You are on page 1of 8

5 bước tự phòng chống virus USB hiệu quả

5 bước tự phòng chống virus USB hiệu quả


Bạn có một chiếc USB? Cho dù bạn chỉ thỉnh thoảng sử dụng nó để sao chép tài liệu giữa các
máy thì chắc rằng không dưới một lần chiếc USB của bạn đã nhiễm phải virus.

Hãy thử click chuột phải vào biểu tượng ổ USB, nếu như bạn thấy có dòng Autoplay được tô
đậm ở vị trí trên cùng, có nghĩa là 90% USB đó đã bị nhiễm virus. Bởi vì bình thường thì dòng
chữ tô đậm ấy phải là Open hoặc Explorer thay vì Autoplay.

Có lẽ cũng không phải nói nhiều về những phiền toái mà bạn gặp với với những con virus đáng
ghét này. Tuy nhiên bạn hoàn toàn có thể hạn chế những vị khách không mời này xâm nhập vào
chiếc USB của bạn.

Virus lây qua USB đã trở nên quá phổ biến hiện nay tại Việt Nam, nhất là khi chiếc ổ di động
USB đã trở thành vật bất ly thân của đại đa số học sinh, sinh viên, nhân viên văn phòng.. Những
con virus này tự động xâm nhập khi bạn cắm USB của bạn vào một máy tính đã bị nhiễm virus.

Và mỗi khi bạn USB này được đưa vào một máy tính khác, virus lợi dung thói quen sơ hở của
bạn mỗi khi click đúp vào biểu tượng ổ đĩa USB trong My Computer để xâm nhập. Tại đây
chúng tiếp tục nhân bản và phát tán chính mình bằng nhiều đường. Và đương nhiên nạn nhân
tiếp theo sẽ là những chiếc USB khác cắm vào máy.

Tại sao virus có thể lây nhiễm qua USB? Là bởi vì virus sao chép chính nó lên USB, và tạo một
file Autorun.inf để kích hoạt tính năng Autoplay của ổ đĩa. Mỗi khi bạn click vào để mở USB thì
bạn sẽ vô tình chạy chính con virus này. Thêm nữa, chúng khôn khéo đặt thuộc tính ẩn cho chính
mình để tránh bị phát hiện.

Làm thế nào để có thể phát hiện ra được USB có virus hay không? Nếu như bình thường bạn mở
USB bằng cách click chuột trái vào biểu tượng USB ở My Computer thì hãy thay đổi thói quen
đó. Hãy thử click chuột phải vào biểu tượng ổ USB, nếu như bạn thấy có dòng Autoplay được tô
đậm ở vị trí trên cùng, có nghĩa là 90% USB đó đã bị nhiễm virus. Bởi vì bình thường thì dòng
chữ tô đậm ấy phải là Open hoặc Explorer thay vì Autoplay.

Điều này còn có thể áp dụng với các ổ đĩa cứng, một vài con virus sau khi lây vào máy còn lây
vào Autoplay của các ổ cứng. Quá trình lây vào ổ cứng khiến cho virus vẫn có thể được kích
hoạt mà không cần phải sao chép vào Start Up, một nơi vẫn thường xuyên được kiểm tra. Tuy
nhiên, các virus USB thường tự đặt nó trong trạng thái ẩn, chính vì vậy tốt nhất bạn nên thường
xuyên đặt chế độ xem các file ẩn bằng cách vào My Computer -> Tools -> Folder Options.. ->
View -> Chọn Show hidden files and folders và bỏ Hide protected system files.

Tự bảo vệ mình như thế chưa đủ. Tốt nhất hãy bảo vệ USB của mình khỏi bị nhiễm virus. Bạn
hoàn toàn có thể tự làm được ngay cả khi bạn không phải là một người am hiểu về máy tính.

Thật vậy, nếu như virus lây vào USB của bạn và tìm cách lừa bạn chạy nó qua tính năng
Autoplay của USB thì tại sao bạn lại không thử lừa lại nó. Để ý rằng virus USB nào cũng tạo file
autorun.inf, vậy thì bạn hãy tạo sẵn file autorun.inf trong USB của mình. Chắc chắn rằng chỉ với
bước này bạn đã “qua mặt” được kha khá virus USB rồi.
Nhưng xem ra như thế vẫn chưa đủ, bạn cần phải cấm các con virus thông minh hơn ghi đè file
này. Điều này bạn cũng hoàn toàn có thể làm được dễ dàng với USB nếu như bạn chuyển hệ
thống file của USB sang NTFS và đặt quyền cấm ghi đè cho file autorun.inf.

Tất nhiên việc chuyển hệ thống files sang NTFS thì USB của bạn sẽ không thể dùng được trên
Windows 98/ME, nhưng chắc rằng Windows 98/ME thì cũng không tự động nhận được USB của
bạn, hơn nữa Windows 98/ME hiện nay cũng hơi hiếm thấy.

Khi bạn đã sẵn sàng, hãy bắt đầu bảo vệ USB của bạn qua những thao tác đơn giản với Windows
XP qua 5 bước sau:

Bước 1: Xác định tên ổ đĩa USB của bạn là gì bằng cách click vào My Computer và xác định ổ
USB. Ví dụ như USB của bạn là ổ E: và nhãn là STORAGE

Bước 2: Chuyển đổi hệ thống files sang NTFS bằng cách Click vào Start -> Run, sau đó gõ
convert : /FS:NTFS. Ví dụ bạn sẽ phải gõ convert E: /FS:NTFS . Lưu ý, nếu ổ USB của bạn có
chức năng ghi âm và nghe nhạc MP3 thì nên bỏ qua bước này. Nếu không, có thể phần mềm
chơi nhạc của bạn sẽ không thể chạy các file MP3 được.

Bước 3: Tạo một file autorun.inf với nội dung bất kì, thậm chí để trống cũng được và copy vào
thư mục gốc của ổ đĩa USB của bạn.

Bước 4: Click chuột phải vào file autorun.inf bạn vừa tạo và chọn thuộc tính cho file này là read-
only, bạn cũng có thể chọn thêm hidden.

Bước 5: Cấm mọi quyền truy xuất vào file autorun.inf bạn vừa tạo bằng cách Click vào Start ->
Run, sau đó gõ cacls \autorun.inf /D Everyone. Ví dụ như bạn sẽ gõ cacls E:\autorun.inf /D
Everyone

Tất nhiên là không thể nói là an toàn với tất cả các loại virus USB, nhưng phương pháp này cũng
phần nào giúp cho USB của bạn an toàn trước đại đa số chuyên lây qua USB hiện nay. Và hơn
hết, hãy cài lên máy của mình một chương trình diệt virus đáng tin cậy, đặc biệt nên có tính năng
tự động cập nhật thường xuyên. Chúc bạn thành công.

Cách diệt Virus hiệu quả nhất

Có nhiều người đã từng bị và từng khốn đốn vì Virus, nhất là những người tham gia duyệt
Web, một nơi mà việc phát tán Virus là việc hầu như diễn ra hàng ngày. Vậy đã ai từng suy
nghĩ về cách diệt Virus một cách hiệu quả chưa ? Hi vọng với bài viết này sẽ đem lại chút
kinh nghiệm cho mọi người trong việc diệt và phòng chống Virus.

Với một chút kinh nghiệm và công cụ dùng với sự xử lí đúng là chúng ta đã có thể diệt tận
gốc Virus trên máy tính của mình hoặc ít nhất là có thể "khống chế“ được chúng.

1- Máy bạn bị dính Virus hay là vẫn hoạt động bình thường ?
a- Khi máy bạn có một biểu hiện gì đó bất thường thì chưa chắc đó là do Virus hoặc là
Trojan gây nên. Máy tính của bạn bị dứng yên cũng có thể do nguyên nhân nó bị quá tải hoặc
Internet Browser của bạn không hiển thị một trang web cũng có thể do trang web bạn định
duyệt không tương thích với phần mềm duyệt web của bạn. Khi mà những điều bất thường
đấy xuất hiện thường xuyên, có thể là mỗi lần bạn bật máy thì bạn nên nghĩ rằng hệ thống
của mình đã bị dính virus.

b- Con đường lây lan của Virus : Phần lớn những loại virus hiện nay trên thế giới đều lây
lan qua con đường Email, dưới dạng file đính kèm. Khi bạn đang lướt web, máy tính bạn
cũng có thể tải về một chương trình phá hoại qua lỗ hổng của trình duyệt hoặc System của
máy bạn, sự nguy hiểm sẽ tăng cao cho đến khi bạn bít lỗ hổng đấy bằng bản vá lỗi của nhà
sản xuất. Ghi nhớ là nên active Automatic Update của windows hoặc là vào trang
http://windowsupdate.microsoft.com/ để xem thông tin về những bản vá lỗi của nhà sản xuất
và cập nhật windows của bạn.

2- Bước kiểm tra và diệt với chương trình diệt Virus


a- Khi bạn đã nghi hoặc là chắc chắn rằng máy tính của mình bị dính Virus hoặc Trojan thì
bạn không nên tắt máy ngay lập tức, phần lớn Virus thường sẽ hoạt động hiệu quả nhất ngay
lần bạn khởi động máy đầu tiên nếu bạn trước đó không có những biện pháp xử lí thích hợp.
Virus thường sẽ viết thêm vào Registry của bạn một chuỗi để nó có thể trực tiếp hoạt động
ngay sau khi bạn khởi động máy. Việc đầu tiên mà bạn nên làm là dùng một chương trình
diệt virus để quét toàn bộ máy, ở đây tôi có thể giả sử là Antivirus... là một phần mềm diệt
virus mà được ưa chuộng hiện nay. Chương trình phát hiện ra virus thì tốt nhất bạn nên để
cho chương trình xoá tệp tin bị dính virus. Hiện tại thì hầu như không còn nhiều Virus nhiễm
lên files, có thể kể đến là System files như trước nữa mà hầu như những files mà chương
trình diệt virus quét được chính là bản thân virus.
Nếu bạn nghi ngờ là System files bị nhiễm virus thì tốt nhất là bạn cho chúng vào Quarantine
( vùng cách ly ), hầu hết các trình diệt virus đều có chế độ này.

b- Chú ý : Bạn nên tắt chế dộ System restore để tránh việc System của bạn tự động phục hồi
lại những System files đã bị nhiễm virus sau khi bạn khởi động lại.

c- Đối với Macrovirus : Bạn không nên xoá bỏ File khi file bị nhiễm virus là word files,
macrovirus bạn có thể nhận ra được khi văn bản của bạn hiện lên những cảnh báo như :
„This one’s for you, Bosco.“, hoặc dưới dạng text như „WAZZu“ được viết thêm vào trong
văn bản của bạn ở nhiều nơi khác nhau hoặc là DOC Files của bạn tự động biến thành DOT-
File cũng là một biểu hiện của Macro virus.
Khi bạn gặp phải những trường hợp trên thì bạn nên Save văn bản của bạn dưới dạng hoàn
toàn là text, qua đó thì những điều chỉnh của bạn và macro sẽ bị mất nhưng bạn giữ lại được
nội dung văn bản của mình để có thể sửa lại sau này.

d- Lặp lại Scan : Sau khi trình diệt virus xoá đi những files bị nhiễm thì bạn nên cho trình
diệt virus quét lại một lần nữa toàn bộ máy của mình vì những virus hiện nay thường sẽ ghi
nhiều bản sao của chúng ở nhiều chỗ khác nhau trên máy bị nhiễm để dễ lẩn tránh.
e- Sau khi quét lại Virus, bạn nên khởi động lại máy bằng tay, tức là tắt hẳn máy đi rồi bật lại
vì có thể có nhiều virus còn được ghi lại trong Ram của máy bạn khi bạn khởi động Restart
bình thường. Sau khi khởi động bằng tay lại máy, bạn nên cho trình diệt Virus quét lại máy
một lần nữa để chắc chắn là không còn virus, sau đấy bạn hãy Active lại System restore.

f- Nếu trình diệt virus của bạn chỉ tìm ra chứ không diệt được virus thì bạn nên lên trang web
của một số hãng bảo mật để download Removal tool cho loại virus trên máy bạn về để diệt.

Tìm Virus bằng tay


Bình thường thì phần lớn những chương trình diệt virus, những removal tools đặc biệt hay là
Antivirus- Software, không thể diệt và làm sạch tận gốc hệ thống của bạn, nhiều khi bạn diệt
xong virus nhưng vẫn còn những Fix trong registry chưa được xoá bỏ, do vậy, bạn nên tự tay
kiểm tra lại, liệu có còn “dấu tích” của virus trong hệ thống của bạn không. Việc này càng
cần phải được tiến hành khi bạn không sử dụng trình diệt virus nào hoặc là trình diệt của bạn
không được update thường xuyên.

Bình thường những chương trình phá hoại tự cài vào hệ thống của bạn để nó có thể tự động
được load khi bạn khởi động hệ thống, các tiến trình này chạy ẩn song song với việc bạn
chạy các tiến trình khác và sẽ hoạt động khi bạn lên Net. Chúng ta có thể tìm thấy Trojan
bằng cách kiểm tra những nơi mà nó có thể ghi vào để luôn được load mỗi khi hệ thống khởi
động. Một số sẽ viết thêm vào Win.ini, System.ini, Autostart.bat, hoặc Config.sys, những tệp
tin này bạn có thể kiểm tra và sửa bằng lệnh sysedit.

Win.ini : Trước đây, các Trojan thường sử dụng tệp tin này để tự động load mỗi khi System
khởi động dưới dạng lệnh : “load=” hoặc “Run=”. Thi thoảng sau Parameter là một chuỗi dài
khoảng trắng để che dấu câu lệnh ở phía dưới hoặc bên phải lề, vì vậy khi kiểm tra bạn nên
kiểm tra toàn bộ phần bên phải và phía dưới tệp tin.

System.ini : Trong file này, Trojan tự viết thêm vào thường là “Shell=”, nếu bạn thấy ở đây
có sự gọi tiến trình Explorer. exe thì bạn đừng sợ, tiến trình này là của windows, nếu sau đó
có thêm sự gọi một số tiến trình khác thì bạn nên kiểm tra lại các tiến trình đó xem liệu
chúng có phải là trình phá hoại không.

Trả lời: Cách diệt Virus hiệu quả nhất

Rất nhiều người hay hỏi soft Antivirus nào công hiệu nhất ? Tùy theo cãm nhận cũa người xài
và tùy theo cài đặt cũa từng người.

Vì 1 CT có thễ rất tốt, nhưng người sữ dụng không biết cài đặt và phát huy hết cái hay cũa nó
thì cãm nhận sẽ thay đỗi ngay. Thí dụ :
Trend Micro PC-cillin có chọn lựa check tới 3 lớp (layer) khi duyệt mail, thay vì mặc định sẵn
có là 1, sẽ quét chậm hơn nhưng an toàn hơn.

NOD32 có khã năng phòng chống rất tuyệt vời, nhưng cài đặt phức tạp đối với người không
rành tiếng Anh, mới với computer, giao diện rất xấu, rất ít người thích.

Norton đã bị phũ nhận là làm chậm máy (Norton 2006) đã thay đỗi hẵn, và với chế độ "SAFE
MODE with NET Working" thì khã năng thật sự cũa Norton mới biễu lộ.

Kaspersky với chế độ phòng chống rất mạnh, nhưng không biết cách cài đặt cho đúng, sẽ làm
treo máy, không tãi gì về máy được.

McAfee dễ cài đặt, nhưng rất nhạy cãm, cứ báo là có Virus/Adware suốt.

BitDefender bỗng nhiên nỗi tiếng là CT antivirus số1, vì 1 TopTen bình luận là thế, 1 CT rất
tốt, nhưng số 1 thì mình không ý kiến (phãi dựa theo nhiều công ty bình luận đễ làm căn cứ,
đừng nên dựa vào 1 trang web).

Nói chung là KHÔNG CÓ CT nào trọn vẹn cã và còn tùy thuộc vào người sữ dụng. (Mình chĩ
nêu ra vài CT làm thí dụ, không theo thứ tự và những CT khác cũng có khuyết điễm riêng).

Những CT mình nghĩ sẽ phù hợp cho người mới sữ dụng vi tính : Trend Micro PC-cillin ,
AVG Anti-Virus , BitDefender , Norton AntiVirus , Zone Alarm.

Có nhiều kinh nghiệm hơn : Panda , Kaspersky , F-Secure , CA eTrust EZ NOD32 (không
theo thứ tự và hơn kém, chĩ 1 số thí dụ).

Tùy khã năng cũa người sữ dụng máy, có thễ 1 CT antivirus + spam + firewall là đã đũ, có
người cần thêm 1 CT antispyware kèm theo. vì sỡ thích cũa mỗi người đều khác nhau, có
người đến những website ít nguy hiễm, người cố tình đến những website nguy hiễm đễ thu
nhập dữ kiện.

Có những website mình cần đến đễ lấy cr@ck, vừa chào hàng là nó đã tặng mình vài con
trojan trước, những phần mềm hầu như đều có kèm theo virus, phãi chịu đấm ăn xôi nếu vì
nhu cầu, cho nên có những CT antivirus tốt cũng không tốt, vì nó sẽ khóa trang web đó hoặc
không cho tãi về, cho nên, nếu A/E nào có nhu cầu nên hiễu trước phãi làm gì.

Trên nguyên tắc, bất cứ 1 virus, malware, trojan ... nào vào máy đều muốn chạy thẵng vào hệ
điều hành, tùy khã năng cũa người viết, sự nguy hiễm khác nhau, thông thường loại hạng nhẹ
chĩ cần vào "SafeMode" là diệt được ngay, hoặc sữ dụng chức năng rẽ tiền có sẵn trong
windows, trã về thời gian (restore to an earlier time) là nó tự hũy rồi. Gặp loại nặng thì vô
dụng, nó có khã năng bám vào hệ điều hành và sẽ sống lại, hoặc không giết bằng cách nầy
được.

Đánh rắn phãi đập đầu : Reformat lại ỗ cứng (nếu còn làm được, hoặc tệ quá thì dùng 1 máy
khác boot qua) quá trình làm việc nầy sẽ làm cho người mới biết sữ dụng sẽ sợ ngay, mất hết
tài liệu, không biết cài lại, người có khái niệm khá hơn sẽ ngán ngẫm vì tốn kém nhiều thời
gian.

Biện pháp giãi quyết : Người không biết nhiều, tối thiễu cũng nên nhờ ai format giùm 2 ỗ
cứng (partition C / partition D) partition C chĩ duy nhất Programs và hệ điều hành mà thôi,
partition D chứa dữ kiện (data), nếu bị sự cố thì chĩ nhờ làm lại ỗ C, dữ kiện trong ỗ D vẫn
còn nguyên (có trường hợp sẽ bị mất hết, nên copy những gì quan trong ra CD/DVD đễ
riêng). Có khã năng sữ dụng máy cao hơn : Ghost vào ỗ D và vào CD/DVD dùng đễ boot nếu
cần reformat lại ỗ C, thời gian 10-20 phút tùy dung lượng trong cũa ỗ C, thay vì bỏ nửa ngày
đễ cài đặt lại, update lại vị trí đã có. (ghost là chụp hình hoàn toàn lại ỗ cứng, 1 folder nào
mình muốn và sẽ phục hồi lại theo trạng thái nguyên thũy, những CT ghost rất tốt là Acronis
True Image, Norton System ghost.

Virus, Adware, Malware, theo quan niệm cũa mình không phãi quan trọng. Trojan và Hacker
mới thật sự là vấn đề. Không nên đễ tài liệu cá nhân vào máy, tài liệu quan trọng nên copy ra
ngoài, nếu có điều kiện nên đầu tư vào phần cứng Antihacker, Alphashield là 1 phần cứng
dành cho End-user rất hiệu quã. Nên reformat ỗ cứng thường xuyên là đã hạn chế rất nhiều
phiền phức. Mỗi người đều có vài mẹo vặt riêng, nếu A/E có muốn chia sẻ xin vui lòng góp ý.

Tới đây, mình nghĩ các bạn đã biết tỗng quát về phần trị Spyware / Dialer, nhân tiện đây mình
sẽ nói thêm về chi tiết cho A/E nào có nhu cầu.

Khỡi động Internet Explorer (IE), vào tool -> internet option -> Delete cookie -> Delete Files
-> Delete all Offline content -> Ok. Vào destop -> empty recycle bin luôn.

Dùng CT antivirus có sẵn, hoặc vào Microsoft Download, tải về phiên bãn Windows defender
cũa MS (rất tốt, bãn full tãi miễn phí) tãi về, nhưng chưa mỡ ra cài đặt. Dùng chức năng sẵn
có cũa Windows trã ngược thời gian / systems restore (Start -> programs -> Accessories ->
Systems tool -> Systems restore. trã về thời gian trước khi sự cố xãy ra).

Chú ý : Khi vào "Safe mode with net working" mới xài. Muốn sữ dụng chức năng SAFE
MODE / SAFE MODE WITH NET WORKING (chức năng nầy thì mình làm chũ tình hình)
chĩ những CT nào mình khỡi động thì mới làm việc, safe mode with net working khác 1 điều
là CT mình khỡi động có thễ vào mạng đễ cập nhật được, với chức năng nầy, những Virus,
Spyware, Dialer, Backdoor trojan sẽ ỡ trạng thái ngủ, chĩ khi vào windows ỡ dạng ngoài thì
những virus nầy mới hoặc động thôi.

Muốn vào DOS (phần trong cũa máy) : khỡi động máy (restart máy), khi màn hình còn màu
đen chưa có gì hiện lên -> gõ liên tục vào phím F8, nó sẽ hiện ra màn hình đen với nhiều dòng
chữ -> gõ vào "Safe Mode with Networking" -> Enter -> YES -> chờ cho windows khỡi
động.

Bây giờ mới dùng chức năng "system restore" như đã nêu trên.

Dùng CT Antivirus / MS Windows Defender quét. sau khi quét xong. Tắt máy (không restart
máy ngay) kéo sợi dây điện ra (tắt điện khoảng 3 phút, không phãi nói đùa nha, những
Spyware, Dialer thường sẽ chết chắc).

Phương pháp nầy nói chung có thễ diệt hầu hết virus / trojan, còn adware / malware / dialer
thì chết chắc.

Khi cài CT virus nói chung, cần điều chỉnh cách cài đặt, khi phát giác virus / spyware thì chọn
Delete, thay vì mặc định sẵn có cũa CT là nhốt lại (Quarantine).

Backup / lưu dữ kiện vào ỗ cứng khác, copy ra CD, reformat lại ỗ cứng là điều rất tốt dù cho
máy không có sự cố vẫn làm cho hệ điều hành làm việc thực thi hơn.

Cách tắt System Restore trong Windows

Một trong những điểm mới của Windows ME, XP, hay Windows Vista so với những hệ điều
hành trước đấy là lựa chọn System Restore. Nhưng, nếu một hệ thống bị nhiễm virus thì quá
trình diệt virus có thể sẽ bị gây khó khăn bởi chính lựa chọn này vì nó có thể "tái sinh" virus một
cách không chủ ý. Để có thể loại bỏ hoàn toàn virus trên một hệ thống, người sử dụng nên tắt chế
độ System Restore trong quá trình quét và dọn dẹp hệ thống và bật lại chế độ đó khi hệ thống đã
hoàn toàn sạch sẽ.
Sau đây là một vài hướng dẫn cơ bản để có thể tắt chế độ này.

1. Trên Windows ME:


1. Nhấn vào Start, Settings, và sau đó chọn Control Panel.
2. Nháy đúp vào biểu tượng System để vào cửa sổ "System Properties" .
Chú ý: Nếu biểu tượng hệ thống không xuất hiện thì nhấn vào "View all Control Panel
options" để kích hoạt hiển thị nó.

3. Chọn Performance tab, và sau đó là File System.


4. Chọn Troubleshooting tab, và sau đó chọn đánh dấu Disable System Restore.
5. Chọn OK và sau đó là Yes khi bạn được đề nghị khởi động lại hệ thống.

Sau khi diệt virus hoặc loại bỏ vấn đề trên máy, bạn có thể kích hoạt chế độ này bằng
cách thực hiện y hệt các bước trên, chỉ khác ở bước 4 là bỏ chọn Disable System Restore.

2. Trên Windows XP:


Chú ý quan trọng:
○ Bạn phải đăng nhập vào hệ thống với tài khoản có quyền quản lý (admin) để có
thể làm việc này. Nếu bạn chỉ đăng nhập với tài khoản người dùng bình thường
thì tab System Restore sẽ không được hiển thị để lựa chọn.
○ Tắt System Restore sẽ xóa bỏ tất cả những điểm nhớ trước đó.
○ Hướng dẫn sau sử dụng khi bạn dùng chế độ mặc định của Start Menu (không
chuyển sang chế độ Classic). Để hiệu chỉnh lại chế độ mặc định của Start menu,
bạn có thể nháy chuột phải vào nút Start, chọn Properties, chọn Start menu (không
phải là Classic) và nhấn OK.
1. Nhấn Start.
2. Nhấn chuột phải lên biểu tượng My Computer và chọn Properties.
3. Nhấn vào System Restore tab.
4. Chọn đánh dấu "Turn off System Restore" hoặc "Turn off System Restore on all
drives".
5. Nhấn Apply.
6. Khi tắt chế độ System Restore, các điểm nhớ trước đó sẽ bị xoá. Nhấn Yes để làm việc
đó.
7. Nhấn OK.
8. Thực hiện các công việc bạn cần làm ví dụ là diệt virus. Khi hoàn thành mọi công việc,
khởi động lại và thực hiện các bước giống như ở trên, chỉ khác ở mục 4 là bỏ chọn "Turn
off System Restore" hoặc "Turn off System Restore on all drives" để kích hoạt trở lại
System Restore.

3. Cho Windows Vista:


1. Nhấn Start.
2. Nhấn chuột phải trên biểu tượng Computer, và nhấn chọn Properties.
3. Nhấn lên System Protection dươi cột Tasks ở phía bên trái.
4. Nhấn vào Continue ở cửa sổ "User Account Control" được hiện lên.
5. Ở trong System Protection tab, tìm Available Disks
6. Bỏ chọn tick tại những ổ cứng bạn muốn tắt System Restore.
7. Khi tắt chế độ System Restore, các điểm nhớ trước đó sẽ bị xoá. Nhấn "Turn System
Restore Off" trong cửa sổ được hiện ra để làm việc đó.
8. Nhấn OK.
9. Bật trở lại System Restore bằng các bước như trên bằng cách chọn ở mục 6 những ổ
cứng cần kích hoạt chế độ này.

You might also like