Professional Documents
Culture Documents
Dacnguconggia 10
Dacnguconggia 10
Đặc Ngữ Công Giáo (10): Nhà Khảo – Nhà Phòng – Nhà Quê – Nhà Thánh ‐ Nhà
Trạm
Nhà Khảo: Khảo 考: từ Hán Việt hóa Nôm có nghĩa là thi cử, hạch hỏi. Nhà Khảo là
phòng lớn trong các chủng viện để hội họp hay học chung. Được gọi là nhà khảo vì nơi
này diễn ra các cuộc khảo thí để tuyền dụng ứng sinh vào nhà tập hay chủng viện.
Nhà Mặc Áo hay Phòng Mặc Áo: Căn phòng trong nhà thờ, sau cung thánh để các Linh
Mục mặc áo lễ trước khi ra cử hành thánh lễ. Nhà Mặc Áo cũng còn được gọi là Phòng
Thánh
Nhà Mẹ: Nhà chính của dòng tu nữ có mẹ bề trên cư ngụ. Người Công Giáo dùng từ
Mẹ là dịch từ tiếng Mother Superior hay Mother General trong Anh ngữ có nghĩa là: Mẹ
bề trên hay Mẹ bề trên tổng quyền.
Nhà Mụ: Từ cổ chỉ nhà dòng Mến Thánh Giá và từ Bà Mụ chỉ người tu trong dòng này.
Từ Nhà Mụ cũng như Bà Mụ không còn thông dụng từ khoảng năm 1960, thay vào đó
người ta dùng từ nhà dòng, bà dòng.
Tại sao các nhà truyền giáo xưa lại dùng từ Bà Mụ để chỉ nữ tu dòng Mến Thánh Giá
trong khi người Việt Nam hiểu từ Bà Mụ là người đàn bà đỡ đẻ và là nữ thần khuôn
nặn hình hài thai nhi. Đại Từ Điển Tiếng Việt định nghĩa từ Bà Mụ: (1) người đàn bà đỡ
đẻ ở nông thôn trước đây. (2) Nữ thần nặn ra hình đứa trẻ. (3) nữ tu đạo Thiên Chúa
thuộc một dòng tu riêng của Việt Nam (3) Bướm nhỏ. (4) ấu trùng của chuồn chuồn
sống dưới nước. Đại Từ Điển Tiếng Việt vì mới xuất bản năm 1999 nên có từ Bà Mụ chỉ
nữ tu đạo Thiên Chúa. Từ điển Tiếng Việt của Hội Khai Trí Tiến Đức xuất bản vào
những năm tiền bán thế kỷ 20 chưa có từ Bà Mụ có nghĩa là nữ tu dòng Mến Thánh Giá.
Với các ý nghĩa dân gian hiểu về từ Bà Mụ chắc chắn không thích hợp, hay không đúng
ý nghĩa Bà Mụ là bà dòng Mến Thánh Giá xưa. Có hai giả thuyết giải thích từ Bà Mụ để
chỉ bà bề trên cơ sở dòng Mến Thánh Giá.
Giả thuyết thứ nhất căn cứ vào ý nghĩa từ Mụ trong tiếng Nôm và Hán Việt. Từ Mụ vừa
là Nôm 姥 vừa là Hán Việt 媽. Hai từ có ý nghĩa gần như nhau để chỉ người mẹ hoặc bà
già. Theo giả thuyết này, vì từ Mụ có ý nghĩa là bà mẹ nên các nhà thừa sai đã dùng từ
đó để chỉ bà bề trên dòng Mến Thánh Giá như tập tục của tất cả các nhà dòng nữ trên
thế giới gọi bà bề trên là bà mẹ.
Giả thuyết thứ hai cho rằng khi thiết lập dòng Mến Thánh Giá, các nhà truyền giáo tây
phương chưa thông thạo chữ tiếng Việt đã dựa vào Phúc Âm để lấy chữ Mụ trong từ
Mulier của tiếng La tinh để chỉ nữ tu bề trên của Dòng Mến Thánh Giá. Từ Mulier có
nghĩa là người đàn bà. Trong Phúc Âm có nhiều chữ Mulier. Ví dụ trong đoạn Chúa
Giêsu trối Đức Mẹ cho Thánh Gioan, Phúc Âm viết: Cum vidisset ergo Iesus matrem et
discipulum stantem quem diligebat dicit matri suae mulier ecce filius tuus. (Jn 19,26)
Vậy Ðức Yêsu thấy Mẹ Ngài, và môn đồ Ngài yêu mến đứng bên cạnh, thì Ngài nói với
Mẹ: Hỡi bà này là con bà! Giả thuyết nào đúng còn cần có thêm chứng cớ. Hai giả
thuyết này, cái nào đáng tin cậy hơn, còn cần sự xác minh của các bậc thức giả.
Nhà Nguyện. Nguyện 愿 từ Hán Việt: cầu xin, mong muốn. Nhà nguyện là nhà cầu
nguyện, cầu xin. Người Công Giáo hiểu nhà nguyện là nhà thờ nhỏ trong tu viện, hoặc
nơi dành riêng cho việc tôn kính một vị thánh. Theo truyền thống Công Giáo nhà
nguyện được để Mình Thánh Chúa.
Nhà Phòng: Phòng 房 từ Hán Việt: buồng, cái nhà. Nhà Phòng: Căn nhà của giáo xứ
nằm bên cạnh nhà thờ để cha xứ làm việc và ở. Nhà Phòng là tiếng phổ thông tại miền
Bắc, Miền Nam gọi là Nhà Cha Xứ. Ngày nay, tại hải ngoại, Nhà Phòng được gọi là Văn
Phòng Giáo Xứ.
Nhà Quê: Theo nghĩa thường, từ Nhà Quê có nghiã là nông thôn, phân biệt với thành
thị. Nếu là tĩnh từ, Nhà Quê có nghĩa là mộc mạc, hàm ý chê bai thiếu văn minh. Đối
với hàng giáo sĩ Công Giáo, từ Nhà Quê có nghĩa là nhà bố mẹ đẻ. Người đi tu tách rời
khỏi gia đình huyết tộc, sát nhập vào cộng đồng giáo sĩ tu sĩ phục vụ ở những nơi khác
nhau nên nhà cha mẹ ruột được gọi là Nhà Quê tức nơi quê quán của mình.
Nhà Tạm 茄暫: từ Nôm, nguyên nghĩa là nhà dựng tạm thời. Với người Công Giáo Nhà
Tạm là hộp nhỏ giống dạng cái nhà có cửa để cất giữ Mình Thánh Chúa. Gọi là Nhà
Tạm vì khi xưa, trên đường vượt sa mạc về miền đất hứa, người Do Thái đã để Hòm
Bia Giao Ước trong nơi thánh tạm mà tiếng La Tinh gọi là Tabernaculum. Anh và Pháp
ngữ cũng dùng từ Tabernacle để chỉ nơi cất giữ mình Thánh Chúa.
Nhà Tập: Tập習: từ Hán Việt. Nhà trường của các dòng tu để giáo dục các tu sinh mới
gia nhập dòng về mặt đức dục, trí dục và tu đức. Nhà tập dòng Tên.
Nhà Thánh. Từ cổ chỉ nhà thờ Công giáo. Tập Lịch Sử Nước Annam viết bằng chữ quốc
ngữ do Bentô Thiện viết năm 1629 có đoạn nói về nhà thờ Công Giáo như sau: “Nghệ
An Xứ những nhà thánh thờ đức Chúa trời được bẩy mươi lăm nhà thánh. Sơn Nam Xứ được
một trăm tám mươi ba nhà thánh. Hải Dương Xứ được ba mươi bẩy nhà thánh. Kinh Bắc Xứ
được mười lăm nhà thánh. Thanh Hoá xứ được hai mươi nhà Thánh. Sơn Tây xứ được mười
nhà thánh”. Từ Nhà Thánh đến cuối thê kỷ 19 vẫn còn được người Công Giáo dùng. Đại
Nam Quấc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Paulus Cúa ấn bản 1896 ghi: Nhà Thánh : Nhà thờ
đạo Thiên Chúa. Ngày nay người ta không dùng từ Nhà Thánh để chỉ nhà thờ
Nhà Thầy: Thầy 柴: từ Nôm có nghĩa là người giảng dậy. Nhà Thầy là người giảng dậy.
Muốn hiểu tại sao từ Nhà Thầy chỉ những người đi tu, ta phải trở về với tổ chức Kẻ
Giảng của cha Đắc Lộ. Nhiệm vụ truyền giáo là mục tiêu hàng đầu của các vị thừa sai
nên ban đầu khi chưa có linh mục bản xứ, các thừa sai đã lập ra tổ chức Nhà Kẻ Giảng,
sau này biến thành Hội Kẻ Giảng để hỗ trợ việc truyền giáo. Nhà Kẻ Giảng là hình thức
tu trì hay chủng viện đầu tiên của Công Giáo Việt Nam và người trong Nhà Kẻ Giảng
được gọi là Thầy Kẻ Giảng. Gọi là các thầy vì các vị đó giảng giải đạo Chúa. Nhà Thầy
là tiếng chỉ chung những người đi tu từ Giám Mục đến Chủng Sinh. Do vậy có từ Đức
Thầy chỉ Giám Mục và Thầy Cả chỉ Linh Mục.
Nhà Thờ: Theo nghĩa thông thường, nhà thờ là nơi thờ cúng tổ tiên của một dòng họ.
Nhà nước cộng sản Việt Nam hiểu lệch lạc từ này Đại Từ Điển Tiếng Việt ghi 2 nghĩa
phụ. (1) Nhà Thờ: nơi thờ kính chúa Giêsu. (2) Tổ chức nằm quyền cai quản giáo dân :thế lực
nhà thờ. Đối với người Công Giáo, Nhà Thờ là nơi để giáo hữu đến để cử hành các nghi
lễ thờ phượng Chúa. Người Tàu gọi nhà thờ là Giáo Đường: 教 堂. Nhà thờ mà ta gọi là
Vương Cung Thánh Đường, tương đương với từ Cathedral trong tiếng Pháp hay tiếng
Anh, thì người Tàu gọi là Đại Giáo Đường. Từ Chapel trong tiếng Anh hay Pháp mà ta
gọi là Nhà Nguyện, người Tàu gọi là Tiểu Giáo Đường. Cho đến cuối thế kỷ 19, nhà thờ
còn được gọi là Nhà Thánh.
Nhà Thờ Chính Tòa: Nhà thờ chính của địa phận có Giám Mục cai quản. Muốn hiểu
cụm từ này ta cần hiểu từ Tòa. Trong tiếng La tinh, Cathedra có nghĩa là Ghế hay Tòa.
Từ này biến sang tiếng Pháp hay Anh là Cathedral có nghĩa là nhà thờ lớn, nhà thờ
chánh tòa. Với chữ Nôm, Tòa 坐 có nghĩa là chỗ ngồi oai nghiêm. Ví dụ: Đức Phật ngồi
tòa sen. Trong tiếng Hán Việt từ Tòa 座 còn được phát âm là Tọa có nghĩa là ghế ngồi.
Tòa là chiếc ghế biểu tượng cho quyền bính và quyền giáo huấn của Giám Mục. Do vậy
nhà thờ có Giám Mục cai quản được gọi là nhà thờ chính tòa và tượng trưng cho quyền
cai quản của Giám Mục là chiếc ghế.
Nhà Thờ Họ. Họ 戶: từ Nôm có nghĩa dòng dõi, bà con. Theo nghĩa chung, Nhà Thờ Họ
là nơi thờ ông bà tổ tiên của dòng họ. Người Công Giáo hiểu Nhà Thờ Họ là nhà thờ
của một họ lẻ trực thuộc nhà thờ xứ.
Nhà Tu: Tu 修: từ Nôm có nghĩa là rời bỏ thế tục. Nhà Tu: người tu hành.
Nhà Trạm: Trạm 站: từ Hán Việt có nghĩa là chỗ tạm trú hay hoán chuyển ở giữa
đường. Trên lộ trình rước kiệu trong ngày chầu lượt của giáo phận hay giáo xứ, Mình
Thánh Chúa được dừng lại ở một số địa điểm có dựng căn nhà nhỏ có mái che, có bục
cao, được trang hoàng hoa nến để đặt mình Thánh Chúa cho giáo dân chầu trong thời
gian ngắn. Nơi này gọi là Nhà Trạm.
Nhà Trường La Tinh: Từ cổ để chỉ trường nay gọi là Tiểu Chủng Viện. Gọi là trường La
Tinh vì tại đây ngày xưa các chủng sinh được bắt đầu học tiếng La Tinh là ngôn ngữ
chính thức của Giáo Hội. Nhà Trường La Tinh cũng còn được gọi là Tràng La Tinh.
Tràng là tiếng đọc trại của Trường.