You are on page 1of 6

Bản Tin Sớm www.bantinsom.

com

Vài nét về năng suất và chất lượng doanh nghiệp


Việt Nam trong tiến trình hội nhập

Với xu hướng toàn cầu hoá, nền kinh tế thế giới đang thay da đổi thịt từng ngày. Trong vòng
quay của thời gian và vòng xoáy của thời đại, Việt Nam đã và đang từng bước cố gắng để bắt
kịp với guồng quay thương mại, nhanh chóng hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế
giới.

Năm 1995,Việt Nam gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(Asean). Năm 1997, là thành viên sáng lập ra diễn đàn hợp tác Á – Âu
(Asem). Năm 1998, gia nhập diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái
Bình Dương , tháng 11/2006 Việt Nam đã trở thành thành viên chính
thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

Những bước tiến quan trọng này là kết quả của sự thay đổi to lớn
trong tư duy và nhận thức của cả hệ thống nền kinh tế đặc biệt là
trong vấn đề cạnh tranh. Cạnh tranh ở đây không chỉ đơn thuần là
tranh giành trong phạm vi nội bộ một quốc gia nữa, mà sâu rộng hơn
nó chính là một cuộc chiến thương mại mang tính chất sống còn của
một doanh nghiệp, một quốc gia trong thời kì hội nhập. Vũ khí của
cạnh tranh chính là chất lượng mà chất lượng lại là một trong những
yếu tố nâng cao năng suất, ngược lại năng suất cũng góp phần đảm
bảo chất lượng của hàng hoá, dịch vụ. Hiểu rõ mức độ quan trọng
trong mối quan hệ biện chứng giữa năng suất và chất lượng sẽ giúp
doanh nghiệp tăng sức mạnh cạnh tranh trên thị trường.

Năng suất

Theo quan niệm truyền thống, năng suất lao động là lượng sản phẩm
sản xuất ra trong một đơn vị thời gian. Theo Hội đồng năng suất châu
Á đưa ra năm 1959: "Tổng quát mà nói, năng suất-chất lượng là một
trạng thái tư duy. Nó là thái độ tìm kiếm để cải tiến những gì đang tồn
tại. Có một sự chắc chắn rằng con người ngày hôm nay có thể làm việc
tót hơn ngày hôm qua và ngày mai tốt hơn ngày hôm nay. Hơn nữa,
nó đòi hỏi những cố gắng không ngừng để thích ứng với các hoạt động
kinh tế trong những điều kiện luôn thay đổi, luôn ứng dụng những lý
thuyết và phương pháp mới. Đó là một sự tin tưởng chắc chắn trong
quá trình tin tưởng của loài người."
Bản Tin Sớm www.bantinsom.com

Năng suất trở thành vấn đề trọng tâm, tổng hợp và quan trọng. Nó
phản ánh hiệu quả của sản xuất-kinh doanh và hay nói cách khác nó
đầy ý nghĩa với hiệu quả.

Chất lượng

Chất lượng là 1 khái niệm quá quen thuộc với loài người ngay từ thời
cổ đại, tuy nhiên chất lượng là 1 khái niệm gây nhiều tranh cãi. Có rất
nhiều định nghĩa về chất lượng, tuy nhiên ở đây sẽ trình bày ra quan
niệm về chất lượng theo ISO 9000-2000: “Chất lượng là khả năng của
tập hợp các đặc tính của 1 sản phẩm, hệ thống hay quá trình để đáp
ứng các yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan.”

Trong nền kinh tế thị trường, hầu hết các mặt hàng đều ở trạng thái
cung lớn hơn cầu, dẫn đến các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau
bằng việc phải thỏa mãn ngày càng tốt những nhu cầu của người mua.
Do đó các doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng
ngày càng cao những nhu cầu mà khách hàng mong đợi.

Năng suất-chất lượng là 2 phạm trù, 2 khái niệm có mối quan hệ


tương124.gif hỗ với nhau, năng suất tác động đến chất lượng: Bởi
năng suất được hiểu là thái độ nhằm tìm kiếm để cải tiến những gì
đang tồn tại, nên khi năng suất nâng cao sẽ đáp ứng một cách tốt
nhất những nhu cầu của khách hàng về số lượng, chủng loại, giá cả
của sản phẩm... Từ đó có khả năng ảnh hưởng đến chất lượng, có thể
làm cho chất lượng được nâng cao.

Ngược lại chất lượng cũng tác động đến năng suất: Năng suất thường
đồng nghĩa với hiệu suất, theo quan niệm hiện nay, năng suất bằng tỉ
lệ giữa đầu ra và đầu vào. Vì thế chất lượng cao sẽ giảm số sản phẩm
sai hỏng => đầu ra tăng lên với cùng 1 khối lượng đầu vào => Hiệu
suất tăng lên. Ngoài ra chất lượng cao còn làm tăng độ bền sản phẩm,
kéo dài tuổi thọ. Đối với những sản phẩm là các công cụ, phương tiện
sản xuất hay tiêu dùng có sử dụng nguyên liệu, năng lượng trong quá
trình tiêu dùng, thì chi phí trong vận hành khai thác sản phẩm là 1
thuộc tính chất lượng rất quan trọng. Sản phẩm càng hoàn thiện, chất
lượng càng cao thì mức độ tiêu thụ nguyên liệu, năng lượng trong sử
dụng càng ít => góp phần nâng cao chất lượng lao động.

Năng suất và chất lượng là 2 khái niệm đồng hướng, chúng có


mối quan hệ biện chứng, bổ xung và tăng cường lẫn nhau.

Năng suất - Chất lượng trong các doanh nghiệp Việt Nam
Bản Tin Sớm www.bantinsom.com

Những mặt tích cực

Hai mươi năm Đổii mới tuy chưa phải là dài đối với một nền kinh tế
nhưng nó là cả một chặng đường phấn đấu. Toàn bộ hệ thống kinh tế
đã và đang chuyển mình, gặt hái được những thành công to lớn, có
những thay đổi cả về chất và lượng. Tất nhiên đó là kết quả trực tiếp
của nhận thức đúng đắn và bước đi khoa học trong hoạt động sản xuất
kinh doanh. Là một vũ khí trên thương trường hiện nay, nhận thức về
năng suất và chất lượng đã có sự tiến bộ rõ rệt.

Giờ đây, năng suất không còn là sản xuất nhiều hơn khi sử dụng
những nguồn lực như nhau hay sản xuất cùng sản phẩm nhưng sử
dụng ít nguồn lực hơn mà điều thiết yếu là sản xuất ra đúng sản phẩm
với giá cả cạnh tranh để luôn luôn đảm bảo sự thỏa mãn khách hàng ở
mức cao nhất. Về chất lượng, không chỉ dừng lại ở chất lượng sản
phẩm, ở kiểm tra chất lượng, chất lượng hiện nay được hiểu ở quy mô
rộng hơn là chất lượng quá trình, chất lượng toàn diện. Vì vậy để nâng
cao sức cạnh tranh thì gia tăng và cải tiến năng suất- chất lượng là 1
yếu tố tiên quyết.

Tuy từ nhận thức đến thực tiễn còn nhiều khó khăn, song không thể
phủ nhận năng suất-chất lượng trong các doanh nghiệp Việt Nam đã
có những bước tiến rõ rệt. Nếu như chỉ cách đây khoảng 20 năm, hàng
Việt Nam sản xuất ra không đủ phân phối và tiêu dùng, thì ngày hôm
nay có thể nói hàng nội địa có mặt ở khắp nơi trong nước và nhiều nơi
trên thế giới, đa dạng cả về số lượng và chủng loại. Rõ ràng năng suất
sản phẩm đã gia tăng nhờ cải tiến kĩ thuật và áp dụng công nghệ mới.

Chất lượng sản phẩm cũng được nâng cao rõ rệt. Nếu như trong thời
bao cấp hàng hoá sản xuất ra không đủ so với cầu thì nhu cầu của con
người chỉ dừng lại ở “ăn no mặc ấm”. Còn ngày nay xã hội phát triển
chất lượng cuộc sống cũng được nâng cao thì nhu cầu của con người lại
là “ăn ngon, mặc đẹp”, là được khẳng định mình với những sản phẩm
đắt tiền, chất lượng cao và hợp “mốt”.

Đặc biệt, công nghệ thông tin ra đời đã tạo ra bước đột phá về năng
suất chất lượng. Nó rút ngắn thời gian thu thập, xử lý và phản hồi
thông tin, cải tiến hoạt động quản lý, tạo ra sự thỏa mãn của khách
hàng, tiết kiệm thời gian và chi phí, nâng cao hiệu quả lao động. Ngày
nay, người ta không cần mất hàng giờ, hàng ngày để đánh một bức
điện tín mà ở bất cứ đâu, chỉ cần chiếc điện thoại di động trên tay, bạn
có thể liên lạc tới bất cứ nơi nào. Chính công nghệ thông tin cũng giúp
Bản Tin Sớm www.bantinsom.com
rút ngắn thời gian phản hồi, sự chậm trễ trong ra quyết định và từ đó
loại bỏ rào cản trong việc gia tăng năng suất lao động, đặc biệt đối với
những dịch vụ định hướng vào khách hàng như dịch vụ công cộng,
ngân hàng, bảo hiểm, và giao thông.

Nổi bật hơn, trước tình hình tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt,
nguồn nguyên liệu và năng lượng khan hiếm, Việt Nam đã bắt đầu tiếp
cận với khái niệm “Năng lượng xanh” như một giải pháp tối ưu mà
chưa chắc cần tới cải tiến công nghệ. Đây là một phương pháp kết hợp
giữa các biện pháp tăng năng suất với các kĩ thuật quản lý môi trường
nhằm tạo ra sản phẩm, dịch vụ hài hòa với môi trường nhằm đạt được
mục tiêu tăng năng suất mà không làm ô nhiễm hoặc tổn hại tới môi
trường. Tính đến năm 2005, Việt Nam đã thực hiện thành công chương
trình “Năng suất xanh và phát triển cộng đồng” tại 96 điểm thuộc 21
tỉnh thành trên cả nước và thí điểm chương trình nâng cao hiệu quả sử
dụng năng lượng tại công ty cao su SAO VÀNG. Các giải pháp tiết kiệm
năng lượng cũng được áp dụng tại nhiều doanh nghiệp giúp cho doanh
nghiệp giảm được từ 10% đến 15% chi phí về năng lượng, đồng thời
bảo vệ được môi trường và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường
trong nước và quốc tế.

Năng suất và chất lượng có mối quan hệ tương hỗ nhau. Do đó, song
hành cùng năng suất, chất lượng hàng hóa Việt Nam cũng tiến bộ hơn
rất nhiều. Hàng hóa Việt Nam có thị phần nội địa ngày càng cao, đã
xuất khẩu tới nhiều nước và có nhiều mặt hàng có uy tín cao như dệt
may, giày dép, thủy hải sản... so với 10 năm trước đây hàng hóa Việt
Nam bị rẻ rúng vì chất lượng kém. Đó là do sự áp dụng khá thành
công các tiêu chuẩn kiểm định chất lượng vào sản xuất kinh doanh đặc
biệt là bộ tiêu chuẩn ISO 9000.

Tính đến tháng 12 năm 2005, Việt Nam có 2461 chứng chỉ ISO trên
tổng 776608 chứng chỉ ISO của thế giới và 127 chứng chỉ ISO 14001.
Các kĩ thuật giải pháp, mô hình tiên tiến cũng bắt đầu được triển khai
áp dụng như Tái cơ cấu quá trình kinh doanh, Quản lý chất lượng toàn
diện (TQM), duy trì năng suất tổng hợp, Benchmarking, quản lí quan
hệ khách hàng (CRM), nhằm gia tăng giá trị và tăng cường khả năng
cạnh tranh cho doanh nghiệp. Nhiều thương hiệu Việt Nam đã xây
dựng được uy tín trên thị trường trong nước và khu vực- đó là những
dấu hiệu tích cực tạo điều kiện cho doanh nghiệp đáp ứng tốt nhu cầu
khách hàng và có khả năng cạnh tranh cao hơn trên thương trường
quốc tế. Điều đó xuất phát từ nhận thức tiến bộ là chất lượng không
chỉ là chất lượng sản phẩm mà còn là chất lượng cả quá trình sản xuất
ra sản phẩm-chất lượng toàn diện. Từ năm 1996 đến năm 2000, mỗi
năm có khoảng 50000 sản phẩm được đăng kí chất lượng. Đến ngày
Bản Tin Sớm www.bantinsom.com
1/7/2000 hoạt động đăng kí chất lượng được chấm dứt và thay thế
bằng cơ chế tự công bố của doanh nghiệp về tiêu chuẩn chất lượng
hàng hóa và tự công bố hàng hóa phù hợp về tiêu chuẩn. Chỉ 2 năm,
đến tháng 12/2002, đã có trên 22000 sản phẩm của trên 7500 doanh
nghiệp đã được công bố tiêu chuẩn chất lượng và có 235 sản phẩm của
69 doanh nghiệp được công bố phù hợp TCVN.

Tồn tại và nguyên nhân của tồn tại

Tuy năng suất và chất lượng Việt Nam đã được cải tiến nhưng vẫn còn
nhiều yếu kém. Theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế Thế giới (WEF),
năm 1999 Việt Nam đứng thứ 48 trong tổng số 59 nước về khả năng
cạnh tranh. Các sản phẩm công nghiệp vẫn chỉ dừng lại ở lắp ráp như
ô tô, xe máy..., vấn đề về khai thác và chế biến khoáng sản cũng đang
là một bài toán khó với các doanh nghiệp Việt Nam, chúng ta vẫn tự
hào là đất nước ta rừng vàng biển bạc, nhiều khoáng sản. Nhưng tài
nguyên nước ta vẫn chỉ có thể khai thác và xuất khẩu thô, sơ chế với
giá rẻ gấp nhiều lần so với giá nhập về sau khi đã qua tinh chế, đến
nay chúng ta vẫn phải nhập khẩu phôi thép từ Trung Quốc...

15.gifVới thực trạng như thế thì phải chăng vấn đề năng suất và chất
lượng trong ngành công nghiệp nặng quả là còn mới mẻ? Bên cạnh đó
các sản phẩm thủy hải sản và đồ hộp thì chất lượng bảo quản không
cao, khả năng cạnh tranh kém... Do đó số lượng chứng chỉ ISO được
cấp vẫn còn ít, nhiều đơn vị còn áp dụng hệ thống quản lý chất lượng
một cách chống chế nên chất lượng sản phẩm và năng suất chưa cao.
Điều quan trọng là cách thức quản lí chất lượng chưa hợp lí và còn
nhiều bất cập. Nhiều doanh nghiệp chỉ coi trọng kiểm tra chất lượng
sản phẩm khi sản phẩm đã được sản xuất xong chuẩn bị đưa vào thị
trường như vậy qui trình sản xuất sản phẩm không được tuân thủ theo
tiêu chuẩn vì chúng ta chỉ kiểm tra những việc đã rồi-tìm ra sản phẩm
sản phẩm sai hỏng, không đạt tiêu chuấn để loại bỏ, thay vì thắt chặt
công tác kiểm soát cả quá trình.

Nên nhớ rằng chúng ta kiểm tra là để phát hiện sai hỏng xem nó bắt
nguồn từ đâu? Tại sao lại như vậy? Từ đó tìm giải pháp khắc phục chứ
không phải là để bắt lỗi. Nếu cứ tiếp tục tình trạng kiểm tra này chỉ
làm cho số lượng sản phẩm hỏng tăng lên và dẫn đến năng suất giảm
mà thôi, và hiển nhiên hiệu quả của hoạt động kinh doanh sẽ thấp.
Không ai khác doanh nghiệp sẽ phải đối đầu với những thiệt hại và sức
ép từ phía thị trường và khách hàng về chính sản phẩm không đảm
bảo chất lượng của mình. Từ đó mài mòn khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp thậm chí không còn sức để cạnh tranh. Một bài học đặt
ra là luôn luôn nhận thức chất lượng là chất lượng cả quá trình chứ
Bản Tin Sớm www.bantinsom.com
không phải chỉ đơn thuần là chất lượng của sản phẩm cuối cùng,
không những thế nó còn bao gồm cả hoạt động sau bán hàng và
nghiên cứu thị trường.

Đơn cử một ví dụ như sản phẩm mây tre đan Việt Nam. Ở thị trường
Việt Nam thì sản phẩm đạt yêu cầu nhưng khi xuất khẩu sang một số
nước phương Tây thì sản phẩm bị cong, vênh hoặc ẩm mốc... Rõ ràng
các doanh nghiệp xuất khẩu hàng mây tre đan đã không nghiên cứu kĩ
thị trường ví dụ như về điều kiện thời tiết, khí hậu của nơi đó, vì thế đã
ít nhiều thất bại, làm mất uy tín của thương hiệu cái mà chúng ta phải
mất bao mồ hôi và chất xám mới có được.

Hay một ví dụ nữa về hàng xuất khẩu cá Basa. Các doanh nghiệp nước
ta đã bị kiện là bán phá giá tại thị trường Mĩ. Tại sao lại như vậy? Có
thể có nhiều nguyên nhân nhưng nếu công tác nghiên cứu thị trường
được tiến hành kĩ hơn, “chất lượng” hơn thì chắc chắn rủi ro sẽ được
giảm thiểu. Một thực trạng thật “dễ chấp nhận” là nhiều mặt hàng
trong nước không có tính cạnh tranh ngay trên cả thị trường nội địa,
thực tế này là do là giá cả cao, mẫu mã không đẹp, chất lượng lại
không tốt... trong khi đó các mặt hàng nhập khẩu đặc biệt là đồ điện
tử, dân dụng, các loại xe của Nhật Bản rất được ưa chuộng ở Việt
Nam, chúng được biết đến và gắn liền với niềm tin chất lượng. Nhưng
tại sao hàng Trung Quốc lại có thể tràn ngập thị trường nước ta, mặc
dù người Việt Nam nào cũng biết chất lượng của nó đôi khi chỉ là một
dấu hỏi? Chẳng qua nó được tiêu dùng nhiều hơn bởi giá cả hợp lí nói
đúng hơn là khá rẻ so với các mặt hàng cùng loại của các nước khác,
hơn nữa lại đa chủng loại nhưng có lẽ cái quan trọng nhất đánh vào
tâm lí người tiêu dùng Việt Nam vẫn là mẫu mã đẹp, bắt mắt và “quá”
nhiều tính năng sử dụng – đây cũng là một cách để thoả mãn nhu cầu
của khách hàng.

Một trong những nguyên nhân cơ bản của thực tế trên là vấn đề về
năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Hãy khoan bàn đến chất
lượng sở dĩ giá cả đắt phần lớn là do năng suất lao động của các doanh
nghiệp nước ta chưa cao, cộng với qui mô sản xuất hạn hẹp nên chi
phí sản xuất tăng dẫn đến giá thành cao - yếu tố khá nhạy cảm với
người tiêu dùng. Bên cạnh đó có vẻ như hàng Việt Nam được sản xuất
ra chưa thực sự xuất phát từ nhu cầu của khách hàng, vấn đề nghiên
cứu thị trường vẫn chưa được chú trọng. Nhiệm vụ của chúng ta là
phải tìm ra “lời giải” cho “bài toán kinh tế” này chứ cứ với tình trạng
người Việt dùng toàn “đồ Tàu” thì thật đáng buồn?

You might also like