You are on page 1of 42

1

Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

Phần mở đầu

1. Lí do chọn đề tài
Văn hoá nhân loại đều gắn liền với một thời đại nhất định, văn học Việt Nam
cũng không nằm ngoài quỹ đạo của văn hoá nhân loại. Hình thành trong những bối
cảnh đặc biệt, văn học Việt Nam là tấm gương phản ánh trung thành và chân thực hiện
thực của cuộc sống và con người Việt Nam trong hàng nghìn năm dựng nước và giữ
nước. Thời đại chiến tranh trong văn học Việt Nam được miêu tả tự nhiên và sinh
động, từng bước trưởng thành qua mỗi chặng đường phát triển của văn học dân tộc. Ở
mỗi chặng đường ấy, thời đại với những diễn biến của cuộc chiến tranh lại được tiếp
cận và phản ánh ở những góc độ khác nhau, theo những cảm hứng khác nhau. Vì vậy,
“chiến tranh trở thành siêu đề tài, người lính trở thành siêu nhân vật, càng khám phá
càng thấy những độ rung không mòn nhẵn”.[16,7]
Viết về đề tài chiến tranh, mỗi thể loại văn học lại có những cách thể hiện khác
nhau về hình thức nghệ thuật cũng như tư tưởng của người cầm bút. Cùng với sự phát
triển của các thể ký văn học như: phóng sự, tuỳ bút…, nhật ký là một thể loại có sức
hấp dẫn riêng, bởi nó có tính riêng tư, không “sáng tác”. Vì vậy nhật ký ra đời, phát
triển và đạt được nhiều thành tựu trong sáng tạo văn học. Sự bùng nổ của nhiều tác
phẩm nhật ký có giá trị nghệ thuật và giá trị hiện thực cao đã đem đến cho thể loại này
những màu sắc mới. Thể tài nhật ký được một loạt các nhà văn sử dụng và không
hiếm khi độc giả bắt gặp trong văn học thế giới những tác phẩm văn học được viết
dưới dạng nhật ký như:Lối lên miền Oku của Matsuo Basho, Nhân vật của thời đại
chúng ta của M.Ju. Lermontov, Chàng ngốc của F.M.Dostoevski. Mới đây người ta đã

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


2
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

kỷ niệm sáu mươi năm ngày mất của cô bé Do Thái A.Frank, tác giả cuốn nhật ký
được xem là cuốn nhật ký nổi tiếng nhất thế
giới, viết trong thời phát xít Đức khủng bố người Do Thái. Gần đây ở Việt Nam cũng
đã xuất hiện cuốn Nhật ký Mã Yến – tên một cô bé dân tộc Hồi ở Trung Quốc, cũng có
tiếng vang, nhất là ở Pháp. Bên cạnh đó, phải kể đến một số nhật ký chiến tranh như
Ở rừng của Nam Cao, Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng của Nguyễn Huy Tưởng. Đặc biệt,
vào những năm gần đây, sự xuất hiện của một số cuốn nhật ký chiến tranh gây xôn
xao dư luận như Nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi của Nguyễn Văn Thạc, Nhật ký Đặng
Thuỳ Trâm của Đặng Thuỳ Trâm, Nhật ký Chu Cẩm Phong của Chu Cẩm Phong…
Những tác phẩm nhật ký này đã thu hút nhiều tầng lớp độc giả khác nhau và có tác
động lớn đến văn hoá đọc ở Việt Nam, trong khi văn hoá nghe nhìn đang lấn át văn
hoá đọc.
Hiện thực chiến tranh với những cái dữ dội, cái khắc nghiệt, cái anh hùng vô
cùng đẹp đẽ, những hy sinh to lớn, những chặng đường vô cùng gian khổ, những
chiến công vang dội… tất cả đều được hiện lên rõ nét trong những trang nhật ký. Nói
như nhà văn Chu Lai: “Chiến tranh là một thứ dung dịch cực mạnh mà trong thứ dung
dịch đó tất cả đều hiện ra lên màu lên nét, cái cao thượng , cái thấp hèn, sự vị tha, lòng
đố kỵ. Chiến hào và cái chết không có chỗ chứa cho sự giả trá được tồn tại”[17,115].
Vì vậy, những tác phẩm nhật ký đã thể hiện hiện thực chiến tranh rõ nét, đúng như sự
thật vốn có của nó, không hề tô vẽ sự thật hay đánh bóng ngôn từ. Vì vậy, sức mạnh
sự thật là một điểm mấu chốt trong nhật ký văn học. Nói như nhà văn L.Tônxtôi:
“Nhân vật mà tôi yêu thích nhất là sự thật”. Nhật ký không chỉ phản ánh những biến
cố chiến tranh, những sự kiện chiến tranh mà thể hiện được sự vận động, biến chứng
bên trong con người và hành động, phát triển chiều sâu nhận thức và hiện thực chiến
tranh. Thời đại chiến đấu anh hùng của nhân dân ta, đặc biệt là cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước của chúng ta đã đặt ra những vấn đề có tính sâu sắc về thời đại và

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


3
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

từ đó người ta đã rút ra rất nhiều những kết luận, những chân lý mà con người và thời
đại chúng ta ngày nay đang rất quan tâm.
Vì vậy, trên cơ sở phát triển của thể loại nhật ký chiến tranh, chúng tôi lấy đề
tài nhật ký về chiến tranh và người lính làm đối tượng nghiên cứu. Từ đó khái quát về
cách nhìn nhận hiện thực chiến tranh, sự thể hiện hình tượng người lính- trung tâm
của cuộc chiến tranh, gắn với những dấu hiệu mới về sự phản ánh hiện thực chiến
tranh và sự thể hiện hình tượng người lính. Niên luận nghiên cứu về thời đại chiến
tranh trong những tác phẩm nhật ký chiến tranh, cụ thể là hai cuốn nhật ký: Mãi mãi
tuổi hai mươi của liệt sỹ Nguyễn Văn Thạc và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm của liệt sỹ,
bác sỹ Đặng Thuỳ Trâm, những liệt sỹ mãi sống cùng năm tháng.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi lấy đề tài về thời đại chiến tranh và người lính cách mạng làm đối
tượng nghiên cứu. Từ đó khái quát về hiện thực chiến tranh, sự thể hiện hình ảnh
người lính – trung tâm của cuộc chiến tranh, gắn với những dấu hiệu mới về sự phản
ánh hiện thực và sự thể hiện nhân vật.
Cùng với việc phân tích thời đại với hình tượng những anh hùng cách mạng,
chúng tôi đi phân tích giá trị sức mạnh sự thật của dòng văn học tư liệu. Ở đó, người
đọc hoàn toàn bị cuốn hút bởi cách thể hiện chiến tranh và người lính cách mạng chân
thực như nó vốn có, không hề có sự đánh bóng bằng ngôn từ. Chính điều đó đã tạo
nên sức mạnh lôi cuốn độc giả, thuyết phục độc giả bằng chính sức mạnh sự thật. Lẽ
tất nhiên nó đưa đến sức sống bất diệt của tác phẩm trong kho tàng văn học dân tộc.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Nhật ký chiến tranh điển hình về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, về thời
đại Hồ Chí Minh, Mãi mãi tuổi hai mươi của Nguyễn Văn Thạc và Nhật ký Đặng
Thuỳ Trâm, cùng một vài tác phẩm cùng đề tài.

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


4
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

3. Nhiệm vụ, đóng góp


3.1. Nhiệm vụ
- Khái quát thời đại cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
- Phân tích một số vấn đề về thời đại, hiện thực chiến tranh và hình tượng người
lính cách mạng.
- Tìm hiểu một số đặc trưng của thể loại nhật ký.
3.2. Đóng góp.
Trên cơ sở kế thừa những ý kiến, những quan điểm văn học về chiến tranh, từ
đó cụ thể hoá những biểu hiện đặc sắc của thời đại kháng chiến qua những trang nhật
ký giàu hiện thực trong dòng chảy chung của các thể loại văn học.
4. Bố cục đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tài liệu tham khảo, chúng tôi triển khai
đề tài thành ba chương.
Chương 1: Khái niệm về thời đại.
Chương 2: Thời đại Hồ Chí Minh và hình tượng của người lính cách mạng.
Chương 3: Một số đặc điểm về hình thức nghệ thuật.

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


5
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

Phần nội dung

Chương 1
Khái niệm về thời đại

1.Một số vấn đề lí luận về thời đại.


Vấn đề “ thời đại” là một đề tài hấp dẫn, được các học giả phương Đông và
phương Tây nghiên cứu tìm hiểu, đưa ra những thuyết giải khác nhau về thời đại và
các cơ sở khác nhau để phân chia thời đại. Có người thông qua đặc trưng tình thế của
thế giới để phân chia thời đại, như: thời đại hai cực, thời đại đa cực, thời đại toàn cầu
hoá, thời đại Chiến tranh lạnh, thời đại hậu Chiến tranh lạnh, thời đại hoà hoãn… Có
người lấy sự phát triển của khoa học – công nghệ hiện nay để xác định thời đại như:
thời đại khoa học – công nghệ, thời đại điện tử, thời đại tin học, thời đại sinh học, thời
đại toàn cầu, thời đại không gian vũ trụ…Có người lấy hình thái kinh tế để phân chia
thời đại như: thời đại kinh tế nông nghiệp, thời đại kinh tế công nghiệp, thời đại kinh
tế tri thức…Do cách nhìn nhận và phương pháp nghiên cứu khác nhau, khiến cho sự
khái quát về tính chất và đặc trưng thời đại của mọi người không giống nhau.
Nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng Pháp là Phuriê(1772 – 1837) chia lịch sử xã
hội loài người thành bốn giai đoạn: mông muội, dã man, gia trưởng và văn minh.
Trong khi đó nhà nhân chủng Mỹ là Moócgan (1818 – 1881) lại chia thời đại thành ba
giai đoạn: mông muội, dã man và văn minh. Như vậy dựa trên những cơ sở khác nhau

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


6
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

có thể phân chia thời đại thành những giai đoạn khác nhau, với những biểu hiện khác
nhau của từng giai đoạn.
Thời đại mà những người Mác- xít nói đến là một khái niệm chính trị, là sự
khái quát chiến lược ở tầng cao nhất về tiến trình phát triển và xu thế phát triển của
thế giới. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, cơ sở thứ nhất để phân chia thời
đại lại là ở hình thái kinh tế-xã hội. Mỗi thời đại lịch sử lại có những đặc điểm khác
nhau, thể hiện ở những khía cạnh khác nhau.
Việc nghiên cứu thời đại lịch sử có một ý nghĩa to lớn. Có hiểu được thời đại
lịch sử là thời đại nào thì chúng ta mới nắm được những nấc thang của lịch sử với
những đặc điểm riêng, hấp dẫn của thời đại ấy.
2.Một số định nghĩa về thời đại.
Thời đại là một khái niệm khoa học dùng để phân kỳ lịch sử xã hội, phân biệt
những nấc thang phát triển xã hội loài người. Trong lịch sử văn học, thời đại là
một thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến và được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm,với
những diễn giải khác nhau về thời đại.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt: “Thời đại là khoảng thời gian lịch sử dài được
phân chia ra theo những sự kiện có đặc trưng giống nhau. Thời đại phong kiến. Những
phát hiện mới về thời đại đồ đồng. Thời đại công nghệ thông tin. Có tính chất tiêu
biểu cho một thời đại. Một thắng lợi có ý nghĩa thời đại. Người anh hùng thời đại.
Một công trình mang tầm vóc thời đại. Có ý nghĩa thời đại, mang tầm vóc thời đại”
[12,1591].
Theo Từ điển Tiếng Việt tường giải và liên tưởng: “Thời đại là giai đoạn lịch sử
đánh dấu bằng những chuyển biến quan trọng của xã hội về những mặt nào đó( chính
trị, văn hóa, khoa học, kỹ thuật…), có khi tiêu biểu là một nhân vật có công lớn. Thời
đại trung cổ. Thời đại phục hưng. Thời đại Hồ Chí Minh. Thời đại nguyên tử.Mỗi giai
đoạn của tiền sử. Thời đại đồ đá, đồ đồng”[2,792]

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


7
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

Theo Từ điển từ nguyên giải nghĩa: “Thời đại là một khoảng thời gian rất dài
gồm nhiều giai đoạn, nhiều năm. Theo dõi sự phát triển của lịch sử, người ta thường
chia ra thời đại thượng cổ, thời đại trung cổ, cận đại và hiện đại. Có khi lấy tên một
nhân vật để đặt tên cho thời đại, nếu nhân vật ấy có tác động lớn nhất suốt cả một hay
nhiều thế hệ. Thí dụ ta nói: thanh niên thời đại Hồ Chí Minh” [7,359]
Các định nghĩa trên tựu trung lại đã phân chia thời đại rất rõ ràng. Mỗi một thời
đại đều được xem là một giai đoạn của lịch sử dân tộc và đều có những đặc điểm riêng
vốn có của nó. Chính vì vậy chúng tôi gọi thời đại trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai
mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm là thời đại Hồ Chí Minh. (Theo: một thắng lợi có ý
nghĩa thời đại, một anh hùng thời đại, mang tầm vóc thời đại, một nhân vật có công
lớn, có tác động lớn đến suốt nhiều thế hệ trong lịch sử dân tộc Việt Nam). Đó là một
thời đại hào hùng của dân tộc Việt Nam, của non sông và con người Việt Nam. Thời
đại mà chủ nghĩa anh hùng được biểu hiện một cách rõ nét nhất và sâu sắc nhất. Chính
vì vậy, thời đại Hồ Chí Minh là một nguồn cảm hứng vô tận để những học giả nghiên
cưú, tìm hiểu về chiến tranh, về những năm tháng hào hùng của dân tộc Việt Nam làm
nên đại thắng mùa xuân năm 1975. Nhưng để làm nên mốc son lịch sử ấy, dân tộc
Việt Nam đã phải trải qua biết bao nhiêu những khó khăn, những mất mát và những
hy sinh lớn lao.
Khai thác đề tài về thời đại chiến tranh, trên cơ sở kế thừa những ý kiến, những
quan điểm văn học về chiến tranh, chúng tôi sẽ cụ thể hoá những biểu hiện đặc sắc
của thời đại kháng chiến qua những trang nhật ký giàu hiện thực trong dòng chảy
chung của các thể loại văn học.

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


8
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

Chương 2
Thời đại Hồ Chí Minh và hình tượng người
lính cách mạng
1. Hiện thực chiến tranh
Đối với dân tộc Việt Nam, sau cách mạng tháng Tám năm 1945, mục tiêu độc
lập, tự do và thống nhất tổ quốc luôn luôn là mục tiêu cao cả và thiêng liêng. Nó được
biểu trưng trong câu nói của Hồ Chí Minh: “ Miền Nam là máu của máu Việt Nam, là
thịt của thịt Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy không bao
giờ thay đổi”. Tất cả mọi âm mưu chia cắt đất nước là động vào nơi sâu thẳm nhất của
tình cảm dân tộc. Khi chủ nghĩa đế quốc vẫn tiếp tục âm mưu áp đặt ách thống trị và
chia cắt lâu dài đất nước ta, khi nhân dân buộc phải cầm súng thì tất cả đều sẵn sàng
đi vào tuyến lửa. Đó là sự tiếp nối truyền thống yêu nước nồng nàn của dân tộc ta
“Mỗi khi có giặc xâm lăng thì truyền thống ấy lại dấy lên kết thành một làn sóng vô
cùng mạnh mẽ, nhấn chìm lũ cướp nước và bán nước”. Lòng yêu nước với ý chí quyết
tâm không trở lại thân phận nô lệ, dẫu dưới bất kỳ một hình thức nào. Một lòng yêu
nước gắn với những thành quả cụ thể của cách mạng tháng Tám. Một lòng yêu nước
gắn với viễn cảnh là chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng bước đầu với biết bao khát
khao và ước vọng trên miền Bắc từ năm 1960. Chiến tranh khốc liệt, nhưng chứa
đựng trong nó là vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất cách mạng của con người Việt Nam.
Hiện thực chiến tranh, cụ thể là cuộc kháng chiến chống đế quố Mỹ của dân tộc
Việt Nam đã được tái hiện đầy đủ, sinh động qua từng chi tiết của những trang

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


9
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

nhật ký căng đầy sức sống. Những trang viết tả thực cảnh chiến tranh với mọi hoạt
động diễn biến cụ thể, đọc đến đâu, người đọc cũng tưởng như mình đang được trực
tiếp chứng kiến bối cảnh tại chỗ của chiến tranh đến đấy. Mỗi trang viết ta đều có thể
bắt gặp những tình huống căng thẳng. Mọi khó khăn, nguy hiểm lúc nào cũng như
rình rập con người. Rõ ràng chiến tranh đã tác động và ảnh hưởng sâu sắc tới mọi mặt
của đời sống, đã để lại những dấu vết hằn sâu trong tâm thức cộng đồng và cá nhân
con người.
Nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm đã thể hiện rất rõ
hiện thực chiến tranh, phần lớn những trang viết viết về những mất mát, những hy
sinh, những trăn trở của người lính cách mạng. Chiến tranh đã tạo nên những mất mát
quá lớn đối với con người. Chiến tranh không chỉ tàn phá thiên nhiên, mà nó còn cướp
đi sự sống của bao người dân vô tội. Cái chết luôn rình rập sự sống của con người.
Mọi hoạt động của con người đều diễn ra dưới mưa bom bão đạn. Chiến tranh đã hằn
sâu trong cuộc sống của con người. Con người ngày đêm phải vật lộn với chiến tranh
để giành phần thắng về phía mình. Ở mỗi chiến trường, trong mỗi chiến hào, ranh giới
giữa sự sống và cái chết là rất mong manh, bởi con người không thể biết được ngày
mai họ sẽ sống hay sẽ hy sinh. Nhưng “ Trên đời này không có con đường cùng, chỉ
có những ranh giới. Điều cốt yếu là phải có sức mạnh để vượt qua những ranh giới
ấy” ( Nguyễn Khải).
Điều đáng được xem là kỳ diệu đó là: dẫu cuộc chiến đấu rất khốc liệt và dẫu
với thời gian ngắn ngủi dưới mưa bom bão đạn thì người viết đều có thể viết được
ngay, viết nhanh, viết hay trên hiện thực nóng bỏng và in rất đậm cái dấu ấn thời sự.
Điều này được cắt nghĩa bởi chính hiện thực lớn lao của dân tộc.
Cuộc kháng chiến đang bước vào những giai đoạn mới, chiến trường miền Nam
ngày càng gay go và ác liệt. Trong khi miền Bắc đang tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã
hội, ra sức chi viện cho miền Nam, thì chiến trường miền Nam đang phải đương đầu

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


10
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

với một tên đế quốc sừng sỏ và tàn bạo. Chúng muốn chiếm đoạt miền Nam Việt Nam
bằng mọi giá. Sự ham muốn của chúng biểu hiện bằng những cuộc dội mưa bom bão
đạn xuống chiến trường miền Nam, bằng những cuộc càn quét vô nhân tính. Có lẽ hơn
ai hết, những người lính trực tiếp chiến đấu với quân thù thì mới có thể cảm nhận hết
sự dữ dội và khốc liệt của chiến tranh. Và Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thuỳ Trâm là
những người lính như thế. Họ đã trải qua những cảm xúc chiến tranh với những đồng
đội của họ. Họ đã được trực tiếp chứng kiến sự dữ dội của chiến tranh, trực tiếp chứng
kiến những mất mát, những hy sinh lớn lao của những đồng đội của họ, của những
vùng quê khi họ dừng chân, ở những chiến trường nơi họ chiến đấu. Điều đó đã giúp
họ ghi lại những trang nhật ký chân thành nhất, những hiện thực chiến tranh rõ nét
nhất.
Hàng ngày, hàng giờ chiến tranh vẫn hiện hữu khắp nơi trên chiến trường, bom
vẫn rơi và máu vẫn đổ. Dưới làn mưa bom bão đạn ấy, cuộc sống vẫn diễn ra hàng
ngày, hàng giờ, cùng niềm tin bất diệt vào tương lai. Đọc những cuốn nhật ký chiến
tranh, độc giả có thể hình dung ra sự khốc liệt của bom đạn chiến tranh, sự tàn phá
ghê gớm của chiến tranh. Những trang nhật ký rỉ máu yêu thương ấy tràn ngập những
cảnh tượng khốc liệt của thảm hoạ chiến tranh, những mất mát và những hy sinh lớn
lao. Trong những trang nhật ký của mình, Đặng Thuỳ Trâm đã viết rất chân thành về
sự tàn khốc của chiến tranh, những mất mát, những hy sinh thầm lặng của những
người con anh hùng cách mạng. “Chiến tranh là mất mát. Trên mảnh đất miền Nam
nóng bỏng khói lửa này, hầu như 100% các gia đình đều có tang tóc. Chết chóc đau
thương đè nặng lên đầu mỗi người dân”.(nhật ký ngày 1.1.68)[9,52]. “Trên mảnh đất
Đức Phổ này vẫn còn nặng những đau thương, ngày từng ngày máu vẫn rơi, xương
vẫn đổ”.[9,55]. Có biết bao những đau thương mà chiến tranh đem đến cho con người,
những đau đớn về thể xác, sự mất mát đắng cay, thậm chí là cả sự hy sinh. “Lâm bị
một mảnh đạn cối cá nhân xuyên vào tỷ sống, mảnh đạn ác nghiệt đã giết chết một

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


11
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

nửa người Lâm- từ nửa ngực trở xuống, Lâm hoàn toàn bại liệt, lở loét và biết bao
nhiêu đau đớn hành hạ Lâm”.(nhật ký ngày 25.7.68)[9,66]. Tình yêu mà Đặng Thuỳ
Trâm dành cho những người đồng đội của mình cũng là lòng căm thù quân giặc luôn
bừng cháy trong lòng chị, còn gì xót xa hơn khi trực tiếp chứng kiến những đau đớn
và những hy sinh to lớn của đồng đội. Chị thương Đường vô tận khi cậu bé bị bắt
sống trên đường công tác, “liệu cậu bé ấy có thể vượt qua được những đòn tra tấn dã
man” của lũ giặc tàn bạo và điên cuồng ấy. Có lẽ không có một thế lực nào có thể đè
bẹp ý chí của cậu bé cũng như bao người lính khác. Bởi nói như Lênin: “Lòng tin vào
chính nghĩa, sự giác ngộ rằng cần phải hy sinh đời mình cho hạnh phúc của những
người anh em, đã nâng cao tư tưởng của binh sĩ, làm cho họ chịu đựng được những
khó khăn chưa từng thấy”[14,100]
Những hy sinh anh dũng của các đồng chí như Sơn, Thìn khi “mới hôm qua còn
trò chuyện” nhưng “ đêm nay hai người ấy lại chỉ còn là cái xác nằm dưới nắm đất
của đất Đức Phổ mà lần đầu họ đặt chân đến” và biết bao những đồng chí khác của chị
như anh Dũng, Thuận, Khiêm, Lực…Những sự hy sinh lớn lao ấy nhắc ta nhớ đến
những ca từ của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn: “Bao nhiêu người đã ra đi / Ngày mai đây
bình yên vì đồng hoang đã lên đồng xanh / Ngày mai đây bình yên”.
Chiến tranh là mất mát bởi nó cướp đi quá nhiều sự sống của con người. Chiến
tranh là ác liệt bởi sự tàn phá ghê gớm, dã man và tàn bạo của nó. Những tranh nhật
ký viết về hiện thực chiến tranh như đang rỉ máu, những yêu thương, những đau xót
với những người lính và cả những căm thù đối với quân giặc. Tất cả
đều được viết bởi ngòi bút giản dị nhất, chân thành nhất của một người lính. Trong
một trang nhật ký, Nguyễn Văn Thạc đã viết: “Đêm ấy, thật đau lòng. Hồi chiều, bị
ném 40 quả bom. Điện bị đứt lung tung. Làng xóm chìm trong tang tóc và bóng đêm.
Ở ngay trước ngõ là một bát hương hiu hiu khói. Anh Phúc bị bom tiện đứt cả chân
tay, nằm trong chiếc quan tài đỏ, ngọn đuốc lửa thổi phừng phừng, cái xe bò lăn lộc

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


12
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

cộc… Sao giống “chiếc quan tài” như thế”.( nhật ký ngày 15.11.1971)[11,54]. Những
hình ảnh quen thuộc về chiến tranh ấy là sự gầm rú của máy bay, sự lã bom xuống các
chiến trường của kẻ thù “ Cứ sau mỗi tiếng rú của máy bay tăng tốc là lại nghe thấy
rầm rầm tiếng bom”(nhật ký ngày 14.4.72)[11,204].
Nguyễn Văn Thạc đã ghi chép rất kỹ những điều mắt thấy, tai nghe và cả những
điều anh cảm nhận được. Đó là chuyện về gia đình những người dân nơi anh đóng
quân, chuyện về những anh lính cùng đơn vị, về những cán bộ chỉ huy tiểu đội, trung
đội, trung đoàn…Hiện thực cách mạng với những con người cách mạng đã tác động
trực tiếp tới Nguyễn Văn Thạc trong những tháng ngày anh sống và chiến đấu cùng
họ. Có rất nhiều chuyện vui, nhưng cũng có cả những chuyện buồn. Nhưng anh luôn
tâm niệm một điều rắng: “Không ai muốn cuộc đời mình phải buồn bã cả. Nhưng rất ít
người trên đời này đạt được điều mình mong muốn. Mất mát nhiều nhưng cố làm sao
cho mình khỏi thất vọng, khỏi mất nghị lực luôn hun cháy lòng mình. Đó mới là điều
quan trọng”.(nhật ký ngày 2.12.1971)[11,92]
Hiện thực chiến tranh không chỉ được thể hiện bằng những sự tàn phá của bom
đạn,mà nó còn thể hiện ở những điều giản dị nhất của cuộc sống. “ Cuộc sống của đất
nước còn lam lũ lắm. Đầu tắt mặt tối mà nào có đủ miếng ăn. Rồi mất cắp. Rồi đánh
chửi nhau. Rồi thiên tai địch hoạ. Cơm độn ngô rồi còn độn sắn. Vậy mà những chiếc
lá tre kia vẫn dịu dàng, vẫn đưa ta vào cõi êm ả của tâm hồn. Thật lạ biết bao”.(nhật
ký ngày 13/12/1971)[6,110]. Văn trong nhật ký của Nguyễn Văn Thạc đầy tính hiện
thực và lãng mạn cách mạng. Cá biệt và khái quát hài hoà trong nhật ký của anh.
Người đọc bị cuốn hút bởi không trùng lặp, không vụn vặt cá nhân. Hiện thực cách
mạng được thể hiện một cách rõ nét nhất, không hề phô trương hay phóng đại. Anh
chọn sự kiện, thổi vào đó những suy nghĩ riêng một cách chân thành. Hiện thực chiến
tranh đã được miêu tả ở những hình ảnh bình dị nhất, đời thường nhất. Hiện thực bộ
đội lăn xả vào lao động, làm dân vận, xoá đi sự hiểu lầm của đồng bào một xóm núi

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


13
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

cá biệt. Hình ảnh anh Tặng sau sáu năm ở chiến trường về thăm nhà nhưng chị ruột
của anh đã không nhớ nữa vì nghĩ em mình đã chết lâu rồi. Hình ảnh một ngôi trường
bị bỏ bom, hình ảnh một bà mẹ già bán bánh sắn nuôi cháu cho cha nó ra trận. Hình
ảnh một trường học đi cổ động mà thấy toàn cô giáo với học trò, không hề có thầy
giáo…Hiện thực cuộc sống đã tác động rất lớn đến tư tưởng của người lính cách
mạng, nhất là khi sự nhận thức ấy sâu sắc, hằn sâu vào tâm trí của con người. Đó là
những người mẹ ngày đêm mong nhớ những đứa con của mình, lo lắng cho con bằng
tất cả tình thương yêu của một người mẹ. “Ôi, những ngày gió nổi. Bao nhiêu người
mẹ ngồi nhà nhớ đứa con đi xa đang nằm sương gối đất. Chiến tranh! Không còn là
một khái niệm trừu tượng, xa vời. Không còn là sự gắn liền với những danh từ cao
quý nhưng thiết thực. Ở đây là sự nhớ thương- Lo cho đứa con mình bị lạnh, thương
con tết liệu có bánh trưng xanh, có được ngồi ấm cúng trong nhà khi trời đất chuyển
mình sang năm mới…Tiếng khóc nấc lên của bà mẹ, thật quý nhưng cũng đáng sợ
biết bao”.(nhật ký ngày [6,151]. Có người mẹ vững vàng niềm tin khi con vào chiến
trường nhưng khi nghe con kể sự gian khổ của người lính, người mẹ ấy không muốn
cho con trở lại đơn vị nữa… Nhân dân ta trong kháng chiến có hàng ngàn người dỡ
nhà mình bắc cầu cho xe qua, có nhà nuôi cơm cả đại đội lính hàng tuần nhưng cũng
có người không muốn cho bộ đội vào nhà. Ngay cả những sự thật đồng đội quanh anh
có đảo ngũ, có buồn lo: “Bọn nó trốn về nhiều, có lẽ vì không chịu được cái cảnh nhớ
nhung đáng sợ này”. Anh Thạc không hề né tránh đã ghi lại bằng một quan điểm đúng
đắn những hiện tượng đó. Tất cả đều được anh ghi nhật ký. Đó đâu phải nhật ký của
riêng tư.
Đọc những trang nhật ký về hiện thực khốc liệt của bom đạn chiến tranh, người
đọc không khỏi bàng hoàng về những mất mát quá to lớn ấy. Những đau thương,
những hy sinh quá lớn ấy không gì có thể bù đắp được. Con đường đến với chiến
thắng của cách mạng Việt Nam phải trải qua biết bao những mất mát, những hy sinh

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


14
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

to lớn như thế. Sẽ không có bút mực và cũng không có nhà văn nào viết được những
tác phẩm giàu hiện thực chân thực như thế, nếu không phải là những người trong cuộc
viết ra trong một khoảnh khắc nào đó, đáp ứng nhu cầu của tình cảm. Đó là những
trang viết máu thịt của cuộc đời. Cái hoàn cảnh cơ bản của người lính khi viết nên
những trang nhật ký ấy là diễn ra trên đường hành quân, trong rừng, ở nhà dân hay
bên ngọn đèn dầu, giữa hai loạt bom, giữa hai tầm đại bác, phút im lặng giữa hai trận
đánh, hai cuộc chống càn…Khi sự sống và cái chết là kề nhau. Nói như nhà văn
Nguyễn Sáng hãy cứ viết với bất cứ cái gì có trong tay mình, chứ không hề nói
chuyện “để dành”. “Biết sống, biết chết lúc nào mà để dành. Có cái gì viết cái ấy”.
[10,195]. Đọc lên ta có thể hình dung ra từng số phận của con người và cao hơn nữa là
hơi thở của thời đại. Qua những trang nhật ký, ta có thể hiểu thêm được phần nào
quan niệm, lý tưởng, lẽ sống , sự cống hiến và hy sinh vì Tổ Quốc của nhiều thế hệ,
góp phần làm nên ngày chiến thắng 30/4/1975 vĩ đại của dân tộc.
Vì được viết bằng nhật ký nên hiện thực chiến tranh được thể hiện chính xác
nhất, cụ thể và chân thực nhất. Bởi viết nhật ký không phải là làm văn, mà trước hết
đó chính là cuộc đời. Không có một người nào khi đặt bút viết những dòng chữ ấy lại
nghĩ rằng sau mấy chục năm nữa chúng sẽ được in thành sách và họ sẽ trở thành tác
giả. Bởi vậy tất cả đều chân thực và sinh động đến kỳ lạ. Có thể nói, trong lịch sử văn
học chưa có thể loại văn học nào lại thể hiện được hiện thực chiến tranh một cách
chân thực đến thế. Những hiện thực cứ được trải ra với tất cả những gì nó vốn có,
không có một chi tiết hư cấu nào trong những trang nhật ký giàu tính nhân văn ấy.
Hình ảnh đất nước và con người Việt Nam một thời khói lửa chiến tranh vừa đau
thương ác liệt, vừa bình dị, vừa dữ dội, vừa yên lành, đều được hiện lên trên những
trang nhật ký giàu yêu thương của người lính cách mạng. Những dòng chữ “chân thực
đến đáy”, nhưng vẫn tràn đầy trân trọng, yêu thương của tác giả viết nhật ký đã để lại
cho người đọc niềm xúc cảm và trân trọng với hiện thực đất nước và con người một

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


15
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

thời đạn lửa. Chính vì vậy, thể loại nhật ký vẽ lên hiện thực chiến tranh một cách chân
thực nhất, nó khác hẳn các thể loại văn học khác. Trong một trang sổ tay viết văn in
trên báo quân đội nhân dân năm 1971, Nguyễn Minh Châu đã viết “Hình như cuộc
chiến đấu sôi nổi hiện nay đang được văn xuôi và thơ ca đôi khi tráng lên một lớp
men trữ tình hơi dày cho nên ngắm nghía nó thấy mỏng manh, bé bỏng, óng chuốt quá
khiến người ta phải ngờ vực”.

2.Hình tượng người chiến sĩ cách mạng trong thời đại Hồ Chí
Minh.
2.1.Cuộc sống của người lính với khát vọng của tuổi trẻ.
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, theo tiếng gọi thiêng liêng của
tổ quốc, muôn vạn trái tim của thanh niên Việt Nam sôi sục nhiệt huyết, thôi thúc họ
lên đường vào tuyến lửa. Trong đội ngũ “trùng trùng điệp điệp” của những đoàn quân
“ xẻ dọc trường Sơn đi cứu nước” ấy, có một đội ngũ không nhỏ những
thanh niên trí thức tự nguyện tìm đến súng và đến các tuyến lửa theo tiếng gọi thiêng
liêng của Tổ quốc. Điều đặc biệt hơn cả là họ là đang là những sinh viên, hay là
những sinh viên vừa mới dời ghế nhà trường bước vào quân ngũ với những bỡ ngỡ
ban đầu về cuộc đời người lính. Nhưng trong họ luôn cháy bỏng tình yêu đất nước và
niềm tin mãnh liệt vào tương lai, và hơn hết họ luôn mang trong mình khát vọng của
tuổi trẻ. Sức mạnh và nghị lực của tuổi trẻ luôn theo họ trên mỗi bước đường hành
quân, giúp họ vượt qua mọi khó khăn thử thách của cuộc chiến ác liệt. Đối với họ
không gì hạnh phúc bằng được đem sức sống và tuổi trẻ cống hiến cho đất nước.
“Vượt qua mỗi chặng đường là một cuộc chiến đấu thực sự, một thử thách đối với mỗi
người vừa dời ghế nhà trường, vừa xa làng xóm và những người thân yêu đi vào tuyến
lửa. Nhưng cũng chẳng lí thú và hạnh phúc bằng đối với tuổi trẻ là được đặt chân tới
những vùng đất mà mình hằng ao ước đêm ngày, được mang hết trí tuệ, sức lực cống

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


16
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

hiến vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, và từ nơi đây, họ đã được rèn luyện,
trưởng thành”.[11,6]. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hình ảnh những thanh
niên “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước. mà lòng phơi phới dậy tương lai”, những
Thạch Sanh của thế kỷ XX, xông pha nơi chiến trường luôn là những điểm sáng đẹp
nhất, hào hùng nhất.
Chiến tranh đâu phải là quy luật tất yếu và con người sinh ra vốn không phải để
làm lính. Chiến tranh là hoàn cảnh đặc biệt khác thường, ở đó những vấn đề quan
trọng nhất về cái chết, về lòng quả cảm, đức hy sinh cao cả, về vấn đề tồn tại hay
không tồn tại đã đụng chạm đến những dây thần kinh bén nhạy, huy động kiệt cùng
sức mạnh tiềm tàng ở con người. Đó là sự thật về cuộc sống với những vấn đề có giá
trị nhân bản được bộc lộ. Bởi trước khi bước vào cuộc chiến này, có thể họ có nhiều
sự lựa chọn nhưng họ đã quyết định đi vào tuyến lửa, giáp mặt trực tiếp với quân thù.
Không ít lần người lính đã trải lòng mình ra với tất cả những khát khao của tuổi trẻ.
“Mình đã bắt đầu sống có trách nhiệm từ đâu, từ lúc nào?
Có lẽ là từ 9/3/1971, tháng ba của hoa nhãn ban trưa, của hoa sấu và hoa bằng lăng
nước” và anh khát khao “ Chóng tới gia đình lớn. Nơi ta gửi gắm thời thanh xuân của
mình”. Người lính bước vào cuộc kháng chiến với sự sung sức nhiệt huyết của tuổi
trẻ. Trong họ luôn khát khao hoài bão cống hiến cho tổ quốc. Cái tôi cá nhân hoàn
toàn nhường chỗ cho cái ta dân tộc. Cánh cửa của chiến trường luôn rộng mở chào
đón họ, luôn chờ đợi họ cống hiến cho nhân dân và cho dân tộc. Bao khó khăn, thử
thách và cả sự khắc nghiệt của cuộc sống luôn chờ đợi họ ở phía trước, nhưng bằng
niềm tin vào tương lai tươi sáng ở phía trước, họ đã rũ bỏ tất cả để đi vào tuyến lửa.
Vì vậy, ở chiến trường miền Nam khói lửa ấy có biết bao con người như anh Thạc,
như chị Trâm.
Họ là những anh hùng của dân tộc Việt Nam.Tư chất thông minh và tri thức của
những trí thức trẻ đã giúp họ sớm nhận thấy và cảm nhận sâu sắc vẻ đẹp của quê

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


17
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

hương, đất nước và truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Để từ
đó, họ dễ dàng tiếp thu truyền thống yêu nước, truyền thống đấu tranh kiên cường bất
khuất chống giặc ngoại xâm của dân tộc để giữ lấy quê hương, giữ lấy niềm vui, hạnh
phúc của mỗi gia đình sau mỗi luỹ tre làng hay góc phố.
Nguyễn Văn Thạc là một người học giỏi văn và yêu thích văn chương. Năm lớp
mười, anh đã đạt giải nhất cuộc thi giỏi văn toàn miền Bắc, anh đã được ban tuyển
sinh Hà Nội cử đi đào tạo ở Liên Xô. Nhưng theo chủ chương chung của Đảng về việc
bổ sung lực lượng chiến đấu cho quân đội, anh đã ở lại, trong khi chờ đợi, anh đã thi
vào khoa Toán Cơ trường Đại học Tổng hợp. Và khi cuộc chiến chống đế quốc Mỹ
bước vào giai đoạn ác liệt, anh chính thức đứng trong đội ngũ bổ sung cho chiến
trường miền Nam máu lửa, ngày 6-9-1971. Sau này trong những trang nhật ký của
mình đã nhiều lần anh nhắc tới sự học của những người bạn của anh, bởi khát vọng
học tập và cống hiến chưa bao giờ phai nhạt trong anh. “ Thạc có buồn không? Có còn
buồn bã vì những năm tháng phải xa trường Đại học, vì không được ra nước ngoài
học tập- Vì các bạn Thạc, người đi đây, người đi đó, sống êm ả, sung túc với tập giáo
trình. Ngày mai các bạn về, các bạn có kiến thức, các bạn là kỹ sư, là nhà bác học, còn
Thạc sẽ chỉ là một người bình thường nhất, nếu chiến tranh không cướp đi của Thạc
một bàn chân, một bàn tay”. Phải chăng đó là sự hy sinh những lợi ích cá nhân cho
hạnh phúc của nhân dân.
Người chiến sĩ cách mạng ấy đã bước vào quân ngũ với đầy bỡ ngỡ, đầy khát
vọng và mơ ước của tuổi trẻ. “Nhiều lúc mình cũng không ngờ nổi rằng mình đã đến
đây. Không ngờ rằng trên mũ là một ngôi sao. Trên cổ áo là quân hàm đỏ. Cuộc đời
bộ đội đến với mình tự nhiên quá, bình thản quá, và cũng đột ngột quá”.(nhật ký ngày
2.10.1971)[6,32]. Tuổi trẻ là như vậy, ngay cách thể hiện sự bỡ ngỡ của họ cũng
giống như chính cuộc sống thường ngày của họ vậy, họ không hề có một chút giấu

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


18
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

giếm hay do dự khi thể hiện suy nghĩ của mình, nhất là khi họ trải lòng ra với chính
mình, cho chính mình.
Cũng giống như Nguyễn Văn Thạc và biết bao người lính khác, Đặng Thuỳ
Trâm quyết tâm vào chiến trường khi họ có nhiều lựa chọn ở con đường phía trước.
Tinh thần và bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ luôn thường trực thôi thúc họ sống và chiến
đấu cho hạnh phúc của dân tộc, cho tự do của nhân dân, đất nước. Sinh ra trong một
gia đình trí thức, bố là bác sĩ, mẹ là dược sỹ, Đặng Thuỳ Trâm tốt nghiệp Đại học Y
Hà Nội, giữa thời kỳ miền Bắc xây dựng XHCN. Lúc đó chị hoàn toàn có thể tìm
kiếm được một công việc ở Hà Nội theo đúng ngành nghề mà mình đã học ở trường
Y. Nhưng chị đã giác ngộ lý tưởng cách mạng, xung phong vào công tác ở chiến
trường B, nơi có những người dân nghèo khổ, nơi mà những chiến sỹ của ta chiến đấu
ác liệt nhất, anh hùng nhất. Chị được phân công về phụ trách bệnh viện Đức Phổ, một
bệnh vịên dân y nhưng chủ yếu điều trị cho thương bệnh binh. Có lẽ lăm năm học ở
trường Đại học Y đã dạy cho chị hiểu một điều rằng một bác sỹ, một người thầy thuốc
thì phải đi tới những nơi cùng khổ nhất, đem kiến thức học hỏi được khi ngồi trên ghế
nhà trường phục vụ nhân dân, góp phần không nhỏ thực hiện lý tưởng mà chị theo
đuổi, đó là lý tưởng “giải phóng loài người”: “Cái quý giá nhất của con người là cuộc
sống, đời người ta chỉ sống có một lần, phải sống sao cho khỏi phải xót xa ân hận vì
những năm tháng sống hoài sống phí, cho khỏi phải hổ thẹn vì những năm tháng sống
hoài sống phí, để khi nhắm mắt xuôi tay ta có thể nói rằng : “Cả đời ta, cả sức ta đã
hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời: sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài
người”.(N.A.OSTROTSKY)[9,32].
Bước vào cuộc kháng chiến khi mới dời ghế nhà trường, nhưng lý tưởng của họ
lại lớn lao biết nhường nào. Những người lính trước và cùng thời với anh Thạc, với
chị Trâm biết rất rõ vào những năm đầu thập niên bảy mươi của thế kỷ hai mươi, đội
ngũ sinh viên đại học lên đường nhập ngũ rất đông. Chưa lúc nào quân đội giàu chất

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


19
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

trí thức như lúc đó. Chính sự lựa chọn của họ là nền tảng để họ thực hiện lý tưởng và
hoài bão của tuổi trẻ. Có họ, văn nghệ, thể thao, báo tường, những buổi học chính trị
khởi sắc. Những thanh niên trí thức ấy phấn đấu cho lý tưởng giải phóng dân tộc rất rõ
ràng từ nhận thức lý luận chứ không phải ra đi vì phong trào. Chiến trường chính là
nơi tôi luyện cho lý tưởng ấy, bởi chắc chắn trước khi bước chân vào tuyến lửa họ đã
hiểu được sự khốc liệt của cuộc chiến, và những mất mát họ có thể phải chịu đựng,
thậm chí là cả sự hy sinh. Họ luôn có ý thức phấn đấu về bản lĩnh, về trí tuệ. Chính
thời đại chiến tranh đã tạo ra những người lính anh hùng với lý tưởng cách mạng cao
đẹp. Đó không phải là lý tưởng chỉ có ở Nguyễn Văn Thạc hay Đặng Thuỳ Trâm mà
lý tưởng ấy là của cả một thế hệ thanh niên Hồ Chí Minh. Ở đó, vẻ đẹp tư tưởng của
người lính được bộc lộ cao nhất, rẽ nét nhất. Vẻ đẹp ấy hoà cùng lý tưởng của thời
đại, của lớp lớp người ra trận, của những tư tưởng nhân văn cao đẹp của xã hội, đất
nước và con người Việt Nam. Nói như nhà văn Nguyễn Khải: “Khi ta sống đúng thời
thì giữa ta với xã hội, với tập thể chỉ là một, hoàn toàn phù hợp với nhau. Những gì ta
nghĩ, ta yêu thương, ta phẫn nộ cũng là những cái mà xã hội cùng nói, cùng yêu
thương, cùng phẫn nộ”.[15,12]. Chính vì lý tưởng, lẽ sống cao cả, được Đảng, Đoàn
giáo dục, rèn luyện, cổ vũ tiếp thêm cho họ sức mạnh và mang theo cả sức mạnh của
chính nghĩa, sức mạnh của niềm tin của Đảng, của Đoàn, của quê hương, niềm hy
vọng vào một tương lai hạnh phúc. Họ đã tiếp bước truyền thống: “ Chiến trường còn
giặc đi đánh giặc”.

2.2.Phẩm chất anh hùng của người chiến sĩ cách mạng.


Chiến tranh đã lùi xa hơn ba mươi năm, với sự khốc liệt, hy sinh và chiến
thắng. Người lính – hình ảnh họ là trung tâm chói sáng và trở thành tiêu mẫu của con
người đẹp nhất, đáng tin yêu nhất. Cuộc chiến đấu của chúng ta là một sự sàng lọc
nghiêm ngặt và vĩ đại những con người., không có lẫn lộn vàng thau, trắng đen, tốt

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


20
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

xấu trước những thử thách quyết liệt trong chiến tranh. Những cặn bã, dối trá, hèn
nhát, thoái hoá đã bị sàng lọc ra từ chiến tranh, những cái anh hùng, cao cả, đẹp đẽ
được bộc lộ với tất cả tình cảm và màu sắc của nó. Cuộc chiến đấu của chúng ta đã đặt
ra vấn đề sâu sắc có tính thời đại về những phẩm chất anh hùng của người lính cách
mạng. Được đứng trong hàng ngũ quân đội chiến đấu cho hạnh phúc của nhân dân là
niềm hạnh phúc của mỗi người lính khi bước chân vào chiến trường. Truyền thống
anh hùng được truyền từ đời này sang đời khác, đời sau tiếp nối đời trước. . Kể làm
sao hết những anh hùng vô danh mà mảnh đất miền Nam máu lửa đã tạo nên họ. Nó
tạo thành một sức mạnh vô hình nối kết con người ở những thời đại khác nhau, cùng
chung một mục đích chiến đấu. Những tấm gương anh hùng chiến đấu hết mình và hy
sinh vì tổ quốc đã là ngọn lửa soi sáng đường đến với cách mạng của những người
lính còn ít nhiều bỡ ngỡ khi vừa dời ghế nhà trường đi vào tuyến lửa. Vượt qua mỗi
chặng đường là một cuộc chiến đấu thực sự, một thử thách đối với mỗi người khi vừa
dời ghế nhà trường đi vào tuyến lửa. Nhưng ở đó họ được rèn luyện, được trưởng
thành và mang hết trí tuệ, sức lực cống hiến vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước. Chiều sâu nhận thức của con người liên quan mật thiết với việc lý giải con
người tham gia chiến tranh. Việc lý giải này liên quan đến nhiều mặt xong chủ yếu
hơn cả là đi sâu vào thế giới tư tưởng của con người. Khi có một lập trường tư tưởng
đúng đắn và vững chắc thì con người tự nguyện tìm đến súng và đi vào tuyến lửa là tất
yếu. Cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc, chống lại ách đô hộ của thực dân, đế quốc đã
làm cho mỗi người cố gắng vượt lên những giới hạn của chính mình, trở thành người
lính đứng trong đội quân cách mạng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Do đó, con người xích
lại gần nhau, xiết chặt đội ngũ cách mạng vì một mục tiêu cao cả, đó là Tổ quốc thống
nhất, “Bắc Nam sum họp một nhà”. Chính “cách mạng đã rèn đúc nên những con
người cao đẹp và gắn họ thành một khối bền vững và gắn bó hơn bất cứ một vật gì
trên đời này. Sống trong gia đình cách mạng có gì vinh dự hơn”.[9,910]

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


21
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

Nguyễn Văn Thạc là một thanh niên sống có lý tưởng và hoài bão. Dù không
tránh khỏi những hoang mang, xao động của một chàng trai trước ngưỡng cửa của
cuộc đời, mới đây còn quen với giảng đường đại học, với thơ ca, nay đã bước vào
cuộc kháng chiến gian khổ và khốc liệt. Mỗi bước hành quân là mỗi thử thách đối với
người lính cách mạng. Những ngày hành quân hàng chục cây số đường rừng, với
chiếc ba lô nặng trĩu, gan bàn chân phồng rát không đi được giày dép. Những bữa ăn
triền miên chỉ có sắn và mía. Những lúc nhớ nhà, nhớ người thân, nhớ người yêu dữ
dội trong lồng ngực…Đã có những người không chịu được khó khăn, gian khổ, thậm
trí không vượt qua được nỗi nhớ và khát khao gặp được người thân yêu của mình nên
tìm cách bỏ trốn. Anh đã viết một cách chân thực trong nhật ký của mình: “Bọn nó
trốn về nhiều, có lẽ không chịu được cảnh nhớ nhung đáng sợ này”. Nhưng Nguyễn
Văn Thạc đã xác định rõ con đường phải đi, anh luôn tin tưởng vào cuộc chiến tranh
ấy, luôn tự ý thức được trách nhiệm của bản thân trước vận mệnh đất nước. Anh đã
viết lên những dòng thật xúc động trong những trang nhật ký tràn đầy lý tưởng cao
đẹp của đời mình, những dòng nhật ký chân thực tận đáy lòng và không kém phần
lãng mạn: “Ai đấy, khi khoác vai người bạn yêu quý của mình, chỉ cho bạn, kia là
ngôi sao Hôm – ngôi sao Mai…Ngôi sao ban chiều và ngôi sao của bình minh. Chớ
quên rằng có buổi sáng nào, sao Mai mang màu đỏ, màu máu và màu lửa! Chớ quên
rằng, để đêm trăng có những ngôi sao tình tự, để con người tự do mơ ước vươn tới
những đỉnh cao xa; có những trái tim đầy khát vọng phải xếp vào ba lô mọi ước mơ
hiền dịu nhất, mọi tương lai cá nhân quen thuộc nhất mà đánh giặc”.(nhật ký ngày
20.11.1971)[6,62].
Từ sự bỡ ngỡ khi mới bước chân vào đội ngũ cách mạng, Nguyễn Văn Thạc “
yên tâm dần với cuộc đời cống hiến này”, và hoàn toàn tin tưởng vào con đường mà
mình đã chọn lựa. “ Ta đi theo tiếng gọi của miền Nam. Và cả sự thôi thúc của miền
Bắc đang khôi phục - Một nhà ga Ninh Bình vừa dựng bên núi đá, một dòng sông Đáy

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


22
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

xanh lững lờ trôi vào bài thơ trữ tình ngọt lịm của Tố Hữu, một chùa Non Nước còn
âm vang chiến công của tổ ba người Giáp Văn Khương…Tất cả đang giục giã anh
chiến sĩ, hãy đi đi, hãy đi – và chiến thắng”.( nhật ký ngày 10.4.1972)[6,190]. Anh đã
khẳng định con đường mình đang đi là con đường hoàn toàn đúng đắn và tự hào về
điều mình đã chọn. “Con đường mình chọn, con đường mình đi là hoàn toàn đúng
đắn. Không còn phải đắn đo gì nữa, Thạc cứ đi theo con đường này thôi, con đường
không hề đòi hỏi đền bù lại điều gì và trọn đời cống hiến cho đất nước. Mình không
muốn dành cuộc sống của mình cho 1 sở thích cá nhân. Mình muốn làm theo yêu cầu
của Tổ quốc”.( nhật ký ngày 31.12.1971)[6,126].
Với sức mạnh và niềm tin vào thời đại cách mạng, người lính bước vào cuộc
chiến bằng một niềm tin mãnh liệt nhất, với những ý nghĩ chân thành của lớp người
“phơi phới tuổi hai mươi đi đánh Mỹ mà lòng vui như mở hội”. Tâm hồn họ chói ngời
ánh sáng của lý tưởng và tình cảm cách mạng. Họ mang trong tim niềm tin tất thắng
vào sức mạnh của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, sẵn sàng cống hiến trí tuệ và sức
lức của tuổi trẻ vào sự nghiệp chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Chủ nghĩa anh hùng cách
mạng đã đem đến sợi dây gắn kết những con người có cùng lí tưởng, cùng mục đích
sống và chiến đấu. Họ sẵn sàng hy sinh thân mình để bảo vệ đất nước khi Tổ quốc
cần, ngọn lửa yêu thương nhân loại luôn rực sáng trong trái tim họ dù cuộc sống còn
gian khổ đau thương. “ Ta đến với nhau bằng con đường của những người chung lí
tưởng, mối tình hoàn toàn khác hẳn tình yêu của những người con trai với những
người con gái nhưng nó cũng có một sức mạnh diệu kỳ. Sức mạnh đó cho ta niềm vui,
hy vọng, giúp ta quên đi những đau xót đang diễn ra quanh mình và nó là ngon lửa
sưởi ấm trái tim mình, một trái tim sôi nổi cần được nuôi dưỡng bằng những tình cảm
trong sạch và chân chính. ( nhật ký ngày26/3/1970)[9,234]. Một trái tim luôn tràn đầy
tình thương yêu đồng loại, lòng căm thù giặc sâu sắc và ý chí quyết tâm chiến đấu với
giặc. “ Những người đã ngã xuống một cách vẻ vang như vậy là hạnh phúc rồi. Còn

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


23
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

chúng ta…chúng ta cần phải sống với ngọn lửa căm thù cháy rực trong tim, phải dùng
ngọn lửa ấy đốt cháy kẻ thù”. “ Mỗi ngày nghe tin thắng lợi trên hai miền đất nước,
niềm vui tràn ngập nhưng nỗi buồn cũng nặng trĩu tâm tư. Vì sao ư? Vì còn giặc mỹ
thì còn đau thương tang tóc, vì còn giặc Mỹ thì không có một hạnh phúc nào cả”.
Dấn thân vào cuộc chiến, Đặng Thuỳ Trâm biết chắc những gì có thể đến với
chị, chị vẫn hoàn toàn tin tưởng vào con đường mà mình đã lựa chọn. “ Con biết nói
sao khi lòng con thương mẹ trăm nghìn triệu mà cũng đành xa mẹ ra đi. Quân thù
đang còn đó, bao nhiêu bà mẹ còn mất con, bao nhiêu người chồng mất vợ. Con có
tiếc gì đâu để đổi lấy độc lập, tự do”. Chị lấy niềm tự hào chung để quên đi khát vọng
riêng tư. Chị tự kêu gọi mình “ hãy cứ tìm lấy niềm vui, cứ sống giàu lòng tha thứ,
giàu đức hy sinh một cách tự giác. “ Đêm qua mơ thấy hoà bình lập lại. Ôi giấc mơ
hoà bình độc lập đã cháy bỏng trong lòng cả ba mươi triệu đồng bào ta từ lâu rồi. Vì
nền hoà bình độc lập ấy mà chúng ta đã hy sinh tất cả. Biết bao người đã tình nguyện
hiến dâng cả cuộc đời mình vì bốn chữ độc lập- tự do. Cả mình nữa mình đã hy sinh
cuộc sống riêng vì sự nghiệp vĩ đại ấy. Hãy giữ vững tinh thần đấu tranh, hãy tìm thấy
niềm vui của kẻ chiến thắng, hãy giữ vững nghị lực để đấu tranh đến cùng vì sự
nghiệp cách mạng. Hãy bằng nghị lực, bằng niềm tin ở chính nghĩa, bằng lý tưởng của
cuộc đời mà đi tiếp những bước đường gai góc, gian lao”. Chị tự hào và ý thức mình
đang đi trên con đường máu lửa nhưng rất đỗi vinh quang. Chị tự nhủ với mình hãy
ngẩng cao đầu mà sống, sống với tình cảm trong sáng, với lý tưởng cao đẹp của mình.
Hãy giữ vững tinh thần của người cộng sản, tinh thần trong suốt như pha lê, cứng rắn
như kim cương và chói lọi muôn nghìn hào quang của lòng tin tưởng”. Vô cùng vất vả
và cũng có nhiều khó khăn trong công việc nhưng hơn bao giờ hết chị cảm thấy rằng
mình đã đem hết tài năng và sức lực cống hiến cho cách mạng. Những tình thương mà
mọi người dành cho chị đã là nguồn động viên, nguồn sống để chị phấn đấu hết mình
cho lý tưởng cách mạng. Chị thầm hứa sẽ “bình tĩnh vượt qua mọi khó khăn, đứng

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


24
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

vững tư thế người chiến thắng”. “ Hãy rèn giũa phẩm chất của một người Đảng viên.
Cuộc đời mình là một cuốn sổ, những dòng chữ ghi chép trên đó đẹp như một bài ca
nhỏ. Hãy ghi tiếp những dòng xứng đáng. Hãy hứa trước toà án lương tâm là sẽ giữ
trọn tất cả những gì cao quý của một người Đảng viên, một người trí thức, hãy vững
bước đi lên, đạp bằng mọi trở lực để xứng đáng là một người Đảng viên chân chính
nhất”. “ Ước mơ bây giờ là đánh thắng giặc Mỹ, là độc lập tự do của đất nước. Mình
cũng như những thanh niên khác đã lên đường ra tiền tuyến và tuổi trẻ qua đi giữa
tiếng bom rơi đạn nổ. Tuổi trẻ của mình đã thấm đượm mồ hôi, nước mắt, máu xương
của những người đang sống và những người đã chết. Tuổi trẻ của mình đã cứng cáp
trong thử thách, gian lao của chiến trường, tuổi trẻ của mình cũng nóng rực vì ngọn
lửa căm thù đang ngày đêm hun đốt”. Chính vì vậy “ buồn bây giờ không thể biểu
hiện bằng nước mắt mà hãy bằng ý chí trả thù, bằng sự nghiến răng lại mà ngẩng cao
đầu bước tiếp chặng đường gian khổ”.
Xuyên suốt những trang nhật ký của chiến sĩ, bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm là một
tình thương yêu mênh mông vô hạn, một cách sống không lắm chiều cạnh phong phú,
không tự do nhiều vẻ, nhưng lại trong sáng thánh thiện đến kỳ lạ. Chị đã đến với cách
mạng bằng tình thương vô hạn nhất. Là một bác sĩ trên chiến trường, chị đã hết lòng
cứu chữa cho những người thương binh, hết lòng vì sự nghiệp “lương y như tử mẫu”
của đời mình. Chị đã đem lý tưởng cách mạng soi vào tình thương yêu đồng loại của
mình. Chính điều đó tạo nên tính nhân văn cao đẹp trong tâm hồn chị và nó được thể
hiện qua những trang nhật ký tràn đầy tình thương yêu.
Chị đã trải lòng mình ra với những ý nghĩ chân thành nhất của người chiến sĩ
cách mạng. Không ít lần chị đau đớn trước những hiện thực khốc liệt của chiến tranh,
và trong ánh mắt của chị luôn ánh lên ngọn lửa căm thù giặc. Chị gửi tình thương yêu
của mình vào hành động cứu thương cho những đồng đội của chị. Chị khóc cùng nỗi
đau của họ và vui chung niềm vui của họ. Chị thương vô cùng người thương binh trẻ

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


25
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

với ca mổ ruột thừa trong điều kiện thiếu thốn. Lòng chị vui sướng và hạnh phúc khi
thấy San ngồi dậy, nét mặt anh còn in nỗi đau đớn mệt nhọc nhưng nụ cười gượng nở
trên môi. Chị đau xót trước cái chết của Hường, “xót xa như có ai xát muối vào trong
ruột khi nhìn bố Hường bình thản không hay biết gì về tin sét đánh ấy”. Chị “Thương
Đường vô tận khi cậu bé bị bắt sống trên đường công tác”. Chị “lo lắng không biết
cậu bé sôi nổi, nhiệt tình ấy có chịu nổi những đòn tra tấn của quân thù hay không”.
Chị buồn làm sao khi mới hôm qua Thìn và anh Sơn còn cùng bọn chị trò chuyện mà
“đêm nay hai người ấy chỉ còn là hai cái xác nằm dưới nấm đất của đất Đức Phổ mà
lần đầu họ đặt chân đến”. Lòng chị “nao nao thương xót khi nhìn thấy thương binh mồ
hôi lấm tấm trên gương mặt còn xanh mướt, ráng sức bước từng bước qua hết đèo lại
dốc”. Tình thương ấy của chị mênh mông, vô hạn. Nước mắt chị như chảy cùng
những gian lao, những khó khăn và những đớn đau của đồng đội. Họ là những anh
hùng cách mạng, họ chiến đấu không biết mệt mỏi cho dân tộc. Những khó khăn trên
đường hành quân, những đau đớn về thể xác không thể làm trùn bước chân họ, mà trái
lại nó càng làm tình yêu đất nước trở lên mãnh liệt hơn, cồn cào hơn. Và nó càng lớn
lao hơn khi được tiếp thêm ngọn lửa yêu thương của những đồng đội, đồng chí cách
mạng. Khi dạy học, chị “đến lớp bằng cả tình thương của một người chị đối với những
đứa em đã chịu biết bao thiệt thòi đau khổ”. Chị đau xót biết nhường nào khi nghe tin
anh Dũng đã chết vì bị Mỹ bắt sống và giết tại chỗ. Chị thấy xót xa trước ca tử vong
phẫu thuật cắt đoạn của một bệnh nhân già sáu mươi tuổi. Nước mắt chị từng giọt rơi
xuống Bốn khi Bốn đã chết mà chị tưởng em còn sống. Nước mắt Liên thấm vào lòng
chị khi Liên phải chịu cảnh đau thương tang tóc. Khi nghe tin Khiêm hy sinh chị bàng
hoàng không tin đó là sự thật. “Khi đã chắc chắn Kh. Đã chết, mình không khóc, có
phần bình thản nữa. Mình đã dùng nghị lực khống chế nỗi xúc động. Nhưng mỗi giây
phút qua đi, nỗi đau thương mới lớn dần và giờ đây nước mắt mình giàn giụa. Mình
khóc một mình bên ngọn đèn khuya, những giọt nước mắt mằn mặn chảy dài trên mặt

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


26
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

rồi rơi xuống lăn trên vạt áo mình”.(nhật ký ngày 14/8/1968)[9,73]. Chị “ thương
Ninh vì nhà vừa bị đốt cháy trụi không còn một hạt lúa để ăn”. Chị “ thương cậu liên
lạc với má lúm đồng tiền, lúc nào cũng cười dù vết thương trên tay sưng và đau buốt”,
“thương vô cùng người cán bộ với sức chịu đựng kỳ lạ, đau đớn làm anh tràn nước
mắt mà miệng vẫn cười, vẫn một câu trả lời: không sao đâu”, “thương vô cùng người
đồng chí bộ đội hy sinh bởi một vết thương xuyên thấu bụng”. Và biết bao sự hy sinh
như thế, cống hiến và hy sinh mà không cần bù đắp. Chị thắc mắc “ tại sao những
người cách mạng có thể thương nhau đến mức kỳ lạ”. Tình thương ấy đến từ chính
trái tim của những con người “ sống để yêu thương và dâng hiến”. Đó là “ một tình
thương sâu thẳm và mênh mông như biển cả. Một tình thương trào dâng như sóng bạc
đầu. Một tình thương trong trắng, chân thành vô hạn”, “ tình thương của những trái
tim khao khát yêu thương, những trái tim rớm máu vì cuộc chiến tranh khói lửa này”.
Chính vì tình thương đồng đội bao la ấy, tình thương đất nước càng rộng lớn hơn, sâu
thẳm hơn. “Đất nước ơi! Bao giờ cho nhớ thương nguôi bớt, bao giờ cho đất nước
thanh bình? Mình biết ngày thắng lợi không xa nữa nhưng sao vẫn thấy hạnh phúc xa
vời quá. Liệu có được thấy ngày hạnh phúc ấy nữa không? “ Người cộng sản rất yêu
cuộc sống nhưng khi cần vẫn có thể nhẹ nhàng mà chết được. Chết mà vẫn yêu sao
cuộc sống, cuộc sống mà người ta đã đổi mồ hôi và nước mắt”( nhật ký ngày
8/10/1968)[9,86]. Đem tình thương vào cuộc sống, chị trải rộng lòng mình để tận
hưởng niềm vui, niềm hạnh phúc bởi cho và nhận. Trong gian khổ, lúc nào chị cũng
thấy “sung sướng vì ở đâu cũng là biển cả của tình thương”.
Vẻ đẹp hình tượng của người chiến sỹ hiện lên một cách sống động, chân thực,
trong sáng thánh thiện đến kỳ lạ. “Sự tận tuỵ làm người của Thuỳ Trâm là một nhân tố
khiến cho những người lính Mỹ khác hẳn về lý tưởng cũng phải kính trọng”. “Việt
Nam thật may mắn có được những con người như cô Trâm, sau khi cuộc chiến tàn,
ngược lại chúng tôi chỉ sản xuất những người hùng theo nghĩa đen của nó. Chẳng ai

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


27
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

có huy chương “ cứu người bội tinh” trong thời chiến. Nghĩ lại thật buồn cười, hồi đó
chúng tôi đã từng chạy theo đuôi tóc của cô ấy”.(Danny L.Jacks- cựu chiến binh Mỹ,
toán tư trưởng viễn thám Oregon)[13,159]
Ngoài những trang viết phơi phới lạc quan chiến thắng, đây đó ta còn bắt gặp cả
những “ nỗi buồn chiến tranh”. Bởi người lính rất hiểu là mình có thể đón nhận những
điều phũ phàng do chiến tranh mang lại. Bởi cái chết quá gần gũi và giản đơn. “Nói
tới lính là nói tới ác liệt và gian khổ, nói tới sự hy sinh chẳng thể nào khác được. Bởi
điều ấy đâu có gì xa lạ, mới mẻ với một đất nước triền miên hết cuộc chiến tranh này
đến cuộc chiến tranh khác, xen giữa những cuộc chiến tranh là khoảnh khắc thời bình
đầy biến động và lo âu, đầy trắc trở”.[4,55]. Sống trong thời đại khi ranh giới giữa sự
sống và cái chết mong manh, người lính không khỏi có những giây phút bi quan. “Kể
ra bây giờ mà chết thì thật đáng tiếc, những ngày còn bé, những lúc đi học chẳng bao
giờ phải phiền toái đến chuyện đó cả, chỉ miên man với tương lai anh sẽ làm gì và
sống ra sao. Nhưng bây giờ những ý nghĩ đó mọc ra. Khó gì đâu-cái chết- chỉ một
viên đạn lạc hay một hơi bom. Sự thật bi đát đó không trừ một ai cả”. “ Trời ơi, chưa
bao giờ tôi chán nản và thất vọng như buổi sáng nay, như ngày hôm nay cả. Tôi không
giải thích ra sao nữa. Người ta giải thích được cần phải trấn tĩnh mới hiểu lí do và
lung tung. Còn tôi, tôi rời rã, tôi chán nản với hết thảy mọi điều, mọi thứ trên trái đất
này. Phải, tôi hiểu rằng với một người con trai đang khoẻ mạnh, đang sung sức, đang
ở giữa mùa xuân của đời mình thì buồn nản, thì chán đời là một điều xấu xa và không
thể nào tưởng tượng được- Người ta chửi rủa biết bao lần những thanh niên như thế.
Nhưng tôi biết làm sao khi chính bản thân tôi đang buồn nản đến tận cùng này”.
Nhưng có thể hiểu họ cũng là một con người với bao cảm xúc và tình yêu không bao
giờ vơi cạn. Điều quan trọng là họ biết vượt lên, chiến đấu với lý tưởng cách mạng
cao cả của mình. “ Có thể ngày mai cuộc đời sẽ trả lời mình bằng luồng gió lạnh ngắt,
nhưng có hề chi khi mình đã cống hiến cho cuộc đời một tâm hồn chính trực và cao

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


28
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

cả- Biết yêu và biết ghét - Biết lăn lộn trong cái bình dị của cuộc sống mà cảm hiểu
hạnh phúc không có gì so sánh nổi. Biết sống cao thượng, vươn lên trên tất cả những
gì tính toán cá nhân mòn mỏi và cằn cỗi. Phải, mình đã sống như vậy, phải cống hiến
cho cuộc đời một tâm hồn như thế- Đây là mơ ước, là nguyện vọng, quyết tâm và
cũng là trách nhiệm mình phải làm. Phải làm”.(nhật ký ngày 24/5/1972)[6,263]. Phải
chăng những lúc bi quan như thế càng giúp người lính nhận ra những điều mình cần
phấn đấu. “Khóc ư Thuỳ? Đừng chứ, hãy dũng cảm, kiên cường trong mọi tình huống,
hãy giữ mãi nụ cười trên môi dù trăm nghìn vạn khó khăn nguy hiểm đang đe doạ
quanh Thuỳ”.(nhật ký ngày 5/6/1969)[9,157]. Trong mỗi người lính đều có niềm vui,
nỗi buồn và tình yêu không bao giờ vơi cạn, không ai có thể phủ nhận được lý tưởng
cao đẹp và tình yêu quê hương đất nước của họ.
Việt Nam thật may mắn vì có những anh hùng như Nguyễn Văn Thạc, như
Đặng Thuỳ Trâm, họ đã đem sức sống và bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ cống hiến cho
đất nước. Ở họ, những phẩm chất anh hùng của người chiến sĩ cách mạng được bộc lộ
cao nhất và sâu sắc nhất. Điều đó đã tạo nên sức hút kỳ lạ của những trang nhật ký
chân thực và vô sùng sinh động ấy. Những vẻ đẹp ấy mãi là ngọn đuốc soi sáng cho
thế hệ mai sau. Giữa sự im lặng của những con chữ, của những trang giấy mỏng manh
đã cũ kỹ và ố vàng vì thời gian ấy, ta bỗng nhận ra khí phách anh hùng của dân tộc
Việt Nam, trách nhiệm với những người đã hy sinh, cống hiến cho thời đại chúng ta
đang sống.

2.3.Tình yêu của người chiến sĩ cách mạng.


Tình yêu luôn là điểm sáng trong tâm hồn con người. Ở thời đại nào cũng vậy,
tình yêu luôn nở rộ trong trái tim của những con người “ sống để yêu thương và dâng
hiến”. Song ở mỗi thời đại khác nhau, tình yêu ấy lại được biểu hiện ở những chiều
hướng khác nhau, ở những cung bậc tình cảm khac nhau. Đặc biệt trong thời đại chiến

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


29
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

tranh khốc liệt, mất mát và hy sinh, tình yêu ấy lại càng đẹp hơn khi họ chiến đấu và
cống hiến vì Tổ quốc thân yêu. “Chúng ta yêu nhau và tình yêu của chúng ta không
phải vụng trộm, không phải né tránh những mũi tên xấu xa, cay độc của dư luận thông
thường. Chúng ta được tự do hành động và chúng ta còn được tự do vì chúng ta biết
sống thế nào cho đáng sống, biết yêu thế nào cho tình yêu vĩnh cửu trong như pha lê
và ngào ngạt hoa lan buổi sớm”.[10,2]
Cuộc sống có muôn vàn khó khăn, hy sinh thân mình là một sự khó khăn, một
sự hy sinh lớn nhưng hy sinh, chịu đựng những thiếu thốn thường nhật của cuộc đời
thì cũng chẳng phải dễ dàng. Con người có mơ ước, có khát khao về tình yêu nhưng
không thể đến được với nhau, mà chỉ có thể dừng lại ở nỗi nhớ nhung da diết. Trong
muôn vàn khó khăn của người lính trên chiến trường, tình yêu của họ được biểu hiện
chân thực, sinh động đến kỳ lạ.
Âm hưởng chung của những tranh nhật ký chiến tranh ấy là sự yêu thương tha
thiết cuộc sống, là tình cảm luyến ái trong sáng đến cao cả, luôn sẵn sàng hiến dâng
cuộc đời mình cho lý tưởng cách mạng. Những dòng chữ dù không đao to búa lớn
nhưng vẫn có một sức tác động mạnh mẽ đến tâm hồn người đọc. Những người chiến
sĩ trẻ tuổi đã gửi lại cho chúng ta những dòng tâm trạng nóng hổi tình yêu và nhiệt
huyết. Họ đã hiến dâng trọn vẹn tuổi thanh xuân cho đất nước. Những dòng chữ chân
thực, tràn đầy yêu thương đã để lại trong lòng người đọc niềm xúc cảm rất khó diễn tả
bằng lời.
Trong những trang nhật ký của mình, Nguyễn Văn Thạc đã nhắc nhiều lần đến
cô bạn gái của anh- Phạm Thị Như Anh. Anh đã viết bằng một tình cảm đặc biệt và
thường được coi như cái cớ, là nguồn cảm hứng bất tận để anh bộc lộ mọi niềm vui,
nỗi buồn. “ Đúng như Như Anh nói, mọi cái chỉ là tương đối thôi. Cả nỗi nhớ cũng
vậy. Mình vẫn không quên những ngày tháng 8,9,10,11,12…mấy tháng nhớ bạn, nhớ
những kỷ niệm trong lành. Cảm giác ấy không sao tả được nhưng rất rõ ràng”. “ Rất

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


30
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

khó kìm giữ được mình. Lại miên man hoài! Không mình nhất định không quên Như
Anh! Song lúc này bớt nhớ đi mà làm việc là đúng đắn nhất. Mình tin rằng những gì
tốt đẹp mình đã và sẽ dành cho Như Anh là tất cả những cái trong sáng và lành mạnh
nhất trong cuộc sống của mình”.( nhật ký ngày 14/1/1972)[6,136].
Điều đáng chú ý ở đây là nếu như trước đây, khi viết về tình yêu, các tác giả
hầu như đều tránh viết về những xúc cảm rạo rực của những trái tim đang yêu, những
đòi hỏi mang tính bẩm năng thì trong những trang nhật ký chiến tranh điều đó trở
thành cách nhìn mang tính nhân bản. “ Trong cuộc đời này, tình yêu chỉ có thể nảy nở
với Như Anh và không thể với một người khác được. Mình đã yêu Như Anh, cái tình
yêu đầu tiên trong sáng nhất và cái tình yêu duy nhất trong cuộc đời mình- Cái tình
yêu thanh bạch-không hề có gì bụi bặm của đòi hỏi hưởng thụ nhục dục- Như Anh
còn mong mỏi điều gì hơn thế nữa?” ( nhật ký ngày 24/5/1972)[6,267].
Vả chăng ở mỗi người, tình yêu lý tưởng vẫn có một sức nặng nhất định để họ
có thể cân bằng, bỏ qua hoặc chịu đựng với những hơn thiệt thường tình. Sự kết hợp
hài hoà giữa tình yêu lứa đôi và tình yêu Tổ quốc. “Bất kỳ một thứ tình cảm nào, bất
kỳ mối quan hệ kỳ lạ và thiêng liêng nào nếu như không biết gắn cái riêng của mình
vào sợi dây vô hình mà bền chắc vô cùng của công việc trên đường thực hịên lý tưởng
của mình, thì tình cảm ấy không thể gọi là đẹp đẽ, không thể tồn tại lâu dài, không thể
vượt qua được những thử thách gay go và ác liệt của cuộc đời”. ( nhật ký
ngày24/5/1972)[6,226]
Thế hệ của thời kỳ máu lửa như Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thuỳ Trâm, nhưng
vẫn giữ đậm tính nhân văn sâu sắc, người với người sống với nhau đầy tình thương
yêu. Một nữ bác sỹ có một trái tim vô cùng nhân hậu nhưng không hề khô khan, cô
biết viết những dòng nhật ký không hề cứng nhắc, với những mục đích sống, lý tưởng
sống là những khoảng lặng về tình yêu đôi lứa. Vì vậy thật là thiếu xót nếu không nói
về những cảm nhận của chị đối với tình yêu. Giữa thời kỳ bom đạn mịt mùng, ngoài

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


31
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

tinh thần bất khuất, ý chí kiên cường, tình yêu bao la giành cho đồng loại, chị còn có
một trái tim đầy yêu thương, một trái tim biết giận hờn, biết yêu và biết khóc vì yêu.
Tình yêu mà ta có thể cảm nhận được trong Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm là một tình yêu
trong sáng, chân thực nhưng cũng không kém phần lãng mạn. Có thể thấy rằng Thuỳ
Trâm là một người rất giàu tình cảm về những cảm xúc về tình yêu dù mối tình ấy
không được như ý muốn. “ M. bảo Th. Quên đi những điều đã làm ảnh hưởng niềm
tin ở nhau ư? Không đâu M. ơi! Niềm tin bằng mười năm thương nhớ đợi chờ đâu
phải dễ sứt mẻ, nhưng khi đã sứt mẻ thì không dễ gì hàn gắn. Cho nên chẳng biết nói
sao. M. ơi, nếu trong chuyến đi này, M. không trở về nữa thì sao? Ôi, sao chúng ta chỉ
đem đến cho nhau những đau buồn, mà nói cho đúng hơn sao M. cứ gieo đau buồn lên
trái tim một người con gái sôi nổi yêu thương và tràn đầy hy vọng ở cuộc đời?”.(nhật
ký ngày 8/8/1968)[9,69]. Và dường như theo thời gian, tình yêu ấy trở nên trai sạn
trước cuộc đời. “ Cầm lá thư M. mình không đọc vội. Khi đọc xong buồn đến vô
cùng, nhưng chỉ vài giờ sau mình lại bình thản và bắt tay vào công việc và mọi nếp
sinh hoạt bình thường, vô tư như không có điều gì xảy ra. Thuỳ ơi! Trái tim Th. Cũng
trở nên khô cằn, cũng hết cả rung cảm rồi sao?”. Những nhớ thương và cả những giọt
nước mắt mà chị giành cho người yêu đủ cho ta thấy rằng dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào
thì tình yêu vẫn luôn tồn tại trong trái tim chị và tình yêu là thứ đẹp nhất mà con
người có thể giành cho nhau. Chị đã bộc lộ tình cảm của mình một cách chân thực
nhất, súc động nhất. “ anh không phải là của em nhưng em muốn đem yêu thương xoa
dịu đau đớn cho anh”.
Tình yêu của người lính trong chiến tranh đẹp đẽ, lãng mạn song cũng chứa
những bất trắc đúng như bản chất của cuộc sống đời thường. Tình cảm của người lính
bộc lộ đủ những cung bậc, những sắc thái khác nhau: có vui, có buồn, có đợi chờ, có
lo lắng, có thổn thức, cũng có một chút tính ích kỷ…Điều đáng lưu ý là dù ở trạng
thái nào người lính cũng tỏ ra hết mình, sống trọn vẹn với nhân cách của mình.Tình

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


32
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

yêu và cuộc sống riêng tư của người lính cho thấy chân dung tinh thần của người lính
trong chiến đấu cũng như trong đời thường. Dư vị tình yêu không quá đậm chất kịch,
không đắng cay, cũng không có những biểu hiện của đời sống tình dục như các truyện
ngắn, tiểu thuyết thời kỳ đổi mới.
Chúng ta hiểu rằng, họ-những người lính không hề có ý định viết nhật ký để
một ngày nào đó được người khác đọc, bởi vậy tất cả những suy nghĩ đều chân thực
đến đáy của tâm hồn. Chính vì vậy, đó không phải đơn thuần là những cuốn nhật ký
bình thường, mà nó còn là một tác phẩm văn học mang tính nhân văn sâu sắc, với
từng khía cạnh tình cảm của con người. Chất nhân văn cao đẹp ấy sẽ mãi mãi sống
cùng mọi thời đại.

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


33
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

Chương 3
Một số đặc điểm về nghệ thuật

1.Một số vấn đề lý luận về thể loại nhật ký.


Trong văn học, mỗi thể loại văn học là sự thể hiện “ một thái độ thẩm mỹ đối
với hiện thực, một cách cảm thụ, nhìn nhận, giải minh thế giới và con
người”(Bakhtin). Với tư cách là một thể loại nhạy bén, nhật ký có khả năng đáp
ứng cao nhất nhu cầu được nói sự thật- hệ quả tất yếu của trào lưu dân chủ.
Nhật ký được viết từ ngôi thứ nhất số ít, dưới dạng những ghi chép thường
ngày có đánh số ngày tháng. “ Nhật ký là những trang ghi chép về cuộc đời riêng,
cuộc đời chung theo sự việc diễn ra hàng ngày. Nhật ký thiên về tâm tình hơn là sự
kiện…Điều quan trọng là nhật ký phải chân thực, chân thực với bản thân
mình.”[8,231]. Khác với hồi ký, nhật ký thường chỉ quan hệ lại những sự kiện,
những cảm nghĩ “vừa mới xẩy ra” chưa lâu.
Khác với truyện ngắn, truyện vừa, đặc biệt là tiểu thuyết, nhật ký luôn có
quan điểm thể loại là tôn trọng sự thật khách quan của đời sống, không hư cấu.
Nhà văn viết nhật ký luôn chú ý đảm bảo cho tính xác thực của hiện thực của đời
sống phản ánh trong tác phẩm. Sự việc và con người trong nhật ký phải xác thực
hoàn toàn, có địa vị hẳn hoi. Nhật ký dựng lại những sự thật đời sống một cách sinh
động chứ không xây dựng các hình tượng mang tính khái quát. Tính khái quát do tác
giả nhật ký thể hiện bằng suy tưởng.
Vì vậy có thể thấy đặc điểm của thể loại nhật ký chính là tôn trọng sự thật.
Điều đó cho thấy nhật ký thuộc dòng văn học tư liệu hiện thực, nó khác hoàn toàn

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


34
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

với dòng văn học hư cấu. Trong khi nhật ký tôn trọng tối đa sự thật thì văn học hư
cấu lại có thể sử dụng trí tưởng tượng sáng tạo nên nhân vật. “Với ý nghĩa là một
hành động, hư cấu là vận dụng trí tưởng tượng để sáng tạo nên những nhân vật, câu
chuyện, những tác phẩm nhằm phản ánh cuộc sống và thực hiện những mục đích
nghệ thuật nhất định.
Qua hành động hư cấu, nghệ sĩ nhào lặn, tổ chức chất liệu rút ra từ cuộc sống để tạo
ra những tính cách, những sản phẩm, những hình tượng mới, những “sinh mệnh”
mới có ý nghĩa điển hình, vừa biểu hiện tập trung chân lí cuộc sống, vừa biểu hiện cá
tính sáng tạo, phong cách độc đáo và lí tưởng thẩm mỹ của mình”.[5,128]
“ Bàn về hư cấu, Lỗ Tấn viết: Đại để trong việc rút ra đều có một chút duyên
do nghe thấy hoặc trông thấy, nhưng quyết không dùng nguyên một sự thực ấy, mà
chỉ lấy một phần rồi cải tạo thêm, phát triển cho đến khi hầu như có thể phát biểu
trọn vẹn ý kiến của mình mới thôi. Nguyên mẫu nhân vật cũng vậy, không dùng
nguyên một người nào, thường là miệng ở Triết Giang, mặt ở Bắc kinh, quần áo ở
Sơn Tây, là một vai được ghép lại”.[5,128]
Với sự phát triển mạnh mẽ của thời đại, nhật ký trở thành thể loại có ưu thế tổ
chức ngắn gọn, có thể chớp ngay được một ý nghĩ, một khoảnh khắc suy tư, một
thoáng liên tưởng đậm dấu ấn cá nhân người viết. Nhờ đó nó nói được những khía
cạnh sâu xa một cách bất ngờ và tác động trực tiếp tới tư duy, tình cảm của người đọc.
Đọc nhật ký, người đọc có thể tìm thấy nỗi niềm, những tâm sự kín đáo nhất, chân
thực nhất. Tác giả đặt vào đó sức hút của sự thật. Có thể thấy rằng sức mạnh của nghệ
thuật chính là tình cảm.
Sự ra đời và phát triển của nhật ký là một quá trình phức tạp nhưng có tính quy
luật, nó chứng tỏ khát vọng không ngừng tìm tòi để tự thích ứng với các thể loại khác.
Vượt qua mục đích “thanh minh” hoặc tự “đánh bóng” tên tuổi của mình, những tác
phẩm nhật ký được đón nhận nồng nhiệt và đánh giá cao, mang đến cho người đương

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


35
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

thời những câu trả lời, những bài học quý giá, hiểu sâu hơn sự cao thượng và nhân văn
của con người.
Các tác giả nhật ký đã viết lên những suy nghĩ từ sâu thẳm trái tim mình. Là
nhật ký nên người đọc tìm thấy những nỗi niềm, những tâm sự kín đáo, chân thực
nhất, người viết đặt vào nó những sức mạnh chân thành của tình cảm, tạo nên sức hút
của sự thật. Ở đó không hề có sự lên gân, đánh bóng con người, cuộc sống, thời đại.
Trong thời đại ngày nay những con người, những hành động như thế hệ Nguyễn Văn
Thạc, Đặng Thuỳ Trâm trở thành cổ tích, có thể nói là cổ tích thời hiện đại. Và đối với
người dân Việt Nam những câu chuyện cổ tích vẫn dễ đi vào lòng người và để lại
những tình cảm, những dấu ấn đậm nét trong lòng mỗi người.

2. Đặc điểm của “văn học tư liệu”.


Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Văn học tư liệu là những tác phẩm văn xuôi
nghệ thuật nghiên cứu các sự kiện lịch sử, các hiện tượng của đời sống xã hội bằng
cách phân tích các tư liệu ấy trong tác phẩm.
Nhờ sự phát triển của các phương tiện truyền thông ( nhiếp ảnh, ấn loát, truyền
thanh, điện ảnh, truyền hình) đã xuất hiện khả năng trình bày hiện thực ở dạng không
cần tái tạo lại. Đặc điểm rõ rệt nhất của tác phẩm văn học tư liệu là sự hạn chế sự hư
cấu, sáng tạo đến mức tối thiểu (bất cứ ức đoán thêm thắt nào cũng có thể xem là vu
cáo, hoặc bằng chứng giả). Thay vào đó, nó sử dụng một sự tổng hợp nghệ thuật theo
cách khác: chọn lựa những sự kiện xã hội tiêu biểu, đối chiếu, mở rộng, phân tích tư
liệu, lắp ghép (montage), dàn dựng các tư liệu…Tác phẩm tư liệu thường mang tính
chất nghiên cứu, nó đưa ra một cách có phê phán những kết luận cũ, đề suất một cách
luận chứng mới bổ sung hoặc bác bỏ các luận chứng trước đây.
Chất lượng cuộc sống mới trong việc lựa chọn sự kiện, sự đánh giá thẩm mỹ
đối với các sự kiện đó trong viễn cảnh lịch sử. Tất cả những yếu tố này đã làm mở

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


36
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

rộng tính chất thông tin của văn hóa tư liệu, khiến nó tách khỏi phạm vi của các thể tài
báo chí ( kí, ghi chép, biên niên, phóng sự), khỏi phú của văn xuôi lịch sử ( truyện lịch
sử, tiểu thuyết lịch sử) để trở thành một bộ phận văn học có ranh giới riêng vì nội
dung xúc cảm tư tưởng. Văn học tư liệu gần với truyện ký và hồi ký văn học, nhưng
nếu các thể loại này sử dụng các sự kiện một cách tự do thì văn học tư liệu lại hướng
một cách nghiêm ngặt vào tính xác thực, vào sự phân tích, nghiên cứu các tư liệu một
cách toàn diện.
Mặc dù có những mầm mống trong văn học thế giới trước, nhưng văn học tư
liệu phát triển một cách mạnh mẽ từ sau thế chiến thứ II(1939-1945) với một loạt tác
phẩm viết về các sự kiện của cuộc chiến tranh này ở một loạt nền văn hóa ở các nước
Châu Âu. Loại sách danh nhân-được viết theo lối văn học-một dạng văn học tư liệu
rất phổ biến. Thể loại “kịch tư liệu” cũng nảy sinh với những tác phẩm của
L.A.Mahieghin,Xatrop(Nga),A.Đecô(Pháp),P.Vaixơ,H.Enddenxxbego(Đức)…”.
[5,355].
“ Văn học tư liệu tương đối mới và còn đang phát triển, ranh giới của nó như
một thể tài còn đang là đối tượng tranh luận. Về nghệ thuật tư liệu nói chung, người ta
cho rằng khái niệm “tính tư liệu” hiện còn mang tính kinh nghiệm, ước lệ,
chắc chắn sẽ còn biến đổi trong quá trình hoàn thiện hơn nữa về kỹ thuật của các
phương tiện giao tiếp đại chúng”[1,405]
Ở Việt Nam chưa hình thành dòng văn học tư liệu, nhưng không ít tác phẩm
được viết theo dàn văn học tư liệu. Cách viết ấy có sức mạnh sự thật, bám sát các vấn
đề xã hội, nên nó có tính luận đề rất rõ. Văn học tư liệu thể hiện những vấn đề có tính
nóng bỏng của xã hội, những vấn đề mà xã hội luôn quan tâm. Đây cũng là thể loại
chứa đựng những sức mạnh của sự thật, cho chúng ta thấy được một góc rất thực của
cuộc chiến. Điều này hoàn toàn đối lập với các tác phẩm văn học hư cấu. Trong khi
văn học hư cấu không thể đáp ứng nhu cầu của người đọc. Chính sức mạnh chứa đựng

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


37
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

những tình cảm chân thành đã chinh phục người đọc, đem đến cho độc giả hút hút kỳ
lạ.
Nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm đã làm cho những
ai đang quan tâm tới “ văn hoá đọc” ở Việt Nam hôm nay phải suy ngẫm. Sự tràn lấn
của “ văn hoá nghe – nhìn”, sự thờ ơ với sách văn chương khi mỗi cuốn chỉ in trên
dưới một nghìn bản mà vẫn chỏng trơ trên quầy sách, sự thiếu hụt văn hoá đọc của lớp
trẻ… Đó là những nguyên nhân lâu nay thường được viện dẫn mỗi khi ai đó muốn
chứng minh “ văn hoá đọc” ở Việt Nam đang xuống cấp. Nhưng sự xuất hiện của
những cuốn nhật ký chiến tranh với một số lượng phát hành sách khổng lồ đã khiến
chúng trở thành những tác phẩm “best-seller” nhất, và cũng không thể phủ nhận vai
trò hâm nóng của báo chí. Hơn nữa xét từ tính mục đích, Nguyễn Văn Thạc và Đặng
Thuỳ Trâm viết nhật ký cho mình và chỉ cho mình mà thôi, không viết cho bạn đọc và
họ cũng không hề nghĩ rằng một ngày nào đó nó lại đến tay bạn đọc.
Trong một trang nhật ký, Nguyễn Văn Thạc đã viết rất chân thực: “Nếu như
người viết nhật ký là viết cho mình, cho riêng mình đọc thì cuốn nhật ký đó sẽ chân
thực nhất, sẽ bề bộn và sầm uất nhất. Người ta sẽ mạnh dạn ghi cả vào đấy những suy
nghĩ tồi tệ nhất mà sự thực họ có. Nếu nhật ký mà có người xem nữa thì nó sẽ khác và
khác nhiều. Họ không dám nói thật, nói đúng bản chất sự kiện xảy ra trong ngày,
không dám nói hết và đúng những suy nghĩ đã nảy nở và thai nghén trong lòng họ. Mà
đó chính là điều tối kỵ trong nhật ký- Nó sẽ dạy cho người viết tự lừa dối ngòi bút của
mình, tự lừa dối lương tâm của mình. Người ta viết Nhật ký có rất nhiều phương pháp.
Và mỗi người tuỳ theo ý thích và sự quen thuộc của mình mà ghi chép. Có người chỉ
thích viết ý nghĩ, có người hoàn toàn ghi những sự kiện nhỏ nhặt hàng ngày. Còn
mình, mình không biết thế nào, có lẽ vừa ghi những sự kiện, vừa ghi những suy nghĩ-
Nhiều lúc cũng khó phân biệt đâu là suy nghĩ, đâu là sựu kiện. Và sự trộn lẫn ấy là
một điều rất quý”.(nhật ký ngày 18/4/1972)[6,226].

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


38
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

Những trang nhật ký là những dòng chân thực nhất về cuộc đời người lính. Họ
ghi chép công việc hàng ngày, ghi chép những sự việc, những con người đã gặp, đã
biết trên chiến trường. Và họ gửi vào nhật ký những tâm tư, suy nghĩ sâu lắng nhất về
bản thân mình, về gia đình, về những người xung quanh… Vì thế người đọc bị hai
cuốn nhật ký cuốn hút trước hết không phải do các yếu tố văn chương, mà do tính
chân thực, sự trong sáng của tâm hồn, cốt cách và bản lĩnh của người viết. Người viết
có mặt trên chiến trường, những gì họ trải qua là những điều hiện thực cuộc sống đang
diễn ra. Và họ thấy hãnh diện khi được trực tiếp chiến đấu và cầm bút. Vì “Giải
thưởng lớn nhất đối với người viết văn là được sống trong hàng ngũ quân đội. Ở đó,
anh sẽ thấu hiểu tất cả nỗi nhọc nhằn, đau khổ và những niềm vui bất tận của con
người”[6,184]. Qua mỗi trang nhật ký, hình ảnh về hai con người sống có lý tưởng
trong thời đại của họ hiện ra rõ nét và hấp dẫn đến mức họ trở thành những con người-
nhân vật.
Trong những trang nhật ký cuối cùng của đời mình, Nguyễn Văn Thạc đã viết
lên những dòng suy nghĩ chân thật tận đáy lòng mình: “Kẻ thù không cho tôi ở lại -
Phải đi – Tôi sẽ gửi về cuốn Nhật ký này, khi nào trở lại, khi nào trở lại, tôi sẽ viết
tiếp những dòng sau này? Tôi chỉ ao ước rằng, ngày mai, những trang giấy còn lại
đằng sau sẽ toàn là những dòng vui vẻ và đông đúc. Đừng để trống trải và bí ẩn như
những trang nhật ký này”. Những lời nói ấy cũng là tâm huyết của một thế hệ như anh
Thạc, như chị Trâm. Và câu trả lời ở chính chúng ta, những thế hệ của ngày hôm nay.

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


39
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

Phần kết luận

Qua việc tìm hiểu đề tài thời đại chiến tranh trong hai cuốn nhật ký chiến tranh
Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm, chúng ta thấy được hiện thực
chiến tranh được biểu hiện một cách chân thực nhất. Đồng thời cũng cho thấy vẻ đẹp
của hình tượng người chiến sĩ cách mạng- trung tâm của cuộc chiến. Những tác phẩm
nhật ký chiến tranh đã mang lại cho văn chương những màu sắc mới với những hướng
tiếp cận mới.
Để tiếp tục đề tài chiến tranh trong khả năng đón nhận những vấn đề mới của
thời cuộc, sẽ có một thế hệ mới, một thế hệ mới trẻ hơn. Trẻ hơn, họ không bị ràng
buộc bởi nhận thức cũ, những thói quen và khái niệm cũ. Họ được tự do hơn trong
việc lựa chọn. Được sống và viết trong bối cảnh mới, không còn đối mặt với chiến
tranh, mà là đối mặt với nhu cầu đổi mới và phát triển đất nước. Đón nhận không khí
mới của dân tộc và thời đại, lớp người mới này sẽ có một cách nghĩ, cách thể hiện
hiện thực thời đại khác hơn. Chính vì vậy, đề tài về chiến tranh sẽ luôn là nguồn đề tài
vô tận và sẽ sống cùng mọi thời đại.
Do khuôn khổ hạn chế của bài nghiên cứu, chúng tôi không có điều kiện đi sâu
vào khảo sát kỹ lưỡng đề tài này. Chúng tôi hy vọng sẽ được tiếp tục công việc của
mình ở mức độ sâu và rộng hơn trong những đề tài khác. Cuối cùng chúng tôi xin

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


40
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

chân thành cảm ơn thầy cô, bạn bè, đặc biệt là thầy Bùi Việt Thắng người đã luôn
theo sát quan tâm, góp ý, chỉ dẫn một cách kịp thời để chúng tôi có thể hoàn thành tốt
đề tài này.

THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Sách
1. Lại Nguyên Ân (Chủ biên), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
1999.
2. Nguyễn Văn Đạm, Từ điển Tiếng Việt tường giải và liên tưởng, Nxb Văn hoá thông
tin, H.1999.
3. Hà Minh Đức, Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, H.2006.
4. Hoàng Kim Giao, Sống để yêu thương và dânh hiến, Nxb Quân đội nhân dân,
H.2005.
5. Lê Bá Hán, Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999
6. Đặng Vương Hưng, Mãi mãi tuổi hai mươi, Nxb Thanh niên, H.2005.
7. Vũ Ngọc Khánh, Từ điển nguyên giải nghĩa, Nxb Văn hóa dân tộc, H.1998.
8. Đặng Ngọc Khoa, Đặng Thuỳ Trâm viết từ Cali và những cánh rừng kí ức, Nxb
Phụ nữ, H.2006.
9. Vương Trí Nhàn, Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm, Nxb Hội nhà văn, H.2005.
10. Nguyễn Sáng, Chiến trường sống và viết, Nxb Hội nhà văn, H.1994..
11. Nguyễn Thị Tâm, Ánh sáng và niềm tin, Nxb Thanh niên, H.1974.
12. Nguyễn Như Ý, Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hoá thông tin, H.1998.

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


41
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

Tạp chí
13.Trung Trung Đỉnh, “ Ký ức sư đoàn”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 1,1993.
14. Nam Hà, “ Sự thật chiến tranh và tác phẩm văn học viết về chiến tranh”, Tạp chí
Văn nghệ Quân đội, số7,1992.
15. Nguyễn Khải, “ Nhìn lại những trang viết của mình”, Báo Văn nghệ, số 39,1945
16. Chu Lai, “ Người lính là một siêu nhân vật”, Báo Sài Gòn giải phóng, số
7,18/4/2001
17. Chu Lai, “ Vài suy nghĩ về phản ánh sự thật trong chiến tranh”,Tạp chí Văn nghệ
Quân đội, số4,1981.

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52


42
Dấu ấn thời đại chiến tranh trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

Nguyễn Thị Kim Oanh Văn học K52

You might also like