Professional Documents
Culture Documents
Mục lục (Wikipedia) kết thúc khi Trung Quốc hoàn thành rút quân vào
ngày 18 tháng 3 năm 1979, sau khi chiếm được
1 Tên gọi các thị xã Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng, và một số
2 Bối cảnh thị trấn vùng biên. Mục tiêu của Trung Quốc buộc
2.1 Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc
Việt Nam rút quân khỏi Campuchia không thành,
2.2 Xung đột khu vực
3 Mục đích và mục tiêu của Trung Quốc nhưng cuộc chiến để lại hậu quả lâu dài đối với
4 Tương quan lực lượng tham chiến nền kinh tế Việt Nam và quan hệ căng thẳng giữa
5 Diễn biến hai nước. Xung đột vũ trang tại biên giới còn tiếp
5.1 Chuẩn bị diễn thêm 10 năm. Hơn 13 năm sau, quan hệ ngoại
5.2 Giai đoạn 1 giao Việt-Trung chính thức được bình thường
5.3 Giai đoạn 2 hóa.Mục lục [ẩn]
5.4 Rút quân
6 Chiến dịch dân vận của Trung Quốc 1/ TÊN GỌI:
7 Phản ứng quốc tế
8 Kết quả cuộc chiến Cuộc chiến được phía Việt Nam gọi là Chiến tranh
8.1 Thương vong và thiệt hại
8.2 Đánh giá biên giới phía Bắc, 1979. Phía Trung Quốc gọi là
8.3 Hậu chiến Chiến tranh đánh trả tự vệ trước Việt Nam
9 Phản ánh trong văn nghệ (环越自环环环环 Đối Việt tự vệ hoàn kích chiến)
9.1 Việt Nam (trên nghĩa rộng là chỉ xung đột biên giới Việt-Trung
9.2 Trung Quốc trong gần mười năm từ năm 1979 đến năm 1989),
9.2.1 Trung Quốc đại lục
dân gian quen gọi là Chiến tranh phản kích tự vệ
9.2.2 Hồng Kông
10 Chú thích trước Việt Nam (环越自环反环环, Đối Việt tự vệ
11 Tham khảo phản kích chiến)[4].
12 Liên kết ngoài
------------------------------------- Nhiều nhà nghiên cứu coi cuộc chiến này là một
phần của Chiến tranh Đông Dương lần 3[5]
Chiến tranh biên giới Việt - Trung, 1979 là một
cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Trung Quốc 2/ BỐI CẢNH
và Việt Nam, nổ ra vào vào ngày 17 tháng 2 năm
2.1/ Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc
1979 khi Trung Quốc đem quân tấn công Việt Nam
trên toàn tuyến biên giới giữa hai nước. Chiến
Tuy được sự giúp đỡ rất lớn của Trung Quốc trong
tranh biên giới Việt - Trung xuất phát từ quan hệ
chiến tranh Đông Dương và Chiến tranh Việt Nam,
căng thẳng kéo dài giữa hai quốc gia và ý đồ "dạy
các rạn nứt trong quan hệ ngoại giao giữa Việt
cho Việt Nam một bài học" của Đặng Tiểu Bình,
Nam Dân chủ Cộng hoà và Trung Quốc đã bắt đầu
kéo dài trong chừng một tháng với thiệt hại nặng thể hiện từ năm 1968. Hà Nội nhất định cùng lúc
nề về người và tài sản cho cả hai phía. Cuộc chiến
Page 1 of 16
giữ mối quan hệ nồng ấm với cả Moskva lẫn Bắc không thành nhằm xoa dịu căng thẳng với Trung
Kinh trong khi mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc và Campuchia[11], Việt Nam tin rằng Trung
Quốc đã lên cao. Bất đồng quan điểm giữa Hà Nội Quốc đang sử dụng Campuchia để tấn công Việt
và Bắc Kinh về cách tiến hành cuộc chiến tại miền Nam.[10]
Nam Việt Nam trở nên rõ rệt. Bắc Kinh muốn lực
lượng cộng sản tiếp tục chiến tranh du kích có giới Từ năm 1973, Liên Hiệp Quốc bắt đầu thảo luận về
hạn chống Mỹ, trong khi Hà Nội muốn chiến tranh vấn đề chủ quyền của các quốc gia đối với vùng
quy mô truyền thống. Sau sự kiện Tết Mậu Thân, đặc quyền kinh tế trên biển. Chính phủ Việt Nam
Hà Nội bắt đầu đàm phán với Mỹ, trong khi đó Bắc Dân chủ Cộng hòa quyết định tuyên bố chủ quyền
Kinh phản đối.[6] với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa dựa
theo hiệp ước Pháp-Thanh kí kết năm 1887. Về
Năm 1972, chuyến thăm của tổng thống Mỹ Nixon phía Trung Quốc, với cuộc khủng hoảng dầu lửa
tới Bắc Kinh và thỏa thuận giữa Mỹ và Trung Quốc những năm 1970 nước này đã tìm kiếm các nguồn
được Việt Nam Dân chủ Cộng hoà xem là một sự khai thác dầu mỏ trên biển Đông sát với Việt Nam,
phản bội.[7] Năm 1975, trong chuyến thăm Bắc một hành động mà theo Việt Nam là chiến lược
Kinh, Lê Duẩn thẳng thừng từ chối đưa Việt Nam bao vây đất nước họ.[12] Tranh chấp giữa hai
Dân chủ Cộng hoà vào liên minh chống Liên Xô nước về hai quần đảo này đã bắt đầu ngay từ năm
của Trung Quốc, phủ nhận quan niệm của Trung 1975 sau khi Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với
Quốc rằng chủ nghĩa bành trướng của Liên Xô là hai quần đảo này. [13]
mối đe dọa đối với các nước cộng sản châu Á. Ông
rời Trung Quốc mà không tổ chức tiệc đáp lễ theo
truyền thống, cũng không ký thỏa thuận chung.
Cũng trong chuyến thăm này, Trung Quốc thông
báo rằng sẽ không giữ mức viện trợ như đã hứa
năm 1973.[8] Bắc Kinh bắt đầu nói về một Việt
Nam "hắc tâm", "vô ơn", "ngạo ngược".[7] Viện trợ
của Trung Quốc sau đó giảm mạnh và đến năm
1978 thì cắt toàn bộ. Điều kiện đầu tiên Trung
Quốc đặt ra cho Việt Nam để nối lại viện trợ là phải
từ chối tất cả các khoản viện trợ của Liên Xô.[9]
Với lý do cần kinh phí để hỗ trợ Hoa kiều hồi Về phía Liên Xô, nguy cơ bị cô lập về ngoại giao
hương, tháng 5 năm 1978, lần đầu tiên Trung Quốc sau khi quan hệ Trung Quốc - Hoa Kỳ trở nên nồng
tuyên bố cắt một phần viện trợ không hoàn lại đã ấm khiến Moskva buộc phải tìm cách tăng cường
ký cho Việt Nam và rút bớt chuyên gia về nước[23]. quan hệ đối với Việt Nam. Viện trợ kinh tế của Liên
Tháng 7, Trung Quốc tuyên bố cắt hết viện trợ và Xô cho Việt Nam tăng đều từ năm 1975 đến 1979
rút hết chuyên gia đang làm việc tại Việt Nam về từ 450 triệu USD lên 1,1 tỷ USD, viện trợ quân sự
nước[23]. Tháng 11 năm 1978 Việt Nam ký "hiệp cũng tăng mạnh do sự kiện xung đột Việt Nam
ước hữu nghị và hợp tác" với Liên Xô. Ngày 22 Campuchia (từ 125 triệu USD năm 1977 lên 600
tháng 12 năm 1978, Trung Quốc ngừng tuyến xe triệu năm 1978 và 890 triệu năm 1979).[27]
lửa liên vận tới Việt Nam. Đầu tháng 1 năm 1979,
đường bay Bắc Kinh - Hà Nội cũng bị cắt[23].
Trong khi đó, Đặng Tiểu Bình nổi lên trở thành
người lãnh đạo quyền lực nhất Trung Quốc. Đặng
Page 3 of 16
3/ MỤC ĐÍCH & MỤC TIÊU CỦA TRUNG và Lào Cai. Vùng chiếm đóng dự kiến với
QUỐC: bề sâu chừng vài chục km sẽ được Trung
Quốc sử dụng làm bàn đạp cho các cuộc
Tuyên bố chiến tranh của Bắc Kinh nói rằng đây là tấn công vào sâu nội địa Việt Nam.
cuộc chiến để quân Trung Quốc "phản công" chống Tiêu hao lực lượng chủ lực và làm suy yếu
lại các khiêu khích của Việt Nam. Phát ngôn viên khả năng phòng ngự phía Việt Nam bằng
của Tân Hoa xã nói: "Các lực lượng biên phòng việc quét sạch các đồn biên phòng, tiêu
Trung Quốc đã hành động khi tình hình trở nên diệt một phần lực lượng quân địa phương
không thể chấp nhận được và không còn lựa chọn và các đơn vị quân độc lập khác của Việt
nào khác. Chúng tôi không muốn một tấc đất nào Nam.
của Việt Nam. Cái chúng tôi muốn là một đường Hủy diệt cơ sở hạ tầng và nền kinh tế ở
biên giới ổn định và hòa bình. Sau khi đánh trả các các vùng chiếm đóng để đưa nền kinh tế
thế lực hiếu chiến đủ mức cần thiết, các lực lượng Việt Nam tới chỗ sụp đổ.
biên phòng của chúng tôi sẽ quay lại bảo vệ chặt
chẽ biên giới của tổ quốc."[18] 4/ TƯƠNG QUAN LỰC LƯỢNG THAM
CHIẾN
Nhiều nhà sử học phương Tây cho rằng cuộc chiến
có những mục đích không rõ ràng, trong đó dễ thấy
nhất là mục đích trừng phạt Việt Nam vì đã lật đổ
chế độ Khmer Đỏ tại Campuchia - một đồng minh
của Trung Quốc và là một trong những chế độ tàn
bạo nhất của thế kỉ 20. Về sau, một số nhà sử học
suy đoán rằng cuộc chiến có vẻ là một phần trong
kế hoạch hiện đại hóa quân đội của Đặng Tiểu
Bình khi nó thể hiện rõ các khiếm khuyết của Quân
giải phóng nhân dân Trung Quốc. Những người
khác cho rằng Đặng Tiểu Bình gây ra chiến tranh
để giữ cho quân đội bận rộn trong khi ông củng cố
quyền lực và loại bỏ các đối thủ cánh tả từ thời
Mao Trạch Đông.[28] (Dân binh Trung Quốc trong các đội tải thương. Ước tính
có khoảng 4000 lính Trung Quốc tử trận chỉ trong 2 ngày
Theo Carl Thayer, trong mắt Trung Quốc, Hà Nội đầu của cuộc chiến.)
đã vô ơn với Bắc Kinh: sau khi được giúp đỡ trong
Để tấn công Việt Nam, Trung Quốc sử dụng 9 quân
cuộc chiến chống Mỹ thì quay sang bạc đãi cộng
đoàn chủ lực và một số sư đoàn bộ binh độc lập
đồng người Hoa, quan hệ nồng ấm với Liên Xô mà
(tổng cộng 32 sư đoàn), 6 trung đoàn xe tăng, 4 sư
khi đó Trung Quốc coi là kẻ thù, rồi lại tấn công
đoàn và nhiều trung đoàn pháo binh, phòng không.
quân sự lật đổ đồng minh Khmer Đỏ của Bắc Kinh.
Lực lượng được huy động khoảng trên 30 vạn binh
Trung Quốc muốn "dạy cho Việt Nam một bài học"
sĩ, 550 xe tăng, 480 khẩu pháo, 1.260 súng cối[32]
vì đã thách thức uy quyền và ảnh hưởng của Trung
và dàn hỏa tiễn, chưa kể hơn 200 tàu chiến của
Quốc tại vùng Đông Dương. Bên cạnh việc xâm lấn
hạm đội Nam Hải và 1.700 máy bay sẵn sàng phía
Việt Nam để "bình định vùng biên giới" sau nhiều
sau. Tướng Hứa Thế Hữu, tư lệnh Đại Quân khu
năm căng thẳng với các xung đột ngày càng nhiều,
Quảng Châu chỉ huy hướng tiến công vào đông
Trung Quốc phải hành động để chứng tỏ uy tín của
bắc Việt Nam với trọng điểm là Lạng Sơn và Cao
mình trong việc bảo vệ đồng minh Khmer Đỏ.[29]
Bằng. Tướng Dương Đắc Chí, tư lệnh Đại Quân
Đối với Việt Nam, cuộc chiến là một phần trong kế khu Côn Minh đảm nhiệm hướng tây bắc với trọng
hoạch bành trướng về phía Nam của Trung điểm là Hoàng Liên Sơn (nay là Lào Cai). Đây là
Quốc.[30]. Theo phân tích của phía Việt Nam, mục đợt huy động quân sự lớn nhất của Trung Quốc kể
tiêu chính của Trung Quốc trong hành động quân từ Chiến tranh Triều Tiên. Ngoài lực lượng quân
sự lần này gồm:[31] chính qui, Trung Quốc còn huy động hàng chục
vạn dân công và lực lượng dân binh ở các tỉnh biên
Nhanh chóng chiếm đóng vùng biên giới giới để tải đồ tiếp tế, phục vụ, tải thương, hỗ trợ
Việt-Trung, đặc biệt là các thị xã trọng yếu quân chính qui phục vụ cho chiến dịch.[33], chỉ
gồm Lạng Sơn (chốt chặn nối Quốc lộ 1A riêng tại Quảng Tây đã có đến 215.000 dân công
của Việt Nam với Trung Quốc), Cao Bằng được huy động[1]. Về phân phối lực lượng của
Page 4 of 16
Trung Quốc: hướng Lạng ng Sơn có quân đoàn 43, tình báo, đe dọa quân Việtt Nam, và đánh llạc
54, 55; hướng Cao Bằngng có quân đoàn 41, 42, 50; hướng khỏi mục tiêu chính ính ccủa chiến dịch sắp tới.
ng Hoàng Liên Sơn có quân đoàn 13, 14;
hướng Các cuộc tấn công nhỏ này tăng d dần về quy mô và
ng Lai Châu có quân đoàn 11; hướng
hướng hư Quảng tần số khi lực lượng
ng Trung Qu Quốc tập trung tại biên
Ninh, Hà Tuyên (nay là Hà Giang) mỗỗi nơi cũng có giớii ngày càng đông. Không có tài liliệu gì về các
từ 1-2 sư đoàn. cuộc tấn công thăm dò của a quân Vi
Việt Nam.[35]
Dấu hiệu đầu tiên của chiế ến tranh là việc Trung
Về phía Việt Nam, do phần lớn n các quân đoàn Quốc cắt đứt tuyến đường ng ssắt Hữu Nghị nối liền
chính quy (3 trong số 4 quân đoàn) đang chiếnchi đấu hai nướcc vào ngày 22 tháng 12 năm 1978.[36] Đ Đến
ở Campuchia nên phòng thủ ở biên giới gi với Trung cuốii tháng 1 năm 1979, khokhoảng 17 sư đoàn chính
Quốc chỉ có một số sư đoàn chủ lựcc quân khu (chủ (ch quy Trung Quốc (khoảng ng 225.000 quân), đ đã tập
a Quân khu I và II cùng các đơn
yếu là tân binh) của trung gần biên giới với Việ ệt Nam. Hơn 700 máy bay
vị bộ đội địa phương tỉnh, huyện,
n, công an vũ v trang chiến đấu u và máy bay ném bom - 1/5 lực lượng
(biên phòng) và dân quân tự vệ. Lựcc lượng
lư tinh không quân Trung Quốc - đã được đưa đến các
nhuệ nhất của phía Việt Nam đóng ở biên giới Việt- sân bay gần biên giới.i. [37] Các đ động thái leo thang
Trung là Sư đoàn 3 (đóng tại Lạngng Sơn) và sư này của Trung Quốc đã đư được phía Việt Nam đề
đoàn 316A (đóng tạii Sa Pa), ngoài ra còn có các cập tại cuộc họp của Hộii đ đồng Bảo an Liên Hiệp
sư đoàn 346 ở Cao Bằng, 325B ở QuảngQu Ninh, Quốcc ngày 11 tháng 2 năm 1979. 1979.[26]
345 ở Lào Cai, 326 ở Phong Thổ,, Lai Châu. Lực L
ng 70.000 quân, sau được
lượng biên giới có khoảng đư Ngày 7 tháng 2, Bắcc Kinh báo trưtrước về một chiến
hai sư đoàn (327 và 337) từ tuyến n sau lên Lạng
L dịch tấn công Việt Nam vớ ới thông cáo chính thức
Sơn tiếp viện.[34] Lực lượng độc lập p gồm
g các trung của chính phủ Cộngng hòa Nhân dân Trung Hoa
đoàn 141, 147, 148, 197, trung đoàn pháo binh 68, phản đối việc quân đội Việệt Nam tiến vào lãnh thổ
các trung đoàn quân địaa phương 95, 121, 192, 254 Campuchia và đề nghị tấtt ccả các quốc gia yêu hòa
và 741.[31] Quân đoàn 1 vẫn n đóng quanh Hà Nội N bình "dùng mọi biệnn pháp có ththể để chấm dứt cuộc
đề phòng Trung Quốc đổi ý tiến n sâu vào trung xâm lượcc dã man này".[38] V Về mặt ngoại giao, sau
châu. Ngày 27 tháng 2, Quân đoàn 2 là chủ ch lực của khi bình thường
ng hóa quan hhệ với Hoa Kỳ từ tháng
Bộ quốc phòng được lệnh cơ động về ề để bảo vệ 12 năm 1978, trong chuyế ến thăm Washington từ 28
miền Bắc, đến ngày 5 tháng 3 bắt đầu u triển
tri khai đến 30 tháng 1, Đặng Tiểu u Bình nhnhận được sự ủng
trên hướng Lạng Sơn nhưng rốt cụcc không tham hộ cần thiết của đồng
ng minh mmới Hoa Kỳ trong kế
gia. hoạch tấn công Việtt Nam, tuy nhiên ttổng thống
Jimmy Carter cũng cảnh nh báo ĐĐặng rằng vụ tấn
5/ DIỄN BIẾN công của Trung Quốc, nếu u xxảy ra, sẽ không thể
nhận được sự ủng hộ về m mặt ngoại giao hoặc quân
sự quốc tế.[39][40]
5.1/ Chuẩn bị
Page 8 of 16
dân chúng và cán bộ Trung Quốc tại vùng biên, Quốc cũng không đạt được kết quả mong đợi. Khi
khiến họ có thể huy động hàng chục vạn dân công quân Trung Quốc từ quân khu Vân Nam rút về
tham gia các hoạt động bảo đảm an ninh và tiếp tế nước, tất cả những điệp viên và quân du kích
cho quân đội. người thiểu số mà họ gây dựng được khi chiếm
đóng các khu vực biên giới trong thời gian chiến
Đối với dân thường Việt Nam, Trung Quốc bỏ ra dịch đều bị lực lượng an ninh Việt Nam bắt giữ và
nhiều công sức tuyên truyền lôi kéo người dân xử tử.[64]
vùng biên, đặc biệt là với các dân tộc thiểu số sống
vắt qua biên giới hai nước như Tày, Nùng (ở Trung Chiến tranh tâm lý của Trung Quốc với các lực
Quốc gọi là dân tộc Choang), Dao, Hmong và các lượng phòng thủ của Việt Nam cũng thất bại. Trong
nhóm người thiểu số gốc Hoa. Kết quả là trong suốt cuộc chiến, hiếm có đơn vị nào của Việt Nam
ngày đầu của cuộc chiến, có nơi, quân Trung Quốc không đánh trả quyết liệt quân Trung Quốc. Quân
đã được dẫn vòng qua đồn biên phòng tiến sâu Trung Quốc cuối cùng cũng hiểu rằng ngoài việc
vào đất Việt Nam mà không bị phát hiện. Phục vụ sử dụng sức mạnh quân sự, họ không có hy vọng
công tác dân vận tại các khu vực chiến sự, Trung giành thắng lợi trong chiến tranh tuyên truyền chính
Quốc còn thành lập các đơn vị đặc biệt mà nhiệm trị[65].
vụ chủ yếu là tổ chức cũng như kiểm tra hoạt động
của các đội vận động quần chúng trong tất cả các 7. PHẢN ỨNG QUỐC TẾ
đơn vị quân. Theo đó, quân Trung Quốc tiến sang
Việt Nam phải giảm tối thiểu những hành động gây
xáo trộn, phiền hà đến dân chúng, tôn trọng phong
tục tập quán, tài sản, cung cấp gạo, muối, dầu
thắp, thuốc chữa bệnh... cho dân cư bản địa. Chính
sách này được một số đơn vị Trung Quốc ở vùng
Lào Cai thực hiện[58]
Page 12 of 16
9/ PHẢN ÁNH TRONG VĂN NGHỆ Tân binh Mã Cường [新兵环环 Tân binh
Mã Cường] (Phim truyện)
9.1/ Việt Nam Nhành hoa đẹp [花枝俏 Hoa chi tiếu]]
Chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979 đã được (Phim truyện)
nhắc tới trong hai bộ phim Đất mẹ (1980) của đạo Hàng động chớp nhoáng [环环行环 Thiểm
diễn Hải Ninh và Thị xã trong tầm tay (1982) của điện hành động] (Phim truyện)
đạo diễn Đặng Nhật Minh.[99][100][101] Với câu Trận chiến ở núi Trường Bài [环排山之环
chuyện về chuyến đi của một phóng viên lên Lạng Trường Bái sơn để chiến] (Phim truyện)
Sơn tìm người yêu trong thời gian chiến tranh biên Cây tương tư ở bãi mìn [雷环相思环 Lôi
giới nổ ra, Thị xã trong tầm tay - tác phẩm đầu tay trường tương tư thụ] (Phim truyện)
của đạo diễn Đặng Nhật Minh đã giành giải Bông Tiểu thuyết Ma chiến hữu (1992) của Mạc
sen vàng tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 6, và Ngôn. Tác phẩm có "cách nhìn khác về chủ
nằm trong cụm tác phẩm của ông được trao Giải nghĩa anh hùng" và nói đến "những điều
thưởng Hồ Chí Minh đợt III năm 2005.[101][102] ngớ ngẩn và phi lý" của cuộc chiến.[105]
Năm 1982, một bộ phim tài liệu với tựa đề Hoa đưa
hương nơi đất anh nằm do Trường Thanh thực 9.2.2/ Hồng Kông
hiện để nói về một nhà báo người Nhật chết trong
thời gian đưa tin chiến tranh biên giới, bộ phim này Phim Câu chuyện của Hồ Việt [胡越的故事
sau đó đã được đánh giá cao ở Nhật Bản.[103] Hồ Việt để cố sự] (Châu Nhuận Phát vào
Trong thời gian chiến tranh biên giới nổ ra và vai nạn dân Việt Nam Hồ Việt, Chung Sở
những năm sau đó, hàng loạt bài hát Việt Nam về Hồng vào vai nạn dân Việt Nam Thẩm
đề tài chiến tranh và bảo vệ tổ quốc cũng ra đời Thanh Đẳng.
như Chiến đấu vì độc lập tự do của nhạc sĩ Phạm Phim Đồng chí thương dân (环人同志 Ái
Tuyên, Lời tạm biệt lúc lên đường của nhạc sĩ Vũ dân đồng chí) (Lưu Đức Hoa vào vai phóng
Trọng Hối, Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận của nhạc viên Hương Cảng, Chung Sở Hồng vào vai
sĩ Hồng Đăng, Những đôi mắt mang hình viên đạn phiên dịch viên Việt Nam, Thành Khuê An
của nhạc sĩ Trần Tiến và Hát về anh của nhạc sĩ vào vai chiến sỹ Quân Giải phóng Nhân
Thế Hiển.[95]. Về văn học có tiểu thuyết Đêm dân Trung Quốc bị Việt Nam bắt làm tù
tháng Hai (1979) của Chu Lai và Chân dung người binh)
hàng xóm (1979) của Dương Thu Hương. Ca khúc Đó là yêu (环是环 Giá thị ái)
(nguyên tác của Teddy Robin, Hạ Âm
Thanh, Trương Quốc Vinh vân vân dịch lời.
Page 14 of 16
50. ^ a b c d e Lịch sử Sư đoàn 3 Sao vàng, 81. ^ King C. Chen, tr. 116
Chương 7, Mục 4: Trước cửa ngõ thị xã 82. ^ Cuối tháng 12 năm 1978, Thứ trưởng Bộ
Lạng Sơn. Quốc phòng Trung Quốc Túc Dụ (粟裕)
51. ^ a b c King C. Chen, tr. 110 báo cáo tại Kì họp thứ 3 của Đảng Cộng
52. ^ Laurent Cesari, tr. 266 sản Trung Quốc rằng chỉ cần dùng một
53. ^ a b c d King C. Chen, tr. 111 phần lực lượng của các quân khu Quảng
54. ^ a b Huy Đức (9 tháng 2 năm 2009). Biên Châu và Côn Minh là đủ để đánh chiếm Hà
Giới Tháng Hai (2009-1979), 6, Báo Sài Nội trong vòng 1 tuần. Trong thực tế, quân
Gòn Tiếp Thị. Trung Quốc đã cần 16 ngày với 10 sư
55. ^ Edward O'dowd, trang 65 đoàn từ 6 quân khu (lực lượng bằng tổng
56. ^ a b Nayan Chanda, trang 93 hai quân khu Quảng Châu và Côn Minh) để
57. ^ Edward C. O’Dowd, trang 134 đánh chiếm thị xã Lạng Sơn cách Hà Nội
58. ^ Edward C. O’Dowd, trang 134-135, 137: 85 dặm. Nguồn: Chen, tr. 114
Theo tài liệu của Trung Quốc: đơn vị 56041 83. ^ Edward C. O'Dowd (2007). Chinese
(một trung đoàn bộ binh của Sư đoàn 149, Military Strategy in the Third Indochina
Quân đoàn 13, Quân khu Thành Đô) tại War: The Last Maoist War, Routledge., tr.
Lào Cai và đơn vị 33762 (một trung đoàn 46
thuộc quân khu Vũ Hán) đã thực hiện tốt 84. ^ Laurent Cesari, tr. 266
chính sách dân vận. 85. ^ Gilles Férier, tr. 149
59. ^ a b Nayan Chanda, trang 358 86. ^ Nayan Chanda (16 tháng 3 năm 1979).
60. ^ Edward C. O’Dowd, trang 137 End of the Battle but Not of the War, 10,
61. ^ a b Edward C. O’Dowd, trang 138 Far Eastern Economic Review.. Chanda
62. ^ Edward C. O’Dowd, trang 140-141 trích lời quan chức Trung Quốc tuyên bố
63. ^ Edward C. O’Dowd, trang 141-142 rút lui ngày 5 tháng 3 năm 1979
64. ^ Edward C. O’Dowd, trang 69 87. ^ O’Dowd, trang 91
65. ^ Edward C. O’Dowd, trang 142 88. ^ Nayan Chanda (16 tháng 3 năm 1979).
66. ^ Nayan Chanda, tr. 359 End of the Battle but Not of the War, 10,
67. ^ Laurent Cesari, tr. 266 Far Eastern Economic Review.. trang 10.
68. ^ a b King C. Chen, tr. 112 Khu vực có giá trị tượng trưng tinh thần
69. ^ a b c d King C. Chen, tr. 113 nhất là khoảng 300m đường xe lửa giữa
70. ^ Gilles Férier, tr. 148 Hữu Nghị Quan và trạm kiểm soát biên giới
71. ^ Theo "Lịch sử pháo binh Quân đội Nhân Việt Nam.
dân Việt Nam" - Tập 2, NXB Quân đội 89. ^ François Joyaux, tr. 242
Nhân dân, 1999, khoảng 19% số pháo Việt 90. ^ Associated Press. “AROUND THE
Nam tham chiến bị quân Trung Quốc NATION; China Reports Repelling
chiếm Vietnamese 'Invaders'”. New York Times.
72. ^ Russell D. Howard (tháng 9 năm 1999). 91. ^ Carlyle A. Thayer, tr. 6–7.
“THE CHINESE PEOPLE’S LIBERATION 92. ^ O’Dowd, trang 100
ARMY: "SHORT ARMS AND SLOW 93. ^ Terry McCarthy, “PINGXIANG: Border
LEGS"”. Học Viện An ninh Quốc gia Hoa War, 1979. A Nervous China Invades
Kỳ, Học viện Quân sự Hoa Kỳ ở Colorado. Vietnam”, 09/27/1999.
Truy cập 24 tháng 2 năm 2009. 94. ^ Trong khi Trung Quốc công khai đòi Việt
73. ^ a b (1989) Pierre Gentelle l'Etat de la Nam rút quân khỏi Campuchia, tháng 12
Chine, 411, Paris: Editions la décoverte. năm 1979, Đặng Tiểu Bình đã nói với Thủ
ISBN 2-7071-1877-X. tướng Nhật Bản Masayoshi Ohira rằng
74. ^ Edward O'Dowd, tr. 45. "Trung Quốc nên giữ chân Việt Nam ở
75. ^ Edward C. O’Dowd, trang 103 Campuchia vì như vậy họ sẽ phải chịu
76. ^ Gilles Férier, tr. 148 đựng khổ sở ngày càng nhiều và sẽ không
77. ^ Laurent Cesari, tr. 266 thể với tay tới Thái Lan, Malaysia, và
78. ^ Marie-Claire Bergère (2000). La Chine de Singapore. Đó là hành động khôn ngoan."
1949 à nos jours, 244, Paris: Armand Nayan Chanda, tr. 379.
Colin. ISBN 2-200-25123-8. 95. ^ a b Đoan Trang, “Những bài ca biên giới
79. ^ a b King C. Chen, tr. 114 không thể nào quên”, Tuần ViệtNamNet,
80. ^ a b King C. Chen, tr. 115
Page 15 of 16
16 tháng 2 năm 2009. Truy cập 16 tháng 2 King C. Chen (1987). China's War with
năm 2009. Vietnam, 1979: Issues, Decisions, and
96. ^ Nga Pham, “Vietnam tense as China war Implications, Hoover Press. ISBN
is marked”, BBC News, 16 tháng 2 năm 0817985727.
2009. Truy cập 17 tháng 2 năm 2009. Grant Evans, Kelvin Rowley (1984). Red
97. ^ “Foreign Ministry Spokesperson Jiang Brotherhood at War - Indochina since the
Yu's Regular Press Conference on Fall of Saigon, London: Verso. ISBN
February 17, 2009”. Bộ Ngoại giao Trung 0860910903.
Quốc (18 tháng 2 năm 2009). Truy cập 21 Bruce Elleman (20 tháng 4 năm 1996).
tháng 2 năm 2009. “Sino-Soviet Relations and the February
98. ^ Tạp chí Cộng sản Hoàn thành công tác 1979 Sino-Vietnamese Conflict”. 1996
phân giới cắm mốc biên giới đất liền Việt Vietnam Symposium - Vietnam Center and
Nam và Trung Quốc(Cập nhật: 27/2/2009) Archive, Texas Tech University. Truy cập
99. ^ Nam Nguyễn (24 tháng 12 năm 2005). 16 tháng 2 năm 2007.
“Cha - con và chiến tranh”. Tạp chí Tia Nguyen Huu Thuy (1979). Chinese
sáng. Truy cập 21 tháng 2 năm 2009. Aggression : How and Why it failed, NXB
100. ^ “Dũng "6 trong 1": Ai xin đồ cổ tôi Ngoại ngữ.
cho”. VTC (25 tháng 4 năm 2006). Truy Edward C. O'dowd (2007). Chinese Military
cập 21 tháng 2 năm 2009. Strategy in the Third Indochina War,
101. ^ a b Ngọc Trần. “Đặng Nhật Minh Routledge. ISBN 9780415414272.
vui buồn với bình chọn của CNN”. Carlyle A. Thayer, Security Issues in
VnExpress. Truy cập 21 tháng 2 năm 2009. Southeast Asia: The Third Indochina War,
102. ^ “NSND Đặng Nhật Minh giản dị Conference on Security and Arms Control
mà bí ẩn”. VnExpress (7 tháng 1 năm in the North Pacific, Australian National
2006). Truy cập 21 tháng 2 năm 2009. University, Canberra, August 1987.
103. ^ Nguyễn Duy Chiến (23 tháng 6 Odd Arne Westad (2006). The Third
năm 2008). “Thăm một nhà văn vừa... mãn Indochina War conflict between China,
hạn tù treo”. Tiền Phong Online. Truy cập Vietnam and Cambodia, 1972-79 '', London
21 tháng 2 năm 2009. ; New York : Routledge. ISBN
104. ^ “Bloodstained Glory sung by 9780415390583.
Helena Hung”. Ân xá Quốc tế tại Anh. Truy
Tiếng Pháp
cập 23 tháng 2 năm 2009.
Bùi Xuân Quang (2000). La troisième
105. ^ Mạc Ngôn (2008). Ma Chiến hữu,
guerre d'Indochine, 1975-1999 sécurité et
200, Phương Nam/NXB Văn học.
géopolitique en Asie, Harmattan. ISBN
11/ THAM KHẢO 2738491847.
Laurent Cesari (1995). L'Indochine en
Tiếng Việt guerres 1945-1993, Paris: Belin. ISBN 2-
7011-1405-5.
Nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân (1980), Gilles Férier (1993). Les trois guerres
Lịch sử Sư đoàn 3 Sao vàng d'Indochine, Lyon: Presse universitaire de
Lyon. ISBN 2-7297-0483-3.
Tiếng Anh
François Joyaux (1994). La Tentation
Colonel G.D. Bakshi (Tháng 11, 12 năm impériale - Politique extérieure de la Chine
2000). The Sino-Vietnam War-1979: Case depuis 1949, Paris: Imprimerie nationale.
Studies in Limited Wars, Bharat Rakshak ISBN 2-11-081331-8.
Monitor.
Nayan Chanda (1986). Brother Enemy.
The War after the War.'', Harcourt Brace
Jovanovich. ISBN 0-15-114420-6.
Page 16 of 16