You are on page 1of 3

AZ A GYANÚS, AMI NEM GYANÚS Chương mười - CÁI KHÔNG KHẢ NGHI

MỚI KHẢ NGHI

De most nem várja Pelikánt semmiféle vacsora. Virág Nhưng bây giờ không có tiệc tùng gì đợi Pelikan cả. Nữ
elvtárs dolgozószobájába vezeti be Gogolák elvtársnő, đồng chí Gogolak dẫn hắn vào phòng làm việc của đồng
aki háttal ül egy varrógép előtt, és serényen dolgozik. chí Virag. Trong phòng đồng chí đang ngồi quay lưng ra
Egy pantallót gépel. Mellette próbababa, azon egy félig ngoài miệt mài đạp máy khâu. Đồng chí đang may một
kész zakó. cái quần. Bên cạnh đó là một hình nộm mẫu khoác một
chiếc áo gần xong.
Virág elvtárs nem vesz tudomást a belépő Pelikánról, a Đồng chí không để ý gì đến Pelikan vừa bước vào. Hắn
gátőr nem tudja, mit csináljon, csak áll, köhint, várja, không biết làm gì chỉ đứng rồi hắng giọng cho người kia
hogy észrevegyék. thấy.
Aztán leül egy bőrfotelbe. Sau đó hắn ngồi xuống chiếc bành bọc da.
Zümmög a varrógép az éjszakai csendben, Pelikán Tiếng máy may chạy xành xạch trong cảnh đêm tĩnh
szorongva ül. mịch. Pelikan lòng dạ lo lắng ngồi chờ.
Hirtelen megfordul Virág. Đột nhiên đồng chí Virag quay ra hắn.
- Mi újság, Pelikán? - Có gì mới không đồng chí?
A várakozásban elgyötört Pelikán összerezzen. Pelikan đang khốn khổ vì đợi giật mình.
- Én tudjam? - kérdi nekikeseredve. - Tôi thì làm sao mà biết được. - hắn chua chát nói.

Virág újra a gép alá igazítja a félig kész pantallót, gépel Đồng chí Virag lại lúi húi may tiếp chiếc quần đã gần
egy sort, elharapja a cérnát. Aztán feláll, futó pillantást xong. Cuối cùng ông ghé răng cắn chỉ rồi đứng dậy liếc
vet a vendégére, odamegy a próbababához, megsimítja nhìn khách. Ông bước tới hình nộm vuốt nhẹ cho phẳng
rajta a zakót, mély lélegzetet vesz, és ezt mondja: chiếc áo khoác trên đó, hít một hơi dài rồi nói:
- Az egyik szemem sír, a másik szemem nevet. - - Đúng là nửa khóc nửa cười. – Cái nhìn của ông giờ rất
Jelentőségteljesen néz. -Tudja, mire gondolok?! trọng đại. – Đồng chí biết là tôi đang nghĩ gì không?!
- Fogalmam sincs, mire tetszik gondolni - mondja - Tôi hoàn toàn không biết đồng chí nghĩ gì – Pelikan
Pelikán egyszerűen. thành thật trả lời.
- Az osztályharc élesedik, a nemzetközi helyzet egyre - Cuộc đấu tranh giai cấp ngày càng quyết liệt, tình hình
fokozódik, de mi nem alszunk. A belső árulók egy újabb thế giới hiện nay đang lên mạnh, nhưng ta luôn cảnh
bandájára csaptunk le: Dánielre és bandájára. giác. Một bè lũ phản động mới vừa bị vạch trần: Daniel
và đồng bọn.
- Milyen Dánielre? - kérdi Pelikán. - Daniel nào cơ ạ? – Pelikan hỏi.
- Dániel Zoltán volt miniszter - emeli fel a hangját Virág. - Daniel Zoltan cựu bộ trưởng - Đồng chí Virag cao
- Maga is ismeri. giọng. – anh cũng quen hắn.
- Hát persze hogy ismerem. Dániel Zoli bandája... Ez jó! - À, tất nhiên là tôi quen rồi. Bè lũ Daniel … hay quá! –
Pelikán úgy nevet, hogy a könnye kicsordul. Pelikan cười chảy cả nước mắt.

Virág elvtárs szeme szikrát hány. Đồng chí Virag mắt toé lửa:
- Mit nevet, maga szerencsétlen? - Anh cười cái gì? Tưởng hay lắm đấy hả?
Amaz már a combját is csapkodja. Hắn vừa ôm bụng cười vừa trả lời:
- Ezen az egészen! Hogy van ideje az elvtársaknak - Tôi cười vì đồng chí hài hước quá!
tréfára!
- Ez nem tréfa! - ripakodik rá Virág a röhögőre. - Dániel - Đây không phải là trò hài! - Đồng chí sẵng giọng gần
Zoltán áruló, kém és rendőrspicli. Elég nagy szégyen, như quát. – Daniel Zoltan là một kẻ phản bội, là gián
hogy mostanáig kijátszotta az éberségünket... điệp, là chỉ điểm. Mất cảnh giác cho tới tận bây giờ mới
phát hiện ra thật đáng hổ thẹn …
A röhögés elhal, a vendég a füle tövét vakarja. Pelikan hết cười gãi tai.
- Lehet, hagy én hülye vagyok, de nem hiszem el. Én - Tôi có thể là ngu thật, nhưng tôi không thể tin được
ismerem Dániel Zolit. chuyện này. Tôi biết rất rõ Daniel Zoli.
- Ismeri? Hát az mit számít? - bűvöli Virág, az arcához - Anh biết rõ lắm à? Biết cái quái gì. - Đồng chí nhìn
hajolva. - Még saját magát sem ismeri igazán! És ha én chằm chằm vào mặt hắn. – Ngay cả bản thân anh còn
azt mondom, hogy Dániel már mindent bevallott? chưa chắc đã biết! Nếu tôi bảo là Daniel đã khai hết tất
cả rồi thì anh nghĩ sao?
Ez meghökkentő. Câu này khiến hắn bàng hoàng.
- Bevallott?! Ő? Mindent bevallott? Ez lehetetlen. Ezt én - Khai hết tất cả ạ?! Anh ấy ạ? Khai hết cả ạ? Ồ không!
nem tudom felfogni. Điều này không thể tưởng tượng nổi. Tôi hoàn toàn
không thể hiểu nổi.
- Hát csak szokjon hozzá - egyenesedik föl szemközt vele - Ừ thì cứ dần dần tập hiểu đi là vừa. - Đồng chí Virag từ
Virág. Szinte szótagolva mondja: - Maga lesz a từ nhìn thẳng vào mắt hắn nói giằn từng tiếng một: -
koronatanú. Đồng chí sẽ là nhân chứng chính.
- Én? - szalad ki a vér Pelikán fejéből. - Mire, az istenért? - Tôi ấy à? - Hắn giãy nảy. – Làm chứng cái gì cơ chứ hả
trời?
- Amiről az előbb beszéltem. Ne, ne ijedjen meg. Szedje - Đồng chí làm chứng những điều tôi vừa nói. Đừng có
össze a gondolatait. Segítsen nekünk! sợ! Đồng chí cứ bình tĩnh nghĩ cho kỹ rồi giúp tổ chức!
- Nekem nincsenek gondolataim – dadogja Pelikán. - Én - Tôi chẳng có suy nghĩ gì cả. - Hắn lắp bắp. - Những
ilyesfajta dolgokban teljesen járatlan vagyok. chuyện này tôi ù ờ lắm.

Virág átfogja a vállát. Barátságosabb hangra vált. Đồng chí Virag ôm vai hắn chuyển sang giọng thân tình.
- No. Abból kell kiindulni, hogy Dániel kém, áruló és - Không sao. Nếu ta chọn xuất phát điểm là Daniel là kẻ
rendőrspicli. Ebből a nézőpontból sem talál semmi phản bội, là gián điệp, là chỉ điểm thì đồng chí vẫn không
gyanúsat a viselkedésében? thấy điều gì khả nghi ở hắn sao?
Pelikán erőlködve gondolkodik. Pelikan vò đầu bứt tai suy nghĩ.
- Ha megfeszítenek se! - mondja végül. Könyörögve néz: - Có chặt đầu thì tôi cũng chịu! - Hắn nói rồi van nài nhìn
- Nem lehetne mégis egy képzettebb elvtársat? sang: - Chả nhẽ không kiếm được đồng chí nào có trình
độ hơn tôi hay sao ạ?
- Szó sincs róla - keményszik meg újra Virág hangja. - - Không được. - Giọng đồng chí Virag trở lại nghiêm
Gondolkozzék csak: mi történt, mikor utoljára kint járt khắc. - Đồng chí nhớ lại xem là chuyện gì xảy ra khi hắn
magánál a Dunán ra chỗ đồng chí lần cuối ở sông Đu-na?
- Semmi kérem. - Thật là không có gì ạ.
- Valami csak történt?- csattan fel Virág. - Ít nhất cũng phải có gì xảy ra chứ? - Đồng chí Virag gợi
ý.
- Hát, ő horgátszott.. . - emlékszik hangosan Pelikán -, - Ờ, anh ấy ra câu cá…- Pelikan cao giọng suy nghĩ – sau
aztán ürgét öntöttünk kettesben, aztán ő beesett a vízbe, đó chúng tôi đổ chuột đồng với nhau, sau đó anh ấy ngã
aztán én kihúztam, aztán ő megesketett, hogy nehogy xuống nước, sau đó tôi kéo anh ấy lên bờ, sau đó anh ấy
elmondjam valakinek, hogy elszalasztott egy kapitális bắt tôi phải thề là không được lộ cho ai biết là anh ấy để
harcsát... xổng một con cá nheo lớn…
- Olyan biztos, hogy harcsa volt az? - szól közbe Virág - Có chắc là cá nheo không? - Đồng chí Virag nói chen
elvtárs metsző gúnnyal. vào giọng giễu cợt.

A gátőr elbizonytalanodik. Gã canh đê bối rối.


- Miért? Mi lehetett még? - Sao cơ ạ? Nếu không phải là cá nheo thì là cái gì ạ?
- Sok minden. - Ez sokat sejtet. - Na, folytassa csak... - Bất cứ cái gì. – Câu nói khiến ai cũng phải suy nghĩ. –
Nào thôi, cứ tiếp tục đi…
- Aztán mivel csuromvíz volt, száraz ruhát adtam neki, és - Sau đó tôi đưa quần áo khô để anh ấy thay vì anh ấy ướt
befektettem a vendégszobába... từ đầu đến chân. Sau đó tôi để anh ấy nằm trong buồng
khách…
- Elég - állítja meg Virág. - Nem talál semmi gyanúsat az - Khoan đã! - đồng chí Virag ngắt lời hắn. - Đồng chí
eddigi mozzanatokban? Csodálkozó két szempár néz không thấy có gì khả nghi trong những sự kiện vừa kể
vissza rá: sao? Hắn tròn mắt nhìn.
- Nem... - Không ạ…
Mire Virág diadalmasan kivágja: Lập tức đồng chí Virag đắc thắng tuyên bố:
- Erről van szó! A kémek sohasem dolgoznak úgy, hogy - Chính thế! Bọn gián điệp có bao giờ muốn để lộ ra các
gyanút keltsenek. Épp ellenkezőleg. De épp az bennük a hành tung mờ ám của chúng đâu. Thậm chí chúng giữ rất
gyanús, hogy nem gyanúsak. Érti már, Pelikán? kín. Chính vì thế nên chúng rất khả nghi ở chỗ chúng
hoàn toàn không khả nghi. Đồng chí đã hiểu chưa?

A másik óriási erőfeszítéssel próbálja követni ezt a Pelikan cố động não tìm cách nắm phương thức lập luận
gondolatmenetet. này.
- Nem értem. Azt tetszik mondani, hogy az a gyanús - Tôi không hiểu tại sao lại khả nghi ở chỗ hoàn toàn
benne, hogy nem gyanús. không khả nghi.
- Erről van szó - mondja mosolyogva Virág. - Chính thế - đồng chí Virag mỉm cười nói.
Pelikán agyában őrölnek a nehéz malomkerekek. Bộ máy trong đầu hắn đã hoạt động hết cỡ mà vẫn không
ăn thua gì.
- De hát én se vagyok gyanús, és mégse vagyok kém... - - Tôi cũng chẳng khả nghi, nhưng tôi có là gián điệp
mondja tétován. đâu…- hắn ngập ngừng nói.
- Honnan tudja? - csap le rá Virág. - Làm sao đồng chí biết được? - đồng chí Virag bồi cho
hắn một nhát.
Pelikán kétségbeesetten körülnéz. Pelikán hoảng hốt nhìn quanh.
- Lehetséges, hogy én kém vagyok? - Có thể tôi là gián điệp sao?
- Minden lehetséges - mondja Virág keményen. - - Bất kỳ điều gì đều có thể cả - đồng chí Virag nói không
Magából még sok minden lehet, Pelikán, ha nem áll khoan nhượng. - Người như anh có thể sẽ biến chất, nếu
keményen a lábán. như không trụ lại được trên cương vị của mình.
- Értem - mondja amaz elgondolkodva. Aztán elszántan - Tôi hiểu rồi – Pelikan trầm ngâm nói rồi đứng dậy. –
feláll. - De tessék engem kihagyni ebbó1, Virág elvtárs. Nhưng xin đồng chí đừng bắt tôi tham dự cái vụ này.
Farkasszemet néznek. Virág elvtárs bólint. Hai cặp mắt nhìn thẳng vào nhau hồi lâu. Cuối cùng
đồng chí Virag khẽ gật đầu.
- Kérem - mondja, és kimegy a szobából. - Được thôi - Đồng chí nói rồi bỏ ra ngoài.

Pelikán egyedül marad. Dermesztően egyedül. A Chỉ còn một mình Pelikan ở trong phòng, hoàn toàn cô
varrógépet nézi, a fej nélküli próbabábut, körös-körül a đơn rùng rợn. Hắn đưa mắt nhìn từ chiếc máy khâu, hình
sok könyvet. Leül a bőrfotelbe, összehúzza magát, vár. nộm thử quần áo, rồi đến sách để đầy trong phòng. Hắn
Egyszerre nyikorgást hall. Az egyik, padlótól plafonig ngồi xuống chiếc ghế bành bọc da thu lu đợi.
érő könyvespolc lassan elfordul. Mögüle a sötétből Rồi hắn nghe có tiếng cót két. Một giá sách cao đến tận
nesztelen léptekkel ismeretlen férfiak lépnek be a trần nhà từ từ quay sang một bên. Từ khoảng tối phía sau
szobába. mấy người đàn ông lạ mặt lướt vào.
Pelikán még jobban összehúzza magát a fotelban. A Pelikan co rúm mình lại trong chiếc ghế bành. Những
titokzatos férfiak nem vesznek róla tudornást, tesznek- người đàn ông bí ẩn không thèm để ý đến hắn mà chỉ
vesznek körülötte, az egyik éppen az orra előtt csattintja quanh quẩn trong phòng. Một người trong bọn bật lửa
fel az öngyújtóját és ad tüzet a kollégájának. châm thuốc lá cho bạn gần như sát mũi hắn.
Pelikán riadtan ül. Különben csend vain. Pelikan ngồi mà rợn hết cả người. Trong phòng hoàn
toàn im lặng.
Most Virág elvtárs lép be a szobába, a kezében tálca, Vừa lúc ấy, đồng chí Virag bưng một khay bánh ngọt
rajta egy csomó cukrászsütemény. Az arcán nyájas tươi tỉnh bước vào. Đồng chí để chiếc khay trước mặt
mosoly. Leteszi a tálcát Pelikán elé, és csak ennyit mond: Pelikan nói:
- Minyon. - És a fejét csóválva, rosszal1óan néz a - Bánh ngọt đây. - Rồi đồng chí quay sang những người
titokzatos férfiakra: - Mit molesztálják maguk Pelikán đàn ông bí ẩn lắc đầu giọng bất bình: - Các anh sao lại
elvtársat? Ő a barátunk. Igaz, Pelikán elvtárs? dám hù doạ đồng chí Pelikan thế hả? Đồng chí ấy là
người bạn tốt của chúng ta. Có phải không đồng chí
Pelikan?
A gátőr bólint. Tay canh đê gật đầu.
A férfiak eltűnnek a rejtekajtón, a könyvszekrény Đám đàn ông biến mất trong bóng tối, giá sách lại cót két
nyikorogva visszafordul a helyére. quay về chỗ cũ.
Virág kínálgatja az emberét. Đồng chí Virag mời khách.
- Vegyen már! - Ăn đi chứ!
És mivel az csak ül dermedten, kiválaszt néki egy Thấy hắn chỉ đờ người ngồi im, ông lấy một chiếc bánh
csokoládés tátracsúcsot. sô-cô-la đưa cho hắn.
- Egyelőre nem kérünk mást magától, mint hogy szedje - Trước mắt tổ chức chưa yêu cầu đồng chí gì khác, chỉ
össze a gondolatait. cần đồng chí sắp xếp lại những suy nghĩ của mình.

Pelikán feláll, tenyerében a csokoládés minyon. Pelikan tay cầm chiếc bánh ngọt đứng dậy.
- Össze fogom szedni, Virág elvtárs. De hadd menjek - Thưa đồng chí, tôi sẽ sắp xếp. Nhưng hãy để tôi quay
vissza a gátra. Minden pillanatban jöhet az árhullám. lại đê, vì cơn lũ có thể đến bất kỳ lúc nào.
- Menjen csak vissza - nyitja ki előtte az ajtót Virág. - És - Đồng chí cứ đi. – Ông mở cửa cho hắn. - Đừng sợ gì cả.
ne féljen semmitől. Mi maga mögött állunk. És el ne Tổ chức luôn đứng cạnh đồng chí. Và đừng quên một
felejtse: aki mibennünk nem bízik, az önmagában sem điều: ai không tin tưởng ở tổ chức, người đó không tin
bízik, és aki a mi fényes jövőnkben nem bízik, az áruló. vào chính bản thân mình, và người nào không tin tưởng
vào tương lai huy hoàng của chúng ta, đó là kẻ phản bội.

- Köszönöm szépen - mondja Pelikán megrendülve, és a - Rất cảm ơn đồng chí – Pelikan bàng hoàng lắp bắp. Tay
minyonnal a kezében kitámolyog az ajtón. cầm chiếc bánh ngọt hắn ngật ngưỡng bước ra cửa.

... ...

You might also like