Professional Documents
Culture Documents
Cơ sở khoa học của giải Nobel Vật lí 2007
Cơ sở khoa học của giải Nobel Vật lí 2007
Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển đã quyết định trao giải Nobel
Vật lí năm 2007 cho
Giải thưởng Nobel vật lí năm nay được trao cho Albert Fert và Peter
Grünberg cho khám phá của họ ra hiện tượng từ trở khổng lồ. Những ứng dụng của
hiện tượng này đã cách mạng hóa công nghệ truy xuất dữ liệu từ các ổ đĩa cứng.
Khám phá đó cũng đóng một vai trò quan trọng trong những bộ cảm biến từ đa
dạng cũng như cho việc phát triển một thế hệ điện tử mới. Lợi ích của từ trở khổng
lồ có thể xem là một trong những ứng dụng chủ yếu đầu tiên của công nghệ nano.
Các đầu đọc tốt hơn cho những dụng cụ bỏ túi
Các linh kiện điện tử liên tục được thu nhỏ đã trở thành một vấn đề tất yếu
trong thế giới IT ngày nay. Nhu cầu thường niên với thị trường máy vi tính ngày
càng mạnh hơn và nhẹ hơn là điều chúng ta bắt đầu cho là hiển nhiên. Nhất là các ỗ
đĩa cứng đã thu nhỏ lại – chiếc hộp kềnh càng dưới bàn làm việc của bạn sẽ sớm trở
thành lịch sử khi cùng lượng dữ liệu đó có thể dễ dàng lưu trữ trong một laptop
Biểu đồ cho thấy tốc độ đang gia tốc của việc mini hóa có thể cho một cảm
giác sai lầm về tính đơn giản – như thể sự phát triển này tuân theo một quy luật tự
nhiên. Trên thực tế, cuộc cách mạng IT đang diễn ra phụ thuộc vào sự tác động qua
lại phức tạp giữa tiến bộ khoa học cơ bản và sự chuyển hướng công nghệ. Đây đúng
là cái mà giải Nobel Vật lí năm 2007 đề cập tới.
Máy tính xách tay, máy hát nhạc, và các cỗ máy tìm kiếm mạnh, tất cả đều
cần đến ỗ đĩa cứng trong đó thông tin được nhồi nhét rất chen chúc. Thông tin trên
một đĩa cứng được lưu trữ dưới dạng các vùng bị từ hóa khác nhau. Một hướng từ
hóa nhất định tương ứng với giá trị 0 nhị phân, và hướng kia tương ứng với giá trị 1
nhị phân. Để truy xuất thông tin, một đầu đọc sẽ quét qua đĩa cứng và ghi nhận các
trường từ hóa khác nhau. Khi ổ đĩa cứng trở nên nhỏ hơn, mỗi vùng từ tính cũng
phải thu nhỏ lại. Điều này có nghĩa là từ trường của từng bit trở nên yếu hơn và khó
đọc hơn. Do đó, một ổ đĩa cứng nhồi nhét chật hơn đòi hỏi một kĩ thuật đọc nhạy
hơn.
Trở lại cuối thập niên 1990, một công nghệ hoàn toàn mới đã trở thành chuẩn
trong các đầu đọc của ổ đĩa cứng. Điều này có tầm quan trọng quyết định đối với
khuynh hướng đang gia tốc của việc thu nhỏ ổ đĩa cứng mà chúng ta thấy trong vài
năm vừa qua. Công nghệ đọc ngày nay dựa trên một hiệu ứng vật lí mà hai nhà đoạt
giải thưởng Nobel Vật lí của năm nay lần đầu tiên quan sát thấy hầu như gần 20
năm về trước. Người Pháp Albert Fert và người Đức Peter Grünberg, đồng thời và
Điện trở trong vật dẫn tăng lên khi các electron tán xạ lên những chỗ khiếm khuyết làm cho chuyển
động có hướng của chúng bị gây trở ngại.
Trong vật dẫn từ tính, hướng của spin của đa số electron song song với hướng từ hóa (màu đỏ).
Thiểu số electron có spin hướng ngược lại (màu trắng). Trong hình minh họa này, các electron có
spin đối song bị tán xạ nhiều hơn.
Từ trở khổng lồ - GMR
Thí dụ về loại hệ đơn giản nhất trong đó từ trở khổng lồ có thể phát sinh
được mô tả như sau: Hệ gồm một lớp kim loại phi từ tính kẹp giữa hai lớp kim loại
từ tính, xem hình bên dưới. Bên trong chất từ tính, và nhất là ở mặt tiếp giáp giữa
chất từ tính và chất phi từ tính, các electron có spin khác nhau bị tán xạ khác nhau
(1). Ở đây chúng ta sẽ xét trường hợp trong đó các electron tán xạ nhiều hơn nếu
như spin của chúng là đối song với hướng từ hóa chung. Điều này ngụ ý rằng điện
trở đối với những electron này sẽ lớn hơn so với những electron có spin song song
với hướng từ hóa. Sau đó, khi các electron đi vào chất từ tính, chúng sẽ tán xạ ở
mức độ như nhau, phụ thuộc vào hướng spin của chúng (2). Ở mặt tiếp giáp thứ hai
và bên trong lớp chất từ tính sau cùng, các electron có spin đối song lại một lần nữa
bị tán xạ nhiều hơn so với các electron có spin song song (3).
Trong trường hợp khi cả hai lớp từ tính bị từ hóa theo hướng như nhau, thì
đa số electron sẽ có spin song song và di chuyển dễ dàng qua cấu trúc đó. Điện trở
toàn phần do đó sẽ thấp (trường hợp A trong hình bên dưới). Tuy nhiên, nếu hướng
từ hóa của hai lớp là ngược nhau, tất cả các electron sẽ ở trạng thái có spin đối son g
ở một trong hai lớp. Điều này có nghĩa là không electron nào có thể di chuyển dễ
dàng qua hệ và điện trở toàn phần vì thế sẽ cao (trường hợp B). Bây giờ, hãy tưởng
Hình 2. Hình bên trái: Các phép đo từ trở (nhiệt độ phòng) đối với hệ ba lớp Fe/Cr/Fe.
Nằm xa phía bên phải cũng như phía bên trái, sự từ hóa của hai lớp sắt đều song song với
từ trường ngoài. Ở vùng chính giữa, sự từ hóa của hai lớp sắt là đối song. Thí nghiệm
cũng biểu hiện một hành vi hết sức ngộ nghĩnh (sự chênh lệch 1 và 4 (2 và 3)) điển hình
cho các phép đo từ hóa.
Hình bên phải: Các phép đo từ hóa (4,2 K) đối với hệ nhiều lớp (Fe/Cr)n. Tiến ra ngoài
phía bên phải (> HS, trong đó HS là trường bão hòa) cũng như tiến ra phía bên trái (< -
HS), sự từ hóa của tất cả các lớp sắt là song song với từ trường ngoài. Trong vùng trường
thấp, mỗi lớp sắt thứ hai bị từ hóa đối song với từ trường ngoài.
10 kG = 1 Tesla
Grünberg cũng báo cáo các phép đo từ trở nhiệt độ thấp cho một hệ có ba lớp
sắt phân cách nhau bởi hai lớp chromium và thấy điện trở giảm 10%.
Không những Fert và Grünberg đo được sự tăng mạnh từ trở, mà họ còn
nhận ra những quan sát này là một hiện tượng mới, trong đó nguyên nhân của từ trở
là một loại mới hoàn toàn. Tựa đề bài báo gốc của nhóm Fert đã gọi hiệu ứng quan
sát được là “Từ trở khổng lồ”. Grünberg cũng lập tức nhận ra những khả năng mới
cho ứng dụng công nghệ và đã đăng kí phát minh khám phá đó. Trong phút chốc,
lĩnh vực nghiên cứu từ tính màng mỏng đã hoàn toàn chuyển hướng thành điện tử từ
học.
Việc khám phá ra từ trở khổng lồ lập tức mở ra cánh cửa vào thế giới của
những khả năng khoa học và công nghệ mới phong phú, bao gồm một sức ảnh
hưởng khủng khiếp đến khúc xạ thuật lưu trữ dữ liệu và cảm biến từ. Hàng nghìn
nhà khoa học trên khắp thế giới ngày nay đang nghiên cứu hiện tượng điện tử từ
học và các hệ quả của chúng. Câu chuyện hiệu ứng GMR là một bằng chứng rất tốt
cho thấy làm thế nào mà một khám phá khoa học hoàn toàn không mong đợi trước
có thể đem lại những công nghệ và sản phẩm thương mại hoàn toàn mới.
Hình 3. Bên trái là giản đồ biểu diễn cấu trúc dải năng lượng của một kim loại chuyển tiếp d. Mật
độ N(E) của các trạng thái được biểu diễn tách rời đối với các electron spin up và down và trong
đó sự tách rời đơn giản hóa được thực hiện giữa các dải năng lượng 3d và 4s. Đối với trạng thái
phi từ tính, các dải năng lượng này giống nhau đối với cả hai loại spin. Mọi mức năng lượng dưới
năng lượng Fermi đều chiếm giữ các trạng thái (màu cam và màu lam). Các vùng tô màu (cam +
lam) tương ứng với tổng số electron hóa trị trong kim loại trên. Phía bên phải tương ứng là hình
minh họa cho một trạng thái sắt từ, với độ phân cực spin được chọn có hướng quay lên (N↑ > N↓,
diện tích vùng màu lam > diện tích vùng màu cam). Sự phân cực này được chỉ rõ bằng mũi tên
màu lam dày ở phía dưới hình bên phải.
Tình huống đối với sự phân cực spin sắt từ được minh họa ở phía bên phải
hình 3 (với hướng được chọn là hướng lên). Sự dịch chỗ theo phương đứng giữa các
mật độ spin up và spin down của các trạng thái minh họa cho năng lượng trao đổi
phân tách giữa các dải năng lượng spin up và spin down, phù hợp với các kim loại
Fe, Co và Ni. Đặc biệt, mật độ của các trạng thái ở năng lượng Fermi N(EF) bây giờ
có thể rất khác đối với hai dải spin. Điều này cũng có nghĩa là đối với chất sắt từ,
đặc trưng của trạng thái ở năng lượng Fermi hơi khác nhau đối với các electron spin
up và spin down. Đây là một quan sát quan trọng liên quan đến hiệu ứng GMR. Bức
tranh các dải năng lượng 3d này (phía bên phải hình 3) đối với các kim loại sắt từ
thường được gọi là mô hình thủy động, cũng còn gọi là mô hình Stoner-Wohlfarth.
Một tính chất quan trọng của các chất sắt từ là ở nhiệt độ cao từ tính của
chúng không còn. Hiện tượng này xảy ra ở một nhiệt độ cố định, gọi là nhiệt độ
Curie, TC. Đối với các hệ hiện nay (Fe, Co và Ni), các nhiệt độ tới hạn này cao hơn
nhiệt độ phòng nhiều và có thể không cần chú ý tới.
B. Điện trở
Dòng điện gồm các electron đi qua một hệ kim loại tính sẽ luôn luôn chiu
một điện trở R. (Ngoại trừ cái gọi là các chất siêu dẫn trong đó dưới một nhiệt độ
Người ta đã biết từ lâu rằng những sự mất trật tự như các khiếm khuyết và
tạp chất trong những hệ kim loại trở nên được che chắn bởi các electron dẫn xung
quanh. Sự mất trật tự gây ra sự phân hủy các dao động mật độ electron là hàm của
khoảng cách tính từ tâm nhiễu (còn gọi là dao động Friedel). Tương tự, một nguyên
tử tạp chất từ tính ở lớp kim loại bao xung quanh gây ra sự phân cực spin cảm ứng
của mật độ electron. Với khoảng cách tăng lên tính từ tạp chất từ tính, sẽ có một dao
động về dấu của sự phân cực và sự mất trật tự cũng sẽ giảm độ lớn theo khoảng
cách. Hệ quả là moment từ một tạp chất thứ hai đặt tương đối gần với tạp chất thứ
nhất sẽ trở nên sắp thẳng hàng song song hoặc đối song với moment từ của tạp chất
thứ nhất và tùy thuộc vào dấu của sự phân cực cảm ứng ở khoảng cách đặc biệt đó.
Sự ghép đôi này (ghép trao đổi) giữa các moment từ (biểu diễn dạng giản đồ trên
hình 5) nổi tiếng với các kim loại đất hiếm trong đó mỗi nguyên tử có một moment
từ có nguồn gốc từ cấu hình điện tử liên kết rất chặt chẽ (và khu biệt) nằm sâu bên
trong nguyên tử đó. Thực tế thì tính chất từ của các kim loại lanthanide nặng hơn có
nguyên nhân từ tương tác này.
Như đã đề cập, gadolinium là một chất sắt từ, trong đó moment từ có nguyên
nhân từ các electron 4s khu biệt trên từng nguyên tử có cấu hình 4f 7. Nghĩa là, tất
cả các moment từ 4f đều hướng cùng chiều nhau và bao quanh những moment này
có 3 electron dẫn trên nguyên tử trung chuyển tương tác giữa các moment từ 4f.
Năm 1986, Majkrzak công bố nghiên cứu về một siêu mạng của Gd/Y/Gd, trong đó
họ công bố một moment từ đối song sắp thẳng hàng giữa các lớp Gd đối với trường
hợp 10 lớp đơn của Y. Điều này có thể hiểu từ chỗ là lớp Gd sắt từ cảm ứng một sự
phân cực spin dao động nằm trong kim loại Y phi từ tính bình thường và lớp Gd thứ
hai nằm ở khoảng cách mà liên kết phản sắt từ có ưu thế hơn. Trên thực tế, cùng lúc
ấy, Grünberg phát hiện một sự ghép đôi phản sắt từ giữa các lớp sắt đối với trường
Hình 4. Hình minh họa một siêu mạng. Về cơ bản là tương tự như hình 1, nhưng bây giờ với độ
phân giải nguyên tử. Từ hình này, thật hiển nhiên là mạng ghép đôi không tương xứng giữa hai
chất cần phải nhỏ để có thể nuôi nhiều lớp với bề mặt chung có chất lượng.
Hình 5. Giản đồ minh họa cách hành xử của độ ghép trao đổi là một hàm của khoảng cách.
Bước tiếp theo là khảo sát sự phụ thuộc của độ ghép đôi vào chiều dày của
các lớp phi từ tính trung gian. Một vài nhóm nghiên cứu đã nhận ra sự thay đổi dấu
theo độ tăng chiều dày lớp phi từ tính, sự phụ thuộc của nó vào chất liệu phi từ tính
và cũng như sự phụ thuộc của nó vào chính chất liệu của lớp từ tính do Parkin chế
tạo. Thật ra, ở đây ông đã tận dụng hiệu ứng GMR làm công cụ nghiên cứu sự phụ
thuộc này. Với phương pháp này, người ta có thể tạo ra một số lượng lớn mẫu dưới
những điều kiện có thể so sánh được. Công trình nghiên cứu rộng rãi này thật quan
3. Từ trở khổng lồ
Điện trở của một dụng cụ GMR có thể hiểu từ hình ảnh có phần đơn giản hóa
sau đây. Hình 6 là giản đồ cấu hình từ cho nhiều lớp FM/NM/FM (sắt từ/phi từ
tính/sắt từ) được chế tạo với mật độ electron trạng thái tương ứng cho hai mặt sắt từ
(FM). Khi có mặt từ trường (ở phía trên), hai lớp FM tách nhau ra sao cho chúng có
hướng từ hóa ngược nhau. Khi có mặt từ trường, sự từ hóa của hai lớp FM sẽ song
song nhau (ở phía dưới). Bây giờ gửi một dòng điện qua hệ trong cả hai cấu hình.
Như vừa đề cập ở phần trên, dòng điện đi qua lớp FM gồm có hai loại – một dòng
spin up và một dòng spin down – và điện trở đối với hai dòng này sẽ khác nhau. Khi
một electron rời lớp sắt thứ nhất và đi vào kim loại phi từ tính, sẽ có những quá
trình tán xạ nữa gây ra thêm điện trở. Vì các hạt spin up và spin down có mật độ
trạng thái khác nhau ở mức Fermi (hay đúng hơn, chúng phát sinh từ các mức năng
lượng có đặc trưng khác nhau), điện trở không chỉ có trong lớp FM, mà còn phát
sinh từ lớp tiếp giáp FM/NM sẽ khác nhau đối với hai spin. Bên trong lớp NM, các
spin và down chịu cùng một điện trở như nhau, nhưng nói chung điện trở này thấp
so với điện trở trong các lớp FM các ranh giới FM/NM và ở đây có thể bỏ qua.
Hình 6. Giản đồ minh họa cấu trúc điện tử của một hệ ba lớp với hai lớp sắt từ (màu xanh lá nhạt)
ở hai mặt, cách nhau bởi một lớp phi từ tính (màu xám). Hình trên là cho trường hợp không có từ
trường ngoài (H = 0), tức là khi hai lớp từ tính có sự từ hóa ngược nhau (được chỉ rõ bằng mũi tên
dày màu lam và màu cam ở phía trên hình trên cùng). Hình dưới là cho trường hợp khi một từ
trường ngoài (H ≠ 0) buộc hai sự từ hóa song song nhau (hai mũi tên màu lam dày ở phía dưới của
hình dưới cùng. Độ lớn của bốn sự từ hóa là như nhau.
Hình 7. Hệ vật lí giống như trong hình 6. Các lớp từ bây giờ được biểu diễn bởi các điện trở R↑ và
R↓. Hình cho thấy rất rõ ràng rằng điện trở toàn phần đối với hai trường hợp là khác nhau, tức là
có hiệu ứng từ trở. Trong trường hợp R↑ >> R↓, trên thực tế nó chỉ là khả năng thấp nhất trong số
bốn khả năng sẽ cho phép dòng điện đi qua. Trong hình dưới, với sự từ hóa song song, điện trở đối
với các electron spin up (spin down) sẽ là R↑ (R↓) trong cả hai lớp từ tính. Trong hình trên, với sự
từ hóa đối song, các electron spin up (spin down) sẽ có điện trở R↑ (R↓) trong lớp từ tính thứ nhất
phía bên trái. Trong lớp từ tính thứ hai, điện trở đối với electron spin up (spin down) sẽ là R↓ (R↑),
vì môi trường từ hóa ở đây ở đây trở nên ngược toàn bộ so với lớp thứ nhất.
Trong trường hợp không có từ trường ngoài (H), cấu hình đối với hai lớp từ
tính là đối song (phần trên hình 7). Trong trường hợp này, sự tán xạ trước tiên ở
phần bên trái của hệ nhiều lớp là giống hệt như trước đó đối với phần dưới của hình.
Như vậy, sự chênh lệch giữa R↑ và R↓ càng lớn thì từ trở âm càng lớn. Biểu
thức này cho thấy rõ ràng hiệu ứng từ trở phát sinh từ sự khác biệt hành vi điện trở
của các electron spin up và down.
Vì có từ trở đối với sự dẫn điện, nên rõ ràng hành vi của các electron ở mặt
Fermi (xác định bởi năng lượng Fermi) có tính hấp dẫn nhất. Mật độ phân cực spin
của các trạng thái (DOS) ở năng lượng Fermi càng lớn, N↑(EF) càng lệch xa khỏi
N↓(EF), thì người ta càng trông đợi hiệu quả mạnh mẽ hơn của hiệu ứng từ điện tử.
Ở khía cạnh này, một họ kim loại rất lí thú gồm cái gọi là các bán kim loại, một
khái niệm và de Groot và các cộng sự nêu ra. Một tính chất như thế sau đó đã được
Schwarz tiên đoán bằng lí thuyết cho CrO2 vào năm 1986. Tên gọi bán kim loại
phát sinh từ đặc điểm nổi bật là dải spin down là kim loại, còn dải spin up là chất
cách điện. Điều này được chỉ ra bằng giản đồ trên hình 8, và thật rõ ràng là có 100%
sự phân cực spin ở mức Fermi. Tiên đoán lí thuyết cho CrO2 sau này được xác nhận
bằng thực nghiệm.
Hình 8. Giản đồ minh họa mật độ trạng thái của CrO2 phi từ tính (trái) và sắt từ (phải). Như có thể
thấy ngay với trường hợp sắt từ (phải), các electron spin down (màu cam) nằm trong dải kim loại,
còn các electron spin up (màu lam) biểu hiện cấu trúc điện tử tương tự như chất cách điện. Sự
phân cực spin toàn phần được chỉ ra bằng mũi tên dày màu xanh.
Hình 9. Minh họa hiệu ứng từ trở đối với bán kim loại. Hai lớp bán kim loại sắt từ (màu xanh nhạt)
cách nhau bởi một lớp kim loại phi từ tính (màu xám). Khi không có mặt từ trường ngoài (H = 0),
hai lớp sắt từ có sự phân cực spin đối song (các mũi tên dày màu lam và màu cam ở phía trên). Khi
có mặt trường ngoài (H ≠ 0), hai lớp sắt từ có sự phân cực spin song song (hai mũi tên dày màu
lam ở hình bên dưới). Như có thể nhận ra ngay, sẽ không có dòng điện nào cho trường hợp hình
trên. Đối với trường hợp hình dưới, sẽ chỉ có dòng spin down.
Một biến thể khác của nhiều lớp trong ngữ cảnh bây giờ là nuôi các chất xếp
thành lớp với sự xen kẽ giữa các lớp kim loại và cách điện. Ở đây, lớp cách điện sẽ
là những lớp chỉ dày vài nguyên tử sao cho có một khả năng lớn cho các electron có
thể chui hầm cơ lượng tử qua hàng rào cách điện (hình 10). Theo kiểu này, dòng
điện có thể đi qua nhiều lớp. Công bố đầu tiên về một hệ như thế đã được thực hiện
bởi Julliere. Công trình này được thực hiện đối với một tiếp giáp ba lớp có cấu trúc
như sau: Fe/Ge vô định hình/Co. Các thí nghiệm được tiến hành ở nhiệt độ thấp và
báo cáo cho biết hiệu ứng xảy ra khoảng 14%.
Nghiên cứu tiếp theo thuộc loại này được thực hiện bởi Maekawa và Gäfvert.
Họ nghiên cứu các tiếp giáp thuộc loại Ni/ NiO/ FM, trong đó FM là kí hiệu tắt cho
Fe, Co hay Ni. Từ trở mà họ tìm được vào cỡ vài phần trăm, một lần nữa lại ở nhiệt
độ thấp. Hai công bố này về cơ bản vẫn bị bỏ qua suốt một thời gian dài. Thật vậy,
chỉ sau khám phá của Fert và Grünberg, thì sự chú ý mới lại tập trung vào những
loại hệ này. Đột phá đến vào năm 1995 khi hai nhóm nghiên cứu báo cáo sự tiến bộ
đáng kể. Theo đó, Moodera và nhóm của ông đã đo các lớp chui hầm CoFe / Al2O3
/Co (hay NiFe) và nhận thấy điện trở biến thiên 27% ở 4,2 K và 12% ở nhiệt độ
phòng. Tương tự, Miyazaki Tesuka sử dụng tiếp giáp Fe / Al2O3 / Fe và nhận thấy
điện trở biến thiên tương ứng 30% và 18% ở 4,2 K và nhiệt độ phòng. Ngày nay,
phổ biến hơn, người ta tìm thấy sự biến thiên cỡ 50% ở nhiệt độ phòng. Giá trị này
thật sự cao hơn sự biến thiên điện trở tìm thấy ở các chất GMR “chuẩn”. Gần đây,
các hàng rào Fe/MgO/Fe đã biểu hiện giá trị TMR đôi khi vượt quá 200%.
Do hiệu suất tốt hơn của các lớp tiếp giáp chui hầm từ tính, người ta trông
đợi chúng trở thành chất được chọn khi tiến tới những ứng dụng kĩ thuật. Việc sử
dụng chúng cùng với các bộ nhớ truy xuất ngẫu nhiên từ tính ổn định (MRAM) có
sức hấp dẫn lớn và các hệ MRAM dựa trên TMR đã có mặt trên thị trường. Người
ta trông đợi công nghệ trên nền tảng TMR sẽ trở nên thống trị các bộ cảm biến
GMR. Tuy nhiên, việc khám phá ra hiệu ứng GMR đã đặt nền tảng cho công nghệ
TMR.
6. Từ trở khổng lồ
Việc khám phá ra hiệu ứng GMR đối với nhiều lớp từ tính đã gây ra sự hứng
thú ngày càng tăng trong việc tìm kiếm những hiệu ứng liên quan giữa các khối chất
Ở đây, chúng ta sẽ chỉ đề cập đến một vài trong số rất nhiều lĩnh vực nghiên
cứu khác nhau miêu tả khuynh hướng gần đây hơn về các chất spin và ứng dụng của
chúng. Một lĩnh vực như thế, chẳng hạn, là chất bán dẫn từ tính, trong đó nhóm của
Ohno đã chứng minh tiềm năng của những chất như thế, sử dụng chất bán dẫn
(Ge, Mn) As.
Một lĩnh vực khác là bơm spin. Ở đây sẽ nhắc tới nghiên cứu ban đầu do
Johnson thực hiện về các hệ kim loại. Bơm spin từ một chất sắt từ kim loại vào một
chất bán dẫn đã được Zhu và Hanbicki thực hiện thành công, sử dụng Fe và GaAs.
Bơm spin từ một chất bán dẫn từ tính sang một chất bán dẫn phi từ tính được
trình bày bởi Ohno và bởi Fiederling. Câu hỏi các electron bị phân cực spin có thể
truyền đi bao xa trong một chất đồng thời vẫn giữ được sự phân cực spin của chúng
có tầm quan trọng to lớn và là công trình nghiên cứu đầy hứa hẹn đã được báo cáo
bởi Awshalom và các đồng sự của ông.
Xu hướng nghiên cứu rất mạnh hiện nay đang hướng tới sự chuyển mạch từ
tính bằng dòng spin. Hứng thú này bắt đầu từ hai bài báo lí thuyết, trong đó chỉ ra
rằng một dòng spin đi qua một đa lớp từ tính có thể dẫn tới sự từ hóa đảo ngược.
Tiên đoán này sớm được xác nhận bằng thực nghiệm. Việc nhận thức dòng điện
cảm ứng các chuyển động giếng domain hình thành nên cơ sở cho một “Bộ nhớ
Đường đua” từ tính
Khám phá bởi Albert Fert và Peter Grünberg về từ trở khổng lồ (GMR) rất
nhanh chóng được cộng đồng khoa học công nhận. Nghiên cứu từ học trở nên phù
hợp với nhiều triển vọng khoa học và công nghệ mới đa dạng. GMR là một thí dụ
tuyệt vời cho thấy một khám phá khoa học cơ bản bất ngờ có thể nhanh chóng mang
lại những công nghệ mới và sản phẩm thương mại như thế nào. Việc khám phá ra
GMR đã mở ra cánh cửa tiến vào một nền khoa học mới, đó là từ điện tử học (hay
công nghệ spin), trong đó hai tính chất cơ bản của electron, được đặt tên là điện tích
và spin của nó, được khai thác đồng thời. Công nghệ nano đang xuất hiện là điều
kiện tiên quyết cho khám phá ra GMR, ngày nay từ điện tử học đang ở trong giai
đoạn chuyển mình của nó với tư cách là một động lực cho những ứng dụng mới của
công nghệ nano. Trong lĩnh vực này, những thách thức khoa học và công nghệ gay