You are on page 1of 6

Quyết định hình phạt với người chưa thành niên phạm tội

Ts: Dương Tuyết Miên.

Quyết định hình phạt với người chưa thành niên phạm tội là trường hợp đặc
biệt. Tính chất đặc biệt của trường hợp này là ở chổ hình phạt được quy định
nhẹ hơn so với người đã thành niên phạm tội có các tình tiết khác tương đương
và mức giảm nhẹ phụ thuộc vào mức tuổi của người phạm tội

Sở dĩ người chưa thành niên được hưởng chính sách giảm trách nhiệm
Hình sự của Nhà nước khi có hành vi phạm tội vì họ có những đặc điểm đặc biệt
về nhân thân. Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể
chất, tâm sinh lí, chưa thể nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội
của hành vi mà mình thực hiện. Nhận thức của họ thường non nớt, thiếu chính
chắn và đặc biệt họ dễ bị kích động, lôi kéo bởi những người xung quanh, nếu ở
môi trường xấu và không được chăm sóc giáo dục chu đáo, người chưa thành
niên dễ bị ảnh hưởng thói hư tật xấu dẫn đến phạm pháp. Bên cạnh đó, so với
người đã thành niên ý thức phạm tội của người chưa thành niên nói chung chưâ
sâu sắc, họ dể tiếp thu sự giáo dục của xã hội, nhà trường cũng như gia đình để
từ bỏ con đường phạm tội. Do vậy, không thẻ coi người chưa thành niên phải
chịu trách nhiệm Hình sự giống như người đã thành niên. Chính vì thế, hình
phạt áp dụng với người chưa thành niên phạm tội phải nhẹ hơn so với người đã
thành niên.

Khi quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, trước
hết tòa án phải tuân thủ các nguyên tắc sau:

Việc sử lí hành vi phạm tội của người chưa thành niên chủ yếu nhằm giáo
dục, giúp đỡ họ sữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích
cho xã hội.

Người chưa thành niên có thể được miễn truy cứu trách nhiệm Hình sự
nếu người đóphạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây thiệt hại
không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình cơ quan tổ chức nhận
giám sát giáo dục.

Việc truy cứu trách nhiệm Hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp
dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và
phải căn cứ tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm của nhân thân
và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Nếu thấy không cần thiết phải áp
dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội thì tòa án áp dụng một
trong các biện pháp tư pháp là giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc đưa vào
trường giáo dưỡng.

Đối với người chưa thành niên phạm tội thì không sử phạt tù trung thân
hoặc tử hình, không áp dụng các hình phạt bổ sung, không áp dụng hình phạt
tiền đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ tuỏi từ 14 đến dưới 16 tuổi.
Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người chưa thành niên phạm tội được
hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người thành niên đã phạm tội
tương ứng.

Án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi
không được tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.

Theo quyết định của BLHS năm 1999, việc quyết định hình phạt được
tiến hành như sau:

+ Đối với phạt tiền: Nếu như BLHS năm 1985 trước khia chưa quy định
áp dụng phạt tiền đối với người chưâ thành niên phạm tội thì BLHS năm 1999
đã quy định phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người chưa thành
niên phạm tội nếu họ ở độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi và họ có thu nhập
hoặc có tài sản riêng. Quy định mới này nhằm hạn chế việc áp dụng hình phạt
tù đối với người chưa thành niên đồng thời việc áp dụng phạt tiền đối với người
chưa thành niên phạm tội trong trường hợp này vẫn đảm bảo được mục đích
của hình phạt.

Mức phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội không vượt qúa
1/2 mức phạt tiền mà điều luật quy định.

+ Đối với hình phạt cải tạo không giam giữ: BLHS năm 1999 quy định giới
hạn hình phạt áp dụng cho người thành niên phạm tội không vượt quá 1/2 thời
hạn và điều luật quy định. Đồng thời, do người chưa thành niên hầu như chưa
có thu nhập hoặc tài sản riêng nên BLHS năm 1999 đã không khấu trừ thu nhập
của họ khi bị kết án.
+ Đối với hình phạt tù có thời hạn: BLHS năm 1999 đã phân hóa người
chưa thành niên ra làm hai đối tượng là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và
người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi với đường lối xử lí khác nhau. Người từ đủ
14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì được xử lí nhẹ hơn người từ đủ 16 tuổi đến 18 tuổi.
Trong từng đối tượng cụ thể nói trên, nhà làm luật tách thành hai trường hợp
( trường hợp quy định hình phạt tù chung thân, tử hình và trường hợp điều luật
quy định hình phạt tù có thời hạn ) tương ứng với mức hình phạt khác nhau phù
hợp với độ tuổi của người thành niên cũng như yêu cầu đấu tranh phòng chống
tội phạm. Quy định này thể hiện sự tiến bộ về chất của BLHS năm 1999 khi quy
định về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội. Cụ thể,
Điều 74 quy định như sau:

1.” Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều
luật được áp dụng quy định hình phạt tù và chung thân hoặc tử hình thì mức
hình phạt cao nhất được áp dụng không vượt quá 18 năm tù; nếu là tù có thờ
hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 3/4 mức phạt tù có
thời hạn.

2. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật
được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức hình phạt
cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù: nếu là tù có thời hạn thì mức
hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 1/2 mức phạt tù mà điều luật quy
định”

Đối với trường hợp người chưa thành niên phạm nhiều tội, có tội thực
hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội thực hiện sau khi đủ 18 tuổi thì việc tổng hợp
hình phạt được áp dụng như sau:

Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi thì hình
phạt không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 74 Bộ luật
này ( Khoản 1 Điều 75)

Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi thì hình phạt
chung ấp dụng như đối với người đã thành niên phạm tội ( Khoản 2 Điều 75)

Thực tiễn vận dụng điều 75 BLHS năm 1999 cho thấy nãy sinh vấn đề
cần giải quyết, đó là việc xác định tội nặng nhất. Thực tiễn xét xử đã xác định
tội nặng nhất là tội có mức hình phạt tối đa của khung hình phạt cao nhất cao
hơn. Trong trường hợp có mức hình phạt tối đa bằng nhau thì thì tội nặng hơn là
tội có mức hình phạt khởi điểm khung hình phạt cao nhất cao hơn. Cách xác
định này một lần nữa được khẳng định tại Thông tư số 01/98 TANDTC –
VKSNDTC – BNV ngày 02/1/1998. Tuy nhiên, có những trường hợp không thể
xác định được tội nặng nhất nếu hình phạt tối đa của khung hình phạt cao nhất
của hai tội ngang bằng nhau và cao nhất cũng ngang bằng nhau. Trong khoa
học luật Hình sự hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau . Ý kiến thứ nhất cho rằng:
“Cơ sở để xác định tội nặng nhất trong các tội mà người chưa thành niên đã
phạm là căn cuwsw và hình phạt cụ thể mà tòa án đã tuyên cho từng tội. Tội
nào có hình phạt cao nhất thì đó là tội nặng nhất trong các tội mà người chưa
thành niên đã phạm”. Ý kiến thứ hai cho rằng “ Trường hợp không thể xác định
được tội nặng nhất nếu hình phạt tối đa của khung hình phạt cao nhất là hai tội
bằng nhau và hình phạt khởi điểm của khung có hình phạt cao nhất cũng bằng
nhau thì trường hợp này tội nặng hơn là tội có hình phạt tối đa của khung hình
phạt nhẹ nhất cao hơn. Nếu hình phạt tối đa của khung hình phạt nhẹ nhất
bằng nhau thì tội nặng hơn là tội có hình phạt khởi điểm của khung hình phạt
nhẹ nhất cao hơn.”

Chúng tôi cho rằng ý kiến thứ nhất tuy có ưu điểm là đơn giản hóa việc
vận dụng khái niệm tội nặng hơn trong thực tế nhưng không hợp lí vì không thể
coi tội trộm cắp tài sản nặng hơn tội giết người nếu ở trường hợp cụ thể, người
phạm tội trộm cắp tài sản bị phạt 10 năm tù, còn ở tội giết người, bị cáo chỉ bị
phạt có 7 năm tù. Theo chúng tôi, ý kiến thứ hai hợp lí hơn nhưng chưa đủ để
giải quyết những vướng mắc còn lại. Cụ thể là nếu hình phạt tối đa và hình
phạt tối thiểu của khung hình phạt có hình phạt nhẹ nhất bằng nhau thì việc
xác định tội nặng hơn sẽ như thế nào? Theo chúng tôi, nếu tội nào có quy định
hình phạt bổ sung thì tội đó nặng hơn. Tuy nhiên, nếu cả hai tội đều quy định
hình phạt bổ sung thì tội nặng hơn sẽ là tội có khác thể quan trong hơn.

Quá trình vận dụng Điều 74 vào thực tiễn còn gặp nhiều vướng mắc
khác. Đó là do hạn chế về kỉ thuật lập pháp. Cụ thể là Điều 74 quy định : “ …
nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình”
hoặc “ … không quá 3/4 mức phạt tù mà điều luật quy” hoặc… “ không quá 1/2
mức phạt tù mà điều luật quy định”. Bởi vì, điều luật quy định về tội phạm cụ
thể có thể có một hoặc nhiều khung hình phạt trong khi đó Điều 74 chỉ dùng từ
chung chung là “ điều luật” mà không chỉ rõ khung hình phạt bị áp dụng. Mặt
khác, cần hiểu rằng nhà làm luật quy định giảm nhẹ hình phạt cho người thành
niên phạm tội so với trong cùng một khung hình phạt ( trong điều kiện các tình
tiết khác tương đương ). Do đó, quy định chung chung như trên dễ gây hiểu
nhầm và vận dụng không thống nhất. Ví dụ: Bị cáo E phạm tội cướp tài sản
theo khoản 1 Điều 133 BLHS năm 1999, khi phạm tội bị cáo tròn 15 tuổi. Với
quy định chưa rõ như trên của Điều 74, bởi vì, tội cướp tài sản có quy định hình
phạt tù chung thân, tử hình. Nếu vận dụng khoản 2 đoạn 1 Điều 74 thì mức
hình phạt cao nhất được áp dụng cho bị cáo không quá 12 năm tù trong khi đó
mức cao nhất của khoản 1 Điều 133 chỉ là 10 năm tù ( thấp hơn mức 12 năm tù
) vả mặc dù đã áp dụng Điều 74 nhưng hình phạt tuyên cho bị cáo tuyên cho bị
cáo có thể còn cao hơn cả trong trường hợp chưa giảm nhẹ hình phạt cho bị
cáo. Trong trường hợp nếu hiểu đúng tinh thần của Điều 74 thì phải vận dụng
đoạn 2 khoản 2 Điều 74 thì mới đúng vì bị cáo E phạm tội theo Điều 133 khoản
1 và điều 133 khoản 1 quy định hình phạt áp dụng cho bị cáo là tù có thời hạn.
Trường hợp này mức hình phạt cao nhất mà tòa án tuyên cho bị cáo không quá
5 năm tù – không quá 1/2 mức cao nhất của khoản 1 Điều 133. Như vậy, nếu
áp dụng đoạn 2 khoản 2 Điều 74 thì hình phạt áp dụng cho bị cáo rõ ràng được
giảm nhẹ hơn hẳn so với người đã thành niên phạm tội.

Mặt khác, cách diễn đạt “ mức hình phạt cao nhất không quá 18 năm tù”
hoặc “ không quá 3/4 muwcs phạt tù”… của Điều 74 là còn chưa rõ nên có thể
gây ra nhiều cách hiểu khác nhau.

Cách hiểu thứ nhất cách hiểu phổ biến hiện nay là BLHS đã khống chế
mức tối đa của khung hình phạt được phép áp dụng đối với người chưa thành
niên phạm tội trong sự so sánh với người đã thành niên phạm tội và BLHS đã
không khống chế mức tối thiểu. Mức hình phạt cao nhất mà người chưa thành
niên chấp hành phải thấp hơn mức hình phạt cao nhất áp dụng cho người đã
thành niên.

Các hiểu thứ hai cho rằng mặc dù Điều 74 quy định như trên nhưng thực
chất điều luật này vẫn còn khống chế mức hình phạt tối đa và mức tối thiểu
quy định cho người đã thành niên.
Chúng tôi cho rằng để các quy định về quyết định hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội được áp dụng có hiệu quả trong thực tế, Điều 74
BLHS hiện hành cần khắc phục kịp thời những hạn chế đã phân tích ở trên để
các quy định này thực sự là công cụ hữu hiệu của Nhà Nước trong cuộc đấu
tranh phòng chống tội phạm./.

You might also like