You are on page 1of 2

Tôi nghiên cứu Dịch , đọc tất cả những sách nói về Dịch ( sách tiếng Việt thôi chứ

tiếng Tàu thì tôi thua) lặng lẽ nghiên cứu và không có người bạn nào trao
đổi hay tranh luận về Dịch. Thế nhưng để luận 1 quẻ Dịch thì vô cùng bối rối, có lúc tôi bỏ qua 1 thời gian dài, rồi cầm lên đọc lại. Tôi thấy Trung Cung của
Lạc Thư mang số 5 mà không có quẻ, ở đó sách nói là chủ để biến, tôi tra Lục Thập Hoa Giáp tôi thấy đúng là số 5 chủ biến đổi. Thí dụ như Giáp Ngọ vì
Ngọ ở cung Ly nên mang số 9 vậy Giáp Ngọ thuộc cung Ly kế đến Ất Mùi (hết 9 về 1 vì Hậu Thiên Bát Quái có 9 cung) nên Ất Mùi mang số 1 cung Khảm,
Bính Thân mang số 2 nên là cung Khôn, Đinh Dậu tiếp số 3 nên là cung Chấn ,Mậu Tuất tiếp theo là số 4 nên là cung Tốn bây giờ tới số 5 Kỷ Hợi nằm số 5
trung ương chủ biến đổi tôi thấy Kỷ Hơi là Thiên can Địa chi âm nên lấy Cấn làm cung của mình nên Kỷ Hợi cung Cấn rồi dến Canh Tý là vị trí thứ 6 nên
mang cung Càn, Tân Sửu thứ 7 nên mang cung Đoài, Nhâm Dần thứ 8 nên mang cung Cấn và Quí Mão số 9 nên mang cung Ly. Vậy các cung trong Lục
Thập Hoa Giáp đi theo số thứ tự Lạc Thư. Khi vào trung ương số 5 Dương chi sẽ lấy Cung Khôn và Âm chi sẽ mang cung Cấn. Điều này tôi thấy Âm chi
mang quẻ dương và dương chi mang quẻ âm. Cấn - Khôn thuộc thổ đại biểu cho hành ở Trung Ương! Riêng Giáp Tý Dịch lấy số 3 làm tiến số nên Giáp Tý
mang cung Chấn rồi theo thứ tự mà tiến.
Tôi thấy vạn vật biến ở giửa như Lạc Thư và Lục Thập Hoa Giáp đã chỉ ra nhưng tôi vẫn chưa ngộ ra điều gì về cách biến quẻ và luận quẻ. Tôi lại xem sách
Chu Dịch lại nghe nói Dịch là 1 vòng tròn , Thăng giáng qua lại mà thôi! Có bấy nhiêu thôi sao?
Mà thật vậy Dịch trống không chẳng có gì, tại tôi nghĩ quá nhiều rồi tẩu hỏa nhập ma! Tôi chợt thấy rằng lúc mặt trời mọc ở đằng Đông chầm chậm lên
cao tới giửa trời là lúc đi xuống, như vậy có lúc đi lên( là thăng) tới giửa biến đổi chiều rồi đi xuống ( là Giáng) À thì ra biến đổi ở giửa là vậy!
Tôi nhìn trên lòng bàn tay 12 cung từ Tý tới Hợi tối thấy người xưa xếp Hỏa Cục Dần Ngọ Tuất , Trường Sinh khởi từ Dần đi lên tới Ngọ ( Đế vượng) rồi đi
xuống Tuất để mộ có 9 cung tương ứng với Hâu thiên Bát Quái 9 cung. Tôi vẽ thành 1 hình tam giác Dần Ngọ Tuất có mũi tên hướng lên. Tôi cho rằng lửa
từ dưới bốc lên cao.
Tôi phát hiện thêm Thủy cục Thân Tý Thìn có mũi tam giác từ trên cao là Thân đi xuống Tý và mộ ở Thìn có hình tam giác mũi nhọn hướng xuống. Thật
tuyệt vời! Lửa bốc lên cao nước chảy xuống thấp theo nguyên lý tự nhiên! Tôi khâm phục vô cùng! Lại thấy Mộc cục Hợi Mão Mùi có tam giác mũi nhọn từ
Tây sang Đông rồi Kim cục Tỵ Dậu Sửu từ Đông sang Tây! Ôi lên xuống qua lại, hay cái Thăng Giáng Vãng Lai mà Dịch nói giờ tối đã thấy!
Tôi bắt đầu hiểu Dịch, tôi luận quẻ Lục Nhâm mà tôi học được xem như thế nào! Tôi luận chính xác từng sự việc! Anh chị em đọc tới đây có tin không? Tôi
sẽ viết cách luận 1 quẻ Dịch vào bài sau mà tôi đã hơn 30 năm nghiền ngẫm! Chính xác vô cùng và cũng đơn giản không ồn ào như các sách đã viết, Đúng
như sách Dịch nói Dịch chỉ là 1 cái vòng tròn, mặt trời ,mặt trăng theo đó mà lên xuống qua lại thay đổi chỗ cho nhau.

Giải đoán 1 quẻ là phần khó, để có độ chính xác thì khó hơn nhiều nên tôi mạn phép trình bày những kinh nghiệm mà tôi có để hầu chuyện cùng anh chị
em bốn phương ham học Dịch . Tôi cố gắng trình bày thật dễ hiểu để ai cũng có thể nắm được bí quyết và quyết đoán ngay không do dự khi chiêm được 1
quẻ Lục Nhâm.
Trước nhất phải hiểu động tính của quẻ: như quẻ Ly là lửa từ dưới bốc lên cao , quẻ Khảm là nước từ trên cao chảy xuống thấp, quẻ Chấn là sấm sét kinh
động trăm dặm nhưng cũng là cây mọc từ thấp lên cao, quẻ Đoài là chầm ăn sâu xuống đất thành ao, hồ. Quẻ ly là lửa bốc lên nhưng là âm quái khác với
Chấn từ dưới thấp mọc lên cao là dương quái, quẻ Khảm từ trên cao đổ xuống thấp là dương quái khác với chầm từ trên ăn xuống nhưng là âm quái. Nghĩa
là khí đi lên có âm và dương cũng như khí đi xuống cũng có âm và dương.
Lại thấy lửa và nước có thể lan rộng ,đi xa nhưng cây và chầm thì đứng một chổ mà lên cao hay xuống thấp, tất cả điều này phải nắm bắt cho tinh tường,
cũng không có gì là khó, Dịch vốn dĩ bắt chước động tỉnh của tự nhiên. Dịch đơn giản sống động ở khắp nơi chung quanh ta.
Bấy nhiêu thôi anh chị em đã giải được 1 quẻ Lục Nhâm một cách đơn giản và chính xác , điều này anh chị em sẽ thấy rất xác với lời lẻ ý tưởng trong Kinh
Dịch , một pho sách đầy bí ẩn trong suốt quá trình lịch sử của nó.
Thí dụ tôi chiêm được quẻ Hỏa Lôi Phệ Hạp lời quẻ đoán :”Nhật trung vi thị- giửa trưa mới họp chợ” Tôi bắt đầu dùng phương pháp vừa nói để luận như
sau:
Quẻ Ly ở ngoài đã quá giửa tức thời gian từ đúng giữa trưa trở đi, ấy là cái lúc mặt trời đang xế , đang xuống thấp. Ở đây quẻ Ly ở ngoài chờ dịp đi vào.
Nếu vào buối sáng quẻ Ly mặt trời còn đang lên ,chưa quay về được, Ly ở ngoài chưa có ý vào trong. Đến khi giửa trưa chính là lúc Ly muốn quay vào để
“Cắn “ với Chấn.
Chấn thì đi lúc sáng sớm nhưng phải đợi tới trưa mới họp được cho nên muộn và chậm. Lưu ý rằng quẻ này chỉ tốt từ sáng tới trưa, nếu vào buổi chiều chợ
tan rồi lấy ai mà họp đây? Cho nên quẻ Phệ Hạp chiêm vào buổi chiều và tối thì không được vệc gì mà còn hao tốn nữa.
Quẻ lục nhâm chiêm vào buổi sáng khác, buổi chiều khác hãy nhớ như thế. Thời ở đây rất quan trọng , sái thời chỉ là quẻ vô ích thôi. Như thế anh chị em
cũng biết rằng ứng dụng vào tháng cũng tương tự như vậy nghĩa là sau tháng 5 ( tháng Ngọ) gặp quẻ này nếu chuyện tính theo tháng và mùa thì cứ đoán
ngay chuyện không được gì và chắc chắn như thế! Tôi chưa bao giờ đoán sai cả.
Một ví dụ khác như quẻ Thuần Chấn , lời quẻ bảo mất ngựa chớ đuổi 7 ngày sẽ được! Là sao? Tại sao Kinh Dịch nói như thế? Thưa rằng : Chấn ở ngoài sẽ
đến lúc quay lại thôi nhưng Chấn ở trong ý đi ra nên Chấn ngoài chưa vào được. Muốn Chấn ở ngoài vào thì Chấn ở trong không nên động ( chớ đuổi) tới 7
ngày chấn ở ngoài sẽ về thôi!
Tại sao là 7 ngày ? Xin thưa Chấn là Mão đi 7 cung tới Dậu chính là lúc Chấn đã quá nữa rồi , chính là lúc Chấn ( ngựa) quay lại đó! Tôi từng đoán tìm
người mất tích , được quẻ này tôi đoán sẽ có người cho tin mình tìm người thân về và chính xác như thế!
Nên nhớ có quẻ mình phải hành động và có quẻ không nên làm gì, phải tùy thời mà động trái lại sẽ bị vô hiệu. Cũng nên biết rằng động phải tùy thời như
quẻ Trạch Hỏa Cách nói rằng muốn thay đổi đợi hết ngày, vì Trạch lả Đoài ứng với Dậu khi thời gian đến Dậu là hết ngày chính là lúc Chầm ăn xuống và
Hỏa bên trong cũng biến> Quẻ này chỉ hiệu quả về ban đêm nếu sự việc tính trong ngày, nếu ban ngày mà hành động chỉ hoài công mà thôi.
Lạc Thư do Văn Vương trong ngục Dũ Lý đặt ra để chỉ cái dụng là sự biến đổi nên ngài đặt quẻ Ly mà Hỏa trên cao thuộc Ngọ vì chính nới đó là nơi biến
của Hỏa. Khảm đặt nơi thấp nhất chính nơi đó nước không chảy đi đâu được nên bốc hơi ở đó. Chính cái Vị Tế biến hóa đó mà sinh sinh chi vị Dịch! Vạn vật
biến ở giửa , Tý -Ngọ -Mão -Dậu là nơi biến hóa nên đứng làm chủ mà điều hành vạn vật. Ôi không gì bằng Đạo Dịch vạn vật chi do nóng lạnh mà sinh hóa
trưởng thành! ( Còn tiếp..)

Qua hai bài vừa rồi tôi chắc rằng anh chị em đã vén được một phần nhỏ bí ẩn của Dịch và hiểu thêm về Lạc Thư- Hậu thiên bát quái. Đó là tôi chưa kể tại
sao Văn Vương lại hoán đổi giửa Hỏa và Kim nghĩa là từ 2.7 thay cho 4.9 ở tây so với Hà Đồ. Tôi còn nhớ hồi còn nghiền ngẩm cuốn « Kinh Dịch với vũ trụ
quan đông phương của thầy Nguyễn Hữu Lương » Các tiên nho bên Tàu vẫn chưa nói hết hết ý của Hậu Thiên Bát Quái về sự thay đổi này. Tôi sẽ trình bày
vấn đề này cho anh chị em ở các bài sau, tôi muốn Dịch từ đây đi sát với thực tế hơn không còn huyển hoặc, mơ hồ hay lung tung khó hiểu.
Trở lại phần luận quẻ như anh chị em thấy một sự mới mẻ và dễ hiểu hơn bao giờ hết, sẽ biết được chuyện của mình có cơ hội nắm bắt hay không hay đã
mất cơ hội ? Và phải hành động như thế nào vào lúc nào để được lợi ích nhiều nhất !
Nắm được qui luật thăng giáng qua lại của âm dương ,anh chị em sẽ thông suốt 64 quẻ Dịch. Tôi đơn cử quẻ Hỏa Sơn Lữ tại sao tiên nho cho đó là quẻ
Lữ ? Bởi vì Cấn là sự ngưng nghỉ không hoạt động nằm nội quái, ở ngoài là quẻ Ly đã quá giửa nghĩa là lúc mặt trời đang xế không đi lên được nữa- Không
tiếp tục cuộc hành trình tiến tới – phải ngừng lại và người lữ khách tìm quán trọ mà nghỉ ngơi.
Ly nằm trong nội quái đồng nghĩa là mặt trời còn bên đông, còn tiến lên giửa trời, Ly nằm ngoài là quá giửa, chính là lúc quay về tây tìm ẩn nghỉ ngơi.
Khảm là trăng từ mồng 1 tiến lên lên 15 thì tròn,đó cũng là nơi biến tướng để khuyết dần cho đến lúc không còn trăng ờ 30. Anh chị em thấy trăng cũng
biến ở giửa tháng và cũng là con số 15 xuyên suốt trong Lạc thư. Dịch bắt chước tự nhiên !
Hiểu được vấn đề này thì Tử vi hay phong thủy anh chị em cũng lần ra được bí mật của nó cũng không mấy khó nếu chịu khó quan sát. Tôi biết rằng nước
là tài lộc trong phong thủy không nên để tuột mất, tức là để biến đi. Nước từ trên cao đổ xuống thấp nơi thấp nhất vẫn là phương đông nam – thìn tỵ nên
chi sông Cửu Long 9 khúc đổ về Đông Nam ra biển cả. Thìn Tỵ là phương mộ ,tuyệt của thủy ở đó nên để nước chứa ( Long trì) nghĩa là khí thủy còn mãi
không mất đi, tiền bạc không hao tán vậy mà ! Tuy nhiên phải biết đón thủy vào nhà ,vấn đề này qua phạm trù phong thủy rồi nên tôi dừng ở đây không
sẽ bị lạc đề.
Cũng nói thêm rằng trong Tử vi cũng không khác, vì tất cả đều xuất phát từ Dịch nhưng tử vi chú trọng vào ngôi vị. Nói như thế này cho anh chị em hiểu
rằng có hai người sinh cùng năm cùng tháng cùng ngày và cùng giờ nhưng hai số phận sẽ khác nhau là tại sao cho dù có hai lá số giống nhau ? Xin thưa
ngôi vị hai người rất khác nhau ,người có Tử vi – Thiên phủ thời người ấy phải là con trưởng mới xứng với ngôi ấy và được ngôi ấy. Người khác cũng có sao
ấy nhưng là con thứ thời người được sao ấy mà không được ngôi ấy. Bị mất ngôi như vua mất ngôi phỏng có được gì ? Nếu là hai người song sinh thì người
sinh ra đầu được ngôi ấy người sinh ra sau mất ngôi ấy. Tử vi rất chú trọng ngôi vị như các hào trong Kinh Dịch cho nên Trần Đoàn Lão tổ là ông vua ngôi
vị khi sáng tạo ra tử vi có ngôi vua và ngôi thần có các sao phò tá và cũng là người làm say mê hàng tỷ người về bộ môn cờ tướng khi sắp xếp Tướng ,Sĩ
,Tượng một cách thần sầu ! Bát quái cũng có ngôi vị , có Cha Kiền mẹ Khôn, có con trai trưởng Chấn, có con trai giửa Khảm và có con trai út
Cấn.v.v....Đến đây chúng ta từ từ vén những bí mật của Dịch nhé ! Mà xã hội cũng thế thôi có thứ tự trên dưới ,gia đình có cha mẹ anh chị em , nhà có cột
cái cột con , sông có sông cái sông con......Dịch bắt chước theo tự nhiên ! Như quẻ Ly có âm trưởng và dương thứ, thế thôi ! Được quẻ Ly mà ở ngôi dương
có làm chủ ánh sáng được đâu ?
Trong Lục Nhâm chú trọng vào thời gian rất là nhiều , Đăng Minh chỉ vào buổi sáng được quẻ thấy tốt hãy làm ngay buổi sáng không để quá trưa . Gặp
Thần Hậu hãy đợi giửa trưa mà tiến hành chớ quá buổi chiều.Gặp Đại cát thì chiều tối hãy khởi sự nếu sái thời là miệng tiếng không hay.
Quẻ Lôi thủy giải chiêm vào mùa Thu hay mùa Đông thì đợi sang xuân mới có thể Giải được( Xuân lôi hành vũ) Khi quẻ chiêm vào mùa thu hay đông khi
qua Dậu là lúc Chấn quay vào trong nhưng Khảm còn đầy đặc phía dưới vì Khảm chưa biến. Đến xuân thuộc mộc phương đông Dần,Mão ,Thìn thì Khảm
biến vì rơi thủy rơi vào tử,mộ nên trống trải cho Chấn vào trong. Quẻ Giải khi xem ngày cũng vậy phải chờ đến ngày dần.mão ,thìn hay nếu xem giờ thì
buổi sáng , chứ buổi trưa chiều hay tối sẽ không giải được và chuyện mình cần xem vẫn còn bế tắc. Tôi tin rằng anh chị em sẽ đoán chính xác sự việc khi
hiểu được nguyên lý trên.(còn tiếp)

Bài viết thêm không liên quan gì tới - Làm sao luận 1 quẻ Dịch

Sự thay đổi Hỏa và Kim giữa Hà Đồ và Lạc Thư

Đ ây là đề tài tốn rất nhiều giấy mực ,song vẫn chưa có câu trả lời hài lòng. Thuyết cho rằng Văn Vương trong ngục Dũ Lý phát minh ra Lạc Thư, từ đó
Dịch luôn nói tới Đồ -Thư giống như hai vật không thể tách rời. Mục Đích như vậy để làm gì đến nay vẫn còn bao trùm bí ẩn cho dù có biết bao nhiêu bậc
hiền triết ,tiên nho bàn bạc. Có lẽ vì khó học hay người xưa muốn cho hậu thế mai sau thích thú mà tìm tòi, dù sao mặc lòng sự thay đổi của Văn Vương
chế tác ra Lạc Thư –Hậu Thiên Bát Quái quả chỉ có bậc thánh mới làm được .
Hãy nhìn Hà Đồ có Nhất sinh thủy ở Bắc , Nhị sinh Hỏa ở Nam, Tam sinh mộc ở Đông và Tứ sinh Kim ở Tây sau cùng Ngũ sinh Thổ ở Trung Ương để dung
hòa tránh sự xung đột các vật chất. Nói rõ hơn là Thủy muốn khắc Hỏa thì Bị Thổ chận, Kim muốn khắc mộc thì bị thổ kiềm chế cho nên tuy khác tính
nhưng nhưng cùng vận hành với nhau.
Hà Đồ rõ ràng mang tính tương khắc nên dùng 5.10 ở giửa để dung hòa.
Có khắc tất có sinh nên Văn Vương rút đi số 10 trung ương thổ rồi biến đổi giữa Hỏa và Kim thành tương sinh cho nên hậu thiên bát quái là vòng tương
sinh 4.9 thuộc Kim ở nam sinh 1.6 ở Bắc thủy ,3.8 ở Đông sinh 2.7 ở tây Hỏa. Sắp xếp các con số lại cho thành tương sinh nhưng ngũ hành các phương
vẫn không đổi. Trung ương Thổ mang số 5 chủ để biến.
Từ đây vòng trường sinh được ra đời một cách tinh vi mà vẫn phù hợp với Hà Đồ. Thật là tuyệt diệu thay!
Số 5 ở giửa, 3 cho dương số để tiến và 2 cho âm số để tiến,sự vận hành được biểu diễn như sau:
Cung Ly là Hỏa cục mang số dương 9, âm số là 4 ở nam. Sinh ở Dần ,vượng ở Ngọ và Mộ ở Tuất.
Dương trường sinh khởi ở Dần đi thuận , dần thuộc Cấn số 8 đến mão thuộc Chấn số 3 cộng là 11 đến Thìn ,Tỵ thuộc Tốn số 4 cộng là 15, đến Ngọ ( Đế
Vương ) thuộc cung Ly số 9 cộng là 24 đến Mùi ,Thân thuộc Khôn số 2 công là 26, đến dậu thuộc Đoài số 7 công là 33 ,đến Tuất (Mộ) thuộc Càn số 6 cộng
là 39. Số 3 là dương số để tiến số 9 là hành hỏa.
Âm trường sinh khởi từ Dần đi nghịch ,khởi từ Cấn sửu, dần số 8 đến Tý thuộc Khảm số 1 cộng là 9 đến hợi,tuất thuộc Cán số 6 cộng là 15 ,đến Đoài số 7
cộng là 22 đến thân,mùi thuộc Khôn số 2 cộng là 24.
2 là số âm để tiến 4 là số thuộc âm hỏa 4. Như vậy dương và âm trường sinh hỏa vẫn mang số 4.9
Tại sao dương trường sinh chỉ tính tới Mộ? Xin thưa rằng dương là sự sống không phải là sự chết nên quẻ Kiền có 3 dương không có âm nên chỉ tính đến
Mộ mà thôi.
Bát quái Hâu Thiên có 9 cung số 9 cũng là số lớn nhất của dương số phù hợp từ trường sinh đến mộ có 9 cung.
Âm trường sinh đi nghịch nhưng chỉ tính từ trường sinh đến Tử cả thảy 8 cung ,Vì số 8 là số âm lớn nhất trong Lạc Thư.
Âm là sự chết nên quẻ Khôn không có dương nào. Mặt trăng thuộc âm có hai ngày không trăng.
Như vậy dương mộ và âm tử.
Các Cục khác cứ theo lối tính này mà suy ra như Thủy cục 31 số dương và 26 số âm. Mộc cục có 33 số dương và 28 số âm ,kim cục có 22 số âm và 37 số
dương . Đồ Thư đến đây hợp nhất rồi đó quí vị ạ!
Các tính toán khác về vòng trường sinh sẽ không phù hợp với số của Hà Đồ -Lạc thư. Cũng như các các sắp xếp khác về quẻ cũng không phù hợp với số
của Hà Đồ và vòng trường sinh.

Bài cuối…
Thưa quí anh chị em những bài tôi viết vừa rồi nhằm đưa ra những kinh nghiệm để luận 1 quẻ đơn giản ngõ hầu giúp cho chúng ta tiên liệu được những sự
việc bình thường trong đời sống hằng ngày mà có lẽ không biết hỏi ai! 12 quẻ Lục Nhâm đủ để trình bày mọi thắc mắc và giúp cho chúng ta định hướng
được sự việc , để chúng ta hành động mang lại lợi ích nhiều nhất và giảm bớt đi những thiệt hại ,rủi ro trong đời sống .
Tôi muốn trình bày thật dễ hiểu để ai cũng có thể luận được và cũng từ đây nếu đi sâu hơn nữa thì 12 quẻ sẽ biến thành nhiều quẻ khác nữa thậm chí
thành 64 quẻ nhưng thường cái học đó phải tùy thuộc vào khả năng của mỗi người và tôi có thể nói rằng cho tới bây giờ kễ cả Tàu hay các nơi trên trên
thế giới nghiên cứu về Dịch chưa có ai nắm bắt nổi hết về Dịch . Khổng Tử còn than vản không sống thêm vài năm nữa để học Dịch ! Ôi cái học thật vô
biên! Ngay cả Giáp hạp Kỷ - Ất hạp Canh mà tôi đã xem các nơi trên diễn đàn của mạng internet cũng chưa có ai nói tới cái thâm sâu diệu viễn của nó
huống hồ gì nói tới 64 quẻ bao trùm vạn vật. Kinh Dịch lớn quá! Cho nên tôi mạn phép khép lại nơi đây và rất chân thành cảm ơn anh chị em đã xem các
bài viết của tôi….

Kyte viết cho Lý Học Đông Phương

You might also like