốc.
Ở một số địa phương, do địa hình phức tạp, điều kiện sinh hoạt của dân cư Trung Quốc gặp
khó khăn, theo yêu cầu của phía Trung Quốc, Việt Nam đã cho phía Trung Quốc mượn đường đi
lại, cho dùng mỏ nước, cho chăn trâu, lấy củi, đặt mồ mả… trên đất Việt Nam. Nhưng lợi dụng thiện
chí đó của Việt Nam, họ đã dần dần mặc nhiên coi những vùng đất mượn này là đất Trung Quốc.
Khu vực Phia Un (mốc 94−95) thuộc huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng là điển hình cho kiểu lấn chiếm
này. Tại đây, mới đầu phía Trung Quốc mượn con đường mòn, rồi tự ý mở rộng mặt đường để ô-tô
đi lại được vào khu vực mỏ của Trung Quốc, đặt đường dây điện, đưa dân đến ở ngày càng đông,
lập làng bản mới. Dựa vào “thực tế” đó, từ 1956 họ không thừa nhận đường biên giới lịch sử chạy
trên đỉnh núi Phia Un mà đòi biên giới chạy xa về phía nam con đường, sâu vào đất Việt Nam trên
500 mét. Lý lẽ của họ là nếu không phải đất của Trung Quốc sao họ lại có thể làm đường ô-tô, đặt
đường điện thoại được… Nguyên nhân chủ yếu của việc họ lấn chiếm là vì khu vực Phia Un có mỏ
măng-gan.

5- Xê dịch và xuyên tạc pháp lý các mốc quốc giới để sửa đổi đường biên giới.
Ngoài việc lợi dụng một số các mốc giới đã bị Trung Quốc xê dịch từ trước sai với nguyên
trạng đường biên giới lịch sử để chiếm giữ trái phép đất Việt Nam, nay phía Trung Quốc cũng tự ý
di chuyển mốc ở một số nơi, hoặc lén lút đập phá, thủ tiêu các mốc không có lợi cho họ như ở khu
vực Chi Ma (Lạng Sơn), khu vực mốc 136 ở Cao Bằng… Đối với những trường hợp như vậy, họ
đều khước từ đề nghị của phía Việt Nam về việc hai bên cùng điều tra và lập biên bản xác nhận.
Ngay tại một số nơi mà vị trí mốc giới đặt đúng với đường biên giới lịch sử, họ cũng tìm cách xuyên
tạc đường biên giới đã rõ ràng chạy giữa hai mốc như khu vực Kùm Mu −Kim Ngân-Mẫu Sơn (mốc
41, 42, 43) ở Lạng Sơn dài trên 9 km, sâu vào đất Việt Nam 2,5 km, diện tích gần 1000 ha, khu vực
Nà Pảng-Kéo Trình (mốc 29, 30, 31) ở Cao Bằng, dài 6,45 km sâu vào đất Việt Nam 1,3 km, diện
tích gần 200 ha.

6- Làm đường biên giới lấn sang đất Việt Nam


Để chuẩn bị cho các cuộc tiến công xâm lược Việt Nam, liên tiếp trong nhiều năm trước, phía
Trung Quốc đã thực hiện kế hoạch làm đường biên giới quy mô lớn nấp dưới danh nghĩa là để “cơ
giớ hoá nông nghiệp”. Đặc biệt là từ năm 1974 lại đây, họ đã mở ồ ạt những chiến dịch làm đường,
có nơi huy động một lúc 8.000 người vào công việc này. Trong khi làm các đường đó, họ phá di tích
về đường biên giới lịch sử, nhiều nơi họ đã lấn vào lãnh thổ Việt Nam. Chỉ tính từ tháng 10 năm
1976 đến năm 1977, bằng việc làm đường biên giới, họ đã lấn vào đất Việt Nam hàng chục điểm,
có điểm diện tích rộng trên 32 ha, sâu vào đất Việt Nam trên 1 km như khu vực giữa mốc 63−65
thuộc huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng hay khu vực giữa mốc 1−2 Cao Ma Pờ thuộc tỉnh Hà Tuyên dài
4 km, sâu vào đất Việt Nam 2 km.

7- Lợi dụng việc vẽ bản đồ giúp Việt Nam để chuyển dịch đường biên giới.
Năm 1955-1956, Việt Nam đã nhờ Trung Quốc in lại bản đồ nước Việt Nam tỷ lệ 1/100.000.
Lợi dụng lòng tin của Việt Nam, họ đã sửa ký hiệu một số đoạn đường biên giới dịch về phía Việt
Nam, biến vùng đất của Việt Nam thành đất Trung Quốc. Thí dụ: họ đã sửa ký hiệu ở khu vực thác
Bản Giốc (mốc 53) thuộc tỉnh Cao Bằng, nơi họ định chiếm một phần thác Bản Giốc của Việt Nam
và cồn Pò Thoong.

8- Dùng lực lượng vũ trang uy hiếp và đóng chốt để chiếm đất.


Trên một số địa bàn quan trọng, phía Trung Quốc trắng trợn dùng lực lượng vũ trang để cố đạt
tới mục đích xâm lấn lãnh thổ. Tại khu vực Trà Mần−Suối Lũng (mốc 136−137) thuộc huyện Bảo Lạc,
tỉnh Cao Bằng, năm 1953 Trung Quốc đã cho một số hộ dân Trung Quốc sang xâm cư ở cùng với
dân của Việt Nam; sau đó, họ tiếp tục đưa dân sang thêm hình thành ba xóm với 16 hộ, 100 khẩu
mà họ đặt tên là Si Lũng theo tên một làng của Trung Quốc gần đó. Tuy thế, cho đến năm 1957
phía Trung Quốc vẫn thừa nhận khu vực này là đất của Việt Nam. Từ năm 1957 trở đi, họ tiến hành
việc dựng trường học, bắc dây truyền thanh, đào hố khai thác than chì rồi ngang nhiên cắm cờ biểu
thị chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc. Tháng 6 năm 1976 họ đã trắng trợn đưa lực lượng vũ trang
đến đóng chốt để đàn áp quần chúng đấu tranh và ngăn cản việc tuần tra của Việt Nam vào khu vực
này, chiếm hẳn một vùng đất Việt Nam trên 3,2 km, có mỏ than chì.

Ở khu vực giữa mốc 2−3 thuộc xã Nậm Chảy, huyện Mường Khương, tỉnh Hoàng Liên Sơn
cũng xảy ra tình hình như vậy. Năm 1967-1968, nhiều hộ người Mèo thuộc huyện Mã Quan, tỉnh
Vân Nam (Trung Quốc) chạy sang định cư ở đây. Phía VN đã yêu cầu phía Trung Quốc đưa số dân
đó trở về Trung Quốc, nhưng họ đã làm ngơ, lại tiếp tục tăng số dân lên đến 36 hộ gồm 152 người,
vào vùng này thu thuế, phát phiếu vải cho dân, đặt tên cho xóm dân Mèo này là “Sìn Sài Thàng”, tên
của một bản Trung Quốc ở bên kia biên giới cách khu vực này 3 km. Mặc dù phía VN đã nhiều lần
kháng nghị, họ vẫn không rút số dân đó đi, trái lại, đầu năm 1976 còn đưa lực lượng vũ trang vào
đóng chốt chiếm giữ. Nay họ đã lập thêm đường dây điện thoại, loa phóng thanh, dựng trường học,
tổ chức đội sản xuất, coi là lãnh thổ T.Quốc.

9- Đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam [3].


Quần đảo Hoàng Sa (mà Trung Quốc gọi là Tây Sa) cách Đà Nẵng khoảng 120 hải lý về phía
đông. Phía Việt Nam có đầy đủ tài liệu để chứng minh rằng quần đảo này, cũng như quần đảo
Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là Nam Sa) ở phía nam, là lãnh thổ Việt Nam. Từ lâu, nhân dân Việt
Nam đã phát hiện và khai thác quần đảo Hoàng Sa, nhà Nguyễn đã chính thức thực hiện chủ quyền
của Việt Nam đối với quần đảo đó. Sau khi thiết lập chế độ bảo hộ nước Việt Nam từ giữa thế kỷ
XIX, Pháp nhân danh nước Việt Nam, đã lập tại quần đảo đó hai đơn vị hành chính, một trạm khí
tượng mà các số liệu được cung cấp liên tục trong mấy chục năm cho Tổ chức Khí tượng thế giới
(OMM) dưới ký hiệu Hoàng Sa (Pattle). Việt Nam đã lên tục thực hiện chủ quyền của mình đối với
quần đảo này. Vấn đề chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa là rõ ràng và không thể
chối cãi được.

Nhưng sau khi quân đội Mỹ rút khỏi Việt Nam theo các quy định của Hiệp định Pa-ri ngày 27
tháng 1 năm 1973, và nhân lúc nhân dân Việt Nam đang đẩy mạnh cuộc đấu tranh để giải phóng
miền nam Việt Nam và ngụy quyền miền nam sắp sụp đổ, nhà cầm quyền Bắc Kinh đã trắng trợn
dùng lực lượng vũ trang chiếm quần đảo Hoàng Sa.

Cách họ đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa vẫn là cách họ đã dùng để lấn chiếm đất đai của các
nước láng giềng, nhưng với một sự phản bội hèn hạ vì họ luôn khoe khoang là “hậu phương đáng
tin cậy của nhân dân Việt Nam anh em”. Đại để sự kiện diễn biến như sau:

- Ngày 26 tháng 12 năm 1973, Bộ Ngoại giao Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
thông báo cho Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa biết ý định của mình sẽ tiến hành
thăm dò dầu lửa trong vịnh Bắc Bộ và đề nghị hai nước tiến hành đàm phán để xác định chính thức
biên giới giữa hai nước trong vịnh Bắc Bộ.

- Ngày 11 tháng 1 năm 1974, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố quần đảo
Tây Sa (tức là Hoàng Sa của Việt Nam), quần đảo Nam Sa (tức là Trường Sa của VN) là lãnh thổ
của Trung Quốc và không cho ai xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ của Trung Quốc.

- Ngày 18 tháng 1 năm 1974, Chính phủ Trung Quốc trả lời phía Việt Nam, đại ý nói: đồng ý đề
nghị đàm phán về vịnh Bắc Bộ, nhưng không đồng ý cho nước thứ ba vào thăm dò, khai thác vịnh
Bắc Bộ, thực tế là họ ngăn cản Việt Nam hợp tác với Nhật Bản, Pháp, Ý trong việc thăm dò, khai
thác thềm lục địa Việt Nam trong vịnh Bắc Bộ.
- Ngày 19 tháng 1 năm 1974, với một lực lượng lớn hải quân và không quân, Trung Quốc tiến
đánh quân đội của chính quyền Sài Gòn đóng ở quần đảo Hoàng Sa và họ gọi cuộc hành quân xâm
lược quần đảo này là “cuộc phản công tự vệ”.

Từ năm 1973 về trước, phía Trung Quốc đã lấn chiếm, gây khiêu khích ở nhiều nơi trên biên
giới Việt−Trung. Từ khi họ đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa, các sự kiện biên giới do họ gây ra, các
vụ lấn chiếm đất đai Việt Nam ngày càng tăng:

Năm 1974: 179 vụ.

Năm 1975: 294 vụ.

Năm 1976: 812 vụ.

Năm 1977: 873 vụ.

Năm 1978: 2175 vụ.


III- Hai cuộc đàm phán giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc để giải quyết
những vấn đề biên giới giữa hai nước.

Năm 1957-1958 hai bên thoả thuận cùng với việc giữ nguyên trạng đường biên giới do lịch sử
để lại, sẽ tiến hành các cuộc hội đàm cấp tỉnh để giải quyết những vấn đề cụ thể thuộc về dân sinh
và trật tự, trị an ở vùng biên giới hai nước. Từ đó đã có nhiều cuộc họp giữa các địa phương và đã
đi đến một số quy định về việc đi lại, buôn bán, thăm hỏi… giữa nhân dân các tỉnh biên giới. Tuy
nhiên, việc giải quyết vấn đề lãnh thổ phải do Chính phủ hai nước tiến hành đàm phán.
Vì vậy đã có hai cuộc đàm phán cấp Thứ trưởng Bộ Ngoại giao năm 1974 và năm 1977-1978.

Cuộc đàm phán lần thứ nhất.


Nhằm phục vụ công cuộc xây dựng đất nước, ngày 26 tháng 12 năm 1973, Chính phủ Việt
Nam đã đề nghị với Chính phủ Trung Quốc mở cuộc đàm phán giữa hai Chính phủ để xác định
chính thức đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc trong vịnh Bắc Bộ.

Ngày 18 tháng 1 năm 1974, Chính phủ Trung Quốc nhận lời đàm phán nhưng đòi không được
tiến hành công tác thăm dò trong một khu vực hình chữ nhật giữa vĩ tuyến 18 độ-20 độ, kinh tuyến
107 độ-108 độ và “không để nước thứ ba vào thăm dò vịnh Bắc Bộ” với mục đích ngăn cản Việt
Nam khai thác những tài nguyên của mình trong thềm lục địa Việt Nam.

Ngày 15 tháng 8 năm 1974 cuộc đàm phán được tiến hành tại Bắc Kinh.

Công ước Pháp-Thanh 1887, Điều 2 đã nói rõ: Kinh tuyến Pa-ri 105 độ 43’ kinh độ đông (nghĩa
là kinh tuyến Grin-uých 108 độ 03’13’’) là đường biên giới giữa hai nước trong vịnh Bắc Bộ. Phía
Việt Nam sẵn sàng bàn với phía Trung Quốc để xác định về cửa vịnh Bắc Bộ, từ đó đi đến xác định
chính thức đường biên giới trong vịnh.

Phía Trung Quốc hoàn toàn phủ nhận Điều 2 của Công ước 1887, không coi đường kinh tuyến
nói trên là đường biên giới, một mực nói rằng trong vịnh Bắc Bộ xưa nay chưa hề có đường biên
giới, nay hai nước phải bàn bạc để phân chia. Mặc dù phía Việt Nam tuyên bố sẵn sàng nghe ý kiến
của phía Trung Quốc, nhưng họ chỉ nói một cách chung chung là nếu theo đường kinh tuyến đó thì
họ “được phần nhỏ quá, còn phía Việt Nam được phần lớn quá”, cho nên phải “phân chia công
bằng, hợp lý”, nhưng họ cũng không chịu đưa ra một phương án nào cụ thể, cố tình kéo dài cuộc
đàm phán. Cuối tháng 11 năm 1974 cuộc đàm phán phải tạm ngừng.

Cuộc đàm phán lần thứ hai.


Ngày 18 tháng 3 năm 1975, Chính phủ Trung Quốc đề nghị với Chính phủ Việt Nam mở cuộc
đàm phán giữa hai Chính phủ về vấn đề biên giới trên bộ giữa hai nước vào năm 1975.

Ngày 12 tháng 4 năm 1975, Chính phủ Việt Nam trả lời đồng ý về nguyên tắc, nhưng vì trước
mắt đang bận nhiều việc do sự phát triển của tình hình giải phóng miền nam Việt Nam nên Chính
phủ Việt Nam đề nghị lùi cuộc đàm phán vào một thời gian thích hợp. Trong lúc chờ đợi, phía Việt
Nam đề nghị hai bên mở lại các cuộc hội đàm giữa các tỉnh biên giới, nhưng những cuộc đàm phán
này cũng không đưa lại kết quả gì, trong khi đó phía Trung Quốc ngày càng tăng cường vi phạm và
khiêu khích ở biên giới Việt Nam-Trung Quốc.

Ngày 7 tháng 10 năm 1977, cuộc đàm phán bắt đầu tại Bắc Kinh giữa đại biểu Chính phủ Việt
Nam và đại biểu Chính phủ Trung Quốc để giải quyết những vấn đề về biên giới trên bộ và trong
vịnh Bắc Bộ.

Phía Việt Nam, một lần nữa, khẳng định hai bên cần triệt để tôn trọng Công ước 1887 và 1895
về đường biên giới trên bộ và trên biển, vì vậy cần bàn về về toàn bộ đường biên giới. Phía Trung
Quốc một mực chỉ muốn bàn vấn đề biên giới trên bộ.

Cuộc đàm phán gặp khó khăn. Để đưa cuộc đàm phán tiến lên, phía Việt Nam đồng ý bàn vấn
đề biên giới trên bộ trước, vấn đề biên giới trong vịnh Bắc Bộ sau. Nhưng phía Trung Quốc vẫn
không chịu bàn. Họ đòi phía Việt Nam phải từ bỏ quan điểm cho rằng trong vịnh Bắc Bộ đã có
đường biên giới thì họ mới bàn vấn đề biên giới trên bộ.
Để tìm lối thoát, phía Việt Nam lại đề nghị hai bên đi ngay vào bàn vấn đề biên giới trên bộ,
còn bất đồng về vịnh Bắc Bộ mỗi bên giữ ý kiến của mình và sẽ bàn sau.

Trên cơ sở những đề nghị của Việt Nam và những đề nghị của Trung Quốc, phía Việt Nam đã
đưa ra một bản dự thảo Hiệp định về đường biên giới quốc gia trên bộ giữa hai nước để hai bên
cùng bàn bạc.

Toàn văn bản dự thảo Hiệp định như sau:

DỰ THẢO

HIỆP ĐỊNH VỀ ĐƯỜNG BIÊN GIỚI QUỐC GIA TRÊN BỘ GIỮA NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM VÀ NƯỚC CỘNG HOÀ NHÂN DÂN TRUNG HOA

Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân
Trung Hoa,

Xuất phát từ lòng mong muốn không ngừng củng cố và tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và
tình hữu nghị vĩ đại truyền thống trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản giữa
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, giữa nhân dân
Việt Nam và nhân dân Trung Quốc;

Nhằm mục đích xây dựng đường biên giới hữu nghị lâu dài giữa Việt Nam và Trung Quốc, phù
hợp với nguyện vọng tha thiết và lợi ích cơ bản của nhân dân hai nước;

Trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, hoàn toàn bình đẳng
với nhau và trên nguyên tắc tôn trọng đường biên giới do lịch sử để lại;

Đã thoả thuận những điều sau đây:

Điều 1

Hai bên chính thức xác nhận đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được hoạch
định và cắm mốc theo các văn kiện về biên giới ký kết giữa Chính phủ Cộng hoà Pháp và Chính
phủ nhà Thanh Trung Quốc là đường biên giới quốc gia giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa.

Các văn kiện biên giới đó gồm có:

- Công ước về hoạch định biên giới giữa Bắc Kỳ và Trung Quốc ký ngày 26 tháng 6 năm 1887,
với các biên bản và bản đồ hoạch định kèm theo.

- Công ước bổ sung Công ước về hoạch định biên giới giữa Bắc Kỳ và Trung Quốc ngày 26
tháng 6 năm 1887, ký ngày 20 tháng 6 năm 1895 với các biên bản và bản đồ hoạch định kèm theo

- Các biên bản và bản đồ cắm mốc thực hiện hai Công ước nói trên ký kết từ ngày 15 tháng 4
năm 1890 đến ngày 13 tháng 6 năm 1897, ngày hoàn thành việc cắm mốc đoạn đường biên giới
giữa Bắc Kỳ (Việt Nam) và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc).
Trong các điều khoản sau đây, các văn kiện về biên giới nói trên được gọi tắt là “Công ước
1887 và Công ước 1895”

Điều 2

Hai bên cam kết tôn trọng đường biên giới quốc gia giữa hai nước nói ở Điều 1.

Những vùng đất nào do bên này quản lý vượt quá đường biên giới nói ở Điều 1 thì nay trả lại
cho bên kia.

Điều 3

Đường biên giới quốc gia giữa hai nước nói ở Điều 1 nói chung là rõ. Trường hợp có một số ít
nơi trên đường biên giới sau khi hai bên đã cùng nhau đối chiếu, nghiên cứu nhiều lần theo đúng
các quy định của Công ước 1887 và Công ước 1895 mà vẫn không xác định được là thuộc về bên
nào, thì hai bên sẽ qua khảo sát thực địa, hiệp thương hữu nghị giải quyết theo nguyên tắc công
bằng hợp lý.

Điều 4

1- Đối với những nơi đường biên giới đi trên sông, suối, cũng như đối với các cù lao, bãi nổi
trên các sông, suối biên giới đó và trường hợp các sông, suối biên giới đổi dòng vì nguyên nhân
thiên nhiên, hai bên triệt để tuân theo các quy định của Công ước 1887 và Công ước 1895 liên quan
đến đường biên giới trên các sông, suối đó.

2- Không kể đường biên giới trên sông, suối biên giới theo các quy định của Công ước 1887
và Công ước 1895 như thế nào, đường biên giới trên các cầu bắc qua các sông, suối đó đều đi qua
chính giữa cầu.

Điều 5

Trong thời hạn một năm, sau khi quyết định của Ủy ban liên hợp nói ở Điều 7 dưới đây về từng
đoạn đường biên giới được hai Chính phủ chuẩn y, dân ở vùng đất mà bên này trả lại cho bên kia
sẽ trở về sinh sống ở nước mà mình mang quốc tịch.

Trường hợp có người muốn ở lại thì trong thời hạn đó họ phải đăng ký với chính quyền địa
phương để trở thành công dân của bên được trả vùng đất.

Điều 6

Mỗi bên không để dân của mình vượt đường biên giới sang quá canh và làm ăn trái phép tại
những vùng đất thuộc lãnh thổ bên kia.

Ở những vùng đất trả lại cho nhau, sẽ chấm dứt quá canh ngay sau khi quyết định của Ủy ban
liên hợp nói ở Điều 7 dưới đây về từng đoạn đường biên giới được hai Chính phủ chuẩn y.

Người có hoa màu làm trên đất quá canh chưa thu hoạch sẽ được phép sang chăm nom cho
đến lúc thu hoạch xong, và phải tuân theo mọi luật lệ của nước sở tại.

Điều 7
Sau khi Hiệp định này có hiệu lực, hai bên thành lập Ủy ban liên hợp biên giới Việt Nam-Trung
Quốc (gọi tắt là Ủy ban liên hợp) gồm số đại biểu hai bên bằng nhau. Ủy ban liên hợp căn cứ vào
các điều khoản của Hiệp định này thực hiện nhiệm vụ sau đây:

1- Xác định cụ thể trên thực địa toàn bộ đường biên giới quốc gia trên bộ giữa hai nước theo
Điều 1 của Hiệp định này;

2- Giải quyết trên thực địa những nơi trên đường biên giới nói trong Điều 2 và Điều 3 của Hiệp
định này. Các quyết định của Ủy ban liên hợp về từng đoạn đường biên giới phải được hai Chính
phủ chuẩn y;

3- Giải quyết những vấn đề liên quan đến việc bên này trả lại những vùng đất cho bên kia;

4- Kiểm tra và xác nhận vị trí của các mốc quốc giới theo Công ước 1887 và Công ước 1895,
đặt lại những mốc quốc giới không ở đúng vị trí theo các Công ước nói trên và đặt thêm các mốc
quốc giới bổ sung ở những nơi hai bên thấy cần thiết, giải quyết các vấn đề liên quan đến việc tu bổ
các mốc quốc giới;

5- Soạn thảo Nghị định thư xác định trên thực địa đường biên giới quốc gia trên bộ giữa hai
nước, vẽ bản đồ đường biên giới đó có ghi tỉ mỉ vị trí đường biên giới và vị trí các mốc quốc giới;

Ủy ban liên hợp bắt đầu hoạt động ngay sau khi được thành lập và kết thúc nhiệm vụ sau khi
Nghị định thư nói trên được ký kết.

Điều 8

Nghị định thư với bản đồ kèm theo nói ở Điều 7, đoạn 5 sẽ do hai Chính phủ ký kết và sẽ là
một bộ phận cấu thành của Hiệp định này.

Điều 9

Hiệp định này sẽ được phê chuẩn và có hiệu lực kể từ ngày trao đổi văn kiện phê chuẩn.

Sau khi Hiệp định này có hiệu lực và Nghị định thư nói ở Điều 7, đoạn 5 của Hiệp định được ký
kết, mọi Công ước, văn kiện có liên quan đến đường biên giới trên bộ giữa hai nước lập tức mất giá
trị.

Làm tại…… ngày…… tháng…… năm…… thành hai bản bằng tiếng Việt Nam và tiếng Trung
Quốc, cả hai văn bản Việt Nam và Trung Quốc đều có giá trị như nhau.

THAY MẶT CHÍNH PHỦ THAY MẶT CHÍNH PHỦ

NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI NƯỚC CỘNG HOÀ NHÂN DÂN

CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRUNG HOA

Phía Trung Quốc đã từ chối xem xét bản dự thảo Hiệp định đó. Họ đưa ra một đề nghị khác,
thực chất là đề nghị cũ của họ được sửa đổi. Ý đồ của họ là nhằm duy trì hiện trạng biên giới
(không phải nguyên trạng đường biên giới lịch sử) nhằm giữ những chỗ họ lấn chiếm và sửa lại
nhiều chỗ có lợi cho họ.
Cuộc đàm phán kéo dài, dây dưa đến mười tháng không đi đến kết quả. Ngay trong khi phía
Trung Quốc tăng cường khiêu khích ở biên giới, gây ra vụ người Hoa, cắt viện trợ cho Việt Nam,
phía Việt Nam vẫn kiên trì tiếp tục nói chuyện. Nhưng cuối cùng không đi đến kết quả gì, vì tình hình
chứng tỏ là phía Việt Nam càng thiện chí thì phía Trung Quốc càng lấn tới. Họ ngoan cố thực hiện
dã tâm bành trướng nước lớn của họ, cho nên họ không chịu đáp ứng một điều kiện nào do phía
Việt Nam đưa ra. Cuộc đàm phán về biên giới bị thất bại, trách nhiệm hoàn toàn thuộc về phía
Trung Quốc.

IV- Tình hình Trung Quốc gây khiêu khích, xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ của Việt Nam
từ năm 1978 đến nay.

Từ đầu năm 1978 đến ngày 17 tháng 2 năm 1979, ngày mà nhà cầm quyền Bắc Kinh đưa
quân ồ ạt xâm lược Việt Nam, một mặt họ làm bế tắc cuộc đàm phán về biên giới, mặt khác họ công
khai thực hiện chính sách điên cuồng chống Việt Nam.

Nói riêng về khu vực biên giới, nhà cầm quyền Bắc Kinh leo thang dùng vũ lực, tăng cường
khiêu khích xâm phạm biên giới, chủ quyền, lãnh thổ của Việt Nam.

- Từ đầu năm 1978 đến khoảng tháng 8 năm 1978, nhà cầm quyền Bắc Kinh dùng dụ dỗ,
cưỡng ép người Hoa đang làm ăn yên ổn ở Việt Nam, chủ yếu là tại các tỉnh biên giới, chạy về
Trung Quốc hòng gây rối loạn về chính trị, xã hội và kinh tế cho Việt Nam khi đó đang phải giải
quyết hậu quả nặng nề của những thiên tai chưa từng thấy ở Việt Nam trong vòng 100 năm qua,
đồng thời họ chuẩn bị một số tay chân cần thiết cho các cuộc hành quân xâm lược sau này. Với
những thủ đoạn thâm độc đó, họ đã lôi kéo khoảng 170.000 người Hoa về Trung Quốc. Thâm độc
hơn cả là họ thình lình đóng cửa biên giới trong lúc dòng người Hoa đang ùn ùn đổ về Trung Quốc,
để kiếm cớ xúi giục những người đó chống lại nhà đương cục Việt Nam. Đó là tình hình họ đã gây
ra ở cầu biên giới Bắc Luân (thuộc tỉnh Quảng Ninh), ở cửa khẩu Hữu Nghị quan (thuộc tỉnh Lạng
Sơn); trong lúc người Hoa ùn tắc lại, họ cho bọn tay sai kết hợp với một bọn côn đồ hành hung, gây
hỗn loạn ngày 8 tháng 8 năm 1978 ở cầu Bắc Luân, ngày 25 tháng 8 năm 1978 ở Hữu Nghị quan,
làm chết hai cán bộ và công an biên phòng của Việt Nam và 25 người khác bị thương.

- Nhà cầm quyền Bắc Kinh ồ ạt đưa quân đội (bộ binh, thiết giáp, không quân, pháo binh) áp
sát biên giới, xây dựng công sự, bố trí trận địa trên các điểm cao suốt dọc biên giới, đưa thường
dân Trung Quốc ở vùng biên giới vào sâu nội địa. Trong lúc đó, bộ máy tuyên truyền đồ sộ của Bắc
Kinh vu cáo Việt Nam “xâm phạm lãnh thổ Trung Quốc” và Phó thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu
Bình, bất chấp các nguyên tắc của Liên Hợp quốc, lên tiếng đe dọa “dạy cho Việt Nam một bài học”,
“trừng phạt Việt Nam”.

- Các lực lượng vũ trang của Trung Quốc liên tiếp xâm nhập lãnh thổ Việt Nam, phá các hàng
rào dây thép gai, các bãi mìn và các công trình phòng thủ khác của phía Việt Nam.

- Đột nhập lãnh thổ Việt Nam để tập kích các trạm gác của dân quân và của công an biên
phòng Việt Nam, bắn lén, bắt cóc người của Việt Nam đưa về Trung Quốc. Một vài thí dụ:
+ Ngày 13 tháng 10 năm 1978, lực lượng vũ trang Trung Quốc vào sâu đất Việt Nam tại xã
Pha Long, huyện Mường Khương, tỉnh Hoàng Liên Sơn, phục kích một tổ công tác đang làm nhiệm
vụ, bắn chết hai chiến sĩ công an biên phòng, bắt anh Nguyễn Đình Ấm đưa về Trung Quốc,

+ Ngày 1 tháng 11 năm 1978, ở đồi Chông Mu thuộc tỉnh Cao Bằng, hàng trăm lính với hơn
1.000 dân binh Trung Quốc tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam, nổ súng tiến công một tổ dân quân Việt
Nam đang làm nhiệm vụ trên đất Việt Nam,

+ Ngày 23 tháng 12 năm 1978, lực lượng vũ trang Trung Quốc vượt biên giới sang tập kích
một tổ dân quân Việt Nam đang làm nhiệm vụ trên đất Việt Nam tại khu vực mốc 2 (thuộc Bình Nhi,
tỉnh Lạng Sơn), bắt đưa về Trung Quốc 4 người.

Những vụ khiêu khích tương tự phải tính hàng trăm trên toàn tuyến biên giới.

Kể từ đầu năm 1979, các cuộc khiêu khích của phía Trung Quốc được tiến hành với một qui
mô ngày càng lớn, với những lực lượng vũ trang ngày càng đông hơn:

- Dùng súng lớn (từ đại liên, súng cối 82 đến DKZ75 và 85) từ đất Trung Quốc trắng trợn bắn
sang đất Việt Nam, có khi bắn từng đợt, có khi bắn liên tiếp nhiều ngày, mục tiêu của họ là người
dân thường đang đi trên đường, các làng, bản, các khu phố của các thị trấn, các công trường, lâm
trường, nông trường v.v... Dưới đây là một vài thí dụ:

+ Ngày 14 tháng 1 năm 1979 bắn vào thôn Phai Lầu, huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh.

+ Cùng ngày, bắn vào các phố chính của thị xã Lao Cai, tỉnh Hoàng Liên Sơn đang lúc đông
người qua lại.

+ Ngày 2 tháng 2 năm 1979 bắn vào nhà máy đường Phục Hoà và xóm Hưng Long, xã Quy
Thuận, huyện Quảng Hoà, tỉnh Cao Bằng.

+ Từ ngày 10 tháng 1 năm 1979 đến ngày 25 tháng 1 năm 1979, liên tục dùng súng bộ binh
các loại và súng cối 82 bắn vào đồn biên phòng Việt Nam ở Trà Lĩnh thuộc tỉnh Cao Bằng.

- Dùng lực lượng bộ binh lớn có hoả lực mạnh yểm trợ tiến công và lấn chiếm một số vùng đất
của Việt Nam. Một vài thí dụ:

+ Ngày 10 tháng 2 năm 1979, hơn một tiểu đoàn quân chính quy Trung Quốc tiến vào đất Việt
Nam hơn 2 km, đánh chiếm các trạm gác của dân quân xã Thanh Lòa, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng
Sơn.

+ Ngày 11 tháng 2 năm 1979, một đại đội quân chính quy Trung Quốc vào đánh chiếm khu vực
Hang Nà-Cốc Pheo thuộc xã Cấn Yên, huyện Thông Nông, tỉnh Cao Bằng.

+ Ngày 15 tháng 2 năm 1979, một đại đội quân chính quy Trung Quốc vượt biên giới sang
đánh chiếm bản Nà Ke, xã Bảo Lâm, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn,

Tất cả những hành động khiêu khích ngang ngược, ngày càng nghiêm trọng của phía Trung
Quốc từ trước đến nay, nhất là từ năm 1978, không nhằm mục đích nào khác là ráo riết chuẩn bị
cuộc chiến tranh xâm lược chống nhân dân Việt Nam. Thực tế đã xác minh điều đó:

Từ rạng sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979, nhà cầm quyền Bắc Kinh phát động cuộc chiến tranh
xâm lược Việt Nam với 60 vạn quân gồm 11 quân đoàn và nhiều sư đoàn độc lập (trong đó có một
số sư đoàn sơn cước chủ yếu gồm những người trước đây đã sang vùng biên giới làm đường giúp
Việt Nam và những người Hoa trước đây đã ở Việt Nam), hơn 500 xe tăng và thiết giáp, hơn 700
máy bay các loại. Ngay ngày đầu, gần 20 sư đoàn bộ binh Trung Quốc đồng thời tiến đánh sáu tỉnh
của Việt Nam giáp với Trung Quốc: Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Tuyên, Hoàng Liên Sơn,
Lai Châu.

Do bị thất bại trước những đòn giáng trả nặng nề của nhân dân Việt Nam, bị dư luận toàn thế
giới lên án mạnh mẽ và nhân dân Trung Quốc phản đối, nhà cầm quyền Bắc Kinh mấy ngày gần
đây đang phải rút quân đội của họ về nước.

Từ khi bắt đầu xâm lược Việt Nam, đi đến đâu, quân xâm lược Trung Quốc cũng bắn bừa bãi,
đốt phá, cướp của, hãm hiếp phụ nữ và giết người không ghê tay bằng những cách cực kỳ dã man.
Chúng dùng báng súng đập vỡ sọ, đâm người bằng lưỡi lê, chém đầu chặt người ra thành từng
khúc, ném lựu đạn vào hầm trú ẩn, tập trung người rồi xả súng bắn. Số đông người bị giết hại là
người già, phụ nữ và trẻ em. Ở Cao Lâu, Văn Lãng (Lạng Sơn) chúng xé xác em Vi Việt Lương, học
sinh lớp 4, ra làm nhiều mảnh, lôi 7 em bé đang ngủ ra bắn rồi chặt từng khúc vứt ra sân. Ở xã
Thanh Lòa (Lạng Sơn), bốn tên lính Trung Quốc bắt cô giáo cấp 1 người dân tộc Tày mang lên đồi
hãm hiếp rồi xả súng bắn chết. Ở xí nghiệp gạch ngói xã Quang Kíu, huyện Bát Xát (Hoàng Liên
Sơn), chúng xả súng B40 giết hết nam công nhân, còn nữ công nhân thì hãm hiếp rồi bắt đưa về
Trung Quốc.

Đặc biệt nghiêm trọng là ở chợ huyện Bát Xát (Hoàng Liên Sơn), chúng chặt đầu, mổ bụng
gần 100 em nhỏ, vứt xác nằm ngổn ngang.

Trong quá trình rút về nước một cách chậm chạp, quân Trung Quốc xâm lược vẫn tiếp tục gây
nhiều tội ác đối với nhân dân Việt Nam. Chúng bắn pháo, dùng thuốc nổ phá huỷ tất cả những gì
còn lại, các thị xã Lạng Sơn, Cao Bằng và thị xã Lao Cai đã bị triệt phá; chúng còn gài lại nhiều mìn
ở khắp nơi, thậm chí bỏ thuốc độc xuống giếng nước làm cho một số dân thường bị thương vong
hoặc ngộ độc.

V- Con đường đúng đắn để giải quyết các vấn đề về biên giới giữa Việt Nam và Trung
Quốc.

Thực tế trình bày ở các phần trên đã chỉ rõ ràng:

- Giữa Việt Nam và Trung Quốc từ lâu đã hình thành một biên giới lịch sử và biên giới đó đã
được các Công ước năm 1887 và 1895 hoạch định, tiếp đó được cắm mốc rõ ràng trên suốt hơn
1.400 km trên đất liền.

- Phía Trung Quốc, vi phạm sự thoả thuận giữa hai nước về việc giữ nguyên trạng đường biên
giới do lịch sử để lại, đã hàng nghìn lần xâm phạm biên giới, chủ quyền, lãnh thổ của nước Việt
Nam trong suốt 21 năm qua.

- Phía Trung Quốc đã cố tình làm bế tắc các cuộc đàm phán về vấn đề biên giới giữa hai
nước, ngày càng tăng cường khiêu khích vũ trang nước Việt Nam và ngày 17 tháng 2 năm 1979 đã
đưa quân ồ ạt xâm lược Việt Nam.
Để che giấu quy mô của cuộc chiến tranh, lừa gạt nhân dân Trung Quốc và nhân dân thế giới,
nhà cầm quyền Trung Quốc đã nói láo một cách hèn hạ rằng phía Việt Nam đã “khiêu khích”, “xâm
lược”, khiến Trung Quốc phải “phản công tự vệ”. Cũng như khi họ xâm lược Ấn Độ năm 1962, lúc
đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974, phía Trung Quốc từng đã nói là “phản
công tự vệ”. Khi những nhà cầm quyền Bắc Kinh nói “phản công tự vệ” chính là họ đang hành động
như bọn xâm lược.

Nhà cầm quyền Bắc Kinh còn nói đây chỉ là một cuộc “chiến tranh hạn chế” tiến hành với
“những lực lượng biên phòng”. Sự thật rõ ràng là họ tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược quy
mô lớn nhằm thôn tính Việt Nam, mở đầu với sự tham gia của hàng chục sư đoàn quân chính quy,
bằng số quân Mỹ cao nhất lúc Mỹ tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Nhân dân khắp năm châu, chính phủ nhiều nước kể cả những bạn bè của Đặng Tiểu Bình ở
phương Tây đều gọi đây là cuộc xâm lược của Trung Quốc chống Việt Nam. Người dân thường
Trung Quốc cũng bắt đầu thức tỉnh về cuộc phiêu lưu mà các nhà cầm quyền Trung Quốc đang đẩy
đất nước họ đi tới với những những hậu quả không thể lường hết được.

Vì sao những người cầm quyền Trung Quốc lại tiến hành xâm lược Việt Nam mặc dù điều đó
lột trần bộ mặt thật bành trướng đại dân tộc, bộ mặt xâm lược của họ?

Nguồn gốc của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam hiện nay hiện nay là chính sách của
những người cầm quyền Trung Quốc nhằm làm cho Việt Nam suy yếu hơn, hòng buộc Việt Nam
phải khuất phục và phụ thuộc Trung Quốc, đồng thời nhằm thôn tính Lào và Campuchia để biến bán
đảo Đông Dương thành bàn đạp của họ để thực hiện chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc của họ ở
Đông Nam Á. Họ đã thất bại liên tiếp trong việc dùng bè lũ Pôn Pốt−Iêng Xary đánh Việt Nam từ
phía tây nam, gây khiêu khích vũ trang và tăng cường sức ép quân sự từ phía bắc, dùng người Hoa
để phá rối và gây bạo loạn bên trong, lợi dụng lúc Việt Nam bị khó khăn về kinh tế và lôi kéo các
nước cắt cắt viện trợ hòng bóp nghẹt Việt Nam. Họ còn đóng cửa ba Tổng lãnh sự quán của Việt
Nam ở Côn Minh, Nam Ninh, Quảng Châu, cắt đường tàu liên vận quốc tế, huỷ bỏ Hiệp định về
miễn thị thực cho cán bộ hai nước hòng che giấu việc tiến công quân sự chống nước Việt Nam.
Cuối cùng, những người cầm quyền Trung Quốc liều lĩnh tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Tiến đánh tất cả sáu tỉnh biên giới phía bắc của Việt Nam, họ còn mưu toan sửa đổi đường
biên giới, tức là giữ chặt những chỗ họ đã lấn chiếm trước đây, đồng thời lấn chiếm thêm những
chỗ khác. Chính họ đã trắng trợn nói lên điều đó khi họ nói quân Trung Quốc sẽ rút về bên kia
“đường biên giới mà Trung Quốc công nhận”. Theo tin đầu tiên, họ đã cho chuyển sâu về phía Việt
Nam mốc số 41 và mốc số 45 ở khu vực Chi Ma (tỉnh Lạng Sơn). Mặc dù vậy, họ thường xuyên
tuyên bố: “Trung Quốc không lấy một tấc đất của ai!”.

Lập trường của Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được nêu rõ trong
Công hàm ngày 2 tháng 3 năm 1979 gửi Bộ Ngoại giao Trung Quốc: những người cầm quyền Trung
Quốc đã gây chiến tranh xâm lược Việt Nam thì họ phải vĩnh viễn chấm dứt xâm lược; phải rút
ngay, rút hết, rút không điều kiện quân đội của họ về phía bên kia đường biên giới do lịch sử để lại
như hai bên đã thoả thuận; triệt để tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

Ngày 6 tháng 3 năm 1979, phía Việt Nam đã tuyên bố:

“Nếu Trung Quốc thật sự rút toàn bộ quân của họ khỏi lãnh thổ Việt Nam như họ đã tuyên bố,
thì sau khi quân Trung Quốc rút hết về bên kia đường biên giới lịch sử đã được hai bên thoả thuận
tôn trọng, phía Việt Nam sẵn sàng đàm phán ngay với phía Trung Quốc ở cấp Thứ trưởng Bộ Ngoại
giao về việc khôi phục quan hệ bình thường giữa hai nước. Địa điểm và thời gian sẽ do hai bên thoả
thuận”.

Nếu những người cầm quyền Trung Quốc tiếp tục chính sách xâm lược chống Việt Nam thì
quân và dân Việt Nam sẽ dùng quyền tự vệ thiêng liêng, kiên quyết chiến đấu chống xâm lược để
bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới.

Nhân dân Việt Nam quyết tiếp tục làm hết sức mình gìn giữ tình hữu nghị truyền thống với
nhân dân Trung Quốc.

Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam kiên quyết đòi nhà cầm quyền Trung
Quốc:

1- Vĩnh viễn chấm dứt xâm lược, phải rút ngay, rút hết, rút không điều kiện quân đội của họ về
nước; chấm dứt mọi hành động tội ác đối với nhân dân Việt Nam; triệt để tôn trọng độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; tôn trọng đường biên giới do lịch sử để lại như hai bên đã
thoả thuận; phải chấm dứt ngay việc dời cột mốc biên giới và những hành động khác nhằm thay đổi
đường biên giới đó.

2- Cùng phía Việt Nam sớm mở cuộc thương lượng nêu trong Công hàm ngày 15 tháng 3 năm
1979 của Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi Bộ Ngoại giao Trung Quốc nhằm đem lại hoà bình và ổn định
ở vùng biên giới giữa hai nước, khôi phục quan hệ bình thường giữa hai nước.

Nhân dân và Chính phủ Việt Nam tin chắc rằng các nước xã hội chủ nghĩa anh em, các nước
trong Phong trào Không liên kết, các nước độc lập dân tộc, các nước bè bạn và nhân dân yêu
chuộng hoà bình và công lý trên thế giới sẽ tăng cường đoàn kết, ủng hộ Việt Nam vì độc lập, hoà
bình, ổn định ở Đông Nam Á và thế giới.

CHÚ THÍCH

[1] Nước Việt Nam từ lâu đã là một nước độc lập, có chủ quyền. Về đường biên giới phía Bắc
(giáp Trung Quốc) qua nhiều cuộc chiến đấu oanh liệt và qua đàm phán ngoại giao (như hai cuộc
Hội nghị Vĩnh Bình năm 1083 và năm 1084 giữa nhà Lý (VN) và nhà Tống (Trung Quốc)), ông cha
ta đã giữ vững được lãnh thổ và chủ quyền, vạch được một đường biên giới rõ ràng với Trung Quốc.
Đường biên giới đó tuy đã được hình thành trong quá trình lịch sử nhưng chưa được ghi nhận trong
một hiệp ước chính thức nào giữa nước ta và Trung Quốc.

Đến thế kỷ XIX, Pháp thiết lập chế độ thực dân ở nước ta. Trong những năm cuối của thế kỷ
đó, Chính phủ Pháp, nhân danh nước Việt Nam, đã giải quyết chính thức vấn đề biên giới giữa VN
và Trung Quốc.

Tháng 6 năm 1885, Chính phủ Pháp và nhà Thanh thỏa thuận lập một Ủy ban liên hợp có
nhiệm vụ khảo sát đường biên giới giữa Bắc Kỳ (theo cách gọi của thực dân Pháp lúc đó, gồm các
tỉnh từ Ninh Bình trở ra) và Trung Quốc để đi tới hoạch định đường biên giới giữa Bắc Kỳ và Trung
Quốc.
Từ năm 1886 đến khoảng tháng 4 năm 1887, đại diện hai bên đã thỏa thuận xong việc hoạch
định đường biên giới giữa Bắc Kỳ và Trung Quốc. Ngày 26 tháng 6 năm 1887, tại Bắc Kinh, đại diện
toàn quyền của Chính phủ Pháp và nhà Thanh đã ký Công ước về hoạch định biên giới giữa Bắc Kỳ
và Trung Quốc.

Theo công pháp quốc tế và tập quán quốc tế, hoạch định biên giới mới chỉ là phân vạch đường
biên giới trên văn bản (công ước và bản đồ). Bước tiếp theo là hai bên phải cùng đi đến tại chỗ,
phân vạch cụ thể đường biên giới đã được hoạch định đó trên thực địa, sau đó cắm mốc quốc giới
để làm rõ đường biên giới chính thức giữa hai nước.

Cũng theo cách thức như vậy, sau khi ký Công ước về hoạch định biên giới, Chính phủ Pháp
và nhà Thanh đã tiến hành phân vạch cụ thể đường biên giới trên thực địa và cắm mốc quốc giới.
Công việc bắt đầu từ cuối năm 1889, đến tháng 4 năm 1896 thì cắm xong mốc. Nếu tính từ năm
1886 đi khảo sát thực địa thì toàn bộ công việc phân vạch và cắm mốc đường biên giới giữa Việt
Nam và Trung Quốc (dài hơn 1.400 km) đã mất hơn 10 năm.

Cuộc đàm phán năm 1887 giữa Pháp và nhà Thanh để hoạch định biên giới Việt-Trung đã
được tiến hành song song với cuộc đàm phán Pháp-Trung để ký Công ước bổ sung về thương mại
giữa Pháp và Trung Quốc. Cuộc đàm phán để đi tới ký kết Công ước bổ sung năm 1895 cho Công
ước về hoạch định biên giới năm 1887 cũng lại được tiến hành song song với cuộc đàm phán để đi
tới ký kết Công ước ngày 20 tháng 6 năm 1895 bổ sung cho Công ước về thương mại đã ký ngày 26
tháng 6 năm 1887.

Mặc dầu triều đình nhà Thanh ngày càng suy yếu và đầu hàng các cường quốc phương Tây,
nhưng nó đã lợi dụng sự nôn nóng của Pháp để bắt bí. Pháp muốn nhanh chóng phát triển các
quan hệ buôn bán với Trung Quốc để cạnh tranh với Anh và các nước phương Tây khác, muốn
nhanh chóng đặt được các Tổng lãnh sự quán ở một số nơi ở Trung Quốc, muốn nhanh chóng ổn
định đường biên giới phía bắc của Việt Nam với Trung Quốc để chúng dễ dàng tiến hành “bình định”
và đàn áp các cuộc nổi dậy của nhân dân Việt Nam. Nhà Thanh còn lợi dụng trình độ hiểu biết rất
mơ hồ về địa lý và lịch sử vùng biên giới của các nhà thương thuyết Pháp để cố giành càng nhiều
đất của Việt Nam càng tốt, thậm chí họ cãi xóa cả những điều họ đã nhận với Pháp. Lý Hồng
Chương, một đại thần có quyền thế nhất của triều đình nhà Thanh lúc bấy giờ, đã trắng trợn nói với
đô đốc Pháp Rieunier, Tổng chỉ huy hạm đội Pháp ở Viễn đông: “Qua sự trung gian của tôi, nước
Pháp đã được lợi nhiều trong việc lấy Bắc Kỳ, một chư hầu của Trung Quốc từ 600 năm nay. Điều
đó làm cho tôi rất phiền lòng: tôi cho rằng cần có một sự bù trừ nào đó dưới dạng một sự cắt
nhượng nhỏ đất ở biên giới An-nam” (Điện báo cáo ngày 10 tháng 10 năm 1886 của Rieunier gửi Bộ
trưởng hải quân Pháp).

Chính vì thế mà trong quá trình đàm phán để hoạch định biên giới cũng như trong quá trình
phân vạch biên giới trên thực địa và cắm mốc, các đại diện nhà Thanh đã dùng thủ đoạn gây sức ép
trên bàn hội nghị bằng cách liên kết hai cuộc đàm phán về biên giới và buôn bán, làm giấy tờ giả
mạo, vẽ bản đồ xuyên tạc, dọa dẫm, thậm chí giết hại cả đại biểu Pháp (giết Haitce, thành viên
trong đoàn đại biểu Pháp tại Móng Cái). Đối với một số địa phương mà nhà Thanh buộc phải công
nhận là của Việt Nam thì họ đã cho thổ phỉ gây rối loạn làm cho nhân dân không thể ở được. Pháp
cũng không đồng tình với thái độ của phía nhà Thanh, nhưng đối với họ, lợi ích về buôn bán với
Trung Quốc quan trọng hơn nhiều so với các vùng đất của Việt Nam ở biên giới.

Kết quả là Pháp đã cắt nhượng cho nhà Thanh nhiều đất đai của Việt Nam như vùng mũi Bắc
Luân và Giang Bình ở đông bắc Móng Cái, tổng Bát Tràng-Kiến Duyên hiện nay đối diện với vùng
Hoành Mô, huyện Bình Liêu của tỉnh Quảng Ninh, tổng Đèo Luông hiện nay đối diện với vùng Phục
Hòa của tỉnh Cao Bằng, tổng Tụ Long có mỏ đồng hiện nay đối diện với vùng Xín Mần của tỉnh Hà
Tuyên. Trong số các vùng đó, rộng nhất là vùng Tụ Long (ước khoảng 1.300 km2), vùng Bát Tràng-
Kiến Duyên (ước khoảng 450 km2).

Theo Công ước năm 1887 và Công ước năm 1895, nước ta đã bị mất nhiều đất đai. Sau này,
thời gian trước năm 1949, các chính quyền phản động của Trung Quốc còn lấn chiếm thêm đất đai
của ta ở nhiều nơi. Mặc dầu vậy, để xây dựng một biên giới hữu nghị lâu dài giữa Việt Nam và
Trung Quốc vì lợi ích của hai dân tộc, năm 1957, Trung ương Đảng ta đã đề nghị nguyên tắc giữ
nguyên trạng đường biên giới do lịch sử để lại, mọi vấn đề về biên giới và lãnh thổ phải do hai Chính
phủ quyết định, mọi vấn đề tranh chấp có thể xảy ra về biên giới, lãnh thổ cần được giải quyết bằng
thương lượng hòa bình. Phía Trung Quốc đã chấp nhận đề nghị đó, nhưng trên thực tế, họ ngày
càng tăng cường lấn chiếm, gây khiêu khích vũ trang để cuối cùng ngày 17 tháng 2 năm 1979 tiến
công xâm lược nước ta.

[2] Vấn đề giữ nguyên trạng biên giới lịch sử và vấn đề giữ hiện trạng biên giới là hai vấn đề
khác hẳn nhau. Chúng ta chủ trương giữ nguyên trạng biên giới lịch sử (hoặc biên giới do lịch sử để
lại), có nghĩa là ta tôn trọng sự thỏa thuận năm 1957 và năm 1958 giữa ta và Trung Quốc về vấn đề
biên giới, đường biên giới lịch sử để lại như thế nào (như hai Công ước 1887 và 1895 đã quy định)
thì cứ giữ nguyên như thế, nếu bên nào quản lý những vùng đất quá vùng biên giới đó thì phải trả lại
cho bên kia. Nhưng phía Trung Quốc lại chủ trương giữ hiện trạng biên giới, có nghĩa là họ không
tôn trọng sự thỏa thuận năm 1957 và 1958, họ muốn giữ nguyên các chỗ mà sau đó Trung Quốc đã
lấn chiếm của Việt Nam, thậm chí lấn thêm chỗ mới rồi gọi đó là hiện trạng.

[3] Trước hết cần chú ý đến tên của các quần đảo này. Hoàng Sa và Trường Sa là những tên
Việt Nam; phía Trung Quốc lại gọi Hoàng Sa là Tây Sa, gọi Trường Sa là Nam Sa. Trên các bản đồ
quốc tế, người ta thường gọi Hoàng Sa là Paracels, Trường Sa là Spratly. Cũng nên chú ý thêm là
trong quần đảo Hoàng Sa có một đảo tên là Hoàng Sa, trong quần đảo Trường Sa có một đảo là
Trường Sa. Như vậy cần phân biệt rõ quần đảo và đảo có trong các quần đảo đó.

Quần đảo Hoàng Sa cách Đà Nẵng 120 hải lý về phía đông. Quần đảo gồm một nhóm ở phía
đông, một nhóm ở phía tây, cả hai nhóm có hơn 30 hòn đảo, đá và bãi san hô; đảo lớn nhất rộng
hơn 1,5 km2, trung bình các đảo khác là trên dưới 0,5 km2. Quần đảo Trường Sa gồm hơn 90 hòn
đảo, đá và bãi san hô lớn nhỏ, đảo lớn nhất rộng khoảng 0,6 km2, trung bình các đảo khác trên
dưới 0,4 km2. Trên cả hai quần đảo, nhất là ở quần đảo Hoàng Sa, có nhiều phân chim làm phân
bón rất tốt. Vùng biển ở đây có nhiều nguồn lợi về hải sản và nhiều dấu hiệu cho thấy có dầu lửa và
khí đốt. Hai quần đảo còn có giá trị quân sự rất quan trọng vì ở đây có khả năng khống chế, kiểm
soát đường giao thông qua biển đông, nối liền Thái Bình dương và Ấn Độ dương.

Trung Quốc trắng trợn chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của nước ta và đòi quần đảo Trường
Sa cũng là của họ mặc dù chưa bao giờ họ đã tới đây hoặc thiết lập bất cứ hình thức chính quyền
nào ở đây. Về phía ta, có đầy đủ tài liệu về địa lý, lịch sử để chứng minh hai quần đảo đó là lãnh thổ
Việt Nam.

Phụ trách bản đưa in: Phạm Xuyên, Nguyễn Hanh

Trình bày bìa: Nghiêm Xuân Thành


43 tr., khổ 12,5x19 In 5.100 cuốn tại Nhà máy in Tiến bộ, Hà Nội.

Số in 528, Số XB 15/79

Xong ngày 15 tháng 4 năm 1979. Nộp lưu chiểu tháng 4-1979

SỰ THẬT VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM -TRUNG QUỐC


TRONG 30 NĂM QUA (1949–1979)
Chú dẫn của Nhà xuất bản (32)

PHẦN THỨ NHẤT

VIỆT NAM TRONG CHIẾN LƯỢC CỦA TRUNG QUỐC (32)

I- Việt Nam nam trong chiến lược toàn cầu của Trung Quốc (34)

II- Việt Nam trong chính sách Đông nam Á của Trung Quốc (38)

PHẦN THỨ HAI

TRUNG QUỐC VỚI VIỆC KẾT THÚC CUỘC CHẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG NĂM 1954 (44)

I- Sau Điện Biên Phủ, nhân dân Việt Nam có khả năng giải phóng hoàn toàn đất nước. (44)

II- Lập trường của Trung Quốc ở Giơ-ne-vơ khác hẳn lập trường của Việt Nam, nhưng phù hợp
với lập trường của Pháp. (45)
III- Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 về Đông Dương và sự phản bội của những người lãnh đạo
Trung Quốc. (46)

PHẦN THỨ BA

TQ VỚI CUỘC ĐẤU TRANH CỦA NHÂN DÂN VN ĐỂ GIẢI PHÒNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT
NƯỚC NHÀ (1954-1975) (51)

I- Thời kỳ 1954-1964 : Những người cầm quyền Trung Quốc ngăn cản nhân dân VN đấu tranh
để thực hiện thống nhất nước nhà. (52)

II- Thời kỳ 1965−1969 : Làm yếu và kéo dài cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. (56)

III- Thời kỳ 1969-1973 : Đàm phán với Mỹ trên lưng nhân dân Việt Nam. (62)

IV- Thời kỳ 1973-1975: Cản trở nhân dân Việt Nam giải phóng hoàn toàn miền Nam. (68)

PHẦN THỨ TƯ

TRUNG QUỐC VỚI NƯỚC VIỆT NAM HOÀN TOÀN GIẢI PHÓNG VÀ THỐNG NHẤT

(từ tháng 5 năm 1975 đến nay) (73)

I- Trung Quốc sau thất bại của Mỹ ở Việt Nam. (73)

II- Điên cuồng chống Việt Nam nhưng còn cố giấu mặt. (77)

III- Điên cuồng chống Việt Nam một cách công khai. (80)

PHẦN THỨ NĂM

CHÍNH SÁCH BÀNH TRƯỚNG CỦA BẮC KINH, MỐI ĐE DỌA ĐỐI VỚI ĐỘC LẬP DÂN TỘC,
HÒA BÌNH VÀ ỔN ĐỊNH Ở ĐÔNG NAM CHÂU Á. (89)
Lưu ý của người đánh máy lại :

1- Để độc giả tiện việc tra cứu, các tên ngoại quốc phiên âm trong sách đã được chúng
tôi ghi kèm thêm tên bằng ngoại ngữ ở chỗ gặp lần đầu tiên.

2- Vì vấn đề kỹ thuật, chúng tôi dồn mọi chú thích vào cuối mỗi phần (trong nguyên bản
thì để cuối trang).

-----------------------------------------------------------------
Chú dẫn của Nhà xuất bản

Cuốn sách Sự thật về quan hệ Việt Nam −Trung Quốc trong 30 năm qua là một văn kiện quan
trọng của Bộ ngoại giao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được công bố ngày 4 tháng 10
năm 1979 nhằm vạch trần bộ mặt phản động của bọn bành trướng Bắc Kinh đối với nước ta trong
suốt một thời gian dài.

Cuốn sách này gồm toàn văn bản văn kiện nói trên.

Tháng 10 năm 1979

Nhà xuất bản Sự Thật

PHẦN THỨ NHẤT

VIỆT NAM TRONG CHIẾN LƯỢC CỦA TRUNG QUỐC

Những hành động thù địch công khai của những người lãnh đạo Trung Quốc đối với Việt Nam,
mà đỉnh cao là cuộc chiến tranh xâm lược của họ ngày 17 tháng 2 năm 1979, đã làm cho dư luận
thế giới ngạc nhiên trước sự thay đổi đột ngột về chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam.

Sự thay đổi đó không phải là điều bất ngờ, mà là sự phát triển lô-gích của chiến lược bành
trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn của những người lãnh đạo Trung Quốc trong 30 năm qua.

Trên thế giới chưa có những người lãnh đạo một nước nào mang danh là “cách mạng”, là “xã
hội chủ nghĩa” và dùng những lời lẽ “rất cách mạng” để thực hiện một chiến lược phản cách mạng,
cực kỳ phản động như những người lãnh đạo Trung Quốc.

Trên thế giới chưa có những người lãnh đạo một nước nào về mặt chiến lược đã lật ngược
chính sách liên minh, đổi bạn thành thù, đổi thù thành bạn nhanh chóng và toàn diện như những
người lãnh đạo Trung Quốc.

Từ chỗ coi Liên Xô là đồng minh lớn nhất, họ đi đến chỗ coi Liên Xô là kẻ thù nguy hiểm nhất.
Từ chỗ coi đế quốc Mỹ là kẻ thù nguy hiểm nhất mà bản chất không bao giờ thay đổi, họ đi đến
chỗ coi đế quốc Mỹ là đồng minh tin cậy, câu kết với đế quốc Mỹ và trắng trợn tuyên bố Trung Quốc
là NATO [1] ở phương đông.

Từ chỗ coi phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ la tinh là “bão táp
cách mạng” trực tiếp đánh vào chủ nghĩa đế quốc và cho rằng rốt cuộc sự nghiệp cách mạng của
toàn bộ giai cấp vô sản quốc tế sẽ tuỳ thuộc vào cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ở khu
vực này [2], họ đi đến chỗ cùng với đế quốc chống lại và phá hoại phong trào giải phóng dân tộc,
ủng hộ những lực lượng phản động, như tên độc tài Pi-nô-chê (Pinochet) ở Chi-lê (Chile), các tổ
chức FNLA và UNITA do Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA) giật dây ở Angôla, vua Pa-lê-vi
(Pavlevi) ở Iran, nuôi dưỡng bè lũ diệt chủng Pôn Pốt −Iêng Xa-ry v.v… Họ ngang nhiên xuyên tạc
nguyên nhân và tính chất của các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới hiện nay, coi các
cuộc đấu tranh này là sản phẩm của sự tranh giành bá quyền giữa các nước lớn, chứ không phải là
sự nghiệp cách mạng của nhân dân các nước.

Cùng với sự lật ngược chính sách liên minh của họ trên thế giới là những cuộc thanh trừng tàn
bạo và đẫm máu ở trong nước, đàn áp những người chống đối, làm đảo lộn nhiều lần vai trò của
những người trong giới cầm quyền. Có người hôm nay được coi là nhà lãnh đạo cách mạng chân
chính, ngày mai trở thành kẻ thù, kẻ phản bội của cách mạng Trung Quốc; có người trong vòng mấy
năm lần lượt bị đổ và được phục hồi đến hai ba lần.

Chiến lược của những người lãnh đạo Trung Quốc có những thay đổi rất lớn. Nhưng có một
điều không thay đổi: đó là mục tiêu chiến lược muốn nhanh chóng đưa Trung Quốc trở thành một
cường quốc bậc nhất thế giới và thực hiện mưu đồ bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn
của họ đối với các nước khác.

Tại Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1956, Chủ tich Mao
Trạch Đông đã nói: “Chúng ta phải trở thành quốc gia hàng đầu về phát triển văn hoá, khoa học kỹ
thuật và công nghiệp… Không thể chấp nhận rằng sau một vài chục năm, chúng ta vẫn chưa trở
thành cường quốc số một trên thế giới”.

Sau đó, tháng 9 năm 1959, tại Hội nghị của Quân ủy trung ương, Chủ tịch Mao Trạch Đông lại
nói: “Chúng ta phải chinh phục trái đất. Đó là mục tiêu của chúng ta”.

Ngay từ khi thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tháng 10 năm 1949, những người
cầm quyền ở Bắc Kinh đã bắt tay đẩy mạnh việc thực hiện mục tiêu chiến lược của họ. Mặc dầu
nền kinh tế của Trung Quốc còn lạc hậu, từ cuối những năm 1950 họ đã ra sức xây dựng lực lượng
hạt nhân chiến lược và hiện nay đang đẩy mạnh việc thực hiện “hiện đại hoá” về quân sự, về sản
xuất và tích trữ vũ khí hạt nhân. Trong lĩnh vực kinh tế, điều giống nhau giữa “đại nhảy vọt” năm
1958 và “bốn hiện đại hoá” mới nêu ra vài ba năm nay là cả hai kế hoạch đó đều nhằm mục tiêu
chiến lược bành trướng và bá quyền của những người lãnh đạo Trung Quốc.

I- VIỆT NAM TRONG CHIẾN LƯỢC TOÀN CẦU CỦA TRUNG QUỐC
Trong chiến lược toàn cầu của những người lãnh đạo Trung Quốc, nếu họ coi Liên Xô và Mỹ là
những đối tượng chủ yếu cần phải chiến thắng, thì họ coi Việt Nam là một đối tượng quan trọng cần
khuất phục và thôn tính để dễ bề đạt được lợi ích chiến lược của họ.

Bước vào những năm 1950, khi bắt đầu công cuộc xây dựng lại hòng đưa nước Trung Hoa
nhanh chóng trở thành cường quốc trên thế giới, những người lãnh đạo Trung Quốc phải đối phó
với cuộc chiến tranh của Mỹ xâm lược Triều Tiên ở phía bắc và mối nguy cơ đe dọa an ninh của
Trung Quốc ở phía nam do cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp ở Việt Nam gây ra. Đồng
thời đế quốc Mỹ, tên đế quốc đầu sỏ và tên sen đầm quốc tế, thi hành một chính sách thù địch đối
với Trung Quốc và đang ra sức tiến hành kế hoạch bao vây, cô lập T.Quốc.

Cuộc kháng chiến thắng lợi của nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào và nhân dân Cam-pu-chia
chống thực dân Pháp đã đưa đến Hội nghị Giơ-ne-vơ (Genève) năm 1954 về Đông Dương. Pháp lo
sợ thắng lợi hoàn toàn của nhân dân Việt Nam sẽ dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa của
chủ nghĩa đế quốc Pháp. Trung Quốc là một nước cung cấp nhiều vũ khí nhất cho Việt Nam vào
cuối cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp. Những người lãnh đạo Trung
Quốc đã lợi dụng tình hình đó để đứng ra làm người thương lượng chủ yếu đối với đế quốc Pháp,
câu kết với chúng và cùng nhau thỏa hiệp về một giải pháp có lợi cho Trung Quốc và Pháp, không
có lợi cho nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào và nhân dân Cam-pu-chia. Họ đã hy sinh lợi ích của
nhân dân ba nước ở Đông Dương để bảo đảm an ninh cho Trung Quốc ở phía nam, để thực hiện
mưu đồ nắm Việt Nam và Đông Dương, đồng thời để có vai trò là một nước lớn trong việc giải quyết
các vấn đề quốc tế, trước hết là ở châu Á. Trong Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 mà phần đầu dành
cho vấn đề Triều Tiên, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa lần đầu tiên xuất hiện ngang hàng với
bốn cường quốc ủy viên thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc. Đó là một cơ hội tốt cho
những người lãnh đạo Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng của mình ở khu vực châu Á và châu Phi.
Đồng thời, họ tìm cách bắt tay với đế quốc Mỹ qua các cuộc thương lượng trực tiếp bắt đầu Giơ-ne-
vơ, về sau chuyển sang Vác-sa-va (Vácsava).

Từ sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 được ký kết, đế quốc Mỹ ngày càng can thiệp sâu
vào Việt Nam, nhằm biến miền nam Việt Nam thành một thuộc địa kiểu mới và một căn cứ quân sự
của Mỹ ở Đông nam châu Á. Những người cầm quyền ở Bắc Kinh muốn duy trì lâu dài tình trạng
Việt Nam bị chia cắt. Nhưng nhân dân Việt Nam đã anh dũng đứng lên chống Mỹ cứu nước và ngày
càng giành được nhiều thắng lợi.

Cuối những năm 1960, đế quốc Mỹ bị sa lầy trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, một cuộc
chiến tranh đã làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng về kinh tế, chính trị và xã hội của nước Mỹ,
đồng thời làm suy yếu thêm vị trí của đế quốc Mỹ trên thế giới. Tình hình đó đã tạo điều kiện thuận
lợi cho các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào cách mạng trên thế giới phát triển mạnh mẽ và tạo
cho các nước Tây Âu, Nhật Bản có cơ hội ngoi lên thành những lực lượng cạnh tranh mạnh mẽ với
Mỹ. Trước tình thế ngày càng tuyệt vọng, tổng thống Ních-xơn (Nixon) đã đề ra kế hoạch “Việt Nam
hoá” chiến tranh, và theo kinh nghiệm của đế quốc Pháp năm 1954, dùng Trung Quốc hòng giải
quyết vấn đề Việt Nam với những điều kiện có lợi cho đế quốc Mỹ: rút quân Mỹ ra khỏi Việt Nam mà
vẫn giữ được chế độ bù nhìn Nguyễn Văn Thiệu ở miền nam Việt Nam. Đồng thời, chính quyền
Ních-xơn chơi con bài Trung Quốc để gây sức ép đối với Liên Xô, chống phong trào cách mạng thế
giới.

Lợi dụng sự suy yếu của đế quốc Mỹ và chiều hướng chính sách của chính quyền Ních-xơn,
những người lãnh đạo Trung Quốc tăng cường chống Liên Xô và thỏa hiệp với Mỹ, giúp Mỹ giải
quyết vấn đề Việt Nam, để cố tạo nên thế ba nước lớn trên thế giới theo công thức của Kít-xinh-giơ
(Kissinger) về “thế giới nhiều cực”, trong đó một trong “ba cực” lớn là Trung Quốc, xoá bỏ “thế hai
cực” Mỹ và Liên Xô đã hình thành sau chiến tranh thế giới thứ hai, đồng thời dùng vấn đề Việt Nam
để đổi lấy việc Mỹ rút khỏi Đài Loan. Do đó, họ lật ngược chính sách liên minh, bắt đầu từ việc coi
Liên Xô là kẻ thù chủ yếu, gây ra xung đột biên giới với Liên Xô tháng 3 năm 1969, đến việc phản
bội Việt Nam lần thứ hai, buôn bán với Mỹ để ngăn cản thắng lợi hoàn toàn của nhân dân Việt Nam.
Trong năm 1971, họ lần lượt tiến hành chính sách “ngoại giao bóng bàn”, đón tiếp Kít-xinh-giơ ở
Bắc Kinh. Tiếp đó là việc khôi phục địa vị của Trung Quốc ở Liên hợp quốc và nước Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa trở thành một trong năm uỷ viên thường trực của Hội đồng bảo an. Đỉnh cao là việc
Trung Quốc tiếp tổng thống Mỹ Ních-xơn và hai bên ra Thông cáo Thượng Hải tháng 2 năm 1972.
Đối với những người cầm quyền Bắc Kinh, sự câu kết với đế quốc Mỹ là một bước có ý nghĩa quyết
định đối với việc triển khai chiến lược toàn cầu của họ.

Cũng như sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 về Đông Dương, những người lãnh đạo Trung
Quốc sau Hiệp định Pa-ri (Pa-ris) tháng 1 năm 1973 về Việt Nam, muốn duy trì nguyên trạng ở miền
nam Việt Nam. Vì vậy thắng lợi của nhân dân Việt Nam năm 1975 đánh sụp hoàn toàn chính quyền
tay sai của Mỹ, giải phóng miền nam, thống nhất nước nhà không chỉ là một thất bại lớn của đế
quốc Mỹ mà còn là một thất bại lớn của những người cầm quyền Bắc Kinh trong việc thực hiện
chiến lược toàn cầu và mưu đồ bành trướng, bá quyền của họ. Từ đó, họ công khai thi hành chính
sách thù địch chống Việt Nam, kể cả bằng biện pháp quân sự.

Sách “Cách mạng Trung Quốc và Đảng Cộng sản Trung Quốc” của chủ tịch Mao
Trạch Đông viết năm 1939, do hiệu sách Tân Hoa thư điếm (Dực Nam) tái bản
tháng 6 năm 1949. Trong đó có đoạn viết:

“Sau khi dùng chiến tranh đánh bại Trung Quốc, các nước đế quốc đã cướp đi
nhiều nước phụ thuộc và một bộ phận của lãnh thổ Trung Quốc: Nhật chiếm Triều
Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận. Anh chiếm Miến Điện, Bu-
tan, Nê-pan và Hương Cảng. Pháp chiếm An-nam…”
Bản đồ này đã được in lại trong cuốn “Sơ lược lịch sử Trung Quốc hiện đại”, xuất
bản tại Bắc Kinh năm 1954.

Đường vẽ chấm là “biên giới” của Trung Quốc theo quan điểm bành trướng,
những vùng đánh số là những lãnh thổ mà nhà cầm quyền Bắc Kinh cho là đã bị
nước ngoài “chiếm mất” bao gồm: một phần lớn đất vùng Viễn Đông và Trung Á
của Liên Xô (số 1, 17, 18), Át Xam (số 6), Xích Kim (số 4), Bu-tan (số 5), Miến Điện
(số 7), Nê-pan (số 3), Thái-lan (số 10), Việt Nam (số 11), Lào, Cam-pu-chia v.v…

Như vậy, trong 30 năm qua, Việt Nam là một trong những nhân tố quan trọng nhất trong chiến
lược toàn cầu của Trung Quốc. Vì Việt Nam có vị trí rất quan trọng trong chiến lược của Pháp giữa
những năm 1950 cũng như trong chiến lược của Mỹ đầu những năm 1970, những người lãnh đạo
Trung Quốc đã dùng “con bài” Việt Nam để câu kết với bọn đế quốc, phục vụ cho ý đồ chiến lược
bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn của họ. Đồng thời họ mưu toan một mình nắm cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, một vấn đề trung tâm của đời sống chính
trị quốc tế lúc bấy giờ, để giương cao chiêu bài “chống chủ nghĩa đế quốc” hòng nắm quyền “lãnh
đạo cách mạng thế giới”, dìm ảnh hưởng của Liên Xô.
II- VIỆT NAM TRONG CHÍNH SÁCH ĐÔNG NAM Á CỦA TRUNG QUỐC.
Đông nam châu Á là hướng bành trướng cổ truyền trong lịch sử Trung Quốc, là khu vực mà từ
lâu những người lãnh đạo nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ước mơ thôn tính.

Trong năm 1936, chủ tịch Mao Trạch Đông kể chuyện với nhà báo Mỹ Ét-ga Xnâu (Edgar
Snow) ở Diên An về thời trẻ của mình, đã bộc lộ ý nghĩ sau khi đọc một cuốn sách nhỏ nói đến việc
Nhật chiếm Triều Tiên và Đài Loan, việc mất “chủ quyền” Trung Hoa ở Đông Dương, Miến Điện và
nhiều nơi khác: “Đọc xong, tôi lấy làm thất vọng đối với tương lai đất nước tôi, và tôi bắt đầu nhận
thức rằng bổn phận của mọi người là phải đóng góp cứu nước” [3].

Tài liệu của Đảng Cộng sản Trung Quốc do chủ tịch Mao Trạch Đông viết mang tên Cách
mạng Trung Quốc và Đảng Cộng sản Trung Quốc, xuất bản năm 1939 có viết: “Các nước đế quốc
sau khi đánh bại Trung Quốc, đã chiếm các nước phụ thuộc của Trung Quốc: Nhật chiếm Triều
Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận. Anh chiếm Miến Điện, Bu-tan, Hương
Cảng, Pháp chiếm An-nam…”

Cuốn sách Sơ lược lịch sử Trung Quốc hiện đại xuất bản năm 1954 ở Bắc Kinh có bản đồ vẽ
lãnh thổ Trung Quốc bao gồm cả nhiều nước chung quanh, kể cả ở Đông nam châu Á và vùng biển
Đông.

Ý đồ bành trướng của những người lãnh đạo Trung Quốc đặc biệt lộ rõ ở câu nói của chủ tịch
Mao Trạch Đông trong cuộc hội đàm với đại biểu Đảng Lao động Việt Nam ở Vũ Hán năm 1963:
“Tôi sẽ làm Chủ tịch 500 triệu bần nông đưa quân xuống Đông Nam châu Á”

Cũng trong dịp này, chủ tịch Mao Trạch Đông so sánh nước Thái-lan với tỉnh Tứ Xuyên của
Trung Quốc về diện tích thì tương đương, nhưng về số dân thì tỉnh Tứ Xuyên đông gấp đôi, và nói
rằng Trung Quốc cần đưa người xuống Thái-lan để ở; đối với nước Lào đất rộng người thưa, chủ
tịch Mao Trạch Đông cũng cho rằng Trung Quốc cần đưa người xuống Lào để ở.
Bản đồ của Trung Quốc in năm 1973 trong tập “Bản đồ Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa” (vì hình trong nguyên bản quá mờ, chúng tôi xin phép thay bằng một
hình tương đương. BBT). Bản đồ này vẽ đường biên giới Trung Quốc ở vùng biển
phía nam, chạy dọc bờ biển Việt Nam, vùng Bắc Ca-li-man-tan của Ma-lai-xi-a và
Phi-líp-pin.

Chủ tịch Mao Trạch Đông còn khẳng định trong cuộc họp của Bộ Chính trị Ban chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, tháng 8 năm 1965: “Chúng ta phải giành cho được Đông
nam châu Á, bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thá-lan, Miến Điện, Ma-lai-xi-a và Xin-ga-po… Một
vùng như Đông nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản… xứng đáng với sự tốn kém cần
thiết để chiếm lấy… Sau khi giành được Đông nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức
mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô −Đông
Âu, gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây…”.

So với các khu vực khác trên thế giới, Đông nam châu Á là khu vực mà Trung Quốc có nhiều
điều kiện thuận lợi nhất, có nhiều phương tiện và khả năng nhất (hơn 20 triệu Hoa kiều, các chính
đảng lệ thuộc vào Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đông nam châu Á có đường đất liền với Trung
Quốc…) để thực hiện chính sách bành trướng và bá quyền nước lớn của mình. Cho nên trong 30
năm qua, những người lãnh đạo nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã dùng nhiều thủ đoạn để
thực hiện chính sách bành trướng ở khu vực này, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chiến
lược toàn cầu phản cách mạng của họ.

Họ xây dựng lực lượng hạt nhân chiến lược, phát triển lực lượng kinh tế, ỷ thế nước lớn, đe
dọa bằng quân sự và hứa hẹn viện trợ về kinh tế để mua chuộc, lôi kéo hoặc gây sức ép với các
nước ở khu vực này, hòng làm cho các nước đó phải đi vào quỹ đạo của họ. Họ xâm phạm lãnh thổ
các nước và gây ra xung đột biên giới, dùng lực lượng tay sai hoặc trực tiếp đem quân xâm lược,
hòng làm suy yếu để dễ bề khuất phục, thôn tính nước này, nước khác trong khu vực. Họ không từ
bất kỳ một hành động tàn bạo nào, như họ đã dùng tập đoàn Pôn Pốt-Iêng Xa-ry thực hiện chính
sách diệt chủng ở Cam-pu-chia. Họ dùng nhiều công cụ ở các nước Đông nam châu Á: lực lượng
Hoa kiều làm “đạo quân thứ năm”, các tổ chức gọi là “Cộng sản” theo mệnh lệnh của Bắc Kinh, các
dân tộc thiểu số ở các nước thuộc khu vực này có ít nhiều nguồn gốc dân tộc ở Trung Quốc để
phục vụ cho chính sách bành trướng và bá quyền của họ.

Về việc sử dụng lực lượng Hoa kiều, ý đồ của Bắc Kinh đã được thể hiện rõ nhất trong ý kiến
của bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trần Nghị: “Xin-ga-po có trên 90% là người Trung Quốc, trong số dân
hơn 1 triệu người thì hơn 90 vạn là người Trung Quốc. Cho nên Xin-ga-po hoàn toàn trở thành một
quốc gia do người Trung Quốc ở đó tổ chức” [4].

Những người lãnh đạo Trung Quốc lợi dụng mâu thuẫn giữa các dân tộc ở Đông nam châu Á,
chia rẽ các nước thuộc tổ chức ASEAN [5] với ba nước trên bán đảo Đông Dương, chia rẽ các
nước với nhau như đã chia rẽ Ma-lai-xi-a với In-đô-nê-xi-a, Miến Điện với Thái-lan… Đặc biệt họ lợi
dụng tình hình ở Đông nam châu Á là một trong những khu vực sục sôi cách mạng trên thế giới,
phong trào độc lập dân tộc ngày càng phát triển và chủ nghĩa thực dân, đế quốc ngày càng suy yếu,
để thực hiện ý đồ bành trướng của họ. Khi thực dân Pháp thất bại ở Việt Nam năm 1954, họ muốn
duy trì ở miền Nam Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia sự có mặt của Pháp là một tên đế quốc đã suy
yếu, để ngăn cản Mỹ, tên đế quốc đầu sỏ, thâm nhập vào Đông Dương và hạn chế thắng lợi hoàn
toàn của cách mạng ba nước ở Đông Dương. Khi Mỹ suy yếu và thất bại ở vùng này, họ muốn duy
trì sự có mặt của Mỹ để cùng với Mỹ thống trị các nước trong khu vực. Làm như vậy, họ hy vọng
dựa vào chủ nghĩa đế quốc ngăn chặn sự phát triển của cách mạng để từng bước lấp cái gọi là lỗ
hổng ở Đông nam châu Á, tiến đến gạt dần các đồng minh đế quốc để độc chiếm khu vực này. Họ
tung ra luận điệu lừa bịp là ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô để che giấu âm mưu đen tối của họ.

Việt Nam có một vị trí chiến lược ở Đông Nam châu Á. Trong lịch sử, bọn bành trướng phong
kiến Trung Quốc đã nhiều lần xâm lược hòng thôn tính Việt Nam, dùng Việt Nam làm bàn đạp để
xâm lược các nước khác ở Đông nam châu Á. Khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, trong các
đảng Cộng sản ở khu vực này chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam giành được chính quyền và thành
lập Nhà nước công nông đầu tiên trong khu vực. Cách mạng Việt Nam có ảnh hưởng to lớn do
đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Những người lãnh đạo Trung Quốc âm mưu
nắm Việt Nam để nắm toàn bộ bán đảo Đông Dương, mở đường đi xuống Đông nam châu Á. Trong
cuộc gặp giữa đại biểu bốn đảng Cộng sản Việt Nam, Trung Quốc, In-đô-nê-xi-a và Lào tại Quảng
Đông tháng 9 năm 1963, Thủ tướng Chu Ân Lai nói: “Nước chúng tôi thì lớn nhưng không có đường
ra, cho nên rất mong Đảng Lao động Việt Nam mở cho một con đường mới xuống Đông nam châu
Á”.

Để làm suy yếu và nắm lấy Việt Nam, họ ra sức phá sự đoàn kết giữa ba nước ở bán đảo
Đông Dương, chia rẽ ba nước với nhau, đặc biệt là chia rẽ Lào và Cam-pu-chia với Việt Nam. Đồng
thời, họ cố lôi kéo các nước khác ở Đông nam châu Á đối lập với Việt Nam, vu khống, bôi xấu, hòng
cô lập Việt Nam với các nước trên thế giới.

Những người cầm quyền Bắc Kinh rêu rao cái gọi là “chủ quyền” của họ đối với các quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Đầu năm 1974, với sự đồng tình của Mỹ, họ đánh chiếm quần đảo Hoàng
Sa, bộ phận lãnh thổ của Việt Nam, để từng bước kiểm soát biển Đông, khống chế Việt Nam và
toàn bộ Đông nam châu Á, đồng thời khai thác tài nguyên phong phú ở vùng biển Đông.

Những người lãnh đạo Trung Quốc hy vọng tập hợp lực lượng ở Đông nam Châu Á để tiến
đến tập hợp lực lượng trên thế giới hòng thực hiện chiến lược toàn cầu của họ. Những năm 1960
họ ra sức tập hợp lực lượng ở các khu vực Á, Phi, Mỹ la-tinh để nắm quyền “lãnh đạo cách mạng
thế giới” và chống Liên Xô. Để đạt mục tiêu đó, từ năm 1963 họ ráo riết vận động họp 11 đảng Cộng
sản, trong đó có 8 đảng ở Đông nam châu Á hòng lập ra một thứ “Quốc tế Cộng sản” mới do họ
khống chế, xây dựng cái gọi là “trục Bắc Kinh − Gia-các-ta (Jakarta) - Phnôm Pênh - Bình Nhưỡng −
Hà Nội”, thông qua In-đô-nê-xi-a vận động triệu tập “Hội nghị các lực lượng mới trỗi dậy” (CONEFO)
để thành lập một tổ chức quốc tế đối lập với Liên hợp quốc; đồng thời vận động tổ chức Hội nghị Á −
Phi lần thứ hai (dự định họp ở An-giê năm 1965). Nhưng những người lãnh đạo Trung Quốc đã
không thành công trong các kế hoạch đen tối này. Đó là vì họ đi ngược lại lợi ích của nhân dân thế
giới là đoàn kết các lực lượng chống đế quốc, đi ngược lại lợi ích của cách mạng thế giới là tăng
cường hệ thống xã hội chủ nghĩa và phong trào độc lập dân tộc, dân chủ, vì họ vấp phải đường lối
độc lập tự chủ trước sau như một của Việt Nam.

* *

Trong 30 năm qua, những người lãnh đạo Trung Quốc coi Việt Nam là một trong những nhân
tố quan trọng hàng đầu đối với chiến lược của họ, luôn luôn tìm cách nắm Việt Nam. Muốn như vậy,
nước Việt Nam phải là một nước không mạnh, bị chia cắt, không độc lập và lệ thuộc Trung Quốc.
Trái lại, một nước Việt Nam độc lập, thống nhất và giàu mạnh, có đường lối độc lập, tự chủ và
đường lối quốc tế đúng đắn là một cản trở lớn cho chiến lược toàn cầu của những người lãnh đạo
Trung Quốc, trước hết là cho chính sách bành trướng của họ ở Đông nam châu Á. Đó là nguyên
nhân vì sao trước đây họ vừa giúp, vừa kiềm chế cách mạng Việt Nam, mỗi khi Việt Nam đánh
thắng đế quốc thì họ lại buôn bán, thỏa hiệp với đế quốc trên lưng nhân dân Việt Nam; vì sao từ chỗ
giấu mặt chống Việt Nam họ đã chuyển sang công khai thù địch với Việt Nam và đi tới trắng trợn
tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Chính sách của những người lãnh đạo Trung Quốc muốn thôn tính Việt Nam nằm trong chính
sách chung của họ đối với các nước Đông nam châu Á cũng như đối với các nước láng giềng khác.
Họ muốn chiếm đất đai của Ấn Độ và thực tế đã chiếm một bộ phận đất đai của Ấn Độ trong cuộc
chiến tranh năm 1962; họ không muốn có một nước Ấn Độ mạnh mà họ cho rằng có thể tranh giành
với họ “vai trò lãnh đạo” các nước Á-Phi. Họ vẫn mưu toan chiếm Mông Cổ, mặc dù họ đã công
nhận nước Cộng hòa nhân dân Mông Cổ là một quốc gia độc lập. Họ muốn chiếm một phần đất đai
của Liên Xô, rất không muốn có ở bên cạnh Trung Quốc một nước Liên Xô hùng mạnh, nên họ tìm
mọi cách hạ uy thế của Liên Xô, đẩy các nước đế quốc gây chiến tranh với Liên Xô, đẩy các nước
Á, Phi, Mỹ la-tinh chống Liên Xô. Họ tập trung mọi cố gắng để dấy lên một cuộc “thập tự chinh quốc
tế” của các lực lượng đế quốc và phản động chống Liên Xô dưới chiêu bài “chống bá quyền” theo
công thức của chủ tịch Mao Trạch Đông “Ngồi trên núi xem hổ đánh nhau”. Như nhiều nhà chính trị
và báo chí Tây Âu nhận định, Trung Quốc quyết tâm “đánh Liên Xô đến người Tây Âu cuối cùng”
cũng như Trung Quốc trước đây đã quyết tâm “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”.

Chiến lược quốc tế ngày nay của những người lãnh đạo Trung Quốc, mặc dù núp dưới chiêu
bài nào, đã phơi trần tính chất cực kỳ phản cách mạng của nó và những người lãnh đạo Trung
Quốc đã hiện nguyên hình là những người theo chủ nghĩa sô-vanh nước lớn, những người dân tộc
chủ nghĩa tư sản.

Chính sách ngày nay của những người lãnh đạo Trung Quốc đối với Việt Nam, mặc dù được
ngụy trang khéo léo như thế nào, vẫn chỉ là chính sách của những hoàng đế “thiên triều” trong mấy
nghìn năm qua, nhằm thôn tính Việt Nam, khuất phục nhân dân Việt Nam, biến Việt Nam thành một
chư hầu của Trung Quốc.

Chú thích phần thứ nhất


[1] Tức khối xâm lược Bắc Đại-tây-dương. (B.T.)

[2] Cần nhắc lại rằng tại Hội nghị đại biểu các đảng Cộng sản và công nhân tháng 11 năm 1960,
Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đồng ý với nhận định hệ thống xã hội chủ nghĩa trên
thế giới là nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài người.

[3] Ét-ga Xnâu (Edgar Snow): Ngôi sao đỏ trên đất Trung Hoa. Nhà xuất bản Pen-guyn (Penguin),
Lân-đơn (London), 1972, tr. 159.

[4] Trong cuộc nói chuyện với các đại biểu người Hoa ở Việt Nam đến chào mừng Đoàn đại biểu
Đảng và Chính phủ Trung Quốc do Thủ tướng Chu Ân Lai dẫn đầu thăm Việt Nam, tháng 5 năm
1960.

[5] Tức Hội các nước Đông nam Á, thành lập năm 1967. (B.T.)

PHẦN THỨ HAI

TRUNG QUỐC VỚI VIỆC KẾT THÚC CUỘC CHẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG
NĂM 1954.

I- SAU ĐIỆN BIÊN PHỦ, NHÂN DÂN VIỆT NAM CÓ KHẢ NĂNG GIẢI PHÓNG HOÀN
TOÀN ĐẤT NƯỚC.
Năm 1945, nhân dân Việt Nam với tinh thần quật khởi, tự lực tự cường đã làm cuộc Cách
mạng tháng Tám thành công, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Mấy tháng sau, thực dân
Pháp đã chiếm lại các tỉnh ở Nam Bộ, và từ tháng 12 năm 1946 nhân dân Việt Nam đã phải tiến
hành cuộc kháng chiến lâu dài chống đế quốc Pháp xâm lược trên phạm vi cả nước để bảo vệ độc
lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mình.
Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam vô cùng gian khổ và hết sức anh dũng ngày càng
giành được nhiều thắng lợi to lớn. Các chiến thắng của nhân dân Việt Nam cũng như các chiến
thắng của nhân dân Lào (dưới sự lãnh đạo của Chính phủ kháng chiến Lào) và của nhân dân Cam-
pu-chia (dưới sự lãnh đạo của Chính phủ kháng chiến Cam-pu-chia), đặc biệt là chiến thắng lịch sử
Điện Biên Phủ của quân và dân Việt Nam, đã làm thay đổi so sánh lực lượng trên chiến trường rất
có lợi cho các lực lượng kháng chiến Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia, và đặt đế quốc Pháp trước
một tình thế vô cùng khó khăn.

Bộ trưởng quốc phòng Pháp R. Plê-ven (Pleven) cùng với chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng
tướng P. Ê-li (Ely), tham mưu trưởng lục quân tướng Blăng (Blanc), tham mưu trưởng không quân
tướng Phay (Fay), sau khi đi khảo sát chiến trường Đông Dương tháng 2 năm 1954 đã đi tới một
nhận xét bi quan về tình hình chiến trường như sau:

“Một sự tăng cường dù lớn đến đâu cho quân đội viễn chinh cũng không thể làm thay đổi được
tình hình. Vả lại, sự cố gắng về quân sự của chính quốc đã đến giới hạn cuối cùng. Tất cả những
điều mà chúng ta có thể hy vọng là tạo điều kiện quân sự thuận lợi nhất cho một giải pháp chính trị
cho cuộc xung đột” [1].

Ngày 18 tháng 5 năm 1954, lo ngại Quân đội nhân dân Việt Nam có thể tiến công đồng bằng
Bắc Bộ, Thủ tướng Pháp La-ni-en (Laniel) đã cử tướng Ê-li sang Đông Dương để truyền đạt chỉ thị
cho tướng Na-va (Navarre), tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp: lúc này phải lấy mục tiêu chính,
trên tất cả các cái khác, là cứu quân đội viễn chinh.

Đại sứ Sô-ven (Chauvel), Phó trưởng đoàn đại biểu của Pháp tại Hội nghị Giơ-ne-vơ năm
1954 về Đông Dương, trong một báo cáo gửi Bộ Ngoại giao Pháp đã viết: “Chúng ta khó giữ được
Hà Nội, Bộ chỉ huy cho biết gửi thêm hai sư đoàn nữa cũng không giữ được thủ phủ Bắc Kỳ…” [2].

Trước đây Chính phủ La-ni-en muốn thương lượng trên thế mạnh quân sự để giữ nguyên
được Lào, Cam-pu-chia và cố giữ được những quyền lợi gì có thể giữ được ở Việt Nam, coi đó là
giải pháp “danh dự” đối với Pháp. Sau thất bại ở Điện Biên Phủ, chính phủ đó càng muốn thương
lượng, nhằm trước hết cứu vãn đội quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương khỏi nguy cơ bị tiêu diệt.

Phong trào phản chiến của nhân dân Pháp, mà nòng cốt là Đảng Cộng sản Pháp, chống cuộc
“chiến tranh bẩn thỉu” ở Đông Dương phát triển mạnh. Chính quyền ở Pháp vốn đã chia rẽ về nhiều
vấn đề càng thêm chia rẽ trước những khó khăn nghiêm trọng về kinh tế, chính trị và xã hội. Thất
bại của Pháp ở Đông Dương sẽ dẫn đến sự sụp đổ toàn bộ hệ thống thuộc địa của đế quốc Pháp,
nhất là ở Bắc Phi.

Trong bối cảnh đó, Pháp bước vào Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 về Đông Dương với sự tham
gia của Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ, Anh, Pháp và các bên tham chiến ở Đông Dương.

II- LẬP TRƯỜNG CỦA TRUNG QUỐC Ở GIƠ-NE-VƠ KHÁC HẲN LẬP TRƯỜNG CỦA
VIỆT NAM, NHƯNG PHÙ HỢP VỚI LẬP TRƯỜNG CỦA PHÁP.
Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời năm 1949 trong
tình hình thế giới đã hình thành hai hệ thống đối lập về chính trị, kinh
tế và quân sự. Ở châu Âu cuộc chiến tranh lạnh ngày càng phát triển
và ở châu Á có hai cuộc chiến tranh nóng ở Triều Tiên và Đông
Dương. Những người lãnh đạo nước Trung Hoa mới muốn tranh thủ
điều kiện hòa bình để nhanh chóng khôi phục và phát triển kinh tế,
tăng cường tiềm lực quân sự, làm cho Trung Quốc sớm trở thành
một cường quốc lớn trên thế giới, thực hiện tham vọng bành trướng
đại dân tộc và bá quyền nước lớn, chủ yếu hướng về Đông nam
châu Á.
Mặc dầu khoảng một triệu quân Trung Quốc đã bị thương vong trong chiến tranh Triều Tiên,
những người lãnh đạo Trung Quốc, để có một khu đệm phía đông bắc, năm 1953 đã chịu nhận một
cuộc ngừng bắn ở Triều Tiên: duy trì nguyên trạng, chia cắt lâu dài Triều Tiên.

Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng trực tiếp, nhân dân Việt Nam và nhân dân
Trung Quốc luôn luôn ủng hộ, cổ vũ, giúp đỡ lẫn nhau, vì nước Việt Nam độc lập có nghĩa là Trung
Quốc không bị sự uy hiếp của chủ nghĩa đế quốc ở phía nam, và ngược lại Trung Quốc được giải
phóng có nghĩa là Việt Nam không bị sự uy hiếp của chủ nghĩa đế quốc ở phía bắc. Năm 1950,
nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa. Trung Quốc là nước viện trợ vũ khí, trang bị quân sự nhiều nhất cho Việt Nam
trong những năm cuối cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam.

Tại Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954, lập trường của Việt Nam là đi tới một giải pháp hoàn chỉnh:
đình chỉ chiến sự trên toàn bán đảo Đông Dương đi đôi với một giải pháp chính trị cho vấn đề Việt
Nam, vấn đề Lào và vấn đề Cam-pu-chia trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước ở Đông Dương.

Đối với những người lãnh đạo Trung Quốc, Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 về Triều Tiên và
Đông Dương là một cơ hội để họ cùng với các nước lớn bàn bạc và giải quyết các vấn đề quốc tế
lớn, mặc dù Mỹ đang thù địch với Trung Quốc, Pháp chưa có quan hệ ngoại giao với Trung Quốc và
Tưởng Giới Thạch còn giữ vị trí của Trung Quốc là một trong năm ủy viên thường trực của Hội đồng
bảo an Liên hợp quốc.

Những người lãnh đạo Trung Quốc muốn chấm dứt cuộc chiến
tranh Đông Dương bằng một giải pháp theo kiểu Triều Tiên, nghĩa là
đình chỉ chiến sự mà không có giải pháp chính trị. Ngày 24 tháng 8
năm 1953, chính Thủ tướng Chu Ân Lai đã tuyên bố: đình chiến ở
Triều Tiên có thể dùng làm mẫu mực cho những cuộc xung đột khác.
Với một giải pháp như thế, những người cầm quyền Trung Quốc hy
vọng tạo được một khu đệm ở Đông nam châu Á, ngăn chặn Mỹ vào
thay thế Pháp ở Đông Dương, tránh được sự đụng đầu trực tiếp với
Mỹ, bảo đảm an ninh cho biên giới phía nam của Trung Quốc, đồng
thời hạn chế thắng lợi của Việt Nam, chia rẽ nhân dân ba nước Đông
Dương, hòng làm suy yếu và thôn tính ba nước đó, dùng làm bàn
đạp bành trướng xuống Đông Nam châu Á.
Pháp đến Hội nghị Giơ-ne-vơ cũng nhằm đạt được một cuộc ngừng bắn theo kiểu Triều Tiên
để cứu đội quân viễn chinh Pháp, chia cắt Việt Nam, duy trì chủ nghĩa thực dân Pháp ở Đông
Dương.

Rõ ràng lập trường của Trung Quốc khác hẳn lập trường của Việt Nam, nhưng lại rất phù hợp
với lập trường của Pháp.

III- HIỆP ĐỊNH GIƠ-NE-VƠ NĂM 1954 VỀ ĐÔNG DƯƠNG VÀ SỰ PHẢN BỘI CỦA
NHỮNG NGƯỜI LÃNH ĐẠO TRUNG QUỐC.
Tháng 4 năm 1954, trong một cuộc họp giữa các đoàn đại biểu Việt Nam, Liên Xô, Trung Quốc
chuẩn bị cho Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương, đại biểu Trung Quốc đã nói : “Nước Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa không thể công khai giúp Việt Nam được trong trường hợp cuộc xung đột ở
đây mở rộng”.
Lợi dụng vị trí là một nước viện trợ quân sự chủ yếu và nắm con đường vận chuyển duy nhất
chi viện cho Việt Nam, đồng thời lợi dụng việc Pháp không muốn nói chuyện trên thế yếu với Việt
Nam, những người lãnh đạo Trung Quốc đã tự cho phép mình đàm phán trực tiếp với Pháp để thỏa
thuận về những điểm cơ bản của một giải pháp về vấn đề Đông Dương.

Quá trình đàm phán về thực chất tại Hội nghị Giơ-ne-vơ đã diễn ra qua hai thời kỳ:

Thời kỳ thứ nhất từ ngày 8 tháng 5 đến ngày 23 tháng 6 năm 1954, trưởng đoàn đại biểu Pháp,
trong khi tránh tiếp xúc với Việt Nam, đã đàm phán trực tiếp với trưởng đoàn đại biểu Trung Quốc
bốn lần, đi tới thỏa thuận về những nét cơ bản của một Hiệp định ngừng bắn ở Đông Dương.

Đáng chú ý là cuộc tiếp xúc lần thứ ba ngày 17 tháng 6 năm 1954, Thủ tướng Chu Ân Lai gặp
trưởng đoàn đại biểu Pháp G. Bi-đô (Bidault), đưa ra những nhân nhượng chính trị có tính chất cơ
bản, có hại cho nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia: Trung Quốc có thể chấp nhận
Việt Nam có hai chính quyền (Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và Chính phủ bù nhìn Bảo
Đại), công nhận Chính phủ Vương quốc Lào và Chính phủ Vương quốc Cam-pu-chia, từ bỏ yêu cầu
có đại biểu của Chính phủ kháng chiến Lào và Chính phủ kháng chiến Cam-pu-chia tham gia Hội
nghị Giơ-ne-vơ, và đưa ra vấn đề quân đội nước ngoài, kể cả quân tình nguyện Việt Nam, phải rút
khỏi Lào và Cam-pu-chia.

Lần thứ tư, ngày 23 tháng 6 năm 1954, Thủ tướng Chu Ân Lai gặp Măng-đét Phrăng-xơ,
(Mandès France) Thủ tướng mới của Pháp, đưa ra những nhượng bộ mới: chia cắt Việt Nam, hai
miền Việt Nam cùng tồn tại hòa bình, giải quyết vấn đề quân sự trước, tách rời việc giải quyết ba
vấn đề Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia; Trung Quốc sẵn sàng nhìn nhận ba nước này trong khối Liên
hiệp Pháp, và muốn Lào, Cam-pu-chia sẽ có bộ mặt mới ở Đông nam châu Á như Ấn Độ, In-đô-nê-
xi-a, ngược lại chỉ yêu cầu không có căn cứ quân sự của Mỹ ở Đông Dương. Do đó, Trung Quốc và
Pháp đạt được một giải pháp khung cho vấn đề Đông Dương.

Những điểm mà những người lãnh đạo Trung Quốc đã thỏa thuận với Pháp rất phù hợp với
giải pháp 7 điểm của Anh-Mỹ đưa ra ngày 29 tháng 6 năm 1954, tức là 6 ngày sau cuộc tiếp xúc
giữa Chu Ân Lai và Măng-đét Phran-xơ.

Thời kỳ thứ hai từ ngày 23 tháng 6 đến ngày 20 tháng 7 năm 1954, Đoàn đại biểu Pháp tiến
hành đàm phán trực tiếp với Đoàn đại biểu Việt Nam để giải quyết các vấn đề cụ thể. Trung Quốc
giữ vai trò thúc đẩy phía Việt Nam nhân nhượng. Đến ngày 10 tháng 7 năm 1954, phía Việt Nam
vẫn kiên trì lập trường của mình về vấn đề Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia, vẫn chủ trương đòi có
đại biểu của Chính phủ kháng chiến Lào và Chính phủ kháng chiến Cam-pu-chia tham gia như các
bên đàm phán, định giới tuyến quân sự tạm thời ở Việt Nam là vĩ tuyến 13, tổ chức tổng tuyển cử tự
do trong thời hạn 6 tháng để thống nhất nước nhà. Đối với việc giải quyết vấn đề Lào và vấn đề
Cam-pu-chia, Việt Nam vẫn giữ quan điểm là ở Lào có hai vùng tập kết của lực lượng kháng chiến:
một vùng ở phía bắc giáp Trung Quốc và Việt Nam và một vùng ở Trung và Hạ Lào; ở Cam-pu-chia
có hai vùng tập kết của lực lượng kháng chiến Cam-pu-chia ở phía đông và đông bắc sông Mê-
công (Meskong) và phía tây nam sông Mê-công; tổ chức tổng tuyển cử tự do trong thời hạn 6 tháng
ở Lào và Cam-pu-chia.

Từ tháng 5 năm 1954, đoàn đại biểu Trung Quốc đưa ra phương án lấy vĩ tuyến 16 làm giới
tuyến giữa hai miền Việt Nam, và còn muốn Việt Nam nhân nhượng nhiều hơn nữa, thậm chí muốn
Việt Nam bỏ cả thủ đô Hà Nội, thành phố Hải Phòng và đường số 5 (đường nối liền Hà Nội với Hải
Phòng):
“Đánh giá (phương án vĩ tuyến 16) khó có thể thỏa thuận, nếu không được thì sẽ lấy Hải Phòng
làm cửa bể tự do, ở gần đấy cho Pháp đóng một số quân nhất định, nếu không được nữa thì đem
đường số 5 và Hà Nội, Hải Phòng làm khu công quản và phi quân sự…” [3].

Nhưng về sau, đặc biệt từ ngày 10 tháng 7 năm 1954, 10 ngày trước khi Hội nghị Giơ-ne-vơ
kết thúc, Trung Quốc ngày càng thúc ép Việt Nam nhân nhượng, “có những điều kiện công bằng và
hợp lý để Chính phủ Pháp có thể nhận được, để đi đến hiệp định trong vòng 10 ngày, điều kiện đưa
ra nên giản đơn, rõ ràng để dễ đi đến hiệp thương, không nên làm phức tạp lôi thôi để tránh thảo
luận mất thì giờ, rườm rà, kéo dài đàm phán để cho Mỹ phá hoại” [4].

Khi đó Trung Quốc còn lo sợ Mỹ có thể can thiệp bằng vũ trang vào Đông Dương, uy hiếp an
ninh của Trung Quốc, nhưng cần nói rằng Trung Quốc cũng dùng những lời của Mỹ đe dọa chiến
tranh để ép VN.

Sự thật là sau cuộc chiến tranh Triều Tiên, Mỹ không có khả năng can thiệp quân sự trực tiếp
vào Đông Dương. Thái độ cứng rắn của Mỹ ở Hội nghị Giơ-ne-vơ chẳng qua là do Mỹ sợ Pháp vì bị
thua ở chiến trường, có nhiều khó khăn về chính trị, kinh tế, tài chính, có thể chấp nhận một giải
pháp không có lợi cho việc Mỹ nhảy vào Đông Dương sau này. Khi Pháp đã cùng với Trung Quốc
thỏa thuận được một giải pháp khung về Đông Dương và Mỹ đã đưa được tên tay sai Ngô Đình
Diệm về làm thủ tướng chính phủ bù nhìn Sài Gòn (ngày 13 tháng 6 năm 1954), thì Mỹ thấy có thể
chấp nhận một hiệp định theo hướng Trung Quốc và Pháp đã thỏa thuận giải quyết cả ba vấn đề
Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia. Tuy vậy, Mỹ không tham gia vào bản Tuyên bố cuối cùng của Hội
nghị là vì Mỹ muốn được rảnh tay sau này để vi phạm Hiệp định Giơ-ne-vơ thông qua chính quyền
Ngô Đình Diệm, buộc Pháp phải rút lui để thay thế Pháp ở Đông Dương.
Sau Điện Biên Phủ, rõ ràng là với sự giúp đỡ của hệ thống xã hội chủ nghĩa, nhất là của Trung
Quốc, quân và dân Việt Nam có khả năng giải phóng cả nước, nhưng giải pháp mà Đoàn đại biểu
Trung Quốc đã thỏa thuận với Đoàn đại biểu Pháp ở Giơ-ne-vơ không phản ảnh so sánh lực lượng
trên chiến trường, cũng không đáp ứng đầy đủ những yêu cầu chính trị của giải pháp do Đoàn đại
biểu Việt Nam đề ra.

Xuất phát từ truyền thống yêu chuộng hòa bình, theo xu thế chung giải quyết các vấn đề tranh
chấp bằng thương lượng và trong tình thế bị Trung Quốc ép buộc, Việt Nam đã chấp nhận giải
pháp: các nước tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào, nhân
dân Cam-pu-chia, ngừng bắn đồng thời ở Việt Nam và trên toàn chiến trường Đông Dương, Pháp
rút quân, vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời chia Việt Nam làm hai miền, tiến tới có tổng
tuyển cử tự do trong cả nước sau hai năm để thống nhất nước nhà.

Ở Lào có một khu tập kết cho các lực lượng kháng chiến lào gồm hai tỉnh Sầm Nưa và Phong-
sa-lỳ. Ở Cam-pu-chia lực lượng kháng chiến không có khu tập kết nào và phục viên tại chỗ.
Chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 đánh dấu một bước thắng lợi
của các lực lượng cách mạng ở Đông Dương, đồng thời là một đóng góp quan trọng mở đầu sự tan
rã hoàn toàn của hệ thống thuộc địa của đế quốc Pháp và báo hiệu quá trình sụp đổ không thể đảo
ngược được của chủ nghĩa thực dân cũ, của chủ nghĩa đế quốc thế giới. Nhưng giải pháp Giơ-ne-
vơ đã ngăn cản nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia đạt được thắng lợi hoàn toàn
trong cuộc kháng chiến chống Pháp, một khả năng rõ ràng là hiện thực như so sánh lực lượng trên
chiến trường lúc bấy giờ đã chỉ rõ. Đó là điều mà những người lãnh đạo Trung Quốc hiểu rõ hơn ai
hết.

Đây là sự phản bội thứ nhất của những người lãnh đạo Trung Quốc đối với cuộc đấu tranh
cách mạng của nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân Lào và nhân dân Cam-pu-chia.

Chú thích phần thứ hai

[1] G. La-cu-tuya (Jean Lacouture) và P. Đơ-vi-le (Philippe Devillers) : Sự kết thúc của một cuộc
chiến tranh, Nhà xuất bản Xơi (Seuil), Pa-ri, 1960, tr. 62-63.

[2] P. Ru-a-nê (Rouanet): Măng-đét Phrăng-xơ cầm quyền, Nhà xuất bản La-phông (Laffont), Pa-ri,
1965, tr.146.

[3] Điện văn của Chu Ân Lai, ngày 30 tháng 5 năm 1954 gửi Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng
sản Trung Quốc, sao gửi Ban chấp hành trung ương Đảng Lao động Việt Nam.

[4] Điện văn của Chu Ân Lai, ngày 10 tháng 7 năm 1954 gửi Ban chấp hành trung ương Đảng Lao
động Việt Nam.

PHẦN THỨ BA

TRUNG QUỐC VỚI CUỘC ĐẤU TRANH CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM ĐỂ GIẢI
PHÒNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT NƯỚC NHÀ (1954-1975)

Bất chấp Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 về Việt Nam, đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam Việt
Nam, nhằm tiêu diệt phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam, thôn tính miền nam, chia cắt lâu
dài nước Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ,
lập phòng tuyến ngăn chặn chủ nghĩa xã hội lan xuống Đông nam châu Á, đồng thời lấy miền nam
làm căn cứ để tiến công miền bắc, tiền đồn của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông nam châu Á, đè
bẹp và đẩy lùi chủ nghĩa xã hội ở khu vực này, hòng bao vây uy hiếp các nước xã hội chủ nghĩa
khác. Thất bại trong việc dùng chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm và tiến hành “chiến tranh đặc
biệt” ở miền nam Việt Nam, đế quốc Mỹ đã lao vào cuộc phiêu liêu quân sự chống nhân dân Việt
Nam, tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn nhất, dài ngày nhất, ác liệt và dã man
nhất từ sau chiến tranh thế giới thứ hai.

Hưởng ứng lời kêu gọi bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”,
nhân dân Việt Nam đã nhất tề đứng lên chống Mỹ, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, sức mạnh trong nước với
sức mạnh quốc tế tạo thành một sức mạnh tổng hợp to lớn để đánh và thắng bọn xâm lược Mỹ.
Trong chiến tranh, nhân dân Việt Nanm luôn luôn thực hành chiến lược tiến công, đẩy mạnh đấu
tranh trên cả ba mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao, đồng thời biết kéo địch xuống thang,
giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

Quá trình hơn 20 năm nhân dân Việt Nam chống chính sách can thiệp và xâm lược của đế
quốc Mỹ cũng là quá trình đấu tranh bền bỉ, hết sức phức tạp chống những âm mưu và hành động
khi kín đáo, lúc trắng trợn của những người cầm quyền Trung Quốc thỏa hiệp và câu kết với đế
quốc Mỹ nhằm kiềm chế và làm suy yếu cách mạng Việt Nam, hòng khuất phục Việt Nam, từng
bước bành trướng ở Đông Dương và Đông nam Châu Á.

I- THỜI KỲ 1954-1964 : NHỮNG NGƯỜI CẦM QUYỀN TRUNG QUỐC NGĂN CẢN
NHÂN DÂN VIỆT NAM ĐẤU TRANH ĐỂ THỰC HIỆN THỐNG NHẤT NƯỚC NHÀ.
Sau khi cùng với đế quốc thỏa hiệp trong giải pháp Giơ-ne-vơ năm 1954, tạo được khu đệm an
toàn ở phía nam, những người lãnh đạo Trung Quốc yên tâm thúc đẩy việc hoàn thành kế hoạch 5
năm lần thứ nhất (1953-1957), và từ năm 1958 đề ra kế hoạch “đại nhảy vọt” với tham vọng đuổi kịp
và vượt một số cường quốc về kinh tế trong một thời gian ngắn và ra sức xây dựng lực lượng hạt
nhân.

Về đối ngoại họ đi vào con đường hòa hoãn với đế quốc Mỹ, tiến hành những cuộc nói chuyện
với Mỹ ở Giơ-ne-vơ từ tháng 8 năm 1955; đồng thời tìm cách mở rộng ảnh hưởng ở châu Á, nhất là
ở Đông nam châu Á và Nam Á.

Xuất phát từ đường lối đối nội, đối ngoại đó, những người cầm quyền Bắc Kinh đã hành động
ngược lại lợi ích của nhân dân Việt Nam, phù hợp với lợi ích của đế quốc Mỹ ở Việt Nam nói riêng
và Đông Dương nói chung.

1- Gây sức ép để Việt Nam chấp nhận chủ trương “trường kỳ mai phục”
Đế quốc Mỹ và tay sai trắng trợn phá hoại việc tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất nước Việt
Nam trong thời hạn hai năm như Hiệp định Giơ-ne-vơ về Việt Nam đã quy định, đồng thời đàn áp
cực kỳ tàn bạo phong trào yêu nước ở miền nam Việt Nam.

Những người cầm quyền Bắc Kinh luôn luôn “thuyết phục” Việt Nam rằng công cuộc thống
nhất là “một cuộc đấu tranh trường kỳ” và không thể thực hiện được bằng lực lượng vũ trang.

Tháng 11 năm 1956, chủ tịch Mao Trạch Đông nói với những người lãnh đạo Việt Nam: “Tình
trạng nước Việt Nam bị chia cắt không thể giải quyết được trong một thời gian ngắn mà cần phải
trường kỳ… nếu 10 năm chưa được thì phải 100 năm”.

Diễn biến thực tế của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam đã
chứng tỏ cuộc kháng chiến đó có lâu dài, nhưng không phải lâu dài vô hạn độ như chủ tịch Mao
Trạch Đông nói.

Tháng 7 năm 1955, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Đặng Tiểu Bình dọa: “Dùng lực
lượng vũ trang để thống nhất nước nhà sẽ có hai khả năng: một là thắng và một khả năng nữa là
mất cả miền bắc”.

Tháng 7 năm 1957, chủ tịch Mao Trạch Đông lại nói: “Vấn đề là phải giữ biên giới hiện có. Phải
giữ vĩ tuyến 17… Thời gian có lẽ dài đấy. Tôi mong thời gian dài thì sẽ tốt.”
Đó là một điều trái hẳn với Hiệp nghị Giơ-ne-vơ, vì theo Hiệp định này, vĩ tuyến 17 không phải
là biên giới giữa hai quốc gia mà chỉ là giới tuyến quân sự tạm thời giữa hai miền Việt Nam. Những
người lãnh đạo Bắc Kinh nhiều lần nhấn mạnh rằng ở miền nam Việt Nam “chỉ có thể dùng phương
châm thích hợp là trường kỳ mai phục, tích trữ lực lượng, liên hệ quần chúng, chờ đợi thời cơ”. Thực
chất phương châm đó là gì?

Trong một cuộc trao đổi ý kiến với những người lãnh đạo Việt Nam, Ủy viên trung ương của
Đảng Cộng sản Trung Quốc, thứ trưởng Bộ ngoại giao Trương Văn Thiên cho rằng ở miền nam Việt
Nam có thể tiến hành đánh du kích. Nhưng sau đó, đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội, theo chỉ thị của
Bắc Kinh, đã thông báo với phía Việt Nam rằng đó không phải là ý kiến của Trung ương đảng Cộng
sản Trung Quốc mà chỉ là ý kiến cá nhân.

Như vậy, “trường kỳ mai phục” có nghĩa là nhân dân Việt Nam thủ tiêu đấu tranh cách mạng,
để mặc cho Mỹ Diệm thả sức đàn áp nhân dân miền Nam Việt Nam.

“Giữ vĩ tuyến 17”, “trường kỳ mai phục”, “tích trữ lực lượng”, “chờ đợi thời cơ”… đó chẳng qua
là luận điệu quanh co nhằm che giấu ý đồ của Bắc Kinh muốn duy trì nguyên trạng chính trị ở Việt
Nam, công nhận Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và ngụy quyền Sài Gòn song song tồn tại.
Ngày 22 tháng 7 năm 1954, khi ăn cơm với Ngô Đình Luyện, em ruột của Ngô Đình Diệm tại Giơ-
ne-vơ, thủ tướng Chu Ân Lai đã gợi ý đặt một công sứ quán của Sài Gòn tại Bắc Kinh. Dù Ngô Đình
Diệm đã bác bỏ gợi ý đó, nhưng đây là một bằng chứng rõ ràng là chỉ 24 giờ sau khi Hiệp định Giơ-
ne-vơ được ký kết, những người lãnh đạo Bắc Kinh đã lộ rõ ý họ muốn chia cắt lâu dài nước Việt
Nam.

Trong thời gian từ năm 1954 đến năm 1959, với chính sách đàn áp phát-xít, Mỹ −Diệm đã giết
hại hàng vạn người Việt Nam yêu nước, lùa hàng vạn nhân dân vào các trại tập trung trá hình, gây
cho nhân dân Việt Nam những tổn thất to lớn so với bất kỳ thời gian nào khác trong cuộc chiến
tranh cứu nước của mình. Nếu cứ để chúng tiếp tục giết hại những người Việt Nam yêu nước thì
làm sao “tích trữ” được lực lượng, còn nhân dân đâu để “liên hệ quần chúng” và chờ đợi đến “thời
cơ” nào? Theo cái đà đó thì nước Việt Nam sẽ mất độc lập và vĩnh viễn bị chia cắt.

Vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với cách mạng miền nam là tiếp tục đấu tranh chính trị hay
kết hợp cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang?

Nhân dân Việt Nam kiên quyết đi theo đường lối độc lập, tự chủ của mình. Cuối năm 1959 đầu
năm 1960, nhân dân trong những vùng rộng lớn thuộc đồng bằng Nam Bộ và miền Nam Trung Bộ
đã nhất tề “đồng khởi” kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự, làm rung chuyển tận gốc
chế độ tay sai Ngô Đình Diệm.

2- Ngăn cản nhân dân Việt Nam đẩy mạnh đấu tranh vũ trang ở miền nam.
Các cuộc “đồng khởi”, thực chất là những cuộc khởi nghĩa từng phần, đã nhanh chóng phát
triển thành một cuộc chiến tranh cách mạng, vừa đấu tranh quân sự vừa đấu tranh chính trị chống
lại “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ. Nhưng những người cầm quyền Trung Quốc đã không
đồng tình với chủ trương đó của Việt Nam.

Tháng 5 năm 1960, hội đàm với phía Việt Nam, họ nói về miền Nam Việt Nam như sau:

“Không nên nói đấu tranh chính trị hay đấu tranh quân sự là chính… Đấu tranh chính trị hay
đấu tranh quân sự không phải là cướp chính quyền ngay, mà cuộc đấu tranh vẫn là trường kỳ... Dù
Diệm có đổ cũng không thể thống nhất ngay được, vì đế quốc Mỹ không chịu để như vậy đâu…
Miền bắc có thể ủng hộ về chính trị cho miền nam, giúp miền nam đề ra các chính sách nhưng
chủ yếu là bồi dưỡng tinh thần tự lực cánh sinh cho anh em miền nam… Khi ăn chắc, miền bắc có
thể giúp quân sự cho miền nam, nghĩa là khi hoàn toàn chắc chắn không xảy ra chuyện gì, có thể
cung cấp một số vũ trang mà không cho ai biết. Nhưng nói chung là không giúp.”

Như vậy, khi không cản được nhân dân miền Nam Việt Nam “đồng khởi” thì họ muốn nhân dân
miền bắc từ bỏ nghĩa vụ của mình đối với đồng bào miền nam, mặc cho nhân dân miền nam một
mình chiến đấu.

Họ đã khước từ giúp đỡ nhân dân Việt Nam xây dựng quân đội chính quy và chỉ nhận cung
cấp cho phía Việt Nam một số vũ khí nhẹ và trang bị hậu cần. Khi không cản được nhân dân miền
Nam Việt Nam “đồng khởi” thì họ cho rằng hình thức chiến đấu ở miền nam là đánh du kích, đánh
nhỏ, từng đơn vị trung đội, đại đội.

Làm chủ vận mệnh của mình, nhân dân Việt Nam đã đưa cuộc chiến tranh cách mạng ở miền
nam tiến lên vững mạnh. Cuối năm 1963, chế độ độc tài phát-xít Ngô Đình Diệm sụp đổ, “chiến
tranh đặc biệt” của Mỹ phá sản hoàn toàn.

3- Lôi kéo Việt Nam chống Liên Xô


Đầu những năm 1960, trong khi ngăn cản nhân dân Việt Nam đẩy mạnh chiến đấu chống Mỹ,
những người lãnh đạo Bắc Kinh giơ cao cùng một lúc hai chiêu bài chống đế quốc Mỹ và chống
Liên Xô, nhưng trên thực tế họ tiếp tục hòa hoãn với đế quốc Mỹ ở châu Á, đánh lạc hướng cuộc
đấu tranh chống Mỹ của nhân dân thế giới để thực hiện mưu đồ chống Liên Xô, xoá bỏ hệ thống xã
hội chủ nghĩa, nắm quyền “lãnh đạo cách mạng thế giới”, chuẩn bị tích cực cho việc hòa hoãn và
câu kết với đế quốc Mỹ.

Trong những cuộc hội đàm với phía Việt Nam năm 1963, họ tìm cách thuyết phục Việt Nam
chấp nhận quan điểm của họ là phủ nhận hệ thống xã hội chủ nghĩa và mở cho họ “một con đường”
xuống Đông nam châu Á. Cũng trong năm 1963, những người lãnh đạo Trung Quốc đưa ra cái gọi
là Cương lĩnh 25 điểm về đường lối chung của phong trào Cộng sản quốc tế và đề nghị triệu tập cái
gọi là hội nghị 11 đảng Cộng sản, thực tế là để nắm vai trò “lãnh đạo cách mạng thế giới” và lập một
“Quốc tế Cộng sản” mới do Bắc Kinh khống chế. Họ thiết tha yêu cầu Việt Nam đồng tình là cốt lợi
dụng uy tín và vai trò của Việt Nam trong phong trào Cộng sản và phong trào giải phóng dân tộc
trên thế giới. Nhằm mục đích này, họ còn hứa hẹn viện trợ ồ ạt để lôi kéo Việt Nam. Tổng bí thư
đảng Cộng sản Trung Quốc Đặng Tiểu Bình thông báo với lãnh đạo Việt Nam ý kiến của lãnh đạo
Trung Quốc sẽ viện trợ 1 tỷ nhân dân tệ nếu Việt Nam khước từ mọi viện trợ của Liên Xô.

Phía Việt Nam đã khẳng định thái độ kiên quyết bảo vệ hệ thống xã hội chủ nghĩa, không tán
thành việc họp hội nghị 11 đảng và không để những người lãnh đạo Bắc Kinh dùng đất nước Việt
Nam làm bàn đạp cho mưu đồ bành trướng của họ. Do thái độ kiên quyết của phía Việt Nam,
Cương lĩnh 25 điểm không gây được tiếng vang, âm mưu lập “Quốc tế Cộng sản” mới cũng không
thành.

* *

Trong thời kỳ này, đối với cách mạng Lào, những người cầm quyền Trung Quốc cũng thi hành
một chính sách giống như đối với Việt Nam. Họ cũng gây sức ép để lực lượng cách mạng Lào
“trường kỳ mai phục”. Khi Mỹ và tay sai lật đổ Chính phủ liên hiệp, tiến hành “chiến tranh đặc biệt”,
họ ngăn cản cách mạng Lào đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị và mưu toan ép
Đảng Nhân dân cách mạng Lào “sớm lập lại Chính phủ liên hiệp”, sợ rằng “đốm lửa” Sầm Nưa,
Phong-sa-lỳ có thể lan ra cả Việt Nam và miền nam Trung Quốc.

Trong một cuộc hội đàm với phía Việt Nam tháng 8 năm 1961, khi đề cập đến vấn đề Lào, phía
Trung Quốc nói: “Cần hết sức tránh việc trực tiếp tham gia chiến tranh. Nếu Mỹ trực tiếp vào Lào thì
miền bắc Việt Nam, Vân Nam, Quảng Tây sẽ xảy ra vấn đề gì? Cần tính đến việc phiêu lưu của Mỹ”.

Đối với việc giải quyết vấn đề Lào tại Giơ-ne-vơ năm 1961−1962, họ còn chủ trương chia nước
Lào theo chiều ngang thành hai vùng: vùng giải phóng ở phía bắc, vùng do ngụy quyền Viêng Chăn
kiểm soát ở phía nam. Đó là một âm mưu thâm độc nhằm buộc lực lượng cách mạng Lào phải lệ
thuộc vào Trung Quốc và cô lập cách mạng miền nam Việt Nam.

Nhưng những nhà lãnh đạo cách mạng Lào kiên quyết giữ vững đường lối riêng của mình, lực
lượng kháng chiến Lào ngày càng giành nhiều thắng lợi, buộc đế quốc Mỹ và tay sai phải ký Hiệp
nghị Giơ-ne-vơ năm 1962 công nhận nền trung lập của Lào và nhận có đại biểu của Mặt trận Lào
yêu nước trong Chính phủ liên hiệp thứ hai ở Lào.

II- THỜI KỲ 1965-1969 : LÀM YẾU VÀ KÉO DÀI CUỘC KHÁNG CHIẾN CỦA NHÂN
DÂN VIỆT NAM.
Trong thời kỳ này, ở Trung Quốc diễn ra cái gọi là cuộc “đại cách mạng văn hoá”, thực chất là
một cuộc đấu tranh nội bộ điên cuồng và đẫm máu làm đảo lộn toàn bộ xã hội Trung Quốc, nhằm
xoá bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, phá vỡ Đảng Cộng sản Trung Quốc và cơ cấu Nhà nước, khôi phục vị
trí độc quyền lãnh đạo của Chủ tịch Mao Trạch Đông và đường lối Mao Trạch Đông ở trong nước,
chống Liên Xô, phá hoại cách mạng thế giới, câu kết với đế quốc Mỹ ở ngoài nước, đẩy mạnh việc
thực hiện chính sách bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn.

Những người lãnh đạo Trung Quốc, vì lợi ích chiến lược của họ trong thời kỳ này, đã dấn sâu
vào con đường phản bội nhân dân Việt Nam.

1- Bật đèn xanh cho Mỹ trực tiếp xâm lược Việt Nam
Sau cuộc chiến tranh ở Triều Tiên, đế quốc Mỹ đã rút ra bài học là không nên tiến hành một
cuộc chiến tranh trên lục địa châu Á, nhất là ở những nước láng giềng của Trung Quốc, để tránh
đụng độ quân sự trực tiếp với Trung Quốc. Nhưng hơn 10 năm sau, đế quốc Mỹ lại liều lĩnh tiến
hành một cuộc phiêu lưu quân sự ở Việt Nam sau khi gây ra cái gọi là “sự kiện vịnh Bắc Bộ” tháng 8
năm 1964. Một trong những nguyên nhân chính là đế quốc Mỹ đã được yên tâm về phía những
người cầm quyền Trung Quốc.

Tháng 1 năm 1965, qua nhà báo Mỹ Ét-ga Xnâu, chủ tịch Mao Trạch Đông nhắn Oa-sinh-tơn
(Washington): “Quân đội Trung Quốc sẽ không vượt biên giới của mình để đánh nhau. Đó là điều
hoàn toàn rõ ràng. Chỉ khi nào Mỹ tấn công, người Trung Quốc mới chiến đấu. Phải chăng như vậy
là không rõ ràng? Người Trung Quốc rất bận về công việc nội bộ của mình. Đánh nhau ngoài biên
giới nước mình là phạm tội ác. Tại sao người Trung Quốc phải làm như vậy? Người Nam Việt Nam
có thể đương đầu với tình hình.” [1].

Sau đó bằng nhiều cách, kể cả bằng cách trực tiếp nói trong cuộc đàm phán Trung-Mỹ cấp đại
sứ tại Vacsava, phía Trung Quốc làm cho Mỹ hiểu rõ câu nói của chủ tịch Mao Trạch Đông và yên
tâm rằng “người không đụng đến ta thì ta không đụng đến người”.
Do đó từ tháng 2 năm 1965 chính quyền Giôn-xơn (Johnson) đã sử dụng bộ máy chiến tranh
khổng lồ của Mỹ vào chiến trường Việt Nam, đưa quân Mỹ vào miền nam tiến hành chiến tranh cục
bộ, đồng thời làm chiến tranh phá hoại bằng không quân chống nước Việt Nam dân chủ cộng hòa,
gây nên biết bao tang tóc và tàn phá đối với nhân dân cả nước Việt Nam.

Như vậy, những người cầm quyền Trung Quốc đã bộc lộ những tính toán lắt léo, những ý đồ
thâm độc của họ. Họ đẩy Mỹ sa lầy trong chiến tranh xâm lược Việt Nam để họ yên tâm làm cuộc
“cách mạng văn hoá”. Khi Mỹ lao vào cuộc phiêu lưu quân sự ở Việt Nam, họ muốn làm yếu cả Mỹ
lẫn Việt Nam.

Câu nói của thủ tướng Chu Ân Lai với tổng thống Ai Cập A. Nát-xe (Nasser) ngày 23 tháng 6
năm 1965, do ông Mô-ha-mét Hát-xe-nen Hây-can (Mohamed Hassanein Heikal), người bạn thân
thiết và cố vấn riêng của tổng thống A. Nát-xe, kể lại là một bằng chứng hùng hồn:

“Mỹ càng đưa nhiều quân vào Việt Nam thì chúng tôi càng vui lòng vì chúng tôi biết rằng chúng
tôi nắm chúng trong tay, chúng tôi có thể lấy máu chúng. Nếu Ngài muốn giúp đỡ người Việt Nam
thì cần khuyến khích Mỹ ném càng nhiều lính Mỹ vào Việt Nam càng tốt” [2]

Đối với nhân dân Việt Nam, những người cầm quyền Trung Quốc chỉ một mực nhấn mạnh là
phải đánh lâu dài, đánh du kích, không đánh lớn. Họ giúp nhân dân Việt Nam chủ yếu là gúp vũ khí
nhẹ, đạn dược, trang bị hậu cần. Họ không muốn cuộc chiến tranh Việt Nam sớm kết thúc vì không
những họ muốn lực lượng cách mạng Việt Nam suy yếu mà còn muốn lợi dụng càng lâu càng tốt
cái tiếng “viện trợ Việt Nam” để giương cao ngọn cờ “cách mạng triệt để”, tập hợp lực lượng ở châu
Á, châu Phi, châu Mỹ la-tinh, đẩy mạnh chiến dịch chống Liên Xô.

Không có gì đáng ngạc nhiên là họ đã khước từ thi hành một hiệp định quân sự bí mật giữa
Việt Nam và Trung Quốc. Theo hiệp định này, về nguyên tắc đến tháng 6 năm 1965 phía Trung
Quốc phải gửi phi công sang giúp Việt Nam. Nhưng ngày 16 tháng 7 năm 1965 Bộ Tổng tham mưu
Quân giải phóng Trung Quốc đã báo cho Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam là phía
Trung Quốc không thể gửi phi công sang Việt Nam được vì “thời cơ chưa thích hợp” và “làm như
vậy không ngăn cản được địch đẩy mạnh oanh tạc”. Trong một cuộc hội đàm với phía Việt Nam
tháng 8 năm 1966, họ cũng nói: “Trung Quốc không đủ khả năng về không quân giúp bảo vệ Hà
Nội”.

2- Phá hoại mọi hành động thống nhất ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược.
Để Việt Nam buộc phải lệ thuộc vào Trung Quốc, những người cầm quyền Bắc Kinh ra sức
ngăn cản mọi hành động thống nhất của các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới ủng hộ
Việt Nam chống Mỹ.

Ngày 28 tháng 2 năm 1965, họ bác bỏ dự thảo do phía Việt Nam đề nghị ngày 22 tháng 5 năm
1965 là các nước xã hội chủ nghĩa ra tuyên bố chung lên án Mỹ tăng cường chiến tranh xâm lược
chống nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Tháng 3 năm 1965, họ lại bác bỏ đề nghị của Liên Xô về việc họp ba đảng Liên Xô, Việt Nam
và Trung Quốc bàn vấn đề phối hợp hành động ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ xâm lược.

Tháng 4 năm 1965, họ lại hai lần bác bỏ đề nghị của Liên Xô về vấn đề thống nhất hành động
để bảo đảm an ninh của Việt Nam dân chủ cộng hòa. Chính vì thế họ đã bác bỏ đề nghị của Liên Xô
lập cầu hàng không qua Trung Quốc, lập các sân bay trên đất Trung Quốc để bảo vệ Việt Nam dân
chủ cộng hòa.
Tháng 2 năm 1966, chủ tịch Mao Trạch Đông bác bỏ việc thành lập Mặt trận quốc tế ủng hộ
Việt Nam đã được nêu trong cuộc hội đàm cấp cao Việt Trung.

Tháng 3 năm 1966, cũng chủ tịch Mao Trạch Đông bác bỏ việc thành lập Mặt trận quốc tế
thống nhất ủng hộ Việt Nam do Đảng Cộng sản Nhật Bản nêu trong cuộc hội đàm cấp cao với Đảng
Cộng sản Trung Quốc. Sau đó bọn tay sai của Bắc Kinh đã trắng trợn hành hung đại diện Đảng
Cộng sản Nhật Bản tại Trung Quốc.

Nhưng những người cầm quyền Trung Quốc lại muốn thành lập một cái gọi là Mặt trận nhân
dân thế giới do họ khống chế:

“Cần phải thành lập Mặt trận thống nhất thế giới rộng rãi nhất chống đế quốc Mỹ và tay sai…
Tất nhiên Mặt trận đó không thể bao gồm họ (Liên Xô) được…” [3]

Đi đôi với việc phá mọi hành động thống nhất ủng hộ Việt Nam, họ gây khó khăn rất lớn cho
việc vận chuyển hàng viện trợ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác quá cảnh đất Trung
Quốc và tìm cách điều chỉnh sự viện trợ đó để hạn chế khả năng đánh lớn của nhân dân Việt Nam,
đặc biệt trong các mùa khô.

Trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc, nhân
dân Việt Nam, nhân dân Lào và nhân dân Cam-pu-chia đã đoàn kết chặt chẽ với nhau và đó là
truyền thống, là một nhân tố thắng lợi của nhân dân ba nước. Sau khi Mỹ tăng cường chiến tranh
chống nhân dân Việt Nam và uy hiếp độc lập, hòa bình và trung lập của Lào và Cam-pu-chia, tháng
3 năm 1965 Hội nghị nhân dân các nước Đông Dương đã họp ở Phnôm Pênh, Mặt trận đoàn kết
chống Mỹ của nhân dân các nước Đông Dương được hình thành. Những người cầm quyền Trung
Quốc bên ngoài buộc phải hoan nghênh kết quả của hội nghị, nhưng bên trong mưu tính phá hoại
Mặt trận đoàn kết nhân dân ba nước Đông Dương. Theo chính sách cổ truyền “chia để trị” của tất
cả bọn đế quốc và phản động, họ chia rẽ ba nước Đông Dương, làm suy yếu và cô lập Việt Nam,
hòng đánh tỉa từng nước.

Năm 1966, ở Lào, trong các vùng giải phóng do Mặt trận Lào yêu nước quản lý, theo kế hoạch
của Bắc Kinh, người Hoa tìm cách chia rẽ người Lào với người Việt Nam, tuyên truyền xuyên tạc và
xúi giục một số phần tử chống lại Đảng nhân dân cách mạng Lào. Mặt khác, Bắc Kinh tranh thủ
chính quyền Vương quốc Lào, đẩy mạnh việc giúp Lào làm hệ thống đường ở 5 tỉnh Bắc Lào nối
liền với cao nguyên Vân Nam của Trung Quốc và có những nhánh đi về hướng Việt Nam, Thái Lan,
nhằm tạo điều kiện can thiệp vào công việc nội bộ của Lào và chuẩn bị cho những kế hoạch bành
trướng sau này.

Ở Cam-pu-chia, từ trước năm 1965, những người cầm quyền Trung Quốc đã trắng trợn vu cáo
Việt Nam hy sinh lợi ích của cách mạng Cam-pu-chia tại Hội nghị Giơ-ne-vơ 1954 về Đông Dương,
mặc dầu sự thật rõ ràng là chính họ đã bán rẻ những lợi ích đó. Từ năm 1965, họ nắm Pôn Pốt,
thúc đẩy y cùng đồng bọn tiến hành đấu tranh vũ trang chống chính quyền Xi-ha-núc (Sihanouk)
đang liên minh với các lực lượng kháng chiến Việt Nam và Lào. Nửa cuối năm 1969, sau khi Lon
Non lên làm thủ tướng, những người cầm quyền Trung Quốc ủng hộ quan điểm của Lon Non là
Quân giải phóng miền nam Việt Nam phải rút khỏi các căn cứ ở Cam-pu-chia và không được dùng
cảng Xi-ha-nuc-vin (Sihanoukville) vào việc vận chuyển hậu cần. Chính trong thời gian này, bè lũ
Pôn Pốt-Iêng Xa-ry cũng đòi Quân giải phóng miền nam Việt Nam rút khỏi các căn cứ ở Cam-pu-
chia.
Trái với sự mong ước của Bắc Kinh, Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam vẫn hình
thành, trên thực tế, tình đoàn kết giữa nhân dân các nước Đông Dương ngày càng củng cố và nhân
dân Việt Nam càng đánh càng mạnh, càng giành thêm nhiều thắng lợi.

3 -Ngăn cản cuộc thương lượng của Việt Nam với Mỹ để kéo Mỹ xuống thang.
Ngay từ đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược, chủ trương của Việt Nam là tiến hành đấu
tranh trên ba mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao.

Đầu năm 1968, khi cuộc chiến tranh của Mỹ đến đỉnh cao nhất, nhân dân Việt Nam đã tiến
hành thắng lợi cuộc tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân, giáng cho địch một đòn quyết liệt, làm
đảo lộn thế chiến lược của chúng, buộc chính quyền Mỹ phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào
đàm phán với Việt Nam dân chủ cộng hòa tại Pa-ri.

Trong cuộc đàm phán với phía Việt Nam tháng 4 năm 1968, phía Trung Quốc thừ nhận rằng
Tuyên bố ngày 28 tháng 1 năm 1967 của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa về việc đàm
phán với Mỹ đã gây ảnh hưởng tốt: “Ngay đồng minh của Mỹ, cả Đờ Gôn [de Gaulle] cũng đòi chấm
dứt ném bom không điều kiện”. Nhưng họ vẫn cho rằng: “Lúc này Việt Nam chấp nhận đàm phán
chưa phải là thời cơ và trên tư thế cao, ta đã nhân nhượng một cách vội vã”.

Từ ngày 13 tháng 5 năm 1968, ngày khai mạc Hội nghị Pa-ri đến trung tuần tháng 10 năm
1968, bộ máy tuyên truyền của Bắc Kinh không đưa một tin nào về cuộc đàm phán giữa Việt Nam
và Mỹ, nhưng lại nhấn mạnh rằng nhân dân Việt Nam cần giải quyết số phận cuộc đấu tranh của
mình “không phải trên bàn hội nghị mà trên chiến trường”, thậm chí còn đe dọa rằng: “nếu miền
nam Việt Nam không được bảo đảm thì cuối cùng sẽ đưa đến chỗ mất toàn bộ Việt Nam”.

Xu hướng Mỹ buộc phải chấm dứt ném bom miền bắc Việt Nam càng lộ rõ thì phản ứng của
Bắc Kinh càng mạnh.

Ngày 9 tháng 10 năm 1968, một nhà lãnh đạo Trung Quốc đã gặp Thứ trưởng Bộ Ngoại
thương Việt Nam tại Bắc Kinh và yêu cầu báo cáo với lãnh đạo Việt Nam rằng họ coi việc Mỹ chấm
dứt ném bom miền bắc Việt Nam là “sự thỏa hiệp của Việt Nam và Mỹ”, là “một thất bại lớn, tổn thất
lớn đối với nhân dân Việt Nam giống như cuộc đàm phán ký Hiệp nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 là một
sai lầm”; họ đề nghị phía Việt Nam “nên để cho Mỹ bắn phá trở lại khắp miền bắc, làm như vậy là để
Mỹ phân tán mục tiêu oanh tạc, đồng thời cũng chia sẻ bớt khó khăn cho miền nam”.

Ngăn cản nhân dân Việt Nam thương lượng với Mỹ, khuyến khích Mỹ tăng cường ném bom
miền Bắc Việt Nam, đây chính là cái mà tướng Mỹ M. Tay-lơ (Taylor) gọi là quyết tâm của những
người lãnh đạo Trung Quốc “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”, nhằm làm suy yếu Việt Nam,
có lợi cho chính sách bành trướng của họ.

Trong cuộc gặp Thứ trưởng Bộ Ngoại thương Việt Nam nói trên, phía Trung Quốc còn trắng
trợn vu khống Việt Nam đàm phán với Mỹ là do “nghe lời của Liên Xô” và yêu cầu phía Việt Nam lựa
chọn:

“Hoặc là muốn đánh thắng Mỹ thì phải cắt quan hệ với Liên Xô, hoặc là muốn thỏa hiệp với
Mỹ, dùng viện trợ của Trung Quốc đánh Mỹ để đạt mong muốn đàm phán với Mỹ thì sự viện trợ của
Trung Quốc sẽ mất hết ý nghĩa của nó”.

Ngày 17 tháng 10 năm 1968, bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trần Nghị gặp đại diện Việt Nam thông
báo tuyên bố của những người lãnh đạo Trung Quốc về cuộc đàm phán giữa Việt Nam và Mỹ:
“Lần này nếu các đồng chí chấp nhận bốn bên đàm phán tức là giúp cho Giôn-xơn và Hăm-
phờ-rây [Humphrey] đoạt được thắng lợi trong bầu cử, để cho nhân dân miền nam Việt Nam vẫn ở
dưới sự đô hộ của đế quốc Mỹ và bù nhìn, không được giải phóng, làm cho nhân dân miền Nam
Việt Nam còn có khả năng bị tổn thất lớn hơn… Như vậy giữa hai Đảng và hai nước chúng ta còn
cần nói chuyện gì nữa?”.

Đe dọa cắt quan hệ giữa hai Đảng là một thủ đoạn trắng trợn, một sức ép lớn nhất của những
người lãnh đạo Trung Quốc đối với Việt Nam.

Đi đôi với việc đe dọa bằng lời lẽ thô bạo là việc đe dọa bằng hành động thực sự. Năm 1968,
khi bàn vấn đề viện trợ cho Việt Nam trong năm 1969, những người cầm quyền Bắc Kinh đã giảm
kim ngạch viện trợ hơn 20% so với kim ngạch viện trợ năm 1968. Hơn thế nữa, tháng 8 năm 1969,
họ trắng trợn nói: “Thế Việt Nam đánh hay hòa để Trung Quốc tính việc viện trợ?”

Thực tế họ đã giảm kim ngạch viện trợ năm 1970 hơn 50% so với năm 1968.

Sự thật là không phải đến năm 1968 những người lãnh đạo Bắc Kinh mới dùng vấn đề viện trợ
để ép Việt Nam. Tháng 4 năm 1966, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đã
nói với một nhà lãnh đạo Việt Nam rằng, năm 1964 “đồng chí Mao Trạch Đông có phê bình chúng
tôi là quá nhiệt tâm đối với vấn đề Việt Nam. Bây giờ chúng tôi mới thấy rõ đồng chí Mao nhìn xa”.

Phía Việt Nam đã trả lời: “Sự nhiệt tình của một nước xã hội chủ nghĩa đối với một nước xã hội
chủ nghĩa khác là xuất phát từ tinh thần quốc tế vô sản. Chúng tôi không bao giờ nghĩ nhiệt tâm là
có hại. Nếu các đồng chí nhiệt tâm giúp đỡ thì chúng tôi có thể đỡ hy sinh 2 hay 3 triệu người…
Miền nam chúng tôi sẽ chống Mỹ đến cùng và chúng tôi vẫn giữ vững tinh thần quốc tế vô sản”

Để tăng sức ép đối với Việt Nam, những người lãnh đạo Trung Quốc còn chỉ thị cho sứ quán
của họ ở Hà Nội xúi giục, tổ chức người Hoa ở Việt Nam gây rối, chống lại Chính phủ nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa. Cùng với hàng vạn người thuộc “bộ đội hậu cần” Trung Quốc sang làm
đường giúp Việt Nam ở những tỉnh phía bắc từ năm 1965 đến 1968, bọn phản động người Hoa
tuyên truyền cho “tư tưởng Mao Trạch Đông” và “cách mạng văn hoá”, xuyên tạc đường lối của Việt
Nam, tổ chức các màng lưới gián điệp. Những người cầm quyền Bắc Kinh còn cho những người gọi
là “tị nạn cách mạng văn hoá” thâm nhập các tỉnh biên giới phía bắc Việt Nam để làm tình báo và tổ
chức các “đội quân ngầm” [4].

Nhưng nhân dân Việt Nam quyết tâm giữ vững đường lối độc lập, tự chủ không gì lay chuyển
được của mình. Tất cả những thủ đoạn thô bạo gây sức ép, tất cả những thủ đoạn chính trị của Bắc
Kinh đều đã thất bại: Mỹ đã buộc phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom miền Bắc Việt Nam
từ đầu tháng 11 năm 1968 và ngồi vào cuộc Hội nghị bốn bên ở Pa-ri, có Mặt trận dân tộc giải
phóng miền nam Việt Nam tham gia, từ đầu năm 1969.

III- THỜI KỲ 1969-1973 : ĐÀM PHÁN VỚI MỸ TRÊN LƯNG NHÂN DÂN VIỆT NAM.
Năm 1969, cuộc “đại cách mạng văn hoá” ở Trung Quốc về cơ bản hoàn thành. Những người
cầm quyền Bắc Kinh bên trong thì ra sức củng cố quyền lãnh đạo của chủ tịch Mao Trạch Đông, ổn
định tình hình, đẩy mạnh sản xuất, bên ngoài thì thi hành mọi biện pháp để đẩy nhanh quá trình
nhích lại gần đế quốc Mỹ nhằm ngoi lên địa vị một cường quốc lớn, bình thường hoá quan hệ
Trung−Mỹ và giải quyết vấn đề Đài Loan. Họ mưu toan dùng con bài Việt Nam để đạt mục tiêu đối
ngoại đó.
Năm 1969 là năm đầu của Ních-xơn vào Nhà trắng. Ông ta đưa ra cái gọi là “học thuyết Ních-
xơn” nhằm cứu vãn và khôi phục địa vị của đế quốc Mỹ trên thế giới đã bị suy yếu nghiêm trọng do
hậu quả của cuộc chiến tranh Việt Nam và bắt đầu thực hiện chiến lược “Việt Nam hoá” chiến tranh
nhằm rút được quân Mỹ ra khỏi miền nam Việt Nam mà vẫn giữ được chính quyền tay sai Nguyễn
Văn Thiệu.

Thời kỳ 1969−1973 là thời kỳ nhân dân Việt Nam đẩy mạnh tiến công trên chiến trường cũng
như tại Hội nghị bốn bên ở Pa-ri, ngày càng giành thêm nhiều thắng lợi. Đây cũng là thời kỳ Bắc
Kinh và Oa-sinh-tơn tăng cường tiếp xúc, bắt tay công khai với nhau, bàn bạc không những các vấn
đề tay đôi mà cả các vấn đề thuộc về chủ quyền của nhân dân Việt Nam và của nhân dân các nước
ở Đông Dương.

1- Công khai phản bội nhân dân Việt Nam


Từ tháng 11 năm 1968, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã ra tuyên bố tỏ ý muốn nối lại các cuộc
đàm phán Trung−Mỹ ở Vác-sa-va và cùng với Mỹ ký một thỏa thuận cùng tồn tại hòa bình. Tiếp đó
phía Trung Quốc đã tích cực đáp ứng những tín hiệu của phía Mỹ. Sau khi lên làm tổng thống, Ních-
xơn báo cho phía Trung Quốc là các cuộc thảo luận giữa Mỹ và Trung Quốc có thể tiến hành ở
Trung Quốc. Phía Trung Quốc đã trả lời là “bản thân Ních-xơn có thể đến Bắc Kinh hoặc cử một
phái viên đến để thảo luận về vấn đề Đài Loan” [5]

Tháng 6 năm 1970, Trung Quốc và Mỹ thỏa thuận là đại sứ Trung Quốc Hoàng Chấn và Kit-
xinh-giơ sẽ tiến hành những cuộc đàm phán bí mật mỗi lần Kít-xinh-giơ đến Pa-ri đàm phán với phía
Việt Nam [6].

Ngày 10 tháng 12 năm 1970, qua người bạn thân tín Ét-ga Xnâu, chủ tịch Mao Trạch Đông
đưa ra lời mời Tổng thống Ních-xơn sang thăm Trung Quốc : “Ông ta chắc chắn sẽ được hoan
nghênh vì hiện nay những vấn đề giữa Trung Quốc và Mỹ phải được giải quyết với Ních-xơn” [7]

Đây là bước ngoặt của Bắc Kinh có ý nghĩa quyết định trong quan hệ Trung-Mỹ, đồng thời là
bước ngoặt công khai phản bội cách mạng Việt Nam và cách mạng Đông Dương, phản bội cách
mạng thế giới. Bắc Kinh tăng cường các cuộc tiếp xúc công khai với Mỹ:

Tháng 3 năm 1971, Trung Quốc mời một đoàn bóng bàn Mỹ sang thăm Trung Quốc, mở đầu
cái mà dư luận thế giới gọi là “ngoại giao bóng bàn”.

Tháng 7 năm 1971 và tháng 10 năm 1971 Kit-xinh-giơ, đặc phái viên của Ních-xơn sang Bắc
Kinh.

Tháng 2 năm 1972, Ních-xơn sang thăm Trung Quốc.

Thông báo cho phía Việt Nam biết cuộc đi thăm Bắc Kinh lần thứ nhất của Kít-xinh-giơ, ngày
13 tháng 7 năm 1971 Đoàn đại biểu cấp cao Trung Quốc đã nói:

“Vấn đề Đông Dương là quan trọng nhất trong cuộc gặp gỡ giữa chúng tôi và Kít-xinh-giơ. Kít-
xinh-giơ nói rằng Mỹ gắn việc giải quyết vấn đề Đông Dương với việc giải quyết vấn đề Đài Loan.
Mỹ nói có rút được quân Mỹ ở Đông Dương thì mới rút quân Mỹ ở Đài Loan. Đối với Trung Quốc,
vấn đề rút quân Mỹ khỏi miền Nam Việt Nam là vấn đề số 1. Còn vấn đề Trung Quốc vào Liên hợp
quốc là vấn đề số 2”.
Khi Ních-xơn kết thúc cuộc đi thăm Trung Quốc, hai bên đã ký Thông cáo Thượng Hải ghi
nhận kết quả hội đàm giữa hai bên, trong đó có một đoạn như sau:

“Mỹ khẳng định mục tiêu cuối cùng là rút hết các lực lượng và cơ sở quân sự của Mỹ ra khỏi
Đài Loan. Trong khi chờ đợi, tuỳ theo tình hình căng thẳng trong khu vực này giảm đi, Mỹ sẽ dần
dần giảm lực lượng và cơ sở quân sự của Mỹ ở Đài Loan”.

Đầu tháng 3 năm 1972, khi thông báo cho phía Việt Nam về cuộc hội đàm vơi Ních-xơn, đại
diện những người lãnh đạo Trung Quốc đã giải thích về đoạn thông cáo trên như sau:

“Muốn bình thường hoá quan hệ Trung−Mỹ, muốn làm dịu tình hình ở Viễn Đông thì trước hết
phải giải quyết vấn đề Việt Nam và Đông Dương. Chúng tôi không đòi giải quyết vấn đề Đài Loan
trước. Vấn đề Đài Loan là bước sau”

Thâm tâm của Bắc Kinh là lợi dụng vấn đề Việt Nam để giải quyết trước vấn đề Đài Loan.
Nhưng Việt Nam kiên quyết giữ vững đường lối độc lập tự chủ của mình. Do đó những người lãnh
đạo Trung Quốc và Tổng thống Ních-xơn mới thỏa thuận: “Trong khi chờ đợi, tuỳ theo tình hình
căng thẳng trong khu vực này giảm đi…”

Điều đó có nghĩa là nếu Bắc Kinh muốn thúc đẩy việc rút lực lượng và các cơ sở quân sự của
Mỹ ra khỏi Đài Loan thì họ cần ép Hà Nội đi vào một giải pháp thỏa hiệp với Mỹ.

Phía Trung Quốc dùng “củ cà rốt” viện trợ: nếu năm 1968 vì phản đối Việt Nam đàm phán với
Mỹ, họ đã giảm kim ngạch viện trợ cho Việt Nam thì năm 1971 và năm 1972, để lôi kéo Việt Nam đi
vào chiều hướng của Bắc Kinh thỏa hiệp với Mỹ, họ đã dành cho Việt Nam viện trợ cao nhất của họ
so với những năm trước đó. Đây cũng là thủ đoạn nhằm che đậy sự phản bội của họ, xoa dịu sự
công phẫn của nhân dân Việt Nam.

Đi đôi với tăng thêm viện trợ là sự thúc ép liên tục để Việt Nam chấp nhận giải pháp của Mỹ.
Ngày 18 tháng 7 năm 1971, phía Trung Quốc thông báo cho phía Việt Nam phương án bốn điểm
của Mỹ: rút quân và thả tù binh Mỹ trong 12 tháng kể từ ngày 1 tháng 8 năm 1971, ngừng bắn toàn
Đông Dương và giải pháp theo kiểu Giơ-ne-vơ năm 1954. Về rút quân, “vì thể diện”, Mỹ muốn để lại
một số cố vấn kỹ thuật; về chính trị “Mỹ không muốn bỏ Nguyễn Văn Thiệu cũng như không muốn
bỏ Xi-rích Ma-tắc” (Sirik Matak)

Trong cuộc hội đàm với phía Việt Nam tháng 11 năm 1971 họ nói: “Việt Nam nên tranh thủ thời
cơ giải quyết trước vấn đề rút quân Mỹ và quan tâm giải quyết vấn đề tù binh Mỹ; việc đánh đổ ngụy
quyền Sài Gòn là lâu dài”

Cũng trong dịp này, sau khi nhắc lại ý của phía Mỹ là “Mỹ có nhiều bạn cũ, Mỹ phải giữ” chủ
tịch Mao Trạch Đông nói: “Vấn đề Đài Loan là vấn đề trường kỳ. Có lẽ mấy năm không giải quyết
xong. Nếu xét nhanh hay chậm thì tôi thiên về chậm hơn. Hiện nay Tưởng có 65 vạn quân, ở giữa
lại có eo biển. Chúng tôi không sang được, nó vẫn cứ đóng ở đó, chổi không đến nơi thì bụi không
đi”

Sau khi Ních-xơn kết thúc chuyến đi thăm Trung Quốc, Kít-xinh-giơ nói với các nhà báo ngày 1
tháng 3 năm 1972 rằng từ nay Ních-xơn và bản thân y “chỉ còn việc nhìn về Mátxcơva và nghiền nát
Việt Nam” [8]
Từ tháng 4 năm 1972, Mỹ ném bom lại và thả mìn phong toả các cảng miền Bắc Việt Nam và
đánh phá ác liệt miền Nam Việt Nam, nhằm đối phó với cuộc tiến công chiến lược mùa xuân năm
1972 của nhân dân Việt Nam, cứu vãn sự sụp đổ của chế độ Nguyễn Văn Thiệu. Bước phiêu lưu
quân sự này chính là hậu quả rõ ràng của sự đồng loã giữa những người cầm quyền Trung Quốc
và Ních-xơn.

Việc Hiệp định Pa-ri không được ký tắt vào cuối tháng 10 năm 1972, ai cũng rõ đó là do sự lật
lọng của Ních-xơn-Kít-xinh-giơ. Nhưng những người cầm quyền Trung Quốc lại đứng trên quan
điểm của Mỹ để gây sức ép với Việt Nam. Ngày 1 tháng 11 năm 1972, họ yêu cầu Thứ trưởng Bộ
Ngoại thương Việt Nam dân chủ cộng hòa báo cáo với lãnh đạo Việt Nam: Việt Nam nên nhân
nhượng về hai vấn đề rút quân miền bắc và miền Bắc Việt Nam không nhận viện trợ quân sự để có
thể ký kết được hiệp định.

Và ngày 5 tháng 12 năm 1972, đại sứ Trung Quốc Hoàng Chấn chuyển tới phía Việt Nam lời
đe dọa của Kít-xinh-giơ: “Đàm phán đã đến lúc có hậu quả nghiêm trọng: Bắc Việt Nam đòi Mỹ hoặc
trở lại hiệp định cũ, hoặc nhận một hiệp định xấu hơn: Mỹ không thể chấp nhận cả hai điều kiện đó.
Nếu Việt Nam cứ giữ lập trường đó thì đàm phán đứt quãng và Mỹ sẽ có mọi hành động bảo vệ
nguyên tắc của mình”.

Đó chính là giọng lưỡi chuẩn bị cho cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B.52 những ngày
cuối năm 1972 nhằm huỷ diệt Hà Nội và Hải Phòng, hòng khuất phục nhân dân Việt Nam, buộc
nhân dân Việt Nam chấp nhận giải pháp do đế quốc Mỹ áp đặt.

Trước sự câu kết của Bắc Kinh với Oa-sinh-tơn phản bội nhân dân Việt Nam, nhân dân Việt
Nam vẫn kiên cường đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ và tin tưởng vào thắng lợi của mình.

Khi phía Trung Quốc thông báo với phía Việt Nam rằng trong chuyến thăm Trung Quốc, Ních-
xơn cũng sẽ cùng những người lãnh đạo Trung Quốc bàn về vấn đề Việt Nam, những người lãnh
đạo Việt Nam đã thẳng thắn nói: “Việt Nam là của chúng tôi; các đồng chí không được bàn với Mỹ
về vấn đề Việt Nam. Các đồng chí đã nhận sai lầm năm 1954 rồi, bây giờ không nên sai lầm một lần
nữa”.

Khi phía Trung Quốc thông báo chuyến đi thăm Trung Quốc của Ních-xơn, những người lãnh
đạo Việt Nam nói: “Trong cuộc chiến đấu chống Mỹ, nhân dân Việt Nam phải thắng. Tới đây, đế
quốc Mỹ có thể đánh phá trở lại miền bắc ác liệt hơn nữa, nhưng nhân dân Việt Nam không sợ,
nhân dân Việt Nam nhất định thắng”.

Bất chấp mọi sức ép của Bắc Kinh và Oa-sinh-tơn, nhân dân Việt Nam không những không
nhân nhượng về những vấn đề có tính nguyên tắc, mà còn trừng trị đích đáng đế quốc Mỹ về những
tội ác của chúng, và cuối cùng buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri về Việt Nam ngày 27 tháng 1 năm
1973.

2- Nắm trọn vấn đề Cam-pu-chia


Trong khuôn khổ đường lối hòa hoãn và câu kết với đế quốc Mỹ, dọn con đường bành trướng
xuống Đông nam châu Á sau này, đồng thời phá hoại Mặt trận đoàn kết nhân dân các nước ở Đông
Dương, gây thêm sức ép đối với Việt Nam, từ năm 1970 Bắc Kinh tìm cách nắm các lực lượng
Cam-pu-chia, thi hành một chính sách rất phức tạp đối với Cam-pu-chia, nhưng trước sau chỉ nhằm
một mục tiêu: lợi ích ích kỷ của họ.
Dư luận còn nhớ bọn đế quốc và phản động đã gây ra cuộc đảo chính ngày 18 tháng 3 năm
1970, lật đổ chính phủ của ông hoàng Nô-rô-đôm Xi-ha-núc, đưa Lon Non lên cầm quyền. Lon Non
vốn là người Cam-pu-chia gốc Hoa, lại là người của Mỹ, cho nên những người lãnh đạo Trung Quốc
muốn dùng y và bỏ rơi ông Xi-ha-núc. Tại Bắc Kinh, Bộ Ngoại giao Trung quốc nói với đại sứ Việt
Nam: “Xi-ha-núc không có lực lượng. Việt Nam cần ủng hộ Lon Non; Trung Quốc đón Xi-ha-núc [9]
nhưng vẫn quan hệ tốt với đại sứ quán của Phnôm Pênh”.

Tại Phnôm Pênh, đại sứ Trung Quốc cũng nói những điều tương tự với đại sứ Việt Nam. Bộ
Ngoại giao Trung Quốc còn nói với đại sứ Việt Nam ở Bắc Kinh là Trung Quốc không đồng ý để sinh
viên Việt Nam ở Trung Quốc biểu tình chống Lon Non.

Ngay sau khi nổ ra cuộc đảo chính ở Phnôm Pênh và ông Xi-ha-núc tới Bắc Kinh, thủ tướng
Phạm Văn Đồng đã sang Trung Quốc thuyết phục những người lãnh đạo Trung Quốc nên ủng hộ
ông Xi-ha-núc, đồng thời trực tiếp biểu thị với ông Xi-ha-núc sự ủng hộ mạnh mẽ của Việt Nam đối
với ông ta và lực lượng kháng chiến Khơ-me (Khmer).

Ngày 23 tháng 3 năm 1970, ông Xi-ha-núc công bố bản Tuyên cáo 5 điểm lên án cuộc đảo
chính của Lon Non và kêu gọi nhân dân Cam-pu-chia đoàn kết chống đế quốc Mỹ và bè lũ Lon Non.

Ngày 25 tháng 3 năm 1970, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa tuyên bố hoàn toàn ủng hộ
bản Tuyên cáo đó.

Ngày 7 tháng 4 năm 1970, Chính phủ Trung Quốc mới ra tuyên bố ủng hộ Tuyên cáo của ông
Xi-ha-núc. Tuy vậy, họ tiếp tục có những cuộc tiếp xúc bí mật với chính quyền Lon Non. Trong khi
đó, với sự giúp đỡ của các lực lượng vũ trang Việt Nam, lực lượng kháng chiến Khơ-me giành thêm
nhiều chiến thắng mới, giải phóng một phần tư đất nước. Chỉ sau khi Ních-xơn đưa quân Mỹ xâm
lược Cam-pu-chia, gây nên một làn sóng phản đối mạnh mẽ trên thế giới và ngay cả ở Mỹ, Chính
phủ Trung Quốc mới cắt đứt quan hệ với chính quyền Lon Non ngày 5 tháng 5 năm 1970.

Rõ ràng là do Việt Nam kiên quyết ủng hộ Chính phủ kháng chiến Cam-pu-chia và do tình hình
thực tế trên chiến trường phát triển có lợi cho các lực lượng kháng chiến, những người cầm quyền
Bắc Kinh mới chuyển sang ủng hộ ông Xi-ha-núc, Chủ tịch Mặt trận thống nhất dân tộc Cam-pu-chia
chống Mỹ xâm lược. Từ đó họ tìm cách nắm chặt ông Xi-ha-núc làm con bài độc quyền của họ để
chuẩn bị cho những cuộc mặc cả với Mỹ. Tuy ủng hộ ông Xi-ha-núc và Chính phủ kháng chiến
Cam-pu-chia, họ vẫn ngấm ngầm duy trì những quan hệ bí mật với bè lũ Lon Non−Xi-rích Ma-tắc,
mặt khác tích cực dùng bọn Pôn Pốt−Iêng Xa-ry, dần dần biến Đảng Khơ-me thành một đảng phụ
thuộc vào Đảng Cộng sản Trung Quốc như kiểu các đảng, các nhóm theo Mao ở Đông nam châu Á
và ở một số nước khác trên thế giới.

Những người lãnh đạo Trung Quốc đã lợi dụng Hội nghị cấp cao ba nước Đông Dương lần thứ
nhất tháng 4 năm 1970 và cố tình làm cho dư luận thấy rằng họ đã “đóng góp” nhiều vào hội nghị
đó. Họ muốn chứng tỏ cho Mỹ hiểu rằng họ có thể giúp Mỹ tìm một giải pháp cho cả vấn đề Đông
Dương và chính họ là người “thay mặt” cho Việt Nam và các nước khác ở Đông Dương để đàm
phán với Mỹ.

Trong bối cảnh nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào và nhân dân Cam-pu-chia liên tiếp giáng
những đòn mạnh mẽ vào các kế hoạch phiêu lưu quân sự của Ních-xơn, ông Xi-ha-núc đề nghị
triệu tập Hội nghị cấp cao lần thứ hai của nhân dân các nước Đông Dương vào cuối năm 1971,
nhằm phát huy thắng lợi, đẩy mạnh cuộc chiến đấu chống Mỹ của nhân dân các nước ở Đông
Dương. Bề ngoài những người lãnh đạo Trung Quốc tán thành đề nghị đó, nhưng bên trong họ giật
dây bọn Pôn Pốt−Iêng Xa-ry phản đối. Mặt khác, nhân chuyến đi thăm Việt Nam tháng 3 năm 1971,
họ gợi ý triệu tập hội nghị 5 nước 6 bên (hai miền Nam, Bắc Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia, Trung
Quốc và Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên) trên đất Trung Quốc nhằm mục tiêu chống Nhật. Ý
đồ của họ là phá hoại khối đoàn kết, lái chệch mục tiêu đấu tranh của nhân dân các nước ở Đông
Dương, đồng thời tập hợp lực lượng dưới sự chỉ đạo của Bắc Kinh để họ có thêm thế đi vào đàm
phán với Mỹ. Phía Việt Nam ủng hộ đề nghị của ông Xi-ha-núc, không tán thành họp hội nghị 5
nước 6 bên như Trung Quốc gợi ý, cũng không tán thành quan điểm cho rằng nguy cơ bấy giờ là
Nhật vì kẻ thù chính của nhân dân ba nước Đông Dương vẫn là đế quốc Mỹ xâm lược. Do đó, kế
hoạch hội nghị 5 nước 6 bên của Bắc Kinh đã hoàn toàn thất bại.

Trong lúc tìm cách nắm trọn vấn đề Cam-pu-chia, những người lãnh đạo Trung Quốc còn mưu
toan nắm con đường vận chuyển quân sự qua ba nước Đông Dương. Trong mấy năm liền cho đến
năm 1972, họ đề nghị giúp làm đường và vận chuyển hàng phục vụ chiến trường từ miền bắc đến
miền nam Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia trên con đường mòn Hồ Chí Minh, và hứa cung cấp cho
Việt Nam đủ xe, người lái và khoảng 20 vạn quân nhân Trung Quốc để bảo đảm công việc này. Ý
đồ của họ là qua đó nắm toàn bộ vấn đề Đông Dương để buôn bán với Mỹ và chuẩn bị bàn đạp đi
xuống Đông nam châu Á. Tất nhiên phía Việt Nam không chấp nhận đề nghị đó.

* *

Nếu trước đây những người lãnh đạo Trung Quốc ngấm ngầm làm yếu cuộc kháng chiến của
nhân dân Việt Nam thì trong thời kỳ 1969−1973, nhất là từ năm 1971, họ công khai câu kết với đế
quốc Mỹ xâm lược, cứu nguy cho chúng trước cuộc tiến công chiến lược mới của nhân dân Việt
Nam, lấy con bài Việt Nam để buôn bán với Mỹ. Nếu trước đây họ ngấm ngầm chia rẽ nhân dân ba
nước Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia nhằm cô lập Việt Nam thì trong thời kỳ này họ bắt đầu dùng bè
lũ Pôn Pốt-Iêng Xa-ry để phá hoại cách mạng ba nước Đông Dương, tích cực chuẩn bị biến Cam-
pu-chia thành bàn đạp để tiến công Việt Nam, khống chế bán đảo Đông Dương, từ đó bành trướng
xuống Đông nam châu Á sau này.

Họ đã phơi trần bộ mặt ghê tởm của kẻ phản bội: phản bội nhân dân Việt Nam cũng như phản
bội nhân dân Lào và nhân dân Cam-pu-chia.

IV- THỜI KỲ 1973−1975: CẢN TRỞ NHÂN DÂN VIỆT NAM GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN
MIỀN NAM.
Theo hiệp định Pa-ri về Việt Nam, Mỹ phải rút hết đội quân viễn chinh của Mỹ ra khỏi miền
Nam Việt Nam, cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, thừa nhận ở
miền Nam Việt Nam có hai vùng, hai chính quyền, hai quân đội và ba lực lượng chính trị, và các bên
Việt Nam cùng thành lập một Chính phủ liên hiệp ba thành phần ở miền Nam Việt Nam. Đó là thắng
lợi của đường lối độc lập, tự chủ và cuộc chiến đấu ngoan cường của nhân dân Việt Nam, là thắng
lợi của phong trào nhân dân thế giới đoàn kết với nhân dân Việt Nam. Đó là thất bại của sự mua
bán bẩn thỉu trên lưng nhân dân Việt Nam giữa chính quyền Ních-xơn và những người lãnh đạo
Trung Quốc thể hiện trong Thông cáo Thượng Hải.

Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam luôn luôn chủ trương thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Pa-ri và đòi Mỹ−Thiệu cũng phải có
thái độ như vậy.
Nhưng Mỹ−Thiệu mưu toan phá hoại việc thi hành Hiệp định đó, chỉ muốn thi hành những điều
khoản có lợi cho Mỹ. Đối với các điều khoản khác, họ vi phạm ngay từ phút đầu. Lúc Hiệp định Pa-ri
bắt đầu có hiệu lực cũng là lúc Mỹ-Thiệu đưa hàng vạn quân có máy bay, trọng pháo và xe tăng
yểm trợ đổ bộ lên Cửa Việt, hòng chiếm lấy vùng giải phóng phía bắc tỉnh Quảng Trị. Sau đó quân
ngụy liên tiếp tấn công trên khắp miền Nam Việt Nam, lấn chiếm nhiều vùng giải phóng do Chính
phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam quản lý. Âm mưu của Mỹ −ngụy là xoá bỏ
tình hình thực tế có hai vùng, hai chính quyền, đặt lại toàn bộ miền nam Việt Nam dưới ách thống trị
thực dân kiểu mới, kéo dài chia cắt nước Việt Nam.

Những người lãnh đạo Trung Quốc tỏ vẻ hoan nghênh Hiệp định Pa-ri về Việt Nam. Trên thực
tế, để thực hiện sự thỏa thuận với Mỹ và tăng cường câu kết với Mỹ, đồng thời tiếp tục làm suy yếu
hòng khuất phục Việt Nam, họ tìm mọi cách cản trở cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam nhằm
đánh bại âm mưu của Mỹ-Thiệu phá hoại Hiệp định Pa-ri, giải phóng hoàn toàn miền nam và thống
nhất nước nhà.

1- Kiềm chế cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam chống Mỹ-Thiệu phá hoại Hiệp
định Pa-ri.
Trong cuộc hội đàm ở Bắc Kinh tháng 6 năm 1973, chủ tịch Mao Trạch Đông nói với Tổng bí
thư Lê Duẩn và Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Ở miền nam Việt Nam cần ngừng (chiến đấu) nửa
năm, một năm, một năm rưỡi, hai năm càng tốt”. Cách mạng miền nam nên “chia làm hai bước. Gộp
lại làm một, người Mỹ không chịu đâu. Vấn đề là trong tay chính quyền Nguyễn Văn Thiệu còn có
mấy chục vạn quân”.

Và ông ta nhắc lại đến luận điểm “cái chổi” đã nói với phía Việt Nam trước đây.

Thủ tướng Chu Ân Lai thì nói: “Trong một thời gian chưa có thể nói dứt khoát là 5 năm hay 10
năm, Việt Nam và Đông Dương nghỉ ngơi được thì càng tốt; tranh thủ thời gian đó mà nhân dân
miền nam Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia thực hiện hòa bình, trung lập một thời gian”.

Để tỏ thiện chí với nhân dân Việt Nam, những người lãnh đạo Trung Quốc hứa hẹn sẽ tiếp tục
viện trợ trong 5 năm với mức kim ngạch như năm 1973. Sự thật là khi đó họ đã ngừng hoàn toàn
viện trợ về quân sự, còn về viện trợ kinh tế họ nhận chủ yếu phục hồi các cơ sở do Trung Quốc
giúp trước đây và đã bị Mỹ đánh phá nhưng họ kéo dài việc thực hiện, có nơi không thực hiện.

Những người cầm quyền Trung Quốc thực chất muốn Việt Nam không làm gì cả, kể cả khi
chính quyền Sài Gòn đưa quân lấn chiếm vùng giải phóng.

Đứng trước những hành động của quân ngụy Sài Gòn lấn chiếm vùng giải phóng ngày càng
tăng cường, tháng 10 năm 1973, Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang miền Nam Việt Nam buộc phải
ra lệnh kiên quyết đánh trả. Gần một tháng sau đó, trong chuyến Kít-xinh-giơ đi thăm Bắc Kinh, hai
bên ra thông cáo thỏa thuận là trong tình hình “đặc biệt nghiêm trọng hiện nay”, hai bên cần tiến
hành liên hệ thường xuyên ở các cấp có thẩm quyền để trao đổi ý kiến về những vấn đề cùng quan
tâm. Thực tế đó là sự phối hợp giữa những người cầm quyền Trung Quốc và Mỹ nhằm ngăn cản
cuộc đấu tranh của các lực lượng vũ trang miền nam Việt Nam.

Những người cầm quyền Bắc Kinh còn khuyên Mỹ “đừng thua ở Việt Nam, đừng rút lui khỏi
Đông nam châu Á” [10].

Thâm độc hơn nữa, họ tìm cách lôi kéo nhiều tướng tá và quan chức ngụy quyền Sài Gòn hợp
tác với họ, thậm chí cho người thuyết phục tướng Dương Văn Minh, “tổng thống” vào những ngày
cuối của chế độ Sài Gòn, để tiếp tục chống lại cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân miền
Nam Việt Nam.

2- Xâm chiếm lãnh thổ của Việt Nam, gây căng thẳng ở biên giới
Từ năm 1973, những người cầm quyền Trung Quốc tăng cường những hành động khiêu khích
và lấn chiếm đất đai ở những tỉnh biên giới phía bắc Việt Nam, nhằm làm yếu những cố gắng của
nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu trang giải phóng hoàn toàn miền nam.

Đồng thời họ ngăn cản Việt Nam thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình để nhanh
chóng khôi phục và phát triển kinh tế. Ngày 26 tháng 12 năm 1973, phía Việt Nam đề nghị mở cuộc
đàm phán để xác định chính thức đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc trong vịnh Bắc Bộ,
nhằm sử dụng phần biển thuộc Việt Nam phục vụ công cuộc xây dựng đất nước. Ngày 18 tháng 1
năm 1974 phía Trung Quốc trả lời chấp thuận đề nghị trên, nhưng họ đòi không được tiến hành việc
thăm dò trong một khu vực rộng 20.000 km2 trong vịnh Bắc Bộ do họ tự ý định ra. Họ còn đòi “không
để một nước thứ ba vào thăm dò vịnh Bắc Bộ”, vì việc đưa nước thứ ba vào thăm dò “không có lợi
cho sự phát triển kinh tế chung của hai nước và an ninh quân sự của hai nước”. Đó chỉ là một lý do
để che đậy ý đồ đen tối của họ. Cũng vì vậy cuộc đàm phán về đường biên giới giữa Việt Nam và
Trung Quốc trong vịnh Bắc Bộ từ tháng 8 đến tháng 11 năm 1974 đã không đi đến kết quả tích cực
nào. Cũng với thái độ trịch thượng nước lớn như vậy, họ làm bế tắc cuộc đàm phán về vấn đề biên
giới trên bộ và trong vịnh Bắc Bộ bắt đầu từ tháng 10 năm 1977, nhằm mục đích tiếp tục xâm phạm
biên giới, lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam để duy trì tình hình căng thẳng ở biên giới Việt−Trung.

Hơn nữa, ngày 19 tháng 1 năm 1974, tức là một ngày sau khi phía Trung Quốc nhận đàm
phán với phía Việt Nam về vấn đề vịnh Bắc Bộ, họ sử dụng lực lượng hải quân và không quân tiến
đánh quân ngụy Sài Gòn và chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa từ lâu vốn là bộ phận lãnh thổ Việt
Nam. Họ nói là để “tự vệ”, nhưng thực chất đó là một hành động xâm lược, một sự xâm chiếm lãnh
thổ Việt Nam để khống chế Việt Nam từ mặt biển và từng bước thực hiện mưu đồ độc chiếm biển
Đông. Hành động xâm lược của họ có tính toán từ trước và được sự đồng tình của Mỹ. Vì vậy, khi
đó đại sứ Mỹ G. Ma-tin (Martin) ở Sài Gòn đã bác bỏ yêu cầu cứu viện của chính quyền Nguyễn
Văn Thiệu, và hạm đội Mỹ ở Thái Bình Dương đã được lệnh tránh xa quần đảo Hoàng Sa.

Trong cuộc hội đàm với những người lãnh đạo Việt Nam năm 1975, phó thủ tướng Đặng Tiểu
Bình đã thừa nhận rằng hai bên đều nói các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của mình, cho
nên cần gặp gỡ để bàn bạc giải quyết. Điều đó càng chứng tỏ hành động của phía Trung Quốc xâm
chiếm quần đảo Hoàng Sa là ngang ngược, bất chấp luật pháp quốc tế, gây ra một tình trạng việc
đã rồi [11].

3- Biến Cam-pu-chia thành bàn đạp chuẩn bị tiến công Việt Nam
Sau Hiệp định Pa-ri về Việt Nam, theo lệnh của Bắc Kinh, bè lũ Pôn Pốt −Iêng Xa-ry thi hành
một chính sách hai mặt đối với Việt Nam: vừa dựa vào Việt Nam vừa chống Việt Nam.

Chúng tỏ ra “hữu nghị” và “đoàn kết” với Việt Nam để tranh thủ sự giúp đỡ của Việt Nam, đặc
biệt là khi chuẩn bị tấn công vào thủ đô Phnôm Pênh. Trong khuôn khổ sự thỏa hiệp Trung-Mỹ,
những người cầm quyền Trung Quốc thực hiện sự thỏa thuận không viện trợ quân sự cho cách
mạng ba nước Đông Dương. Họ đã từ chối đề nghị của bè lũ Pôn Pốt-Iêng Xa-ry về tăng viện vũ khí
tiến công, bằng cách nhờ Việt Nam cho Pôn Pốt −Iêng Xa-ry vay, rồi Trung Quốc sẽ thanh toán sau.
Đây là một thủ đoạn của Bắc Kinh vừa lấy lòng bọn tay sai ở Cam-pu-chia, tránh va chạm với Mỹ,
vừa gây thêm khó khăn cho Việt Nam trong lúc Việt Nam đang tiến hành cuộc tổng tiến công và nổi
dậy mùa xuân năm 1975.
Mặt khác, bè lũ Pôn Pốt−Iêng Xa-ry tìm mọi cách chống Việt Nam. Chúng vu cáo Việt Nam ký
kết Hiệp định Pa-ri là “phản bội Cam-pu-chia một lần nữa” để kích động hận thù dân tộc, gây tâm lý
chống Việt Nam và kiếm cớ thanh trừng những người Cam-pu-chia không tán thành đường lối của
chúng. Nhiều lần chúng tổ chức những vụ đánh phá, cướp bóc kho tàng, vũ khí, tiến công bệnh viện
và nơi trú quân của Quân giải phóng miền nam Việt Nam đặt trên đất Cam-pu-chia.

Bè lũ Pôn Pốt−Iêng Xa-ry, bằng những thủ đoạn rất thâm độc, kể cả việc thủ tiêu bí mật những
cán bộ cách mạng chân chính, ra sức củng cố vị trí trong Đảng, nắm toàn bộ quyền lực để biến
Đảng Cộng sản Cam-pu-chia thành một đảng phụ thuộc Bắc Kinh.

Rõ ràng những người lãnh đạo Trung Quốc đã tiến thêm một bước trong âm mưu nắm trọn
Cam-pu-chia dưới chế độ của bọn Pôn Pốt-Iêng Xa-ry, chuẩn bị bàn đạp tiến công Việt Nam từ phía
tây nam sau khi miền Nam Việt Nam hoàn toàn giải phóng.

Mặc dầu những người lãnh đạo Trung Quốc ra sức cản trở nhân dân Việt Nam giải phóng
hoàn toàn Việt Nam, nhân dân Việt Nam vẫn kiên quyết đấu tranh trên ba mặt trận quân sự, chính
trị và ngoại giao chống Mỹ-Thiệu phá hoại Hiệp định Pa-ri, tiến lên giành toàn thắng. Với cuộc tổng
tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, nhân dân Việt Nam đã đánh sụp hoàn toàn chính quyền
Nguyễn Văn Thiệu, giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam, thống nhất nước nhà.

* *

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trước đây, những người cầm quyền
Bắc Kinh chỉ can thiệp vào giai đoạn chót nhằm áp đặt giải pháp của họ đối với nhân dân Việt Nam
cũng như nhân dân Lào và nhân dân Cam-pu-chia.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước lần này của nhân dân Việt Nam, họ can thiệp
ngay từ đầu, tạo điều kiện cho đế quốc Mỹ tăng cường chiến tranh trên cả nước Việt Nam, ném
bom cực kỳ man rợ miền bắc, lấy vấn đề Việt Nam để buôn bán với Mỹ, nhưng luôn luôn làm ra vẻ
“triệt để cách mạng”, “tích cực” ủng hộ Việt Nam.

Đây là sự phản bội thứ hai của những người lãnh đạo Trung Quốc đối với nhân dân Việt Nam.

Chú thích phần thứ ba


[1] Ét-ga Xnâu: Cuộc cách mạng lâu dài, Nhà xuất bản Hớt-sin-xơn (Hutchinson), Lân-đơn, 1973, tr.
216.

[2] Mô-ha-mét Hát-xe-nen Hây-can: Những tài liệu từ Cai-rô, Nhà xuất bản Phla-ma-ri-ong
(Flammarion), Pa-ri, 1972, tr. 238.

[3] Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 khóa 8 Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc,
tháng 8 năm 1966.

[4] Trong cuộc hội đàm cấp cao Việt −Trung tháng 9 năm 1970, Chủ tịch Mao Trạch Đông đã thừa
nhận trách nhiệm của Trung Quốc đối với các hoạt động không hữu nghị đó. Tháng 11 năm 1977,
Chủ tịch Hoa Quốc Phong lại một lần nữa thừa nhận như thế.

[5] Ét-ga Xnâu: Cuộc cách mạng lâu dài, Nhà xuất bản Hớt-sin-xơn, Lân-đơn, 1973, tr. 11.
[6] V. A. Oan-tơ (Walter): Những chuyến công du thầm lặng, Nhà xuất bản Đáp-bơn-đê
(Doubleday), Niu Oóc (New York), 1978, tr. 530-531.

[7] Ét-ga Xnâu: Cuộc cách mạng lâu dài, Nhà xuất bản Hớt-sin-xơn (Hutchinson), Lân-đơn, 1973, tr.
172.

[8] Me-vin và Béc-na Can-bê (Marvin & Bernard Kalb), Kít-xin-giơ, Nhà xuất bản Lít-tơn Brao, (Little
Brown), Tô-rông-tô (Toronto), 1974, tr. 283.

[9] Khi đó ông Xi-ha-núc vừa kết thúc chuyến đi thăm Liên Xô và đang trên đường đi Bắc Kinh.

[10] Theo tướng A. Hai-gơ (Alexander Haig), báo Mỹ Người hướng dẫn khoa học cơ đốc, ngày 20
tháng 6 năm 1979.

[11] Về vấn đề biên giới, các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và các cuộc đàm phán về vịnh Bắc
Bộ và biên giới, xin tham khảo Bị vong lục của Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ngày 15 tháng 3 năm 1979, các Tuyên bố của Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ngày 7 tháng 8 năm 1989 và 27 tháng 9 năm 1979, và Sách trắng của Bộ Ngoại giao
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công bố ngày 28 tháng 9 năm 1979.

PHẦN THỨ TƯ

TRUNG QUỐC VỚI NƯỚC VIỆT NAM HOÀN TOÀN GIẢI PHÓNG VÀ THỐNG
NHẤT

(từ tháng 5 năm 1975 đến nay)

I- TRUNG QUỐC SAU THẤT BẠI CỦA MỸ Ở VIỆT NAM.


Dư luận chung trên thế giới đều thấy rằng thất bại của Mỹ ở Việt Nam đã có tác động rõ rệt
đến tình hình quốc tế.

Nếu thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam
mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ, thì thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước của nhân dân Việt Nam chứng minh trước toàn thế giới sự phá sản hoàn toàn của chủ nghĩa
thực dân mới là không tránh khỏi. Ngày nay, các lực lượng cách mạng đã lớn mạnh và có lợi thế
hơn bao giờ hết. Đế quốc Mỹ không thể đóng vai sen đầm quốc tế bất cứ đâu mà không bị trừng
phạt, không thể xâm chiếm bất cứ một tấc đất nào của bất kỳ nước xã hội chủ nghĩa nào, không thể
đẩy lùi phong trào giải phóng dân tộc và ngăn chặn con đường phát triển của các nước lên chủ
nghĩa xã hội. Chủ nghĩa đế quốc ngày càng lún sâu vào cuộc khủng hoảng toàn diện không phương
cứu chữa. Chúng đang đứng trước những khó khăn chồng chất về nhiều mặt, đang phải đương đầu
với cuộc tiến công rộng lớn và mạnh mẽ của ba dòng thác cách mạng trên thế giới, ở ngay cả
những dinh lũy tưởng chừng như rất kiên cố của chúng ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ la-tinh.
Mặc dù đã tung vào Việt Nam một đội quân viễn chinh gồm 60 vạn tên làm nòng cốt cho hơn
một triệu quân ngụy, đã ném xuống Việt Nam 7 triệu 85 vạn tấn bom và chi tiêu 352 tỉ đô la, đế quốc
Mỹ xâm lược vẫn không khuất phục được nhân dân Việt Nam. Đây là thất bại lớn nhất trong lịch sử
nước Mỹ, ảnh hưởng sâu sắc về nhiều mặt đến tình hình nước Mỹ. Vì thế, sau thất bại ở Việt Nam,
đế quốc Mỹ phải điều chỉnh chiến lược trên thế giới, ở châu Á, nhất là ở Đông nam châu Á cho phù
hợp với tình hình mới. Chúng đẩy mạnh câu kết với các thế lực phản động, đặc biệt là với các thế
lực phản bội trong phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế, chủ yếu là với tập đoàn phản động
Bắc Kinh, hòng chia rẽ, phá hoại hệ thống xã hội chủ nghĩa và phong trào cách mạng thế giới.

Về phần những người cầm quyền Trung Quốc, xuất phát từ lợi ích dân tộc, họ có giúp Việt
Nam khi nhân dân Việt Nam chiến đấu chống Mỹ, nhưng cũng xuất phát từ lợi ích dân tộc, họ không
muốn Việt Nam thắng Mỹ và trở nên mạnh, mà chỉ muốn Việt Nam yếu, lệ thuộc Trung Quốc.

Họ muốn Việt Nam bị chia cắt lâu dài, nhưng nhân dân Việt Nam đã đánh cho “Mỹ cút, ngụy
nhào”, giải phóng hoàn toàn miền nam và thống nhất nước nhà.

Họ lợi dụng xương máu của nhân dân Việt Nam để buôn bán với Mỹ, nhưng sự câu kết của họ
với Mỹ không ngăn cản được nhân dân Việt Nam giành thắng lợi hoàn toàn và dựng lên nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Họ muốn chia rẽ Việt Nam với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác, nhưng nhân dân
Việt Nam đã giữ vững đường lối độc lập tự chủ của mình, tăng cường đoàn kết với Liên Xô và các
nước xã hội chủ nghĩa anh em khác.

Không những các thỏa thuận giữa họ với chính quyền Ních-xơn, những mưu đồ chiến lược
của họ đã bị thất bại, mà một nước Việt Nam độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa, có đường lối
cách mạng Mác−Lê-nin chân chính, độc lập tự chủ và có uy tín chính trị trên thế giới sẽ là cản trở
nghiêm trọng cho mưu đồ bành trướng và bá quyền của họ ở Đông Dương và Đông nam châu Á.
Thắng lợi lịch sử của nhân dân Việt Nam không chỉ là thất bại lớn của đế quốc Mỹ xâm lược, mà
cũng là thất bại lớn của bọn bành trướng Bắc Kinh.

Vào những năm cuối đời và sau cái chết của chủ tịch Mao Trạch Đông, cuộc khủng hoảng nội
bộ của Trung Quốc tiếp tục diễn ra gay gắt, với những cuộc thanh trừng tàn bạo để tranh giành
quyền bính. Trong 20 năm liền, nền kinh tế và tình hình chính trị, xã hội Trung Quốc đã bị thụt lùi và
hỗn loạn vì cuộc “đại nhảy vọt” và cuộc “đại cách mạng văn hoá”, đòi hỏi phải được cấp bách ổn
định và cải thiện. Mặt khác, sự yếu kém về kinh tế và quân sự của Trung Quốc không cho phép
những người cầm quyền Bắc Kinh thực hiện mưu đồ như họ mong muốn. Cho nên, về đối nội, họ
lấy tư tưởng đại dân tộc để tập hợp các phe phái và động viên nhân dân Trung Quốc nhằm thực
hiện kế hoạch “bốn hiện đại hoá”. Về đối ngoại, họ dấn sâu vào con đường phản động, lợi dụng lúc
chủ nghĩa đế quốc bị khủng hoảng về kinh tế và chính trị nghiêm trọng và lúc Mỹ phải điều chỉnh
chiến lược toàn cầu, để câu kết với chủ nghĩa đế quốc, chống Liên Xô, chống phong trào cách
mạng thế giới, kiếm nhiều vốn và kỹ thuật của các nước phương Tây cho kế hoạch “bốn hiện đại
hoá”. Khẩu hiệu “chống bá quyền” của họ chỉ là chiêu bài để che đậy chiến lược phản cách mạng và
chính sách bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn của họ.

Họ hằn học nhìn thắng lợi của nhân dân Việt Nam, cho nên từ khi nhân dân Việt Nam giành
được toàn thắng, họ ngày càng công khai và điên cuồng thực hành một chính sách thù địch toàn
diện và có hệ thống chống nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đây là một văn kiện tuyệt mật của Quân uỷ trung ương Đảng Cộng sản Trung
Quốc do tên Lê Xuân Thành, sinh ngày 20-3-1949 tại tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc
cung khai.

Tên Thành là công an của Trung Quốc, trú quán tại 165 đường Hồng Kỳ, khu
Tuyên Vũ, thành phố Bắc Kinh. Tháng 3 năm 1973 chạy sang Việt Nam làm gián
điệp. Ngày 30-3-1973 bị bắt ở xã Ngư Thuỷ, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình.
Trong văn kiện đó có một đoạn như sau:

“…Nước ta và nhân dân Việt Nam có mối hằn thù dân tộc hàng nghìn năm nay.

…Chúng ta không được coi họ là đồng chí chân chính của mình, đem tất cả vốn
liếng của ta trao cho họ. Ngược lại, chúng ta phải tìm mọi cách làm cho nước họ ở
trong tình trạng không mạnh, không yếu mới có thể buộc họ ở trong tình trạng
hiện nay.

…Về bề ngoài chúng ta đối xử với họ như đồng chí của mình, nhưng trên tinh
thần ta phải chuẩn bị họ trở thành kẻ thù của chúng ta…”

II- ĐIÊN CUỒNG CHỐNG VIỆT NAM NHƯNG CÒN CỐ GIẤU MẶT.
1- Thông qua bè lũ Pôn Pốt−Iêng Xa-ry tiến hành cuộc chiến tranh biên giới chống
Việt Nam ở phía tây nam Việt Nam.
Ngay từ giữa những năm 1960, những người lãnh đạo Trung Quốc đã mưu tính nắm trọn vấn
đề Cam-pu-chia, trước mắt nhằm phá hoại Mặt trận đoàn kết nhân dân các nước ở Đông Dương,
làm yếu cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, có thế đàm phán với Mỹ và lâu dài nhằm bắt
Cam-pu-chia lệ thuộc và trở thành một bàn đạp của Trung Quốc để bành trướng xuống Đông
Dương và Đông Nam châu Á. Sau ngày 17 tháng 4 năm 1975, nước Cam-pu-chia hoàn toàn thoát
khỏi ách thống trị của bè lũ Lon Non tay sai của Mỹ, họ dùng bọn tay sai Pôn Pốt −Iêng Xa-ry chiếm
quyền lãnh đạo Đảng Cộng sản Cam-pu-chia, gạt quốc trưởng Xi-ha-núc và những người thân cận
của ông ta, để xây dựng lên một chế độ phát-xít diệt chủng có một không hai trong lịch sử loài
người và thông qua chế độ đó hoàn toàn kiểm soát nước Cam-pu-chia, biến Cam-pu-chia thành một
nước chư hầu kiểu mới và căn cứ quân sự của họ để tiến đánh Việt Nam từ phía tây nam.

Họ đã đổ tiền, vũ khí và dụng cụ chiến tranh các loại và đưa hàng vạn cố vấn Trung Quốc vào
Cam-pu-chia để thành lập hàng chục sư đoàn mới gồm đủ bộ binh, thiết giáp, pháo binh, xây dựng
thêm hoặc mở rộng nhiều căn cứ hải quân, không quân, hệ thống kho hậu cần.

Dưới sự đạo diễn của Bắc Kinh, tập đoàn cầm quyền phản động Phnôm Pênh tiến hành liên
tục một chiến dịch tuyên truyền rộng khắp vu khống Việt Nam “xâm lược Cam-pu-chia”, “âm mưu ép
Cam-pu-chia vào liên bang Đông Dương do Việt Nam khống chế”, ráo riết hô hào chiến tranh chống
Việt Nam. Chúng đã phá hoại cuộc đàm phán giữa hai nước nhằm giải quyết vấn đề biên giới để có
cớ duy trì một tình hình ngày càng căng thẳng ở vùng biên giới Việt Nam −Cam-pu-chia. Ngay từ
tháng 4 năm 1975, chúng đã đưa quân lấn chiếm, bắn phá nhiều điểm trên lãnh thổ Việt Nam và từ
đó ngày càng gây thêm nhiều vụ xung đột ở biên giới, đột kích nhiều đồn biên phòng, làng xóm Việt
Nam, làm cho tình hình ở vùng biên giới không ổn định, ngăn cản nhân dân Việt Nam khôi phục và
xây dựng kinh tế. Từ những cuộc khiêu khích vũ trang, chúng tiến đến gây ra một cuộc chiến tranh
biên giới chống nước Việt Nam từ tháng 4 năm 1977 suốt dọc hơn 1.000 km với những cuộc tiến
công quy mô, huy động hàng vạn bộ binh có xe tăng, trọng pháo yểm trợ, có khi vào sâu lãnh thổ
Việt Nam hơn 30 km, giết hại dã man dân thường, tàn phá nhà cửa, hoa màu, gây nên biết bao tội
ác không thể dung thứ được.
Chỉ thị của Kiều uỷ trung ương Trung Quốc về công tác đối với người Hoa ở Việt
Nam năm 1966.

Có đoạn viết: “…Phải lấy tư tưởng Mao Trạch Đông giáo dục Hoa kiều ở Việt
Nam. Báo Tân Việt Hoa phải trở thành trận địa tuyên truyền tư tưởng Mao Trạch
Đông. Hoa kiều nhất định phải có “chủ nghĩa nước lớn”. Các đồng chí phải chủ
động quan hệ chặt chẽ với đại sứ quán để đại sứ quán giúp đỡ được tốt hơn…”

2- Dùng vấn đề người Hoa để chống Việt Nam từ bên trong


Ở Việt Nam có khoảng 1 triệu 20 vạn người Hoa sinh sống; gần 1 triệu người ở miền nam, trên
20 vạn người ở miền bắc. Năm 1955, Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc đã
thỏa thuận là người Hoa ở miền bắc Việt Nam do Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo và dần dần
chuyển thành công dân Việt Nam. Trong hơn 20 năm qua, người Hoa ở miền bắc được hưởng
quyền lợi và làm nghĩa vụ như công dân Việt Nam. Còn người Hoa ở miền nam, từ năm 1956 dưới
chính quyền Ngô Đình Diệm, đã vào quốc tịch Việt Nam để được hưởng nhiều điều kiện dễ dàng
trong việc làm ăn sinh sống.
Sau khi giải phóng hoàn toàn miền nam, Chính phủ và nhân dân Việt Nam tiếp tục nghiêm
chỉnh thực hiện sự thỏa thuận năm 1955 giữa hai Đảng về người Hoa ở miền bắc, đồng thời tôn
trọng thực tế lịch sử về người Việt gốc Hoa ở miền nam Việt Nam, coi người Hoa ở cả hai miền là
một bộ phận trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Số ít người mang căn cước Đài Loan, Hồng-kông
hoặc quốc tịch nước khác và số Hoa kiều bị bọn Pôn Pốt −Iêng Xa-ry xua đuổi và tỵ nạn sang miền
nam Việt Nam thì được coi là ngoại kiều.

Ngược lại, những người cầm quyền Trung Quốc xuyên tạc sự thỏa thuận năm 1955 giữa hai
Đảng, phủ nhận thực tế lịch sử về những người Việt gốc Hoa ở miền Nam Việt Nam, coi tất cả
người Hoa ở hai miền là kiều dân Trung Quốc để đòi quyền lãnh đạo những người ấy. Trên thực tế,
họ lập các tổ chức phản động và màng lưới gián điệp người Hoa trên đất Việt Nam. Các tổ chức gọi
là “Hoa kiều hòa bình liên hiệp hội”, “Hoa kiều tiến bộ”, “Hoa kiều cứu vong hội”, “Đoàn thanh niên
chủ nghĩa Mác−Lê-nin”, “Hội học sinh Hoa kiều yêu nước”, “Mặt trận thống nhất Hoa kiều” v.v… do
Bắc Kinh thành lập và chỉ huy, đã hoạt động chống lại các chính sách của chính quyền, chống lệnh
đăng ký nghĩa vụ quân sự, chống việc đi xây dựng vùng kinh tế mới, kích động tâm lý huyết thống
trong người Việt gốc Hoa, khơi lên phong trào đòi trở lại quốc tịch Trung Quốc. Họ in tiền giả, đầu
cơ tích trữ, nâng giá hàng nhằm phá kế hoạch ổn định và phát triển kinh tế của các cơ quan Nhà
nước ở miền Nam Việt Nam. Với những thủ đoạn đó, những người cầm quyền Bắc Kinh đã gây
thêm khó khăn cho nhân dân miền nam Việt Nam vốn đã gặp biết bao khó khăn do 30 năm chiến
tranh của đế quốc để lại, khiến cho nhiều người về sau bỏ nước ra đi tìm một nơi mà họ cho là dễ
làm ăn hơn. Bắc Kinh đã dùng người Hoa làm công cụ gây rối loạn về chính trị, kinh tế, xã hội ở Việt
Nam như họ đã làm ở một số nước Đông nam châu Á và Nam Á.

3- Dùng vấn đề viện trợ để tăng thêm sức ép.


Năm 1973, những người lãnh đạo Trung Quốc đã long trọng hứa sẽ viện trợ cho Việt Nam ít
nhất trong 5 năm liền ở mức kim ngạch năm 1973.

Năm 1975, khi chào mừng nhân dân Việt Nam giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam,
những người lãnh đạo Trung Quốc cũng nói: “sẽ tiếp tục làm tròn nghĩa vụ quốc tế của mình, kiên
quyết ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa nhằm củng cố thành quả thắng lợi, thống nhất và xây dựng Tổ
quốc của nhân dân Việt Nam”. Thật ra, đây chỉ là một lời tuyên bố giả dối để che giấu sự hằn học
của họ đối với thắng lợi lịch sử của nhân dân Việt Nam đang làm nức lòng tất cả những lực lượng
cách mạng và tiến bộ trên toàn thế giới, che giấu những kế hoạch đen tối của họ nhằm chống lại
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trên thực tế họ không ủng hộ nhân dân Việt Nam xây dựng lại đất nước trong giai đoạn mới.

Nếu những năm 1969−1970, những người lãnh đạo Trung Quốc giảm viện trợ đối với Việt Nam
vì họ không tán thành Việt Nam thương lượng với Mỹ để kéo Mỹ xuống thang chiến tranh, và nếu
những năm 1971-1972 họ tăng viện trợ đối với Việt Nam cao nhất so với các năm trước, vì họ muốn
lợi dụng vấn đề Việt Nam để thương lượng với Mỹ, thì đến năm 1975, vì bị thất bại ở miền Nam Việt
Nam, họ lại dùng viện trợ để gây sức ép với Việt Nam. Họ khước từ những yêu cầu viện trợ mới
của Việt Nam. Về phần viện trợ cũ đã thỏa thuận từ trong chiến tranh và chưa giao hết, họ vin cớ
này cớ khác để dây dưa, trong đó có những công trình đang làm dở, có những công trình rất quan
trọng đối với công cuộc hòa bình xây dựng đất nước Việt Nam. Rõ ràng viện trợ của những người
lãnh đạo Trung Quốc không phải là “vô tư” như họ thường khoe khoang, mà chỉ là công cụ của chủ
nghĩa bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn. Viện trợ của Bắc Kinh vẫn chỉ là “cây gậy và
củ cà rốt”.
Những thủ đoạn nói trên của Bắc Kinh nhằm chống Việt Nam là những đòn thâm độc, quyết
liệt, nhưng đều đã thất bại: bộ mặt phát-xít diệt chủng của bọn Pôn Pốt −Iêng Xa-ry bị nhân dân
Cam-pu-chia và cả loài người tiến bộ lên án; kế hoạch dùng người Hoa phá Việt Nam từ bên trong
bị phá sản; mưu đồ gây sức ép bằng viện trợ và các thủ đoạn khác không lay chuyển được đường
lối độc lập, tự chủ của Việt Nam, không khuất phục được nhân dân Việt Nam.

III- ĐIÊN CUỒNG CHỐNG VIỆT NAM MỘT CÁCH CÔNG KHAI.
Giấu mặt chống Việt Nam không đạt kết quả mong muốn, những người cầm quyền Trung
Quốc quay ra công khai chống Việt Nam bằng mọi thủ đoạn, kể cả bằng đe dọa vũ lực và dùng vũ
lực.

1- Cái gọi là vấn đề “nạn kiều”


Đầu năm 1978, những người cầm quyền Trung Quốc dựng lên cái gọi là vấn đề “nạn kiều” để
mở đầu một chiến dịch quy mô công khai chống nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Sự thật là chính các tổ chức bí mật người Hoa, màng lưới gián điệp của Trung Quốc ở Hà Nội,
được sự chỉ đạo hàng ngày, hàng giờ của bộ máy tuyên truyền của Bắc Kinh, bằng những sự bịa
đặt trắng trợn, những luận điệu vu cáo Việt Nam “xua đuổi, bài xích, khủng bố người Hoa”, bằng
những thủ đoạn lừa gạt, mua chuộc, dụ dỗ, dọa nạt, đã gây nên trong quần chúng người Hoa đang
làm ăn yên ổn ở Việt Nam một tâm trạng hoang mang, lo sợ chiến tranh sắp nổ ra, một tâm lý nghi
ngờ, thậm chí thù ghét người Việt Nam, khiến họ ồ ạt kéo đi Trung Quốc. Bọn tay chân của Trung
Quốc tổ chức cho những người đó vượt biên trái phép rồi lại chặn họ lại, gây ra ùn tắc ở biên giới
Việt−Trung để dễ bề kích động họ chống lại và hành hung những nhà chức trách Việt Nam ở địa
phương. Lúc dòng người Hoa ùn ùn kéo đi Trung Quốc, Bắc Kinh lại trắng trợn đưa hai tàu sang
Việt Nam đón “nạn kiều”, mặc dù họ không hề nêu trước vấn đề đó với Chính phủ Việt Nam. Chỉ
trong mấy tháng đầu, 17 vạn người Hoa đã rời Việt Nam đi Trung Quốc. Cái gọi là vấn đề “nạn kiều”
chỉ là một sự cưỡng bức người Hoa ờ Việt Nam ồ ạt di cư đi Trung Quốc mà thủ phạm chính là tập
đoàn phản động trong giới cầm quyền Bắc Kinh, một sự lừa gạt và một sự phản bội của họ nhằm
gây xáo trộn về chính trị, xã hội, kinh tế ở Việt Nam, hòng khuất phục nhân dân Việt Nam, đồng thời
kích động dư luận Trung Quốc, chuẩn bị sẵn sàng “đạo quân thứ năm” cho việc tiến hành xâm lược
Việt Nam trong bước sau.

Vốn là những người làm ăn sinh sống lâu đời ở Việt Nam, thông thạo địa hình, phong tục, tập
quán, có nhiều cơ sở quen thuộc cũ, có kkả năng nắm được nhiều tin tức tình hình, những người
Hoa ở Việt Nam đi Trung Quốc đã được bọn bành trướng Bắc Kinh chọn lựa để đưa vào những “sư
đoàn sơn cước” chuyên đánh rừng núi, thọc sâu vào hậu phương, hoặc những đơn vị đi trước mở
đường, hoặc những đơn vị thám báo, dẫn đường, bắt cóc, ám sát, phá hoại cầu cống kho tàng của
Việt Nam. Nhiều tên trong bọn chúng đã bị bắt trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam từ ngày
17 tháng 2 năm 1979.
Một thư của sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội xúi giục người Hoa ở Đà Nẵng chống
Việt Nam, tịch thu được của can phạm Hàng Phú Quang bị bắt tháng 7 năm 1978.

Dòng chữ đầu ở góc bên phải là “Thư của sứ quán”. Trích một số đoạn:

1.Toàn thể Hoa kiều tại miền Trung, Nam, Bắc Việt Nam phải đoàn kết, nhất trí
để đối phó với hoàn cảnh ác liệt

2. Phải chú ý theo dõi chỉ thị qua đài phát thanh của Tổ quốc

3. Hoa kiều về nước thì phải đợi chỉ thị, chờ nhân viên ngoại giao đến có chỉ thị
rõ ràng để lo liệu. Sau đó tuần tự lên tàu về nước.

4. Không nghe chính quyền địa phương lừa gạt ghi là người Việt gốc Hoa làm
thủ tục xin xuất cảnh về Trung Quốc. Vì như vậy thì sẽ bị tổn thất nặng nề về động
sản và bất động sản của tư nhân. Phải chờ nhân viên ngoại giao của ta chỉ dẫn
cách điền vào đơn (hai chính phủ đã bàn) để tài sản công tư khỏi bị tổn thất.

5. Đề phòng số phần tử xấu tung tin đồn ly gián làm dao động ý chí của Hoa
kiều.

Trước quyết tâm của nhân dân Việt Nam giữ vững chủ quyền của mình, những người cầm
quyền Bắc Kinh buộc phải rút hai chiếc tàu đi đón “nạn kiều” về nước, ngồi vào đàm phán với phía
Việt Nam về việc giải quyết vấn đề người Hoa. Nhưng trong đàm phán họ vẫn giữ thái độ nước lớn,
ngang ngược áp đặt quan điểm vô lý của họ, bất chấp chủ quyền của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và luật pháp quốc tế. Chính họ đã cố tình phá hoại cuộc đàm phán đó để tiếp tục
dùng vấn đề người Hoa chống Việt Nam.

2- Cắt viện trợ, rút chuyên gia


Trong lúc bọn bành trướng Bắc Kinh ráo riết dụ dỗ, cưỡng ép người Hoa ở Việt Nam đi Trung
Quốc, họ dùng “cái gậy” viện trợ để đồng thời đánh Việt Nam về kinh tế. Chỉ trong hơn một tháng,
bất chấp luật pháp và tập quán quốc tế, họ đơn phương tuyên bố chấm dứt toàn bộ viện trợ kinh tế
và kỹ thuật cho Việt Nam, gọi về nước tất cả chuyên gia và cán bộ kỹ thuật Trung Quốc đang công
tác ở Việt Nam. Đây là một đòn cực kỳ thâm độc, đưa ra đúng lúc nhân dân Việt Nam đang phải
hàn gắn những vết thương chiến tranh, đồng thời vừa phải đối phó với cuộc chiến tranh biên giới ở
phía tây nam, khắc phục những khó khăn kinh tế do việc gần 20 vạn người Hoa đột nhiên bỏ ruộng
đồng, nhà máy đi Trung Quốc, vừa phải đối phó với những thiệt hại nghiêm trọng do những trận bão
lụt nặng nề nhất ở Việt Nam trong hàng trăm năm qua gây ra.

Đi đôi với việc cắt viện trợ, rút chuyên gia, tập đoàn phản động trong giới cầm quyền Trung
Quốc còn ngang nhiên vận động các nước, các tổ chức quốc tế ngưng viện trợ cho công cuộc xây
dựng lại Việt Nam. Lòng dạ họ xấu xa, thâm độc đến thế là cùng!

Họ đẩy mạnh việc vu cáo Việt Nam để vừa che đậy ý đồ bành trướng của họ ở Đông nam
châu Á, vừa cản trở quan hệ bình thường giữa Việt Nam và các nước thuộc tổ chức ASEAN, kêu
gọi các nước đó lập “mặt trận chung với Trung Quốc” chống Việt Nam. Với cuộc vận động đó, họ hy
vọng trên thực tế sẽ thực hiện được chính sách bao vây về kinh tế, cô lập về chính trị, tiến công về
quân sự như bọn đế quốc và thực dân vẫn làm bấy lâu nay đối với một số nước. Đây là một hành
động thô bạo không những xâm phạm độc lập chủ quyền của Việt Nam, mà còn can thiệp vào công
việc của nước khác và các tổ chức quốc tế.

3- Duy trì tình hình căng thẳng ở biên giới Việt Nam
Song song với các hoạt động phá hoại về kinh tế, chính trị, những người cầm quyền Trung
Quốc ráo riết tăng cường sức ép quân sự đối với nước Cộng hòa chủ nghĩa Việt Nam từ mọi phía.

Ở phía bắc, họ đưa thêm quân ra vùng biên giới Việt-Trung, tăng cường những vụ khiêu khích
vũ trang lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam, xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, tạo
nên tình hình thường xuyên căng thẳng ở vùng biên giới. Nếu số vụ khiêu khích lấn chiếm lãnh thổ
Việt Nam của họ năm 1975 là 234 vụ, gấp rưỡi năm 1974, thì năm 1978 tăng vọt lên 2.175 vụ, gấp
gần 10 lần.

Ở phía tây-nam, theo mệnh lệnh của Bắc Kinh, bè lũ diệt chủng Pôn Pốt −Iêng Xa-ry khước từ
các đề nghị của Việt Nam về việc hai bên thành lập một khu phi quân sự ở gần biên giới, cách ly
quân đội của mình và ký một hiệp ước hữu nghị không xâm lược lẫn nhau, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau, để kiếm cớ duy trì cuộc chiến tranh biên giới chống Việt Nam đồng thời
chuẩn bị những cuộc phiêu lưu quân sự qui mô lớn sau này.

Ở phía tây, những người cầm quyền Trung Quốc bất chấp luật pháp quốc tế, ngày càng tăng
cường gây sức ép đối với nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, một nước nhỏ hơn Trung Quốc,
luôn luôn theo đuổi chính sách hòa bình, hữu nghị với các nước láng giềng. Họ nuôi dưỡng bọn tàn
quân của lực lượng đặc biệt người Mẹo do CIA tổ chức và chỉ huy trước đây, thông qua đạo quân
làm đường của họ để tìm cách can thiệp sâu vào các tỉnh Bắc Lào, vu cáo Việt Nam “thôn tính” Lào,
chia rẽ Lào với Việt Nam, đưa nhiều sư đoàn quân áp sát biên giới Lào −Trung. Mục tiêu của họ là
để tăng thêm sự uy hiếp Việt Nam về quân sự từ phía tây, đồng thời làm suy yếu và khống chế từng
bước Lào.

4- Tấn công Việt Nam từ hai hướng


Những mưu đồ trên đây rất thâm độc và có gây khó khăn cho nhân dân Việt Nam, nhưng đều
đã thất bại, cho nên cuối năm 1978 và đầu năm 1979, những người cầm quyền Trung Quốc đã phải
tính đến việc tấn công quân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ hai hướng.

Ở phía tây nam, theo kế hoạch của Bắc Kinh, sau khi tập trung 19 sư đoàn bộ binh (trong tổng
số 23 sư đoàn bộ binh) đến sát biên giới Việt Nam, ngày 22 tháng 12 năm 1978 bè lũ Pôn Pốt-Iêng
Xa-ry đã sử dụng những sư đoàn tinh nhuệ nhất của chúng, có xe tăng và pháo binh yểm trợ, đánh
vào khu vực Bến Sỏi thuộc tỉnh Tây Ninh (cách Sài Gòn hơn 100 km), với ý đồ đánh chiếm chớp
nhoáng thị xã Tây Ninh, mở đường tiến sâu vào miền Nam Việt Nam, đồng thời làm yếu Việt Nam
để quân Trung Quốc dễ đánh vào Việt Nam từ phía bắc.

Thực hiện quyền tự vệ chính đáng của mình, nhân dân Việt Nam đã làm thất bại hoàn toàn kế
hoạch quân sự đó. Đồng thời, quân và dân Cam-pu-chia dưới sự lãnh đạo của Mặt trận đoàn kết
dân tộc cứu nước Cam-pu-chia, được sự giúp đỡ và ủng hộ của nhân dân Việt Nam, đã vươn lên
đập tan chế độ diệt chủng tàn bạo Pôn Pốt-Iêng Xa-ry và cái gọi là “Chính phủ Cam-pu-chia dân
chủ”, và ngày 10 tháng 1 năm 1979 lập nên chế độ Cộng hòa nhân dân Cam-pu-chia thật sự đại
diện cho nhân dân Cam-pu-chia.

Ở phía bắc, những người cầm quyền Trung Quốc đã huy động 60 vạn quân gồm nhiều quân
đoàn và nhiều sư đoàn độc lập, nhiều đơn vị binh chủng kỹ thuật với gần 800 xe tăng và xe bọc
thép, hàng ngàn khẩu pháo, hàng trăm máy bay các loại của hầu khắp các quân khu của Trung
Quốc, điên cuồng phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam ngày 17 tháng 2 năm 1979 trên toàn
tuyến biên giới dài hơn 1.000 km. Quân của bọn phản động Trung Quốc đi đến đâu là tàn sát dân
thường, kể cả phụ nữ và trẻ sơ sinh, người già, phá huỷ triệt để các bản làng, chùa chiền, nhà thờ,
trường học, vườn trẻ, bệnh viện, nông trường, lâm trường… Chúng đã hành động với sự man rợ
của một đạo quân ăn cướp thời Trung cổ kết hợp với những thủ đoạn tinh vi của các đạo quân xâm
lược của đế quốc ngày nay.

Để lừa gạt dư luận Trung Quốc và dư luận thế giới, những người cầm quyền Bắc Kinh đã
tuyên bố rằng đây chỉ là một cuộc “phản kích để tự vệ” bằng những đơn vị biên phòng. Sự thật đây
là một cuộc chiến tranh xâm lược toàn diện bằng lực lượng chính quy của hầu hết các quân khu
của Trung Quốc, có chuẩn bị kỹ càng về các mặt, từ việc xây dựng những công trình quân sự,
đường sá, hầm hào, sân bay dọc biên giới Việt-Trung đến việc vu cáo Việt Nam, phá hoại tình hữu
nghị Việt−Trung, kích động tư tưởng đại dân tộc trong nhân dân Trung Quốc hòng biện bạch và che
giấu hành động xâm lược của họ. Về mặt đối ngoại, họ cũng chuẩn bị chu đáo, đặc biệt là họ đã
phát động cuộc chiến tranh xâm lược sau khi Phó thủ tướng Đặng Tiểu Bình đi thăm Mỹ và Nhật
Bản về, thực tế là sau khi tranh thủ được sự đồng tình của Mỹ và Nhật. Mục tiêu đầy tham vọng của
họ là: tiêu diệt một bộ phận lực lượng vũ trang của Việt Nam, phá hoại tiềm lực quốc phòng và kinh
tế, chiếm đất đai của Việt Nam, kích động bạo loạn.

Hai cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam mà những người cầm quyền Trung Quốc gây ra từ
hai hướng là bước leo thang cao nhất trong cả một quá trình hành động tội ác chống độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Việt Nam từ trước đến nay nhằm làm suy yếu, thôn tính
và khuất phục Việt Nam. Trái với mọi tính toán của Bắc Kinh, cuộc chiến tranh xâm lược của họ đã
thất bại thảm hại, đã bị toàn thế giới lên án và một bộ phận nhân dân Trung Quốc phản đối. Ngày 5
tháng 3 năm 1979 họ đã buộc phải tuyên bố rút quân và sau đó đã phải nhận ngồi đàm phán với
phía Việt Nam.

5- Tiếp tục chống Việt Nam bằng mọi thủ đoạn


Những người cầm quyền Trung Quốc đã tuyên bố rút quân về bên kia đường biên giới, nhưng
thực tế cho đến nay quân của họ tiếp tục chiếm đóng hơn mười điểm trên lãnh thổ Việt Nam, xây
dựng thêm công sự ở các nơi đó, vi phạm trắng trợn đường biên giới do lịch sử để lại mà cả hai bên
đã thỏa thuận tôn trọng.

Suốt dọc biên giới Việt−Trung, họ tiếp tục bố trí nhiều quân đoàn có pháo binh và thiết giáp
yểm trợ, tăng cường các phương tiện chiến tranh, ra sức xây dựng các công trình quân sự, thường
xuyên diễn tập quân sự, tung các đội thám báo biệt kích xâm nhập nhiều khu vực của Việt Nam.
Không ngày nào họ không gây những vụ khiêu khích vũ trang, nổ súng, gài mìn, bắn giết nhân dân
địa phương. Có nơi, họ cho bắn súng cối hạng nặng suốt ngày, có nơi họ cho một tiểu đoàn quân
chính quy tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam hơn 4 km, bắn giết dân thường, đốt phá nhà cửa và phá
hoại hoa màu. Có nơi từng tốp máy bay Trung Quốc bay sâu vào vùng trời Việt Nam từ 8 đến 10
km. Họ bí mật đẩy trở lại Việt Nam những người Hoa đã bị họ cưỡng bức di cư đi Trung Quốc.
Những hành động có tính toán đó cùng với các thủ đoạn khác của họ nhằm duy trì tình hình căng
thẳng ở vùng biên giới, xâm phạm độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tiếp tục uy hiếp an ninh
của nước Việt Nam. Những người cầm quyền Trung Quốc còn nhiều lần đe dọa “cho Việt Nam một
bài học thứ hai”, thậm chí “nhiều bài học nữa”. Trên danh nghĩa nào, và dựa vào luật pháp nào mà
những người cầm quyền Bắc Kinh có quyền cho Việt Nam và dạy cho Việt Nam bài học? Việt Nam
và Trung Quốc đều là những nước độc lập có chủ quyền. Hiến chương Liên hợp quốc, công pháp
quốc tế cũng như tập quán quốc tế tuyệt đối không cho phép Trung Quốc làm bất cứ điều gì
phương hại đến độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam cũng như của bất kỳ nước nào
khác. Phải chăng vì Trung Quốc nước rộng, người đông mà bọn bành trướng Bắc Kinh tự cho phép
làm ra luật, đe dọa, khuất phục các nước nhỏ hơn, ít người hơn?

Những người cầm quyền Trung Quốc đã nhận ngồi vào đàm phán với phía Việt Nam để bàn
những biện pháp cấp bách bảo đảm hòa bình và an ninh ở vùng biên giới và các vấn đề thuộc quan
hệ giữa hai nước. Nhưng ở vòng một tiến hành tại Hà Nội, cũng như ở vòng hai tiến hành tại Bắc
Kinh, phía Trung Quốc vẫn lẩn tránh những đề nghị hợp lý, hợp tình của phía Việt Nam, từ chối bàn
đề nghị của phía Việt Nam về những biện pháp cấp bách nhằm chấm dứt các hoạt động khiêu khích
vũ trang và bảo đảm hòa bình, ổn định ở vùng biên giới hai nước, tiền đề cấp thiết cho việc tiếp tục
giải quyết các vấn đề khác thuộc quan hệ giữa hai nước. Mặt khác, họ đặt điều kiện tiên quyết là
Việt Nam phải từ bỏ đường lối độc lập, tự chủ của mình, từ bỏ chủ quyền của mình đối với các quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa thì họ mới đi vào bàn bạc các vấn đề khác. Đây là thái độ bá quyền
nước lớn: họ đến đàm phán không phải để bàn bạc một cách bình đẳng và xây dựng nhằm giải
quyết các vấn đề tranh chấp, mà chỉ để buộc đối phương phải chấp nhận lập trường của mình. Việc
những người cầm quyền Trung Quốc đòi Việt Nam rút quân khỏi Cam-pu-chia và Lào, thậm chí nêu
ra “nguyên tắc chống bá quyền” chẳng qua là để che giấu việc họ đưa quân xâm lược Việt Nam, uy
hiếp nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và can thiệp vào công việc nội bộ của nước Cộng hòa
nhân dân Cam-pu-chia, che giấu bộ mặt bá quyền bỉ ổi của họ nhằm thôn tính ba nước ở Đông
Dương, dùng Đông Dương làm bàn đạp bành trướng xuống Đông nam châu Á.

Gần đây, những người cầm quyền Trung Quốc giương cao chiêu bài “nhân quyền” của tổng
thống Mỹ Ca-tơ (Carter), lợi dụng vấn đề người Việt Nam đi ra nước ngoài làm một vũ khí mới để
chống Việt Nam. Những người Việt Nam đi ra nước ngoài phần lớn là những nhà buôn giàu có và
những sĩ quan trước đây sống nhờ Mỹ và chế độ bù nhìn Sài Gòn, những người Hoa do Bắc Kinh
dụ dỗ, cưỡng ép ra đi; một số là những người trước đây sống trong xã hội tiêu thụ kiểu Mỹ và nay
không chịu nổi những khó khăn do cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc Mỹ và sự phá
hoại của bọn bành trướng Bắc Kinh gây ra.

Chính phủ Việt Nam vốn có chính sách nhân đạo, tôn trọng nhân quyền, không những đối xử
nhân đạo với những người Việt Nam đã hợp tác với kẻ thù trong thời gian chiến tranh, mà còn
khoan hồng cả đối với những binh sĩ của các đội quân xâm lược bị bắt trong hơn 30 năm qua.
Chính phủ Việt Nam hiểu rõ nguyên nhân và hậu quả của vấn đề những người Việt Nam đi ra nước
ngoài, đồng thời rất thông cảm các khó khăn của các nước láng giềng trước dòng người di cư đó.
Chính vì thế, từ tháng 1 năm 1979, Chính phủ Việt Nam đã tuyên bố cho phép những người có
nguyện vọng ra nước ngoài để sum họp gia đình hoặc làm ăn sinh sống được xuất cảnh một cách
hợp pháp sau khi đã làm đã làm đầy đủ các thủ tục cần thiết. Mặt khác, các cơ quan có trách nhiệm
của Việt Nam đã cùng cơ quan Cao uỷ Liên hợp quốc về vấn đề người tỵ nạn thỏa thuận một
chương trình 7 điểm được công bố ngày 30 tháng 5 năm 1979, nhằm tạo điều kiện dễ dàng cho
những người nói trên ra đi một cách có trật tự và an toàn, đồng thời làm giảm bớt các khó khăn cho
các nước ở Đông nam châu Á.

Song cả Bắc Kinh và Oa-sinh-tơn đều huy động bộ máy tuyên truyền khổng lồ và mọi phương
tiện chính trị, kinh tế, tài chính của họ, lợi dụng khía cạnh nhân đạo của vấn đề, sử dụng mọi thủ
đoạn gian dối, xuyên tạc, kích động để bóp méo sự thật về vấn đề những người Việt Nam đi ra
nước ngoài, phát động một chiến dịch quy mô và cực kỳ ghê tởm chống Việt Nam.

Nhưng thủ phạm đích thực của dòng người “di tản” là ai?

Người ta chưa quên rằng Mỹ đã tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược có tính chất huỷ diệt
chống Việt Nam và khi phải rút đội quân viễn chinh của họ, họ để lại ở miền nam Việt Nam một đất
nước bị tàn phá, một nền kinh tế tê liệt, với trên 3 triệu người thất nghiệp, trên 1 triệu người bị tàn
phế, 80 vạn trẻ em mồ côi, trên 60 vạn gái điếm, trên 1 triệu thanh niên nghiện ma túy v.v…

Còn những người cầm quyền Bắc Kinh thì sao ? Chính họ đã trắng trợn gây ra cái gọi là “nạn
kiều”, cưởng ép, dụ dỗ người Hoa bỏ nhà bỏ cửa, ruộng đồng, nhà máy để đi Trung Quốc, dùng
những tổ chức của Cục tình báo Hoa Nam để quấy rối về chính trị, đầu cơ tích trữ, nâng giá hàng,
in bạc giả nhằm phá hoại nền kinh tế của Việt Nam, chồng chất thêm khó khăn cho người dân miền
Nam Việt Nam. Trong lúc các cơ quan có trách nhiệm của Việt Nam đang cùng cơ quan Cao uỷ
Liên hợp quốc về vấn đề người tỵ nạn tổ chức việc ra đi có trật tự và an toàn, những người cầm
quyền Bắc Kinh cho tay sai tổ chức việc ra đi bất hợp pháp, để kêu la rằng Việt Nam “xuất cảng nạn
dân”, mặc dù chính họ cho hàng nghìn người Trung Quốc hàng ngày sang Hồng Kông để từ đó đi
các nước Đông nam châu Á, và hoàn toàn không đếm xỉa đến số phận 26.000 Hoa kiều bị bọn Pôn
Pốt−Iêng Xa-ry trục xuất khỏi Cam-pu-chia. Rất tiếc rằng có những chính phủ, những tổ chức vì
không hiểu sự thật ở Việt Nam, hoặc vì muốn lấy lòng những người cầm quyền Trung Quốc để
buôn bán làm ăn, đã phụ hoạ với chiến dịch kích động và vu cáo của Bắc Kinh!

Chính những kẻ cướp lại đang la làng, những kẻ chà đạp lên nhân quyền và luật pháp quốc tế
lại đang giương cao chiêu bài “nhân đạo” để thực hiện mục đích chính trị đen tối của họ. Mục đích
của Bắc Kinh là xoá nhoà những tội ác tày trời của họ ở Cam-pu-chia và trong cuộc chiến tranh xâm
lược Việt Nam, che đậy việc họ kích động người Hoa ở Việt Nam ra đi và “xuất cảng” hàng chục vạn
người Trung Quốc ra nước ngoài, gây khó khăn cho các nước ASEAN, chia rẽ các nước ASEAN
với Việt Nam, đánh lạc hướng về nguy cơ của chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc và vai trò của
“đạo quân thứ năm” người Hoa ở Đông nam châu Á.

Nhưng đối với những người có lương tri, sự thật vẫn là sự thật. Hiện nay, ngày càng có nhiều
người thấy được thủ đoạn bẩn thỉu của giới cầm quyền phản động Bắc Kinh, tỏ ra thông cảm với
những khó khăn và hoan nghênh lập trường đúng đắn của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.

Các thế lực đế quốc và phản động, chủ yếu là Oa-sinh-tơn và Bắc Kinh đã thất bại trong âm
mưu biến Hội nghị quốc tế ở Giơ-ne-vơ tháng 7 vừa qua về vấn đề người Đông Dương đi ra nước
ngoài thành một diễn đàn để vu cáo chống Việt Nam. Những đề nghị của Đoàn đại biểu Chính phủ
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tỏ rõ thái độ xây dựng và hợp tác trong việc giải quyết vấn đề
những người di cư, đã được sự đồng tình rộng rãi của đại biểu nhiều nước tôn trọng sự thật và
công lý, và đã góp phần quan trọng vào thành công của Hội nghị là đặt được nền tảng của một giải
pháp cho vấn đề như ông Tổng thư ký Liên hợp quốc K. Van-hem (Kurt Vanheim) đã kết luận.
Nhưng thực tế còn nhiều khó khăn và phức tạp do những hoạt động phá hoại của các thế lực đế
quốc và phản động, trước hết là của Oa-sinh-tơn và Bắc Kinh. Hiện nay trong lúc Bắc Kinh lớn tiếng
đe dọa chiến tranh, trắng trợn đòi “chủ quyền” đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đế
quốc Mỹ đưa hạm đội vào hoạt động ngoài khơi Việt Nam không những để khuyến khích những
người ra đi bất hợp pháp, mà còn để phối hợp với Bắc Kinh trong những âm mưu đen tối của họ ở
khu vực biển Đông và Đông nam châu Á.

* *

Trong 5 năm qua, bằng mọi thủ đoạn quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao trực tiếp và gián
tiếp, tinh vi và trắng trợn, giấu mặt và công khai, những người cầm quyền Trung Quốc đã không
ngừng phá hoại công cuộc xây dựng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Họ càng thất
bại thì càng điên cuồng chống Việt Nam hòng khuất phục nhân dân Việt Nam.

Đây là sự phản bội thứ ba của những người lãnh đạo Trung Quốc đối với nhân dân Việt Nam.

PHẦN THỨ NĂM

CHÍNH SÁCH BÀNH TRƯỚNG CỦA BẮC KINH, MỐI ĐE DỌA ĐỐI VỚI ĐỘC
LẬP DÂN TỘC, HÒA BÌNH VÀ ỔN ĐỊNH Ở ĐÔNG NAM CHÂU Á.
I
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng gần gũi, nhân dân hai nước luôn luôn gắn bó,
giúp đỡ, cổ vũ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, vì lợi ích cách mạng của
nhân dân mỗi nước. Nhân dân Việt Nam đã ủng hộ nhân dân Trung Quốc về chính trị và tinh thần,
có lúc đã phối hợp chiến đấu cùng với nhân dân Trung Quốc trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Nhân dân Trung Quốc, mặc dầu còn có nhiều khó khăn, nhất là trong những năm đầu của nước
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, đã dành sự giúp đỡ to lớn cho nhân dân Việt Nam trong hai cuộc
kháng chiến chống bọn đế quốc xâm lược.

Nhân dân Việt Nam rất quý trọng và luôn luôn giữ gìn, vun đắp cho mối tình hữu nghị giữa
nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc đời đời bền vững. Nhân dân Việt Nam không hề xâm
phạm độc lập, chủ quyền, lãnh thổ của nhân dân Trung Quốc, không hề can thiệp vào công việc nội
bộ của Trung Quốc. Đối với những vấn đề bất đồng về quan điểm hoặc những hành động sai trái do
những người lãnh đạo Trung Quốc gây ra đối với Việt Nam, phía Việt Nam đã cố gắng và bền bỉ tìm
cách giải quyết bằng con đường thảo luận nội bộ giữa hai bên.

Mặc dầu những người lãnh đạo Trung Quốc đang tâm phá hoại tình hữu nghị truyền thống
giữa nhân dân hai nước, nhân dân Việt Nam không bao giờ quên sự giúp đỡ to lớn mà nhân dân
Trung Quốc đã dành cho nhân dân Việt Nam và rất mong muốn tình hữu nghị anh em giữa nhân
dân hai nước sớm được khôi phục. Trong các cuộc đàm phán để giải quyết những vấn đề trong
quan hệ giữa hai nước, phía Việt Nam luôn luôn xuất phát từ lòng mong muốn tha thiết đó của nhân
dân Việt Nam. Lập trường trước sau như một của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là sớm khôi phục quan hệ bình thường giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa trên những nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng tôn trọng lẫn nhau vì
lợi ích của mỗi nước và vì lợi ích của hòa bình ổn định ở Đông nam châu Á và trên thế giới.

II
Tóm lại, trong 30 năm qua, những người cầm quyền Trung Quốc đã ba lần phản bội nhân dân
Việt Nam :

1- Tại Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954, họ đã bán rẻ lợi ích dân tộc của nhân dân Việt Nam,
không những để bảo đảm cho nước họ một vành đai an ninh ở phía nam, mà còn để chuẩn bị địa
bàn cho việc thực hiện mưu đồ bành trướng ở Đông Dương và Đông nam châu Á. Họ muốn duy trì
tình trạng Việt Nam bị chia cắt lâu dài, hòng làm cho Việt Nam suy yếu và phải phụ thuộc vào Trung
Quốc.

2- Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, khi chế độ Ngô Đình
Diệm bị sụp đổ thì họ bật đèn xanh cho Mỹ ném bom miền bắc Việt Nam, đồng thời đưa quân Mỹ
trực tiếp xâm lược miền Nam Việt Nam. Khi Việt Nam muốn ngồi vào thương lượng với Mỹ để phối
hợp ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao thì họ ngăn cản. Khi nhân dân Việt Nam đang trên đà
đi tới thắng lợi hoàn toàn thì họ bắt tay với chính quyền Ních-xơn, dùng xương máu của nhân dân
Việt Nam để đưa nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa lên địa vị “siêu cường thứ ba” và đổi chác
lấy việc giải quyết vấn đề Đài Loan.

3- Sau khi nhân dân Việt Nam giải phóng hoàn toàn miền nam khỏi ách thống trị thực dân mới
của đế quốc Mỹ và thống nhất nước nhà, họ đã dùng mọi thủ đoạn chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại
giao để làm suy yếu nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hòng khuất phục nhân dân Việt
Nam, tiến đến dùng lực lượng quân sự của bè lũ tay sai Pôn Pốt −Iêng Xa-ry xâm lược Việt Nam ở
phía tây nam và lực lượng quân sự của Trung Quốc trực tiếp xâm lược Việt Nam ở phía bắc, giết
hại nhân dân Việt Nam, phá hoại nghiêm trọng các cơ sở kinh tế, văn hoá của Việt Nam ở các vùng
có chiến sự.

Ba lần họ phản bội Việt Nam, lần sau độc ác, bẩn thỉu hơn lần trước!
Đối với nhân dân Lào và nhân dân Cam-pu-chia, những người cầm quyền Trung Quốc cũng
đã phản bội độc ác và bẩn thỉu. Họ đã hy sinh lợi ích dân tộc của nhân dân Lào và nhân dân Cam-
pu-chia tại Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954. Trong thời kỳ sau Giơ-ne-vơ, họ ngăn cản nhân dân Lào
và nhân dân Cam-pu-chia đấu tranh cho độc lập dân tộc, hòa bình, trung lập. Khi nhân dân Cam-pu-
chia hoàn toàn giải phóng đất nước ngày 17 tháng 4 năm 1975, họ đã dùng bọn tay sai Pôn Pốt-
Iêng Xa-ry để thực hiện chính sách diệt chủng, biến Cam-pu-chia thành một nước chư hầu kiểu
mới, một căn cứ quân sự để từ đó tiến công nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở phía tây
nam. Đối với nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, họ phá hoại công cuộc xây dựng hòa bình của
nhân dân Lào, trang bị và giúp đỡ các lực lượng phản động ở Lào gây rối loạn, đưa nhiều sư đoàn
áp sát biên giới Lào−Trung, hòng ép nhân dân Lào đi vào quỹ đạo của Bắc Kinh. Họ chia rẽ nhân
dân ba nước Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia hòng làm suy yếu và thôn tính từng nước.

Để che giấu bộ mặt phản bội của họ, những người cầm quyền Bắc Kinh thường hay nhắc đến
việc Trung Quốc viện trợ cho nước Việt Nam, thậm chí khoe rằng quân đội của họ đã “chiến đấu ở
Điện Biên Phủ” v.v… Nhân dân Trung Quốc đã dành một phần thành quả lao động của mình để
giúp đỡ nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, xây dựng đất nước, đó là điều mà
nhân dân Việt Nam trong bất cứ tình huống nào, mãi mãi không bao giờ quên. Đối với nhân dân
Việt Nam, đó là biểu hiện cao đẹp của mối tình đoàn kết chiến đấu của những người chung cảnh
ngộ, nhưng đối với tập đoàn phản động trong giới cầm quyền Bắc Kinh đó là một công cụ chính trị
để thực hiện chính sách bành trướng của họ ở Việt Nam cũng như trên toàn bán đảo Đông Dương.
Thực tế đã chỉ rõ họ đã sử dụng viện trợ đó khi thì như một “củ cà-rốt”, khi thì như một “cái gậy”, tuỳ
theo yêu cầu chính trị từng lúc của họ.

Vả lại không chỉ có vấn đề Trung Quốc giúp đỡ Việt Nam.

Những người lãnh đạo Trung Quốc đã nhiều lần nói rằng nói đến cám ơn thì nhân dân Trung
Quốc phải cám ơn nhân dân Việt Nam. Nhân dân Việt Nam đã hy sinh nhiều, cống hiến nhiều đối
với nhân dân Trung Quốc. Nhân dân Trung Quốc phải cám ơn và có nghĩa vụ giúp đỡ, ủng hộ nhân
dân Việt Nam. Nhân dân hai nước giúp đỡ lẫn nhau.

Về việc tổng thống Ních-xơn đi thăn Trung Quốc năm 1972, chủ tịch Mao Trạch Đông đã nói
với những người lãnh đạo Việt Nam tháng 6 năm 1973 như sau: “Thành thực mà nói, nhân dân
Trung Quốc, Đảng Cộng sản Trung Quốc và nhân dân thế giới phải cám ơn nhân dân Việt Nam đã
đánh thắng Mỹ. Các đồng chí chiến thắng mới buộc Ních-xơn phải đi Bắc Kinh”

Về việc nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa vào Liên hợp quốc năm 1971, thủ tướng Chu Ân
Lai đã nói trong cuộ hội đàm với các nhà lãnh đạo Việt Nam tháng 11 năm 1971: “Cống hiến của
Việt Nam rất lớn. Chúng ta gắn bó với nhau”.

Lịch sử -và trước hết là đội quân viễn chinh Pháp- đã trả lời rõ ràng câu hỏi: ai đã chiến đấu và
chiến thắng ở Điện Biên Phủ năm 1954? Điều cần nói thêm là trong thời kỳ kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược, Chính phủ Trung Quốc có phái một số cố vấn sang Việt Nam, và trong những
năm 1960 Bắc Kinh có đưa sang Việt Nam một lực lượng gọi là “bộ đội hậu cần” để giúp Việt Nam
sửa những đoạn đường sắt và đường bộ giáp Trung Quốc bị bom Mỹ phá hỏng và làm một số
đường mới ở vùng biên giới hai nước. Nhưng mặt chủ yếu họ làm là điều tra tình hình các mặt,
thâm nhập những vùng có các dân tộc thiểu số và tuyên truyền “cách mạng văn hoá”. Phần lớn
những gián điệp và “bộ đội sơn cước” mà phía Việt Nam đã bắt được trong tháng 2, tháng 3 vừa
qua chính là những tên “bộ đội làm đường” Trung Quốc trước đây.
Từ sự phản bội ở Hội nghị Giơ-ne-vơ 1954, việc lợi dụng cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước của nhân dân Việt Nam đến việc dựng lên chế độ diệt chủng Pôn Pốt −Iêng Xa-ry, vũ trang
xâm lược Việt Nam và uy hiếp xâm lược Lào, tất cả đều do: một tư tưởng chỉ đạo : chủ nghĩa đại
dân tộc, một chính sách : ích kỷ dân tộc, một mục tiêu chiến lược : chủ nghĩa bành trướng đại dân
tộc và chủ nghĩa bá quyền nước lớn.

Cụ thể là họ mưu toan thôn tính Việt Nam và toàn bộ Đông Dương, lấy đó làm bàn đạp tiến
xuống Đông nam châu Á và từng bước triển khai chiến lược toàn cầu của họ.

Để đạt mục tiêu bành trướng và bá quyền của họ, những người cầm quyền Bắc Kinh đã nâng
lừa dối và bịp bợm thành một quốc sách, một thủ đoạn chiến lược. Về phương diện này, từ chỗ là
những người học trò của Gơ-ben (Joseph Goebbels, bộ trưởng tuyên truyền của Hítle. B.T.), họ đã
trở thành người thầy của Gơ-ben. Họ gán cho người khác những điều mà họ muốn làm. Họ đổ vấy
cho người khác những điều mà chính họ làm. Họ dựng đứng sự việc, xuyên tạc tài liệu, bóp méo
lịch sử. Họ đổi trắng thay đen, đảo ngược phải trái và cứ thế mà tuyên truyền bằng bộ máy thông tin
khổng lồ và mọi phương tiện khác. Họ giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa xã hội nhưng lại chống
chủ nghĩa xã hội. Họ hò hét chống chủ nghĩa đế quốc nhưng chính họ bắt tay với đế quốc Mỹ. Họ
kêu la phải chống hai siêu cường nhưng lại câu kết với đế quốc Mỹ để chống Liên Xô. Họ nói chống
chủ nghĩa bá quyền, nhưng chính họ mưu toan thực hiện chủ nghĩa bá quyền ở Đông Dương và
Đông nam châu Á. Họ đưa quân xâm lược nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhưng lại vu
cáo Việt Nam “xâm lược” Trung Quốc. Họ tỏ vẻ “bảo vệ nhân quyền”, quan tâm đến “những người
Đông Dương di tản”, nhưng chính họ đã giết hại hàng triệu người Trung Quốc trong cuộc “đại cách
mạng văn hoá", đã xúi giục hơn 20 vạn người Hoa bỏ Việt Nam đi Trung Quốc. Đối với những
người cầm quyền Bắc Kinh, luận điệu của họ là chân lý, lợi ích của họ là đạo lý. “Quan châu được
đốt đèn, dân đen không được nổi lửa”, câu nói đó của những người nông dân Trung Quốc dùng
trước đây để chỉ trích sự áp bức của bọn bạo chúa phong kiến đã trở thành phương châm của
những người cầm quyền Bắc Kinh hiện nay nhằm thực hiện tham vọng bành trướng và bá quyền
của họ.

Hiện nay, những người lãnh đạo Trung Quốc đang ra sức nêu cao ngọn cờ đại dân tộc để tập
hợp các phe phái, thực hiện kế hoạch “bốn hiện đại hoá”. Về đối ngoại, họ ra sức thực hiện chính
sách bành trướng ở Đông Dương và Đông nam châu Á, câu kết với chủ nghĩa đế quốc và các thế
lực phản động khác, trước hết là với Mỹ, chống Liên Xô và cách mạng thế giới, với hy vọng tranh
thủ được nhiều vốn và kỹ thuật hiện đại của phương tây, phục vụ cho “bốn hiện đại hoá” và mưu đồ
bành trướng và bá quyền của họ.

Một Trung Quốc bị đầu độc bởi tư tưởng đại dân tộc, chủ nghĩa bành trướng và bá quyền của
những người cầm quyền, bất kể phát triển theo con đường nào, không phải chỉ đe dọa độc lập dân
tộc, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các nước ở Đông Dương, Đông nam châu Á và Nam Á, đe
dọa hòa bình, ổn định ở khu vực này, mà còn đe dọa lợi ích nhiều mặt của các nước khác, kể cả
các nước, vì lợi ích trước mắt, đang phụ họa với những người cầm quyền Trung Quốc chống Việt
Nam, Lào và Cam-pu-chia. Một số người thức thời trong các nhà chính trị và kinh doanh phương tây
mới cảnh cáo chính phủ họ về hậu quả nặng nề có thể xảy ra khi đất nước Trung Quốc lại lâm vào
một cuộc khủng hoảng chính trị nội bộ mới, nhưng họ chưa nói tới những hậu quả còn nặng nề gấp
bội đối với lợi ích của các nước trên thế giới do chính sách bành trướng của những người lãnh đạo
Trung Quốc gây ra.

Trong hàng nghìn năm qua, nước Việt Nam đã bị các hoàng đế Trung Quốc xâm lược hàng
chục lần, nhân dân Việt Nam hiểu rõ những ý đồ đen tối của những người lãnh đạo Trung Quốc,
cho nên không một phút nào là không cảnh giác đối với họ. Thậm chí trong lúc đế quốc Mỹ đẩy cuộc
chiến tranh xâm lược Việt Nam lên đến đỉnh cao nhất, nhân dân Việt Nam đứng trước những khó
khăn chồng chất, nhưng đã thẳng thắn khước từ những đề nghị của những người lãnh đạo Trung
Quốc đưa sang Việt Nam 20 vạn quân và số ô-tô cần thiết để đảm nhiệm việc vận chuyển quân sự
từ miền Bắc vào miền Nam Việt Nam. Nhân dân Việt Nam luôn luôn giữ vững đường lối độc lập, tự
chủ của mình không gì lay chuyển được, bất chấp sức ép dù là che giấu hay công khai, gián tiếp
hay là trực tiếp của những người cầm quyền Trung Quốc.

III
Mặc dù cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam tháng 2 năm 1979 đã thất bại thảm hại cả về
quân sự và chính trị, những người lãnh đạo Trung Quốc vẫn theo đuổi chính sách điên cuồng chống
Việt Nam bằng mọi thủ đoạn. Phía Trung Quốc vẫn giữ thái độ nước lớn trong cuộc đàm phán về
những vấn đề thuộc quan hệ giữa hai nước, vẫn ngang ngược đe dọa “cho Việt Nam một bài học
nữa”. Đồng thời họ tích cực tìm cách khôi phục chế độ diệt chủng Pôn Pốt −Iêng Xa-ry đã bị nhân
dân Cam-pu-chia lật đổ hoàn toàn, đe dọa xâm lược nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, nhằm
duy trì sự uy hiếp từ mọi phía đối với Việt Nam.

“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Nhân dân Việt Nam kiên quyết bảo vệ độc lập chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững đường lối độc lập, tự chủ và đoàn kết quốc tế đúng đắn của
mình, quyết đập tan mọi hành động xâm lược của bất kỳ thế lực phản động nào, quyết làm thất bại
mọi mưu đồ bành trướng nhằm khuất phục nhân dân Việt Nam.

Nhân dân Việt Nam có chính nghĩa, lại có sức mạnh vô địch của khối đoàn kết toàn dân, kết
hợp với sức mạnh của ba dòng thác cách mạng vĩ đại đã và đang đẩy lùi từng bước các âm mưu
can thiệp, nô dịch và xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới, chủ nghĩa
bành trướng, và chủ nghĩa bá quyền, ngày càng làm thay đổi bản đồ châu Á, châu Phi và châu Mỹ
la-tinh. Bọn bành trướng Bắc Kinh, nếu không sớm rút ra những kết luận cần thiết từ sự thất bại của
chính sách chống Việt Nam vừa qua, thì nhất định sẽ chuốc lấy những thất bại mới nặng nề hơn.
Trong thời đại ngày nay, các nước lớn nhỏ đều là bộ phận của một tổng thể duy nhất của xã hội loài
người. Bọn bành trướng Bắc Kinh không thể đụng đến Việt Nam mà không khiêu khích cả loài
người, không thách thức cả hệ thống xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc và mặt trận
nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nhân dân các nước xã hội
chủ nghĩa, các nước độc lập dân tộc và nhân dân yêu chuộng hòa bình và chính nghĩa trên thế giới
đã và sẽ đứng về phía nhân dân Việt Nam.

Bằng chính sách bịp bợm “thân xa đánh gần” của các hoàng đế Trung Quốc và nhiều thủ đoạn
xảo quyệt khác, những người cầm quyền Trung Quốc có thể còn che giấu được bộ mặt bành
trướng của họ trong một thời gian. Nhưng sớm muộn nhân dân các nước ở Đông nam châu Á sẽ
hiểu rằng chính sách thù địch của Bắc Kinh chống Việt Nam đe dọa độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ không phải chỉ của riêng Việt Nam, mà của cả các nước trong khu vực. Mọi người chắc
chưa quên rằng Bắc Kinh đã dùng “đạo quân thứ năm” người Hoa để gây rối loạn về chính trị, kinh
tế ở nhiều nước thuộc Đông nam châu Á trước khi áp dụng ở Việt Nam. Hiện nay trong lúc họ tập
trung cố gắng để chống Việt Nam, họ chẳng đang can thiệp một cách thô bạo vào công việc nội bộ
của nhiều nước khác ở châu Á đó sao?

Những người Cộng sản chân chính ở Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc, trong 30 năm tồn tại
của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, đã luôn luôn bị các tập đoàn thống trị lừa dối, sớm muộn
sẽ nhận ra chân lý và sẽ đứng về phía nhân dân Việt Nam, sẽ ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa
của nhân dân Việt Nam.
Cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam chống chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc
và bá quyền nước lớn của tập đoàn phản động trong giới cầm quyền Bắc Kinh để bảo vệ độc lập,
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của mình, góp phần bảo vệ hòa bình và ổn định ở Đông nam châu Á
và trên thế giới tuy lâu dài, gian khổ, nhưng nhất định sẽ thắng lợi vẻ vang.

Nước Việt Nam ngày nay sẽ đứng vững và tiếp tục phát triển trước mọi mưu ma chước quỷ
của những người cầm quyền Bắc Kinh, cũng như nước Việt Nam bốn nghìn năm qua đã đứng vững
và phát triển trước những cuộc xâm lược liên tiếp của các hoàng đế Trung Quốc.

Nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc nhất định sẽ sống trong hòa bình, hữu nghị và
hợp tác, hợp với nguyện vọng của nhân dân hai nước và hợp với lợi ích của hòa bình ở Đông nam
châu Á và trên thế giới.

Tháng 10 năm 1979

Nhà xuất bản Sự Thật

24 Quang Trung Hà Nội, Dây nói 52008

Chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh: 103 Hàm Nghi, Dây nói: 98800 và 20476

Phụ trách bản thảo đưa in: PHẠM XUYÊN, ĐÌNH LAI

Trình bày bìa: NGHIÊM THÀNH

Giá 0đ50

You might also like