You are on page 1of 82

MỤC LỤC

NCLP tháng 6/2008 (số 125)

Nhà nước và Pháp luật


Quan điểm của Đảng về hệ thống pháp luật trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN
Nguyễn Tư Long
Về cách tính thời gian thử thách của án treo
Nguyễn Thị Xuấn
Công tác nghiên cứu lý luận về giáo dục pháp luật trong thời kỳ đổi mới
Lê Văn Hoè
Bàn về dự án Luật
Thực trạng pháp luật về lý lịch tư pháp và vấn đề xác định phạm vi quản lý Lý lịch tư pháp ở
nước ta hiện nay
Hoàng Thế Liên
Tổ chức và hoạt động quản lý lý lịch tư pháp ở Việt Nam
Nguyễn Văn Toàn
Tàng thư căn cước can phạm và việc xây dựng hệ cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp
Nguyễn Văn Thìn
Chính sách
Tính hai mặt của chính sách chống lạm phát
Nguyễn Minh Phong
Thực tiễn Pháp luật
Bảo vệ quyền của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay
Đinh Ngọc Vượng
Kinh nghiệm quốc tế
Một số vấn đề cơ bản về Luật lao động quốc tế
Phạm Trọng Nghĩa
Thông tin công tác Lập pháp
Giới thiệu văn bản hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Quan điểm của Đảng về hệ thống pháp luật trong điều kiện xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN

Nguyễn Tư Long*
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta đó chủ trương “quản lý đất nước bằng pháp
luật chứ không chỉ bằng đạo lý”; “Quản lý bằng pháp luật đòi hỏi phải quan tâm xây
dựng pháp luật, từng bước bổ sung và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật”[1], đồng thời, coi
xây dựng hệ thống pháp luật là một trong những nhiệm vụ thể hiện và kiểm chứng năng
lực quản lý, điều hành của bộ máy nhà nước. Xuất phát từ chủ trương đổi mới trên,
Đảng đã có nhiều quan điểm quan trọng, thể hiện tư duy pháp lý mới về hệ thống pháp
luật trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Những quan điểm
này được thể hiện trong văn kiện các Đại hội của Đảng, các Nghị quyết của Ban chấp
hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị..

“Pháp luật là thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của
nhân dân”[2]

Đây là quan điểm cơ bản, có giá trị chỉ đạo toàn bộ quá trình chuyển đổi hệ thống
pháp luật từ mô hình và cơ chế hành chính, quan liêu bao cấp sang hệ thống pháp luật của
thời kỳ đổi mới, đặt cơ sở cho việc đổi mới công tác xây dựng pháp luật theo yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đổi mới nội dung và phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.

Quan điểm này khẳng định bản chất của pháp luật trong điều kiện xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là sự kết hợp hài hoà của hai thuộc tính
quan trọng: tính giai cấp công nhân và tính nhân dân. Về mặt khoa học, quan điểm “pháp
luật là thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân” cho thấy
tư duy pháp lý mới của Đảng về pháp luật, đặt cơ sở cho sự phát triển mới của khoa học
pháp lý Việt Nam.

Đây không đơn giản chỉ là quan điểm về pháp luật, mà nó còn tạo cơ sở cho việc
đổi mới phương thức lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước và
xã hội chủ yếu bằng việc hoạch định đường lối, chủ trương và lãnh đạo Nhà nước thể chế
hoá thành pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật. Như thế, thực hiện pháp luật cũng là
thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, từ đây khắc phục được nhận thức sai lầm cho
rằng quy định “các tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”
(Điều 4 của Hiến pháp năm 1992) là làm cho Đảng bị lệ thuộc vào Nhà nước, mất quyền
lãnh đạo Nhà nước. Trong điều kiện của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

dựng và bảo đảm vị thế pháp lý của các tổ chức đảng, trước hết là vị thế pháp lý của các
tổ chức cơ sở đảng - như Đại hội X chủ trương, trở thành vấn đề quan trọng trong lý luận
về đảng cầm quyền và thực tiễn lãnh đạo của Đảng.

Sự kết hợp hài hoà giữa tính giai cấp công nhân và tính nhân dân trong pháp luật
đòi hỏi phải đổi mới đồng thời cả quy trình hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng,
cả quy trình soạn thảo, ban hành các văn bản quy phạm, bảo đảm nguyên tắc dân chủ,
theo đó “nhân dân là người thực hiện pháp luật cũng phải là người xây dựng pháp luật”,
“làm cho luật pháp dân chủ ngày càng nhiều hơn, tốt hơn” [3] như Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã dạy. Theo định hướng này, Đảng chủ trương “đổi mới công tác thông tin và quy trình
ra các quyết định của Đảng và Nhà nước, để các quyết định ấy phản ánh được ý chí,
nguyện vọng và trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân”[4]. Đại hội X của Đảng cùng với chủ
trương xây dựng xã hội dân chủ đã xác định: “Bộ máy nhà nước, các thiết chế khác trong
hệ thống chính trị có nhiệm vụ đề xuất ý kiến với Đảng trong quá trình xây dựng, hoạch
định và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng”[5]. Từ đó, vấn đề đổi mới
công tác xây dựng pháp luật trên cơ sở vừa nâng cao chất lượng dân chủ đại diện, vừa
nâng cao chất lượng dân chủ trực tiếp được đặt ra như một tất yếu.

Liên tục từ Đại hội VI đến Đại hội X, Đảng kiên trì chủ trương đổi mới tổ chức và
phương thức hoạt động, nâng cao năng lực lập pháp của Quốc hội. Văn kiện Đại hội IX
của Đảng khẳng định: “Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả
hoạt động của Quốc hội, trọng tâm là tăng cường công tác lập pháp, hoàn thiện hệ thống
pháp luật, đổi mới quy trình ban hành và hướng dẫn thi hành luật”[6]. Mới đây, theo tinh
thần hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội - cơ quan đại biểu cao nhất của nhân
dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất - suy cho cùng phải được thể hiện ở hiệu lực
thực tế của các đạo luật do Quốc hội ban hành, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra
Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 01/8/2007 về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước, khẳng định cải cách hành chính phải
được thực hiện đồng bộ với cải cách lập pháp và cải cách tư pháp. Nghị quyết xác định
nội dung cải cách lập pháp, trong đó có chủ trương tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động
của Quốc hội; hoàn thiện quy chế bầu cử nhằm nâng cao chất lượng Đại biểu Quốc hội;
tăng hợp lý số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách; tổ chức lại một số Uỷ ban của Quốc
hội; đổi mới hơn nữa quy trình xây dựng luật…

Để bảo đảm pháp luật thể hiện ý chí của nhân dân, Đảng đề ra nhiều chủ trương lớn
được thể hiện tập trung trong Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị
về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020 (Nghị quyết số 48-NQ/TW). Nghị quyết nhấn mạnh: “Tăng cường
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức nghiên cứu chuyên ngành trong hoạt động
xây dựng pháp luật. Có cơ chế thu hút các hiệp hội, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp, các chuyên gia giỏi tham gia vào việc nghiên cứu, đánh giá nhu cầu, hoạch định
chính sách pháp luật, soạn thảo, thẩm tra các dự thảo văn bản pháp luật. Xác định cơ chế
phản biện xã hội và tiếp thu ý kiến của các tầng lớp nhân dân đối với các dự án, dự thảo
văn bản quy phạm pháp luật”. Ngay từ Đại hội VIII, Đảng đã đề cập vấn đề phải xây
dựng và ban hành Luật Trưng cầu ý dân, nhằm bảo đảm những vấn đề hệ trọng của đất
nước, dân tộc sẽ do chính nhân dân quyết định thông qua các cuộc trưng cầu ý dân, một
hình thức dân chủ trực tiếp đặc biệt quan trọng.

Biện pháp có tính chất quyết định bảo đảm tính nhân dân của pháp luật trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là đổi mới về cơ bản quy trình xây
dựng luật, trọng tâm là quy trình lập pháp. Quy trình lập pháp phải là biện pháp pháp lý
bảo đảm sự chính xác, toàn diện, khách quan của quá trình phản ánh ý chí của nhân dân
dưới hình thức các đạo luật. Từ đây đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải có trách
nhiệm công bố dự thảo để lấy ý kiến, tiếp thu ý kiến của nhân dân; trách nhiệm công bố
công khai kết quả tiếp thu ý kiến chỉnh lý dự thảo văn bản, kể cả công bố dự thảo văn bản
đã được chỉnh lý. Mặt khác, để nâng cao năng lực tham gia xây dựng pháp luật của nhân
dân, Nghị quyết số 48-NQ/TW xác định giải pháp “phát triển hệ thống thông tin và phổ
biến giáo dục pháp luật, xây dựng và triển khai Chương trình Quốc gia về phổ biến giáo
dục pháp luật dài hạn”. Thực hiện giải pháp này, cùng với các chủ trương đưa việc giảng
dạy pháp luật vào các trường của Đảng, của Nhà nước và của các tổ chức chính trị - xã
hội, Đảng yêu cầu cán bộ quản lý các cấp phải có kiến thức quản lý và hiểu biết pháp
luật. Thêm nữa, với chủ trương tăng cường vai trò lãnh đạo của các tổ chức đảng đối với
công tác giáo dục pháp luật tại Chỉ thị số 32/CT-TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng (khoá IX) thì chắc chắn, trình độ hiểu biết và ý thức pháp luật của nhân
dân được nâng lên và do đó, họ có khả năng chủ động tham gia có hiệu quả vào công tác
xây dựng pháp luật.

Xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân

Xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân đặt ra các vấn đề: phải khắc
phục bệnh chủ quan, duy ý chí, nhất là bệnh cục bộ địa phương, cục bộ ngành trong xây
dựng pháp luật; quy định hợp lý thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật; nhất
là bảo đảm sự phân công và phối hợp, xác định rõ vai trò của một “nhạc trưởng” điều
hành toàn bộ hoạt động xây dựng pháp luật.
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Quan điểm trên của Đảng giúp cho việc nhận diện chính xác diện mạo của hệ thống
pháp luật trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đặt cơ sở cho
việc hoạch định Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong thời kỳ đổi
mới (Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị). Chiến lược đánh dấu bước đột phá
trong tư duy lý luận của Đảng về hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa. Mục tiêu của Chiến lược xác định: “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế
xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần
quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng
Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của
công dân, góp phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.

Mục tiêu cho thấy rõ “diện mạo” của hệ thống pháp luật trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam như sau:

Đó là một hệ thống kết tinh đầy đủ các thuộc tính hiện đại của pháp luật, gồm: tính
thống nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch. Trong phần xác định quan điểm chỉ
đạo xây dựng hệ thống pháp luật, Chiến lược khẳng định những thuộc tính bản chất của
pháp luật, gồm tính giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân chủ và pháp chế, đồng
thời đề cập hai thuộc tính mới, là tính phù hợp với các cam kết quốc tế, những chuẩn mực
pháp lý quốc tế; thuộc tính về sự kết hợp hài hoà bản sắc văn hoá, truyền thống tốt đẹp
của dân tộc và tính hiện đại của hệ thống pháp luật. Với hai thuộc tính mới này, hệ thống
pháp luật trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mang tính kế
thừa và phát triển, là sự kết nối giữa truyền thống với hiện đại, đồng thời là một hệ thống
mở, có khả năng tương tác, hấp thụ những giá trị pháp lý quốc tế phổ biến, trở thành “cầu
nối” đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế thế giới, là bộ phận không tách rời
của nền kinh tế toàn cầu.

Những thuộc tính hiện đại trên của hệ thống pháp luật được Chiến lược lượng hoá
và bảo đảm bằng sáu định hướng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đó cũng là
sáu bộ phận tạo nên cấu trúc của hệ thống pháp luật, gồm:

1- Pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị;

2- Pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân;
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

3- Pháp luật về dân sự, kinh tế, trọng tâm là thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa;

4- Pháp luật về giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, văn hoá - thông tin,
thể thao, dân tộc, tôn giáo, dân số, gia đình, trẻ em và chính sách xã hội;

5- Pháp luật về quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội;

6- Pháp luật về hội nhập quốc tế.

Có thể nhận rõ, từ sáu yếu tố cấu trúc trên, hệ thống pháp luật trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được mở rộng về phạm vi điều chỉnh, thể
hiện rõ ở sự xuất hiện bộ phận pháp luật mới về hội nhập quốc tế, ở phạm vi điều chỉnh
đối với toàn bộ tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị, từ đó bảo
đảm được yêu cầu về chủ động hội nhập quốc tế và tính pháp quyền trong quản lý nhà
nước, quản lý xã hội.

Nếu căn cứ vào nội dung của sáu yếu tố cấu trúc của hệ thống pháp luật, có thể thấy
tính đồng bộ của hệ thống pháp luật đã được phát triển ở một trình độ mới. Đó là sự đồng
bộ giữa quy phạm xác định chính sách pháp luật với quy phạm quy định cụ thể chính
sách; giữa quy phạm nội dung xác định các chuẩn mực điều chỉnh với quy phạm hình
thức xác định trình tự, thủ tục thực hiện; giữa quy phạm quy định với quy phạm bảo đảm
thực hiện; giữa các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên với các văn bản “nội luật
hoá”, và cả sự đồng bộ với các quy phạm điều chỉnh quá trình tạo lập hệ thống pháp luật.
Để bảo đảm sự đồng bộ này, Chiến lược xác định một loạt các chủ trương, như: “hoàn
thiện pháp luật về quy trình xây dựng, ban hành và công bố văn bản quy phạm pháp luật
thống nhất cho cả trung ương và địa phương, theo hướng Quốc hội ban hành luật, giảm
dần việc Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh; Chính phủ ban hành văn bản
hướng dẫn tổ chức thi hành luật; hạn chế dần thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của chính quyền địa phương”; bảo đảm “các đạo luật ngày càng giữ vị trí trung
tâm, trực tiếp điều chỉnh các quan hệ xã hội”; “xác định rõ quy trình, cơ chế nội luật hoá
các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên”. Mới đây, Nghị quyết số 17-NQ/TW
ngày 01/8/2007 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá X), khi đề ra chủ trương cải
cách lập pháp đã bổ sung nhiều biện pháp quan trọng, như: “Khắc phục nhanh tình trạng
ban hành luật khung, hạn chế tối đa luật phải chờ văn bản hướng dẫn thi hành. Khắc phục
tình trạng ban hành luật với những vấn đề chưa đủ rõ và khó hướng dẫn thực hiện. Tính
thống nhất của hệ thống pháp luật phải được đề cao, phải được bảo đảm chấp hành
nghiêm minh trong thực tiễn của đời sống xã hội”.
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Hệ thống pháp luật phải là một hệ thống tồn tại trong hiện thực.

Quan điểm này của Đảng được thể hiện trước hết trong nội dung của các bộ phận
tạo nên cấu trúc của hệ thống pháp luật; ở sự đồng bộ giữa các quy phạm xác định tổ
chức các cơ quan có thẩm quyền xây dựng pháp luật với các quy phạm xác định tổ chức
cơ quan thực thi và bảo vệ pháp luật, các thiết chế phổ biến, giáo dục pháp luật, tư vấn,
trợ giúp pháp lý và đào tạo pháp luật; ở việc thống nhất giữa cơ chế điều chỉnh pháp luật
với cơ chế thực hiện pháp luật. Nghị quyết số 48-NQ/TW khẳng định: “Các dự án luật,
pháp lệnh chỉ được xem xét thông qua khi có giải trình rõ ràng về cơ chế, biện pháp, các
nguồn lực bảo đảm tổ chức thực hiện”.

Tính hiện thực của hệ thống pháp luật còn được thể hiện ở chỗ các quy phạm tạo
nên cấu trúc của nó đã xác định cơ chế, chế độ trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo
đảm thực thi pháp luật. Từ đây, pháp luật về quyền con người, quyền tự do, dân chủ của
công dân theo tư duy thông thường đã được thể hiện trong Nghị quyết 48-NQ/TW với tên
gọi là “pháp luật bảo đảm các quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân”.

Cơ chế và chế độ trách nhiệm thực hiện pháp luật của Nhà nước còn được thể hiện
trong Chiến lược thông qua việc thực hiện ba nguyên tắc đặc thù của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa trong mối quan hệ với cá nhân. Đó là, nguyên tắc “trách nhiệm
ràng buộc giữa Nhà nước và cá nhân”; nguyên tắc “công dân được làm tất cả những gì
mà pháp luật không cấm”; và nguyên tắc “cơ quan, công chức nhà nước chỉ được làm
những gì pháp luật cho phép”. Để thực hiện các nguyên tắc này, Chiến lược chủ trương
xác lập chế độ bảo hộ của Nhà nước đối với các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
ban hành Luật về Bồi thường Nhà nước, các đạo luật về lập hội, biểu tình; Luật Công
chức; Luật công vụ, xếp đặt thể chế xác định khuôn khổ pháp lý trong hoạt động kinh
doanh theo yêu cầu của các nguyên tắc của kinh tế thị trường.

---------

* Ths. Vụ Pháp luật, Văn phòng Quốc hội

[1]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự
thật, Hà Nội, 1987, tr. 121.

[2] Sđd, tr. 120.

[3] Hồ Chí Minh, Nhà nước và pháp luật, Nxb. Pháp lý, Hà Nội, 1985, tr. 187.
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật,
[4]
Hà Nội, 1991, tr. 91.

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị
[5]
Quốc gia, Hà Nội, tr. 125.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 132.
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Về cách tính thời gian thử thách của án treo

Nguyễn Thị Xuân*


Án treo là một chế định thể hiện tính nhân đạo trong chính sách hình sự của Nhà
nước ta. Với phương châm “giáo dục - khoan hồng”, án treo không buộc người bị kết án
cách ly khỏi xã hội. Họ vẫn được làm ăn, sinh sống và chứng tỏ sự hối cải, hoàn lương
của mình ngay trong môi trường xã hội bình thường dưới sự giám sát, theo dõi, giáo dục
của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Là hình phạt mang tính giáo dục cao, án treo
khuyến khích người bị kết án tự nguyện lao động, cải tạo với sự giúp đỡ tích cực của xã
hội. Khi áp dụng án treo trong hoạt động xét xử, các Tòa án đôi khi gặp những vướng
mắc liên quan đến thời gian thử thách của án treo, đó là việc ấn định mức thời gian thử
thách của án treo và xác định thời điểm tính thời gian thử thách của án treo.

1. Việc ấn định mức thời gian thử thách của án treo

Khi quyết định cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo, Toà án đồng thời
buộc phải tuyên thời gian thử thách đối với người phạm tội và chế định án treo chỉ có ý
nghĩa khi tuyên thời gian thử thách đúng theo luật định. Thời gian thử thách là khoảng
thời gian đủ để người bị kết án tự khẳng định về sự tự giác cải tạo của mình. Mặt khác,
thời gian thử thách của án treo cũng giúp Toà án có điều kiện kiểm tra tính đúng đắn của
việc áp dụng án treo đối với người bị kết án trong thời gian chấp hành bản án.

Khoản 1, Điều 60 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999 quy định “nếu xét thấy không
cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian
thử thách từ một năm đến năm năm”. Như vậy, việc tuyên thời gian thử thách khi tuyên
án treo là bắt buộc, không thể có trường hợp tòa án không ấn định thời gian thử thách.
Thời gian thử thách của án treo tối thiểu là một năm và tối đa là năm năm. Mọi trường
hợp ấn định thời gian thử thách dưới một năm hoặc trên năm năm đều không đúng với
quy định của BLHS.

Nghiên cứu các bản án của Tòa án đã tuyên trong thời gian qua, ta thấy vẫn còn
một số bản án của Tòa án cấp huyện và ngay cả bản án của Tòa án cấp tỉnh ở một vài địa
phương vi phạm quy định của BLHS về việc ấn định mức thời gian thử thách của án treo,
như tại bản án hình sự sơ thẩm số 31/HS-ST ngày 26/02/2002 của Tòa án nhân dân huyện
S - tỉnh G xử phạt Lê Minh Thuận 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội cố ý gây
thương tích, thời gian thử thách là 4 tháng. Hoặc bản án hình sự sơ thẩm số 58/HS-ST
ngày 07/06/2001 của Tòa án nhân dân tỉnh G xử phạt Bùi Thị Lượng 3 năm tù nhưng cho
hưởng án treo về tội cướp tài sản, nhưng lại không tuyên thời gian thử thách. Các bản án
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

này đã thể hiện sự sai lầm hết sức nghiêm trọng, cần phải phát hiện và khắc phục kịp
thời.

Trong thời gian thi hành BLHS năm 1985, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao (TANDTC) đã ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng án treo là Nghị quyết số
01/HĐTP ngày 05/01/1986, Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 16/11/1988, Nghị quyết số
01/HĐTP ngày 19/04/1989, Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 18/10/1990 và TANDTC cũng
có Thông tư số 01/NCPL ngày 06/04/1988. Các văn bản này đều thống nhất hướng dẫn
về việc ấn định mức thời gian thử thách khi tuyên án treo là “ từ một năm đến năm năm
và không thấp hơn mức phạt tù”.

Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng thẩm phán
TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS, tại mục 6.4 quy định:

“Khi cho người bị xử phạt tù hưởng án treo, trong mọi trường hợp Tòa án phải ấn
định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm và phân biệt như sau:

a) Trường hợp người bị xử phạt tù không bị tạm giam thì thời gian thử thách bằng 2
lần mức hình phạt tù nhưng không được dưới một năm và không được quá năm năm.

b) Trường hợp người bị xử phạt tù đã bị tạm giam thì lấy mức hình phạt tù trừ đi
thời gian đã bị tạm giam để xác định mức hình phạt tù còn lại phải chấp hành. Thời gian
thử thách trong trường hợp này bằng 2 lần mức hình phạt tù còn lại phải chấp hành nhưng
không được dưới một năm năm và không được quá năm năm”.

So sánh Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 với các văn bản ban
hành trước đó hướng dẫn về cách ấn định thời gian thử thách của án treo, chúng ta thấy
có một số điểm khác biệt sau:

Thứ nhất, quy định về cách tính thời gian thử thách của án treo đối với trường hợp
bị cáo không bị tạm giam theo các văn bản đã ban hành trước đây phải thoả mãn hai điều
kiện: một là, ấn định mức thời gian thử thách chỉ trong giới hạn từ một năm đến năm
năm; hai là, không thấp hơn mức phạt tù đã tuyên. Ví dụ: Trần Ngọc Bình bị Tòa án
huyện N, tỉnh P tuyên phạt 2 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội đánh bạc thì thời
gian thử thách mà Toà án được quyền ấn định bất kỳ một mức nào trong giới hạn tối
thiểu là 2 năm và tối đa là 5 năm.

Theo Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP hướng dẫn về cách tính thời gian thử
thách của án treo đối với trường hợp bị cáo không bị tạm giam có hai điều kiện: một là,
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

ấn định mức thời gian thử thách gấp hai lần mức phạt tù đã tuyên; hai là, không được
dưới một năm và không được quá năm năm. Theo đó, cũng ví dụ trên, Toà án huyện N,
tỉnh P chỉ được phép ấn định mức thời gian thử thách đối với Bình là 2 năm tù x 2 lần = 4
năm thử thách, mà không được có bất kỳ một sự lựa chọn nào khác.

Như vậy, cách ấn định thời gian thử thách của án treo theo quy định tại các văn
bản đã ban hành trước đây vẫn là hướng dẫn mang tính tuỳ nghi, Toà án còn có nhiều kết
quả lựa chọn khác nhau. Còn việc ấn định thời gian thử thách của án treo theo Nghị quyết
số 01/2007/NQ-HĐTP luôn mang tính xác định, chính xác và chặt chẽ với kết quả ấn
định là một chỉ số duy nhất.

Thứ hai, các văn bản ban hành trước khi có Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP
hoàn toàn không có hướng dẫn về cách ấn định thời gian thử thách của án treo đối với
trường hợp người phạm tội đã bị tạm giam. Do đó, trong thời gian qua, một số trường
hợp người phạm tội đã bị tạm giam, khi xét xử họ đảm bảo đủ các điều kiện cho hưởng
án treo nhưng Toà án thường né tránh không cho áp dụng án treo vì sự phức tạp, không
rõ ràng của nó. Số ít Toà án mạnh dạn áp dụng án treo đối với các trường hợp đó lại rất
lúng túng trong việc ấn định thời gian thử thách. Vấn đề này xuất hiện hai quan điểm:

Quan điểm 1, trừ thời gian tạm giam vào phần hình phạt phải chấp hành, sau đó
mới ấn định thời gian thử thách (thực tiễn thường áp dụng theo quan điểm này).

Quan điểm 2, tuyên thời gian thử thách trước rồi mới chuyển đổi thời gian tạm
giam thành thời gian thử thách rồi khấu trừ vào phần thời gian thử thách đã tuyên.

Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP quy định rất chi tiết, rõ ràng, đầy đủ về cách ấn
định thời gian thử thách của án treo đối với trường hợp người phạm tội đã bị tạm giam
như đã trích dẫn. Ví dụ: Trần Đình M đã bị tạm giam 6 tháng được Toà án huyện L xử
phạt 2 năm tù nhưng cho hưởng án treo. Cách ấn định thời gian thử thách như sau: tính
mức phạt tù còn lại M phải chấp hành là: 24 tháng tù - 6 tháng tạm giam = 18 tháng tù.
Sau đó, Toà án phải ấn định thời gian thử thách với M là 18 tháng tù x 2 lần = 36 tháng
thử thách.

Tóm lại, việc ban hành kịp thời Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP hướng dẫn về
cách ấn định thời gian thử thách của án treo đã tháo gỡ hoàn toàn những vướng mắc mà
thực tiễn thường gặp như đã nêu. Một phần, nó đảm bảo quyền lợi của người bị kết án khi
đủ các điều kiện cho hưởng án treo dù đã bị tạm giam hay không đều bình đẳng với nhau
và đều được hưởng chính sách khoan hồng này. Loại trừ hoàn toàn trường hợp vì đã bị
tạm giam, người phạm tội đáng lẽ được hưởng án treo thì lại phải chấp hành hình phạt tù,
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của họ. Mặt khác, quy định này tạo ra việc áp
dụng pháp luật về chế định án treo nói chung, cách ấn định thời gian thử thách của án
treo nói riêng mang tính thống nhất, chặt chẽ và chính xác.

2. Thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách của án treo

Mốc thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách của án treo không được trực tiếp
quy định trong BLHS năm 1985 và BLHS năm 1999 mà chỉ được hướng dẫn trong các
văn bản dưới luật và giữa chúng có sự khác nhau, tựu trung ở hai hướng giải thích:

Hướng thứ nhất, thời gian thử thách của án treo được tính từ ngày tuyên bản án
cho hưởng án treo. Theo đó, nếu Tòa án cấp sơ thẩm cho người bị kết án được hưởng án
treo thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, còn nếu Tòa án cấp sơ thẩm
không cho hưởng án treo nhưng Tòa án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo, thời gian thử
thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Những văn bản pháp luật hướng dẫn về thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách
của án treo theo hướng này là: Thông tư số 01/NCPL ngày 06/4/1988 của TANDTC;
Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 16/11/1998, Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 19/4/1989, Nghị
quyết số 01/HĐTP ngày 18/10/1990 và văn bản được ban hành gần đây nhất là Nghị
quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007.

Hướng thứ hai, thời gian thử thách của án treo được tính từ ngày cơ quan, tổ chức
giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành bản án và trích lục bản
án. Nghĩa là thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách được tính từ khi bản án của Tòa án
cấp sơ thẩm hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị mà không có kháng cáo, kháng nghị
(muộn nhất là sau 30 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm). Hoặc nếu có kháng cáo, kháng
nghị mà Tòa án cấp phúc thẩm vẫn cho hưởng án treo thì thời điểm bắt đầu tính thời gian
thử thách sớm nhất khi tuyên án phúc thẩm.

Những văn bản pháp luật hướng dẫn về thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách
của án treo theo hướng thứ hai là Nghị định số 61/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 của
Chính phủ và Công văn số 81/TANDTC ngày 10/06/2002. Theo đó, tại Khoản 5, Điều 5
của Nghị định số 61 quy định: “người được hưởng án treo là cán bộ công chức, quân
nhân, công nhân quốc phòng, người lao động làm công ăn lương... thời gian thử thách
được tính từ ngày cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục người đó nhận được quyết định thi
hành bản án và trích lục bản án”. Mục 3 của Công văn số 81/TATC lại một lần nữa khẳng
định hướng dẫn trên là “người được hưởng án treo là cán bộ công chức, quân nhân, công
nhân quốc phòng, người làm công ăn lương... thời gian thử thách được tính từ ngày cơ
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

quan, tổ chức giám sát giáo dục người đó nhận được quyết định thi hành bản án và trích
lục bản án chứ không phải kể từ ngày Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử
thách”.

So sánh hai hướng giải thích trên về thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách của
án treo, theo chúng tôi:

- Thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách của án treo theo hướng thứ nhất thể
hiện được tính hợp lý của nó là phát huy được tác dụng phòng ngừa tội phạm của án treo
ngay từ khi tuyên án sơ thẩm. Cách này hạn chế tình trạng người được hưởng án treo
phạm tội trong thời gian kháng cáo, kháng nghị bản án sơ thẩm mà không bị coi là phạm
tội trong thời gian thử thách, từ đó loại trừ sự phức tạp trong việc tổng hợp hình phạt nếu
người được hưởng án treo phạm tội trong thời gian kháng cáo, kháng nghị. Mặt khác, nó
cũng làm cho người bị kết án đỡ bị thiệt thòi vì việc xử phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm
thường chậm. Song hướng dẫn này cũng bộc lộ một bất cập là cơ quan, tổ chức chịu trách
nhiệm theo dõi, giám sát, giáo dục người bị kết án chỉ bắt đầu thực hiện chức năng này
khi nhận được quyết định thi hành án sau khi bản án đã hết thời hạn kháng cáo, kháng
nghị mà không có kháng cáo, kháng nghị. Vậy trong thời gian kháng cáo, kháng nghị cơ
quan nào (Tòa án hay chính quyền địa phương hay cơ quan nơi người bị kết án làm việc)
theo dõi, giám sát người bị kết án thi hành bản án?

- Hướng thứ hai về thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách của án treo khắc phục
được bất cập của hướng thứ nhất như đã phân tích ở trên (tức thời gian kháng cáo, kháng
nghị của bản án sơ thẩm không được tính vào thời gian thi hành án). Song hướng dẫn này
thể hiện điểm bất cập ở chỗ đã phân hoá người bị kết án được hưởng án treo thành hai
nhóm:

Nhóm 1, người được hưởng án treo là cán bộ công chức, quân nhân, công nhân
quốc phòng, người làm công ăn lương.

Nhóm 2, người được hưởng án treo là các đối tượng còn lại như nông dân, người
không có việc làm, người làm công việc nội trợ...

Trong hai nhóm đối tượng trên, chỉ nhóm 1 mới phải chịu sự điều chỉnh của Nghị
định số 61 khi phạm tội được hưởng án treo thì thời gian thử thách được tính từ ngày cơ
quan, tổ chức giám sát, giáo dục người đó nhận được quyết định thi hành bản án và trích
lục bản án. Nếu đối tượng thuộc nhóm hai thì mặc nhiên được áp dụng cách tính theo
hướng thứ nhất tại Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 18/10/1990 .
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Một bất cập nữa là nếu thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách của án treo theo
Nghị định 61 sẽ gây bất lợi cho người được hưởng án treo, thể hiện qua ví dụ: ngày
01/01/2003 Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo A 5 tháng tù nhưng cho hưởng án treo,
thời gian thử thách là 1 năm. Sau 30 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, không có kháng
cáo, kháng nghị. Ngày 02/02/2003, Tòa án ra quyết định thi hành án, cùng ngày giao cho
UBND xã H nhận quyết định thi hành án và trích lục bản án.

Ở ví dụ trên, nếu căn cứ vào Nghị quyết 01/HĐTP ngày 18/10/1990 và Nghị quyết
số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 thì thời gian thử thách tính từ ngày 01/01/2003,
đến ngày 01/01/2004 A chấp hành xong thời gian thử thách và nếu không phạm tội mới
trong thời gian này thì ngày 01/01/2005 A được xoá án tích. Nếu căn cứ vào Nghị định
61, các mốc tố tụng trên phải tính từ ngày 02/02 (lùi về sau ít nhất 1 tháng). Bên cạnh đó,
sự khác biệt thể hiện bất lợi rõ hơn cho người được hưởng án treo của Nghị định 61, đó
là: nếu trong khoảng thời gian từ 01/01/2004 đến 02/02/2004 mà A phạm tội mới thì theo
Nghị quyết 01/HĐTP ngày 18/10/1990 và Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày
02/10/2007, A không bị coi là phạm tội trong thời gian thử thách; do đó, A chỉ phải chịu
hình phạt của tội mới thực hiện. Còn theo Nghị định số 61, A bị coi là phạm tội trong thời
gian thử thách và phải chịu hình phạt tổng hợp 5 tháng tù của bản án đã cho hưởng án
treo với hình phạt của tội mới thực hiện. Đặc biệt, nếu bản án có kháng cáo, kháng nghị,
các mốc thời điểm này còn lùi về sau nhiều hơn, càng tạo ra sự cách biệt xa hơn về quyền
lợi của người bị kết án được hưởng án treo.

Liên hệ với thực tiễn, hầu hết Tòa án các địa phương đều căn cứ vào hướng dẫn của
Nghị quyết 01/HĐTP ngày 18/10/1990 và hiện nay là Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP
ngày 02/10/2007 để tính thời gian thử thách của án treo. Chúng tôi hoàn toàn ủng hộ với
hướng lựa chọn văn bản áp dụng của Tòa án về vấn đề này, bởi lẽ:

- Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC và Nghị định của Chính phủ đều
là văn bản quy phạm pháp luật, song hướng dẫn về thời điểm bắt đầu tính thời gian thử
thách của án treo là loại quy phạm pháp luật về luật nội dung của pháp luật hình sự (hay
nói cách khác đây là loại quy phạm pháp luật hình sự) thì phải thuộc thẩm quyền ban
hành của Hội đồng thẩm phán TANDTC. Còn Nghị định của Chính phủ chỉ ban hành các
văn bản pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án nên Nghị định số 61 sẽ
không được áp dụng trong trường hợp này.

- Từ ví dụ đã phân tích ở trên cho thấy cách tính thời gian thử thách theo Nghị định
số 61 luôn gây ra sự bất lợi ở các mức độ khác nhau cho người bị kết án so với Nghị
quyết của Hội đồng thẩm phán.
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

- Nghị định số 61 phân hoá người bị kết án được hưởng án treo theo hai nhóm với
hai cách tính khác nhau là vi phạm nguyên tắc công bằng, nguyên tắc bình đẳng trong
chính sách hình sự và thực tiễn áp dụng.

Từ những vấn đề vướng mắc như đã phân tích, để tạo sự thống nhất trong nhận
thức và áp dụng pháp luật, từ đó đảm bảo quyền lợi của người bị kết án, chúng tôi đề xuất
cần phải quy định thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách của án treo ngay trong BLHS
tại Khoản 1, Điều 60 theo hướng “ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm.
Thời gian thử thách được tính từ ngày tuyên bản án cho hưởng án treo”.

--------------

* ThS. Khoa Luật, trường Đại học Khoa học Huế


NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Công tác nghiên cứu lý luận về giáo dục pháp luật trong thời kỳ đổi mới

Lê Văn Hòe*

Năm 1986, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, cùng với với việc đề ra đường
lối đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương quản lý đất nước bằng pháp luật chứ
không chỉ bằng đạo lý. Đồng thời với chủ trương đó, Đảng nhấn mạnh phải "coi trọng
công tác giáo dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật. Đưa việc dạy pháp luật vào hệ thống
các trường của Đảng, của Nhà nước (kể cả các trường phổ thông, đại học), của các đoàn
thể nhân dân. Cán bộ quản lý các cấp từ trung ương đến đơn vị cơ sở phải có kiến thức về
quản lý hành chính và hiểu biết về pháp luật"[1].

Thực hiện chủ trương của Đảng, công tác giáo dục pháp luật đã diễn ra mạnh mẽ,
được triển khai cả trên phương diện nghiên cứu lý luận và tổ chức thực tiễn. Trên phương
diện lý luận về giáo dục pháp luật, công tác nghiên cứu đã được đẩy mạnh theo các
hướng:

Thứ nhất, nghiên cứu cơ bản nhằm làm sáng tỏ khái niệm, mục đích, các mối
quan hệ giữa giáo dục pháp luật với giáo dục chính trị, đạo đức, văn hoá, học vấn; nghiên
cứu những vấn đề lý luận về chủ thể, đối tượng giáo dục pháp luật, mối quan hệ tác động
giữa chủ thể và đối tượng trong giáo dục pháp luật; những vấn đề lý luận chung về nội
dung, hình thức, phương pháp và công cụ giáo dục pháp luật. Đặc biệt, hướng này đã đi
sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận về ý thức pháp luật, làm rõ bản chất, cấu trúc, mối
quan hệ giữa ý thức pháp luật với ý thức đạo đức, ý thức chính trị; làm rõ vai trò của ý
thức pháp luật trong cơ chế tự điều chỉnh hành vi hợp pháp của cá nhân cũng như trong
cơ chế điều chỉnh pháp luật của Nhà nước; bước đầu nghiên cứu những vấn đề lý luận về
văn hoá pháp lý, các mối quan hệ giữa văn hoá pháp lý với các lĩnh vực văn hoá khác, vai
trò của văn hoá pháp lý trong đời sống tinh thần của con người, xây dựng văn hoá ứng xử
của công chức trong thực thi công vụ và trong quan hệ giữa cơ quan nhà nước, công chức
nhà nước với nhân dân.

Thứ hai, nghiên cứu giáo dục pháp luật cho từng nhóm đối tượng cụ thể, như
giáo dục pháp luật cho người lao động làm việc trong các đơn vị kinh tế trong điều kiện
kinh tế thị trường; giáo dục pháp luật cho nông dân, cán bộ, công chức, cho thanh, thiếu
niên, sĩ quan, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang, cho thanh niên, phụ nữ, cho đồng bào dân
tộc thiểu số... Đây là hướng nghiên cứu có giá trị thực tiễn áp dụng cao. Kết quả của
hướng nghiên cứu này là đã làm rõ những đặc trưng trong giáo dục pháp luật đối với các
nhóm đối tượng cụ thể, xác định chính xác nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục
phù hợp với đặc thù của đối tượng giáo dục, với nhu cầu pháp luật của đối tượng giáo
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

dục, những đặc thù về môi trường giáo dục, những tác động chủ quan, khách quan lên
quá trình giáo dục, từ đó góp phần nâng cao chất lượng công tác giáo dục pháp luật.

Thứ ba, nghiên cứu giáo dục về từng lĩnh vực pháp luật cụ thể, như giáo dục
pháp luật hôn nhân gia đình, giáo dục pháp luật lao động, hình sự, dân sự, thương mại,
giáo dục pháp luật về quốc phòng, an ninh, về văn hoá, trật tự an toàn giao thông... Kết
quả của hướng nghiên cứu này là đã góp phần xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý nhà
nước bằng pháp luật, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Cũng từ hướng
nghiên cứu này, những vấn đề lý luận về giáo dục pháp luật rút ra được đã góp phần để
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là đối
với việc xây dựng các dự thảo luật, pháp lệnh trên các lĩnh vực chuyên ngành.

Thứ tư, nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến các hoạt động giáo dục
pháp luật, các hình thức, phương pháp giáo dục cụ thể, như nghiên cứu làm rõ và phân
biệt giữa hoạt động tuyên truyền pháp luật với hoạt động phổ biến pháp luật, hoạt động tư
vấn, trợ giúp pháp lý, các hình thức tiến hành giáo dục phù hợp với các hoạt động đó.

Theo hướng trên, công tác nghiên cứu lý luận về giáo dục pháp luật đã góp phần
cung cấp cơ sở lý luận cho việc xây dựng bộ quy tắc về nghiệp vụ công tác giáo dục pháp
luật, làm tài liệu huấn luyện đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên trong giáo dục pháp
luật. Hướng nghiên cứu này cũng chú ý tổng kết kinh nghiệm sử dụng có hiệu quả các
hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật, góp phần chuẩn hoá các hình thức giáo dục,
đưa ra các hình thức giáo dục mới có tính sáng tạo, có giá trị thực tiễn và bảo đảm hiệu
quả giáo dục cao, như: giáo dục pháp luật lồng ghép với các hình thức lễ hội dân gian;
giáo dục pháp luật lồng ghép với các loại hình văn học, nghệ thuật; giáo dục pháp luật
qua hoạt động xét xử của Toà án, qua công tác thi hành án, hay giáo dục pháp luật thông
qua công tác giáo dục điều lệnh, kỷ luật trong lực lượng vũ trang, trong tuần tra, kiểm
soát, xử lý các vi phạm trong hoạt động giao thông vận tải trên địa bàn, qua thực hiện
quy chế dân chủ, hoà giải ở cơ sở...

Cũng qua nghiên cứu các hình thức giáo dục pháp luật, công tác nghiên cứu lý luận
về giáo dục pháp luật đã làm rõ và khẳng định vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, cán
bộ, công chức nhà nước, trách nhiệm của cơ quan truyền thông đại chúng, của chính
quyền cơ sở, của các thiết chế làng xã, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể quần chúng
trong giáo dục pháp luật.

Thứ năm, nghiên cứu những vấn đề lý luận có tính chuyên sâu về giảng dạy
pháp luật ở các trường đảng, các trường phổ thông, đại học, các trường của các tổ chức
chính trị - xã hội, đoàn thể quần chúng, kể các trường đào tạo nghề luật và trường đào tạo
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

các chức danh tư pháp. Về mục đích, hướng nghiên cứu lý luận về giáo dục pháp luật này
nhằm hình thành hệ thống tiêu chí làm cơ sở xác định nội dung chương trình giảng dạy
pháp luật cụ thể phù hợp với đối tượng, mục tiêu đào tạo; xác định các tiêu chí đánh giá
hiệu quả giáo dục; xác định các phương pháp giảng dạy, nhất là phương pháp mới trong
giảng dạy các chuyên ngành luật; các yêu cầu và tiêu chuẩn đối với giáo viên giảng dạy
pháp luật, từ đó có chính sách, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành và chuẩn
hoá đội ngũ giáo viên giảng dạy luật, chuẩn hoá chương trình, kế hoạch, giáo trình, giáo
khoa và các học liệu khác dùng trong giảng dạy pháp luật, bảo đảm sự phù hợp với đối
tượng đào tạo, với thời gian, hình thức đào tạo, mục tiêu đào tạo cụ thể.

Nội dung quan trọng của hướng nghiên cứu trên là những vấn đề lý luận liên quan
đến việc xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng và phát huy vai trò của đội ngũ báo cáo viên,
tuyên truyền viên pháp luật tự nguyện, từ những cán bộ đương chức cư trú trên địa bàn,
các cán bộ pháp luật nghỉ hưu, tổ trưởng dân phố, trưởng thôn, trưởng bản, và đội ngũ
báo cáo viên, tuyên truyền viên chính thức. Có thể khẳng định, kết quả của nghiên cứu
này đã đóng góp to lớn cho việc luận chứng và thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục
pháp luật, dấy lên phong trào toàn dân học tập pháp luật, sống và làm việc theo Hiến
pháp và pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật, tôn vinh những giá trị và vị thế của pháp
luật trong tổ chức nhà nước, tổ chức xã hội, trong sinh hoạt của người dân.

Thứ sáu, nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những luận cứ khoa học cho việc thực
hiện Chỉ thị 32/CT-TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá IX)
về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật,
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. Chỉ thị này là văn kiện có
tính chuyên biệt đầu tiên của Đảng về giáo dục pháp luật, xác định phổ biến, giáo dục
pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn
bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, khẳng định việc tìm hiểu, học tập
pháp luật là nhiệm vụ thường xuyên, là một trong những tiêu chuẩn đánh giá cán bộ,
đảng viên. Chỉ thị đồng thời xác định trách nhiệm của các tổ chức đảng, Đảng đoàn Quốc
hội, Ban Cán sự đảng Chính phủ, Ban Cán sự đảng các Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tư
pháp, các Ban của Đảng, Ban Cán sự đảng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên, các phương tiện thông tin đại chúng ở trung ương, địa phương trong giáo dục
pháp luật, phối hợp giáo dục pháp luật; kiện toàn, đẩy mạnh hoạt động của Hội đồng phối
hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật các cấp.

Từ những quan điểm chỉ đạo của Đảng tại Chỉ thị 32/CT-TW về giáo dục pháp luật,
hướng nghiên cứu trên đã tập trung làm rõ mối quan hệ hữu cơ giữa giáo dục pháp luật
với giáo dục chính trị, tư tưởng, giữa công tác tuyên truyền đường lối, chủ trương của
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Đảng với công tác phổ biến giáo dục pháp luật, khắc phục nhận thức sai lầm coi giáo dục
pháp luật hoàn toàn độc lập, tách biệt với giáo dục chính trị, "pháp lý hoá" những vấn đề
pháp lý trong giáo dục pháp luật, "chính trị hoá" những vấn đề chính trị trong tuyên
truyền đường lối, chủ trương của Đảng; khắc phục tình trạng cơ quan, công chức nhà
nước chỉ chú ý đến pháp luật, trong khi cán bộ lãnh đạo các tổ chức đảng các cấp lại chỉ
chú ý đến tuyên truyền, học tập nghị quyết của Đảng, coi nhẹ lãnh đạo công tác giáo dục
pháp luật, bản thân chỉ nói về pháp luật chung chung, không nắm vững những nguyên lý
pháp luật, quy định pháp luật liên quan đến phạm vi lãnh đạo của cơ quan, tổ chức mình.
Kết quả của hướng nghiên cứu này còn góp phần đổi mới tư duy, nhận thức về bản chất
của giáo dục pháp luật, xây dựng một hệ thống giáo dục pháp luật phù hợp với đặc thù
của hệ thống chính trị trong điều kiện một đảng cầm quyền. Mặt khác, hướng nghiên cứu
này đã mở ra nhiều định hướng mới trong nghiên cứu lý luận về giáo dục pháp luật,
không chỉ góp phần làm phong phú lý luận về pháp luật mà còn bổ sung nội dung quan
trọng trong lý luận về đảng cầm quyền, đảng cầm quyền trong điều kiện nhà nước pháp
quyền. Đó là các định hướng nghiên cứu sau:

Thứ nhất, nghiên cứu làm sáng tỏ bản chất, nội dung, các hình thức và cơ chế lãnh
đạo - quản lý giáo dục pháp luật của Đảng và Nhà nước, của các tổ chức đảng và cơ quan
quản lý nhà nước.

Thứ hai, nghiên cứu luận cứ khoa học xác định cụ thể, chính xác nội dung và
phương thức lãnh đạo của các tổ chức đảng trong giáo dục pháp luật phù hợp với lĩnh
vực, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước chịu sự lãnh đạo trực tiếp
của tổ chức đó. Theo hướng nghiên cứu này cần làm rõ, cụ thể trách nhiệm, nội dung,
phương thức lãnh đạo của Đảng đoàn Quốc hội trong giáo dục pháp luật liên quan đến
hoạt động lập pháp, giám sát tối cao, quyết định những vấn đề hệ trọng của đất nước của
Quốc hội, trong việc tăng cường năng lực tham gia xây dựng và giám sát việc thực hiện
pháp luật của đại biểu Quốc hội. Cũng tương tự như vậy là việc nghiên cứu sự lãnh đạo
của Ban Cán sự đảng Chính phủ, các Bộ, nhất là Ban Cán sự đảng Bộ Tư pháp, Bộ Giáo
dục và Đào tạo, là những Bộ trực tiếp thực hiện quản lý nhà nước lĩnh vực giáo dục pháp
luật.

Thứ ba, nghiên cứu những luận cứ khoa học cho việc xác định trách nhiệm, nội
dung và phương thức lãnh đạo của các tổ chức đảng các cấp trong công tác giáo dục pháp
luật cho cán bộ, đảng viên làm việc, công tác trong cơ quan của Đảng.

Thứ tư, nghiên cứu những luận cứ khoa học xác định trách nhiệm, nội dung,
phương thức lãnh đạo của Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, của các tổ chức chính
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

trị - xã hội trong giáo dục pháp luật cho các thành viên, trong phối hợp với các cơ quan
nhà nước thực hiện giáo dục pháp luật cho cán bộ, nhân dân.

Trong điều kiện hiện nay, trước bối cảnh mới của đất nước, thời đại, nhất là trước
yêu cầu thực hiện chủ trương của Đảng tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X về tiếp
tục xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phát triển dân chủ xã hội
chủ nghĩa và xây dựng xã hội dân sự, thực hiện chủ động hội nhập quốc tế đòi hỏi phải
tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận về pháp luật nói chung, về giáo dục pháp
luật nói riêng. Đối với công tác nghiên cứu lý luận về giáo dục pháp luật cần chú ý:

- Quán triệt quan điểm của Đảng coi giáo dục pháp luật là một bộ phận hữu cơ của
công tác giáo dục tư tưởng, chính trị, là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị. Quan
điểm này đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới tư duy trong nghiên cứu lý luận về pháp luật, về
giáo dục pháp luật, có phương pháp luận biện chứng trong cách tiếp cận mục tiêu, nội
dung, hình thức giáo dục, và nhất là, có quan điểm toàn diện, tính đến đầy đủ các mối
quan hệ trong công tác tuyên truyền, phổ biến, học tập nghị quyết của Đảng với công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật của Nhà nước, vừa phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nưíc về giáo dục pháp luật.

- Gắn chặt chẽ công tác nghiên cứu lý luận về giáo dục pháp luật với công tác
nghiên cứu lý luận về thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật, từ đó đề ra các giải pháp phù
hợp làm cho những yêu cầu, đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được
thể hiện cụ thể trong ý thức, thái độ, tình cảm, sự hiểu biết về pháp luật của cán bộ, công
chức nhà nước, trong quản lý nhà nước và trong sinh hoạt xã hội của người dân.

- Công tác nghiên cứu lý luận về giáo dục pháp luật phải trực tiếp góp phần thực
hiện thắng lợi ba cuộc cải cách lớn về tổ chức và hoạt động của nhà nước, gồm cải cách
lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp. Muốn vậy, việc nghiên cứu lý luận về
giáo dục pháp luật phải bám sát mục tiêu, yêu cầu, quan điểm chỉ đạo, những định hướng
cải cách lớn được Đảng xác định cụ thể tại các Nghị quyết 48/NQ-TW; Nghị quyết
49/NQ-TW của Bộ Chính trị (khoá IX) về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020, và mới đây là Nghị quyết 17/NQ-TW ngày 01/8/2007 tại Hội nghị
lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) về Đẩy mạnh cải cách hành
chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước.

- Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện các hướng nghiên cứu lý luận về giáo dục pháp luật
như đã trình bày trên, song đặt trong điều kiện của Nhà nước pháp quyền, nhằm đáp ứng
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

yêu cầu và đặc trưng của Nhà nước pháp quyền; coi trọng hướng nghiên cứu cơ bản,
hướng nghiên cứu giáo dục pháp luật cho từng nhóm đối tượng cụ thể, đồng thời, chú
trọng các định hướng nghiên cứu mới, nhất là hướng nghiên cứu vai trò, nội dung,
phương thức lãnh đạo của các tổ chức đảng trong giáo dục pháp luật; nghiên cứu những
vấn đề lý luận về văn hoá pháp lý trong Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự.

- Tăng cường nguồn lực cho công tác nghiên cứu lý luận về giáo dục pháp luật của
các viện nghiên cứu, trường đại học, có chính sách thoả đáng đối với các nhà khoa học,
đồng thời kiện toàn quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật; đẩy mạnh nghiên cứu những
vấn đề lý luận về tư vấn, trợ giúp pháp lý, tăng cường tiếp thu những tinh hoa tư tưởng,
những bài học kinh nghiệm tốt của các nước trong nghiên cứu lý luận và thực tiễn giáo
dục pháp luật./.

* PGS,TS. Học viện CT- HC quốc gia Hồ Chí Minh

[1] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần th VI, Sự Thật, Hà Nội, 1987,tr 121.
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT

Thực trạng pháp luật về lý lịch tư pháp và vấn đề xác định phạm vi quản lý Lý lịch
tư pháp ở nước ta hiện nay
Hoàng Thế Liên*
1. Thực trạng pháp luật về lý lịch tư pháp

Trong hệ thống văn bản pháp lý hiện hành, đến nay mới có 4 văn bản đề cập đến
công tác lý lịch tư pháp (LLTP), đó là: Thông tư liên tịch số 07/1999/TTLT-BTP-BCA
ngày 08/2/1999 của Bộ Tư pháp và Bộ Công an quy định việc cấp Phiếu LLTP; Nghị
định số 62/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp; Quyết định số 94/2004/QĐ-BTC ngày
07/12/2004 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ
phí cấp Phiếu LLTP; Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT/BTP-BNV ngày 05/5/2005 của
Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức các
cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân quản lý nhà nước về công tác tư pháp ở địa
phương.

Trong số các văn bản quy định về công tác LLTP trên thì chỉ có Thông tư liên tịch
số 07/1999/TTLT-BTP-BCA là văn bản pháp lý quy định một cách thống nhất trình tự,
thủ tục, trách nhiệm và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan hữu quan (Tư pháp, Công an)
trong quá trình giải quyết việc cấp Phiếu LLTP theo yêu cầu của công dân (bao gồm cả
công dân Việt Nam và người nước ngoài có thời gian cư trú tại Việt Nam). Như vậy, trên
cơ sở Thông tư liên tịch số 07/1999/TTLT-BTP-BCA, công tác quản lý LLTP bắt đầu
được triển khai thống nhất trên toàn quốc từ năm 1999. Sau 9 năm thực hiện công tác cấp
Phiếu LLTP cho công dân trên phạm vi cả nước, nhìn chung, chúng ta đã triển khai khá
tốt, đạt được những kết quả đáng khích lệ. Đó là:

Thứ nhất, công tác cấp Phiếu LLTP đã đáp ứng kịp thời yêu cầu của công dân Việt
Nam và người nước ngoài có thời gian cư trú tại Việt Nam. Thực tiễn giải quyết cấp
Phiếu LLTP cho thấy, nhu cầu sử dụng Phiếu LLTP xuất phát chủ động từ phía người
dân, bởi đây là loại giấy tờ duy nhất giúp họ chứng minh về nhân thân của mình theo yêu
cầu của các cơ quan hữu quan (chủ yếu là các cơ quan của nước ngoài) khi họ tham gia
vào những quan hệ liên quan đến quyền lợi của mình. Bởi vậy, việc giải quyết cấp Phiếu
LLTP có ý nghĩa là một hoạt động phục vụ của Nhà nước nhằm giúp công dân thực hiện
các quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Thứ hai, các quy định về thủ tục cấp Phiếu LLTP thể hiện tinh thần cải cách hành
chính: đơn theo mẫu chuẩn; hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu LLTP chỉ cần nộp bản chụp (bản
photocopy), không phải nộp bản sao công chứng. Sau này, theo Quyết định số
181/2003/QĐ-TTg ngày 04/9/2003 của Thủ tướng Chính phủ và chỉ đạo của Bộ Tư pháp,
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT

Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”,
nhiều Sở Tư pháp đã sớm áp dụng cơ chế “một cửa” trong giải quyết yêu cầu cấp Phiếu
LLTP, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân.

Thứ ba, Phiếu LLTP góp phần phục vụ nhu cầu quản lý hành chính nhà nước. Sự
phát triển của nền kinh tế thị trường làm cho các quan hệ xã hội cũng ngày càng phong
phú và đa dạng. Phiếu LLTP lúc này càng trở nên quan trọng và cần thiết đối với mỗi cá
nhân. Phiếu LLTP có giá trị pháp lý chứng minh tư cách đạo đức của một con người cụ
thể. Vì vậy, sau khi Thông tư liên tịch số 07/1999/TTLT-BTP-BCA được ban hành,
nhiều văn bản của Nhà nước quy định công dân phải có Phiếu LLTP để đưa vào hồ sơ khi
tham gia quan hệ pháp lý, cụ thể: Nghị định số 104/1998/NĐ-CP ngày 31/12/1998 của
Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam; Nghị định số 21/2001/NĐ-CP
ngày 28/5/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Xuất cảnh, nhập cảnh,
cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam; Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về
quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; Nghị định số 103/2003/NĐ-CP ngày
12/9/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Hành nghề y, dược tư
nhân; Nghị định số 105/2003/NĐ-CP ngày 17/9/2003 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về tuyển dụng và quản lý lao động
nước ngoài làm việc tại Việt Nam.

Tuy nhiên, thực tiễn công tác cấp Phiếu LLTP đã bộc lộ nhiều bất cập, vướng mắc
mà pháp luật hiện hành không đủ cơ sở để giải quyết, đòi hỏi phải có những quy định
mới ở văn bản pháp lý có giá trị cao hơn, nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng một hệ thống
cơ sở dữ liệu LLTP và cấp Phiếu LLTP, nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý nhà nước
về LLTP, phù hợp với định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền và xu thế cải cách tư
pháp hiện nay. Những bất cập, vướng mắc phát sinh thể hiện ở những điểm sau:

Một là, các thông tin trong hệ thống tàng thư của cơ quan Công an còn chưa
phù hợp với mục đích, yêu cầu của việc cấp Phiếu LLTP. Hiện nay, việc tra cứu phục vụ
công tác cấp Phiếu LLTP do ngành công an đảm nhiệm. Tuy nhiên, hệ thống tàng thư căn
cước can phạm do ngành công an quản lý là một trong những tàng thư nghiệp vụ phục vụ
chủ yếu cho công tác điều tra tội phạm, nên các thông tin trong hệ thống tàng thư này còn
nhiều điểm chưa phù hợp với mục đích, yêu cầu của việc cấp Phiếu LLTP. Thông tin về
LLTP chủ yếu nhằm xác định một người có tiền án hay không có tiền án. Nghĩa là, thông
tin về LLTP chỉ đề cập đến bản án đã có hiệu lực pháp luật của Toà án. Trong khi đó, hệ
thống tàng thư căn cước can phạm của ngành công an là kho dữ liệu tổng hợp chủ yếu ghi
nhận những thông tin ban đầu về hành vi vi phạm pháp luật của đương sự (thông tin dừng
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT

lại ở giai đoạn điều tra), còn thiếu cơ chế để cập nhật thật đầy đủ các bản án, quyết định
của Toà án hình sự. Do vậy, phiếu báo kết quả xác minh chỉ dừng lại ở việc thông báo về
vi phạm của đương sự mà không khẳng định được là đương sự có bị kết án hay không, có
tiền án hay không có tiền án. Trong những trường hợp như vậy, Sở Tư pháp gặp rất nhiều
khó khăn trong việc lập và cấp Phiếu LLTP cho đương sự. Sở Tư pháp lại phải căn cứ
vào nhiều yếu tố khác như xác minh tại Toà án, đề nghị đương sự cung cấp thông tin, xác
minh tại nơi cư trú của đương sự. Đó là một trong những nguyên nhân lớn làm cho việc
cấp Phiếu LLTP không đảm bảo thời gian quy định, gây nhiều phiền hà, bức xúc cho
người dân vì người dân phải chờ đợi lâu, đi lại nhiều lần.

Hai là, các thông tin trong hệ thống tàng thư của cơ quan công an còn hạn chế ở
phạm vi địa phương. Đối với công dân có thời gian cư trú ở ngoài tỉnh, người nước ngoài
và người Việt Nam định cư ở nước ngoài khi có yêu cầu cấp Phiếu LLTP thì cơ quan
công an cấp tỉnh, cụ thể là Phòng Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát (PC27) phải chuyển hồ sơ ra
Cục Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát, Bộ Công an (C27) để tra cứu. Sau khi có kết quả tra cứu
của Cục Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát, Phòng Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát thông báo kết quả
xác minh cho Sở Tư pháp. Kết quả xác minh mà Sở Tư pháp nhận được từ Phòng Hồ sơ
nghiệp vụ cảnh sát thường là quá thời gian theo quy định, dẫn đến việc cấp Phiếu LLTP
cho công dân bị kéo dài. Việc này ảnh hưởng đến việc bổ sung hồ sơ cá nhân tại nước
đương sự đang cư trú, cũng như việc xin cấp giấy phép lao động của người nước ngoài
xin làm việc tại Việt Nam, công dân Việt Nam bổ sung hồ sơ xuất cảnh ra nước ngoài. Sự
hạn chế trong việc xác minh kết quả tra cứu tại công an cấp tỉnh cũng là một trong những
nguyên nhân khiến việc cấp Phiếu LLTP cho công dân bị gặp nhiều khó khăn, trong một
số trường hợp công dân bị mất cơ hội vì không sớm được cấp Phiếu LLTP.

Ba là, thủ tục thực hiện xoá án tích cũng như việc cập nhật thông tin về xoá án tích
còn nhiều bất cập. Xoá án tích là một chính sách lớn thể hiện tính nhân đạo sâu sắc của
Nhà nước ta, tạo điều kiện cho người phạm tội tái hoà nhập cộng đồng. Theo quy định
của Bộ luật Hình sự, có hai trường hợp xoá án tích là đương nhiên được xoá án tích và
xoá án tích theo quyết định của Toà án. Tuy nhiên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
chưa chủ động làm thủ tục xoá án tích cho người phạm tội. Đối với những trường hợp
đương nhiên được xoá án tích thì sau một thời gian nhất định kể từ khi chấp hành xong
bản án mà người đã bị kết án không phạm tội mới thì án tích của họ đương nhiên được
xoá (kể cả trường hợp đương sự không yêu cầu). Nhưng Toà án lại chưa chủ động cấp
giấy chứng nhận cho tất cả những người được đương nhiên xoá án mà chỉ cấp giấy chứng
nhận khi những người được xoá án yêu cầu. Hơn nữa hiện nay, Giấy chứng nhận xoá án
hoặc sau khi Toà án ra quyết định xoá án chưa được cập nhật, lưu trữ một cách có hệ
thống ở một cơ quan nào cả. Do đó, rất cần xây dựng một trung tâm dữ liệu LLTP thống
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT

nhất để có thể theo dõi, cập nhật một cách đầy đủ các thông tin về xoá án tích nhằm giúp
người đã từng phạm tội thuận lợi hơn trong việc tái hoà nhập cộng đồng.

Bốn là, hoạt động quản lý LLTP hiện nay chưa đảm bảo được mục đích cơ bản là
hỗ trợ cho hoạt động tố tụng và quản lý nhà nước. Tham khảo kinh nghiệm một số nước
có hệ thống LLTP lâu đời như Pháp, Đức, Bỉ... thì hệ thống LLTP được hình thành ở
những nước này trước hết là một công cụ quản lý tư pháp hình sự, hỗ trợ đắc lực cho hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử. Các thông tin do hệ thống LLTP cung cấp được coi là căn
cứ, làm cơ sở cho các quyết định của các cơ quan công tố hình sự và đồng thời phục vụ
cho việc thực hiện các dự án nghiên cứu khoa học, thống kê tội phạm. Như vậy, xét về
bản chất, LLTP được coi là nguồn cung cấp những cứ liệu chính thức về quá khứ nhân
thân của bị can, bị cáo để cơ quan điều tra, truy tố, xét xử giải quyết vụ án. Với ý nghĩa
như vậy, cơ quan tiến hành tố tụng cũng là một trong những đối tượng được cung cấp
thông tin từ cơ sở dữ liệu LLTP. Khác với các nước, ở nước ta, các thông tin về quá khứ
hình sự của một người mà các cơ quan tố tụng cần có để phục vụ cho quá trình điều tra,
truy tố, xét xử vụ án không phải được lấy từ nguồn LLTP, mà được cung cấp từ nguồn
tàng thư căn cước của cơ quan công an. Đây chính là điều bất cập cần phải giải quyết vì
hệ thống tàng thư căn cước của ngành công an như đã nói ở trên được xây dựng nhằm
phục vụ cho nghiệp vụ điều tra, nên phần lớn là những thông tin cần thiết cho việc phát
hiện và truy tố kẻ phạm tội, trong khi đó, cái mà hoạt động xét xử cần là xem xét nhân
thân của một người ở góc độ người đó đã từng bị kết án hay chưa, tội danh, hình phạt của
họ như thế nào để Toà án có cơ sở trong việc quyết định hình phạt. Nghĩa là, hoạt động
xét xử cần sử dụng những thông tin trong cơ sở dữ liệu LLTP. Tuy nhiên, hiện nay cơ
quan tư pháp mới chỉ thực hiện việc cấp Phiếu LLTP khi công dân có yêu cầu, mà chưa
thực hiện được việc cung cấp thông tin về LLTP của cá nhân cho các cơ quan tố tụng và
các cơ quan nhà nước khác.

Năm là, tình trạng chia cắt giữa người nắm thông tin và người cung cấp thông tin
đang là trở ngại lớn trong công tác LLTP. Sở Tư pháp theo quy định của pháp luật là cơ
quan có thẩm quyền cấp Phiếu LLTP nhưng lại không nắm kho dữ liệu thông tin về
LLTP, do đó, phải chờ thông tin từ ngành công an cung cấp, rất bị động. Vì vậy, yêu cầu
đặt ra ở đây là phải xây dựng một cơ quan vừa quản lý dữ liệu LLTP, vừa cấp Phiếu
LLTP. Cơ quan này sẽ thực hiện việc lưu trữ, xử lý và cập nhật đầy đủ những thông tin
về LLTP.

Từ những vấn đề nêu trên, chúng ta thấy việc ban hành Luật LLTP là rất cần thiết
tại thời điểm hiện nay.
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT

2. Phạm vi quản lý LLTP

Đây là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng quyết định toàn bộ nội dung, quy mô, cơ
chế quản lý LLTP của mỗi quốc gia. Xét về mặt lịch sử thì phạm vi và nội dung của
LLTP lúc đầu chỉ là những vấn đề mang tính chất thuần túy hình sự (tức là những án
hình). Về sau này, do sự phát triển và mở rộng hoạt động trong lĩnh vực tư pháp nên
phạm vi quản lý LLTP cũng được mở rộng hơn.

Việc mở rộng hay thu hẹp phạm vi này tùy thuộc vào ý chí của mỗi quốc gia và
xuất phát từ những hoàn cảnh lịch sử, xã hội và cách làm của quốc gia đó. Tuy nhiên, dù
mở rộng hay thu hẹp phạm vi này thì nội dung chủ yếu của LLTP vẫn là những vấn đề về
hình sự (chẳng hạn, ở Cộng hoà Pháp hiện nay có 90% thông tin được đưa vào LLTP là
thuộc hình sự[1]). Tuy vậy, ngay cả trong phạm vi hình sự, vấn đề lại được đặt ra ở hai
cấp độ tiền án và tiền sự. Ở một số nước theo hình thức sổ bộ của Toà án thì chỉ ghi nhớ
các tiền án của đương sự. Cộng hoà Pháp là nước có hệ thống quản lý LLTP độc lập và
hoàn chỉnh nên có ghi nhớ cả những tiền sự. Tuy nhiên, khái niệm tiền sự trong nhiều
trường hợp rất khó định lượng. Hành vi vi phạm nào chưa đến mức bị kết án có thể coi là
tiền sự? Vấn đề này phải được quy định trong văn bản pháp luật. Thông thường, đó là
những hành vi tuy chưa đến mức bị kết án nhưng bản thân nó có ý nghĩa để đánh giá về
quá khứ nhân thân của đương sự. Ví dụ: một người đã có hành vi phạm tội nhưng được
miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt thì hành vi đó có thể được ghi nhớ vào
LLTP. Việc mở rộng phạm vi của LLTP ra các lĩnh vực ngoài hình sự thường là những
vấn đề liên quan đến việc cấm một số quyền nào đó đối với đương sự. Chẳng hạn, việc
cấm có thời hạn hoặc vô thời hạn quyền kinh doanh của một người nào đó, hoặc việc
tước quyền bầu cử hoặc ứng cử vào cơ quan công quyền, việc tước một số quyền làm
cha, mẹ, lệnh trục xuất người nước ngoài. Tất cả những chế tài này cần phải được đưa
vào “bộ nhớ” của LLTP để giám sát việc thực hiện. Thực ra việc phân loại thông tin theo
lĩnh vực hình sự, dân sự, hành chính, thương mại cũng chỉ mang tính chất tương đối. Nó
không phải là một nguyên tắc.

Để xác định rõ nội dung nào cần được ghi nhớ trong LLTP, thông thường pháp luật
của một số nước ngay khi quy định các chế tài (ngoài hình sự), thì đồng thời cũng chỉ rõ
việc đó có được ghi vào LLTP hay không. Còn trong các chế định của luật hình sự, tố
tụng hình sự đều quy định những tiền án, tiền sự nào được ghi vào LLTP. Hơn nữa, các
Toà án khi đưa ra các bản án, quyết định về một vụ việc cụ thể cũng nêu rõ trong bản án
hoặc quyết định đó việc được miễn hay phải ghi vào LLTP.
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT

Ngoài cách phân loại thông tin theo lĩnh vực nói trên, người ta còn phân loại theo
thông tin ban đầu và thông tin bổ sung. Thông tin ban đầu là những bản án hay quyết định
ban đầu về một vụ việc cụ thể. Chẳng hạn, một người bị Toà án phạt tù về một tội nào đó
thì bản án này sẽ được gửi cho cơ quan LLTP để ghi nhớ bản án đó. Nếu trong bản án này
có cả hình phạt bổ sung như phạt tiền hoặc quản chế sau khi mãn hạn tù thì những thông tin
này cũng là loại thông tin ban đầu. Thông tin bổ sung là loại thông tin phản ánh diễn biến
về sau của vụ việc. Ví dụ, trong quá trình thi hành án phạt tù, đương sự lại được hưởng ân
xá thì quyết định về ân xá đối với đương sự cũng được gửi cho cơ quan LLTP vì vấn đề
này có liên quan đến việc xoá án tích trong LLTP của đương sự. Việc tiếp nhận các thông
tin bổ sung vào LLTP có ý nghĩa rất quan trọng, nhưng thông thường nó hay bị lãng quên
hoặc được cập nhật không đầy đủ.

Để xây dựng một văn bản luật theo hướng điều chỉnh một cách toàn diện các vấn đề
cơ bản đã nêu ở trên, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải xác định được phạm vi cần quản
lý của LLTP vì khi xác định được phạm vi cần quản lý của LLTP sẽ xác định được nội
dung, cơ chế quản lý LLTP. Nghiên cứu pháp luật một số nước quy định về LLTP cho
thấy, phạm vi quản lý LLTP có sự khác nhau. Ví dụ: Theo mô hình của Cộng hoà Pháp,
phạm vi quản lý LLTP bao gồm các án tích hình sự, các nghĩa vụ dân sự, vi phạm hành
chính. Theo mô hình của Cộng hoà Liên bang Đức, phạm vi quản lý LLTP tương đối
rộng, bao gồm các bản án hình sự, các quyết định nhất định của cơ quan hành chính và
Toà án (như cấm hành nghề, hoạt động thương mại hoặc rút giấy phép tương ứng, các
thông báo liên quan đến việc không có năng lực trách nhiệm hình sự, các quyết định vi
phạm trong công nghiệp và thương mại, các thông tin liên quan đến tất cả các vụ việc
hình sự đang điều tra của tất cả các cơ quan công tố hình sự tại Cộng hoà Liên bang
Đức). Ở Bỉ, phạm vi quản lý LLTP bao gồm tất cả các bản án hình sự chung thẩm và một
số các quyết định mang tính hành chính thứ cấp (như là quyết định cấm hành nghề hoặc
cấm kinh doanh) do Toà án ban hành. Trong khi đó, phạm vi quản lý LLTP của Nhật Bản
chỉ giới hạn trong các án hình sự và chỉ phục vụ hạn chế cho hoạt động tố tụng. Như vậy,
phạm vi quản lý LLTP ở các nước rất khác nhau, có nước mở rộng phạm vi quản lý, có
nước thu hẹp phạm vi quản lý, nhưng phần lớn phạm vi quản lý chủ yếu của LLTP vẫn là
những vấn đề về hình sự.

Khác với nhiều nước trên thế giới, ở nước ta phạm vi quản lý LLTP theo quy định
của pháp luật hiện hành chỉ bao gồm nội dung xác nhận về nhân thân tư pháp của một cá
nhân trong phạm vi tiền án, không mở rộng tới việc xác nhận về mặt tiền sự hoặc các vi
phạm pháp luật khác (Điểm 1, mục 1, Thông tư liên tịch số 07/1999/TTLT-BTP-BCA
ngày 08/2/1999 quy định việc cấp Phiếu LLTP).
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT

Trong quá trình xây dựng Dự thảo Luật LLTP, khi xác định phạm vi quản lý LLTP
có rất nhiều ý kiến khác nhau:

Ý kiến thứ nhất cho rằng: phạm vi quản lý LLTP ở nước ta nên giữ nguyên như
hiện nay, tức là chỉ quản lý trong phạm vi các án tích hình sự. Điều này có nghĩa là, phạm
vi quản lý LLTP chỉ bao gồm nội dung xác nhận về nhân thân tư pháp của một cá nhân
trong phạm vi tiền án mà không mở rộng tới việc xác nhận về mặt tiền sự hoặc các vi
phạm pháp luật khác của cá nhân.

Ý kiến thứ hai cho rằng: nên mở rộng phạm vi quản lý LLTP, trong đó cần thiết
ghi nhận những nội dung liên quan đến xử lý vi phạm hành chính như biện pháp giáo dục
tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục... vào hệ
thống hồ sơ LLTP vì các biện pháp này đều được xem xét, quyết định áp dụng trong mối
tương quan đến yếu tố nhân thân và quá trình vi phạm của đối tượng, có hành vi vi phạm
nhiều lần, có tính chất thường xuyên, cần thiết phải áp dụng biện pháp xử lý mạnh hơn.
Để áp dụng các biện pháp xử lý mạnh hơn đúng với tính chất, mức độ vi phạm của hành
vi vi phạm thì những biện pháp xử lý đối với hành vi vi phạm tương ứng cần phải được
thống kê, ghi nhận trong LLTP

Ý kiến thứ ba cho rằng: Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định tình tiết định tội đã bị
xử phạt hành chính mà còn vi phạm ở khá nhiều tội danh (64 tội danh). Nói cách khác,
một hành vi vi phạm hành chính sẽ bị chuyển hoá thành tội phạm trong trường hợp người
thực hiện hành vi vi phạm hành chính đó đã bị xử lý theo quy định của pháp luật hành
chính mà còn vi phạm (phổ biến ở các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế). Do đó,
LLTP cũng cần phải ghi nhận các thông tin này.

Ý kiến thứ tư cho rằng: bên cạnh nội dung về hình sự, hành chính nói trên, các
quyết định của Toà án tuyên một người mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực
hành vi dân sự hoặc các quyết định của các cơ quan hành chính nhà nước như quyết định
kỷ luật công chức, quyết định của các đơn vị sự nghiệp như quyết định kỷ luật viên chức
hoặc quyết định trục xuất người nước ngoài cũng cần được ghi nhớ trong LLTP.

Để xác định những nội dung nào cần ghi nhận trong LLTP, thông thường người ta
xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử mỗi nước, căn cứ vào các điều kiện kinh tế, xã hội để định
ra những nội dung cần quản lý cho phù hợp với mục đích, yêu cầu mà lĩnh vực hoạt động
đó hướng tới. Có thể nói, mục đích cơ bản và chủ yếu của LLTP là nhằm hỗ trợ cho hoạt
động tố tụng và hoạt động quản lý nhà nước. Trong hoạt động tố tụng, đặc biệt là hoạt
động xét xử, LLTP xét về bản chất chính là nguồn cung cấp những cứ liệu chính thức về
quá khứ nhân thân của bị can, bị cáo để cơ quan điều tra, truy tố, xét xử giải quyết vụ án.
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT

Trong hoạt động quản lý Nhà nước, LLTP giúp cho các cơ quan tuyển dụng lao động, các
nhà quản lý nắm rõ về tiểu sử tư pháp của người cần tuyển dụng

Ở nước ta, nghiên cứu hệ thống văn bản pháp luật hiện hành liên quan đến LLTP,
chúng ta thấy rằng, phạm vi các vấn đề có liên quan đến LLTP tương đối rộng, bao gồm
các lĩnh vực hình sự, hành chính, dân sự, kinh doanh, thương mại. Tuy nhiên, trong điều
kiện khả năng, kinh nghiệm của nước ta hiện nay, phạm vi quản lý LLTP nên giới hạn
trong phạm vi các án hình sự. Quan điểm này xuất phát từ những lý do cơ bản sau đây:

Thứ nhất, công tác cập nhật, thống kê về vi phạm hành chính, quyết định về hạn
chế năng lực hành vi dân sự, kỷ luật công chức, viên chức còn nhiều bất cập, chưa có
những quy định pháp luật hướng dẫn về cơ quan, tổ chức thực hiện hoạt động này, trong
khi đó thẩm quyền mỗi cơ quan trong mỗi lĩnh vực được pháp luật quy định khác nhau
phù hợp với đặc thù của ngành mình. Do vậy, việc cập nhật, thống kê các dữ liệu về áp
dụng chế tài xử lý phần nhiều mang tính tuỳ nghi, mỗi cơ quan tiến hành theo một cách
khác nhau nên rất khó khăn trong việc thu thập đầy đủ các thông tin liên quan đến những
lĩnh vực này.

Thứ hai, các bản án và quyết định của Toà án là nguồn cung cấp thông tin cho cơ
sở dữ liệu tư pháp từ trước đến nay vẫn được lưu trữ, quản lý tại Toà án. Vấn đề quản lý
hồ sơ và theo dõi để cung cấp xác nhận tiền án do Toà án đảm nhiệm, tuy nhiên do chưa
có văn bản pháp luật quy định, hướng dẫn cụ thể về việc tra cứu tại Toà án nên việc tra
cứu, xác minh về tình trạng tiền án của đương sự nhiều khi còn chưa khoa học, thiếu kịp
thời. Do vậy, khi xây dựng được cơ chế phối hợp giữa Toà án và cơ quan LLTP trong
việc cung cấp thông tin về bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật của Toà án, thì việc
quản lý, lưu trữ hồ sơ về LLTP sẽ đảm bảo được tính ổn định lâu dài, thuận tiện trong tra
cứu.

Thứ ba, các cơ quan, tổ chức trong việc tuyển dụng, bổ nhiệm, cho phép thành lập
doanh nghiệp (như công ty chứng khoán, hành nghề y dược tư nhân...) phần lớn đều có
yêu cầu kèm theo hồ sơ, đương sự phải có Phiếu LLTP để chứng minh về nhân thân tư
pháp của bản thân. Tuy nhiên, vấn đề mà các nhà tuyển dụng, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quan tâm vẫn là muốn kiểm tra xem những người đang tuyển dụng, đang xin cấp
phép thành lập doanh nghiệp đã bị kết án về hình sự chưa, nhằm ngăn ngừa tình trạng
những người đang có tiền án gây bất lợi cho đơn vị tuyển dụng như: lợi dụng việc xuất
cảnh ra nước ngoài bằng con đường xuất khẩu lao động để bỏ trốn hoặc tiếp tục vi phạm
pháp luật ở nước sở tại, gây khó khăn cho công tác quản lý lao động
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT

Tóm lại, khi xác định được phạm vi quản lý LLTP, việc điều chỉnh một cách toàn
diện các vấn đề cơ bản về quản lý LLTP sẽ thuận lợi hơn như khoanh vùng được hệ
thống hồ sơ cần quản lý, xác định các loại mẫu phiếu LLTP và nội dung của từng loại
mẫu phiếu cần xây dựng. Viêc xác định rõ phạm vi quản lý LLTP cũng góp phần tạo tiền
đề để xây dựng hệ thống quản lý phù hợp, đáp ứng đúng yêu cầu chuyên môn của lĩnh
vực quản lý này./.

* PGS,TS. Thứ trưởng thường trực Bộ Tư pháp

[1] Lý lịch tư pháp, NXB Chính trị Quốc gia, HN, năm 1997, tr 20.
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT

Tổ chức và hoạt động quản lý lý lịch tư pháp ở Việt Nam

Nguyễn Văn Toàn*

1. Sự phát triển của việc quản lý lý lịch tư pháp qua các giai đoạn

1.1. Quản lý lý lịch tư pháp thời kỳ Pháp thuộc và ở miền Nam trước 1975

Có thể nói, trong thời kỳ Pháp thuộc, việc quản lý lý lịch tư pháp (LLTP) ở nước ta
được tổ chức khá chặt chẽ, có hệ thống nhằm phục vụ cho bộ máy tư pháp của chế độ
thực dân. Mỗi cấp toà án đều có Phòng lục sự với chức năng lập, lưu giữ và cấp Phiếu
LLTP. LLTP được lập theo án đã có hiệu lực pháp luật, trong đó ghi các nội dung về họ,
tên; ngày, tháng, năm sinh; nơi sinh; trú quán; tên của bố, mẹ, vợ, con; tên toà án đã xét
xử; ngày, tháng, năm xét xử; tội danh, hình phạt... LLTP có giá trị pháp lý để tòa án xem
xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo. LLTP được cấp theo yêu cầu của biện lý,
đương sự và cơ quan nhà nước khi cần thiết theo quy định của pháp luật.

Mô hình tổ chức và các nguyên tắc quản lý LLTP trên được tiếp tục áp dụng ở miền
Nam Việt Nam dưới chế độ Việt Nam cộng hoà. Đến ngày 01/09/1951, Vua Bảo Đại ban
hành Dụ số 14 quy định chi tiết “về lý lịch tư pháp và phục quyền”, theo đó thiết lập
được tổ chức LLTP tương đối hoàn chỉnh từ trung ương đến địa phương. Ở trung ương có
Phòng Văn quỹ LLTP đặt tại Bộ Tư pháp; còn địa phương có Văn quỹ LLTP hàng tỉnh
đặt tại mỗi Toà sơ thẩm và Toà thẩm quyền rộng.

Theo Dụ nói trên, có ba loại phiếu LLTP: Phiếu số 1 (danh bản hay chính phiếu) là
phiếu ghi tất cả các án đã có hiệu lực pháp luật, các việc như ân xá, ân giảm, phóng thích
có điều kiện, khôi phục quyền... Phiếu số 1 được lập thành ba bản: một bản gửi cho Văn
quỹ LLTP trung ương, một bản gửi cho Phòng lục sự của toà án nơi sinh của đương sự
và một bản lưu trữ tại Phòng lục sự Toà án nguyên thẩm. Phiếu số 2 (quan phiếu) được
lập cho cá nhân đã có Phiếu số 1. Phiếu số 2 được cấp cho toà án, phòng công tố, cảnh sát
để phục vụ điều tra, xét xử; cho các toà thương mại để đính kèm vào các hồ sơ tuyên bố
phá sản, thanh toán tư pháp; cho các công sở quốc gia mỗi khi tiếp nhận các đơn xin việc
làm... Phiếu số 3 (thân phiếu) là phiếu được cấp cho công dân. Phiếu số 3 là bản trích lục
của Phiếu số 1, trong đó có loại trừ một số nội dung (án đã được xoá bỏ do sự phục
quyền...).

2. Quản lý LLTP từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến 1955
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT

Thời kỳ này, việc quản lý LLTP vẫn được duy trì ở nước ta và do toà án đảm
nhiệm. Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 về tổ chức toà án và các ngạch thẩm phán ở nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà có quy định các chức danh về lục sự và các việc lục sự, trong
đó có việc lập và quản lý LLTP. Ở mỗi Ban Tư pháp xã có một thư ký giữ công việc lục
sự, mỗi Toà án sơ cấp có một lục sự, Tòa đệ nhị cấp có một chánh lục sự và các thư ký
giúp việc, Toà thượng thẩm có một chánh lục sự và các lục sự. Trong thời kỳ này, Bộ Tư
pháp và Bộ Nội vụ cũng ra Thông tư liên ngành ngày 2/9/1950 quy định một số nguyên
tắc về theo dõi LLTP và căn cước của bị can và những người bị tình nghi (văn bản không
được công bố nhằm đảm bảo bí mật). Do điều kiện của cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, hoạt động của các toà án gặp nhiều khó khăn nên nói chung, công tác quản lý
LLTP thời kỳ này không được chú ý nhiều.

3. Quản lý LLTP giai đoạn từ 1956 đến 1993

Ngày 02/11/1956, Bộ Tư pháp và Bộ Công an ban hành Thông tư liên bộ số 1909-


VHC về việc theo dõi LLTP và căn cước của bị can và những người bị tình nghi. Văn
bản quy định khá chi tiết về công tác LLTP và căn cước can phạm. Văn bản nhấn mạnh ý
nghĩa, mục đích của LLTP và căn cước can phạm. Theo Thông tư 1909-VHC, nhiệm vụ
quản lý LLTP được chuyển giao từ tòa án sang ngành công an để thống nhất vào một mối
hai loại công tác: LLTP và căn cước can phạm (trước đó LLTP do Toà án quản lý và căn
cước can phạm do Công an quản lý). Thông tư cũng quy định khá cụ thể cơ chế phối hợp
giữa các cơ quan công an, tòa án và ủy ban hành chính các cấp trong cung cấp thông tin
tài liệu để lập nên LLTP và căn cước can phạm. Trong hệ thống này, công tác quản lý
LLTP chỉ là một phần trong công tác hồ sơ tàng thư và do đó, không được quản lý theo
những nguyên tắc riêng biệt của LLTP.

4. Quản lý LLTP giai đoạn từ 1993 đến nay

Ngày 4/6/1993, Chính phủ ban hành Nghị định số 38-CP về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Tư pháp, trong đó có đề cập đến chức năng, nhiệm
vụ về thống nhất quản lý LLTP. Nội dung này tiếp tục được khẳng định tại Khoản 7,
Điều 2 của Nghị định số 62/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp. Điểm c, Khoản 2.9, phần I của Thông tư
liên tịch số 04/2005/TTLT-TP-NV ngày 5/5/2005 của Bộ Tư pháp - Bộ Nội vụ hướng
dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của cơ quan chuyên môn giúp ủy ban
nhân dân quản lý nhà nước về công tác tư pháp ở địa phương quy định Sở Tư pháp có
nhiệm vụ “cấp Phiếu LLTP và chịu trách nhiệm về việc cập nhật nội dung Phiếu LLTP
theo quy định của pháp luật”. Nhằm đáp ứng được nhu cầu bức xúc của đông đảo nhân
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT

dân trong việc sử dụng Phiếu LLTP để chứng minh về nhân thân tư pháp của bản thân
khi tham gia vào các quan hệ pháp luật, ngày 08/02/1999, Bộ Tư pháp, Bộ Công an đã
ban hành Thông tư liên tịch số 07/1999/TTLT-BTP-BCA quy định việc cấp Phiếu LLTP,
đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của lĩnh vực này. Hiện nay, Thông tư liên tịch số
07 là cơ sở pháp lý duy nhất quy định một cách thống nhất trình tự, thủ tục, trách nhiệm
và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan hữu quan (tư pháp và công an) trong giải quyết việc
cấp Phiếu LLTP cho công dân Việt Nam và người nước ngoài có thời gian cư trú tại Việt
Nam.

2. Những kết quả và hạn chế, bất cập của công tác quản lý LLTP

Theo báo cáo của 64 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, trong thời gian 9 năm
(từ đầu năm 1999 đến tháng 12/2007) các Sở Tư pháp đã thực hiện cấp 508.198 Phiếu
LLTP (cho công dân Việt Nam chiếm 94,5%; cho người nước ngoài chiếm 5,5%. Số
lượng việc giải quyết cấp Phiếu LLTP tăng nhanh qua các năm. Dự báo cho thấy, yêu cầu
cấp Phiếu LLTP vẫn còn rất lớn và tiếp tục tăng mạnh trong những năm tới.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được nêu trên, công tác quản lý LLTP hiện nay còn
một số hạn chế, bất cập cơ bản, như:

- Chưa có hệ thống quản lý LLTP theo những tiêu chuẩn, yêu cầu đặc thù phù hợp
với mục đích của công tác này. Việc tra cứu, xác minh LLTP hiện nay chủ yếu dựa vào
hệ thống hồ sơ nghiệp vụ của ngành công an. Hệ thống hồ sơ đó được xây dựng nhằm
phục vụ chủ yếu cho công tác điều tra tội phạm nên chỉ lưu trữ đầy đủ thông tin về giai
đoạn điều tra của các vụ án hình sự (các hành vi vi phạm pháp luật, có bị khởi tố hay
không...). Trong nhiều trường hợp, hệ thống hồ sơ trên không cập nhật đầy đủ những
thông tin về kết quả của quá trình tố tụng tiếp sau (bị cáo có bị kết án hay không? mức án
như thế nào? việc thi hành án?...). Trong khi đó, những thông tin mà công tác quản lý
LLTP quan tâm đều liên quan đến bản án đã có hiệu lực pháp luật để qua đó có căn cứ
khẳng định một người có tiền án hay không, mức án họ bị tuyên phạt, người bị án đã
được xoá án hay chưa? Những thông tin này đòi hỏi độ chính xác cao vì Phiếu LLTP là
sự khẳng định chính thức của cơ quan nhà nước rằng một người có hay không tiền án.
Nếu Phiếu LLTP được cấp dựa trên thông tin không chính xác thì sự chứng nhận có ảnh
hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người được cấp. Vì vậy, theo quy định tại Thông
tư liên tịch số 07, thông tin về tình trạng tiền án của công dân mà cơ quan công an cung
cấp chỉ là nguồn thông tin chủ yếu; ngoài ra, để việc cấp phiếu được chính xác, đối với
những trường hợp có nghi vấn, cơ quan tư pháp phải tăng cường tính chủ động trong việc
tra cứu thông tin tại toà án. Trên thực tế, cơ quan tư pháp còn thực hiện việc xác minh
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT

LLTP của đối tượng tại nơi cư trú để có cơ sở khẳng định chắc chắn về tình trạng tiền án
của đương sự.

- Không có hệ thống thông tin LLTP độc lập cũng là nguyên nhân cơ bản của tình
trạng kéo dài thời gian giải quyết việc cấp Phiếu LLTP cho công dân. Theo quy trình
phối hợp quy định tại Thông tư liên tịch số 07/1999/TTLT-BTP-BCA thì, phần lớn thời
hạn việc giải quyết cấp Phiếu LLTP được dành cho hoạt động tra cứu của cơ quan công
an (2/3 tổng số thời gian), việc cấp phiếu có đúng thời hạn hay không phụ thuộc vào việc
cơ quan công an thực hiện tra cứu hồ sơ và thông báo kết quả. Chỉ sau khi nhận được
thông báo của cơ quan công an, Sở Tư pháp mới lập và cấp phiếu hoặc tổ chức xác minh
bổ sung bằng cách liên hệ, tra cứu án lưu tại toà án có liên quan hoặc uỷ ban nhân dân
cấp xã nơi đương sự cư trú. Đối với các trường hợp phức tạp cần phải tra cứu hồ sơ của
Cục Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát thuộc Bộ Công an thường kéo dài (từ 35 đến 40 ngày)
không bảo đảm thời hạn quy định (đặc biệt là đối với công dân Việt Nam đã trải qua
nhiều nơi cư trú hoặc có thời gian học tập, lao động, công tác tại nước ngoài và người
nước ngoài). Trong khi đó, Thông tư liên tịch số 07 chưa dự liệu và quy định về việc nếu
hết thời hạn tra cứu theo quy định mà cơ quan công an không thông báo kết quả xác minh
tiền án, thì Sở Tư pháp có thể chủ động xác minh bổ sung, lập, cấp phiếu cho đương sự
và chịu trách nhiệm về việc cấp phiếu đó.

- Thực chất việc thực hiện chức năng quản lý LLTP của ngành tư pháp hiện nay
mới dừng ở “lập và cấp Phiếu LLTP”. Đây chỉ là một phần công việc trong quản lý. Cho
đến nay, chúng ta chưa có một văn bản quy phạm pháp luật trực tiếp quy định đầy đủ
chức năng quản lý LLTP như việc xây dựng hệ thống LLTP; mô hình tổ chức, quản lý;
cơ chế phối hợp giữa các cơ quan hữu quan với cơ quan quản lý LLTP trong việc cung
cấp và thu nhận thông tin liên quan đến LLTP. Thông tư liên tịch số 07 chỉ là văn bản có
giá trị pháp lý thấp, chủ yếu mang tính chất hướng dẫn nghiệp vụ.

- Hoạt động quản lý LLTP của ngành tư pháp hiện nay chỉ đáp ứng một cách bị
động nhu cầu của người dân, chưa đảm bảo được mục đích cơ bản và chủ yếu là hỗ trợ
cho quá trình tố tụng hình sự và quản lý nhà nước. Kinh nghiệm của một số nước có hệ
thống quản lý LLTP ổn định như Pháp, Nhật Bản... cho thấy, công tác quản lý LLTP là
một hoạt động bổ trợ vô cùng cần thiết đối với hoạt động tố tụng, đặc biệt là công tác xét
xử. Phiếu LLTP của bị cáo là căn cứ quan trọng và không thể thiếu được để toà án xem
xét nhân thân của bị cáo, nắm được đầy đủ, chính xác tình trạng vi phạm pháp luật hình
sự của bị cáo, trên cơ sở đó cân nhắc các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ khi quyết định
hình phạt. Ngoài ra, hệ thống quản lý LLTP ở các nước này còn phát huy tác dụng trong
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT

một số lĩnh vực quản lý nhà nước như: cấp phép hành nghề đối với một số ngành, nghề,
tuyển dụng công chức nhà nước...

Bên cạnh những hạn chế, bất cập nêu trên, có thể nói, công tác cấp Phiếu LLTP tại
các Sở Tư pháp hiện nay cũng đang gặp một số vướng mắc, khó khăn. Nếu tính từ thời
điểm bắt đầu tổ chức triển khai (từ năm 1999) đến cuối năm 2007, đã có 508.198 trường
hợp được cấp Phiếu LLTP. Điều đó cũng có nghĩa là hiện nay, các Sở Tư pháp trên cả
nước đang lưu trữ thông tin về tình trạng tiền án của khoảng 500.000 cá nhân. Đây là một
khối lượng thông tin không nhỏ. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng của những thông tin này tại
cơ quan tư pháp hiện còn rất nhiều bất cập. Trên thực tế, các kết quả xác minh LLTP qua
hệ thống hồ sơ của cơ quan công an chỉ có giá trị để cơ quan tư pháp lập và cấp Phiếu
LLTP cho cá nhân có yêu cầu vào một thời điểm nhất định. Sau khi đã cấp Phiếu LLTP
cho đương sự, các thông tin này được đưa vào lưu trữ, nhưng chỉ sau một thời gian không
dài (khoảng một năm), nếu không được cập nhật liên tục các thông tin về tình trạng tiền
án của cá nhân thì giá trị sử dụng của những thông tin trên trong việc cấp Phiếu LLTP
những lần tiếp theo (nếu cá nhân lại yêu cầu) sẽ rất hạn chế. Bên cạnh đó, việc xử lý các
thông tin lưu trữ này cũng chưa có quy định thống nhất.

Về mặt tổ chức, công tác LLTP vẫn chỉ do một vài cán bộ (từ một đến ba cán bộ)
thuộc Phòng Quản lý tư pháp khác (vốn có chức năng quản lý rất nhiều hoạt động nghiệp
vụ: hộ tịch, quốc tịch, LLTP, giám định tư pháp, luật sư) tại các Sở Tư pháp đảm nhiệm.
Nếu đặt tình hình tổ chức nhân sự đó bên cạnh khối lượng nhu cầu xin cấp Phiếu LLTP
cũng có thể thấy sự quá tải về khả năng đáp ứng nhu cầu của người dân đang tạo ra sức
ép không nhỏ đối với một số Sở Tư pháp.

3. Mô hình tổ chức và hoạt động quản lý LLTP ở nước ta hiện nay

Hiện nay, việc xây dựng Luật LLTP đã được đưa vào Chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh của Quốc hội năm 2008. Nhiệm vụ trọng tâm đặt ra đối với việc xây dựng Luật
LLTP là lựa chọn và thiết kế được mô hình tổ chức, hoạt động LLTP phù hợp nhất để
khắc phục những bất cập, khó khăn hiện nay. Để thực hiện quản lý thống nhất về LLTP,
cần thiết phải xây dựng cơ quan quản lý LLTP độc lập để quản lý một hệ thống hồ sơ
LLTP riêng. Tuy nhiên, trong bối cảnh thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp,
hệ thống hồ sơ này dự kiến được xây dựng trên cơ sở tận dụng tiềm năng sẵn có của các
hệ thống dữ liệu chuyên ngành (hệ thống hồ sơ nghiệp vụ của ngành công an, hệ thống hồ
sơ án lưu của toà án, cơ sở dữ liệu về thống kê tội phạm của viện kiểm sát...) cũng như
tiếp tục củng cố và kết nối với những cơ sở dữ liệu này nhằm xây dựng Hệ thống dữ liệu
LLTP thống nhất để phục vụ cho hoạt động tố tụng, hoạt động quản lý nhà nước cũng
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT

như đáp ứng nhu cầu của công dân muốn chứng minh nhân thân tốt của mình khi tham
gia vào các quan hệ pháp lý.

Trong quá trình nghiên cứu thực tiễn cũng như tham khảo kinh nghiệm nước ngoài,
chúng tôi thấy đang có các ý kiến với ba phương án khác nhau về mô hình cơ quan quản
lý dữ liệu LLTP.

Mô hình thứ nhất: Cơ quan quản lý dữ liệu LLTP hai cấp

Hệ thống dữ liệu LLTP được xây dựng ở hai cấp (cấp trung ương và cấp tỉnh),
thành lập Trung tâm dữ liệu LLTP quốc gia đặt tại Bộ Công an (hoặc tại Bộ Tư pháp) và
các Trung tâm dữ liệu LLTP cấp tỉnh đặt tại Cơ quan công an cấp tỉnh (hoặc tại các Sở
Tư pháp). Mô hình này mô phỏng một phần thông tin tàng thư căn cước can phạm và
thống kê tội phạm theo hai cấp hiện có của Bộ Công an.

Trung tâm dữ liệu LLTP là cơ quan quản lý dữ liệu LLTP trong phạm vi toàn quốc,
có tài khoản và con dấu riêng. Trung tâm có nhiệm vụ tiếp nhận và quản lý dữ liệu LLTP
do Trung tâm dữ liệu LLTP cấp tỉnh cung cấp; tiếp nhận, xử lý và lưu trữ thông tin LLTP
do các cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cung cấp; cung cấp thông tin LLTP cho
Trung tâm dữ liệu LLTP cấp tỉnh khi có yêu cầu và cấp Phiếu LLTP.

Trung tâm dữ liệu LLTP cấp tỉnh là cơ quan tiếp nhận các thông tin LLTP từ các
nguồn do toà án nhân dân, toà án quân sự các cấp cung cấp, có nhiệm vụ quản lý dữ liệu
LLTP trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, có tài khoản và con dấu
riêng. Khi có yêu cầu tra cứu thông tin để cấp Phiếu LLTP, các cơ quan thụ lý yêu cầu
chỉ cần tra cứu tại Trung tâm dữ liệu LLTP cấp tỉnh. Chỉ trong những trường hợp cần
thiết (đương sự trải qua nhiều nơi cư trú hoặc thông tin còn thiếu, không đầy đủ), mới cần
tra cứu tại Trung tâm dữ liệu LLTP quốc gia tại Bộ Công an (hoặc tại Bộ Tư pháp).

Nếu áp dụng theo mô hình trên, do cơ sở dữ liệu rải rác ở các tỉnh nên không đòi
hỏi hệ thống kỹ thuật đồ sộ cũng như đội ngũ nhân lực kỹ thuật tập trung đông, có
chuyên môn cao. Đội ngũ cán bộ tại Trung tâm ở các tỉnh, thành phố có thể vừa đảm
nhiệm công việc chuyên môn, vừa đảm bảo vận hành về mặt kỹ thuật. Tuy nhiên, do đặc
thù của hoạt động quản lý LLTP là quản lý các thông tin liên quan đến nhân thân tư pháp
của cá nhân, nên yêu cầu bảo mật các thông tin này là rất cao. Chính vì vậy, việc thiết kế
64 cơ sở dữ liệu LLTP tại 64 Trung tâm tại các tỉnh, thành phố theo phương án này cũng
cần phải tính toán trong điều kiện phải đảm bảo tính bảo mật của thông tin LLTP.

Mô hình thứ hai: Cơ quan quản lý dữ liệu LLTP tập trung (một cấp)
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT

Chỉ xây dựng duy nhất một Trung tâm dữ liệu LLTP quốc gia đặt tại Bộ Công an
(hoặc tại Bộ Tư pháp), là cơ quan quản lý dữ liệu LLTP trong phạm vi toàn quốc, có tài
khoản và con dấu riêng. Trung tâm thực hiện nhiệm vụ tiếp nhận, xử lý các thông tin do
toà án nhân dân, toà án quân sự các cấp, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác cung
cấp; tiếp nhận, xử lý và lưu trữ thông tin LLTP do các cơ quan có thẩm quyền của nước
ngoài cung cấp; cấp Phiếu LLTP.

Trung tâm dữ liệu LLTP quốc gia lưu trữ toàn bộ các thông tin về LLTP trong
phạm vi toàn quốc. Khi có yêu cầu tra cứu hoặc cấp Phiếu LLTP, Công an các tỉnh (hoặc
các Sở Tư pháp) có thể tra cứu, lấy thông tin tại Trung tâm LLTP quốc gia. Như vậy,
không cần thiết phải xây dựng các cơ sở dữ liệu LLTP tại các tỉnh, thành phố. Mặt khác,
nếu cơ sở dữ liệu LLTP chỉ tập trung tại trung ương, các điều kiện về tính bảo mật thông
tin cũng sẽ được đảm bảo. Tuy nhiên, xây dựng theo mô hình này đòi hỏi sự đầu tư ban
đầu rất lớn về vật chất, kỹ thuật, nhân lực. Bên cạnh đó, để quản lý, vận hành hệ thống cơ
sở dữ liệu quốc gia tại Bộ Tư pháp, về mặt tổ chức cũng cần thiết phải có một bộ phận
chuyên môn và đội ngũ kỹ thuật viên có trình độ chuyên môn cao.

Mô hình thứ ba: Cơ quan lý lịch tư pháp theo vùng (một cấp)

Sẽ xây dựng ba trung tâm quản lý dữ liệu LLTP tại ba thành phố tương ứng với ba
miền: miền Bắc (tại Hà Nội), miền Trung (Đà Nẵng) và miền Nam (tại TP. Hồ Chí
Minh). Mỗi Trung tâm quản lý dữ liệu LLTP sẽ là các cơ quan quản lý dữ liệu LLTP cấp
vùng, có tài khoản và con dấu riêng. Các Trung tâm thực hiện nhiệm vụ tiếp nhận, xử lý
các thông tin do toà án nhân dân, toà án quân sự các cấp, các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khác cung cấp; tiếp nhận, xử lý các thông tin LLTP do các toà án, các cơ quan có
thẩm quyền của nước ngoài cung cấp; cấp Phiếu LLTP.

Các cơ sở dữ liệu của ba Trung tâm được kết nối với nhau thông qua hệ thống
mạng nội bộ. Khi có yêu cầu tra cứu thông tin, Công an cấp tỉnh (hoặc các Sở Tư pháp)
có thể tra cứu tại các cơ sở dữ liệu này. Mô hình thứ ba có ưu điểm là khắc phục được
những khó khăn về cơ sở vật chất và nhân lực tại một số địa phương các tỉnh miền núi,
vùng sâu, vùng xa. Việc thiết kế mô hình cũng được tính toán trong quá trình cải cách tư
pháp và xu hướng thành lập toà án theo cấp xét xử và toà án khu vực.

Chúng tôi cho rằng, trong giai đoạn hiện nay, mô hình thứ nhất là hợp lý nhất, bởi
nó phù hợp với xu hướng phân cấp trong ngành công an (hoặc trong ngành tư pháp);
không gây xáo trộn về mặt tổ chức; không đòi hỏi sự đầu tư quá lớn về các nguồn lực; tạo
điều kiện thuận tiện nhất trong việc tận dụng nguồn thông tin LLTP hiện đang lưu trữ tại
Công an tỉnh (hoặc các Sở Tư pháp); thuận lợi trong việc thiết kế mô hình cung cấp, xử
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT

lý, sử dụng thông tin về LLTP giữa cơ quan quản lý LLTP với các cơ quan hữu quan
(công an, toà án, kiểm sát, tư pháp... ).

Trong điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện nay, theo chúng tôi, khi áp dụng
mô hình thứ nhất cũng cần tiến hành từng bước. Tùy theo khối lượng công việc nhiều hay
ít mà địa phương thành lập ra các đơn vị tiếp nhận yêu cầu và cấp Phiếu LLTP. Thời kỳ
đầu, việc xây dựng hệ thống hồ sơ LLTP có thể vẫn được tiến hành bằng phương pháp
thủ công (lưu trữ bằng các phiếu, sổ sách). Sau đó, trên cơ sở công tác LLTP ở các địa
phương đã đi vào nền nếp, chúng ta sẽ tiến hành từng bước việc tin học hoá hệ thống hồ
sơ này. Để mô hình nói trên vận hành hiệu quả và khả thi, việc triển khai áp dụng công
nghệ thông tin vào việc xây dựng hệ thống hồ sơ dữ liệu LLTP, nghiên cứu quy trình kỹ
thuật trong xử lý thông tin LLTP là đặc biệt quan trọng. Đây cũng là yếu tố quan trọng và
cơ bản trong việc xây dựng hệ thống LLTP thống nhất như đã đưa ra ở các mô hình nói
trên./.

-----------

* ThS. Phó Vụ trưởng Vụ Hành chính - Tư pháp, Bộ Tư pháp


BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT

Tàng thư căn cước can phạm và việc xây dựng hệ cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp
Nguyễn Văn Thìn*
1. Tổng quan về công tác tàng thư căn cước can phạm từ năm 1945 đến nay

Tàng thư căn cước can phạm được hình thành ngay sau khi Cách mạng tháng Tám
năm 1945 thành công. Lực lượng công an ta đã thu giữ nhiều tài liệu của mật thám, cảnh
sát Pháp và cơ quan liêm phóng Nhật Bản, đồng thời tiến hành bảo quản, lưu giữ để sử
dụng trước mắt và lâu dài. Thời kỳ đầu đã tiến hành việc lập danh chỉ bản người phạm
tội, tra tìm tiền án tiền sự của can phạm (do chưa có cán bộ chuyên trách nghiệp vụ công
tác tàng thư căn cước nên chúng ta lưu dụng một số nhân viên cũ của Pháp). Biểu mẫu sử
dụng gồm một bản, ghi những thông tin về lai lịch, vân tay của đối tượng. Tài liệu được
phân loại và sắp xếp theo phương pháp Pari. Công tác này đã phục vụ kịp thời việc giữ
gìn trật tự an ninh và bảo vệ chính quyền cách mạng còn non trẻ, củng cố niềm tin của
quần chúng nhân dân vào chính quyền cách mạng[1].

Kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, thực hiện Thông tư liên Bộ Công an -
Tư pháp số 1909 ngày 2/11/1955 về theo dõi tư pháp lý lịch và căn cước của bị can và
những người tình nghi, Ty Công an các tỉnh và Phòng Căn cước Bộ Công an lấy căn cước
tội phạm chính trị và tội về hình luật để lưu trữ, điều tra, khai thác sử dụng, phát huy tác
dụng của tàng thư căn cước đối với sự nghiệp giữ gìn trật tự an ninh xã hội. Điển hình là
năm 1962, cán bộ tàng thư căn cước Hà Nội và ở Bộ đã tham gia truy tìm thủ phạm vụ
trộm cắp ấn vàng ở Viện Bảo tàng lịch sử (giai đoạn này vẫn sử dụng biểu mẫu cũ của
những năm đầu giành chính quyền). Trong những năm chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ,
cán bộ làm công tác tàng thư căn cước đã phát hiện hàng trăm đối tượng tái phạm, có án
tù hoặc tập trung cải tạo, có tiền án, thay đổi họ, tên; hàng ngàn đối tượng có tiền án, tiền
sự, trong đó có những công nhân lái xe trong các cơ quan Nhà nước là nguỵ binh, trốn
theo địch, tuyên truyền phản cách mạng, tham ô, trộm cắp, giả danh lừa đảo...

Do nhận thức đúng vị trí, tầm quan trọng của công tác tàng thư, cán bộ làm công
tác tàng thư căn cước phối hợp chặt chẽ với cán bộ kỹ thuật hình sự đã bảo vệ tàng thư an
toàn, quản lý và khai thác kịp thời phục vụ công tác điều tra. Trong 10 năm (từ 1965-
1975), tàng thư căn cước trên toàn quốc đã lập hàng trăm ngàn danh chỉ bản can phạm,
hơn mười ngàn cặp danh chỉ bản cho các công dân đăng ký lái xe [2], đồng thời, sưu tầm
bổ sung hơn chín mươi ngàn bản án hình sự, quyết định tập trung cải tạo; tra cứu cung
cấp hơn năm chục ngàn bản trích lục tiền án tiền sự, phát hiện nhiều đối tượng tái phạm,
đối tượng trốn trại có lệnh truy nã, thay đổi họ tên và xác định lai lịch nạn nhân chết vô
tung tích; phục vụ công tác bảo vệ nội bộ, xác minh cấp bằng lái xe, tuyển sinh đi học
nước ngoài, tuyển người vào các binh chủng đặc biệt.
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT

Một năm sau ngày thống nhất đất nước, Bộ trưởng Bộ Công an quyết định triển
khai công tác tàng thư căn cước can phạm theo phương pháp Galton - Henry. Biểu mẫu
sử dụng trong công tác này đã được chuẩn hoá, có hai loại: danh bản ghi lý lịch, tội danh,
đặc điểm nhân dạng, ảnh và vân tay 1 ngón trỏ; chỉ bản, theo mẫu tiêu chuẩn quốc tế
(20x20), ghi thông tin về lý lịch, vân tay 10 ngón... Danh bản và chỉ bản được quản lý,
khai thác sử dụng theo phương pháp khoa học trên cơ sở vân tay 10 ngón, ảnh, nhân dạng
và các thông tin cơ bản về lai lịch của đối tượng, trực tiếp tham gia công tác phòng ngừa,
đấu tranh chống tội phạm của lực lượng Công an nhân dân và quản lý Nhà nước về an
ninh trật tự. Thông tin, tài liệu do tàng thư cung cấp có ưu thế, giá trị trong phục vụ công
tác điều tra, xét xử đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Khả năng và hiệu quả
khai thác tàng thư để phục vụ công tác chiến đấu của lực lượng an ninh, cảnh sát và các
cơ quan bảo vệ pháp luật khác trong điều tra, xét xử, truy nã tội phạm, xác minh lý lịch
xây dựng lực lượng, bảo vệ Đảng, bảo vệ nội bộ... ngày càng được phát huy, khả năng
khai thác được mở rộng, số lượng yêu cầu tra cứu cung cấp thông tin ngày càng nhiều.
Kết quả tra cứu tàng thư đã phát hiện nhiều trường hợp là mật báo viên, gián điệp cài lại,
nhiều đối tượng trước đây là nguỵ quân, nguỵ quyền sau khi miền Nam giải phóng trốn ra
nước ngoài thành lập các tổ chức phản động lưu vong, nay xâm nhập vào Việt Nam để
hoạt động chống phá cách mạng.

Từ năm 1997, Tàng thư căn cước can phạm đổi tên là Tàng thư căn cước can phạm
và một số người vi phạm pháp luật khác (CCCP) được tổ chức theo 2 cấp, ở Bộ là Cục
Hồ sơ nghiệp vụ Cảnh sát (C27) thuộc Tổng cục Cảnh sát; ở Công an tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương là phòng PV27, PC27. Để phát huy hiệu quả, tác dụng của tàng thư
CCCP, lãnh đạo Bộ đã chỉ đạo các lực lượng nghiệp vụ gắn kết công tác nghiệp vụ với
công tác hồ sơ, tàng thư nói chung, công tác tàng thư CCCP nói riêng bằng việc ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện; thực hiện khoản 3 Điều 126 Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2003 bằng việc lập căn cước ở 3 cấp; Thông tư liên tịch số 07
hướng dẫn việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp; Công văn 68 của Chính phủ về xác nhận không
có tiền án cho người đi lao động có thời hạn ở Đài Loan; Kế hoạch 327 của Bộ Công an
về tổng truy bắt và thanh loại đối tượng truy nã; Thông tư liên tịch số 03/TTLT ngày
01/6/2006 giữa Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Toà án nhân dân tối cao
hướng dẫn việc thông báo, gửi, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến người phạm
tội...

Hiện nay, hệ thống tàng thư CCCP ở Bộ và 64 địa phương trong cả nước đang
quản lý tất cả thông tin, tài liệu đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật do các lực lượng
nghiệp vụ ở Bộ CA, các ngành và địa phương bắt giữ cùng với tài liệu diễn biến, kết quả
xử lý can phạm, đối tượng truy nã....Trên cơ sở tài liệu hiện có, hàng năm cung cấp hàng
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT

trăm ngàn lượt thông tin phục vụ công tác điều tra, xử lý đối tượng và giải quyết các yêu
cầu về tư pháp, về nguyện vọng chính đáng của công dân. Trong 10 năm (1997- 2007),
lực lượng Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát đã tiếp nhận giải quyết trên bốn triệu lượt yêu cầu,
trung bình hàng năm giải quyết trên bốn trăm ngàn yêu cầu các loại, cung cấp hơn một
triệu bản trích lục tiền án, tiền sự phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử; xác minh
nhân sự phục vụ bảo vệ Hội nghị APEC trong đó có 172 trường hợp có tiền án, tiền sự,
góp phần đáng kể vào việc bảo vệ thành công hội nghị, giải quyết hơn bảy trăm ngàn yêu
cầu xin xuất cảnh; xác định danh tính trên sáu trăm nạn nhân chết chưa rõ tung tích; giải
quyết hơn năm trăm ngàn trường hợp xác minh lý lịch tư pháp, trong đó có hơn bảy ngàn
người đã có tiền án, tiền sự; tra cứu cấp giấy xác nhận không tiền án cho 223.312 người
lao động đi làm việc có thời hạn ở Đài Loan, phát hiện 1.771 trường hợp có tiền án, tiền
sự. Thông tin, tài liệu do tàng thư cung cấp là cơ sở pháp lý phục vụ công tác điều tra, xử
lý tội phạm... như cung cấp thông tin lai lịch, tiền án, tiền sự của 138 đối tượng trong vụ
án do Trương Văn Cam (Năm Cam) cầm đầu; vụ tên không tặc Lý Tống rải truyền đơn
và nhảy dù xuống TP Hồ Chí Minh âm mưu hoạt động chống phá chính quyền cách
mạng; phát hiện lai lịch đối tượng Nguyễn Minh Châu là thủ phạm trong vụ giết người,
cướp tài sản tại tiệm vàng Kim Sinh ở 48 Sơn Tây, Đống Đa, Hà Nội; cung cấp ảnh, nhận
dạng bắt đối tượng Ngô Tiến Dũng (Dũng Kiều) trong chuyên án tổ chức đánh bạc trên
mạng Internet, phạm tội giết người sau 14 năm lẩn trốn ở nước ngoài…

Số lượng yêu cầu tra cứu tàng thư năm sau tăng cao hơn năm trước. Đến nay, lực
lượng nghiệp vụ có chức năng điều tra, xử lý đối tượng ở các cấp công an đều gửi yêu
cầu về Cục C27 và phòng PC27, PV27 các địa phương để tra cứu, khai thác thông tin
phục vụ công tác điều tra, xử lý tội phạm. Các đối tượng phạm tội rất nghiêm trọng, đặc
biệt nghiêm trọng, hoạt động lưu động khi bắt giữ đều được các đơn vị, địa phương yêu
cầu tra cứu tàng thư CCCP ở C27. Việc trao đổi thông tin giữa các tàng thư được tăng
cường bằng phương tiện truyền tin hiện đại (MFAX hoặc EMail) đã đáp ứng kịp thời yêu
cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đặc biệt, hệ thống nhận dạng vân tay tự động
(VAFIS) tại C27 và một số địa phương đã giải quyết yêu cầu tra cứu dấu vết vân tay hiện
trường các vụ án chưa rõ thủ phạm nhanh chóng, chính xác... Hàng năm, tàng thư CCCP
đã chủ động khai thác, cung cấp thông tin về đối tượng nguy hiểm, khai man lý lịch, hoạt
động lưu động; đối tượng truy nã bị bắt lại, thay đổi lý lịch để tráo người làm chứng minh
nhân dân; xác định lai lịch nạn nhân chết chưa rõ tung tích; cung cấp thông tin về tình
trạng tiền án phục vụ yêu cầu chính đáng của các tổ chức và cá nhân theo quy định pháp
luật. Hệ thống nhận dạng vân tay tự động đã xác định chính xác thủ phạm của hàng trăm
vụ án tồn đọng, câu dầm, bế tắc nhiều năm.
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT

Cục C27 hiện còn quản lý tàng thư căn cước thu được của địch tại TP Hồ Chí
Minh. Đây là hệ thống tài liệu của Sở Căn cước văn khố thuộc chính quyền Sài Gòn cũ
mà ta thu được gần như nguyên vẹn trong chiến dịch giải phóng hoàn toàn miền Nam
(1975). Dưới chế độ ngụy quyền Sài Gòn, hệ thống tàng thư căn cước được gọi là Phòng
Căn cước trực thuộc Sở Căn cước văn khố, Nha Kỹ thuật, Bộ Tư lệnh Cảnh sát quốc gia.
Tàng thư này được tổ chức, sắp xếp theo một nguyên tắc, trình tự phù hợp các tài liệu về
khoa vân tay hiện nay trên thế giới. Thông tin, tài liệu trong tàng thư căn cước của địch
thời kỳ chiến tranh chống Mỹ chủ yếu phục vụ việc quản lý xã hội của chính quyền nguỵ.
Những đối tượng có thông tin trong tàng thư là những người hoạt động chống lại chính
quyền nguỵ, tù binh cộng sản, chiêu hồi đầu hàng địch, nguỵ quân, nguỵ quyền, công
chức hoạt động cho Mỹ hoặc nước ngoài, hoạt động phạm tội về hình sự và các vi phạm
pháp luật khác. Hệ thống cấu trúc tàng thư căn cước gồm: Khối danh bản có các loại:
danh bản căn cước dân sự, danh bản tội phạm, danh bản quân nhân, danh bản truy nã;
Khối chỉ bản (gồm chỉ bản căn cước 6 số được lập từ năm 1958 đến 1967 và chỉ bản căn
cước 8 số được lập từ năm 1968 đến 1975) có các loại: chỉ bản căn cước dân sự, chỉ bản
căn cước quân nhân, chỉ bản căn cước tội phạm; Khối tàng thư phim, vi phim; Khối các
tài liệu khác (chỉ bản Pháp, tàng thư phụ, tàng thư người chết, tàng thư tầm nã, hồ sơ cá
nhân...).

Thông tin trong tàng thư bao gồm: trên danh bản ghi sơ lược lý lịch, ảnh, đặc điểm
nhân dạng và trên chỉ bản in vân tay 10 ngón của công dân đến tuổi được cấp căn cước.
Ngoài ra còn có danh chỉ bản lược ghi lý lịch của những người tham gia quân đội, cảnh
sát nguỵ, người làm việc trong một số cơ quan hành chính ngụy, nước ngoài, người hoạt
động cách mạng bị bắt, người chiêu hồi đầu hàng địch, người chống lại chính quyền
nguỵ, đối tượng phạm các tội về hình sự và các vi phạm khác... Các loại tài liệu trên đều
được sắp xếp trong các loại tủ chuyên dùng. Đối với những người có từ hai danh bản trở
lên thì lập hồ sơ cá nhân. Hồ sơ cá nhân gồm có: Chỉ bản quân nhân, chiêu hồi, tù binh
cộng sản, chỉ bản về các vi phạm khác; Danh bản tầm nã, các án từ ghi trong danh bản;
Chỉ bản Pháp; Thống kê tiền án tiền sự.

Trong công tác đấu tranh chống tội phạm hình sự những năm đầu sau giải phóng,
tàng thư này đã phát hiện nhiều tội phạm hình sự nguy hiểm bị đưa ra Côn Đảo dưới chế
độ cũ được thả về đất liền, ráo riết hoạt động phạm tội cướp, cướp giật, phá rối trị an
hoặc che giấu lý lịch chui vào cơ quan Nhà nước, thậm chí chui cả vào lực lượng Công
an. Tháng 8/1993, qua tra cứu vân tay tìm ra lai lịch của tên không tặc Lý Tống, tên thật
là Lê Văn Tống, nguyên trung uý không quân nguỵ, bị bắt tháng 4/1975, trốn trại giam
tháng 8/1980 vượt biên trốn ra nước ngoài, quay trở lại thả truyền đơn kích động chống
phá cách mạng. Năm 2007, tra cứu hơn 18.000 yêu cầu đã phát hiện 116 trường hợp
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT

trùng lý lịch nhưng khác dấu vân tay; 7.947 người có tiền tích dưới thời Mỹ - nguỵ. Qua
kết quả tra cứu các yêu cầu cho thấy, tàng thư này đã cung cấp những thông tin rất quan
trọng về đối tượng, về băng ổ nhóm, kể cả số hoạt động tội phạm về chính trị và hình sự,
giúp cho các lực lượng nghiệp vụ trong công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội
phạm, đặc biệt phục vụ có hiệu quả công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Các yêu cầu phục vụ
công tác này ngày càng nhiều, năm sau cao hơn năm trước, nhất là từ năm 1997 đến nay.
Việc tra cứu, khai thác thông tin tài liệu trong tàng thư đã giúp cho các cơ quan chức
năng có điều kiện dựng lại hệ thống về lai lịch, quá khứ của một người, phục vụ có hiệu
quả công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình mới.

Để tổ chức bảo quản, khai thác tốt hồ sơ tài liệu thu được của địch và hướng dẫn
công an các địa phương làm tốt công tác này, kịp thời lưu giữ tài liệu phát sinh nhằm
phục vụ có hiệu quả cho công tác nghiệp vụ của ngành trước mắt và lâu dài, lãnh đạo Bộ
Công an đã thành lập một bộ phận công tác hồ sơ chuyên trách tại phía Nam, trong đó có
bộ phận làm công tác tàng thư căn cước. Tàng thư căn cước thu được của địch gồm nhiều
khối tài liệu khác nhau, mỗi khối có ý nghĩa riêng, song đều chứa đựng những thông tin
thuộc về diễn biến hành vi của công dân từ đủ 15 tuổi trở lên (không phân biệt nam, nữ,
tôn giáo, đẳng cấp trong xã hội...), được tổ chức quản lý theo phương pháp khoa học, có
tác dụng hỗ trợ cho nhau, giúp việc thẩm tra và dựng lại quá trình hoạt động, di biến động
của một người trong quá khứ đầy đủ theo thời gian. Thông tin về công dân miền Nam (từ
bờ Nam vĩ tuyến 17 trở vào), những người hoạt động chống lại chính quyền nguỵ, thông
tin về cán bộ, bộ đội từ miền Bắc vào Nam chiến đấu bị địch bắt, chiêu hồi, đầu hàng,
những người tham gia quân đội, cảnh sát nguỵ, người làm việc trong các cơ quan hành
chính nước ngoài, người phạm các tội về hình sự và các vi phạm khác mà tàng thư có là
rất lớn. Những thông tin này có ý nghĩa quan trọng, phục vụ cho công tác bảo vệ chính trị
nội bộ trong tình hình mới, có giá trị pháp lý cao. Kể từ 1975 đến nay, tàng thư này đã
góp phần giúp cho các lực lượng nghiệp vụ của ngành công an tìm ra, truy quét, triệt phá
các băng, ổ nhóm, những tên tội phạm hình sự nguy hiểm dưới thời nguỵ, các tổ chức tội
phạm chính trị, hoạt động trá hình chui vào tổ chức của ta. Giúp cho lực lượng bảo vệ
chính trị nội bộ thuộc các tỉnh uỷ, thành uỷ có tài liệu để ngăn chặn, hạn chế và loại bỏ
những phần tử địch được huấn luyện cài cắm, chui sâu leo cao chờ thời cơ hoạt động
chống phá lâu dài, những phần tử cơ hội, thoái hoá, biến chất hoặc có lịch sử chính trị
phức tạp. Những thông tin về vân tay, chữ ký, ảnh và địa chỉ của công dân mà tàng thư
cung cấp cũng có ý nghĩa đặc biệt trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân (đăng ký nhập khẩu cho những người có hộ khẩu gốc ở thành phố, thị xã, chứng thực
hộ tịch, hộ khẩu...), các tranh chấp dân sự hiện hành.

2. Công tác tàng thư căn cước can phạm phục vụ cấp Phiếu lý lịch tư pháp
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT

Ngay sau khi Bộ Tư pháp và Bộ Công an ban hành Thông tư liên tịch số
07/1999/TTLT- BTP- BCA ngày 08/2/1999 về cấp Phiếu lý lịch tư pháp, Tổng cục Cảnh
sát có văn bản hướng dẫn lực lượng Hồ sơ nghiệp vụ Cảnh sát (Cục Hồ sơ nghiệp vụ
Cảnh sát và phòng Hồ sơ nghiệp vụ CA cấp tỉnh) tra cứu hệ thống hồ sơ, tàng thư, cơ sở
dữ liệu nghiệp vụ Cảnh sát để cung cấp thông tin phục vụ cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Quá
trình thực hiện phòng Hồ sơ nghiệp vụ CA cấp tỉnh đã phối hợp chặt chẽ với Sở Tư pháp
các địa phương tiếp nhận, giải quyết các yêu cầu xin cấp Phiếu lý lịch tư pháp theo quy
định tại Thông tư 07.

Sau hơn tám năm thực hiện, đã tra cứu thông tin, tài liệu trong hệ thống hồ sơ, tàng
thư (đặc biệt là tra cứu tàng thư căn cước can phạm, so sánh vân tay trên CMND và vân
tay lưu giữ trong tàng thư), cung cấp thông tin cho người Việt Nam (70,96%); người Việt
Nam ở nước ngoài (1,97%); người nước ngoài ở Việt Nam (27%) với các mục đích chủ
yếu: xuất khẩu lao động (96,6%); xuất cảnh (38%); hôn nhân (10,5%); du lịch nước ngoài
(8,46%); du học (1,83%); thăm thân (6,07); định cư (10%); nhập quốc tịch (2,75%); xin
việc làm (4,38%); thành lập công ty, doanh nghiệp (0,45%). Những địa phương tiếp nhận
và tra cứu nhiều là: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Đồng Nai, Đồng Tháp, Tây
Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Hải Phòng... Cục Hồ sơ nghiệp vụ Cảnh sát tiếp nhận, tra cứu
xác minh những trường hợp do phòng Hồ sơ Công an các địa phương đề nghị, trong đó
77,7% là người nước ngoài và 22,3% là người Việt Nam.

Yêu cầu tra cứu phục vụ cấp Phiếu lý lịch tư pháp tập trung ở các thành phố lớn,
các tỉnh phía Nam và các khu công nghiệp liên doanh với nước ngoài thu hút lao động.
Đối tượng là người lao động có nhu cầu tìm việc làm và theo quy định về tuyển người mà
các cơ quan nhà nước Việt Nam và nước ngoài cũng như các liên doanh với nước ngoài
tại Việt Nam bắt buộc phải có Phiếu lý lịch tư pháp. Công dân Việt Nam xin cấp Phiếu lý
lịch tư pháp để hoàn tất thủ tục hồ sơ xuất cảnh (chủ yếu sang các nước như Mỹ, Pháp,
Australia, Canada...) đi du học, du lịch, đổi quốc tịch, xin nhập quốc... Việc tra cứu thông
tin phục vụ cấp Phiếu lý lịch tư pháp đã phát hiện hàng trăm trường hợp có tiền án, là đối
tượng truy nã. Đáng chú ý là Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã phát hiện 41 trường
hợp giấy chứng minh nhân dân trùng lý lịch nhưng khác vân tay. Các địa phương Nghệ
An, Bình Dương, Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh, Hà Tây, Hải Dương phát hiện 9 trường
hợp tráo người xin cấp Phiếu lý lịch tư pháp.

Kết quả tra cứu hệ thống hồ sơ, tàng thư, cơ sở dữ liệu nghiệp vụ đã đáp ứng yêu
cầu chính đáng của công dân và người lao động, góp phần thực hiện chủ trương, chính
sách của Đảng và Chính phủ về tăng cường công tác xuất khẩu lao động ra nước ngoài,
cải thiện đời sống nhân dân, góp phần xoá đói giảm nghèo. Qua đó, đã khẳng định vị trí,
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT

tác dụng và giá trị nhiều mặt của hệ thống hồ sơ, tàng thư, cơ sở dữ liệu nghiệp vụ do cơ
quan Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát quản lý phục vụ công tác quản lý Nhà nước về trật tự an
toàn xã hội. Tuy nhiên, công tác này vẫn còn một số khó khăn, tồn tại, vướng mắc sau:

- Việc phối hợp tra cứu cung cấp thông tin, tài liệu đối với những trường hợp cư
trú, thường trú ở nhiều nơi còn chậm so với thời gian quy định. Nguyên nhân trong thông
tư liên tịch quy định thời gian tra cứu đối với những trường hợp phức tạp được kéo dài
thêm mười ngày là chưa phù hợp và không thể đáp ứng được yêu cầu về thời gian. Vì
một mặt, khâu trung chuyển tài liệu (hồ sơ) qua đường giao liên, nhất là đối với các địa
phương ở xa, mặt khác do từng trường hợp cụ thể phức tạp mất nhiều thời gian để xác
minh, kết luận.

- Công tác cấp Phiếu lý lịch tư pháp được giao cho Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương thực hiện. Nhưng Sở Tư pháp không quản lý, lưu trữ các thông tin,
tài liệu về tình trạng tiền án và căn cước (vân tay, lai lịch...) của công dân để làm cơ sở
cho việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp mà cơ quan tư pháp chỉ làm chức năng tiếp nhận hồ sơ,
thu lệ phí và trả Phiếu lý lịch tư pháp (thủ tục hành chính). Trong khi ngành Công an, mà
trực tiếp là lực lượng Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát đang quản lý một khối lượng lớn hồ sơ tài
liệu để tra cứu cung cấp tình trạng tiền án phục vụ cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Cách làm
qua nhiều khâu trung gian, nếu để kéo dài mà không được điều chỉnh về chức năng, bổ
sung về biên chế, điều kiện làm việc, sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi hợp pháp của
công dân trong điều kiện hội nhập quốc tế...

- Cán bộ Sở Tư pháp một số địa phương còn thiếu kiến thức về căn cước nên khi
tiếp nhận hồ sơ của công dân đã hướng dẫn khai chưa đầy đủ các thông tin vào Đơn xin
cấp phiếu lý lịch tư pháp như số chứng minh nhân dân, nơi cấp, ngày tháng năm cấp
chứng minh nhân dân, quá trình cư trú, mục đích sử dụng Phiếu lý lịch tư pháp, đặc biệt
việc phô-tô vân tay ngón trỏ in trên giấy chứng minh nhân dân quá mờ không đủ cơ sở để
so sánh, xác định... khi phòng Hồ sơ nghiệp vụ tiến hành tra cứu mới phát hiện, yêu cầu
bổ sung thường bị chậm.

- Những trường hợp phát hiện tráo người làm chứng minh nhân dân, khai sai lý lịch
để xin cấp Phiếu lý lịch tư pháp, chưa có văn bản quy phạm pháp luật quy định về hình
thức xử lý (trừ những trường hợp vi phạm về hình sự).

- Công tác quản lý nhân khẩu, hộ khẩu, thu thập thông tin diễn biến về công dân
không kịp thời, có trường hợp công dân đã đi khỏi địa phương, định cư ở nước ngoài,
được xoá án tích... nhưng vẫn chưa điều chỉnh, bổ sung trong hồ sơ và sổ hộ khẩu nên
việc tra cứu, xác minh cung cấp thông tin của đương sự gặp rất nhiều khó khăn.
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT

- Việc cấp lại, cấp đổi và cấp mới chứng minh nhân dân đối với những người quá
độ tuổi quy định ở một số đ��a phương còn nhiều sơ hở, chưa thực hiện đúng các quy
định của Bộ Công an. Nguyên nhân chủ yếu là do việc xác nhận của Công an xã, phường
còn tuỳ tiện trong việc xác nhận người xin cấp chứng minh nhân dân không đúng đối
tượng.

Trong quá trình thực hiện Thông tư liên tịch số 07 về cấp Phiếu lý lịch tư pháp,
lãnh đạo Bộ Công an đã chỉ đạo Tổng cục Cảnh sát phối hợp với Vụ Hành chính tư pháp
- Bộ Tư pháp hướng dẫn Sở Tư pháp và phòng Hồ sơ nghiệp vụ thực hiện nghiêm túc các
quy định trong Thông tư, đồng thời để có cơ sở tổng kết Thông tư và xây dựng Luật Lý
lịch tư pháp, đã tổ chức khảo sát công tác cấp Phiếu lý lịch tư pháp tại một số địa
phương. Kết quả khảo sát cho thấy:

- Công tác quản lý và cấp Phiếu lý lịch tư pháp chủ yếu dựa trên cơ sở kết quả tra
cứu, xác minh tàng thư nghiệp vụ của cơ quan Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát, Sở Tư pháp
hoàn chỉnh thủ tục để cấp Phiếu lý lịch tư pháp là chưa đủ điều kiện để xác định yếu tố về
lý lịch tư pháp của một công dân.

- Hệ thống văn bản pháp lý quy định về công tác quản lý lý lịch tư pháp theo Thông
tư 07 không quy định toàn diện và đầy đủ một số lĩnh vực như: vấn đề cư trú, hộ tịch,
quốc tịch, xuất nhập cảnh, luật đầu tư, lao động... Do chưa có văn bản pháp luật quy định
về chế độ lập và quản lý lý lịch tư pháp, nên nguồn thông tin về lý lịch tư pháp chưa tập
trung, chưa thiết lập và quản lý lý lịch tư pháp như các nước trên thế giới đã và đang thực
hiện.

- Khái niệm về tiền sự chưa được quy định rõ trong hệ thống văn bản pháp luật Việt
Nam.

Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn khách quan, cần phải ban hành văn bản quy phạm
dưới hình thức luật, quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, nguyên tắc lập Phiếu
lý lịch tư pháp, mục đích sử dụng lý lịch tư pháp trong quá trình tố tụng hình sự. Tuy
nhiên, việc xây dựng hệ cơ sở dữ liệu về lý lịch tư pháp trong giai đoạn hiện nay là rất
khó khăn, vì cơ sở pháp lý của lý lịch tư pháp gồm hộ tịch, hộ khẩu, chứng minh nhân
dân... song việc quản lý, theo dõi, bổ sung điều chỉnh về một con người chưa được đồng
bộ, thống nhất và chưa có chế tài để giải quyết những vướng mắc, bất cập. Thông tư liên
tịch số 07 về cấp Phiếu lý lịch tư pháp không còn phù hợp với tình hình hiện nay. Tổng
cục Cảnh sát đã chỉ đạo lực lượng Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát báo cáo kết quả và đề nghị
Bộ Tư pháp phối hợp tổng kết nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện được. Hồ sơ, tài liệu,
thông tin về căn cước do Bộ Công an quản lý theo hệ thống và có truyền thống, nhưng
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT

không có hoặc rất ít thông tin về những trường hợp đương nhiên xoá án tích và đã được
xoá án theo quy định pháp luật. Cơ quan Hồ sơ nghiệp vụ vẫn phải lấy thông tin về án
tích từ cơ quan Toà án các cấp để bổ sung vào cơ sở dữ liệu. Trong khi đó Phiếu lý lịch
tư pháp là tài liệu chứng minh tình trạng tiền án của công dân. Thông tư liên tịch số 03
quy định cơ chế đảm bảo thông tin để có sự phối hợp giữa các cơ quan thực thi pháp luật
nhưng Toà án nhân dân tối cao chưa hướng dẫn Sở Tư pháp và Toà án cấp tỉnh, thành
phố, quận huyện thực hiện. Các điều kiện đảm bảo khác như cán bộ, vật tư phương tiện,
đường truyền... chưa đáp ứng được yêu cầu cập nhật, bổ sung thông tin, tài liệu.

3. Đề xuất xây dựng hệ cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp

Từ thực tế quản lý, khai thác thông tin, tài liệu phục vụ cấp Phiếu lý lịch tư pháp
nhiều năm qua, xin đề xuất cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp gồm những thông tin cơ bản về
lý lịch những công dân có bản án hình sự của Toà án các cấp như: họ tên, ngày tháng
năm sinh, ảnh, vân tay, số chứng minh nhân dân, tiền án...

Về bộ máy các cơ quan quản lý cấp phát Phiếu lý lích tư pháp, có thể tổ chức theo
hai phương án:

Phương án thứ nhất: Tổ chức theo mô hình như hiện nay

- Cơ quan Công an quản lý tàng thư căn cước can phạm và cập nhật các thông tin
về hành vi phạm tội đã được Toà án kết án, kết quả chấp hành bản án...

- Cơ quan Viện Kiểm sát, Toà án cung cấp thông tin xử lý đối tượng phạm tội cho
cơ quan công an để ghi nhận lập phiếu mới, cập nhật thông tin vào cơ sở dữ liệu can
phạm. Đồng thời, thông qua cơ quan công an kết luận về tình trạng tiền án của đương sự.

- Cơ quan Tư pháp: cung cấp đầy đủ, chính xác những thay đổi, bổ sung về hộ tịch
cho cơ quan Hồ sơ điều chỉnh trong tàng thư và cơ sở dữ liệu.

Sở Tư pháp cấp tỉnh căn cứ vào kết quả xác minh của công an cấp tỉnh cung cấp,
xem xét cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho công dân.

Phương án thứ hai: Cơ quan công an, trực tiếp là Cục Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát -
Tổng cục Cảnh sát và phòng Hồ sơ nghiệp vụ - công an các tỉnh, thành phố trên cơ sở dữ
liệu hiện có về tàng thư CCCP và tàng thư căn cước công dân đã được thu thập trên 50
năm và quản lý có hệ thống, khoa học từ trung ương đến địa phương để xây dựng, quản
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT

lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp, tiếp nhận yêu cầu và cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho công
dân.

Trước khi ban hành Luật Lý lịch tư pháp, cần tổng kết việc thực hiện Thông tư liên
tịch số 07. Nội dung Luật Lý lịch tư pháp cần quy định rõ cơ chế cung cấp thông tin, giá
trị pháp lý thông tin tài liệu của cơ quan Công an, cơ chế phối hợp trong việc cung cấp
thông tin ban đầu và thông tin bổ sung để giúp cho công tác lập và quản lý Phiếu lý lịch
tư pháp được chính xác, ít tốn kém thời gian, thực sự có hiệu quả.

Đồng thời, đề nghị Chính phủ chỉ đạo các ngành chức năng triển khai thực hiện
việc cấp chứng minh nhân dân theo công nghệ mới để đảm bảo mỗi công dân từ đủ 14
tuổi có một số căn cước, tạo thuận lợi cho công tác quản lý Nhà nước về an ninh trật tự,
trong đó có công tác cấp Phiếu lý lịch tư pháp./.

* ThS, Thượng tá, Trưởng phòng Tàng thư nghiệp vụ - Tổng cục Cảnh sát

[1] Ban Chính trị Ty Công an Hải Phòng tham gia phá vụ thảm sát ở tiệm vàng Vĩnh Tường. Âm mưu
của vụ thảm sát này là giết người cướp của, đồng thời làm rối trật tự trị an và gây căng thẳng về chính
trị trong thành phố. Đây là một trong những thành tích đầu tiên của lực lượng căn cước Công an Hải
Phòng.

[2] Danh chỉ bản vẫn được phân loại và sắp xếp theo phương pháp Pari.
CHÍNH SÁCH

Tính hai mặt của chính sách chống lạm phát

(Tiếp theo kỳ trước)

Nguyễn Minh Phong*

5. Tính hai mặt của chính sách vay nợ và thu hút đầu tư nước ngoài

a) Vay nợ nước ngoài:

Một cơ cấu nợ mà chiếm tỷ trọng lớn nhất là những khoản vay thương mại "nóng",
lãi cao, và bằng những ngoại tệ không ổn định theo xu hướng "đắt" lên sẽ chứa đựng
những xung lực lạm phát mạnh. Những xung lực này càng mạnh hơn nếu vốn vay không
được quản lý tốt và sử dụng có hiệu quả, buộc con nợ phải tiếp tục tìm kiếm các khoản
vay mới, với những điều kiện có thể ngặt nghèo hơn - chiếc bẫy nợ sập lại, con nợ rơi vào
vòng xoáy mới: Nợ - vay nợ mới - tăng nợ - tăng vay... Vòng xoáy này sẽ dẫn con nợ đến
sự vỡ nợ hoặc vòng xoáy lạm phát: nợ - tăng nghĩa vụ nợ - tăng thâm hụt ngân sách -
tăng lạm phát. Lúc này dịch vụ nợ sẽ ngốn hết những khoản chi ngân sách cho phát triển
và ổn định xã hội, làm căng thẳng thêm trạng thái khát vốn và hỗn loạn xã hội. Hơn nữa,
việc "thắt lưng buộc bụng" trả nợ khiến quốc gia nợ phải hạn chế nhập và tăng xuất, trong
đó có hàng tiêu dùng mà trong nước còn thiếu hụt, do đó làm tăng mất cân đối hàng tiền,
tăng giá, tăng lạm phát. Nợ nước ngoài có thể làm sụp đổ cả một Chính phủ, nhất là ở
những nơi tình trạng tham nhũng và vô trách nhiệm của giới cầm quyền đi kèm với việc
thiếu những giải pháp xử lý mềm dẻo khôn ngoan với nợ (đàm phán gia hạn nợ, đổi nợ
thành đầu tư, đổi cơ cấu và điều kiện nợ, xin xoá nợ từng phần v.v...). Do vậy, Chính phủ
nước vay nợ cần chủ động và tỉnh táo khống chế nợ ở mức độ an toàn để có thể làm chủ
được các khoản vay; tiến hành vay theo những dự án đầu tư cụ thể, có luận chứng kinh tế
- kỹ thuật đầy đủ, và chấp nhận sự kiểm tra, giám sát của chủ nợ để tránh hao hụt do tham
nhũng hay sử dụng nợ sai mục đích; đồng thời, cần khuyến khích tăng đầu tư trong nước
thay thế dần nguồn vốn bên ngoài.

b) Thu hút đầu tư nước ngoài:

- Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài:

Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài dưới mọi dạng sẽ an toàn và tốt hơn việc trực
tiếp vay nợ thương mại (kể cả dưới dạng mua hàng trả chậm theo L/C). Hơn nữa, điều
này còn tránh cho nước tiếp nhận đầu tư những khó khăn, lúng túng ban đầu về thị
trường, kinh nghiệm quản lý - kinh doanh quốc tế. Cùng với những bảo đảm pháp lý có
tính quốc tế, bằng cách điều chỉnh những chiếc "van" như: ưu đãi thuế, tài chính, tiền tệ,
CHÍNH SÁCH

phát triển hạ tầng cứng - mềm, các thủ tục hải quan, hành chính, các nước chủ nhà có thể
hướng dẫn luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào đúng chỗ, đúng lúc, đủ khối lượng
cần thiết theo kế hoạch định hướng sự phát triển kinh tế - xã hội của mình. Song vấn đề
không chỉ đơn giản có vậy. Ngay trong lĩnh vực tưởng chừng toàn những điều tốt lành
này, những chiếc bẫy lạm phát vẫn ẩn khuất đây đó. Thứ nhất, thực tiễn thế giới cho thấy,
dòng vốn đầu tư này chỉ thực sự góp phần làm dịu lạm phát khi chúng làm tăng cung
những hàng khan hiếm, tăng nhập khẩu phụ tùng thiết bị sản xuất và công nghệ tiên tiến,
từ đó làm tăng tiềm lực xuất khẩu, khả năng cạnh tranh, cải thiện cán cân thanh toán và
tăng thu ngân sách cho nước chủ nhà và giúp hạn chế sức ép tăng tỉ giá tiền tệ thực tế.
Ngược lại, nếu thiên về khuynh hướng kích thích nền kinh tế “bong bóng”, kích thích và
thoả mãn những tiêu dùng cao cấp vượt quá khả năng kinh tế và sự tích luỹ cần thiết của
nước tiếp nhận đầu tư, thì về lâu dài, chúng sẽ có hại cho các nguồn lực tăng trưởng kinh
tế, do đó làm tăng lạm phát tương lai các xung lực. Thứ hai, nếu việc chuyển giao công
nghệ (cả phần "cứng" lẫn phần "mềm") không được thực hiện đầy đủ, hoặc chỉ chuyển
giao những công nghệ lạc hậu, thì mặc nhiên "những lợi thế tương đối của nước bắt đầu
muộn" sẽ bị tước bỏ - đó là một mặt. Mặt khác, khi đó nước tiếp nhận không chỉ không
cải thiện được tình trạng công nghệ, khả năng xuất khẩu, mà còn phải chịu thêm gánh
nặng nuôi dưỡng và dỡ bỏ những công nghệ "bất cập" này theo kiểu “bỏ thì vương,
thương thì tội”. Ngoài ra, còn phải kể thêm tình trạng phụ thuộc một chiều vào đối tác
nước ngoài về kinh tế - kỹ thuật của nước tiếp nhận dòng đầu tư kiểu ấy gây ra. Do đó,
hiệu quả tiếp nhận vốn đầu tư sẽ không như mong đợi, hoặc không tương xứng với chi
phí của nước chủ nhà bỏ ra, cả về chi phí tài chính, nhân lực và môi trường, tức “một tiền
gà, ba tiền thóc”. Thứ ba, để hấp thụ được 1 USD đầu tư nước ngoài, theo tính toán của
các chuyên gia thế giới, nước tiếp nhận cũng phải có sự bỏ vốn đầu tư đối ứng từ 0,5 - 3
USD, thậm chí nhiều hơn. Thêm nữa, lượng ngoại tệ đổ vào trong nước sẽ làm tăng
lượng cung tiền tệ lẫn lượng cầu hàng hoá và dịch vụ tương ứng. "Hợp lực" của những
yếu tố đó sẽ tạo nên những xung lực lạm phát mới do tính chất "quá nóng" của tăng
trưởng kinh tế gây ra.

- Thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (ĐTGTNN):


Thu hút vốn ĐTGTNN tạo những tác động tích cực, như: Thứ nhất, trực tiếp làm
tăng tổng vốn đầu tư gián tiếp và gián tiếp làm tăng tổng vốn đầu tư trực tiếp của xã hội.
Dòng vốn ĐTGTNN khi đổ vào Việt Nam sẽ trực tiếp làm tăng lượng vốn đầu tư gián
tiếp trên thị trường vốn trong nước như một phép cộng đương nhiên vào tổng số dòng
vốn này. Hơn nữa, khi vốn ĐTGTNN gia tăng sẽ làm phát sinh hệ quả tích cực gia tăng
dây chuyền đến dòng vốn đầu tư gián tiếp trong nước. Nói cách khác, các nhà đầu tư
trong nước sẽ “nhìn gương” các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài và tăng động lực bỏ vốn
CHÍNH SÁCH

đầu tư gián tiếp của mình, kết quả tổng đầu tư gián tiếp xã hội sẽ tăng lên. Hơn nữa, khi
dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài gia tăng sẽ là một bảo đảm và tạo động lực mới hấp
dẫn hơn cho các nhà đầu tư khác mạnh dạn thông qua các quyết định đầu tư trực tiếp mới
của mình, kết quả là gián tiếp góp phần làm tăng đầu tư trực tiếp xã hội từ phía các nhà
đầu tư nước ngoài cũng như trong nước. Thứ hai, góp phần tích cực vào phát triển thị
trường tài chính nói riêng, hoàn thiện các thể chế và cơ chế thị trường nói chung. Việc gia
tăng và phát triển bộ phận thị trường vốn ĐTGTNN sẽ làm cho thị trường tài chính (đặc
biệt là thị trường chứng khoán) Việt Nam trở nên đồng bộ, cân đối và sôi động hơn, khắc
phục được sự thiếu hụt, trống vắng và trầm lắng, thậm chí đơn điệu, kém hấp dẫn kéo dài
của thị trường này trong thời gian qua. Hơn nữa, điều kiện và như là kết quả đi kèm với
sự gia tăng dòng vốn ĐTGTNN này là sự phát triển nở rộ các định chế và dịch vụ tài
chính - chứng khoán, trước hết là các loại quỹ đầu tư, công ty tài chính, và các thể chế tài
chính trung gian khác, cũng như các dịch vụ tư vấn, bổ trợ tư pháp và hỗ trợ kinh doanh,
xác định hệ số tín nhiệm, bảo hiểm, kế toán, kiểm toán và thông tin thị trường; Đồng thời
còn kéo theo sự gia tăng yêu cầu và hiệu quả áp dụng các nguyên tắc cạnh tranh thị
trường, trước hết trên thị trường chứng khoán… Tất cả những điều này trực tiếp và gián
tiếp góp phần phát triển mạnh mẽ hơn các bộ phận và tổng thể thị trường tài chính nói
riêng, các thể chế và cơ chế thị trường nói chung trong nền kinh tế chuyển đổi Việt Nam.
Thứ ba, góp phần tăng cường cơ hội và đa dạng hóa phương thức đầu tư, cải thiện chất
lượng nguồn nhân lực và thu nhập của đông đảo người dân. Việc phát triển thị trường
vốn đầu tư gián tiếp cả về bề rộng và bề sâu sẽ mang lại những cơ hội mới và sự đa dạng
hóa trong lựa chọn các phương thức đầu tư cho các nhà đầu tư tiềm năng nước ngoài và
trong nước. Đông đảo các nhà đầu tư nước ngoài và cả trong nước, từ người dân, các
doanh nhân đến các tổ chức và pháp nhân đầu tư chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp
sẽ có thêm điều kiện lựa chọn sử dụng vốn của mình để đầu tư dưới các hình thức trực
tiếp tự mình hay thông qua các định chế tài chính trung gian để mua - bán các cổ phiếu,
trái phiếu và chứng khoán có giá khác của Việt Nam trên thị trường tài chính Việt Nam
và nước ngoài. Việc đầu tư này sẽ cho phép họ thu nhận được lợi nhuận từ sự chênh lệch
giá cả khi mua - bán chứng khoán, cũng như từ lãi suất và cổ tức các chứng khoán mà họ
sở hữu theo thoả thuận hoặc thực tế kết quả kinh doanh của cơ quan, tổ chức, doanh
nghiệp phát hành chứng khoán đó. Điều này cũng đồng nghĩa với việc cải thiện thu nhập,
mức sống của đông đảo các nhà đầu tư là người dân, tùy theo lượng vốn và kỹ năng đầu
tư chứng khoán mà họ có. Hơn nữa, thông qua quá trình tham gia đầu tư gián tiếp này,
các nhà đầu tư trong nước và người dân sẽ được dịp “cọ xát”, rèn luyện và bồi dưỡng
kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng, bản lĩnh đầu tư, nâng cao trình độ bản thân nói riêng,
chất lượng nguồn nhân lực nói chung, phù hợp yêu cầu và điều kiện kinh doanh thị
trường, hiện đại. Thứ tư, góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước theo
các nguyên tắc và yêu cầu kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Sự gia tăng dòng vốn
CHÍNH SÁCH

ĐTGTNN và phát triển thị trường tài chính sẽ đặt ra những yêu cầu mới và cũng tạo các
công cụ, khả năng mới cho quản lý nhà nước nói chung và quản lý, quản trị doanh nghiệp
nói riêng. Việc quản lý và quản trị doanh nghiệp phát hành chứng khoán sẽ được thực
hiện nghiêm túc, hiệu quả hơn do yêu cầu về báo cáo tài chính doanh nghiệp và minh
bạch hóa, cập nhật hóa thông tin liên quan đến các chứng khoán mà doanh nghiệp đã và
sẽ phát hành. Hơn nữa, về nguyên tắc, các nhà đầu tư chỉ ưa lựa chọn đầu tư vào chứng
khoán của các doanh nghiệp đáng tin cậy, đang và sẽ có triển vọng phát triển tốt trong
tương lai. Chính điều này sẽ cho phép quá trình “chọn lọc nhân tạo”, “bỏ phiếu” cho sự
hỗ trợ và phát triển các doanh nghiệp này trở nên khách quan và phù hợp cơ chế thị
trường hơn (còn những doanh nghiệp khác mà chứng khoán của họ không hấp dẫn sẽ
phải điều chỉnh lại định hướng và chất lượng quản trị kinh doanh, sáp nhập hoặc giải thể).
Hệ thống luật pháp, cũng như các cơ quan, bộ phận và cá nhân trong hệ thống quản lý
nhà nước liên quan đến thị trường tài chính, nhất là đến đầu tư gián tiếp nước ngoài sẽ
phải được hoàn thiện, kiện toàn và nâng cao năng lực hoạt động hơn theo yêu cầu, đặc
điểm của thị trường này, cũng như theo các cam kết hội nhập quốc tế. Đồng thời, thông
qua tác động vào thị trường tài chính, Nhà nước sẽ đa dạng hóa các công cụ và thực hiện
hiệu quả việc quản lý của mình theo các mục tiêu lựa chọn thích hợp. Trên cơ sở đó, năng
lực và hiệu quả quản lý nhà nước đối với nền kinh tế nói chung, thị trường tài chính nói
riêng sẽ được cải thiện hơn.

Mặt khác, dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài cũng có thể gây ra một số tác
động tiêu cực sau: Thứ nhất, làm tăng mức độ nhạy cảm và bất ổn về kinh tế có nhân tố
nước ngoài. Khác với FDI là nguồn vốn đầu tư lâu dài chủ yếu dưới dạng vật chất (xây
dựng nhà máy, mua sắm thiết bị, máy móc, nguyên vật liệu dùng cho sản xuất), khó
chuyển đổi hoặc thanh khoản, vốn ĐTGTNN được thực hiện dưới dạng đầu tư tài chính
thuần túy với các chứng khoán có thể chuyển đổi và mang tính thanh khoản cao trên thị
trường tài chính, nên các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài dễ dàng và nhanh chóng mở
rộng hoặc thu hẹp, thậm chí đột ngột rút vốn đầu tư của mình về nước, hay chuyển sang
đầu tư dưới dạng khác, ở địa phương khác tùy theo kế hoạch và mục tiêu kinh doanh của
mình. Đặc trưng nổi bật này cũng chính là nguyên nhân hàng đầu gây nên nguy cơ tạo và
khuếch đại độ nhạy cảm và chấn động kinh tế ngoại nhập của dòng vốn ĐTGTNN đối
với nền kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư, đặc biệt khi việc chuyển đổi và rút vốn đầu tư
gián tiếp nói trên diễn ra theo kiểu “tháo chạy” đồng loạt trên phạm vi rộng và số lượng
lớn… Cần nhấn mạnh rằng, sự nhạy cảm và bất ổn kinh tế có thể bắt nguồn từ các
nguyên nhân bên trong, cũng có thể hoàn toàn do các nguyên nhân bên ngoài nước tiếp
nhận đầu tư do phản ứng dây chuyền, làn sóng đô-mi-nô của các nhà đầu tư quốc tế như
đã từng diễn ra trong cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á những năm cuối thập
kỷ 90 của thế kỷ trước. Trong tình huống như vậy, một sự đổ vỡ, một cuộc khủng hoảng
CHÍNH SÁCH

đầu tư - tài chính - tiền tệ, lạm phát cao, thậm chí là khủng hoảng kinh tế hết sức tệ hại và
bất khả kháng là hoàn toàn có thể xảy ra đối với nước tiếp nhận đầu tư, nếu không có và
triển khai tốt các phương án phòng ngừa hiệu quả.Thứ hai, làm gia tăng nguy cơ bị mua
lại, sáp nhập, khống chế và lũng đoạn tài chính đối với các doanh nghiệp và tổ chức phát
hành chứng khoán. Sự gia tăng tỷ lệ nắm giữ chứng khoán, nhất là các cổ phiếu, cổ phần
sáng lập, được biểu quyết của các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài đến một mức “vượt
ngưỡng” nhất định nào đó sẽ cho phép họ tham dự trực tiếp vào chi phối và quyết định
các hoạt động sản xuất -kinh doanh và các chủ quyền khác của doanh nghiệp, tổ chức
phát hành chứng khoán, thậm chí lũng đoạn doanh nghiệp theo phương hướng, kế hoạch,
mục tiêu riêng của mình, kể cả các hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp. Điều đó có
nghĩa là, tính chất gián tiếp của vốn đầu tư nước ngoài đã chuyển hóa thành tính trực tiếp.
Nhà đầu tư gián tiếp sẽ chuyển hóa thành nhà đầu tư trực tiếp. Thậm chí, về lô-gích, quá
trình “diễn biến hòa bình” này đạt tới quy mô và mức độ nào đó còn có thể làm chuyển
đổi về chất quyền sở hữu và tính chất kinh tế ban đầu của doanh nghiệp và quốc gia. Thứ
ba, làm tăng quy mô, tính chất và sự cấp thiết đấu tranh với tình trạng tội phạm kinh tế
quốc tế. Đầu tư gián tiếp quốc tế không chỉ làm gia tăng các nguy cơ và tác hại của các
hoạt động đầu cơ, lũng đoạn kinh tế, vi phạm pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư, mà
còn là mảnh đất màu mỡ sinh sôi và phát triển các loại tội phạm kinh tế có yếu tố nước
ngoài, thậm chí xuyên quốc gia, như hoạt động lừa đảo, hoạt động rửa tiền, hoạt động
tiếp vốn cho các kinh doanh phi pháp và hoạt động khủng bố, cùng các loại tội phạm và
các đe dọa an ninh phi truyền thống khác. Sự cộng hưởng của các hoạt động tội phạm và
tác động mặt trái của dòng vốn ĐTGTNN kể trên, nhất là khi chúng diễn ra một cách “có
tổ chức” của giới đầu cơ hay lực lượng thù địch chính trị quốc tế, sẽ ít nhiều, trực tiếp
hay gián tiếp, trước mắt và lâu dài gây tổn hại tới hoạt động kinh tế lành mạnh và làm
tăng tính dễ tổn thương và có thể gây ra lạm phát cao của nền kinh tế nước tiếp nhận đầu
tư trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay; thậm chí trong một số trường hợp, chúng còn
làm mất uy tín Nhà nước và gây sụp đổ một Chính phủ…

6. Tính hai mặt của chính sách thắt chặt hoặc nới lỏng tài chính - tiền tệ

Tăng chi ngân sách là một yếu tố giúp tăng GDP. Tăng thu ngân sách qua tăng
thuế đến chừng mực nào đó, có thể làm tăng GDP, do tạo cơ hội tăng chi ngân sách. Tuy
nhiên, nếu lạm dụng công cụ thuế sẽ làm giảm GDP và tăng lạm phát. Tăng thuế là biện
pháp mà Chính phủ nước chuyển đổi thường áp dụng để bù đắp thiếu hụt ngân sách và
đáp ứng các khoản chi không ngừng tăng do yêu cầu to lớn của chuyển đổi. Tuy nhiên,
những khoản tăng thuế này lại được người kinh doanh chuyển trả vào giá hàng hoá và
dịch vụ do họ cung cấp; do đó, một mặt, làm tăng giá cả thị trường, trực tiếp dẫn tới lạm
phát; mặt khác, làm giảm sức cạnh tranh, giảm sức tiêu thụ trên thị trường trong và ngoài
CHÍNH SÁCH

nước, giảm lợi nhuận, giảm sản xuất - kinh doanh, kết cục giảm nguồn thu ngân sách
tương lai. Vòng luẩn quẩn cứ vậy mà tiếp tục. Ngoài ra còn phải kể đến thực tế là, công
tác thu thuế càng kém hoàn thiện và mức thuế thu càng cao, càng phức tạp thì tình trạng
thất thu thuế càng tăng. Tình trạng nợ đọng thuế của doanh nghiệp quốc doanh với ngân
sách nhà nước, nợ "khoanh", nợ khó đòi, chiếm dụng vốn trái phép giữa các xí nghiệp
quốc doanh với nhau đang trở thành hiện tượng phổ biến trong giai đoạn đầu chuyển đổi
cơ chế và được coi là một dạng trợ cấp "mềm", một biến tướng của trợ cấp tín dụng lãi
suất thấp hoặc bao cấp về vốn trước đây. Tình trạng này không chỉ làm căng thẳng thêm
nguồn thu ngân sách, mà còn làm méo mó các quan hệ kinh tế thị trường, cũng như tạo ra
nguy cơ lạm phát tiềm tàng, bởi những chấn động mạnh của tình trạng đổ vỡ về mất khả
năng thanh toán và vỡ nợ dây chuyền trong tương lai.

Nguồn thu NSNN hạn hẹp, tăng chậm so với nhu cầu chi, mặt khác do yêu cầu
thắt chặt tiền tệ không được phép phát hành bù đắp thiếu hụt ngân sách để chống lạm
phát tiền tệ, đã buộc Chính phủ phải tăng vay nợ trong và ngoài nước hoặc phải cắt giảm
chi, thậm chí "nợ chi", trong đó có cả lương công chức, các khoản chi bảo đảm xã hội và
chi đầu tư phát triển. Những giải pháp buộc phải lựa chọn này đều ít nhiều bao hàm
trong nó sự đồng nghĩa với tích tụ và làm tăng thêm những thế năng lạm phát trong tương
lai, mà hiện tại được báo trước bằng sự thu hẹp cầu, giảm sức mua thị trường trong nước,
sự trì trệ trong đầu tư đang trực tiếp dẫn đến suy thoái kinh tế và sự gia tăng bất ổn xã
hội.

Yêu cầu thắt chặt tiền tệ, thắt chặt tín dụng, chống lạm phát còn đòi hỏi phải
khống chế hạn mức tín dụng và dự trữ của các ngân hàng thương mại. Điều này khiến các
ngân hàng vừa buộc phải từ chối huy động tiền, hoặc đánh tụt lãi suất huy động trên thị
trường xã hội, vừa phải nâng lãi suất cho vay để bảo đảm mức doanh lợi của mình. Hơn
nữa trong điều kiện chưa phát triển các định chế tài chính phi ngân hàng để bổ sung các
kênh truyền vốn cho nền kinh tế - xã hội, và chưa hoàn thiện các khuyến khích đầu tư
trong và ngoài nước, thì tình trạng nêu trên sẽ làm gia tăng “cơn khát vốn đầu tư xã hội”,
nhất là những nhu cầu vốn lớn để chuyển đổi cơ cấu và phát triển hạ tầng. Trạng thái
“khát vốn” này diễn ra như một nghịch lý: con bệnh chịu khát trong khi ngồi bên dòng
suối bị tù hãm, che khuất. Việc thiếu sự khai thông các nguồn đầu tư xã hội cho phát
triển (cả vốn trong nước và vốn bên ngoài đổ vào) bù đắp những ảnh hưởng của chính
sách tiền tệ thắt chặt sẽ tạo ra tình cảnh một nền kinh tế vừa lạm phát do khan hiếm, vừa
đình trệ, hoặc một xã hội tiêu dùng sớm, lãng phí các nguồn lực, nhất là các nguồn lực
trong nước. Điều đó có nghĩa là cội nguồn của lạm phát tương lai vẫn chưa được triệt bỏ.
Thành thử, "thắt chặt" hay "nới lỏng" chính sách tài chính tiền tệ - tín dụng đến đâu, là
tuỳ tình hình và mục tiêu chiến lược cũng như giải pháp tình thế cụ thể, song tốt nhất là
CHÍNH SÁCH

không tạo ra kích thích tăng trưởng kinh tế “quá nóng" hoặc “làm lạnh” và kìm hãm sự
phát triển nền kinh tế dưới mức tiềm năng. Kiểm soát lạm phát và duy trì hệ thống tài
chính lành mạnh phải là mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ và tài chính quốc gia.
Kinh nghiệm thực tế cho thấy, quốc gia nào có ngân hàng trung ương càng chủ động và
độc lập thực hiện nhiệm vụ cơ bản là giữ ổn định giá trị đồng tiền, thì lạm phát ở đó càng
thấp (do hạn chế được những chi phối của giới chính trị vì các mục tiêu ngắn hạn, thậm
chí có tính phe phái, vụ lợi v.v..).

7. Tính hai mặt của các chính sách xã hội

Tự do hoá giá cả tất yếu đưa đến nhu cầu phải tiền tệ hoá thu nhập cá nhân, tức
làm gia tăng đột ngột lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong những năm đầu ở các nền
kinh tế chuyển đổi. Tuy nhiên, tác động này có tính ngắn hạn hơn đến sự biến động mặt
bằng giá cả xã hội so với tác động của xu hướng tốc độ tăng lương vượt tốc độ tăng năng
suất lao động. Cả hai nhân tố này làm xuất hiện đồng thời những xung lực của lạm phát
cầu kéo lẫn lạm phát chi phí đẩy. Tăng lương làm tăng chi phí sản xuất, làm tăng giá
thành, do đó, tăng giá bán ra của sản phẩm; tức tăng lạm phát. Đến lượt mình, lạm phát
gây sức ép phải tăng lương tiếp nhằm "giữ mức sống thực tế"; tạo ra vòng xoáy "tăng
lương - tăng giá hàng - tăng lương"... Hơn nữa, do còn tồn tại sự độc quyền kinh tế ở mức
nhất định, nhất là độc quyền của Nhà nước, nên tồn tại những mức lương “độc quyền”
cao ở những ngành, những doanh nghiệp "béo bở". Sự cạnh tranh, ganh đua theo mức
lương này nhằm duy trì quyền lợi của mình giữa các nhóm xã hội trong khu vực kinh tế
nhà nước (có lan toả sang cả các khu vực khác) cũng hình thành một vòng xoáy "lương-
lương" vừa khá độc lập, vừa tác động cùng chiều với vòng xoáy "tăng lương - tăng giá
hàng - tăng lương" đến việc làm tăng lạm phát nêu trên. Ngoài ra, việc tăng lương và giải
phóng các thu nhập cá nhân không chỉ dễ làm tăng khuynh hướng đòi tiếp tục tăng lương,
tăng giá hàng "phòng xa", khuynh hướng tăng tiêu dùng nhanh hơn tích luỹ, khuynh
hướng tích trữ đầu cơ hàng hoá... làm căng thẳng cân đối cung - cầu; mà còn tất yếu đưa
tới sự phân cực xã hội thành những nhóm người giàu hơn và nghèo hơn. Nếu như chủ
nghĩa bình quân triệt tiêu mất động lực phát triển mạnh mẽ của xã hội đi bao nhiêu, thì sự
phân cực, bất bình đẳng xã hội lại tạo ra xung lực gây biến động chính trị - xã hội mạnh
bấy nhiêu. Rõ ràng cả hai sự thái quá này đều bất cập.

Vì những lý do trên, điều cần thiết là trong khi giải phóng hầu hết giá cả theo cơ
chế thị trường, Nhà nước vẫn cần duy trì sự kiểm soát mức gia tăng các thu nhập cá nhân
bằng chính sách lương tối thiểu và thuế thu nhập luỹ tiến. Chính sách thu nhập, về mặt xã
hội, phải bảo đảm mức tăng thu nhập thấp hơn mức tăng sản xuất và bảo đảm cho tình
đoàn kết xã hội, bảo đảm sự phân phối tuyến tính các thu nhập cá nhân theo lao động,
CHÍNH SÁCH

cho phép tăng sự phân hoá xã hội có mục tiêu rõ rệt, nhưng không làm mất đi nguồn gốc
và động lực lao động của các thu nhập ấy. Ngoài ra, chính sách kiểm soát thu nhập cần
được kết hợp có tổ chức với chính sách Nhà nước nhất quán bảo vệ người lao động, bảo
vệ người tiêu dùng và với việc phá vỡ sự ám ảnh của "bóng ma lạm phát" trong tâm lý xã
hội. Đồng thời, chính sách thu nhập còn phải đạt được mục tiêu làm giảm chi phí sản
xuất, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, của nền kinh tế, kích thích nâng cao năng suất và
hiệu quả sản xuất - kinh doanh của mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp, cũng như của toàn bộ
nền kinh tế - xã hội. Một chính sách thu nhập - xã hội (cũng như các chính sách tài chính
và quản lý kinh tế vĩ mô khác của Chính phủ) nếu không thúc đẩy việc sắp xếp lao động
hợp lý, giải quyết tốt lượng lao động dôi dư và chờ việc cả trong khu vực kinh tế và quản
lý nhà nước, lẫn trong nền kinh tế nói chung, là đồng nghĩa với việc lãng phí các nguồn
lực xã hội, tăng chi phí sản xuất và tích tụ những xung lực lạm phát mạnh mẽ cho tương
lai, thậm chí đe doạ làm hỏng cả tiến trình cải cách kinh tế thị trường của đất nước.

8. Tính hai mặt của quản lý nhà nước

Thực tế đã cho thấy sự phá sản của mô hình kinh tế chỉ huy, duy ý chí. Thực tế
cũng chưa cho thấy sự tồn tại và thành công của bất kỳ mô hình kinh tế thị trường thuần
khiết nào. Vừa tôn trọng "bàn tay vô hình" của thị trường, vừa coi trọng vai trò điều
chỉnh của Nhà nước pháp quyền mạnh, đang và sẽ vẫn là nguyên tắc nền tảng cho sự vận
hành của bất kỳ nền kinh tế thị trường nào trên thế giới, cũng như của bất kỳ sự thành
công nào trong cuộc đấu tranh với lạm phát trong nền kinh tế hiện đại. Điều cần nhấn
mạnh ở đây là, luật pháp không phải là sản phẩm của những ước muốn chủ quan, tuỳ tiện
hay phản ánh ý chí của một cá nhân, tập thể độc quyền nào, mà phải là những giá trị xã
hội phản ánh các quy luật phát triển khách quan của đời sống kinh tế - xã hội trong nước
và quốc tế. Hệ thống luật pháp phải được thiết kế tốt, đồng bộ, đầy đủ, rõ ràng, đơn giản,
ổn định và có hiệu lực thống nhất trên toàn quốc. Tính hiệu quả của luật pháp và của điều
tiết nhà nước phải được thực tiễn kiểm nghiệm và được đánh giá bằng sự vận động cân
đối và hiệu quả của các cặp quan hệ cân đối vĩ mô, mà quan trọng nhất là cặp cân đối
Hàng - Tiền trong đời sống kinh tế - xã hội. Nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của
Nhà nước đòi hỏi Nhà nước chỉ nên đưa ra những quyết định nhằm phá vỡ các lực cản
ảnh hưởng tới khả năng "tự điều chỉnh", hoặc điều chỉnh những hành vi thái quá của thị
trường. Ngược lại, nếu Nhà nước sa lầy trong việc soạn thảo và đưa ra hàng loạt các
quyết định điều chỉnh với sự ngộ nhận rằng chúng là hết sức cần thiết cho thực tiễn, thì
rất có thể nó đang mắc phải những cạm bẫy lạm phát nguy hiểm, và có thể đưa nền kinh
tế lâm vào tình trạng mà Chính phủ không mong muốn, thậm chí ngược lại với mục tiêu
của chính sách điều chỉnh do nó đề ra (nhất là khi những phản ứng của các đối tượng điều
chỉnh diễn ra không theo lô-gích"chuẩn mực" như ở các nền kinh tế thị trường phát triển
CHÍNH SÁCH

và chúng lại không được cân nhắc đầy đủ trong quá trình soạn thảo và thực thi chính sách
của Nhà nước).

Trong những nền kinh tế chuyển đổi, sự nghiệp cải cách chưa hề có tiền lệ lịch
sử. Quá trình này là những bước thử nghiệm, thậm chí khá mò mẫm cả về lý thuyết lẫn
thực tiễn. Do đó, hệ thống luật pháp cũng phải là một quá trình bổ sung, điều chỉnh để
hoàn thiện không ngừng, để thích ứng với bối cảnh và trình độ phát triển mới của nền
kinh tế, của nhận thức và năng lực hành vi của các chủ thể kinh tế, của người quản lý lẫn
của các đối tượng quản lý mà luật pháp hướng tới. Song, cũng không thể lấy đó để gây
“sốc về luật pháp”, cũng như để trì hoãn hay kéo dài quá trình xoá bỏ các khoảng trống,
kẽ hở và bất cập của luật pháp - mảnh đất màu mỡ làm phát sinh và nuôi dưỡng tệ nạn
tham nhũng với tất cả những tác hại tiêu cực nguy hiểm của chúng đối với đời sống kinh
tế - xã hội nói chung, đến kiềm chế lạm phát nói riêng. Một mặt, sự lạm dụng "liệu pháp
sốc" (trong đó có sốc về luật pháp tức sự thay đổi quá nhanh, quá mạnh hệ thống luật)
không được chuẩn bị về thời gian và không đồng bộ trong cải cách chuyển đổi sẽ làm xáo
trộn, đổ vỡ mạnh mẽ và gây ra những tổn thất to lớn về kinh tế - xã hội. Điều này là rõ
ràng trong thực tiễn những năm 90 ở các nước Trung và Đông Âu và được giải thích bởi
lý do khách quan: sức ỳ và quán tính vốn là bản chất của hình thái ý thức xã hội; người ta
không thể bỗng chốc thay đổi toàn bộ tư duy, ý thức, tâm lý, thói quen và lòng tin của
một con người - huống chi đây lại là một Chính phủ, một dân tộc, một quốc gia - chỉ "sau
một đêm" và bằng một sắc lệnh hành chính, duy ý chí. Ngay cả khi người ta có thể tạo ra
được lập tức sự đồng thuận cao và rộng rãi trong nước đi chăng nữa, cũng không thể nào
một sớm một chiều người ta có thể thu nhận, tạo ra được các kỹ năng và cơ sở vật chất
cần thiết để thực hiện các hoạt động kinh tế - xã hội đầy phức tạp (vì không bao giờ phụ
thuộc một chiều vào nhận thức, ý muốn và hành vi của một cá nhân hay nhóm người nào)
trên một cơ sở và nguyên tắc hoàn toàn mới nếu không nói là đối lập với cái cũ. Sự phức
tạp còn lớn hơn khi người ta phải tự vượt qua chính mình; một Chính phủ đương nhiệm
thay thế cho các Chính phủ tiền nhiệm thời kinh tế tập trung không thể là các nhân vật
hoàn toàn mới. Việc dập y nguyên các mô hình và kinh nghiệm phát triển kinh tế bên
ngoài - mà chúng có lịch sử phát triển hàng trăm năm trên một nền tảng vật chất xã hội cụ
thể - vào một nước chuyển đổi dễ khiến cho quá trình chuyển đổi tuột khỏi tầm kiểm soát
vĩ mô của Chính phủ. Tổn thất kinh tế - xã hội càng lớn hơn khi tồn tại kéo dài những
xung đột tư tưởng và tranh chấp quyền lực của những nhóm, phe phái chính trị ích kỷ hay
cơ hội, cực đoan. Không những thế, việc liên tục thay đổi hệ thống luật pháp còn tạo ra
mất ổn định, mất lòng tin, tăng thêm tâm lý ưu tiên cho những mục tiêu và lợi ích kinh
doanh ngắn hạn, có tính chụp giật. Trong bối cảnh đó, quá trình lạm phát sẽ được tăng
cường thêm bởi những xung lực mới, có tính chất phi kinh tế, phi truyền thống, phi cổ
điển. Mặt khác, một sự trì hoãn cải cách hoặc chỉ thực hiện cải cách hình thức, thiếu đồng
CHÍNH SÁCH

bộ, cả trong thực tiễn lẫn trong luật pháp điều hành vĩ mô của Nhà nước cùng với tệ nạn
tham nhũng, sẽ làm giảm sút và mất lòng tin vào công cuộc chuyển đổi, vào Chính phủ,
làm tăng sự rối loạn xã hội và tình đoàn kết quốc gia, làm nản lòng các nhà đầu tư trong
và ngoài nước, làm giảm sút hiệu quả sử dụng, làm thất thoát và chệch hướng các nguồn
lực vật chất cần thiết cho phát triển kinh tế. Khi đó, không chỉ khó kiềm chế được vững
chắc lạm phát mà còn làm cho tác hại của lạm phát trở nên nặng nề và kéo dài hơn. Bởi
vậy, chống tham nhũng và nâng cao năng lực quản lý đất nước của Chính phủ bằng pháp
luật trên cơ sở những yêu cầu của cơ chế thị trường, phải được đặt ra như một bộ phận
hợp thành trọng yếu của hệ thống chính sách chống lạm phát trong nền kinh tế chuyển
đổi. Đến lượt mình, để đạt được hiệu quả tốt, chống tham nhũng và nâng cao năng lực
quản lý đất nước của Chính phủ cần phải được tiến hành "từ trên xuống" chứ không phải
làm một cách hình thức, và trước hết bắt đầu từ việc hoàn thiện cơ chế tổ chức và quản
lý, từ hệ thống luật pháp và nguyên tắc tuân thủ pháp luật là tối thượng trong đời sống
kinh tế - xã hội; cần xúc tiến đào tạo lại, chuẩn hoá và nâng cao nghiệp vụ cho công chức
Chính phủ, tạo ra cơ chế thu hút người tài vào những vị trí chủ chốt của Chính phủ và đãi
ngộ họ xứng đáng; và cần phát triển hệ thống thông tin, báo chí, kiểm toán, kế toán; xây
dựng hệ thống tư pháp mạnh hoạt động độc lập chỉ tuân theo Hiến pháp và pháp luật,
đồng thời bản thân cán bộ tư pháp cũng cần được bảo vệ. Giảm bớt các cơ hội, động cơ
và trừng trị kịp thời, nghiêm khắc bất kỳ hành vi phạm pháp và tham nhũng nào của bất
cứ cá nhân và tập thể nào là một bảo đảm thường xuyên cho tính hiệu quả của tất cả
những điều trên./.

--------

* TS. Trưởng phòng Nghiên cứu kinh tế, Viện nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT

Bảo vệ quyền của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay

Đinh Ngọc Vượng*


Bên cạnh quan hệ giữa các nhà sản xuất với nhau, quan hệ kinh tế chủ yếu trong
xã hội là quan hệ giữa người tiêu dùng (NTD) và nhà sản xuất, kinh doanh, phân phối
hàng hoá, dịch vụ. Tuy là số đông, nhưng NTD không được tổ chức lại nên họ khó có sức
mạnh, tiếng nói đơn lẻ của họ cũng rất ít được lắng nghe. So với những nhà sản xuất,
những nhà chuyên môn, thì ở những lĩnh vực nhất định, NTD kém hiểu biết hơn. Bởi vậy,
trong mối quan hệ giữa họ với các nhà sản xuất kinh doanh, NTD luôn đứng ở thế yếu và
chịu nhiều thiệt thòi. Có người nói rằng, quyền của NTD Việt Nam hiện nay được bảo vệ
kém nhất trên thế giới. Nói như vậy có phần chua xót nhưng lại phản ánh đúng hiện
trạng.

1. Thực trạng vấn đề bảo vệ quyền của NTD


1.1 Từ góc độ pháp luật và trách nhiệm các cơ quan nhà nước

Nghị quyết số A/RES/39/248 ngày 16 tháng 4 năm 1985 của Đ ại hội đồng Liên
Hợp Quốc đã đưa ra các nguyên tắc bảo vệ NTD, đó là: a) Bảo vệ an toàn cho NTD,
không làm tổn hại sức khỏe NTD; b) Khuyến khích và bảo vệ lợi ích kinh tế của NTD;
c) NTD có quyền tiếp cận thông tin để có sự lựa chọn có ý thức phù hợp với nhu cầu cá
nhân; d) Giáo dục NTD; đ) Quy định thủ tục có hiệu quả cho việc giải quyết khiếu nại
của NTD; e) NTD tự do lập tổ chức, nhóm và các tổ chức đó có quyền bày tỏ quan điểm
của mình trong quá trình thông qua các quyết định liên quan đến lợi ích của NTD.

Chúng tôi cho rằng, các nguyên tắc bảo vệ NTD theo Nghị quyết số A/RES/39/248
nói trên của Đại hội đồng Liên hợp quốc hầu như đã được quy định khá đầy đủ trong các
văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam. Điều 28 của Hiến pháp năm 1992 quy định:
"Mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh bất hợp pháp, mọi hành vi phá hoại nền kinh tế
quốc dân làm thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể
và của công dân đều bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật. Nhà nước có chính sách bảo
hộ quyền lợi của người sản xuất và NTD". Từ khi Đ ảng và Nhà nước ta thực hiện chính
sách đổi mới Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đến việc bảo vệ
NTD, trong đó quan trọng nhất là Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi NTD năm 1999 và Nghị
định số 69/2001/CP năm 2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh bảo vệ
quyền lợi NTD. Ngoài ra, liên quan đến chất lượng sản phẩm, Nhà nước quản lý bằng
Pháp lệnh chất lượng hàng hoá . Các cơ quan quản lý nhà nước và bảo vệ pháp luật như
Bộ Thương mại, Bộ C ông an, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài chính đã phối hợp ra
Thông tư liên tịch số 10/2000/TTLT, ngày 27-04-2000 nhằm chống lại các hoạt động
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT

làm, buôn bán, vận chuyển, tiêu thụ hàng giả, góp phần quan trọng bảo vệ quyền lợi của
NTD nước ta...

Theo quy định của pháp luật, các quyền của NTD không chỉ được Nhà nước bảo vệ
mà còn nhận được sự bảo vệ từ các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh khi họ phải
thực hiện các quy định của pháp luật. Các quyền của NTD còn được các tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị vũ trang
nhân dân và mọi cá nhân (trong đó có bản thân NTD) đều có trách nhiệm tham gia bảo
vệ. ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong phạm
vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình cũng có trách nhiệm tuyên truyền, giáo dục, động viên
nhân dân tham gia các hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD và thi hành pháp luật về bảo vệ
quyền lợi NTD. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NTD là trách nhiệm chung của
toàn xã hội.

Trên thực tế, các cơ quan chức năng đã có những cố gắng nhất định trong việc bảo
vệ NTD. Chẳng hạn, mới đây, trước Tết Mậu Tý, tháng giáp Tết, các cơ quan chức năng
đã phát hiện nhiều trường hợp tiêu thụ hàng giả trong đó có rượu ngoại, thuốc lá... Trong
tháng giáp Tết, ngành hải quan đã kiểm tra, bắt giữ 1.355 vụ, trị giá 24 tỷ 358 triệu đồng.
Trong đó, buôn lậu, vận chuyển trái phép 188 vụ, gian lận thương mại 56 vụ...

Mặc dù đã có những cố gắng nhất định về lập pháp và thực thi các quy định nhằm
bảo vệ NTD nhưng nhìn chung, quyền của NTD Việt Nam vẫn đã và đang bị xâm hại
nghiêm trọng. Những vụ việc gần đây như các vụ xăng chứa aceton gây hỏng động cơ
gắn máy, nước tương chứa chất 3-MPCD gây ung thư, sữa đóng hộp không đúng trọng
lượng, ghi nhãn sai đối với sữa tươi nhằm lừa dối NTD, ghi nhãn mác là nước mắn cá hồi
Bắc Âu sau phải cải chính lại hương cá hồi, vấn đề rau xanh, an toàn thực phẩm, hàng
giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, việc gian dối taximét của các hãng taxi, chất lượng
dịch vụ viễn thông... đã và đang gây ra nhiều bức xúc trong cộng đồng xã hội. Cùng với
sự phát triển của công nghệ thông tin, trên thị trường cũng đang xuất hiện nhiều phương
thức kinh doanh mới như bán hàng qua mạng, qua điện thoạigiao dịch điện tử để đặt mua
hàng hoá, dịch vụ từ một nước khác cũng đang phát triển. Những phương tiện giao dịch
hiện đại tạo sự thuận tiện cho các bên nhưng bên cạnh những tiện ích thì đây cũng là môi
trường làm phát sinh những hành vi vi phạm quyền lợi NTD ngày một tinh vi và phức tạp
hơn.

Quyền của NTD ở nước ta còn bị xâm hại từ chính hoạt động của các cơ quan Nhà
nước. Khẩu hiệu được các cơ quan này đưa ra thường là Hãy trở thành NTD thông thái.
Theo chúng tôi, khẩu hiệu này chỉ đúng một phần rất nhỏ. NTD thông thái có nghĩa là
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT

phải bảo đảm vệ sinh trước khi ăn, phải ăn chín, uống sôi chứ không ai thông thái đến
mức biết được nước tương có chứa chất gây ung thư hay không, không ai thông thái đến
mức phân biệt giữa hàng thật và hàng giả khi thấy chúng y chang như nhau, không ai
thông thái đến mức nhìn vào cây xăng biết ngay là xăng có pha aceton, không ai thông
thái đến mức dùng nước tương phát hiện nay ra trong đó có chất 3-MPCD gây ung thư.
Vậy ai phải giúp NTD? Đó chính là các cơ quan có chức năng của Nhà nước. Các cơ
quan này có trình độ, có phương tiện và có nguồn tài chính để giúp NTD trong toàn xã
hội. Cơ quan nhà nước chuyên trách đương nhiên phải thông thái hơn NTD. Nhưng một
câu hỏi đặt ra: tại sao NTD cứ bi thiệt hại trước, thấy được hậu quả thì sau đó cơ quan
Nhà nước mới nhảy vào cuộc? Ngay nước tương có chất gây ung thư, NTD đã dùng
nhiều năm qua và sự việc bị phát hiện lại xuất phát từ một nước châu Âu. Không hiếm
trường hợp NTD không biết lựa chọn hàng hóa để mua khi thứ hàng hóa đó phải dùng bắt
buộc vì quy định của pháp luật nhưng cơ quan chức năng lại thả nổi thị trường, thậm chí
còn không minh bạch các sản phẩm kém chất lượng vì biết đâu doanh nghiệp sẽ sản xuất
ra hàng hóa đạt tiêu chuẩn.

Xin nêu ví dụ về việc lưu thông và sử dụng mũ bảo hiểm xe máy kém chất lượng
thời gian qua. Phải nói rằng, các cơ quan chức năng đã phản ứng quá chậm và kém, gây
thiệt hại cho NTD, thậm chí thiệt hại có thể trả giá bằng tính mạng. Một người mua phải
mũ bảo hiểm rớm, bị tai nạn và bị chấn thương sọ não thì kiện ai? nhà sản xuất thì biệt vô
âm tín, chẳng biệt họ là ai, ở đâu. Câu hỏi đặt ra: Có thể khiếu nại và đòi cơ quan quản lý
nhà nước bồi thường thiệt hai? Đúng ra là NTD có quyền này vì khi mua mũ, không ai có
thể thông thái mà biết chất lượng của mũ bảo hiểm, vẫn để thị trường bán những loại mũ
đó thì trách nhiệm cuối cùng vẫn thuộc về cơ quan quản lý thị trường. Cơ quan quản lý
nhà nước cần phải tính toán, dự báo để NTD không bị thiệt hại khi thực hiện đúng quy
định của pháp luật. Chúng ta vui mừng thấy việc đội mũ bảo hiểm được chấp hành
nghiêm túc, hầu như 100% người đi xe gắn máy đã đội mũ bảo hiểm. Nhưng bên cạnh
thành tích ấy có biết bao điều cần phải bàn. Các cơ quan chức năng đã làm gì để người
dân đội mũ bảo hiểm thực sự được bảo hiểm khi chúng ta vào cuộc rất chậm trong việc
công bố các loại mũ được coi là hợp chuẩn khi rất nhiều người đã mua mũ rởm để đối
phó với ngày lịch sử 15 tháng 12 năm 2007.

Một ví dụ tiếp về vệ sinh an toàn thực phẩm. Thời gian qua, người ta thường thấy
ông Giám đốc sở ở một địa phương thường xuyên đi kiểm tra các mặt hành thực phẩm
trong các chợ, các siêu thị trên địa bàn mình có trách nhiệm quản lý (Thậm chí vị giám
đốc này còn tuyên bố sẽ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với NTD khi vẫn ăn các thức
ăn được khuyến cáo gây dịch bệnh). Có thể đó là việc làm tốt, được nhân dân hoan
nghênh nhưng suy cho cùng thì không nên như vậy. Ông Giám đốc sở làm sao kiểm tra
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT

hết được, ông phải có bộ máy giúp việc, có chuyên môn, trình độ để thường xuyên làm
việc này.

Một ví dụ nữa về vấn đề thuốc tăng trưởng rau củ cũng là vấn đề gây nhiều hoài
nghi. Đài truyền hình trung ương có phóng sự rau quả củ lớn nhanh như thổi sau 3 ngày.
Cơ quan chức năng làm thí nghiệm phủ định tin này và nói đó là thông tin đồn thổi.
Người ta công bố rằng không có loại thần dược nào kích thích sự tăng trưởng cực nhanh
của cây rau chỉ trong 2-3 ngày. Điều này phần nào đã trấn an NTD trước hàng loạt thông
tin dồn dập về loại thuốc không có nguồn gốc có tác dụng tăng trưởng đột biến, khiến
hàng loạt cây rau, củ lớn nhanh vùn vụt. Cho đến nay chưa có đối chất giữa người làm
phóng sự truyền hình và Chi cục bảo vệ thực vật Hà Nội. Và thí nghiệm của Chi cục bảo
vệ thực vật Hà Nội tiến hành trước Tết để sau Tết mới công bố kết quả. Vậy cơ quan
chức năng đã trấn an NTD hay làm cho NTD tin như vậy và vẫn tiếp tục sử dụng các loại
rau củ độc hại này này? Và nếu đúng như vậy thì cần có biện pháp xử lý những người
làm phóng sự truyền hình đã đưa tin đồn thổi như chúng ta đã kiên quyết xử lý vụ đưa tin
không đúng về trái bưởi có chất gây ung thư làm thiệt hại cho người trồng bưởi. Và nếu
dùng biện pháp an dân trong trường hợp này sẽ là nguy hiểm.

Các cơ quan chức năng của chúng ta thường cảnh báo rằng hiện nay có nhiều loại
thuốc bảo vệ thực vật đang được bán tràn lan trên thị trường, không thể quản lý xuể.
Trong khi đó nhiều hộ trồng rau vẫn chưa tuân thủ chế độ, thời gian tưới, bón đối với rau
xanh khiến dư lượng thuốc bảo vệ thực vậtở trong rau vẫn còn khá cao. Trong khi đó, lực
lượng quản lý, kiểm tra quá mỏng nên chất lượng an toàn của rau quả phần lớn vẫn trông
đợi vào lương tâm của người sản xuất. Và thêm nữa là kêu gọi NTD hãy trở thành NTD
thông thái. Nếu tất cả những người sản xuất đều có lương tâm và mọi NTD đều thông
thái chắc có lẽ không cần phải có các cơ quan chức năng này nữa.

1.2 Từ góc độ NTD

Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi NTD năm 1999 quy định NTD có quyền khiếu nại đối
với hàng hóa và dịch vụ với những quy định với những nội dung quan trọngsau: i) NTD
trực tiếp hoặc thông qua đại diện của mình để thực hiện việc khiếu nại, yêu cầu bồi hoàn,
bồi thường. Ii) Việc khiếu nại được giải quyết theo nguyên tắc hòa giải, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác. Nếu không hòa giải được, NTD có quyền khiếu nại hoặc
khởi kiện theo quy định của pháp luật. iii) NTD trực tiếp hoặc thông qua đại diện của
mình tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD.

Về phương thức trực tiếp khiếu nại: Thực tế cho thấy NTD thấp cổ, bé họng nên ít
trường hợp khiếu nại vì nghĩ rằng có khiếu nại cũng không được giải quyết. Với rất nhiều
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT

hành vi xâm hại đến quyền lợi của mình nhưng thực tế có tới 97% khách hàng không
khiếu nại về những điều mình không hài lòng, bởi tâm lý ngại va chạm hay mất thời gian
cho các thủ tục hành chính giải quyết khiếu kiện.

Về phương thức khiếu nại thông qua đại diện: Hiệp hội NTD các cấp từ trung ương
xuống địa phương đã được thành lập. Ở cấp trung ương, Hội khoa học kỹ thuật về tiêu
chuẩn hoá, đo lường, chất lượng và bảo vệ quyền lợi NTD Việt Nam tháng 5-1988, đã
thành lập, gọi tắt là Hội tiêu chuẩn và bảo vệ NTD Việt Nam (VINASTAS), là thành viên
của Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) đồng thời là thành viên
của Tổ chức quốc tế NTD (CI). Ở các địa phương, trên cả nước đã có 14 tỉnh và thành
phố có tổ chức NTD. Tổ chức bảo vệ quyền lợi NTD là tổ chức xã hội được thành lập
trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, không phân biệt thành phần kinh tế, dân tộc, tôn giáo,
tín ngưỡng, trình độ, nghề nghiệp; là tổ chức đại diện để bảo vệ quyền lợi NTD theo quy
định của pháp luật. Đ ây là các tổ chức phi chính phủ, mang tính xã hội hoá cao. Các tổ
chức này đã tích cực đẩy mạnh các hoạt động tiêu chuẩn hoá, đo lường chất lượng và bảo
vệ NTD trong cả nước.

Tuy nhiên cũng phải thấy một thực tế là: các tổ chức hội bảo vệ NTD có thực sự là
hội theo đúng nghĩa hay không? Hội bao giờ cũng là tổ chức tự nguyện của các hội viên.
Rất khó có thể có hội bảo vệ NTD do chính những NTD lập ra một cách tự nguyện vì
NTD là tất cả chúng ta và cũng rất khó tập hợp NTD thành các hội. Các cấp hội bảo vệ
NTD được thành lập do nhu cầu của cơ cấu, cơ chế nên không đủ mạnh để bảo vệ NTD.
Thật khó lý giải cho hiện tượng khá nhiều NTD không biết đến sự tồn tại của các hội bảo
vệ NTD chứ chưa nói đến họ có thể trở thành hội viên của các hội này. Hội cũng chẳng
có quyền lực gì, Hội có khiếu nại mà nhà sản xuất, cung ứng dịch vụ không giải quyết
cũng đành chịu. Một trong những nguyên nhân chính khiến nhiều lúc Hội hoạt động kém
hiệu quả là Hội thiếu kinh phí hoạt động. Hoạt động khiếu nại chưa thu phí nên không có
tiền trả lương cho nhân viên tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, không có tiền chi cho
quảng bá hoạt động của Hội và càng không thu hút được người trẻ tuổi, có năng lực làm
việc cho Hội

Từ đó, có thể thấy là hầu hết NTD vẫn chưa (hoặc chưa được) sử dụng quyền của
mình một cách hiệu quả. Rất nhiều người chấp nhận chấp nhận thiệt thòi khi mua phải
hàng rởm và tự rút ra bài học không bao giờ mua hàng đó nữa. Nhưng người khác vẫn cứ
mua và lại tiếp tục rút kinh nghiệm. Mọi người cứ rút kinh nghiệm âm thầm còn nhà sản
xuất cứ thu bộn tiền. Tâm lý chung là sản phẩm chẳng đáng là bao mà khiếu nại thì tốn
thời gian và tiền bạc mà chưa chắc đã thu được gì. Còn, khi bị thiệt hại NTD khiếu nại
về hàng hóa và dịch vụ thì việc giải quyết của doanh nghiệp được đến đâu hay đến đó và
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT

họ không giải quyết thì cho dù hội bảo vệ NTD có can thiệp cũng đành chịu. Theo điều
tra của Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ NTD Việt Nam, thực tế những khách hàng khiếu nại
nhận được sự tiếp thu nghiêm túc của doanh nghiệp chỉ chiếm khoảng 21%, còn 30%
không nhận được phản ứng gì, 33% tỏ thái độ khó chịu, thậm chí còn nhận được phản
ứng khiếm nhã (4%). Khi mua phải hàng giả, hàng kém chất lượng trôi nổi trên thị trường
thì không thể nói tới việc khiếu nại. Khi NTD mua phải hàng kém chất lượng của doanh
nghiệp thì việc khiếu nại cũng không đơn giản vì thủ tục giám định.

Như vậy, có thể khái quát: hầu như NTD Việt Nam đã và đang phải đối mặt với
thực tế là đa số hàng hóa và dịch vụ đều có vấn đề xâm hại quyền của NTD và việc bảo
vệ NTD từ phía các cơ quan quản lý nhà nước cũng như từ phía NTD, tổ chức đại diện
cho NTD là chưa có hiệu quả.

3. Kiến nghị

Trước thực trạng quyền của NTD Việt Nam đang bị xâm hại, trước sự phản ứng
chậm và kém hiệu quả của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc bảo vệ NTD, chúng
tôi có một số kiến nghị sau.

1. Tăng cường thông tin cho NTD về hàng giả, hàng nhái, về các doanh nghiệp làm
ăn chộp giật. Thông tin phải kịp thời, đầy đủ. Xây dựng website về hàng giả, hàng nhái,
hàng kém phẩm chất, danh sách đen các doanh nghiệp lừa dối khách hàng để mọi người
biết rõ khi mua hàng hóa và sử dụng dịch vụ của các doanh nghiệp.

2. Các cơ quan chức năng thường xuyên họp báo, cung cấp thông tin cho báo chí.
VINASTAS cần chủ động, thường xuyên tổ chức các hội thảo, các cuộc toạ đàm, hội
nghị bàn tròn, các buổi gặp gỡ trao đổi ý kiến về những vấn đề cần quan tâm xung quanh
quyền của NTD và bảo vệ quyền lợi của NTD

3. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ NTD, trước hết cần
sớm ban hành Luật bảo vệ NTD. Đ ây là một bất cập, cần được nhanh chóng khắc phục.
Chỉ khi có luật và trên cơ sở đó có các văn bản dưới luật, các văn bản pháp quy khác để
điều chỉnh thì các cơ quan thực thi pháp luật mới có cơ sở triển khai thực hiện, sức mạnh
của bộ máy chính trị mới phát huy tác dụng.

4. Các cơ quan có chức năng cần phối hợp chặt chẽ trong việc kiểm tra, kiểm soát
tại biên giới đối với hàng hóa nhập khẩu, nhất là hàng lậu, hàng tiểu ngạch để không cho
phép nhập vào Việt Nam những mặt hàng cấm dùng trong sản xuất nông nghiệp, thực
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT

phẩm (nhất là thuốc bảo vệ thực vật, tăng trưởng gia xúc, gia cầm, bảo quản thực phẩm,
rau quả...). Tăng cường quản lý chất lượng và giá cả đối với dược phẩm, mỹ phẩm.

5. Mặc dù có ý kiến khác nhau nhưng chúng ta kiên quyết cấm bán hàng rong, nhất
là hàng rong tại các cơ sở trường học, bệnh viện, nơi công cộng. Không thể để tình trạng
bất cứ ai, làm ra bất cứ đồ ăn nào cũng có quyền mang ra phố bán cho người khác ăn,
nhất là đối tượng là học sinh tiểu học, trung học cơ sở.

6. Tăng cường giáo dục, giám sát những người sản xuất hàng hóa, kinh doanh dịch
vụ cá thể trong việc tuân thủ các quy định vệ sinh an toàn thực phẩm, phạt nặng những
trường hợp vi phạm. Tăng cường công tác quản lý chất lượng hàng hoá, dịch vụ thực chất
là làm cho chất lượng hàng hoá, dịch vụ đưa đến tay NTD được bảo đảm đúng như giá trị
của nó, chống lại thủ đoạn lừa dối khách hàng của một số nhà sản xuất hàng hoá và cung
cấp dịch vụ. Cần có biện pháp để tăng cường công tác quản lý như: tăng thêm quyền cho
các tổ chức tiêu chuẩn đo lường chất lượng, các cơ quan thanh tra, giám sát, quản lý thị
trường.

7. Tăng cường tuyên truyền phổ biến để NTD biết được các quyền của mình theo
quy định của pháp luật để NTD chủ động bảo vệ quyền của mình khi bị xâm phạm.

8. Trong gia đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, hội nhập khu vực hiện nay, NTD Việt
Nam có nhiều cơ hội mới trong việc thoả mãn những nhu cầu cơ bản nói riêng, trong đó
có quyền tiếp cận với nhiều sản phẩm và dịch vụ với chất lượng đảm bảo và giá cả thích
hợp và thực sự được sử dụng các quyền của NTD nói chung. Cần tuyên truyền, phổ biến
kiến thức cho NTD về các loại hàng hóa nhập ngoại, tuyên truyền kiến thức về hội nhập.

9. Hoàn thiện pháp luật, đơn giản hóa thủ tục khiếu kiện của NTD. Cần quy định cụ
thể nghĩa vụ, trách nhiệm của các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa và cung ứmg dịch vụ
đối với NTD. Nếu doanh nghiệp không giải quyết khiếu nại chính đáng của NTD, NTD
có quyền nhờ cơ quan chức năng can thiệp (các cơ quan quản lý Nhà nước và các cấp tòa
án).

10. Tăng cường nguồn nhân lực, vật lực và quyền hạn cho Cục quản lý cạnh tranh
của Bộ Công thương và các sở thương mại các tỉnh, thành phố trong hoạt động bảo vệ
NTD. Nhà nước đầu tư kinh phí cho hoạt động của các cấp hội bảo vệ NTD ở trung ương
và địa phương.
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT

* PGS.TS. Viện Nhà nước và Pháp luật


KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

Một số vấn đề cơ bản về Luật lao động quốc tế

Phạm Trọng Nghĩa*

Sự ra đời của Luật lao động quốc tế

Vào những năm đầu của thế kỷ 19, những đòi hỏi đầu tiên về yêu cầu hợp tác ở cấp
quốc tế để đưa ra các quy định về điều kiện lao động xuất hiện. Ban đầu, yêu cầu xây
dựng luật lao động quốc tế xuất phát từ quan điểm mang tính nhân văn về việc bảo đảm
điều kiện cho người lao động. Các bác sỹ, người quản giáo lo ngại về điều kiện sức khoẻ
của người lao động, của tù nhân (vì phần lớn tù nhân trong giai đoạn này phải tham gia
lao động). Đại diện tiêu biểu cho quan điểm này có thể kể đến Robert Owen, một chủ
xưởng ở Anh quốc, J.A. Blanqui và Louis Rene hai bác sỹ người Pháp và Edouard
Ducpetieux - Tổng thanh tra trại giam của Bỉ[1]. Owen cho rằng tất cả các quốc gia cần
phải bảo vệ tầng lớp lao động tránh khỏi các nguyên nhân có thể đem lại sự bất hạnh,
nghèo khổ trong xã hội loài người. Owen mơ ước một thế giới được xây dựng trên mô
hình các cộng đồng giống như New Lanark quê hương ông, nơi điều kiện lao động được
quan tâm và cải tiến, đời sống của người lao động được chăm lo. Năm 1918, Owen gửi 2
Bản ghi nhớ (Memorials) đến Hội nghị Châu Âu tổ chức tại Aix - la - Chapelle, trong đó
đề nghị Hội nghị lập một phái đoàn công tác đến thăm Lanark, xem xét mô hình của
Lanark để áp dụng trên toàn thế giới[2]. Lời đề nghị của Owen không được chấp nhận.
Tuy nhiên sau đó Anh quốc đã ban hành một đạo luật giới hạn thời giờ làm việc của trẻ
em trong các nhà máy dệt cơ bản dựa trên các đề xuất của Owen. Đây được coi là sự khởi
đầu cho quá trình lập pháp về lao động của Anh quốc[3]. Các quan điểm của Owen được
tiếp tục củng cố bởi Jacques Necker, một nhân viên ngân hàng tại Thuỵ Sỹ. Mặc dù
Necker không đòi hỏi phải xây dựng các quy định pháp luật lao động quốc tế nhưng đề
xuất rằng việc bảo vệ người lao động cần phải là một câu hỏi cấp quốc tế [4]. Theo Bob
(2005)[5], mục đích của Owen cũng như các nhà tư tưởng trong giai đoạn này đều dựa trên
các yêu cầu mang tính nhân văn chứ không dựa trên căn cứ các vấn đề xã hội đòi hỏi một
giải pháp toàn cầu và thương mại tự do đã khiến các quốc gia lệ thuộc lẫn nhau. Tuy
nhiên, chính những quan điểm này là động lực cho sự phát triển của các yêu cầu nâng cao
điều kiện lao động, sự đòi hỏi phải xây dựng các quy định về điều kiện lao động ở cấp
toàn cầu do các tổ chức của công nhân (công đoàn) trong các giai đoạn sau.

Quan điểm thứ hai yêu cầu phải xây dựng các quy định pháp luật lao động quốc tế
đến từ những chủ sử dụng lao động với mục đích bảo đảm cạnh tranh công bằng giữa các
doanh nghiệp trên phương diện lao động. Ở góc độ này, chính chủ sử dụng lao động là
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

những người nhận thức được rằng việc tăng cường cải thiện điều kiện lao động về lâu dài
không thể gây bất lợi cho họ, mà ngược lại, sự suy yếu của lực lượng lao động về lâu dài,
sẽ gây ảnh hưởng xấu cho lợi ích của chủ sử dụng lao động. Nếu tăng cường cải thiện
điều kiện lao động, chi phí lao động trong sản phẩm và giá cả của sản phẩm sẽ tăng, khả
năng cạnh tranh của họ sẽ bị ảnh hưởng, nhưng về cơ bản lợi nhuận trên một đơn vị sản
phẩm không thay đổi. Tuy nhiên, để làm được điều này cần phải có quy định pháp lý để
bảo đảm các doanh nghiệp khác nhau cùng phải chấp hành các quy định như nhau về điều
kiện lao động. Khi thương mại toàn cầu phát triển nhanh chóng, sự giao thương, cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp không chỉ còn bó hẹp trong phạm vi quốc gia mà mở rộng ra
trên toàn thế giới, kéo theo đó, các yếu tố lao động với tư cách là đầu vào của sản phẩm,
là yếu tố có ảnh hưởng đến cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp
nước ngoài. Nếu như điều kiện lao động trong nước cao hơn, chi phí sản phẩm cao hơn,
doanh nghiệp sẽ mất tính cạnh tranh. Để tránh tình trạng này, các quốc gia khác nhau
phải đồng thuận với nhau (ở một mức độ nhất định) việc cải tiến các điều kiện lao động.
Hay nói một cách khác, để đảm bảo cho sự cạnh tranh công bằng, các quy định về việc
cải tiến điều kiện lao động cần được xác lập trên phạm vi toàn cầu. Đại diện tiêu biểu cho
trường phái này có thể kể đến Daniel Legrand, một nhà công nghiệp ở vùng Alsace
(Pháp). Trong suốt giai đoạn 1840 - 1850, Legrand đã đưa ra quan điểm các quy định
pháp luật lao động quốc tế là con đường thực tế để vượt qua những khó khăn mà các
nước công nghiệp gặp phải, nếu như họ đưa ra các biện pháp mang tính nhân văn để bảo
vệ người lao động của mình, từ sự cạnh tranh của nước ngoài [6]. Theo quan điểm của
Legrand, vị trí cạnh tranh của các nước có điều kiện xã hội phát triển có thể bị huỷ hoại.
Theo lý thuyết tự do cạnh tranh, trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo và thương mại tự
do, việc giảm giờ làm việc và cấm lao động trẻ em sẽ làm tăng giá của sản phẩm nội địa.
Khi đó, các sản phẩm nước ngoài, (nơi không có các quy định về lao động như vậy) có
giá rẻ hơn sẽ được nhập khẩu và điều này sẽ ảnh hưởng tới nền kinh tế trong nước. Trong
khi hàng rào bảo vệ chống lại sự xâm lược của hàng hoá rẻ mạt từ nước ngoài thông qua
các phương tiện như thuế quan, hạn ngạch, hàng rào kỹ thuật đã, đang và sẽ không còn
được chấp nhận thì việc xác lập một điều kiện tối thiểu chung về lao động giữa các quốc
gia là phương thức hợp lý nhất.

Những tư tưởng lập pháp này dần được các tổ chức hiệp hội đón nhận và phát triển.
Những Hội nghị đầu tiên bàn về vấn đề luật lao động quốc tế được tổ chức tại Brusel (Bỉ)
năm 1856 và Frankfurt (Đức) năm 1857. Tại Hội nghị ở Đức năm 1857, Hội nghị đã kêu
gọi xây dựng các công ước quốc tế về điều kiện lao động[7].

Cũng trong giai đoạn này, các tổ chức của người lao động bắt đầu lớn mạnh và tăng
cường áp lực, trong các yêu sách của mình. Năm 1864, Hội nghị thành lập Hiệp hội lao
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

động quốc tế (International Workers Association) được tổ chức. Karl Mark chính là
người dự thảo Hiến chương của tổ chức này. Hiến chương khẳng định việc giải phóng
người lao động không chỉ là vấn đề của một địa phương hay của một quốc gia mà là vấn
đề cần tất cả các quốc gia văn minh quan tâm [8]. Mark ủng hộ quan điểm ngày làm việc 8
giờ và ngăn cấm việc sử dụng lao động chưa thành niên, lao động trẻ em[9].

Từ sự quan tâm của các cá nhân đến sự quan tâm của các hiệp hội, dần dần vấn đề
xây dựng luật lao động quốc tế được các Chính phủ xem xét, cân nhắc. Nhiều đề xuất
nhằm thúc đẩy các quy định lao động quốc tế được gửi đến Quốc hội Pháp, Đức và một
số quốc gia châu Âu. Hội nghị chính thức đầu tiên được tổ chức ở Thuỵ Sỹ theo các đề
xuất từ năm 1876 đến năm 1881 và sau khi tham khảo các quốc gia châu Âu khác, Thuỵ
Sỹ tổ chức một Hội nghị ở Bern vào ngày 5/5/1890 để thảo luận về vấn đề xây dựng luật
lao động quốc tế. Nhà vua Đức, Wilhelm II, vì muốn tăng cường ảnh hưởng của mình đã
tổ chức một hội nghị ở Berlin vào ngày 8/2/1890 cũng để bàn về nội dung tương tự. Tại
Hội nghị này, Chính phủ Đức đề xuất thành lập một nhóm gồm những cá nhân độc lập để
giám sát việc thực hiện các quy định về cải thiện điều kiện lao động và được chấp nhận.
Hội nghị cũng đi đến thống nhất hàng loạt vấn đề mang tính chất nguyên tắc của luật
quốc tế phản ánh mô hình của Châu Âu như về tuổi tối thiểu của lao động trẻ em, thời giờ
làm việc tối đa, cấm làm đêm đối với lao động trẻ em và lao động nữ, về thanh tra lao
động[10].

Hai hội nghị tiếp theo được tổ chức vào năm 1897 tại Brusel (Bỉ) và Zuzich (Áo).
Tại Hội nghị tổ chức ở Brusel, Hiệp hội quốc tế về bảo vệ pháp lý cho người lao động
(International Association for the Legal Protection of Workers) đã được thành lập. Hiệp
hội thành lập 2 nhóm công tác, một về việc cấm sử dụng lao động nữ làm đêm và một về
việc cấm sử dụng phốtpho trắng trong ngành công nghiệp sản xuất diêm. Thông qua các
hoạt động của mình, Hiệp hội đã dự thảo 2 Công ước quốc tế và trình ra Hội nghị tổ chức
tại Bern (Thuỵ sỹ) năm 1905 để xem xét. Năm 1906, Hội nghị lần thứ 2 tổ chức tại Bern
đã thông qua hai công ước này và có hiệu lực từ năm 1912[11]. Đây là những công ước
quốc tế đầu tiên về lao động. Sau đó, chính phủ Thuỵ Sỹ đề xuất tiếp tục tổ chức nhiều
hội nghị để xem xét nhiều nội dung khác nhau liên quan tới điều kiện lao động. Tuy
nhiên, tháng 8/1914 đại chiến thế giới lần thứ nhất bùng nổ, mọi hoạt động tiếp theo bị
gián đoạn.

Trong suốt giai đoạn đại chiến thế giới lần thứ nhất, tổ chức công đoàn của hai phía
tham chiến (liên minh và phát xít) cũng như tổ chức công đoàn của các quốc gia trung lập
luôn mong muốn đưa ra quan điểm của mình khi bàn thảo về vấn đề hoà bình, và họ đề
xuất đưa vào trong Hiệp ước hoà bình các quy định về điều kiện lao động. Hàng loạt các
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

Hội nghị của người lao động thể hiện cùng quan điểm được tổ chức ở nhiều nơi như ở
Leeds năm 1916, ở Stockholm năm 1917, ở London năm 1918 và ở Berlin các năm 1917,
1918[12]. Để đáp lại yêu cầu này, các chính phủ liên minh, đặc biệt là Anh quốc và Pháp
đã đề xuất trong dự thảo Hiệp ước hoà bình (Peace Treaty) có chứa đựng các nội dung về
điều kiện lao động. Hội nghị hoà bình đã thành lập Uỷ ban đặc biệt về vấn đề này gọi là
Uỷ ban về Luật lao động quốc tế (Commission on International Labour Legislation)[13].

Qua quá trình nghiên cứu, các thành viên uỷ ban nhận định hoà bình chỉ có thể
được thiết lập dựa trên công bằng xã hội. Trong khi đó điều kiện lao động hiện nay, với
những đặc điểm như bất công, nặng nhọc và khổ hạnh có liên quan đến một số lượng lớn
người lao động sẽ tạo ra sự nguy hiểm cho hoà bình và ổn định của thế giới. Sự thất bại
của bất cứ quốc gia nào trong việc thông qua các điều kiện lao động mang tính nhân văn
sẽ là trở ngại cho các quốc gia khác trong việc cải thiện điều kiện lao động ở nước
mình[14]. Như vậy, để bảo đảm hoà bình thế giới cần phải đảm bảo công bằng xã hội, để
bảo đảm công bằng xã hội thì một trong những điều kiện tiên quyết là phải đảm bảo và
cải thiện điều kiện lao động, phải có được các quy định về điều kiện lao động ở cấp độ
quốc tế.

Kết quả hoạt động của Uỷ ban này đã dẫn đến việc trong nội dung Hiệp ước Hoà
bình có phần thứ XIII về vấn đề lao động, gồm 12 điều (từ điều 387 đến điều 399). Điều
387, 388 của Hiệp ước hoà bình quy định việc thành lập một tổ chức hoạt động dựa trên 2
thiết chế: Hội nghị đại biểu các quốc gia thành viên và Văn phòng lao động quốc tế thuộc
Hội quốc liên (League of Nations). Đây chính là Tổ chức lao động quốc tế (ILO). Với
chức năng chính là thông qua các Công ước và khuyến nghị về vấn đề lao động - nguồn
cơ bản của luật lao động quốc tế, sự ra đời của ILO đã đưa luật lao động quốc tế lên một
bước phát triển mới.

Có thể nói, từ những ý tưởng sơ khai ban đầu (với những đề xuất trên cơ sở nhân
văn) đến ý tưởng bảo đảm sự cạnh tranh bình đẳng, luật lao động quốc tế được ra đời
nhằm mục đích cao hơn đó là đảm bảo hoà bình thế giới.

Khái niệm, đặc điểm của luật lao động quốc tế

Khái niệm luật lao động quốc tế có nhiều cách tiếp cận khác nhau : Tiếp cận từ khía
cạnh nội dung dựa trên các quyền lao động cơ bản hay tiếp cận từ khía cạnh nguồn
luật[15]. Tuy nhiên, với cách tiếp cận nào, khái niệm về luật lao động quốc tế cũng nhận
được sự đồng thuận cao giữa các học giả. Valticos (1995) cho rằng, trong bối cảnh hiện
nay, luật lao động quốc tế được hiểu là một bộ phận của luật lao động có nguồn quốc tế.
Do đó, nó bao gồm các nguyên tắc pháp luật cơ bản được xây dựng ở cấp quốc tế cũng
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

như các nguyên tắc về trình tự, thủ tục liên quan đến việc thông qua và thực hiện chúng;
hay luật lao động quốc tế bao gồm cả các nguyên tắc pháp lý được thiết lập ở cấp quốc tế
và các quy định về trình tự, thủ tục liên quan đến việc thông qua và thực hiện chúng[16].

Về đặc điểm của luật lao động quốc tế, theo quan điểm ILO đây là một bộ
phận/loại của luật quốc tế, chứa đựng các nguyên tắc xử sự chung và được đảm bảo thực
hiện bằng cơ quan tài phán độc lập[17].

Cũng theo quan điểm của ILO, luật lao động quốc tế là một bộ phận của công pháp
quốc tế được sử dụng để áp dụng để giải quyết mối quan hệ giữa các quốc gia. Điều này
cho phép phân biệt luật lao động quốc tế với các quy định về lao động trong tư pháp quốc
tế.

Luật lao động quốc tế cũng khác với luật lao động của quốc gia. Trong khi luật lao
động quốc gia áp dụng đối với các chủ thể thuộc phạm vi tài phán của quốc gia thì luật
lao động quốc tế áp dụng với các quốc gia và các chủ thể có năng lực pháp luật quốc tế.

Việc thực hiện các quy định của luật lao động quốc tế được giám sát thông qua các
hình thức cơ bản như:

- Giám sát thông qua các bản báo cáo định kỳ: Phần lớn các báo cáo quốc gia về
việc thực hiện các Công ước của ILO đều được Uỷ ban chuyên gia về áp dụng công ước
và khuyến nghị xem xét. Uỷ ban sẽ đưa ra lời bình luận, đánh giá về nội dung báo cáo, có
thể yêu cầu Chính phủ báo cáo cung cấp thêm thông tin và cũng có thể tiến hành các cuộc
khảo sát thực tế nếu thấy cần thiết;

- Giám sát thông qua việc điều tra các khiếu nại: Theo quy định của Hiến chương
ILO, có hai khả năng khiếu nại xảy ra: đại diện giới chủ hoặc giới thợ của quốc gia thành
viên có quyền khiếu nại khi cho rằng Chính phủ của họ không thực hiện đúng nội dung
công ước đã cam kết (Điều 24); cho phép một Chính phủ thành viên có thể kiện Chính
phủ thành viên khác về việc áp dụng công ước mà cả hai nước đã phê chuẩn (Điều 26).

- Ngoài ra còn có giám sát thông qua cơ chế đặc biệt trong lĩnh vực quyền tự do
hiệp hội[18].

Mục đích và vai trò của luật lao động quốc tế

Nghiên cứu quá trình ra đời và phát triển của luật lao động quốc tế có thể nhận thấy
luật lao động quốc tế có các mục đích, vai trò cơ bản sau:
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

- Bảo đảm cạnh tranh công bằng. Như đã phân tích ở trên, một trong những
tư tưởng nền tảng cho việc xây dựng luật lao động quốc tế đó là để đảm bảo sự bình đẳng
về mặt lập pháp giữa các doanh nghiệp khác nhau ở những nước khác nhau về điều kiện
lao động. Bên cạnh đó, luật lao động quốc tế ra đời để bảo vệ người lao động tránh khỏi
tình trạng bị bóc lột do giới chủ muốn tăng khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường
quốc tế.

- Góp phần đảm bảo hoà bình thế giới. Hiệp ước Hoà bình đã khẳng định hoà
bình chỉ có thể được thiết lập dựa trên công bằng xã hội, và các hành động chống lại sự
bất công trong xã hội chính là nguyên nhân, là nền tảng cho hoà bình. Thực tiễn cho thấy
với việc mở rộng và củng cố quyền của người lao động, trong đó có quyền của công
đoàn, luật lao động quốc tế đã thúc đẩy các thiết chế dân chủ, và chính các thiết chế dân
chủ này là nhân tố làm cho các quốc gia trở nên hoà bình hơn trong khi đưa ra các chính
sách và quyết định của mình[19]. Hoà bình trong một quốc gia có liên quan đến hoà bình
thế giới vì nếu trong nước có xung đột thì áp lực trong nước có thể dẫn đến ảnh hưởng
đối với bên ngoài. Luật lao động quốc tế với chức năng tăng cường điều kiện lao động đã
củng cố nhận thức chung về đoàn kết trên phạm vi toàn cầu cũng như thúc đẩy môi
trường hợp tác giữa các quốc gia khác nhau, xuyên qua các nền văn hoá, tôn giáo và địa
chính trị khác nhau[20]. Việc năm 1969, ILO được nhận giải Nobel hoà bình là minh
chứng cho vai trò của các quy định về điều kiện lao động (nội dung của luật lao động
quốc tế) đối với hoà bình thế giới.

- Góp phần đảm bảo công bằng xã hội. Công bằng xã hội chính là của ý
tưởng sâu xa của việc xây dựng luật lao động quốc tế. Ngay trong Lời nói đầu của Hiến
chương ILO đã khẳng định điều này[21]. Valticos (1995) cho rằng, đây chính là mục tiêu
định hướng cho sự phát triển của luật lao động quốc tế. Cùng với quá trình phát triển của
luật lao động quốc tế, các điều kiện lao động và điều kiện sống của người lao động ở
nhiều quốc gia trên thế giới đã được cải thiện. Bản chất của công bằng xã hội không chỉ
được xem xét trong phạm vi xoá bỏ những gì bất công và bảo vệ những người yếu thế
như trước kia. Chính Albert Thomas, Tổng thư ký đầu tiên của ILO đã khẳng định công
bằng xã hội không chỉ là xoá bỏ bất công. Nó còn được hiểu là một chính sách mà thông
qua đó, các cá nhân có thể đạt được quyền chính trị, quyền kinh tế về quyền về đạo
đức[22]. Trong bối cảnh ngày nay, công bằng xã hội không chỉ là việc cộng đồng thế giới
có trách nhiệm trong việc duy trì hoà bình và mối quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia mà
còn phải có các đóng góp tích cực cho an sinh của nhân loại.

- Tạo điều kiện lồng ghép các vấn đề xã hội và nhân văn vào trong các mục
tiêu phát triển. Thực tế cho thấy, tăng trưởng kinh tế không tự nhiên đảm bảo sự phát
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

triển của xã hội. Ngay từ năm 1930, Abert Thomas đã khẳng định các yếu tố xã hội cần
phải đặt lên trước các yếu tố kinh tế. Do đó, cần phải đưa các mục tiêu xã hội vào trong
các chính sách phát triển kinh tế. Trong tuyến bố Philadenphia năm 1944, ILO đã chỉ rõ
rằng, tất cả các chính sách và giải pháp của quốc gia và quốc tế, đặc biệt là các chính
sách, giải pháp có liên quan đến kinh tế, tài chính cần được xem xét, đánh giá dưới tiêu
chí mục tiêu phát triển xã hội. Từ đó, các thành viên của ILO đều phải cân nhắc đến mục
tiêu xã hội trong các chủ trương, chính sách của mình. Bằng các tiêu chuẩn lao động của
mình, luật lao động quốc tế đã tạo ra một sự quan tâm chung của các quốc gia và các tổ
chức khác nhau về mục tiêu xã hội trong các chính sách kinh tế.

- Thúc đẩy dịch chuyển lao động trên phạm vi toàn cầu. Trong xã hội hiện
đại, cùng với sự phát triển của thương mại tự do, phân công lao động diễn ra trên phạm vi
toàn cầu. Song song với hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá thông thường, sự dịch
chuyển của lao động (chủ thể sở hữu hàng hoá đặc biệt - sức lao động) cũng là điều tất
yếu xảy ra. Ngay từ giai đoạn đầu, mục tiêu của luật lao động quốc tế là đưa ra các quy
định mang tính quốc tế. Những quy định này có liên quan rất nhiều đến những người lao
động di cư, những người dịch chuyển từ sự điều chỉnh của pháp luật quốc gia này sang sự
điều chỉnh của pháp luật quốc gia khác. Nếu có sự khác biệt lớn về mặt pháp luật giữa
quốc gia nơi đi và quốc gia nơi đến thì sự dịch chuyển của người lao động sẽ trở nên khó
khăn. Bằng việc xây dựng một mặt bằng chung về mặt pháp luật, luật lao động quốc tế
thúc đẩy quá trình dịch chuyển lao động được thực hiện một cách dễ dàng, thuận tiện
hơn. Người lao động di cư không phải lo lắng về việc bị ảnh hưởng bởi các quy định
pháp luật nghèo nàn ở quốc gia nơi đến bởi đã được bảo vệ bởi các quy phạm tiên tiến
trong luật lao động quốc tế.

- Góp phần hoàn thiện pháp luật của quốc gia. Ngay cả khi pháp luật quốc gia đã
đạt đến một mức độ phát triển nhất định, thì việc phê chuẩn các công ước lao động quốc
tế vẫn là cần thiết dù rằng các tiêu chuẩn lao động trong các công ước này thấp hơn pháp
luật quốc gia. Nếu như một quốc gia đã ký công ước quốc tế về điều kiện lao động thì họ
chỉ có thể giảm đến mức tối thiểu là bẳng tiêu chuẩn đã được quy định trong công ước đã
ký hoặc nếu vẫn muốn giảm hơn nữa, quốc gia phải làm thủ tục rút ra khỏi công ước
(điều này kéo theo nhiều thủ tục và đặc biệt là dẫn đến sự quan tâm, sự tác động, sự gây
áp lực từ phía cộng đồng quốc tế lên quốc gia, có thể gây trở ngại cho việc quốc gia ban
hành quy định làm giảm điều kiện lao động). Ngược lại, nếu như quốc gia chưa ký công
ước thì họ có thể giảm điều kiện lao động xuống rất thấp. Như vậy, bằng các quy định
của mình, luật lao động quốc tế có chức năng phòng ngừa và hạn chế các quốc gia đưa ra
các quy định về lao động trong đó làm giảm đi điều kiện lao động tại quốc gia mình.
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

- Là động lực cho quá trình lập pháp của quốc gia. Bên cạnh việc chứa đựng các
quy định mang tính bắt buộc chung, luật lao động quốc tế còn có thể được xem xét như là
các nguyên tắc định hướng cho các nhà lập pháp quốc gia. Các quy định của luật lao
động quốc tế có thể là cơ sở cho người lao động đòi hỏi quyền lợi của mình, đồng thời
luật lao động quốc tế cũng có thể được sử dụng như cẩm nang quản lý, sử dụng lao động
đối với chủ sử dụng lao động. Thông qua đó, nhiều quy định điều chỉnh vấn đề lao động,
xã hội của quốc gia được ban hành, sửa đổi hay bãi bỏ. Landy (1970) cho rằng, những sự
thay đổi trong chính sách xã hội của nhiều quốc gia khác nhau đã làm sáng tỏ hơn vai trò
của luật lao động quốc tế [23].
Nguồn của Luật lao động quốc tế

Nguồn của luật quốc tế nói chung và của luật lao động quốc tế nói riêng được phân
ra thành các loại: Điều ước quốc tế, đa phương hoặc song phương, được thể hiện dưới
nhiều hình thức khác nhau như công ước, hiệp uớc, nghị định thư, khuyến nghị; Tập quán
quốc tế; Các án lệ; Các nguyên tắc pháp lý chung; Các chủ thuyết pháp lý[24]

Trong lĩnh vực luật lao động quốc tế, các nguồn luật còn có thể được xem xét dưới
góc độ chủ thể ban hành:

- Các nguồn của ILO: ILO là tổ chức có vai trò quan trọng nhất và là chủ thể ban
hành nhiều quy phạm nhất về luật lao động quốc tế. Các nguồn luật lao động quốc tế từ
ILO gồm: Hiến chương ILO, Hiến chương này là một phần trong Hiệp ước hoà bình, sau
đó được bổ sung bằng Tuyên bố Philadenphia năm 1944 [25]. Hiến chương ILO chứa đựng
những quy phạm điều chỉnh việc tổ chức và chức năng của ILO, các nguyên tắc chung
liên quan đến vấn đề lao động; Các công ước và khuyến nghị, tính đến nay ILO đã thông
qua 188 Công ước [26] và 199 Khuyến nghị[27]; Tuyên bố về các quyền và các nguyên tắc
cơ bản: Năm 1998, ILO ban hành Tuyên bố về các quyền và nguyên tắc cơ bản tại nơi
làm việc. Đây là sự pháp điển hoá các quyền con người nêu trong Hiến chương ILO, gồm
các vấn đề như quyền tự do hiệp hội và thương lượng tập thể; lao động cưỡng bức; lao
động trẻ em; chống phân biệt đối xử; Sự giải thích quy phạm của toà án, án lệ: Theo quy
định của Hiến chương ILO bất kỳ sự tranh chấp nào liên quan đến việc áp dụng, giải
thích nội dung của Hiến chương và các Công ước sẽ được giải quyết bởi Toà án công lý
quốc tế (International Court of Justice), tuy nhiên từ trước đến nay mới chỉ có một vụ
được đưa ra giải quyết vào năm 1932. Mặc dù điều 37 Hiến chương ILO cho phép thành
lập một toà án để giải thích Hiến chương và công ước, tuy nhiên quy định này chưa bao
giờ được áp dụng[28]. Thông thường, các quốc gia sẽ tham vấn Văn phòng Lao động quốc
tế về việc giải thích nội dung Công ước. Các quan điểm của Văn phòng lao động quốc tế
được công bố trong Offical Bulletin; Ngoài ra, còn có các nguồn khác như: Giải thích của
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

các cơ quan chuyên môn của ILO; các quy tắc ứng xử (Code of Conducts) hay các nghị
quyết được thông qua tại các hội nghị chuyên biệt.

- Nguồn của Liên hiệp quốc: Nguồn cơ bản của luật lao động quốc tế đến từ Liên
hiệp quốc có thể kể đến như: Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948; Công
ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966; Công ước quốc tế về các quyền
kinh tế, văn hoá năm 1966; Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm
1965; Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ năm 1979;
Công ước quốc tề về quyền trẻ em năm 1989; Công ước về việc bảo vệ quyền của tất cả
lao động di cư và thành viên gia đình họ năm 1990.

- Các nguồn khu vực: Hầu hết các khu vực trên thế giới đều có các công ước về vấn
đề lao động. Ở châu Âu, ngay từ năm 1950, trong Công ước châu Âu về nhân quyền đã
có các quy định cấm lao động cưỡng bức cũng như các quy định về quyền công đoàn.
Hiến chương xã hội châu Âu được ký năm 1961, sau đó, năm 1989, Liên minh châu Âu
thông qua Hiến chương về các quyền xã hội cơ bản cho người lao động và năm 1991,
Nghị định thư về chính sách xã hội được thông qua. Bên cạnh các điều ước quốc tế, ở
châu Âu còn có các quy định, hướng dẫn và các quyết định của Uỷ ban châu Âu về vấn
đề lao động cũng được coi là nguồn của luật lao động. Ở châu Mỹ, năm 1969 Công ước
châu Mỹ về nhân quyền được thông qua, trong đó cũng có các điều khoản cấm cưỡng
bức lao động và các quy định về quyền lập hội. Vào tháng 11/1988, một Nghị định thư
liên quan đến Công ước trên tập trung vào các vấn đề về quyền kinh tế, xã hội và văn hoá
được thông qua, trong đó có các quy định về quyền làm việc, điều kiện làm việc, quyền
công đoàn. Ở các khu vực khác như châu Phi, châu Á cũng có các công ước về các vấn
đề kinh tế - xã hội nói chung, trong đó có các điều khoản về lao động, như Hiến chương
châu Phi về con người và quyền con người năm 1981; Tuyên bố của Asean về chống
buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em[29]. Năm 1967, ở khu vực Trung Đông, Liên
đoàn Ả rập đã thông qua Công ước Ả rập về lao động [30].

- Các hiệp định song phương về lao động giữa các quốc gia. Các hiệp định này
thường được ký giữa quốc gia nơi lao động dời đi và quốc gia nơi lao động đến làm việc.
Việt Nam cũng đã ký một số Hiệp định hợp tác về lao động với một số quốc gia như:
Liên Xô cũ, một số nước Đông Âu[31], Lào (năm 1995) [32] và Quata (năm 2008)[33].

Những chế định cơ bản của luật lao động quốc tế

Phạm vi của luật lao động quốc tế rất rộng, và có nhiều cách thức khác nhau để
phân chia nội dung của luật lao động quốc tế. Có thể phân loại nội dung của luật lao động
quốc tế theo nhóm các quy định cơ bản và các quy định bổ sung hay phân loại theo nhóm
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

các quy định mang tính thúc đẩy, định hướng chính sách và các quy định mang tính nghĩa
vụ cụ thể. Nếu phân chia hệ thống pháp luật lao động quốc tế theo các chế định (các công
ước và khuyến nghị của ILO làm nền tảng) luật lao động quốc tế có 16 chế định cơ bản
như sau [34]:

- Tự do hiệp hội và bảo vệ quyền thành lập tổ chức (với các văn bản như các Công
ước số 87, 98, 135, 141, 151, 154 và các Khuyến nghị số 143, 149, 159, 163 của ILO);
lao động cưỡng bức (với các văn bản như các Công ước số 29, 155 và các Khuyến nghị
số 35, 36 của ILO); Chống phân biệt đối xử trong công việc (với các văn bản như Công
ước số100, 111 và Khuyến nghị số 90, 165 của ILO); lao động trẻ em (với các văn bản
như Công ước số 5, 138, 182 và Khuyến nghị số 146, 190 của ILO); thuê mướn lao động
(với các văn bản như Công ước số 88, 96, 159 và Khuyến nghị số 122, 169, 189 của
ILO); tiền lương (với các văn bản như Công ước số 131, 173 và Khuyến nghị số 135,
180 của ILO); điều kiện làm việc chung (với các Công ước số 1, 14, 47, 52, 140, 171 và
Khuyến nghị 98, 116, 148, 178 của ILO); an toàn vệ sinh lao động (với các Công ước số
155, 161, 181, 184 và các Khuyến nghị số 164, 171, 181 của ILO); an sinh xã hội (với
các Công ước số 102, 121, 128, 130, 168, 183 và Khuyến nghị 167 của ILO); chính sách
xã hội (với Công ước số 117 của ILO); quan hệ công nghiệp (với Công ước số 158 và
Khuyến nghị số 119, 166 của ILO); sử dụng lao động nữ (với các Công ước số 3, 45, 103,
183 của ILO); lao động cao tuổi (với Khuyến nghị số 162 của ILO); lao động di cư (với
các Công ước 97, 143 của ILO); các loại lao động đặc thù (với các Công ước 11, 12, 110,
147, 149, 169, 175 và các Khuyến nghị 110, 132, 157, 182 của ILO); quản lý nhà nước
về lao động (với các Công ước 81, 150, 160, 144 và các Khuyến nghị 152, 158, 170 của
ILO).

Kết luận

Luật lao động quốc tế là lĩnh vực nghiên cứu còn mới ở nước ta và có phạm vi
nghiên cứu tương đối rộng. Với khả năng còn hạn chế, chúng tôi mới chỉ xới lên một số
nội dung hết sức cơ bản. Chúng tôi cho rằng, để có cái nhìn toàn diện và đầy đủ về nhiều
khía cạnh khác nhau của luật lao động quốc tế, rất cần được các nhà khoa học, các nhà
hoạch định chính sách trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu các nội dung sau:

- Ảnh hưởng của toàn cầu hoá đến luật lao động quốc tế? Vấn đề lao động trong
các Hiệp định thương mại song và đa phương: Cần thiết hay không cần thiết?

- Sự ảnh hưởng của các công ước quốc tế về lao động tới các quốc gia (đặc biệt là
các quốc gia đang phát triển) như thế nào?
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

- Làm sao để có được sự hài hoà giữa việc thu hút đầu tư và bảo vệ người lao động
trong khi phải đảm bảo thực hiện các tiêu chuẩn lao động quốc tế?

- Vai trò của các quốc gia tham gia muộn vào quá trình lập pháp lao động quốc tế
như thế nào. Trong trường hợp của ILO: 114/188 Công ước được phê chuẩn trước năm
1960, trong khi đó hơn số quốc gia thành viên (hiện nay là 181 thành viên) gia nhập ILO
sau năm 1960 (trong đó có cả Việt Nam hiện nay). Liệu các quốc gia này có thể ảnh
hưởng đến các công ước quốc tế về lao động không hay chỉ tuân theo những luật chơi đã
được định sẵn?

- Xu hướng phát triển của các công ước quốc tế về lao động trong tương lai như thế
nào? Ban hành thêm công ước để mở rộng phạm vi hay tập trung vào việc chuyên sâu
hoá các nội dung sẵn có và tăng cường cơ chế kiểm tra, giám sát, trợ giúp ký thuật để
đảm bảo thực thi?

- Việt Nam cần nghiên cứu để phê chuẩn những công ước nào của ILO? Hiện Việt
Nam đã phê chuẩn 17/188 công ước của ILO, vậy những công ước nào cần tiếp tục phê
chuẩn?

- Những quy định của pháp luật lao động quốc tế nào có thể được áp dụng trong
quá trình hoàn thiện pháp luật lao động Việt Nam ?.

* NCS, ĐH Brunel, Vương quốc Anh

[1] Lammy Betten (1993) International Labour Law: Selected Issues. Boston: Kluwer tr.
2

[2]Xem Owen (1918) Two Memorials on Behalf of the Working class. London: Longman
và Bop Hepple (2005) Labour Laws and Global Trade. Oregon: Hart Publishing tr. 26

[3]Follows (1951) Antecedents of The International Labour Organization. Oxford:


Clarendon Press tr. 2

[4] Alcork (1971) History of the International Labour Organization. London: Macmillan
tr. 6

[5] Bob Hepple (2005) Labour Law and Global Trade. Oregon: Hart
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

[6]Legrand các quy định pháp luật lao độngtừ sự cạnh tranh của nước ngoài được trích
dẫn tại Ghebali, V (1989) The ,Lơ: á case study of a ŒN specialized ágency. The Hague:
NIJHOFF, tr.3

[7] Lammy Betten (1993) .. tr. 2

[8] Lammy Betten (1993) tr. 3

[9] Bob (2005) tr. 26

[10] Ramm (1986) trích dẫn bởi Bob (2005) tr.28

[11]Valticos, N. Potobsky, G.von (1995) International Labour Law. 2nd revised edn.
Boston: Kluwer tr.18 và http://www-old.itcilo.org/actrav/actrav-
english/telearn/global/ilo/law/lablaw.htm )

[12] Bob (2005) tr. 28

[13] Valticos (1995) tr.18

Hiệp ước hoà bình được ký ngày 28/6/1919 tại Versailles (Pháp) (có tài liệu gọi là
[14]
Hoà ước Versailles) giữa bên Đồng minh và Phát xít để chấm dứt chiến tranh.

[15] R. Blanpain & C. Engels (ed) (2001) Comparative Labour Law and Industrial
Relations in Industrialized Market Economies. London: Kluwer tr.135

[16] R. Blainpain & C. Engels (2001) tr.135

[17] http://www-old.itcilo.org/actrav/actrav-english/telearn/global/ilo/law/lablaw.htm

[18] R. Blanpain & C. Engels (2001) tr.153

[19] http://www-old.itcilo.org/actrav/actrav-english/telearn/global/ilo/law/lablaw.htm

[20] Valticos (1995) International Labour Law tr. 25

[21] ILO (1920) The Labour Provisions of the Peace Treaty. Geneva

[22] Phelan (1949) Yes and Albert Thomas. London tr. 242

[23]Xem Landy The Influence of International Labour Standards: Possibilities and


Performance, International Labour Review, số tháng 6/1970 tr.555

Xem DJ Harris (2004) Case and Materials on International Law. London: Sweet &
[24]
Maxwell
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

Tuyên bố Philadenphia được thông qua vào tháng 5/1944 liên quan đến mục tiêu và
[25]
mục đích của ILO, vào năm 1946 Tuyên bố này được hợp nhất vào Hiến chương ILO

[26] http://www.ilo.org/ilolex/english/convdisp1.htm

[27] http://www.ilo.org/ilolex/english/recdisp1.htm

[28] R. Blanpain & C. Engels (2001) tr.139

[29]Xem thêm http://www-old.itcilo.org/actrav/actrav-


english/telearn/global/ilo/law/lablaw.htm; http://www.aseansec.org/18642.htm;

[30] Valticos (1995) tr.75

[31]Tờ trình số 59/TTr-CP ngày 28/4/2006 về dự án Luật đưa người lao động đi làm việc
ở nước ngoài

[32] http://www.nhandan.com.vn/tinbai/?top=37&sub=50&Article=104204

http://www.molisa.gov.vn/frmdocchitiet.asp?
[33]
mbien1=01&mbien2=102&mbien3=10472

[34] Theo ILO thì có thể chia các công ước và khuyến nghị của ILO thành 22 nhóm xem
http://www.ilo.org/ilolex/english/subjectE.htm
THÔNG TIN CÔNG TÁC LẬP PHÁP

Giới thiệu văn bản hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân

Ngày 02/11/2007, Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk có Công văn số
106/HĐND-VP gửi Ban Công tác đại biểu của Uỷ ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH)
xin ý kiến chỉ đạo, hướng dẫn đối với một số vấn đề còn vướng mắc về tổ chức và hoạt
động của Hội đồng nhân dân sau khi điều chỉnh địa giới hành chính. Nội dung xin ý kiến
như sau:

Với số lượng đại biểu HĐND hiện có của huyện Krông Ana (mới) và huyện Cư
Kuin thì không huyện nào đủ hai phần ba so với số đại biểu được bầu; vì vậy, phải tổ
chức bầu cử bổ sung. Theo luật định, tỉnh sẽ công bố Nghị định số 137/NĐ-CP vào cuối
tháng 11/2007 và thành lập Đảng bộ lâm thời, Uỷ ban nhân dân lâm thời của hai huyện;
tổ chức bầu cử bổ sung đại biểu HĐND vào cuối tháng 3/2008. Vậy:

- Số đại biểu HĐND của hai huyện được chia ra thì về hình thức tổ chức hoạt động
và việc triệu tập đại biểu để hoạt động cho đến khi tổ chức bầu cử bổ sung đủ số lượng
đại biểu như thế nào?

- Sắp hết năm 2007 nên việc quyết định các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,
đảm bảo an ninh quốc phòng năm 2008 của hai huyện nêu trên thì đại biểu HĐND có vai
trò như thế nào?

Trả lời Công văn trên, Ban Công tác đại biểu của UBTVQH đã có Công văn số
264/BCTĐB ngày 12/11/2007 về việc tổ chức và hoạt động của HĐND sau khi điều
chỉnh địa giới hành chính. Nội dung hướng dẫn như sau:

HĐND huyện Krông Ana (mới) và huyện Cư Kuin sau khi chia tách đều không đủ
2/3 số lượng đại biểu HĐND theo luật định, nên đều phải bầu cử bổ sung đại biểu.

Tuy nhiên, việc bầu cử bổ sung đại biểu HĐND được tiến hành vào cuối tháng
3/2008, nên thời gian từ nay đến khi đó còn dài. Để đảm bảo công việc của địa phương
thì hoạt động của HĐND hai huyện sẽ áp dụng tương tự đối với trường hợp HĐND
không tiến hành bầu cử bổ sung đại biểu HĐND. Như vậy, tổ chức và hoạt động của
HĐND, hoạt động của đại biểu HĐND huyện Krông Ana (mới) và huyện Cư Kuin từ khi
được chia tách cho đến khi tổ chức bầu cử bổ sung đại biểu HĐND được vận dụng như
sau:

1- Về tổ chức và hoạt động của HĐND


THÔNG TIN CÔNG TÁC LẬP PHÁP

- Thường trực HĐND tỉnh Đắk Lắk chỉ định Quyền Chủ tịch HĐND huyện
Krông Ana (mới) và Quyền Chủ tịch HĐND huyện Cư Kuin

Khổ 2, khoản 1 Điều 82 Quy chế hoạt động của HĐND quy định:

“Trong trường hợp không tiến hành bầu cử bổ sung đại biểu HĐND thì Thường
trực HĐND cấp trên trực tiếp chỉ định Quyền Chủ tịch HĐND”

Vận dụng quy định này, Thường trực HĐND tỉnh Đắk Lắk sẽ chỉ định Quyền Chủ
tịch HĐND huyện Krông Ana (mới) và Quyền Chủ tịch HĐND huyện Cư Kuin. Quyền
Chủ tịch HĐND có nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại khoản 2 Điều 82 Quy chế hoạt
động của HĐND.

- Thường trực HĐND, Trưởng ban, Phó Trưởng ban và thành viên khác của
Ban, Thư ký kỳ họp HĐND huyện Krông Ana (cũ) chấm dứt hoạt động sau khi đã
được Thường trực HĐND tỉnh Đắk Lắk chỉ định Quyền Chủ tịch HĐND của hai
huyện mới

Khổ 3, Điều 80 Quy chế hoạt động của HĐND quy định:

... Thường trực HĐND, Trưởng ban, Phó Trưởng ban và thành viên khác của Ban,
Thư ký kỳ họp HĐND của đơn vị hành chính cũ chấm dứt hoạt động khi đã chỉ định được
triệu tập viên hoặc Quyền Chủ tịch HĐND ở đơn vị hành chính mới được chia hoặc sáp
nhập.

Trong trường hợp của địa phương, sau khi Thường trực HĐND tỉnh Đắk Lắk chỉ
định Quyền Chủ tịch HĐND huyện Krông Ana (mới) và Quyền Chủ tịch HĐND huyện
Cư Kuin thì Thường trực HĐND, Trưởng ban, Phó Trưởng ban và các thành viên khác
của Ban, Thư ký kỳ họp của HĐND huyện Krông Ana (cũ) sẽ chấm dứt hoạt động.

- Tiến hành Hội nghị đại biểu HĐND

Điểm a, Khoản 2, Điều 82 Quy chế hoạt động của HĐND quy định:

2. Quyền Chủ tịch HĐND có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

a) Triệu tập và chủ tọa hội nghị của các đại biểu HĐND để bàn và kết luận về kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách địa phương. Kết luận này có giá trị để Ủy
ban nhân dân cùng cấp triển khai thực hiện.
THÔNG TIN CÔNG TÁC LẬP PHÁP

Theo đó, HĐND huyện Krông Ana (mới) và huyện Cư Kuin không tổ chức kỳ họp
HĐND mà tổ chức Hội nghị của các đại biểu HĐND. Việc triệu tập và chủ tọa Hội nghị
do Quyền Chủ tịch HĐND đảm nhiệm.

Tại Hội nghị, các đại biểu HĐND sẽ thảo luận, trao đổi và quyết định về kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách địa phương.

2- Về hoạt động của đại biểu HĐND huyện Krông Ana (mới) và huyện Cư
Kuin

Điều 80 Quy chế hoạt động của HĐND quy định:

“Trong trường hợp một đơn vị hành chính được chia tách thành nhiều đơn vị hành
chính mới, các đại biểu HĐND đã được bầu hoặc công tác ở địa hạt đơn vị hành chính
mới nào thì hợp thành HĐND của đơn vị hành chính đó và tiếp tục hoạt động cho đến
khi hết nhiệm kỳ”.

Huyện Krông Ana (cũ) được điều chỉnh địa giới hành chính để thành lập huyện
Krông Ana (mới) và huyện Cư Kuin, nên hoạt động của đại biểu HĐND huyện Krông
Ana (mới) và huyện Cư Kuin được thực hiện theo quy định trên. Đại biểu HĐND hai
huyện hoạt động cho đến hết nhiệm kỳ 2004-2009.

You might also like