You are on page 1of 88

PhÇn më ®Çu

Loµi ngêi ®· tr¶i qua n¨m ph¬ng thøc s¶n xuÊt ®ã lµ: Nguyªn thuû,
chiÕm h÷u n« lÖ, x· héi phong kiÕn, , t b¶n chñ nghÜa x· héi chñ nghÜa.
T duy ph¸t triÓn, nhËn thøc cña con ngêi kh«ng dõng l¹i ë mét chç. Tõ khi
s¶n xuÊt chñ yÕu b»ng h¸i lîm s¨n b¾t, tr×nh ®é khoa häc kü thuËt l¹c hËu
th× ngµy nay tr×nh ®é khoa häc ®¹t tíi møc tét ®Ønh. Kh«ng Ýt c¸c nhµ
khoa häc, c¸c nhµ nghiªn cøu ®æ søc bá c«ng cho c¸c vÊn ®Ò nµy cô thÓ
lµ nhËn thøc con ngêi, tron®ã cã triÕt häc. Víi ba trêng ph¸i trong lÞch sö
ph¸t triÓn cña m×nh chñ nghÜa duy vËt, chñ nghÜa duy t©m vµ tr êng ph¸i
nhÞ nguyªn luËn. Nhng hä ®Òu thèng nhÊt r»ng thùc chÊt cña triÕt häc
®ã lµ sù thèng nhÊt biÖn chøng gi÷a quan hÖ s¶n xuÊt víi lùc l îng s¶n
xuÊt nh thèng nhÊt gi÷a hai mÆt ®èi lËp t¹o nªn chØnh thÓ cña nÒn s¶n
xuÊt x· héi. T¸c ®éng qua l¹i biÖn chøng gi÷a lùc lîng s¶n xuÊt víi quan
hÖ s¶n xuÊt ®îc m¸c vµ ¡nghen kh¸i qu¸t thµnh qui luËt vÒ sù phï hîp gi÷a
quan hÖ s¶n xuÊt víi lùc lîng s¶n xuÊt. Tõ nh÷ng lý luËn trªn ®a M¸c -
¡nghen v¬n lªn ®Ønh cao trÝ tuÖ cña nh©n lo¹i. Kh«ng chØ trªn ph¬ng
diÖn triÕt häc mµ c¶ chÝnh trÞ kinh tÕ häc vµ chñ nghÜa céng s¶n khoa
häc. Díi nh÷ng h×nh thøc vµ møc ®é kh¸c nhau, dï con ngêi cã ý thøc vµ
møc ®é kh¸c nhau, dï con ngêi cã ý thøc ®îc hay kh«ng th× nhËn thøc cña
hai «ng vÒ qui luËt vÉn xuyªn suèt lÞch sö ph¸t triÓn.

BiÖn chøng quan hÖ s¶n xuÊt víi lùc lîng s¶n xuÊt t¹o ®iÒu kiÖn cho
sinh viªn nãi chung vµ t«i nãi riªng cã ®îc mét nhËn thøc vÒ s¶n xuÊt x·
héi. §ång thêi më mang ®îc nhiÒu lÜnh vùc vÒ kinh tÕ. ThÊy ®îc vÞ trÝ,
ý nghÜa cña nã. T«i m¹nh d¹n ®a ra nhËn ®Þnh cña m×nh vÒ ®Ò tµi
"Quan hÖ biÖn chøng gi÷a lùc lîng s¶n xuÊt vµ quan hÖ s¶n xuÊt. Sù
vËn dông cña §¶ng ta trong ®êng lèi ®æi míi ë ViÖt Nam"

1
Tuy nhiªn do tr×nh ®é nhËn thøc hiÓu biÕt vÒ mäi mÆt cßn h¹n chÕ,
nªn kh«ng tr¸nh khái nh÷ng sai sãt mong thÇy c« gi¸o gãp ý ®Ó bµi viÕt ®îc
hoµn thiÖn h¬n.

2
B. Néi dung

Ch¬ng I

Sù nhËn thøc vÒ lùc lîng s¶n xuÊt, quan hÖ s¶n xuÊt vµ qui luËt
quan hÖ s¶n xuÊt phï hîp víi tÝnh chÊt

vµ tr×nh ®é ph¸t triÓn cña lùc lîng s¶n xuÊt.

I/ §«i nÐt vÒ lùc lîng s¶n xuÊt vµ quan hÖ s¶n xuÊt.

1. Lùc lîng s¶n xuÊt lµ g×?

Lùc lîng s¶n xuÊt lµ toµn bé nh÷ng t liÖu s¶n xuÊt do x· héi t¹o ra, tríc
hÕt lµ c«ng cô lao ®éng vµ nh÷ng ngêi lao ®éng víi kinh ngiÖm vµ thãi
quen lao ®éng nhÊt ®Þnh ®· sö dông nh÷ng t liÖu s¶n xuÊt ®ã ®Ó t¹o ra
cña c¶i vËt chÊt cho x· héi.

Tõ thùc tr¹ng ®ã lý luËn vÒ lùc lîng s¶n xuÊt cña x· héi ®îc C.M¸c nªu
lªn vµ ph¸t triÓn mét c¸ch s©u s¾c trong c¸c t¸c phÈm chuÈn bÞ cho bé
"T b¶n" vµ chÝnh trong bé "T b¶n" M¸c ®· tr×nh bµy hÕt søc râ rµng
quan ®iÓm cña m×nh vÒ c¸c yÕu tè cÊu thµnh lùc lîng s¶n xuÊt cña x·
héi trong ®ã bao gåm søc lao ®éng vµ t liÖu s¶n xuÊt. §èi víi M¸c cïng víi
t liÖu lao ®éng ®èi víi lao ®éng còng thuéc vÒ t liÖu s¶n xuÊt, cßn trong
t liÖu lao ®éng tøc lµ tÊt c¶ nh÷ng yÕu tè vËt chÊt mµ con ngêi sö dông
®Ó t¸c ®éng vµ ®èi tîng lao ®éng nh c«ng cô lao ®éng, nhµ xëng, ph¬ng
tiÖn lao ®éng, c¬ së vËt chÊt kho tµng... th× vai trß quan träng h¬n c¶
thuéc vÒ c«ng cô lao ®éng. C«ng cô lao ®éng lµ yÕu tè quan träng nhÊt
linh ho¹t nhÊt cña t liÖu s¶n xuÊt. Mäi thêi ®¹i muèn ®¸nh gi¸ tr×nh ®é
s¶n xuÊt th× ph¶i dùa vµo c«ng cô lao ®éng. Muãn ®¸nh gi¸ sù ph¸t triÓn
cña mét x· héi ngêi ta nh×n vµo hÖ thãng c«ng cô lao ®éng nh m¸y mãc,
ph¬ng tiÖn... Tuy nhiªn yÕu tè quan träng nhÊt trong lùc lîng s¶n xuÊt

3
chÝnh lµ con ngêi cho dï nh÷ng t liÖu lao ®éng ®îc t¹o ra tõ tríc cã søc
m¹nh ®Õn ®©u vµ ®èi tîng lao ®éng cã phong phó nh thÕ nµo th× con
ngêi vÉn lµ bËc nhÊt.

LÞch sö loµi ngêi ®îc ®¸nh dÊu bëi c¸c mèc quan träng trong sù ph¸t
triÓn cña lùc lîng s¶n xuÊt tríc hÕt lµ c«ng cô lao ®éng. Sau bíc ngoÆt
sinh häc, sù xuÊt hiÖn c«ng cô lao ®éng ®¸nh dÊu mét bíc ngoÆt kh¸c
trong sù chuyÓn tõ vîn thµnh ngêi. Tõ kiÕm sèng b»ng s¨n b¾t h¸i lîm
sang ho¹t ®éng lao ®éng thÝch nghi víi tù nhiªn vµ dÇn dÇn c¶i t¹o tù
nhiªn. Tõ s¶n xuÊt n«ng nghiÖp c«ng nghÖ l¹c hËu chuyÓn lªn c¬ khÝ ho¸
s¶n xuÊt. Sù ph¸t triÓn lùc lîng s¶n xuÊt trong giai ®o¹n nµy kh«ng chØ
giíi h¹n ë viÖc t¨ng mét c¸ch ®¸ng kÓ sè lîng thuÇn tuý víi c¸c c«ng cô ®·
cã mµ chñ yÕu lµ ë viÖc t¹o ra nh÷ng c«ng cô hoµn toµn míi sö dông c¬
b¾p con ngêi. Do ®ã con ngêi ®· chuyÓn mét phÇn c«ng viÖc n¨ng nhäc
cho m¸y mãc cã ®iÒu kiÖn ®Ó ph¸t huy c¸c n¨ng lùc kh¸c cña m×nh.

ë níc ta tõ tríc tíi nay nÒn kinh tÕ lÊy n«ng nghiÖp lµm chñ yÕu, nªn
tr×nh ®é khoa häc kü thuËt kÐm ph¸t triÓn. HiÖn thêi chóng ta ®ang ë
trong t×nh tr¹ng kÕ thõa nh÷ng lùc lîng s¶n xuÊt võa nhá nhoi, võa l¹c hËu
so víi tr×nh ®é chung cña thÕ giíi, h¬n n÷a trong mét thêi gian kh¸ dµi,
nh÷ng lùc lîng Êy bÞ k×m h·m, ph¸t huy t¸c dông kÐm. Bëi vËy §¹i héi
lÇn thø VI cña §¶ng ®Æt ra nhiÖm vô lµ ph¶i "Gi¶i phãng mäi n¨ng lùc
s¶n xuÊt hiÖn cã. Khai th¸c mäi kh¶ n¨ng tiÒm tµng cña ®Êt níc, sö dông
cã hiÖu qu¶ sù gióp ®ì quèc tÕ ®Ó ph¸t triÓn m¹nh mÏ lùc lîng s¶n xuÊt”.
MÆt kh¸c chóng ta ®ang ë trong giai ®o¹n míi trong sù ph¸t triÓn cña c¸ch
m¹ng khoa häc kü thuËt ®ang chøng kiÕn nh÷ng biÕn ®æi c¸ch m¹ng
trong c«ng nghÖ. ChÝnh ®iÒu nµy ®ßi hái chóng ta lùa chän mét mÆt
tËn dông c¸i hiÖn cã mÆt kh¸c nhanh chãng tiÕp thu c¸i míi do thêi ®¹i t¹o
ra nh»m dïng chóng ®Ó nh©n nhanh c¸c nguån lùc tõ bªn trong. NÕu
ph©n tÝch mét c¸ch kh¸ch quan th× râ rµng lùc lîng s¶n xuÊt cña ta ®ang

4
øng víi c¶ ba giai ®o¹n ph¸t triÓn cña lùc lîng s¶n xuÊt trong nÒn v¨n minh
loµi ngêi. Thùc tÕ hiÖn nay trong nhiÒu ngµnh s¶n xuÊt c«ng cô thñ c«ng
vÉn ®ang lµ chñ yÕu, lao ®éng nÆng ®ang chiÕm tØ lÖ cao. CÇn
kh¼ng ®Þnh mét vÊn ®Ò cã tÝnh quy luËt lµ trong lÞch sö bao giê còng
cã sù ®an xen cña tr×nh ®é ph¸t triÓn kh¸c nhau trong tõng yÕu tè cÊu
thµnh lùc lîng s¶n xuÊt.

Tuy nhiªn trªn thùc tÕ song song víi t×nh tr¹ng l¹c hËu trong ph¹m vi
hÑp nhÊt ®Þnh, chóng ta ®ang dÇn dÇn ®i lªn víi tù ®éng ho¸, sö dông
thµnh th¹o m¸y mãc vi tÝnh...§ã lµ c¸ch tèt nhÊt ®Ó ®a níc ta ra khái l¹c
hËu nghÌo nµn.

2. Quan hÖ s¶n xuÊt ® îc hiÓu ra sao:

Quan hÖ s¶n xuÊt lµ mèi quan hÖ gi÷a con ngêi víi con ngêi trong qu¸
tr×nh s¶n xuÊt ra cña c¶i vËt chÊt cña x· héi, trong qu¸ tr×nh s¶n xuÊt con
ngêi ph¶i cã nh÷ng quan hÖ, con ngêi kh«ng thÓ t¸ch khái céng ®ång. Nh
vËy viÖc ph¶i thiÕt lËp c¸c mèi quan hÖ trong s¶n xuÊt tù nã ®· lµ vÊn
®Ò cã tÝnh qui luËt råi. Nh×n tæng thÓ quan hÖ s¶n xuÊt gåm ba mÆt.

- ChÕ ®é së h÷u vÒ t liÖu s¶n xuÊt tøc lµ quan hÖ gi÷a ngêi ®èi víi t
liÖu s¶n xuÊt, nãi c¸ch kh¸c t liÖu s¶n xuÊt thuéc vÒ ai.

- ChÕ ®é tæ chøc vµ qu¶n lý s¶n xuÊt, kinh doanh, tøc lµ quan hÖ


gi÷a ngêi víi ngêi trong s¶n xuÊt vµ trao ®æi cña c¶i vËt chÊt nh ph©n
c«ng chuyªn m«n ho¸ vµ hîp t¸c ho¸ lao ®éng quan hÖ gi÷a ng êi qu¶n lý
víi c«ng nh©n.

- ChÕ ®é ph©n phèi s¶n xuÊt, s¶n phÈm tøc lµ quan hÖ chÆt chÏ víi
nhau vµ cïng mét môc tiªu chung lµ sö dông hîp lý vµ cã hiÖu qu¶ t liÖu
s¶n xuÊt ®Ó lµm cho chóng kh«ng ngõng ®îc t¨ng trëng, thóc ®Èy t¸i s¶n
xuÊt më réng, n©ng cao phóc lîi ngêi lao ®éng. §ãng gãp ngµy cµng
nhiÒu cho nhµ níc x· héi chñ nghÜa.

5
Trong c¶i t¹o vµ cñng cè quan hÖ s¶n xuÊt vÊn ®Ò quan träng mµ ®¹i
héi VI nhÊn m¹nh lµ ph¶i tiÕn hµnh c¶ ba mÆt ®ång bé: chÕ ®é së h÷u,
chÕ ®é qu¶n lý vµ chÕ ®é ph©n phèi kh«ng nªn coi träng mét mÆt nµo
c¶ vÒ mÆt lý luËn, kh«ng nghi ngê g× r»ng: chÕ ®é së h÷u lµ nÒn t¶ng
quan hÖ s¶n xuÊt . Nã lµ ®Æc trng ®Ó ph©n biÖt ch¼ng nh÷ng c¸c quan
hÖ s¶n xuÊt kh¸c nhau mµ cßn c¸c thêi ®¹i kinh tÕ kh¸c nhau trong lÞch sö
nh møc ®· nãi.

- Thùc tÕ lÞch sö cho thÊy râ bÊt cø mét cuéc c¸ch m¹ng x· héi nµo
®Òu mang mét môc ®Ých kinh tÕ lµ nh»m b¶o ®¶m cho lùc l îng s¶n xuÊt
cã ®iÒu kiÖn tiÕp tôc ph¸t triÓn thuËn lîi vµ ®êi sèng vËt chÊt cña con
ngêi còng ®îc c¶i thiÖn. §ã lµ tÝnh lÞch sö tù nhiªn cña c¸c qu¸ tr×nh
chuyÓn biÕn gi÷a c¸c h×nh th¸i kinh tÕ - x· héi trong qu¸ khø vµ còng lµ
tÝnh lÞch sö tù nhiªn cña thêi kú qu¸ ®é tõ h×nh th¸i kinh tÕ - x· héi t b¶n
chñ nghÜa sang h×nh th¸i kinh tÕ - x· héi céng s¶n chñ nghÜa.

- Vµ xÐt riªng trong ph¹m vi mét quan hÖ s¶n xuÊt nhÊt ®Þnh th×
tÝnh chÊt cña së h÷u còng quyÕt ®Þnh tÝnh chÊt cña qu¶n lý vµ ph©n
phèi. MÆt kh¸c trong mçi h×nh th¸i kinh tÕ - x· héi nhÊt ®Þnh quan hÖ
s¶n xuÊt thèng trÞ bao giê còng gi÷ vai trß chi phèi c¸c quan hÖ s¶n xuÊt
kh¸c Ýt nhiÒu c¶i biÕn chóng ®Ó ch¼ng nh÷ng chóng khong ®èi lËp mµ
cßn phôc vô ®¾c lùc cho sù tån t¹i vµ ph¸t triÓn cña chÕ ®é kinh tÕ - x·
héi míi.

Chñ nghÜa M¸c - Lªnin cha bao giê coi h×nh th¸i kinh tÕ - x· héi nµo
®· tån t¹i kÓ tõ tríc ®Õn nay lµ chuÈn nhÊt. Trong mçi h×nh th¸i kinh tÕ -
x· héi cïng víi mét quan hÖ s¶n xuÊt thèng trÞ, ®iÓn h×nh cßn tån t¹i
nh÷ng quan hÖ s¶n xuÊt phô thuéc, lçi thêi nh lµ tµn d cña x· héi cò. Ngay
ë c¶ c¸c níc t b¶n chñ nghÜa ph¸t triÓn nhÊt còng kh«ng chØ cã mét quan
hÖ s¶n xuÊt t b¶n chñ nghÜa thuÇn nhÊt. TÊt c¶ c¸c t×nh h×nh trªn ®Òu
b¾t nguån tõ ph¸t triÓn kh«ng ®Òu vÒ lùc lîng s¶n xuÊt kh«ng nh÷ng

6
gi÷a c¸c níc kh¸c nhau mµ cßn gi÷a c¸c vïng vµ c¸c ngµnh kh¸c nhau cña
mét níc. ViÖc chuyÓn tõ quan hÖ s¶n xuÊt lçi thêi lªn cao h¬n nh C.M¸c
nhËn xÐt: "Kh«ng bao giê xuÊt hiÖn tríc khi nh÷ng ®iÒu kiÖn tån t¹i vËt
chÊt cña nh÷ng quan hÖ ®ã cha chÝn muåi..." ph¶i cã mét thêi kú lÞch sö
t¬ng ®èi l©u dµi míi cã thÓ t¹o ra ®iÒu kiÖn vËt chÊt trªn.

3. NhËn thøc vÒ ph¹m trï h×nh th¸i kinh tÕ - x· héi céng s¶n.

B¾t nguån tõ nhËn thøc vÒ qui luËt ph¸t triÓn cña x· héi loµi ngêi lµ
mét qu¸ tr×nh lÞch sö tù nhiªn, ®ång thêi xuÊt ph¸t tõ nh÷ng ®iÒu kiÖn
míi cña thùc tÕ lÞch sö hiÖn nay cã thÓ kh¼ng ®Þnh c¸c níc chËm ph¸t
triÓn còng cã kh¶ n¨ng tiÕn lªn CNXH tïy theo hoµn c¶nh vµ kh¶ n¨ng cña
m×nh. Kh¶ n¨ng qu¸ ®é lªn CNXH nµy thêng ®îc gäi lµ con ®êng qu¸ ®é
gi¸n tiÕp lªn CNXH, con ®êng bá qua giai ®o¹n ph¸t triÓn chÕ ®é t b¶n
chñ nghÜa. Con ®êng ph¸t triÓn theo kh¶ n¨ng nµy cßn ®îc gäi lµ con ®-
êng theo ®Þnh híng x· héi chñ nghÜa. Theo kinh nghiÖm thùc tÕ cña
Lªnin ®©y lµ mét con ®êng kh¸ l©u dµi ph¶i qua nhiÒu bíc trung gian,
ph¸t triÓn qua ®Êu tranh giai cÊp rÊt phøc t¹p. Sù ®i lªn ph¶i cã sù ñng hé
vµ gióp ®ì bªn ngoµi. Tríc hÕt trong níc ®ã cÇn cã mét §¶ng cña giai cÊp
v« s¶n l·nh ®¹o, mét ®¶ng cã quan hÖ mËt thiÕt "sèng cßn" víi d©n. Tõ
®ã tæ chøc ¸p dông l·nh ®¹o trong ®ã cã c¶ vËn dông qui luËt s¶n xuÊt
phï hîp víi níc ®ã mét c¸ch tÝch cùc ®Ó kh«ng ngõng tiÕn bíc.

II- Qui luËt quan hÖ s¶n xuÊt phï hîp víi tÝnh chÊt vµ tr×nh ®é
ph¸t triÓn cña lùc lîng s¶n xuÊt.

1. Quan hÖ s¶n xuÊt vµ lùc l îng s¶n xuÊt m©u thuÉn hay phï hîp.

Trong t¸c phÈm gãp phÇn phª ph¸n khoa kinh tÕ - chÝnh trÞ n¨m 1859
C.M¸c viÕt "Trong sù s¶n xuÊt x· héi ra ®êi sèng cña m×nh, con ngêi ta cã
nh÷ng quan hÖ nhÊt ®Þnh, tÊt yÕu kh«ng phô thuéc ý muèn cña hä, tøc
nh÷ng quan hÖ s¶n xuÊt. Nh÷ng qui luËt nµy phï hîp víi mét tr×nh ®é ph¸t

7
triÓn nhÊt ®Þnh cña lùc lîng s¶n xuÊt. Nh÷ng quan hÖ nµy phï hîp víi mét
tr×nh ®é ph¸t triÓn nhÊt ®Þnh cña lùc lîng s¶n xuÊt vËt chÊt cña hä..."
Ngêi ta thêng coi t tëng nµy cña M¸c lµ t tëng vÒ "Qui luËt quan hÖ s¶n
xuÊt phï hîp víi tÝnh chÊt vµ tr×nh ®é cña lùc lîng s¶n xuÊt".

C¸c mèi quan hÖ trong s¶n xuÊt bao gåm nhiÒu d¹ng thøc kh¸c nhau
mµ nh×n mét c¸ch tæng qu¸t th× ®ã lµ nh÷ng d¹ng quan hÖ s¶n xuÊt vµ
d¹ng nh÷ng lùc lîng s¶n xuÊt tõ ®ã h×nh thµnh nh÷ng mèi lien hÖ chñ
yÕu c¬ b¶n lµ mèi liªn hÖ gi÷a quan hÖ s¶n xuÊt víi tÝnh chÊt vµ tr×nh
®é cña lùc lîng s¶n xuÊt. Nhng mèi liªn hÖ gi÷a hai yªu tè c¬ b¶n nµy lµ
g×? Phï hîp hay kh«ng phï hîp. Thèng nhÊt hay m©u thuÉn? Tríc hÕt cÇn
x¸c ®Þnh kh¸i niÖm phï hîp víi c¸c ý nghÜa sau.

- Phï hîp lµ sù c©n b»ng, sù thèng nhÊt gi÷a c¸c mÆt ®èi lËp hay "sù
yªn tÜnh" gi÷a c¸c mÆt.

- Phï hîp lµ mét xu híng mµ nh÷ng dao ®éng kh«ng c©n b»ng sÏ ®¹t
tíi.

Trong phÐp biÖn chøng sù c©n b»ng chØ lµ t¹m thêi vµ sù kh«ng c©n
b»ng lµ tuyÖt ®èi. M©u thuÊn ®«i khi lµ ®éng lùc cña sù ph¸t triÓn . Ta
biÕt r»ng trong phÐp biÖn chøng c¸i t¬ng ®èi kh«ng t¸ch khái c¸i tuyÖt
®èi nghÜa lµ gi÷a chóng kh«ng cã mÆt giíi h¹n x¸c ®Þnh. NÕu chóng ta
nh×n nhËn mét c¸ch kh¸c cã thÓ hiÓu sù c©n b»ng nh mét sù ®øng im,
cßn sù kh«ng c©n b»ng cã thÓ hiÓu nh sù vËn ®éng. Tøc sù c©n b»ng
trong s¶n xuÊt chØ lµ t¹m thêi cßn kh«ng c©n b»ng kh«ng phï hîp gi÷a
chóng lµ tuyÖt ®èi. ChØ cã thÓ quan niÖm ®îc sù ph¸t triÓn chõng nµo
ngêi ta thõa nhËn tÝnh ch©n lý vÜnh h»ng cña sù vËn ®éng. Còng v×
vËy chØ cã thÓ quan niÖm ®îc sù ph¸t triÓn chõng nµo ngêi ta thõa nhËn,
nhËn thøc ®îc sù ph¸t triÓn trong m©u thuÉn cña lùc lîng s¶n xuÊt vµ
quan hÖ s¶n xuÊt chõng nµo ta thõa nhËn tÝnh vÜnh viÔn kh«ng phï hîp
gi÷a chóng.

8
Tõ nh÷ng lý luËn ®ã ®i ®Õn thùc t¹i níc ta còng vËy víi qu¸ tr×nh
ph¸t triÓn lÞch sö l©u dµi cña m×nh tõ thêi kú ®å ®¸ ®Õn thêi v¨n minh
hiÖn ®¹i. Níc ta ®i tõ sù kh«ng phï hîp hay sù l¹c hËu tõ nÒn v¨n minh
lóa níc. Tuy nhiªn qu¸ tr×nh vËn ®éng vµ ph¸t triÓn cña s¶n xuÊt lµ qu¸
tr×nh ®i tõ sù kh«ng phï hîp ®Õn sù phï hîp, nhng tr¹ng th¸i phï hîp chØ lµ
sù t¹m thêi, ng¾n ngñi, ý muèn t¹o nªn sù phï hîp vÜnh h»ng gi÷a lùc l îng
s¶n xuÊt víi quan hÖ s¶n xuÊt lµ tr¸i tù nhiªn, lµ thñ tiªu c¸i kh«ng thñ tiªu
®îc, tøc lµ sù vËn ®éng.

Tãm l¹i, cã thÓ nãi thùc chÊt cña qui luËt vÒ mèi quan hÖ gi÷a lùc l-
îng s¶n xuÊt vµ quan hÖ s¶n xuÊt lµ qui luËt m©u thuÉn. Sù phï hîp gi÷a
chóng chØ lµ mét c¸i trôc, chØ lµ tr¹ng th¸i yªn tÜnh t¹m thêi, cßn sù vËn
®éng, dao ®éng sù m©u thuÉn lµ vÜnh viÔn chØ cã kh¸i niÖm m©u
thuÉn míi ®ñ kh¶ n¨ng v¹ch ra ®éng lùc cña sù ph¸t triÓn míi cã thÓ cho
ta hiÓu ®îc sù vËn ®éng cña qui luËt kinh tÕ.

2. Qui luËt quan hÖ s¶n xuÊt phï hîp víi tÝnh chÊt vµ tr×nh ®é
ph¸t triÓn cña lùc l îng s¶n xuÊt.

TÊt c¶ chóng ta ®Òu biÕt, quan hÖ s¶n xuÊt vµ lùc l îng s¶n xuÊt lµ
hai mÆt hîp thµnh cña ph¬ng thøc s¶n xuÊt cã t¸c ®éng qua l¹i biÖn chøng
víi nhau. ViÖc ®Èy quan hÖ s¶n xuÊt lªn qu¸ xa so víi tÝnh chÊt vµ tr×nh
®é ph¸t triÓn cña lùc lîng s¶n xuÊt lµ mét hiÖn tîng t¬ng ®èi phæ biÕn ë
nhiÒu níc x©y dùng x· héi chñ nghÜa. Nguån gèc cña t tëng sai lÇm nµy
lµ bÖnh chñ quan, duy ý chÝ, muèn cã nhanh chñ nghÜa x· héi thuÇn
nhÊt bÊt chÊp qui luËt kh¸ch quan. VÒ mÆt ph¬ng ph¸p luËn, ®ã lµ chñ
nghÜa duy vËt siªu h×nh, qu¸ l¹m dông mèi quan hÖ t¸c ®éng ng îc l¹i cña
quan hÖ s¶n xuÊt ®èi víi sù ph¸t triÓn cña lùc lîng s¶n xuÊt. Sù l¹m dông
nµy biÓu hiÖn ë "Nhµ níc chuyªn chÝnh v« s¶n cã kh¶ n¨ng chñ ®éng t¹o
ra quan hÖ s¶n xuÊt míi ®Ó më ®êng cho sù ph¸t triÓn cña lùc lîng s¶n
xuÊt".

9
Nhng khi thùc hiÖn ngêi ta ®· quªn r»ng sù "chñ ®éng" kh«ng ®ång
nghÜa víi sù chñ quan tuú tiÖn, con ngêi kh«ng thÓ tù do t¹o ra bÊt cø
h×nh thøc nµo cña quan hÖ s¶n xuÊt mµ m×nh muèn cã. Ngîc l¹i quan hÖ
s¶n xuÊt lu«n lu«n bÞ qui ®Þnh mét c¸ch nghiªm ngÆt bëi tr¹ng th¸i cña
lùc lîng s¶n xuÊt, bëi quan hÖ s¶n xuÊt víi tÝnh chÊt vµ tr×nh ®é ph¸t
triÓn cña lùc lîng s¶n xuÊt. Quan hÖ s¶n xuÊt chØ cã thÓ më ®êng cho
lùc lîng s¶n xuÊt ph¸t triÓn khi mµ nã ®îc hoµn thiÖn tÊt c¶ vÒ néi dung
cña nã, nh»m gi¶i quyÕt kÞp thêi nh÷ng m©u thuÉn gi÷a quan hÖ s¶n
xuÊt vµ lùc lîng s¶n xuÊt.

+ Lùc lîng s¶n xuÊt quyÕt ®Þnh sù h×nh thµnh biÕn ®æi cña quan hÖ
s¶n xuÊt: lùc lîng s¶n xuÊt lµ c¸i biÕn ®æi ®Çu tiªn vµ lu«n biÕn ®æi
trong s¶n xuÊt con ngêi muèn gi¶m nhÑ lao ®éng nÆng nhäc t¹o ra n¨ng
suÊt cao ph¶i lu«n t×m c¸ch c¶i tiÕn c«ng cô lao ®éng. ChÕ t¹o ra c«ng cô
lao ®éng míi. Lùc lîng lao ®éng qui ®Þnh sù h×nh thµnh vµ biÕn ®æi
quan hÖ s¶n xuÊt ki quan hÖ s¶n xuÊt kh«ng thÝch øng víi tr×nh ®é,
tÝnh chÊt cña lùc lîng s¶n xuÊt th× nã k×m h·m thËm chÝ ph¸ ho¹i lùc l-
îng s¶n xuÊt th× nã k×m h·m thËm chÝ ph¸ ho¹i lùc lîng s¶n xuÊt vµ ngîc
l¹i.

+ Sù t¸c ®éng trë l¹i cña quan hÖ s¶n xuÊt ®èi víi lùc l îng s¶n xuÊt.
Quan hÖ s¶n xuÊt khi ®· ®îc x¸c lËp th× nã ®éc lËp t¬ng ®èi víi lùc lîng
s¶n xuÊt vµ trë thµnh nh÷ng c¬ së vµ nh÷ng thÓ chÕ x· héi vµ nã kh«ng
thÓ biÕn ®æi ®ång thêi ®èi víi lùc lîng s¶n xuÊt. Thêng l¹c hËu so víi lùc
lîng s¶n xuÊt vµ nÕu quan hÖ s¶n xuÊt phï hîp víi tr×nh ®é s¶n xuÊt,
tÝnh chÊt cña lùc lîng s¶n xuÊt th× nã thóc ®Èy sù ph¸t triÓn cña lùc lîng
s¶n xuÊt. NÕu l¹c hËu so víi lùc lîng s¶n xuÊt dï t¹m thêi th× nã k×m h·m
sù ph¸t triÓn cña lùc lîng s¶n xuÊt. Së dÜ quan hÖ s¶n xuÊt cã thÓ t¸c
®éng m¹nh mÏ trë l¹i ®èi víi lùc lîng s¶n xuÊt v× nã qui ®Þnh môc ®Ých
cña s¶n xuÊt qui ®Þnh hÖ thèng tæ chøc qu¶n lý s¶n xuÊt vµ qu¶n lý x·

10
héi, qui ®Þnh ph¬ng thøc ph©n phèi vµ phÇn cña c¶i Ýt hay nhiÒu mµ
ngêi lao ®éng ®îc hëng. Do ®ã nã ¶nh hëng tíi th¸i ®é tÊt c¶ quÇn chóng
lao ®éng. Nã t¹o ra nh÷ng ®iÒu kiÖn hoÆc kÝch thÝch hoÆc h¹n chÕ sù
ph¸t triÓn c«ng cô s¶n xuÊt, ¸p dông thµnh tùu khoa häc kü thuËt vµo s¶n
xuÊt hîp t¸c ph©n c«ng lao ®éng quèc tÕ.

11
Ch¬ng II

Sù vËn dông cña ®¶ng ta trong ® êng lèi


®æi míi ë viÖt nam

I/ Sù h×nh thµnh vµ ph¸t triÓn nÒn kinh tÕ nhiÒu thµnh phÇn


trong giai ®o¹n hiÖn nay ë níc ta.

Sau khi giµnh ®îc chÝnh quyÒn tõ tay ®Õ quèc Ph¸p nÒn kinh tÕ níc
ta ®i lªn theo nÒn kinh tÕ tù nhiªn, tù cung tù cÊp, nÒn s¶n xuÊt nhá tr×nh
®é khoa häc kÐm ph¸t triÓn, quan hÖ gi÷a lùc lîng s¶n xuÊt víi tr×nh ®é
s¶n xuÊt rêi r¹c, tÎ nh¹t. §¸nh th¾ng ®Õ quèc Ph¸p th× giÆc Mü l¹i x©m
chiÕm ®¸nh ph¸ níc ta. ThÕ råi non s«ng vÒ mét mèi c¶ níc ®i lªn chñ
nghÜa x· héi víi mét lùc lîng s¶n xuÊt lín vµ tiÒm n¨ng mäi mÆt cßn non
trÎ ®ßi hái níc ta ph¶i cã mét chÕ ®é kinh tÕ phï hîp víi níc nhµ vµ do ®ã
nÒn kinh tÕ hµng ho¸ nhiÒu thµnh phÇn ra ®êi. Nh×n th¼ng vµo sù thËt
chóng ta thÊy r»ng, trong thêi gian qua do qu¸ cêng ®iÖu vai trß cña quan
hÖ s¶n xuÊt do quan niÖm kh«ng ®óng vÒ mèi quan hÖ gi÷a së h÷u vµ
quan hÖ kh¸c, do quªn mÊt ®iÒu c¬ b¶n lµ níc ta qu¸ ®é ®i lªn chñ nghÜa
x· héi tõ mét x· héi tiÒn t b¶n chñ nghÜa. §ång nhÊt chÕ ®é c«ng h÷u víi
chñ nghÜa x· héi lÉn lén ®ång nhÊt gi÷a hîp t¸c ho¸ vµ tËp thÓ ho¸.
Kh«ng thÊy râ c¸c bíc ®i cã tÝnh qui luËt trªn con ®êng tiÕn lªn CNXH
nªn ®· tiÕn hµnh ngay cuéc c¶i t¹o x· héi chñ nghÜa ®èi víi nÒn kinh tÕ
quèc d©n vµ xÐt vÒ thùc chÊt lµ theo ®êng lèi "®Èy m¹nh c¶i t¹o x· héi
chñ nghÜa, ®a quan hÖ s¶n xuÊt ®i tríc më ®êng cho lùc lîng s¶n xuÊt
ph¸t triÓn. ThiÕt lËp chÕ ®é c«ng h÷u thuÇn nhÊt gi÷a hai h×nh thøc së
h÷u toµn d©n vµ tËp thÓ". Quan niÖm cho r»ng cã thÓ ®a quan hÖ s¶n
xuÊt ®i tríc ®Ó t¹o ®Þa bµn réng r·i, thóc ®Èy lùc lîng s¶n xuÊt ph¸t
triÓn ®· bÞ b¸c bá. Sù ph¸t triÓn cña lùc lîng s¶n xuÊt x· héi nµy ®· m©u

12
thuÉn víi nh÷ng c¸i ph©n tÝch trªn. Trªn con ®êng t×m tßi lèi tho¸t cña
m×nh tõ trong lßng nÒn x· héi ®· n¶y sinh nh÷ng hiÖn t îng tr¸i víi ý muèn
chñ quan cña chóng ta cã nhiÒu hiÖn tîng tiªu cùc næi lªn trong ®êi sèng
kinh tÕ nh qu¶n lý kÐm, tham «,... Nhng thùc ra m©u thuÉn gi÷a yªu cÇu
ph¸t triÓn lùc lîng s¶n xuÊt víi nh÷ng h×nh thøc kinh tÕ - x· héi xa l¹ ®îc
¸p ®Æt mét c¸ch chñ quan kinh tÕ thÝch hîp cÇn thiÕt cho lùc lîng s¶n
xuÊt míi n¶y sinh vµ ph¸t triÓn. Kh¾c phôc nh÷ng hiÖn tîng tiªu cùc trªn
lµ cÇn thiÕt vÒ mÆt nµy trªn thùc tÕ chóng ta cha lµm hÕt nhiÖm vô
m×nh ph¶i lµm. Ph¶i gi¶i quyÕt ®óng ®¾n gi÷a m©u thuÉn lùc lîng s¶n
xuÊt víi quan hÖ s¶n xuÊt tõ ®ã kh¾c phôc nh÷ng khã kh¨n vµ tiªu cùc
cña nÒn kinh tÕ. ThiÕt lËp quan hÖ s¶n xuÊt míi víi nh÷ng h×nh thøc vµ
bíc ®i phï hîp víi tr×nh ®é ph¸t triÓn cña lùc lîng s¶n xuÊt lu«n lu«n thóc
®©û s¶n xuÊt ph¸t triÓn víi hiÖu qu¶ kinh tÕ cao. Trªn c¬ së cñng cè
nh÷ng ®Ønh cao kinh tÕ trong tay nhµ níc c¸ch m¹ng. Cho phÐp phôc håi
vµ ph¸t triÓn chñ nghÜa t b¶n vµ bu«n b¸n tù do réng r·i cã lîi cho sù ph¸t
triÓn s¶n xuÊt. Quan ®iÓm ®æi míi tõ ®¹i héi VI còng ®· kh¼ng ®Þnh
kh«ng nhng kh«i phôc thµnh phÇn kinh tÕ t b¶n t nh©n vµ kinh tÕ c¶ thÕ
mµ ph¶i ph¸t triÓn chóng réng r·i theo chÝnh s¸ch cña §¶ng vµ Nhµ níc.
Nhng ®iÒu quan träng lµ ph¶i nhËn thøc ®îc vai trß cña thµnh phÇn kinh
tÕ nhµ níc trong thêi kú qu¸ ®é. §Ó thùc hiÖn vai trß nµy mét mÆt nã
ph¶i th«ng qua sù nªu g¬ng vÒ c¸c mÆt n¨ng suÊt, chÊt lîng vµ hiÖu qu¶.
Thùc hiÖn ®Çy ®ñ ®èi víi nhµ níc. §èi víi thµnh phÇn kinh tÕ t b¶n t
nh©n vµ kinh tÕ c¸ thÓ thùc hiÖn chÝnh s¸ch khuyÕn khÝch ph¸t triÓn.
Tuy nhiªn víi thµnh phÇn kinh tÕ nµy ph¶i cã nh÷ng biÖn ph¸p ®Ó cho
quan hÖ s¶n xuÊt thùc hiÖn phï hîp víi tÝnh chÊt vµ tr×nh ®é ph¸t triÓn
cña lùc lîng s¶n xuÊt trong thêi kú qu¸ ®é. V× nh thÕ míi thùc sù thóc
®Èy sù ph¸t triÓn cña lùc lîng lao ®éng.

13
II/ vËn dông quy luËt quan hÖ s¶n xuÊt phï hîp víi tÝnh chÊt vµ
tr×nh ®é ph¸t triÓn cña lùc lîng s¶n xuÊt trong qu¸ tr×nh c«ng
nghiÖp ho¸, trong sù nghiÖp ®æi míi ë níc ta hiÖn nay.

Thuéc ph¹m trï cña lùc lîng s¶n xuÊt vµ vËn ®éng kh«ng ngoµi biÖn
chøng néi t¹i cña ph¬ng thøc s¶n xuÊt, vÊn ®Ò c«ng nghiÖp ho¸ g¾n
chÆt víi hiÖn ®¹i ho¸, tríc hÕt ph¶i ®îc xem xÐt tõ t duy triÕt häc. Tríc
khi ®i vµo c«ng nghiÖp ho¸ - hiÖn ®¹i ho¸ vµ muèn thµnh c«ng trªn ®Êt
níc th× ph¶i cã tiÒm lùc vÒ kinh tÕ con ngêi, trong ®ã lùc lîng lao ®éng
lµ mét yÕu tè quan träng ®éng nhng c«ng cô cña chóng ta cßn th« s¬. Nguy
c¬ tôt hËu. Ngoµi ra ph¶i cã sù phï hîp gi÷a quan hÖ s¶n xuÊt víi tÝnh
chÊt vµ tr×nh ®é ph¸t triÓn lùc lîng s¶n xuÊt ®©y míi lµ nh©n tè c¬ b¶n
nhÊt.

§Êt níc ta ®ang trong qu¸ tr×nh c«ng nghiÖp ho¸ - hiÖn ®¹i ho¸ víi
tiÒm n¨ng lao ®éng lín cÇn cï, th«ng minh, s¸ng t¹o vµ cã kinh nghiÖm lao
cña ®Êt níc ngµy cµng ®îc kh¾c phôc. §¶ng ta ®ang triÓn khai m¹nh mÏ
mét sè vÊn ®Ò cña ®Êt níc vÒ c«ng nghiÖp ho¸ - hiÖn ®¹i ho¸ tríc hÕt
trªn c¬ së mét c¬ cÊu së h÷u hîp quy luËt g¾n liÒn víi mét c¬ cÊu c¸c
thµnh phÇn kinh tÕ hîp qui luËt, còng nh c¬ cÊu mét x· héi hîp giai cÊp.
Cïng víi thêi c¬ lín, nh÷ng thö th¸ch ghª gím ph¶i vît qua ®Ó hoµn thµnh
sù nghiÖp c«ng nghiÖp ho¸ - hiÖn ®¹i ho¸ ®Êt níc v× d©n giµu níc m¹nh
c«ng b»ng v¨n minhh·y cßn phÝa tríc mµ néi dung c¬ b¶n trong viÖc thùc
hiÖn lµ ph¶i nhËn thøc ®óng ®¾n vÒ qui luËt quan hÖ s¶n xuÊt phï hîp
víi tÝnh chÊt vµ tr×nh ®é ph¸t triÓn cña lùc lîng s¶n xuÊt trong giai ®o¹n
hiÖn nay cña níc ta.

III. Häc thuyÕt M¸c vÒ h×nh th¸i kinh tÕ - x· héi c¬ së lý luËn cña
sù nghiÖp c«ng nghiÖp ho¸ - hiÖn ®¹i ho¸ ë níc ta.

Chóng ta ®Òu biÕt r»ng, tõ tríc ®Õn nay, c«ng nghiÖp ho¸ - hiÖn ®¹i
ho¸ lµ khuynh híng ph¸t triÓn tÊt yÕu cña c¸c níc. §èi víi níc ta, tõ mét

14
nÒn kinh tÕ tiÓu n«ng muèn tho¸t khái nghÌo nµn, l¹c hËu, nhanh chãng
®¹t têi tr×nh ®é cña mét níc ph¸t triÓn tÊt yÕu ph¶i ®Èy m¹nh sù nghiÖp
c«ng nghiÖp ho¸ nh lµ mét cuéc c¸ch m¹ng toµn diÖn vµ s©u s¾c. §¹i héi
®¹i biÓu lÇn thø VIII cña §¶ng ®· kh¼ng ®Þnh "X©y dùng níc ta thµnh
mét níc c«ng nghiÖp cã c¬ së vËt chÊt - kü thuËt hiÖn ®¹i, c¬ cÊu kinh tÕ
hîp lý, quan hÖ s¶n xuÊt tiÕn bé phï hîp víi tr×nh ®é ph¸t triÓn cña lùc l -
îng s¶n xuÊt, ®êi sèng vËt chÊt vµ tinh thÇn cao, quèc phßng an ninh
v÷ng ch¾c, d©n giµu níc m¹nh x· héi c«ng b»ng v¨n minh". Theo quan
®iÓm cña c¸c nhµ s¸ng lËp chñ nghÜa M¸c - LÞch sö s¶n xuÊt vËt chÊt
cña nh©n lo¹i ®· h×nh thµnh mèi quan hÖ kh¸ch quan phæ biÕn: Mét mÆt
con ngêi ph¶i quan hÖ víi giíi tù nhiªn nh»m biÕn ®æi giíi tù nhiªn ®ã,
quan hÖ nµy ®îc biÓu hiÖn ë lùc lîng s¶n xuÊt mÆt kh¸c con ngêi ph¶i
quan hÖ víi nhau ®Ó tiÕn hµnh s¶n xuÊt, quan hÖ nµy ®îc biÓu hiÖn ë
quan hÖ s¶n xuÊt. Lùc lîng s¶n xuÊt vµ quan hÖ s¶n xuÊt lµ 2 mÆt ®èi
lËp nhau biÖn chøng cña mét thÓ thèng nhÊt kh«ng thÓ t¸ch rêi. Tuy nhiªn
nÕu lùc lîng s¶n xuÊt lµ c¸i cÊu thµnh cña toµn bé lÞch sö nh©n lo¹i th×
quan hÖ s¶n xuÊt lµ c¶i t¹o thµnh c¬ së kinh tÕ cña x· héi, lµ c¬ së hiÖn
thùc cña ho¹t ®éng s¶n xuÊt tinh thÇn vµ nh÷ng thiÕt chÕ t¬ng øng trong
x· héi.

C.M¸c ®· ®a ra kÕt luËn r»ng x· héi loµi ngêi ph¸t triÓn tr¶i qua
nhiÒu giai ®o¹n kÕ tiÕp nhau, øng víi mçi giai ®o¹n cña sù ph¸t triÓn ®ã
lµ mét h×nh th¸i kinh tÕ - x· héi nhÊt ®Þnh - r»ng tiÕn bé x· héi lµ sù vËn
®éng theo híng tiÕn lªn cña c¸c h×nh th¸i kinh tÕ - x· héi kh¸c mµ gèc rÔ
s©u xa cña nã lµ sù ph¸t triÓn kh«ng ngõng cña lùc l îng s¶n xuÊt. R»ng sù
vËn ®éng vµ ph¸t triÓn cña c¸c h×nh th¸i kinh tÕ - x· héi lµ do t¸c ®éng
cña c¸c qui luËt kh¸ch quan. M¸c vµ ¡nghen ®· ®a ra nhiÒu lý luËn, nhiÒu
t tëng. Nh÷ng lý luËn t tëng c¬ b¶n ®ã trong häc thuyÕt M¸c vÒ h×nh th¸i
kinh tÕ - x· héi chÝnh lµ c¬ së lý luËn cho phÐp chóng ta kh¼ng ®Þnh sù

15
nghiÖp c«ng nghiÖp ho¸ - hiÖn ®¹i ho¸ theo ®Þnh híng XHCN ë níc ta
hiÖn nay lµ phï hîp víi qui luËt kh¸ch quan trong qu¸ tr×nh ph¸t triÓn cña
d©n téc ta, cña thêi ®¹i. §èi víi níc ta ®Ó phï hîp víi lùc lîng s¶n xuÊt vµ
quan hÖ s¶n xuÊt ®¶ng ta ®· nªu c«ng nghiÖp ho¸ ph¶i ®i ®«i víi hiÖn
®¹i ho¸, kÕt hîp nh÷ng bíc tiÕn tuÇn tù vÒ c«ng nghÖ víi viÖc tranh thñ
nh÷ng c¬ héi ®i t¾t, ®ãn ®Çu, h×nh thµnh nh÷ng mòi nhän ph¸t triÓn
theo tr×nh ®é tiªn tiÕn cña khoa häc c«ng nghÖ thÕ giíi. MÆt kh¸c chóng
ta ph¶i chó träng x©y dùng vµ ph¸t triÓn nÒn kinh tÕ hµng ho¸ nhiÒu
thµnh phÇn, vËn hµnh theo c¬ chÕ thÞ trêng, cã sù ®iÒu tiÕt cña nhµ níc
vµ theo ®Þnh híng XHCN. §©y lµ hai nhiÖm vô ®îc thùc hiÖn ®ång thêi.
Chóng lu«n t¸c ®éng thóc ®Èy hç trî lÉn nhau cïng ph¸t triÓn. Bëi lÏ "nÕu
c«ng nghiÖp ho¸ - hiÖn ®¹i ho¸ t¹o nªn lùc lîng s¶n xuÊt cÇn thiÕt cho
chÕ ®é x· héi míi th× viÖc x©y dùng nÒn kinh tÕ nhiÒu thµnh phÇn
chÝnh lµ ®Ó x©y dùng hÖ thèng quan hÖ s¶n xuÊt phï hîp ® a níc ta tiÕn
lªn tõng ngµy nh §¶ng vµ Nhµ níc ta mong muèn ®a vµ ®ang thùc hiÖn.

16
c- KÕt luËn

Chóng ta cÇn ph¶i hiÓu vµ vËn dông mét c¸ch tèt nhÊt qui luËt quan
hÖ s¶n xuÊt phï hîp víi tÝnh chÊt vµ tr×nh ®é ph¸t triÓn cña lùc lîng s¶n
xuÊt. Trªn thùc tÕ bÊt cø ë ®©u vµ vµo lóc nµo còng kh«ng thÓ cã ®îc sù
phï hîp tuyÖt ®èi gi÷a quan hÖ s¶n xuÊt víi tÝnh chÊt vµ tr×nh ®é ph¸t
triÓn cña lùc lîng s¶n xuÊt. Nhng ph¶i tuú theo t×nh h×nh thùc tÕ mµ chän
gi¶i ph¸p phï hîp. Trong quan hÖ gi÷a lùc lîng s¶n xuÊt vµ quan hÖ s¶n
xuÊt nãi chung còng cã sù rµng buéc xuÊt ph¸t tõ chóng. Tuy nhiªn chÝnh
b¶n th©n c¸c quan hÖ s¶n xuÊt l¹i cã mèi quan hÖ chÆt chÏ víi lùc lîng s¶n
xuÊt. VÊn ®Ò ®Æt ra lµ ta sö dông mèi quan hÖ Êy nh thÕ nµo cho phï
hîp. §Æc biÖt quan hÖ gi÷a lùc lîng s¶n xuÊt vµ quan hÖ s¶n xuÊt l¹i cã
nhiÒu lén xén trong viÖc nghiªn cøu, sö dông vµ ph¸t triÓn c¸c ph¬ng thøc
s¶n xuÊt tøc lµ qu¸ tr×nh "§a d¹ng ho¸" cô thÓ h¬n lµ qu¸ tr×nh "phï hîp
ho¸" c¸c lo¹i ph¬ng thøc s¶n xuÊt vµo ®iÒu kiÖn thùc tÕ hiÖn nay cña níc
ta. NÕu chóng ta sö dông ®óng c¸c qui luËt trªn céng víi ®iÒu hoµ quan
hÖ lùc lîng s¶n xuÊt víi quan hÖ s¶n xuÊt th× kh«ng l©u sau níc ta sÏ tiÕn
nhanh cïng víi c¸c níc ph¸t triÓn tiÕn nhanh trªn con ®êng c«ng nghiÖp
ho¸ - hiÖn ®¹i ho¸ ®· chän.

Qua bµi viÕt nµy phÇn nµo t«i hiÓu vµ biÕt ®îc t×nh h×nh kinh tÕ n-
íc nhµ. Nh÷ng c¸i, nh÷ng ®iÒu kiÖn mµ §¶ng vµ nhµ níc ta ®ang lµm ®Ó
ph¸t triÓn ®Êt níc.

Tõ ®ã t«i cã ®«i lêi kiÕn nghÞ sau:

- Kh«ng ngõng ph¸t triÓn lùc lîng s¶n xuÊt b»ng viÖc nhanh chãng ®a
c¸c tiÕn bé kü thuËt cña nh÷ng níc ®i tríc vµ t¨ng cêng c«ng t¸c gi¸o dôc,
híng dÇn cho ngêi lao ®éng cã thÓ tiÕp thu ®îc nh÷ng c«ng nghÖ míi.

- B×nh thêng ho¸ quan hÖ s¶n xuÊt, cã c¸ch nh×n ®óng ®¾n gi÷a ng êi
lµm thuª víi «ng chñ cña m×nh. §©y lµ mét yÕu tè quan träng ¶nh hëng

17
®Õn chÊt lîng cña s¶n phÈm lµm ra. Quan hÖ s¶n xuÊt tèt ngêi lao ®éng
®îc hëng mäi quyÒn lîi hä sÏ tÝch cùc lµm viÖc tõ ®ã n¨ng suÊt vµ s¶n
phÈm kh«ng ngõng t¨ng.

§ã lµ ®«i lêi kiÕn nghÞ cña t«i, mong r»ng nã gãp mét phÇn nhá bÐ
cïng ®Êt níc ®i lªn theo con ®êng c«ng nghiÖp ho¸ hiÖn ®¹i ho¸ hiÖn
nay./.

18
tµi liÖu tham kh¶o

1. Tµi liÖu Lªnin toµn tËp - tËp 38 - NXB Matxc¬va 1977

2. V¨n kiÖn §¹i héi §¶ng toµn quèc lÇn thø 7.

3. T¹p chÝ céng s¶n sè 13 th¸ng 6 n¨m 1996

4. T¹p chÝ ph¸t triÓn kinh tÕ

"C«ng nghiÖp ho¸ nh×n tõ biÖn chøng gi÷a lùc lîng s¶n xuÊt vµ quan
hÖ s¶n xuÊt". PTS. Lu Hµ Vi.

19
Môc lôc

Trang
A/ PhÇn më ®Çu 1
B/ Néi dung 2
Ch¬ng I: Sù nhËn thøc vÒ lùc lîng s¶n xuÊt, quan hÖ s¶n xuÊt 2
vµ qui luËt quan hÖ s¶n xuÊt phï hîp víi tÝnh chÊt vµ tr×nh ®é
ph¸t triÓn cña lùc lîng s¶n xuÊt
I/ §«i nÐt vÒ lùc lîng s¶n xuÊt vµ quan hÖ s¶n xuÊt 2
1. Lùc lîng s¶n xuÊt lµ g× ? 2
2. Quan hÖ s¶n xuÊt ®îc hiÓu ra sao? 3
3. NhËn thøc vÒ ph¹m trï h×nh th¸i kinh tÕ - x· héi céng s¶n. 4
II/ Quy luËt quan hÖ s¶n xuÊt phï hîp víi tÝnh chÊt vµ tr×nh ®é ph¸t 5
triÓn cña lùc lîng s¶n xuÊt
1. Quan hÖ s¶n xuÊt vµ lùc lîng s¶n xuÊt m©u thuÉn hay phï hîp 5
2. Qui luËt quan hÖ s¶n xuÊt phï hîp víi tÝnh chÊt vµ tr×nh ®é ph¸t 6
triÓn cña lùc lîng s¶n xuÊt
Ch¬ng II: Sù vËn dông cña §¶ng ta trong ®êng lèi ®æi míi ë 8
ViÖt Nam
I/ Sù h×nh thµnh vµ ph¸t triÓn nÒn kinh tÕ nhiÒu thµnh phÇn trong 8
giai ®o¹n hiÖn nay ë níc ta.
II/ C«ng nghiÖp ho¸ vËn dông tuyÖt vêi qui luËt quan hÖ s¶n xuÊt 9
phï hîp víi tÝnh chÊt vµ tr×nh ®é ph¸t triÓn cña lùc lîng s¶n xuÊt
trong sù nghiÖp ®æi míi ë níc ta hiÖn nay
III/ Häc thuyÕt M¸c vÒ h×nh th¸i kinh tÕ - x· héi, c¬ së lý luËn cña 10
sù nghiÖp CNH - H§H
C. KÕt luËn 13
Danh môc tµi liÖu tham kh¶o 14

----------------------------------------------------------------------------------------------

20
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình phát triển
kinh tế tổng quát của nước ta hiện nay. Đây là quá trình nhận thức, hoàn thiện tư
duy lý luận và tổng kết thực tiễn của Đảng để thấy rõ hơn về sự tất yếu khách
quan, những nội dung và đặc trưng cơ bản, những việc cần thực hiện để đẩy mạnh
phát triển kinh tế ở nước ta.
Đối với nước ta, quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường,
có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) thực chất
là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, được bắt đầu từ Đại hội
Đảng VI (năm 1986) và ngày càng được hoàn thiện. Thực tế 20 năm đổi mới và phát
triển nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN đã chứng minh
rằng, kinh tế thị trường là con đường phát triển kinh tế có hiệu quả, từ đó quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Đây là cả một quá trình vừa đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư
duy kinh tế, vừa bám sát các quy luật khách quan và kịp thời tổng kết thực tiễn đầy
sống động của Việt Nam.
Đại hội lần thứ IX của Đảng (năm 2001) khẳng định: "... thực hiện nhất quán và lâu
dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ
chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó
chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa"(1).
Đại hội lần thứ X (năm 2006) Đảng tiếp tục khẳng định: "Để đi lên chủ nghĩa xã hội,
chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế"(2). Đại hội X tiếp tục làm sáng rõ hơn những vấn đề lý
luận liên quan đến xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với 4 nội dung cơ bản là:
- Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta
hiện nay.
- Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước.
- Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành của các loại thị trường cơ
bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh.
- Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức kinh doanh.
Như vậy, trải qua các kỳ Đại hội, chúng ta luôn khẳng định con đường mà chúng ta
lựa chọn đó là CNXH và để đi lên CNXH chúng ta phải phát triển kinh tế thị trường.
Nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta được Đảng khẳng định
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (năm 1991) với
6 đặc trưng cơ bản và đến nay Đại hội Đảng X tiếp tục khẳng định ngày càng sáng
tỏ hơn với 8 đặc trưng cơ bản là:
- Là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
- Do nhân dân làm chủ.
- Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản

21
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, phát triển toàn diện.
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ.
- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Qua 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu
to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có
sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng
nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực
mới cho đất nước tiếp tục đi lên với những triển vọng tốt đẹp.
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng. Sức cạnh tranh của
nền kinh tế còn kém. Nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt: Đất
nước đang gặp nhiều khó khăn, thách thức không thể xem thường. Xây dựng
XHCN là một quá trình, là mục tiêu mà chúng ta phải đạt tới. Trong quá trình đó,
phải từng bước xác lập, tạo ra những điều kiện, những tiền đề của CNXH, đồng
thời tránh nguy cơ chệch hướng.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là sự lựa chọn hoàn toàn
phù hợp với quy luật phát triển khách quan và xu thế tất yếu của thời đại. Kinh tế
thị trường là một phạm trù kinh tế riêng, có tính độc lập tương đối, phát triển theo
những quy luật riêng vốn có của nó dù nó tồn tại ở đâu và bất kể thời điểm nào của
lịch sử. Song, trong thực tế không có một nền kinh tế thị trường trừu tượng, chung
chung cho mọi giai đoạn phát triển, mà gắn với mỗi giai đoạn phát triển nhất định
của xã hội là những nền kinh tế hàng hóa cụ thể. Điều này phù hợp với nhận định
của C.Mác: "sản xuất hàng hóa và lưu thông hàng hóa là những hiện tượng thuộc
về nhiều phương thức sản xuất hết sức khác nhau, tuy rằng quy mô và tầm quan
trọng của chúng không giống nhau... chúng ta hoàn toàn chưa biết một tí gì về
những đặc điểm riêng của những phương thức sản xuất ấy và chúng ta chưa thể
nói gì về những phương thức ấy, nếu như chúng ta chỉ biết có những phạm trù
trừu tượng của lưu thông hàng hóa, những phạm trù chung cho tất cả các phương
thức ấy"(3). Thực tiễn lịch sử cho thấy, cơ sở kinh tế khách quan của sự hình
thành và phát triển kinh tế thị trường cũng là cơ sở kinh tế khách quan của sự hình
thành và phát triển kinh tế hàng hóa. Đó là sự phân công lao động xã hội và sự
tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa quy định. Có nghĩa là kinh
tế thị trường tồn tại cả trong chủ nghĩa xã hội cũng như trong thời kỳ quá độ lên
CNXH. Do vậy, trong chủ nghĩa tư bản và trong CNXH đều tồn tại kinh tế thị trường,
nhưng có những đặc trưng khác nhau. Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa dựa
trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, là nền kinh tế thị trường phục vụ lợi ích của
giai cấp tư sản. Kinh tế thị trường XHCN dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập
thể do Đảng Cộng sản lãnh đạo, mục đích của nền kinh tế thị trường là phục vụ lợi
ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, xóa bỏ chế độ bóc lột, giải phóng
và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất.

(Các) nguồn
Sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam không phải
là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và CNXH, mà là sự nắm bắt và vận
dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay; là
sự tiếp thu có chọn lọc thành tựu văn minh nhân loại, nhằm phát huy vai trò tích
cực của kinh tế thị trường trong việc phát triển sức sản xuất, xã hội hóa lao động,
cải tiến kỹ thuật - công nghệ, nâng cao đời sống nhân dân... Đồng thời, hạn chế
những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường gây ra.

22
Nói kinh tế thị trường định hướng XHCN có nghĩa là nền kinh tế nước ta không
phải là nền kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan liêu; cũng không phải
là kinh tế thị trường tự do theo kiểu tư bản chủ nghĩa; và cũng chưa hoàn toàn là
kinh tế thị trường XHCN. Bởi vì Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, vừa
có, vừa chưa có đầy đủ các yếu tố của CNXH, còn có sự đan xen và đấu tranh giữa
cái cũ và cái mới. Cần hiểu rõ nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vừa mang
tính chất chung của nền kinh tế thị trường, vừa có tính chất đặc thù vì nó hoạt
động trong khuôn khổ của những nguyên tắc và bản chất của CNXH.
Đại hội lần thứ X của Đảng đã làm sáng tỏ thêm một bước nội dung cơ bản của
định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta với 4 tiêu chí cơ
bản sau:
Thứ nhất, về mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là
nhằm: thực hiện "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"; giải
phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân
dân; đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu
chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn.
Như vậy, mục tiêu trên đã thể hiện mục đích của phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN là vì con người. Con người phải luôn luôn được chú trọng, đặt vào vị
trí trung tâm của sự phát triển. Trên cơ sở giải phóng mọi tiềm năng để phát triển
lực lượng sản xuất, làm cho mọi người đều được hưởng thành quả của sự phát
triển.
Thứ hai, về phương hướng phát triển, phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh
tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân.
Chúng ta phải thực hiện phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế là nhằm giải phóng sức sản xuất, giải phóng tiềm năng phát triển
trong mỗi thành phần kinh tế, mỗi cá nhân, mỗi vùng miền... là cách để phát huy tối
đa nội lực, tạo sức bật để phát triển nhanh và bền vững. Trong nền kinh tế nhiều
thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, bởi vì: giữ vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước là sự thể hiện định hướng XHCN của nền kinh tế; kinh tế nhà
nước là công cụ chủ yếu để Nhà nước điều tiết nền kinh tế, định hướng cho sự
phát triển vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Để giữ được vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước phải nắm được những vị trí then
chốt của nền kinh tế bằng trình độ công nghệ, hiệu quả sản xuất kinh doanh, chứ
không phải dựa vào bao cấp, "xin - cho" hay độc quyền kinh doanh. Đổi mới doanh
nghiệp nhà nước theo hướng cổ phần hóa là con đường chủ yếu nâng cao hiệu
quả kinh doanh, là cách thức để kinh tế nhà nước làm tốt vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Nhà nước trong nền kinh tế thị
trường cũng là một phương thức kết hợp để vừa phát huy được những sức mạnh
của nhau tạo động lực cho phát triển kinh tế nhanh và bền vững, vừa hạn chế
được cả những mặt tiêu cực của thị trường và những biểu hiện quan liêu, kém hiệu
lực của điều tiết nhà nước.
Thứ ba, về định hướng xã hội và phân phối: Phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước đi và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế
phải gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào
tạo... giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện
chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo
mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội.
Quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội không chỉ để bảo đảm sự phát triển bền
vững, mà còn là sự thể hiện rõ định hướng phát triển nền kinh tế. Thể hiện tiến bộ
và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển, trong từng chính sách phát
triển, chính là để hạn chế tiêu cực của kinh tế thị trường, nhằm từng bước thực
hiện mục tiêu tất cả vì sự phát triển toàn diện của con người. Tăng trưởng phải đi
đôi với phát triển các lĩnh vực xã hội. Bởi lẽ, các lĩnh vực xã hội vừa là mục tiêu,

23
vừa là động lực, là điều kiện cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Thứ tư, định hướng XHCN trong lĩnh vực quản lý: Phát huy quyền làm chủ xã hội
của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết kinh tế của Nhà nước pháp quyền
XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, người lao động là người chủ xã hội.
Người công nhân dù làm trong xí nghiệp tư nhân vẫn là người làm chủ đất nước,
làm chủ xã hội. Vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền
XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng là sự thể hiện rõ rệt định hướng XHCN.
Định hướng XHCN là một tất yếu, là sự lựa chọn phù hợp với nội dung của thời đại
- thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Định
hướng XHCN ở nước ta là nhằm mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với XHCN thể
hiện trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây không chỉ là một tất yếu
về chính trị và nguyện vọng mong muốn của nhân dân ta, mà còn là một tất yếu
kinh tế, văn hóa, xã hội. Bởi vậy, trong thời gian tới việc đẩy mạnh phát triển kinh
tế thị trường ở nước ta cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:
1 - Xây dựng, chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng.
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam, là điều kiện chính trị tiên quyết bảo đảm có một Nhà nước đủ
mạnh, trong sạch để quản lý toàn bộ quá trình phát triển kinh tế thực hiện theo
định hướng XHCN. Vì vậy, cần tăng cường sự thống nhất trong Đảng, thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng, chống lợi
dụng dân chủ để mưu cầu lợi ích riêng, cục bộ. Cần xây dựng Đảng thực sự là đội
tiên phong của giai cấp công nhân và của cả dân tộc. Xây dựng Đảng vững mạnh
về chính trị, quán triệt sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng. Để xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh cần tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, kiên quyết đưa ra
khỏi Đảng những phần tử thoái hóa, biến chất. Chú trọng xây dựng và củng cố các
tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đảng viên. không ngừng đào tạo, rèn
luyện và kết nạp được những quần chúng ưu tú vào hàng ngũ của Đảng

A/ LỜI MỞ ĐẦU

Sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, xây dựng CNXH và công
cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua rất
nhiều khó khăn, gian khổ nhưng đã đạt được những thành tựu to lớn, rất quan
trọng và vẻ vang. Một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của Cách
mạng là liên minh công – nông – trí thức tạo nên sức mạnh vô địch, là bản
lĩnh, trí tuệ và sự dũng cảm phi thường của con người Việt Nam.

Với một quá khứ hào hùng, oanh liệt của liên minh các tầng lớp giai cấp công
– nông – trí với những con người anh hùng đã góp mình vào công cuộc xây
dựng và đổi mới đất nước. Vậy giờ đây một con người thuộc cái tầng lớp, giai

24
cấp này họ đang phài sống trong thực trạng như thế nào trong xã hội của
nước ta hiện nay?

Tôi xin nói rõ vấn đề này và phương hướng cơ bản để xây dựng một liên minh
công – nông – trí vững mạnh để xây dựng đưa nước ta phát triển thành một
nước công nghiệp hóa – hiện đại hóa trên con đường quá độ lên CNXH ở nước
ta.

B/ LIÊN MINH GIAI CẤP CÔNG NÔNG TRI THỨC TRONG XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY

І. Thực trạng giai cấp công- nông- tri thức trong xã hội nước ta hiện nay

1. Giai cấp công nhân:

Giai cấp công nhân nước ta hiện nay có khoảng 4,53 triệu người, chiếm 6%
dân số. Về cơ cấu thành phần kinh tế, công nhân trong các doanh nghiệp nhà
nước từ chỗ là đại diện cho toàn bộ giai cấp công nhân trongthời kỳ trước đổi
mới nay chỉ giữ một số lượng và tỷ lệ thấp hơn (1,83 triệu, chiếm 40,8%) so
với công nhân của khu vực ngoài nhà nước (2,68 triệu chiếm 59,2%). Tỷ lệ
công nhân nhà nước tỷ lệ nghịch với tốc độ và quy mô đổi mới doanh nghiệp
nhà nước đang diễn ra mạnh mẽ trong mấy năm gần đây dưới sức ép của nhu
cầu nâng cao hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh của kinh tế quốc tế.
Hậu quả tất yếu nhưng không mong muốn của tiến trình này là hiện có hơn
150000 người vốn là công nhân nhà nước, nay thuộc diện dư dôi, thất nghiệp.
Cơ cấu thành phần cuả công nhân hiện nay rất phức tạp, có những người vừa
làm cho Nhà nước vừa làm cho tư nhân hoặc mang danh là công nhân nhưng
lại sống bằng nghề phụ, kinh tế hộ cá thể.

Về cơ cấu ngành nghề, giai cấp công nhân nước ta thường làm việc trong
những ngành công nghiệp truyền thống: luyện kim, cơ khí, điện. Trong thời kỳ
đổi mới, công nhân làm trong các ngành dịch vụ (giao thông vận tải, bưu
điện, viễn thông, ngân hàng...) đã tăng lên nhanh cùng với tốc độ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đáng chú ý là đã xuất hiện một bộ phận
mới dù chiếm tỷ lệ nhỏ đó là công nhân tri thức, những người có tri thức vàkỹ
năng cao, tạo ra những sản phẩm dịch vụ có hàm lượng giá trịtăng cao như tư
vấn, thiết kế, quản lý chất lượng đồng bộ. Số công nhân có trình độ cao đẳng,
đại học ở nước ta chiếm trên 150000 người (khoảng 3,3%).

Xu hướng phát triển của bộ phận công nhân tri thức sẽ tăng nhanh cùng với
mức độ phát triển của kinh tế tri thức ở nước ta. Chính sự đa dạng, phức tạp
về nguồn gốc, cơ cấu, sự không đồng nhất về chất lượng và sự phân hoá,
phân tầng trong nội bộ giai cấp, giữa các bộ phận công nhân trong các ngành
nghề và thành phần kinh tế, đã làm suy yếu tính thống nhất, sức mạnh đoàn
kết và địa vị xã hội của giai cấp công nhân hiện nay so với thời kỳ trước đổi
mới. Tuy vậy, sự xuất hiện và ngày càng lớn mạnh về số lượng và chất lượng
của bộ phận công nhân tri thức ở nước ta hiện nay là một trong những yếu tố
cơ bản tiếp tục đảm bảo cho sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam
trong giai đoạn phát triển hiện nay.
Về kinh tế, ngoài bộ phận nhỏ công nhân trí thức có thu nhập cao, bộ phận
công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước ở một số lĩnh vực có tính độc
quyền, có mức thu nhập khá, còn lại phần lớn công nhân nước ta có mức thu
nhập rất thấp.

Về chính trị và uy tín xã hội, công nhân chưa có địa vị bằng tầng lớp tri thức,

25
tầng lớp công chức, viên chức. Ngay trong các doanh nghiệp nhà nước, quyền
lực và vai trò của công nhân còn bị hạn chế. Trong các doanh nghiệp tư nhân
và doanh nghệp có vốn đầu tư nước ngoài, tổ chức Đảng và các tổ chức quần
chúng thiếu hụt hoặc bị hạn chế hoạt động , công nhân thường bị giới chủ
chèn ép, quản lý chặt chẽ; họ có rất ít khả năng đấu tranh với các ông chủ dù
chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.

Trình độ học vấn và văn hoá của công nhân tuy cao hơn nông dân nhưng lại bị
thiệt thòi hơn so với nhiều tầng lớp khác trong xã hội. Do bộ phận công nhân
nhà nước thường phải làm thêm nghề phụ để tăng thu nhập nên tác phong
công nghệp chưa cao. Công nhân trong khu vực kinh tế tư nhân, khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài có kỷ luật cao hơn song thường phải tăng ca, làm thêm
giờ để kiếm sống nên ít có thời gian và điều kiện để học tập, phát triển bản
thân. Ý thức giai cấp, ý thức Đảng trong bộ phận công nhân này nói chung
thấp. Công nhân tri thức cũng có xu hướng chịu làm thuê đến khi đủ mạnh để
tách ra lập tổ chức kinh doanh của mình để trở thành ông chủ, thầy hay
chuyên gia độc lập. Trong khi nhiều trí thức, tiểu tư sản trải qua sự rèn luyện
và công tác mà có bản chất giai cấp công nhân thì nhiều người xuất thân từ
công nhân khi được đề bạt lên lãnh đạo, quản lý lại để mai một bảnchất giai
cấp của mình. Làm công nhân không phải là mơ ước và sự tự lựa chọn không
chỉ đối với những thanh niên trẻ mà còn đối với những người đang trong nghề.
Tỷ lệ giai cấp công nhân trong các cấp uỷ, nhất là cấp cao, cấp Trung ương
thường không đạt như mong muốn và kế hoạch phấn đấu chủ yếu là do chưa
đáp ứng được các yêu cầu, tiêu chuẩn của cán bộ lãnh đạo thời kỳđổi mới của
Đảng.

Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ gây nên sự biến động
thường xuyên, ngày càng đa dạng, phức tạp, không thuần nhấtvề số lượng,
chất lượng của giai cấp công nhân Việt Nam. Điều đó được thể hiện tập trung
trên các phương diện sau:

-Sự giảm sút nhanh chóng về số lượng công nhân trong khu vực kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể; sự tăng lên nhanh của đội ngũ công nhân khu vực kinh
tế tư nhân, tư bản nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.

-Sự đa dạng, phức tạp, không thuần nhất và phân hoá, phân tầng trong nội bộ
giai cấp, giữa các bộ phận công nhân, đội ngũ trí thức trong các ngành nghề,
các tổ chức xã hội nghề nghiệp và thành phần kinh tế.

-Phản ánh sự đa dạng, đan xen, hỗn hợp của các thành phần kinh tế nhất định
nào đó, mà họ có thể hiện diện ở hai hoặc vài thành phần kinh tế: họ vừa là
công nhân trong khu vực kinh tế nhà nước, vừa làm việc ở khu vực kinh tế tập
thể, cá thể, tư nhân, hộ gia đình, vv.. Có thể họ vừa là công nhân, vừa không
phải là công nhân khi họ sống bằng nghề phụ (tăng gia, chăn nuôi, thủ công,
buôn bán...), hoặc bằng thu nhập khác là chủ yếu, họ có vốn cổ phần ở một
mức độ nào đó trong xí nghiệp, nhà máy, công ty,...

-Sự mất cân đối về cơ cấu đội ngũ công nhân giữa các thành phần, ngành kinh
tế, trên các địa bàn dân cư, giữa số lượng và chất lượng. Nhìn chung, cơ cấu
giai cấp công nhân chưa cân đối và đồng bộ. Các ngành công nghiệp nặng còn
chiếm tỷ lệ thấp, trong khi đó các ngành công nghiệp nhẹ, chế biến thực
phẩm chiếm tới 40%. Bộ phận công nhân nông nghiệp còn quá ít.

-Sự già hoá, đứt đoạn và giảm đi của đội ngũ công nhân lâu năm, nhiều đời,
công nhân lành nghề, thợ bậc cao, thợ giỏi trong những năm gần đây, nhất là
ở bộ phận công nhân trong khu vực kinh tế nhà nước; sự trẻ hoá của đội ngũ
công nhân ở khu vực kinh tế tư nhân, có vốn đầu tư nước ngoài.

26
Tình hình phát triển về số lượng, cơ cấu đa dạng, phức tạp, không thuần nhất,
thường xuyên biến động như trên, đã và đang dẫn đến một thực trạng về chất
lượng giai cấp công nhân: đang có sự yếu kém về nhiều mặt và sự phân hoá,
không thuần nhất giữa các bộ phận của đội ngũ công nhân Việt Nam hiện nay.
Thực trạng này được phản ánh trên các bình diện sau:

-Trình độ văn hoá, tay nghề thấp và không đồng dều, mất cân đối giữa các bộ
phận công nhân. Trình độ kỹ thuật, kiến thức quản lý kinh tế, khả năng nghề
nghiệp của công nhân còn thấp so với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.

-Bộ phận công nhân xuất thân từ nông thôn chiếm đại đa số trong giai cấp
công nhân. Họ mang theo lối suy nghĩ, tầm nhìn của người nông dân, quan hệ
xã hội và cả lối sống nông thôn vào trong giai cấp công nhân. Những nhược
điểm đó kéo dài cả thập kỷ, thậm chí có phần phát triển dưới chế độ bao cấp
và cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung. Người công nhân Việt Nam chưa được
rèn luyện nhiều trong nền kinh tế công nghiệp và quan hệ cạnh tranh, phát
huy tính sáng tạo cá nhân và tập thể trong môi trường công nghiệp và thị
trường còn hạn chế. Điều đó ảnh hưởng rất nhiều đến tư duy kinh tế, phong
cách làm việc, phong cách quản lý của người công nhân.

-Vấn đề lớn nhất nổi lên trong các năm qua là, giai cấp công nhân chưa thể
đóng vai trò chủ đạo trong đời sống xã hội, nhất là trong sản xuất, kinh
doanh, phân phối. Một phần, vì người công nhân chưa có thói quen và năng
lực làm chủ, nhiều cơ quan lãnh đạo, quản lý trong các nhà máy, xí nghiệp và
ngoài xã hội chưa tôn trọng quyền làm chủ của giai cấp công nhân. Thậm chí,
có nơi quyền dân chủ của công nhân còn bị vi phạm nghiêm trọng. Đây là mặt
yếu rất đặc trưng của giai cấp công nhân ở những nước chưa có công nghiệp
hiện đại. Tình hình làm việc ngày một căng thẳng, lương không đủ sống,
người công nhân phải vật lộn với cuộc sống hàng ngày, phải xoay xở bằng mọi
cách để tồn tại; khi ngườicông nhân chưa làm chủ được bản thân mình thì khó
có thể làm chủ được nhà máy, xí nghiệp và xã hội. Công nhân nước ta chưa
được tôi luyện bao nhiêu trong môi trường kinh tế, khoa học công nghệ và
cạnh tranh. Vai trò của giai cấp công nhân trong phát triển kinh tế, văn hoá,
xã hội còn chưa đạt được mức độ cần có của nó.

-Một bộ phận trong giai cấp chưa có trình độ chính trị, phẩm chất giai cấp
giảm, kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp kém.

-Một bộ phận công nhân bị thoái hoá và tha hoá nghiêm trọng về lao động,
phẩm chất giai cấp và lối sống.

Trong những năm tới, sự biến động cơ cấu giai cấp của công nhân Việt Nam sẽ
diễn ra theo những xu hướng: ngày càng đa dạng hoá, phức tạp về cơ cấu và
không thuần nhất. Trong những năm đầu, xu hướng trên diễn ra mạnh mẽ với
tốc độ nhanh. Công nhân có mặt trong tất cả các thành phần kinh tế. Xu
hướng tăng lên nhanh của bộ phận công nhân trong khu vực kinh tế tư nhân,
tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; bộ phận công nhân
trong khu vực kinh tế nhà nước giảm đi một cách tương đối. Sự phân hoá về
thu nhập, phân hoá giàu nghèo, phân hoá về mức sống, lối sống, ý thức giai
cấp, trình độ chính trị, tư tưởng sẽ diễn ra mạnh mẽ và sâu sắc. Trình độ văn
hoá, học vấn, tay nghề, trẻ hoá về tuổi đời, tuổi nghề có xu hướng ngày càng
tăng, ngày càng được trí thức hoá. Xu hướng phi tập trung hoá công nhân
trong các nhà máy, xí nghiệp có quy mô lớn, số lượng công nhân đông; đội
ngũ công nhân - trí thức hoá ngày càng tăng và điều này đã chứng minh hùng
hồn và đang hiện thực hoá cho luận điểm rất đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí

27
Minh: trí thức hoá công nhân. Xu hướng luân chuyển nghề nghiệp nhiều lần và
một bộ phận công nhân lao động ra khỏi dây chuyền sản xuất sẽ diễn ra
thường xuyên với tốc độ nhanh. Xu hướng phát triển đa dạng hoá ngành nghề
đi đôi với chuyên môn hoá cao trong công nhân. Sự phân tầng xã hội, tình
trạng thất nghiệp, thiếu việc làm, mâu thuẫn về lợi ích ngay trong nội bộ giai
cấp công nhân sẽ tăng lên. Quan hệ chủ - thợ trong các cơ sở sản xuất phức
tạp hơn; đình công, bãi công sẽ còn diễn ra với mức độ gay gắt, quyết liệt
hơn. Vì vậy, cần có nhận thức đầy đủ, toàn diện những xu hướng đó để có
những giải pháp trước mắt và lâu dài nhằm xây dựng giai cấp công nhân Việt
Nam từng bước trưởng thành, phát triển, thể hiện rõ và phát huy vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần.

Giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo cách mạng thông qua Đảng tiên phong
của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi nói giai cấp công nhân lãnh đạo là nói
đến toàn bộ giai cấp như một chỉnh thể chứ không phải từng nhóm, từng
người cá biệt. Xét về thành phần xuất thân, ở nước ta có nhiều Đảng viên
không phải là công nhân. Nhưng bất cứ đảng viên nào cũng phải đứng trên
lập trường giai cấp công nhân thể hiện ở lý tưởng, ở lý luận Mác - Lênin và
đường lối cách mạng, ở tinh thần kiên quyết cách mạng trong cuộc đấu tranh
để thực hiện sứ mệnh của giai cấp công nhân vì lợi ích của giai cấp công nhân,
của nhân dân lao động và cả dân tộc.

Trong giai đoạn xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đội ngũ công
nhân hình thành một giai cấp công nhân thống nhất đại diện cho sản xuất
tiên tiến, thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam được trang bị bằng chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là cơ sở xã hội chủ yếu nhất của Đảng và Nhà
nước, là hạt nhân vững chắc trong liên minh công nhân - nông dân - trí thức,
nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc.

Chúng ta không phủ nhận những nhược điểm của giai cấp công nhân Việt Nam
(như số lượng còn ít, chưa được rèn luyện nhiều trong công nghiệp hiện đại,
trình độ văn hoá và tay nghề còn thấp...) mà nguồn gốc sâu xa là ở trình độ
phát triển kinh tế chưa cao ở nước ta trong thời kỳ quá độ. Nhưng điều đó
không thể là lý do để phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhânViệt
Nam. Để khắc phục những nhược điểm ấy, Nghị quyết hội nghị lần thứ bảy
Ban Chấp hành Trung ương khoá VII của Đảng, gắn trực tiếp vấn đề công
nghiệp hoá, hiện đại hoá với vấn đề xây dựng, phát triển giai cấp công nhân
đã chỉ rõ phương hướng xây dựng giai cấp công nhân nước ta trong giai đoạn
hiện nay là: “ Cùng với quá trình phát triển công nghiệp và công nghệ theo xu
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần xây dựng giai cấp công
nhân phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, vững vàng về chính trị, tư
tưởng, có trình độ học vấn và tay nghề cao, có năng lực tiếp thu và sáng tạo
công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, vươn lên
làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình”.

Công cuộc đổi mới đem lại những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng. Giai
cấp công nhân đang đi đầu trong việc xây dựng xã hội mới, nhất là trong việc
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội nhằm thực hiện dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Hơn lúc nào hết, giai
cấp công nhân Việt Nam cần phải vươn lên để xứng đáng là lực lượng trụ cột
của liên minh công - nông - trí, của khối đại đoàn kết dân tộc. Phương hướng
củng cố, phát triển công nhân Việt Nam trong sư nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá mộtlần nữa đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt chú trọng. Đại hội chỉ rõ: “Đối với giai cấp
công nhân, coi trọng phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ
và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, thực hiện “trí thức hoá

28
công nhân”, nâng cao năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, chất
lượng và hiệu quả ngày càng cao, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước...”

2. Giai cấp nông dân:

Tiến trình công nhiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chủ yếu làm giảm tỷ lệ giai
cấp nông dân trong xã hội, số lượng nông dân giảm đi, số hộ và lao động
thuần nông giảm, tỷ lệ nông dân tập thể giảm đi rất nhiều. Kết cấu giai cấp
nông dân trở nên phức tạp, gồm nhiều bộ phận, nhiều tầng lớp, nhiều nhóm.
Sự phân tầng, phân hoá giàu nghèo phát triển nhanh trong nội bộ giai cấp
nông dân, giữa các địa phương, vùng, miền khác nhau, phụ thuộc vào mức độ
tri thức và kỹ năng, khả năng tiếp cận các nguồn lực, mức độ phát triển của
thị trường và sự giúp đỡ của chính quyền đối với người nông dân. Nói cách
khác, sự giàu có phát triển của nông dân phụ thuộc vào sự liên kết giữa Nhà
nước, nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp. Cái mới trong nông dân so
với thời kỳ trước đổi mới là sự xuất hiện của các chủ trang trại.

Tình trạng một bộ phận nông dân rời khỏi đất canh tác, bỏ nghề truyền thống
trong khi có ít cơ hội để chuyển sang những nghề phi nông nghiệp, và trở
thành giai cấp khác. Nhiều nông dân giàu xổi nhờ bán đất ở khu vực đô thị
hoá nhưng sau đó lại rơi vào tình trạng nghèo đói. Đặc biệt cần lưu ý là những
bấtổn về xã hội và an ninh nước ta mấy năm gần đây đều xảy ra ở khu vực
nông thôn. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng này là sự yếu kém, xa dân của
đội ngũ cán bộ và hệ thống chính trị cơ sở. Tình trạng này sẽ giảm đi sức
mạnhcủa giai cấp nông dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh
đạo của Đảng.

Thực trạng diễn ra là, cơ cấu giai cấp nông dân sẽ đa dạng, phức tạp và hình
thành một bộ phận công nhân nông nghiệp, phong cách lao động của người
sản xuất nhỏ giảm dần. Đội ngũ những người lao động thủ công nghiệp, dịch
vụ kỹ thuật, dịch vụ sinh hoạt và lưu thông tăng lên. Đặc biệt là, một bộ phận
nông dân lao động mang tính chất trí thức xuất hiện ngày càng nhiều, do đó,
tính chất nông dân thuần tuý ngày càng giảm đi. Tính chất nông dân - công
nhân, nông dân - trí thức, nông dân - tiểu thương, nông dân - thợ thủ công,...
Sự phân tầng, phân hoá giàu nghèo phát triển nhanh. Đội ngũ những người
nông dân chuyên đi làm thuê, bán sức lao động xuất hiện và phát triển. Bộ
phận nông dân tập thể dưới những hình thức hợp tác mới sẽ từng bước được
hình thành và phát triển. “Trung nông” sẽ là nhân vật trung tâm trong giai
cấp nông dân, trong nông thôn. Các bộ phận trong giai cấp nông dân gồm:
chủ trang trại, nông dân sản xuất cá thể, nông dân làm thuê, xã viên của các
hợp tác xã kiểu mới. Đồng thời cũng có sự xuất hiện vai trò kép của nhiều
người là công chức nhưng mua ruộng làm chủ trang trại nên họ vừa làm công
chức, trí thức vừa làm chủ trang trại.

3. Tầng lớp trí thức:

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đòi hỏi ngày càng nhiều về tri thức khoa học, công nghệ và năng lực
sáng tạo, kinh doanh. Trí thức là tầng lớp - lực lượng có ưu thế về các ngồn
năng lực trên.

Với khoảng 3 triệu người có trình độ đại học, cao đẳng và 30 ngàn thạc sĩ, tiến
sĩ, nước ta có nguồn nhân lực trí thức chiếm tỷ lệ khá cao so với các nước
đang phát triển. Địa vị xã hội của tầng lớp tri thức được tăng cường và tăng
tiến ổn định trong suốt thời kỳ đổi mới.

29
Tuy nhiên, đội ngũ trí thức hiện nay cũng có sự phân hoá. Về chính trị, trí
thức chiếm một tỷ lệ lớn trong đội ngũ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính
trị, nhất là ở cấp tỉnh - thành và Trung ương. Về văn hoá, trình độ học vấn,
chất lượng của đội ngũ trí thức chưa tương xứng với số lượng, có hiện tượng
mua bằng cấp để “chạy chức, chạy quyền” ; các gia đình khá giả thì chạy đua
cho con em du học nước ngoài, xuất hiện nguy cơ một bộ phận trí thức mất
gốc, trọng ngoại, giảm sút ý thức dân tộc.

Nhìn chung, đội ngũ trí thức nước ta có truyền thống yêu nước,có tinh thần
đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Truyền thống đó sẽ được tiếp tục
phát huy trong thời kỳ mới nếu chúng ta giải quyết được những vấn đề nổi
cộm phát sinh.

Trong tầng lớp trí thức đang diễn ra quá trình biến đổi nhanh chóng về cơ
cấu, lượng và chất; phong phú về cơ cấu nghề; đa dạng về nguồn đào tạo, về
thành phần xã hội - giai cấp xuất thân; sự phân hoá về thu nhập, phân hoá
giàu nghèo, phân tầng, phân hoá về lối sống, về quan điểm tư tưởng,... Đi liền
với vấn đề đó là sự nảy sinh và tất yếu nảy sinh tính chất phức tạp trong tầng
lớp trí thức về cơ cấu xã hội, về ý thức, quan điểm chính trị. Một số trí thức
đồng thời là những doanh nghiệp năng động, những chủ trang trại, đa phần
trí thức là người trung lưu . Số đông trí thức yêu nước, tán thành lý tưởng chủ
nghĩa xã hội.

Công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước, đoàn thể, quân nhân
chuyên nghiệp trong các lực lượng vũ trang. Công chức là những người làm
trong các cơ quan hành chính nhà nước , trong các tổ chức chính trị, chính trị
- xã hội; còn viên chức là những người có cả trong các cơ quan nhà nước và
trong các cơ quan sự nghiệp, quân nhân chuyên nghiệp trong quân đội và cơ
quan. Theo sự phát triển của nền kinh tế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và theo sự vận hành của cơ chế thị trường thì các đơn vị sự nghiệp
ngày càng tăng lên, do vậy lực lượng viên chức ngày càng phát triển đông
đảo. Càng ngày, lực lượng công chức, viên chức, quân nhân chuyên nghiệp
càng được bảo đảm một cuộc sống ở mức trung lưu. Tuy có hoặc không tham
gia (cả trực tiếp và gián tiếp) vào các hoạt động kinh doanh, song với mức
sống trung lưu và chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong dân cư (1 đến 2 triệu
người) và hoạt động ở những khâu quan trọng của các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hoá, xã hội... của đất nước nên nhóm xã hội này đóng một vai trò
đáng kể vào các quá trình phát triển của đất nước.

Bản thân nhóm xã hội này cũng có sự phân hoá nhanh chóng và mạnh mẽ
khác nhau. Cần lưu ý rằng tuy không có địa vị và quyền lực xã hội cao nhưng
họ thường trực tiếp phụ trách những khâu quan trọng, nên nếu bị lợi dụng, họ
sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra những hậu quả khôn lường. Dó đó, bên cạnh
việc tăng cường giáo dục ý thức trách nhiệm còn phải quan tâm đến đời sống
vật chất và tinh thần của họ.
__________________
Đặc điểm của giai cấp công - nông - trí thức ở Việt Nam:

-Giai cấp công nhân Việt Nam có đầy đủ những yếu tố của giai cấp công nhân
hiện đại và còn có những đặc điểm riêng của mình. Đó là do ra đời trước giai
cấp tư sản Việt Nam nên giai cấp công nhân Việt Nam có điều kiện sớm giữ
vai trò lãnh đạo và giành ưu thế ngay từ khi có Đảng của mình. Hơn nữa, sự
gắn bó giữa công nhân và nông dân đã hình thành một cách tự nhiên, phần
lớn xuất thân từ nông dân nên giai cấp công nhân Việt Nam đã mang sẵn
trong mình mối liên minh với nông dân và luôn giữ được vai trò lãnh đạo
trong quá trình cách mạng Việt Nam. Ngày nay, trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông thôn, sẽ có nhiều người nông dân vào làm việc ở các

30
cơ sở công nghiệp và trở thành công nhân ở ngay chính quê hương mình. Điều
này càng tạo cho sự gắn bó của giai cấp công nhân với nông dân, nông thôn
một cách tự nhiên trên nhiều mặt của đời sống xã hội.

-Giai cấp nông nhân là giai cấp của những người lao động sản xuất vật chất
trong nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp... trực tiếp sử dụng một tư liệu
sản xuất cơ bản và đặc thù, gắn với thiên nhiên là đất, rừng, biển để sản xuất
ra nông sản. Nông dân có phương thức sản xuất phân tán, năng suất thấp.
Theo V.I. Lênin, nông dân có “bản chất hai mặt” một mặt họ là những người
lao động (đây là mặt cơ bản nhất); mặt khác, họ là những người tư hữu nhỏ
(đây là mặt hạn chế sẽ được khắc phục trong quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá). Tuy nhiên, nông dân không dựa trên tư hữu nhỏ này để bóc lột các
giai cấp, tầng lớp khác.

Giai cấp nông dân không có hệ tư tưởng riêng mà tư tưởng của họ phụ thuộc
vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội. Họ vốn có cơ cấu không thuần
nhất, không có sự liên kết chặt chẽ cả về kinh tế và tư tưởng, tổ chức. Trong
một nước nông nghiệp thì họ là lực lượng chính trị - xã hội đông đảo nhất và
khi được giác ngộ họ trở thành lực lượng cách mạng to lớn nhất trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa.

Giai cấp nông dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã thực sự giải phóng
khỏi chế độ áp bức bóc lột và trở thành người làm chủ xã hội và đóng góp to
lớn vào sự nghiệp giải phóng đất nước và xây dựng CNXH.

-Trí thức bao gồm những người lao động trí óc phức tạp và sáng tạo, có trình
độ học vấn đủ để am hiểu và hoạt động trong lĩnh vực lao động của mình. Họ
hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nghiên cức, giảng dạy, ứng dụng khoa học,
văn học, nghệ thuất, lãnh đạo và quản lý... Sản phẩm lao động của trí thức tác
động quyết định đến năng suất lao động, đến sự phát triển xã hội về cả mặt
đời sống vật chất và cả về đời sông tinh thần.

Trí thức không có hệ tư tưởng riêng vì không có phương thức sản xuất riêng
và địa vị kinh tế - xã hội độc lập. Vai trò và tư tưởng của họ phụ thuộc vào
giai cấp thống trị xã hội. Mặc dù vậy, trí thức luôn giúp giai cấp thống trị khái
quát về lý luận để hình thành hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội.

Trong các chế độ tư hữu đa số trí thức là những người lao động bị áp bức, bóc
lột. Khi được sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, tri thức trở thành người làm
chủ xã hội và đóng góp to lớn trong sự nghiệp xây dựng CNXH. Ở Việt Nam,
trí thức đã có nhiều đóng góp trong quá trình xây dựng CNXH, đại bộ phận
được bộ phận được đào tạo trong chế độ mới. Họ xuất thân chủ yếu từ nông
dân, công nhân và các tầng lớp lao động khác. Do vậy họ có mối liên hệ gần
gũi với công nhân, nông dân và luôn là lực lượng cơ bản của cách mạng XHCN.
Ngày nay, cách mạng khoa học công nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp và trí thức ngày càng có vai trò, vị trí quan trọng, nhất là trong
quá trình xây dựng kinh tế tri thức và quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.

2.Nội dung cơ bản của liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức
trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam

Nguyên tắc cơ bản nhất của liên minh là kết hợp đúng đắn các lợi ích về chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Lợi ích của giai cấp công nhân phù hợp với lợi ích
dân tộc và đại đa số nhân dân lao động nên quan hệ giữa các giai tầng trong
thời kỳ quá độ lên CNXH là quan hệ hợp tác, đấu tranh trong nội bộ nhân dân
vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

31
a/ Nội dung chính trị của liên minh:

-Nhu cầu lợi ích chính trị cơ bản của công nhân, nông dân, trí thức và của cả
dân tộc là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Mỗi giai cấp, tầng lớp ở mỗi
giai đoạn đều có lập trường chính trị - tư tưởng của mình. Khi liên minh không
phải là thực hiện sự dung hòa lập trường tư tưởng – chính trị của ba giai cấp,
tầng lớp này. Khi chưa giác ngộ cách mạng vô sản thì tư tưởng chính trị của
nông dân, trí thức cơ bản còn phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị
xã hội phong kiến hoặc tư bản. Mặc dù có nguyện vọng nhưng nông dân và trí
thức không thể tự giải phóng khỏi chế độ tư bản, áp bức bóc lột. Trong cách
mạng XHCN liên minh giữa ba giai tầng này phải trên lập trường chính trị - tư
tưởng của giai cấp công nhân thì mới thực hiện đồng thời cả nhu cầu, lợi ích
của ba giai tầng.

-Nguyên tắc về chính trị của liên minh là do Đảng của giai cấp công nhân lãnh
đạo. Trong thời kỳ quá độ, liên minh công, nông, trí thức là nền tảng chính trị
- xã hội và kinh tế của Nhà nước XHCN, là nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc đẩ
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.

Dựa trên lập trường tư tưởng – chính trị của giai cấp công nhân, để thực hiện
liên minh cần phải xây dựng từng bước nền dân chủ XHCN chính do yêu cầu
của nền dân chủ này mà nội dung chính trị của liên minh không tách rời nội
dung, phương thức đổi mới hệ thống chính trị trên phạm vi cả nước. Trong
điều kiện hội nhập, với nền kinh tế đa thành phần thì việc cụ thể hóa của đổi
mới nội dung và tổ chức hoạt động của các tổ chức chính trị của công nhân
trong các loại hình xí nghiệp công nghiệp, nông dân ở các cơ sở lao động sản
xuất nông thôn và trí thức ở các cơ sở khoa học, công nghệ là rất cần thiết.
Nội dung hoạt động chính trị phải thông qua các hoạt động sản xuất, kinh tế,
khoa học công nghệ, văn hóa, xã hội,… Các hoạt động này luôn vận động đổi
mới với tốc độ ngày càng nhanh chóng do đó các hình thức cụ thể của hệ
thống chính trị phải được đổi mới cho phù hợp và phát triển tốt.

b/ Nội dung kinh tế của liên minh:

Đây là nội dung cơ bản, quyết định nhất, là cơ sở vật chất – kỹ thuật vững
chắc của liên minh trong thời kỳ quá độ. Thời kỳ này nhiệm vụ cách mạng
chuyển trọng tâm sang lĩnh vực kinh tế. Việc thực hiện kết hợp các lợi ích kinh
tế được xác định bởi các nhu cấu kinh tế của các chủ thể lợi ích và các điều
kiện thực hiện nó. Nội dung kinh tế của liên minh ở nước ta được cụ thể hóa ở
các điểm sau đây:

-Xuất phát từ thực trạng, tiềm năng kinh tế của nước ta để xác định cơ cấu
kinh tế hợp lý trong đó phải tính đến những nhu cầu về kinh tế của nông dân,
công nhân, trí thức và của toàn xã hội trong điều kiện, thời gian cụ thể. Đảng
ta xác định cơ cấu chung của cả nước là “công – nông nghiệp – dịch vụ”. Điều
này thể hiện rõ nội dung kinh tế của liên minh là điều kiện, môi trường để các
giai tầng hoạt động và phát triển sự liên minh. Trong điều kiện hiện nay,
Đảng ta xác định “từng bước phát triển kinh tế tri thức” trong quá trình hội
nhập khu vực và quốc tế đã tạo điều kiện cho trí thức ngày càng gắn bó với
sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và các lĩnh vực kinh tế khác.

-Trên cơ sở kinh tế, các nhu cầu kinh tế phát triển dưới nhiều hình thức hợp
tác, liên kết, giao lưu,… trong cả sản xuất, lưu thông phân phối giữa công
nhân, nông dân, trí thức ; giữa các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, khoa
học, giữa các địa bàn, vùng miền dân cư trong cả nước.

Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta xác định:

32
“Đặc biệt coi trong coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và
nông thôn; phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp
chế biến nông, lâm, thủy sản; phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng
và hàng xuất khẩu. Nâng cấp, cải tạo, mở rộng và xây dựng mới có trọng điểm
kết cấu hạ tầng kinh tế”. Nông dân chiếm đại đa số bộ phận về số lượng và
khu vực nông thôn còn nhiều tiềm năng chưa được khơi dậy và còn nhiều nơi
khó khăn, thiệt thòi. Do đó, một mặt khuyến khích, tạo điều kiện cho người
nông dân ngày càng chủ động trong hợp tác, liên kết với công nhân, trí thức
và các thành phần kinh tế khác để họ phát huy tiềm năng của mình. Mặt khác,
Nhà nước, giai cấp công nhân, trí thức phải thực sự đến với nông dân, hướng
dẫn, giúp đỡ, cải thiện đời sống kinh tế.

Từng bước hình thành quan hệ sản xuất XHCN trong quá trình thực hiện liên
minh. Theo V.I. Lênin, chế độ hợp tác xã là con đường dễ tiếp thu nhất đối với
nông dân, khi thấy có lợi cho họ, họ sẽ mau chóng tham gia hợp tác xã nhưng
phải do chế độ hợp tác xã hưởng một số đặc quyền kinh tế, tài chính, ngân
hàng. Trong quá trình hình thành quan hệ sản xuất phải trên cơ sở công hữu
hóa những tư liệu sản xuất chủ yếu, kinh tế nhà nước vươn lên giữ vai trò chủ
đạo, cùng kinh tế tập thể làm nên tảng cho nền kinh tế cả nước, theo định
hướng XHCN.

-Từng bước hình thành quan hệ sản xuất còn thể hiện vai trò của nhà nước. Ở
nông nghiệp vai trò Nhà nước có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc thực
hiện liên minh. Thể hiện qua chính sách khuyến nông, qua bộ máy nhà nước,
các tổ chức khuyến nông, các cơ sở kinh tế. Nông nghiệp không chỉ là ngành
kinh tế, một khu vực kinh tế mà còn là khu vực mang ý nghĩa sinh thái xã hội.

Đối với trí thức, Nhà nước cần phải đổi mới, hoàn chỉnh các luật, chính sách có
liên quan trực tiếp đến sở hữu trí tuệ như chính sách phát triển khoa học và
công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn học nghệ thuật,… Hướng các hoạt động
trí thức vào việc phục vụ công, nông, gắn với cơ sở sản xuất và đời sống của
toàn xã hội. Xây dựng hệ thống các cơ quan hoạt động khoa học – công nghệ,
phát huy tiềm năng đội ngũ cán bộ khoa học, tăng cường hợp tác khoa học
trong nước và quốc tế.

c/ Nội dung văn hóa, xã hội của liên minh:

-“Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái”. Đó chính là
ưu việt của CNXH, tất cả cho con người, vì con người và do con người, trong
đó lực lượng đông đảo nhất, nòng cốt là công nhân, nông dân, trí thức.

-Vấn đề xóa đói, giảm nghèo cho công, nông, trí thức chủ yếu bằng tạo việc
làm đồng thời kết hợp các giải pháp hỗ trợ, cứu trợ. Giải quyết được vấn đề
này sẽ khắc phục được hạn chế của các chế độ tư hữu trước đây; con người là
vốn quý của xã hội, nhưng người lao động nếu thất nghiệp thì họ trở thành
gánh nặng cho xã hội, một trong các nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng, đổ
vỡ của chế độ xã hội.

-Đổi mới và thực hiện tốt các chính sách xã hội trong điều kiện đại đa số gia
đình thương binh, liệt sĩ, có công với nước, chịu hậu quả chiến tranh là một
trong những nội dung cơ bản của liên minh. Các chính sách này để hỗ trợ
nông dân, công nhân, trí thức và tạo điều kiện cho họ khắc phục khó khăn sau
chiến tranh, đồng thời nội dung này còn mang ý nghĩa giáo dục truyền thống,
đạo lý, lối sống,… cho toàn xã hội và các thế hệ sau.

-Nâng cao dân trí là nội dung cơ bản lâu dài tạo cho liên minh phát triển vững

33
chắc. Trước mắt tập trung vào việc củng cố thành tựu xóa mù chữ, phổ cập
giáo dục tiểu học, trung học phổ thông, nâng cao kiến thức khoa học công
nghệ, kinh tế, văn hóa, xã hội. Khắc phục các tệ nạn xã hội, các hủ tục lạc
hậu, biểu hiện tiêu cực như tham nhũng, quan liêu. Dân tộc Việt Nam vốn có
truyền thống tôn sư, trọng đạo, hiếu học và chăm chỉ cần cù nên việc đầu tư
cho giáo dục cả về vật chất lẫn tinh thần là được đặc biệt chú trọng. Đây vừa
là thuận lợi, là yếu tố thúc đẩy tiến bộ xã hội, đồng thời vừa là yêu cầu nâng
cao chất lượng đối với sự nghiệp giáo dục. Vấn đề gắn bó với tri thức cách
mạng, với tầm cao của tri thức công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân
lao động là cơ sở vững chắc, có tính truyền thống được kế thừa trong nhiều
đời nay của dân tộc ta.

-Gắn quy hoạch phát triển công nghiệp, khoa học, công nghệ với quy hoạch
phát triển nông thôn, đô thị hóa, công nghiệp hóa những trọng điểm ở nông
thôn với kết cấu hạ tầng ngày càng thuận lợi và hiện đại. Xây dựng các cơ sở
giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, các công trình phúc lợi công cộng một cách
tương xứng, hợp lý ở các vùng nông thôn, đặc biệt là ở vùng núi, vùng sâu
vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số. Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đô thị hóa nông thôn, khai thác tiềm năng của nông lâm, ngư nghiệp.

Đối với những nước nông nghiệp đi lên CNXH như nước ta thì liên minh công –
nông – tri thức vừa là vấn đề có tính quy luật tất yếu trong thời kỳ quá độ lên
CNXH và vừa là lực lượng sản xuất, lực lượng chính trị cơ bản và đông đảo
nhất của quá trình xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc.

3.Phương hướng chủ yếu nhằm củng cố tăng cường liên minh công – nông –
trí thức Việt Nam hiện nay

Muốn giữ vững và củng cố được vai trò lãnh đạo của mình, ngoài việc định ra
đường lối chính trị đúng đắn, giai cấp công nhân còn phải lôi cuốn được nông
dân lao động và đội ngũ trí thức đi theo mình, trên cơ sở ấy mới tạo ra được
hậu thuẫn mạnh mẽ để mở rộng quyền lãnh đạo của mình đến các tầng lớp
nhân dân lao động khác trong toàn xã hội. Trong thời kỳ cây dựng CNXH,
quyền lãnh đạo chính trị thuộc về giai cấp công nhân và chỉ thuộc về giai cấp
công nhân mà thôi, nhưng thực lực của Nhà nước thì không thể bắt nguồn từ
giai cấp công nhân mà là bắt nguồn từ sự liên minh của tất cả các tầng lớp,
giai cấp. Chỉ có trên cơ sở ấy Nhà nước XHCN mới có một nền tảng xã hội
vững chắc, mới thực hiện được các chức năng, nhiệm vụ lịch sử trọng đại của
mình một cách thuận lợi.

Liên minh công – nông – trí họp thành đội quân chủ lực hung mạnh làm hạt
nhân của khối đại đoàn kết toàn dân, không những đảm bảo vai trò lãnh đạo
của các giai cấp công nhân và giữ vững chính quyền cách mạng mà xét đến
cùng còn là yếu tố có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của CNXH. Trong khối
liên minh ấy, giai cấp nông dân là người bạn đồng hành chiến lược của giai
cấp công nhân trên con đường đi lên CNXH và CNCS. Thực tế lịch sử chứng
minh rõ mọi khuynh hướng coi thường hoặc phủ nhận vai trò của lực lượng xã
hội to lớn này, không quan tâm đầy đủ đến việc xây dựng, củng cố khối liên
minh công – nông trong các giai đoạn và các thời kỳ cách mạng, có nghĩa là
đặt giai cấp công nhân vào một hoàn cảnh phải chiến đấu đơn độc và đó là
một sai lầm chính trị nghiêm trọng.

Khi tổng kết kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam, một nước có 90% dân số
là nông dân, chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Nền tảng của vấn đề dân tộc là
nông dân, vì nông dân là tối đa trong dân tộc”, vì thế phải “thực hiện cho
được liên minh công nông vì đó là sự bảo đảm chắc chắn nhất cho những
thắng lợi của cách mạng. Chỉ có khối liên minh công nông do giai cấp công

34
nhân lãnh đạo mới có thể kiên quyết và triệt để đánh đổ các thế lực phản cách
mạng, giành lấy chính quyền của nhân dân lao động, hoàn thành nhiệm vụ
lịch sử của cách mạng dân tộc dân chủ và tiến lên CNXH” (Hồ Chí Minh: vì độc
lập, tự do, Vì chủ nghĩa xã hội, NXB ST Hà Nội, 1970, trang 302).

Chủ nghĩa Mac- Lenin cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò
của giai cấp nông dân, đồng thời cũng chỉ rõ nông dân tuy là một lực lượng xã
hội đông đảo, nhưng trong các cuộc đấu tranh giai cấp, họ không tự tổ chức
lại thành một lực lượng chính trị độc lập để đánh đổ các giai cấp bóc lột thống
trị, trong lịch sử các cuộc khởi nghĩa của nông dân thường mang tính chất tự
phát, diễn ra dưới hình thức lẻ tẻ ở địa phương, ít khi trở thành phong trào
rộng lớn trong cả nước. Vì gắn liền với một nền sản xuất nhỏ, lạc hậu, tàn dư
của một phương thức sản xuất đã lỗi thời, nông dân không thể tự làm lấy một
cuộc cách mạng giải phóng, cũng không thể tự mình xây dựng được một xã
hội mới do mình là đại biểu. Trước kia giai cấp nông dân phải đứng trước ngọn
cờ của giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh đánh đổ chế độ phong kiến giành
thắng lợi cho cuộc cách mạng dân chủ tư sản. Ngày nay giai cấp tư sản đã tỏ
ra lỗi thời và phản động, giữa giai cấp nông dân và tư sản có những mâu
thuẫn đối địch về lợi ích kinh tế và chính trị. Muốn thoát khỏi ách áp bức bóc
lột, nông dân không có con đường nào khác là đi theo đường lối cách mạng
của giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có thể cùng với toàn thể nhân dân
đánh đổ giai cấp tư sản – giai cấp bóc lột cuối cùng trong lịch sử, có thể giữ
vững chính quyền lâu dài, có thể xây dựng một xã hội mới trong đó nhân dân
lao động thật sự trở thành người làm chủ.

Do đó khi đánh giá vai trò của giai cấp nông dân nhận rõ tính tất yếu của sự
liên minh công – nông cần khẳng định sự liên minh này là một sự liên minh
“đặc biệt”, trong đó giai cấp công nhân phải giữ vai trò lãnh đạo, sự liên minh
có ý nghĩa chiến lược, chẳng những chỉ nhằm đánh đổ giai cấp bóc lột mà còn
tạo ra những điều kiện cần thiết để xây dựng một chế độ xã hội mới văn minh
hơn, tốt đẹp hơn.

Cùng với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức vốn xuất than từ nhiều giai cấp,
nhiều tầng lớp xã hội khác nhau, tuy họ không đại diện cho một phương thức
sản xuất nào , không phải là lực lượng chính trị độc lập trước các giai cấp và
tầng lớp xã hội khác, do đó họ không có hệ tư tưởng riêng. Song đội ngũ trí
thức dưới bất kỳ chế độ nào cũng có vai trò và vị trí rất quan trọng trong quá
trình xây dựng CNXH và CNCS, vì họ là một lực lượng xã hội có trình độ học
vấn cao, hiểu biết rộng, có tri thức khoa học công nghệ. Chính vì thế chủ
nghĩa Mac – Le6nin và tư tưởng Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò của tri
thức trong tiến trình vận động của lịch sử nhân loại. Coi liên minh giữa giai
cấp công – nông – trí là hạt nhân nòng cốt của khối đại đoàn kết dân tộc
trong mặt trận dân tộc thống nhất – Nền tảng xã hội của Nhà nước của chế độ
XHCN.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam trong 70 năm qua cho thấy, nhờ nắm vững
quan điểm của Mac – Ăngghen – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng
sản Việt Nam – Đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam luôn luôn
quan tâm xây dựng, vun đắp cho khối đại đoàn kết toàn dân trong mặt trân
dân tộc thống nhất, trong đó lấy liên minh giai cấp công – nông – trí làm nòng
cốt. Sự liên minh chặt chẽ đó được gắn kết bởi đường lối chính trị đúng đắn do
Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra là tiến hành cách mạng dân tộc, dân chủ tiến
lên làm cách mạng XHCN. Như chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Căn bản là giải
phóng nông dân, nội dung cách mạng dân tộc cũng là giải phóng nông dân.
Bao giữ nông thôn, nông dân thật sự nắm được chính quyền, nông dân được
giải phóng mới là dân chủ thật sự”. Bằng đường lối chính trị đúng đắn đó và
hang loạt các chính sách đối với nông nghiệp, nông thôn, nông dân, trí thức

35
và các tầng lớp nhân dân yêu nước khác, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập họp
xung quanh mình một lực lượng hung hậu của cả dân tộc mà trong đó giai cấp
công nhân, nông dân là đội ngũ chủ lực để tiến hành cuộc Cách mạng tháng
8/1945 thành công, lật đổ chế độ thực dân phong kiến lập nên nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa – Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Tiếp
đến tiến hành hai cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ đánh thắng đế quốc
Pháp – Mỹ để dành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên
CNXH.

Ngày nay sự nghiệp cách mạng của nước ta đã và đang chuyển qua một thời
kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm: “xây
dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện
đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng
an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh” (Văn
kiện Đại hoi65VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB CTQG Hà Nội).

Để thực hiện mục tiêu nhiệm vụ cách mạng to lớn, hơn lúc nào hết chúng ta
phải giương cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc, coi đó là đường lối chiến lược
cơ bản, lâu dài, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc (Dự thảo Văn kiện trình Đại hội IX). Chăm lo xây dựng lực lượng liên
minh công – nông – trí vững chắc.

Cần nhận thức được rằng sự liên minh giữa giai cấp công – nông – trí trong
thời ký cách mạng mới đã có một bước phát triển cao hơn so với trước cả về
nội dung và hình thức. Sự liên minh không chỉ về chính trị mà còn là liên minh
về kinh tế, một nội dung liên minh ngày càng có ý nghĩa quan trọng hang đầu
tạo ra những điều kiện vật chất để đảm bảo cho giai cấp công – nông – trí và
cả dân tộc ngày càng gắn bó chặt chẽ với nhau.

Trong thời kỳ phát triển mới của đất nước, đương nhiên sự liên minh giữa các
giai cấp về chính trị cũng rất cần thiết, nhằm củng cố và xây dựng chính
quyền cách mạng – chính quyền của dân, do dân và vì dân; chống mọi âm
mưu thủ đoạn phá hoại của các lực lượng thù địch, bảo vệ nền độc lập và toàn
vẹn lãnh thổ. Nhưng sự liên minh về kinh tế mới là chủ yếu, ngay liên minh
chính trị cũng cần được củng cố trên cơ sở kinh tế, bởi vì như Lê- nin đã
nói :”lúc này chính trị ngay trong kinh tế”.

Lê- nin còn chỉ ra cách mạng CNXH ở một nước mà số đông nhân dân là nông
dân thì chỉ có thể giành thắng lợi với điều kiện có sự thỏa thuận về kinh tế
giữa giai cấp công nhân và nông dân lao động. Theo Lê- nin, liên minh công –
nông – trí cần được bảo đảm vững chắc về kinh tế, không phải chỉ trên cơ sở
tôn trọng quyền sử dụng ruộng đất của nông dân, mà phải trên cơ sở mới. Đó
là tạo điều kiện cho sản xuất công nghiệp và nông nghiệp phát triển, thực
hiện giao lưu sản phẩm hang hóa giữa thành thị và nông thôn, đảm bảo đời
sống của quần chúng công – nông – trí thức. Do đó vai trò của thị trường,
thương nghiệp, quan hệ hang hóa – tiền tệ, giao thông vận tải trở nên cực kỳ
quan trọng.

Liên hệ vào thực tiễn nước ta hiện nay, sự liên minh công – nông – trí về kinh
tế có nội dung và hình thức biểu hiện rất phong phú. Trước hết giai cấp công
nhân, nông dân, đội ngũ trí thức và toàn thể dân tộc phải tập trung đẩy mạnh
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN, đưa
đất nước thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu. Tập trung giải quyết tốt mối quan hệ
giữa công nghiệp và nông nghiệp là hai ngành kinh tế cơ bản nhất của nến
kinh tế quốc dân gắn liền với hai giai cấp cơ bản của xã hội ta, đó là công
nhân và nông dân. TRong mối quan hệ đó bản than tái sản xuất xã hội đòi hỏi

36
nông nghiệp phải phát triển theo yêu cầu của công nghiệp, phục vụ công
nghiệp và công nghiệp hóa, hiện đại hóa XHCN. Nông dân làm nông nghiệp
không phải chỉ vì nông nghiệp mà còn vì công nghiệp hóa XHCN, không phải
vì đời sống của riêng mình mà còn vì đời sống của công nhân và toàn xã hội.
Chính trên cơ sở ý thức được điều đó mà trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa
của nông dân dần dần được nâng cao. Đồng thời trong mối quan hệ với nông
nghiệp, bản thân tái sản xuất xã hội cũng đòi hỏi công nghiệp phải tác động
ngay từ đầu vào nông nghiệp, phục vụ nông nghiệp, tự thể hiện từng bước
nông nghiệp, có tác dụng cải tạo nông nghiệp cả về tổ chức sản xuất, điều
kiện sản xuất lẫn con người sản xuất và qua đó thúc đẩy nông nghiệp phát
triển. Cũng chính trên cơ sở ấy mà giai cấp công nhân thấy rõ được vai trò chủ
đạo và trách nhiệm lớn lao của mình trong mối quan hệ công nông. Đó là xu
hướng phát triển tất yếu của lực lượng sản xuất xã hội, trên cơ sở đó thể hiện
xu hướng vận động tất yếu của cơ cấu giai cấp – xã hội trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, một sự vận động theo chiều hướng đi dần
đến sự xích lại gần nhau giữa lao động công nghiệp với lao động nông nghiệp,
lao động chân tay với trí tuệ, giữa thành thị với nông thôn.

Song song với sự phát triển công nghiệp và nông nghiệp, Đảng và Nhà nước
ta còn phải xử lý hàng loạt vấn đề về mối quan hệ lợi ích giữa Nhà nước và
nông dân, giữa công nhân – nông dân, trí thức và các tầng lớp khác, trong đó
nổi lên một số vấn đề lớn như: giao quyền sử dụng ruộng đất ổn định lâu dài
cho nông dân để họ yên tâm đầu tư sản xuất; có chính sách đầu tư cho nông
nghiệp, nông thôn; giải quyết vấn đề thu mua, chế biến tiêu thụ sản phẩm
cho nông dân, về giá cả nông sản; chính sách về thuế, tín dụng, văn hóa, xã
hội cho nông nghiệp, nông thôn…

Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân,
liên minh các cấp, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều nỗ
lực tập trung đầu tư cho nông nghiệp, coi công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ đầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, nhờ vậy kinh tế nông nghiệp, nông thôn nước ta trong
5 năm qua đã có một bước phát triển đáng kể: giá trị sản lượng bình quân
hàng năm tăng 5%, sản lượng lương thực đạt gần 34 triệu tấn, tăng bình
quân hàng năm 1,3 triệu tấn, bình quân lương thực đầu người đạt 435kg
(năm 2000). Nhiều vùng sản xuất nông sản hàng hóa tập trung gắn với công
nghiệp chế biến bước đầu được hình thành, chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy
sản phát triển, kim ngạch xuất khẩu hàng nông – lâm – thủy sản đạt 4 tỷ
USD, tăng 30%/năm, trong đó có 3 mặt hàng xuất khẩu chiến lược là gạo
(thứ 2 thế giới), cà phê (thứ 3 thế giới). Các mặt hàng thủy sản đạt trên 1 tỷ
USD; cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho nông nghiệp, nông thôn như: thủy
lợi, giao thông, điện, trường học, trạm y tế được xây dựng thêm. Cuộc vận
động xóa đói giảm nghèo đạt được những thành tựu đáng kể, đời sống nông
dân ngày càng được cải thiện.

Có thể nói rằng; mỗi một thành tựu nông nghiệp, nông thôn đạt được trên đây
là kết quả của đường lối chính trị đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và
sự quản lý của Nhà nước; là công sức đóng góp của toàn dân trong đó phải kể
đến công sức của giai cấp công nhân ngày đêm sản xuất ra nhiều máy móc,
phân bón, thuốc trừ sâu, làm ra nhiều công trình thủy lợi, đường giao thông,…
phục vụ cho nông nghiệp, nông thôn, và cuối cùng đó là sự phấn đấu bền bỉ
của giai cấp nông dân trong cả nước.

Những thắng lợi to lớn đó đã động viên, cổ vũ giai cấp nông dân phấn khởi tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc
mà trong đó liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và đội ngũ trí
thức nòng cốt.

37
Bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cần nhìn nhận một cách thẳng
thắn rằng: sự liên minh giữa giai cấp công nhân và nông dân, trí thức trên
lĩnh vực kinh tế hiện nay còn nhiều vấn đề tiếp tục nghiên cứu giải quyết như:
việc tiêu thụ nông sản, hàng hóa sản xuất ra không bán được hoặc phải bán
quá rẻ; giá cả hàng hóa lên xuống thất thường làm cho sản xuất của nông dân
thiếu sự ổn định, chênh lệch giữa giá cả hàng hóa công nghiệp, dịch vụ với giá
cả nông sản ngày càng tăng, đưa đến cho nông dân nhiều bất lợi trong sản
xuất kinh doanh. Việc xử lý quan hệ lợi ích giữa nông dân sản xuất ở các vùng
nguyên liệu tập trung với các xí nghiệp chế biến nông sản như: mía đường,
chè, gỗ, giấy và một số chính sách đối với nông nghiệp, nông thôn, nông dân
như đền bù đất đai, thuế, tín dụng, đầu tư… cũng còn một số mặt chưa hợp lý.
Việc cung ứng các loại vật tư như giống cây trồng, vật nuôi, phân bón, thuốc
trừ sâu, xăng dầu, máy móc cho nông nghiệp cũng có lúc, có nơi chưa đảm
bảo chất lượng, thời vụ, giá cả… Về phía giai cấp công nhân cũng có một bộ
phận chưa nhận thức rõ được trách nhiệm của mình với sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, có lúc, có nơi còn gây khó khăn trong việc
giải phóng mặt bằng để xây dựng các công trình giao thông, thủy lợi, điện
hoặc các+ khu công nghiệp. Chất lượng hàng hóa nông sản làm ra cũng chưa
đảm bảo yêu cầu của công nghiệp chế biến và xuất khẩu… Tất cả những tồn
tại đó ảnh hưởng đến sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ảnh hưởng
đến khối liên minh công – nông – trí thức trong thời kỳ phát triển mới của đất
nước.

Vậy, có thể tóm gọn lại bốn phương hướng chính sau:
a.Tiếp tục củng cố, phát triển giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí
thức.
b.Từng bước phát triển, cụ thể hóa cơ chế dân chủ để giai cấp công nhân, giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức thể hiện được quyền dân chủ và làm chủ trực
tiếp của mình về mọi mặt trong đời sống xã hội.
c.Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trước hết hướng vào
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.
d.Đổi mới quan hệ giữa nhà nước và nông dân.

thực trạng LLSX của nước ta hiện nay là: xét về ưu nhược điểm.
1/ưu điểm:
-LLLĐ dồi dào.
-có khả năng tiếp thu KHKT tốt, cần cù, căm chỉ.
-có kinh nghiệm trong sản xuất ( nông lâm ngư nghiệp)
2/nhược điểm:
-còn khá yêu kém về chuyên môn kỹ thuật(đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn
kỹ thuật còn mỏng)
-chưa có tác phong công nhiệp, kỷ luật lao động còn kém.
-sức khỏe người lao động còn kém.
=> giải pháp:
tăng cường hướng nghiệp tốt cho công dân ở độ tuổi thanh thiếu niên................
 cách đây 2 năm

38
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất,
chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng,
tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Đây là quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã
hội.
Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự phát
triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản
xuất, trước hết là công cụ lao động.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng
sản xuất.
Trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh
phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Trình độ lực lượng sản
xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng
lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ
ứng dụng khoa học vào sản xuất.
Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản xuất.
Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân
lên tính chất xã hội hóa. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao
động kém phát triển thì lực lượng sản xuất chủ yếu có tính chất cá nhân. Khi sản
xuất đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì lực
lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa.
Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan
hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một
trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là "hình thức phát triển" của lực lượng
sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều "tạo địa
bàn đầy đủ" cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó tạo điều
kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất
và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ
sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng

39
sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành "xiềng xích" của lực lượng sản xuất,
kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực
lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản
xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy
lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ
sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản
xuất mới ra đời thay thế. C.Mác đã viết: "Tới một giai đoạn phát triển nào đó của
chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ
sản xuất hiện có... trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát
triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan
hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời
đại một cuộc cách mạng xã hội"(1).
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng
có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con
người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát
triển và ứng dụng khoa học và công nghệ, v.v... và do đó tác động đến sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại,
quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc "tiên tiến" hơn một cách giả tạo so với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, thì theo
quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển. Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với
quan hệ sản xuất không phải giản đơn. Nó phải thông qua nhận thức và hoạt
động cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu
tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay
thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thủy, qua chế độ
chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng
sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy
luật cơ bản nhất.

(Các) nguồn
Tại Đại hội lần thứ VI (năm 1986), Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện
đất nước, trong đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm với nội dung cơ bản là phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó đến
nay, đất nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc, thoát khỏi cuộc khủng
hoảng kinh tế - xã hội và luôn đạt mức tăng trưởng cao. Những thành tựu đó
khẳng định tính đúng đắn của đường lối đổi mới nói chung và chủ trương phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần nói riêng. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu
đó, chúng ta cũng cần phải nhận thức rõ những tiêu cực do nền kinh tế nhiều
thành phần gây ra, đặc biệt là nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong quan niệm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin, sự tồn tại của
nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu
lịch sử. Trong Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản, Ph.Ăngghen đã chỉ ra
rằng, sau khi giai cấp công nhân giành được chính quyền thì không thể thủ tiêu

40
chế độ tư hữu ngay lập tức được mà phải cải tạo nó dần dần. Đến Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ, sau khi giành được thắng lợi
chính trị, giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị chính trị của mình để từng bước
đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản. Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô vào đầu những năm 20 của thế kỷ XX càng khẳng định tính đúng
đắn của việc sử dụng và cải tạo dần dần đối với những thành phần kinh tế của xã
hội cũ mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã vạch ra. Nhận thấy chính sách cộng sản thời
chiến không còn thích hợp trong điều kiện đất nước đã hoà bình, V.I.Lênin đã
dũng cảm thừa nhận: “Chúng ta đã thất bại trong cái ý định dùng phương pháp
“xung phong”, nghĩa là dùng con đường ngắn nhất, nhanh nhất, trực tiếp nhất để
thực hiện việc sản xuất và phân phối theo nguyên tắc xã hội chủ nghĩa”. Từ đó,
V.I.Lênin khẳng định cần phải thay thế chính sách cộng sản thời chiến bằng chính
sách kinh tế mới (NEP). Một trong những nội dung cơ bản của NEP là lý luận về
nền kinh tế nhiều thành phần. V.I.Lênin viết: “Không còn nghi ngờ gì nữa, ở một
nước trong đó những người sản xuất tiểu nông chiếm tuyệt đại đa số dân cư, chỉ
có thể thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa bằng một loạt những biện pháp quá
độ đặc biệt, hoàn toàn không cần thiết ở những nước tư bản phát triển”. Một trong
các biện pháp quá độ đặc biệt mà V.I.Lênin nói ở đây chính là việc sử dụng và
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Điều đó được V.I.Lênin giải thích rõ như
sau: “Vậy thì danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có
nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những
mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng đều thừa
nhận là có”.
Cơ sở của sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, xét đến cùng, là do quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định. Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội, đặc biệt là ở các nước tiểu nông, do trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất còn nhiều hạn chế và không đồng đều nên tất yếu còn tồn tại
nhiều loại hình sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; hơn nữa, một số thành phần
kinh tế của phương thức sản xuất cũ còn có tác dụng tích cực nhất định đối với
sự phát triển của lực lượng sản xuất. Điều đó cho thấy, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác – Lênin đã giải thích rất rõ tại sao phải phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay là sản phẩm của quá trình Đảng
và nhân dân ta nhận thức, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, thể hiện tư
duy mới của chúng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX nói lên rằng nền sản xuất của
xã hội chỉ có thể được phát triển trên cơ sở QHSX phải phù hợp với LLSX, cho nên hiểu
và vận dụng đúng quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển sản xuất.
Trước đây ta đã chưa nhận thức và vận dụng đúng quy luật này thể hiện xây dựng QHSX
quá cao quá xa so với tính chất và trình độ của LLSX chưa quan tâm chú ý đầy đủ đến các
mặt QHSX .
Nước ta hiện nay đang ở thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội nên LLSX vẫn còn ở trình
độ thấp tính chất của công cụ sản xuất là thủ công và nửa cơ khí, nên kinh tế chủ yếu vẫn
là sản xuất nhỏ nên Đảng ta đã đề ra chủ trương đổi mới (Nhận thức và vận dụng đúng quy
luật này). Chúng ta khẳng định:
+ Đa dạng hóa các hình thức sở hữu.
+ Thực hiện đổi mới cơ chế quản lý.

41
+ Thực hiện nhiều hình thức phân phối theo hiệu quả lao động theo tài sản và vốn đóng
góp...
Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với những việc làm trên chúng đã tạo ra sự phù
hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX trong thời kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam./.

A. Lời Nói Đầu

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất là qui luật hết sức phổ biến trong công cuộc xây
dựng đất nước của mỗi quốc gia. Sự mâu thuẫn hay phù hợp giữa quan
hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đều có ảnh hưởng rất lớn tơí nền kinh
tế. Sự tổng hoà mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất tạo nên một nền kinh tế có lực lượng sản xuất phát triển kéo theo
một quan hệ sản xuất phát triển.

Nói cách khác Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất là một điều kiện tất yếu để phát triển một
nền kinh tế.

Do vậy, nghiên cứu về quy luật này sẽ giúp cho mỗi sinh viên chúng ta,
đặc biệt là sinh viên khối kinh tế, có thêm những hiểu biết ban đầu và
sâu sắc hơn về sự phát triển của nước ta cũng như trên thế giới; hiểu
được quy luật vận động của nền kinh tế từ đó có thể góp một phần nhỏ
bé của mình vào sự nghiệp xây dựng nước nhà sau này.

Do thời gian còn hạn hẹp và sự hiểu biết các vấn đề chưa sâu sắc, chắc
chắn bài viết còn có rất nhiu thiếu sót. Bởi vềậy em mong được sự chỉ
bảo, phê phán của thầy để có thể sửa chữa, khắc phục những mặt kiến
thức còn yếu của mình và để bài viết có thể hoàn thiện hơn. [center]
[center][b]B. nội dung.
I. đặt vấn đề

42
Với tính cách là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử phương thức sản
xuất biểu thị cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất
ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Dưới sự vận
động của lịch sử loài người, cũng như sự vận động của mỗi xã hội cụ
thể, sự thay đổi về phương thức sản xuất bao giờ cũng là sự thay đổi có
tính chất cách mạng.

Trong sự thay đổi đó, các quá trình kinh tế, xã hội được chuyển sang
một chất mới. Phương thức sản xuất là cái mà nhờ nó người ta có thể
phân biệt được sự khác nhau của những thời đại kinh tế khác nhau. Mà
phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở
một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.

Đó cũng chính là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Do vậy, quy luật trên trước hết là quy luật kinh tế nhưng hơn thế nữa
nó con là quy luật cơ bản nhất của toàn bộ đời sống xã hội của lịch sử
nhân loại bởi vì nó là quy luật của bản thân phương thức sản xuất. Sự
tác động của quy luật này dẫn tới sự thay đổi của phương thức sản xuất
và kéo theo sự thay đôỉ cua toàn bộ đời sống xã hội.

Với những lý do trên, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có ý nghĩa hết sức to lớn.
Tuy nhiên, việc nắm bắt được quy luật này không phải là đơn giản,
nhận biết được một quan hệ sản xuất có phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất hay không hoàn toàn phải phụ
thuộc vào thực tiễn của sản xuất và kinh nghiệm bản thân.

Với những chính sách, đường lối và chủ trương đúng đắn, nắm bắt tốt
quy luật của đảng và nhà nước, nền kinh tế, đặc biệt là kinh nhiều
thành phần đã phát triển mạnh mẽ, đưa nước ta từ một nước nông
nghiệp lạc hậu phát triển thành nước sản xuất nông nghiệp tiên tiến;
góp phần đẩy nhanh nền kinh tế nước nhà đi sang một hướng khác,
sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới.
II- giải quyết vấn đề
Khái niệm về lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất và quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất

A/ Khái niệm về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:


1/ Lực lượng sản xuất:
Để tiến hành sản xuất thì con người phải dùng các yếu tố vật chất và kỹ
thuật nhất định. Tổng thể các nhân tố đó là lực lượng sản xuất. Lực
lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.

43
Nghĩa là trong quá trình thực hiện sản xuất xã hội con người trinh phục
tự nhiên bằng các sức mạnh hiện thực của mình suức mạnh đó được chủ
nghĩa duy vật lịch sử khái quát trong khái niệm lực lượng sản xuất.
Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện trình độ chinh phục tự nhiên của
con người. Lực lượng sản xuất nói lên năng lực thực tế của con người
trong quá trình sản xuất tạo nên của cải cho xã hội đảm bảo sự phát
triển của con người.

Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động và kỹ năng lao động và tư
liệu sản xuất. Trong quá trình sản xuất công cụ lao động tác động vào
đối tượng lao động để tạo ra của cải vật chất thì tư liệu lao động được
hoàn thiện nhằm đạt được năng suất lao động cao.

Còn trong tư liệu lao động tức là tất cả các yếu tố vật chất mà con
người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động thì công cụ lao động
là yếu tố quan trọng nhất linh hoạt nhất. Bởi vậy khi công cụ lao động
đã đạt đến trình độ tin học hoá được tự động hoá thì vai trò của nó lại
càng quan trọng. Trong mọi thời đại công cụ sản xuất luôn là yếu tố
đông nhất của lực lượng sản xuất.

Chính sự chuyển đổi cải tiến và hoàn thiện không ngừng của nó đã gây
lên những biến đổi sâu sắc trong toàn bộ tư liệu sản xuất. Trình độ phát
triển công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con
người. Tuy nhiên LêNin viết: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể
nhân loại là công nhân, người lao động” có thể cói yếu tố quan trọng
nhất trong lực lượng sản xuất chính là con người.

Trong thời đại ngày nay khoa học đã phát triển tới mức trở thành
nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất và đời
sống nó đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nó vừa là ngành sản
xuất riêng vừa thâm nhập vào các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất
đem lại thay đổi về chất cho lực lượng sản xuất.

Khoa học và công nghệ hiện đại chính là đặc điểm thời đại của sản xuất
nó hoàn toàn có thể coi là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.

2/ Khái niệm về quan hệ sản xuất:


Để tiến hành quá trình sản xuất nhất định con người phải có mối quan
hệ với nhau. Tổng thể những mối quan hệ này gọi là quan hệ sản xuất.
Nói cách khác quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong
sản xuất.

Trong sự sản xuất ra đời sống xã hội của mình con người dù muốn hay
không cũng buộc phải duy trì những quan hệ nhất định với nhau để trao
đổi hoạt động sản xuất cũng như kết quả lao động những quan hệ sản
xuất này mang tính tất yếu. Như vậy quan hệ sản xuất do con người tạo
ra song nó được hình thành một cách khách quan không phụ thuộc vào

44
ý muốn của bất kỳ ai. Việc phải thiết lập các mối quan hệ trong sản
xuất tự nó đã là vấn đề có tính quy luật tất yếu, khách quan của sự vận
động xã hội.

Với tính chất là những quan hệ kinh tế khách quan không phụ thuộc vào
ý muốn của con người, quan hệ sản xuất là những quan hệ mang tính
vật chất của đời sống xã hội. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của
lực lượng sản xuất và là cơ sở của đời sống xã hội.

Quan hệ sản xuất gồm 3 mặt:


 Quan hệ sở hữu về tư liêu sản xuất tức là quan hệ giữa người với tư liệu sản
xuất. Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi quan hệ sở
hữu đối với tư liệu sản xuất – Biểu hiện thành chế độ sở hữu. Trong hệ thống
các quan hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có vai trò quyết
định đối với các quan hệ xã hội khác.
Trong các hình thái kinh tế xã hội mà loài người đã từng trải qua, lịch sử
đã được chứng kiến sự tồn tại của 2 loại hình sở hữu cơ bản đối với tư
liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu công cộng
là loại hình mà trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên của
cộng đồng.

Do tư liệu sản xuất là tài sản chung của cả cộng đồng nên các quan hệ
xã hội trong sản xuất và trong đời sống xã hội nói chung trở thành quan
hệ hợp tác giúp đỡ nhau. Ngược lại trong các chế độ tư hữu do tư liệu
sản xuất chỉ nằm trong tay một số người nên của cải xã hội không
thuộc về số đông mà thuộc về một số ít người các quan hệ xã hội do
vậy bất bình đẳng.
 Quan hệ tổ chức và quản lý kinh doanh sản xuất: Tức là quan hệ giưuã người
với người trong sản xuất và trong trao đổi vật chất của cải. Trong hệ thống các
quan hệ sản xuất các quan hệ về mặt tổ chức quản lý sản xuất là các quan hệ
có khả năng quyết định một cách quy mô tốc độ hiệu quả và xu hướng mỗi nền
sản xuất cụ thể đi ngược lại các quan hệ quản lý và tổ chức có thể làm biến
dạng quan hệ sở hữu ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế xã hội.

 Quan hệ phân phối sản xuất sản phẩm tức là quan hệ chặt trẽ với nhau cùng
mục tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu qủa tư liệu sản xuất để làm cho
chúng không ngừng được tăng trưởng, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng nâng cao
phúc lợi cho người lao động. Bên cạnh các quan hệ về mặt tổ chức quản
lý,trong hệ thống quan hệ sản xuất, các quan hệ về mặt phân phối sản phẩm
lao động cũng là những nhân tố có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự vận động
của toàn bộ nền kinh tế. Quan hệ phân phối có thể thúc đẩy tốc độ và nhịp
điệu của sản xuất nhưng ngược lại nó có khả năng kìm hãm sản xuất kìm hãn
sự phát triển của xã hội.

Nêu xét riêng trong phạm vi một quan hệ sản xuất nhất định thì tính
chất sở hữu quyết định tính chất của quản lý và phân phối. Mặt khác
trong mỗi hình thái kinh tế xã hội nhất định quan hệ sản xuất thống trị
bao giờ cũng giữ vai trò chi phối các quan hệ sản xuất khác, ít nhiều cải
biến chúng để chẳng những chung không đối lập mà phục vụ đắc lực
cho sự tồn tại và phát triển của kinh tế xã hội mới.

45
B/ Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất:
1/ Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất:
a/ Tính chất:
Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tu liệu sản xuất và lao
động. Khi nền sản xuất được thực hiện với những công cụ ở trình độ phổ
thông, lực lượng sản xuất chủ yếu mang tính chất cá nhân.

Khi trình độ sản xuất đạt tới trình độ cơ khí hoá, lực lượng sản xuất đòi
hỏi phải được vận động cho sự hợp tác xã hội rộng rãi trên cơ sở chuyên
môn hoá. Tính chất tự cấp tự túc cô lập của nền sản xuất nhỏ lúc đó
phải được thay thế bởi tính chất xã hội hoá.

b/ Trình độ của lực lượng sản xuất:


Lực lượng sản xuất là yếu tố có tác dụng quyết định đối với sự
phát triển của phương thức sản xuất:
Trình độ của lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn của lịch sử loài
người thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của loài người trong giai
đoạn đó.

Khái niệm trình độ của lực lượng sản xuất nói lên khả năng của con
người thông qua việc sử dụng công cụ lao động thực hiện quá trình cải
biến tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự sinh tồn và phát triển của mình.
Trình độ lực lượng sản xuất thể hiện ở:
Trình độ công cụ lao động, trình độ quản lý xã hội trình độ ứng dụng
khoa học kỹ thuật vào sản xuất, kinh nghiệm và kỹ năng của con người
và trình độ phân công lao động.

Trên thực tế tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất không tách
biệt nhau.
B/ Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất:
Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt của phương thức sản
xuất, sự tác động lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
biểu hiên mối quan hệ mang tính chất biện chứng. Chính sự thống nhất
và tác động giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đã hình thành
nên quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trìng
độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Lực lượng sản xuất là nhân tố thường xuyên biến đổi và phát triển.
Ngược lại quan hệ sản xuất thường có tính ổn định trong một thời gian
dài.
Sự biến đội của lực lượng sản xuất có nhiều nguyên nhân:
 Bản thân người lao động thì những kỹ năng và kinh nghiệm không ngừng tích
luỹ và tăng lên.

46
 Bản thân tri thức khoa học trí thức công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp.

 Sự ổn định của quan hệ sản xuất là nhu cầu khách quan để có thể sản xuất
được.

Chính vì vậy mà sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một giới hạn
nhất định sẽ đặt ra nhu cầu xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ và hiện có. Việc
xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ thay nó bằng một quan hệ sản xuất mới
cũng có nghĩa là diệt vong cả một phương thức sản xuất lỗi thời và sự
ra đời của một phương thức sản xuất mới.

Sự xoá bỏ các hình thức quan hệ sản xuất hiện có không phải là tự thân
mà phải thông qua một phương thức chính trị và pháp quyền mà
phương thức pháp quyền là trực tiếp. Những quan hệ sản xuất cũ và
hiện có từ chỗ là hình thức kinh tế cần thiết để đảm bảo duy trì khai
thác, phát triển của lực lượng sản xuất giờ đây trở thành những hình
thức kìm hãm sự phát triển đó như CácMác đã nhận định “Từ một giai
đoạn phát triển nào đó của chúng các lực lượng sản xuất vật chất của
xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có trong đó từ trước
đến nay các lực lượng sản xuất vẫn tiếp tục phát triển.

Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất những quan
hệ ấy trở thàng những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt
đầu thời đại một cuộc Cách mạng xã hội”Đó cũng chính là nội dung quy
luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển nhất
định của lực lượng sản xuất.

Thực tiễn cho thấy rằng lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển khi có
một quan hệ sản xuất hợp lý đồng bộ phù hợp với nó. quan hệ sản xuất
lạc hậu hơn hoặc tiên tiến hơn một cách giả tạo cũng sẽ kìm hãm sự
phát triển của lực lượng sản xuất.

Khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã bộc lộ
gay gắt đòi hỏi phải giải quyết nhưng còn lực lượng sản xuất người
không phát hiện được cũng như mâu thuẫn được phát hiện mà không
giải quyết được hoặc giải quyết một cách sai lầm thì tác dụng kìm hãm
của quan hệ sản xuất sẽ trở thành nhân tố phá hoại đối với lực lượng
sản xuất.

Tuy nhiên bên cạnh đó, chúng ta không nên tuyệt đối hoá vai trò của
lực lượng sản xuất mà bỏ qua sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất
đối với nó khi giữa chúng có sự phù hợp. Đôi khi sự phát triển chệch
hướng của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất là do yếu tố chủ quan, chứ không phải
do tính chất đặc thù của quy luật đó.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chứng minh vai trò quyết định của lực

47
lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất song nó cũng chỉ rõ rằng quan
hệ sản xuất bao giờ cũng thể hiện tính độc lập tương đối với lực lượng
sản xuất. Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất, nó là
yếu tố quyết định là tiền đề cho lực lượng sản xuất phát triển khi nó
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Nó làm nhiệm vụ chỉ ra mục tiêu bước đi và tạo quy mô thích hợp cho
lực lượng sản xuất hoạt động, cũng như đảm bảo lợi ích chính đáng cho
người lao động phát huy tính tích cực sáng tạo cho con người là nhân tố
quan trọng và quyết định trong lực lượng sản xuất.

Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực
lượng sản xuất vì nó quyết định mục đích sản xuất, quy định hệ thống
quản lý sản xuất và quản lý xã hội quy định phân phối và phần của cải
ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó nó tạo ra những điều
kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế sự phát triển của công cụ sản xuất áp
dụng thành tựu khoa học và sản xuất hợp tác phân công lao động.

C/ Sự vận dụng quy luật vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam:
Sự nghiệp đã đổi mới của Việt Nam được bắt đầu ngay từ giữa những
năm 80 và được triển khai mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực từ đó đến
nay. Quá trình đổi mới đã đưa lại nhiều thành tựu to lớn, nhưng đồng
thời cũng đặt ra nhiều lý luận quan trọng mà việc áp dụng quy luật
quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất vào việc giải quyết chúng một cách đúng đắn sẽ là cơ sở
hết sức cần thiết cho việc tiếp tục hoạch định và đẩy nhanh sự nghiệp
đổi mới, cũng như sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Việt Nam đã xây dựng chủ nghĩa xã hội được hơn 30 năm ở miền Bắc và
hơn 10 năm trên phạm vi toàn quốc nếu tính đến thời điểm bắt đầu đổi
mới. Ngôi nhà xã hội chủ nghĩa mà chúng ta muốn xây dựng có thể có
nhiều đặc trưng, nhưng có hai đặc trưng chất lượng quan trọng nhất mà
dứt khoát chúng ta phải đặt đến, đó là vừa giàu có hơn, vừa công bằng
hơn so với trong chủ nghĩa tư bản.

Tuy nhiên trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội thì nền kinh tế sản
xuất của nước ta lại chậm phát triển, đời sống nhân dân còn gặp nhiều
khó khăn. Sự khó khăn này có thể có nhiều nguyên nhân, nhưng có lẽ
một trong những nguyên nhân quan trọng nhất là: không nắm vững
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất.

Nghị quyết Đại hội VIII đã chỉ rõ những yếu kém, khuyết điểm:
Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức mạnh tranh
chấp. Nhịp độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) nhịp độ
tăng giá trị sản xuất nông nghiệp, dịch vụ, kim ngạch xuất khẩu, nhập

48
khẩu… không đạt chỉ tiêu đề ra. Nhìn chung, năng xuất lao động thấp,
chất lượng sản phẩm chưa tốt, giá thành cao.

Nhiều sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp thiếu thị
trường tiêu thụ trong cả nước và nước ngoài. Hệ thống tài chính-ngân
hàng còn yếi kém và thiếu lành mạnh. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch
chậm. Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, đầu tư còn phân tán, lãng phí và thất
thoát nhiều. Nhịp độ thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài giảm, công
tác quản lý, điều hành công tác này còn nhiều vướng mắc và thiếu sót.

Quan hệ một số mặt chưa phù hợp. Kinh tế nhà nước chưa được củng
cố tương xứng với vai trò chỉ đạo, chưa có chuyển biến đáng kể trong
việc sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước.

Một số vấn đề văn hoá-xã hội bức xúc và gay gắt chậm được giải quyết.
Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và nông thôn còn ở mức cao. Các hoạt
động khoa học và công nghệ chưa được đáp ứng tốt yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Cơ chế chính sách không đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát
triển. Một số cơ chế, chính sách còn thiếu, chưa nhất quán, chưa sát với
cuộc sống, thiếu tính khả thi. Nhiều cấp, ngành chưa thay thế, sửa đổi
những quy định về quản lý nhà nước không còn phù hợp, chưa bổ sung
những cơ chế, chính sách mới có tác dụng giải phóng mạnh mẽ lực
lượng sản xuất.

Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội tiền tư bản
chủ nghĩa, nhà nước ta đã không thấy rõ bước đi có tính quy luật trên
con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội nên đã tiến hành ngay cuộc cải tạo
xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân và xét về thực chất là
theo đường lốiđẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, đưa quan hệ sản xuất
đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.

Điều đó có nghĩa là đưa quan hệ sản xuất đi trước để tạo địa bàn rộng
rãi, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó là hoàn toàn mâu
thuẫn với quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. để khắc phục những mâu thuẫn có thể phát sinh đòi
hỏi phải thiết lập quan hệ sản xuất mới với những hình thức và bước đi
phù hợp và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Những chính sách mới của đảng và nhà nước đã thúc đẩy nền kinh tế
nước ta phát triển một cách mạnh mẽ.Sự thúc đẩy nền kinh tế nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã đưa nền kinh tế nước
ta sang một bước đi mới. Mọi người được tự do kinh doanh buôn bán,
các doanh nghiệp kinh doanh hợp tác và cạnh tranh với nhau một cách
bình đẳng trước pháp luật…Tất cả đều nhằm vào mục tiêu duy nhất là
thúc đẩy nền kinh tế nước nhà.

49
Để làm rõ hơn về nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ, chúng ta sẽ
đi phân tích nền sản xuất nông nghiệp trong thời gian này. tại đại hội
lần thứ VI, Đảng ta đã nhận định:"…Lực lượng sản xuất bị kìm hãm
không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan
hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với
trình độ của lực lượng sản xuất ( Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Nxb sự thật, HN, 1987, tr.57).

Trong quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội phải kể đến yếu tố chủ quan
của việc đảng lãnh đạo, Nhà nước phát động tính tích cực xã hội của
quần chúng bằng những lợi ích vật chất và tinh thần yêu nước vốn có
của họ.

Tuy nhiên, theo nhận định trên của đảng, ta thấy rằng, không thể cho
rằng những yếu tố tiên tiến của quan hệ sản xuất mãi là tiền đề sự thúc
đẩy phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Chúng chỉ
tác động tích cực trong một thời gian ngắn và cuối cùng, vẫn phải tuân
thủ quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.

Thực trạng nền sản xuất nông nghiệp của nước ta trong thời gian chuẩn
bị vào những năm đầu bước vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn đã làm rõ nhận định trên của đảng.

Tại thời điểm đó nền sản xuất nông nghiệp không ổn định, nhiều nơi,
nhiều vùng nông thôn bị đói kém. Khi đó có người cho rằng, nguyên
nhân sản xuất chậm phát triển là do giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất có mâu thuẫn. Mâu thuẫn đó thể hiện giữa một bên là yêu cầu
phát triển hơn nữa của lực lượng sản xuất theo hướng tất yếu chuyển từ
sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn với một bên là chế độ sở hữu phân tán.

Theo một số nhà nhận định, đây là mâu thuẫn vốn có và mâu thuẫn là
phổ biến trong các nền sản xuất. Khi nền sản xuất xã hội phát triển đến
trình độ cao thì tự bản thân chế độ tư hữu nhỏ không thể nào tồn tại
như cũ, nó buộc phải thay đổi.

Nhìn lại quá trình chỉ đạo sản xuất nông nghiệp ở nước ta trước đây
Đảng ta đã rút ra được sự cần thiết của quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Tại Đại hội IX Đảng ta nhận định: "Cần phải nhân rộng mô hình hợp tác,
liên kết Công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế
hộ nông thôn, phát triển các loại hình trang trại quy mô phù hợp trên
từng địa bàn" (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, tr. 32).

50
Trong sản xuất nông nghiệp, sự đa dạng của các thành phần kinh tế đã
tạo ra cơ chế quản lý với nhiều hình thức sản xuất nông nghiệp mới phù
hợp với những quan điểm đổi mới không ngừng của Đảng và nhờ đó,
tạo ra sự biến đổi mới trong các Hợp tác xã nông nghiệp trên cả ba mặt
của quan hệ sản xuất. Điều đó càng khẳng định ý nghĩa to lớn của quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất.

Nhưng dựa vào tiêu chuẩn nào để khẳng định rằng quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trước hết sự phù
hợp đó thể hiện ở chỗ, hiệu quả sản xuất ngày càng cao (năm sau cao
hơn năm trước), mặc dù đất bị thiên tai nhiều bề và ít nhiều chịu ảnh
hưởng của tình trạng suy thoái kinh tế trong khu vực và trên thế giới.

Điều quan trọng nữa, khi nói quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng
sản xuất không thể không nhìn vào đời sống của nông dân, thực tế cho
thế qua 15 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng đề ra, đời sống
của nông dân từng bước được nâng cao, điều kiện nhà ở và học tập của
con em nông dân cũng khá hơn trước.

Như vậy thực trạng nền kinh tế có phát triển không? Lực lượng sản xuất
có phát triển không đó chính là tiêu thức để đánh giá sự phù hợp của
quan hệ sản xuất vào tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Một
quy luật có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế
của mỗi quốc gia.
III/ Kết luận và giải pháp

1/ Kết luận:
Quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là quy luật hết sức phổ biến. Tuy nhiên
không phải bất cứ lúc nào cũng có sự phù hợp đó. Do vậy, phải nắm bắt
tốt quy chúng ta có thể áp dụng vào từng trường hợp cụ thể. Quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất còn là quy
luật phổ biến trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại.

Sự thay thế phát triển đi lên của lịch sử loài người từ chế độ công xã
nguyên thuỷ qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư
bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ
thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.

51
Lực lượng sản xuất là nhân tố thường xuyên biến đổi, ngược lại quan hệ
sản xuất lại thường có tính ổn định song sự ổn định đó chỉ là tạm thời
và cũng cần có sự thay đổi cho phù hợp. Nếu quan hệ sản xuất không
có những sự thay đổi cho phù hợp thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của
sản xuất.

Như vậy, trong việc xác lập hoàn thiện, thay đổi quan hệ sản xuất cần
phải căn cứ vào thực trạng của các lực lượng sản xuất hiện có về mặt
tính chất và trình độ của chúng (đây là cơ sở lý luận trực tiếp của việc
xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay của quá
trình cải cách của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay).

2/ Giải pháp:
Cải tạo xã hội chủ nghĩa phải luôn luôn thấu suốt đặc điểm của quá
trình tiến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa là quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất luôn luôn gắn bó với nhau, thúc đẩy
nhau cùng phát triển. Phải coi trọng những hình thức kinh tế trung gian,
quá độ từ thấp lên cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn. Trên mỗi bước đi
phải đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo ra lực lượng sản
xuất mới trên cơ sở đó tiếp tục đưa quan hệ sản xuất lên hình thức, quy
mô thích hợp để cho lực lượng sản xuất phát triển.

Tại Đại hội IX Đảng ta khẳng định: "Cần phải" nhân rộng mô hình hợp
tác, liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và
kinh tế hộ nông thôn, phát triển các loại hình trang trại với quy mô phù
hợp trên từng địa bàn những hình thức kinh tế hộ nông dân ngày càng
được mở rộng, các hình thái kinh tế hợp tác ở nông thôn, kinh tế trang
trại, mở mang nhanh công nghiệp chế biến nông sản theo nhiều trình
độ quy mô công nghệ.
Với kiến thức của một sinh viên em chỉ phần nào đề cập được một số
khía cạnh của vấn đề.

52
Em mong có sự góp ý của thầy cô nhằm giúp em hiểu rõ hơn về vấn đề
này. Cuối cùng em xin cam kết tất cả những gì em viết trên đây là
những hiểu biết của em. Những phần tham khảo đều được chú thích ở
dưới. Em xin cảm ơn thầy Trần Ngọc Linh đã giúp em hoàn thành tiểu
luận này.

Kinh tế tri thức xét từ giác độ lực lượng sản xuất


Lao động cơ bắp từng bước được thay thế bằng lao động trí tuệ, nhưng lao động cơ bắp
không mất đi.
Lao động là hoạt động có ý thức của con người nhằm tạo ra những giá trị sử dụng đáp ứng
nhưng nhu cầu đa dạng của con người. Bởi vậy, ngay khi có con người, hoạt động sản xuất
của họ đã có hai phần: lao động cơ bắp và lao động trí tuệ. Cùng với sự phát triển của xã
hội, đặc biệt là sự phát triển của cách mạng công nghiệp, cách mạng khoa học, kỹ thuật rồi
của cách mạng khoa học, công nghệ, cũng như để sử dụng có hiệu quả những thành tựu do
các cuộc cách mạng đó mang lại, năng lực trí tuệ của người lao động không ngừng được
nâng cao, phần giá trị do lao động trí tuệ của họ tạo ra trong quá trình sản xuất và được kết
tinh ở sản phẩm ngày càng tăng. Từ chỗ chiếm một tỷ trọng rất không đáng kể ớ các thời
kỳ tiền cách mạng công nghiệp, ngày nay, ở các nước phát triển, đối với một số loại sản
phẩm có hàm lượng trí tuệ cao, hàm lượng giá trị do trí tuệ tạo ra và được kết tinh trong
sản phẩm có thể đạt tới 80 - 90% tổng giá trị sản phẩm. Đối với các loại sản phẩm đó,
nguyên vật liệu, năng lượng, lao động cơ bắp chỉ tạo thành từ 10% - 20% giá trị sản phẩm.
Không chỉ như vậy, hoạt động trực tiếp tạo ra sản phẩm không còn là công việc của riêng
người lao động, mà của cả một bộ phận ngày càng tăng lên những người trực tiếp quản lý
quá trình sản xuất, những kỹ sư, những nhà công nghệ...
Sự thay đổi đó là xu thế khách quan, mang tính tiến bộ và ngày càng mở rộng. Nó làm cho
tài nguyên thiên nhiên, lao động cơ bắp mặc dù vẫn là nhưng thứ không thể thiếu trong nền
sản xuất xã hội, nhưng ngày càng mất giá.
Mức đóng góp của tri thức và kỹ thuật đối với tăng trưởng kinh tế ngày càng lớn. Do vai
trò và vị trí ngày càng lớn của tri thức trong nền kinh tế, do thông tin và tri thức ngày càng
trở thành nguồn lực phát triển kinh tế chủ yếu, nên cơ cấu đầu tư để phát triển lực lượng
sản xuất có những thay đổi rất lớn. Ở Hoa Kỳ, mỗi năm số tiền chi vào việc sản xuất tri
thức và các hoạt động liên quan khác chiếm khoảng 20% GDP, trong đó, chi phí cho giáo
đục chiếm 10% GDP. Ngày càng có nhiều giá trị gia tăng kinh tế do trí tuệ tạo ra.
Cũng cần lưu ý rằng, mặc dù tri thức đã trở thành nhân tố quan trọng hàng đầu của sản
xuất và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là cực kỳ quan trọng, nhưng nguyên lý “xét đến cùng,
sở hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu là cơ sở của quan hệ sản xuất" vẫn giữ nguyên ý
nghĩa khoa học của nó. Bởi, như C. Mác đã nhấn mạnh, "thiên nhiên không chế tạo ra máy
móc, đầu máy xe lửa, đường sắt, điện báo, máy sợi con dọc di động... Tất cả những cái đó
đều là những cơ quan của bộ óc con người, do bàn tay con người tạo ra, đều là sức mạnh
đã vật hoá của tri thức. Sự phát triển của tư bản cố định là chỉ số cho thấy trì thức xã hội
phổ biến (Wissen knowledge) đã chuyển hoá đến mức độ nào thành lực lượng sản xuất

53
trực tiếp, do đó nó cũng chỉ là chỉ số cho thấy những điều kiện của chính quá trình sống
của xã hội đã phục tùng đến mức độ nào sự kiểm soát của trí tuệ phổ biến và đã được cải
tạo đến mức độ nào cho phù hợp với quá trình ấy, những lực lượng sản xuất xã hội đã được
tạo ra đến mức độ nào không những dưới hình thức tri thức, mà cả như là những cơ quan
thực hành xã hội trực tiếp, những cơ quan trực tiếp của quá trình sống hiện thực".
Yếu tố trí tuệ quan trọng hơn yếu tố vật liệu tự nhiên trong tư liệu sản xuất
Trong nền kinh tế tri thức, mối tương quan giữa các yếu tố cơ bản cấu thành tư liệu sản
xuất có sự thay đổi rất lớn.
Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Trong các nền kinh tế
trước, đối tượng lao động chủ yếu là những bộ phận của tự nhiên, trong nền kinh tế tri
thức, đối tượng lao động ngày càng là sản phẩm của lao động, của khoa học, công nghệ mà
hàm lượng vật liệu tự nhiên trong đó ngày càng giảm. Do vậy, đó sẽ là một nền kinh tế tiết
kiệm tài nguyên, không phụ thuộc một cách tiên quyết vào nguồn tài nguyên thiên nhiên,
mà phụ thuộc chủ yếu vào tài nguyên con người với năng lực trí tuệ cao.
Lao động quá khứ được kết tinh trong máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu... Liên quan tới
những nhân tố này, trong nền kinh tế tri thức, có hai điểm đáng chú ý. Một là, hàm lượng
trí tuệ trong những nhân tố đó ngày một gia tăng, Hai là, nhiều máy móc do lao động quá
khứ đã được vật hoá thực hiện. Khi tính đến hai sự kiện đó, chúng ta thấy dường như vai
trò của lao động sống có sự suy giảm tương đối. Nhưng, nếu xét tới sự phát triển thẳng tiến
của sản xuất, lao động sống vẫn có giá trị quyết định - "quyết định" không phải theo nghĩa
chiếm tỷ trọng lớn so với lao động quá khứ khi tạo ra sản phẩm ở chu kỳ mới, mà theo
nghĩa không có lao động sống và mọi lao động vật hoá không thể phát huy vai trò của
mình trong quá trình sản xuất. Máy móc hiện đại như thế nào chăng nữa cũng do con
người làm ra và vận hành, cải tiến nó. Mặt khác, trình độ của máy móc, thiết bị, trình độ trí
tuệ được kết tinh trong chúng lại đóng vai trò quyết định hiệu quả của lao động sống, quy
định xu hướng vận động của chính lao động sống. Chỉ trong chừng mực đáp ứng nhu cầu
đó, chu kỳ sản xuất tiếp theo mới có sự phát triển tương ứng với xu thế khách quan của lực
lượng sản xuất.
Lao động quản lý dần chiếm ưu thế so với lao động sản xuất trực tiếp
Sự phát triển của sản xuất xã hội luôn diễn ra theo quy luật phủ định của phủ đinh. Trước
kia, người sản xuất và người quản lý là một, song cùng với sự phát triển của lực lượng sản
xuất, sự tách rời giữa người sản xuất và người quán lý ngày một gia tăng, sự khác biệt phát
triển thành sự đối lập gay gắt. Giờ đây, chính sự phát triển cao của lực lượng sản xuất, ở
trình độ trí tuệ hoá cao quá trình sản xuất, đã và đang diễn ra sự xích lại gần nhau giữa
người lao động sản xuất và nhà quản lý. Trong nền kinh tế tri thức, ở không ít trường hợp,
người sản xuất và người quản lý hội tụ trong một cá thể mà ở đó, mặt quản lý ngày càng có
ưu thế hơn mặt laođộng trong việc tạo ra sản phẩm.
Những thay đổi ấy làm cho những yếu tố tạo ra giá tri mới được kết tinh trong sản phẩm
thặng dư mà biểu hiện dưới hình thức giá trị là giá trị thặng dư cũng không hoàn toàn như
cũ. Giá trị thặng dư được tạo ra không còn chỉ do lao động sống của người công nhân trực
tiếp sản xuất, mà còn do lao động vật hoá, do lao động quản lý... Lao động quản lý nói ở
đây bao gồm cả lao động quản lý của các chuyên gia quản lý (khi đó, họ thuộc về người
lao động theo nghĩa hiện đại của từ này) và lao động quần lý của người sở hữu tư liệu sản
xuất nếu họ tham gia quản lý doanh nghiệp. "Quản lý" lại là loại hình lao động phức tạp,
nó là "bội số của lao động giản đơn" như C.Mác nói.

54
Trí tuệ tự nó mang tính xã hội rất cao và thậm chí, còn mang tính nhân loại. Do vậy, khi
nói về những bộ phận cấu thành lực lượng sản xuất trong nền kinh tế trí tuệ, chúng ta thấy
nổi lên một đặc điểm hết sức quan trọng là tính xã hội hoá, quốc tế hóa rất cao của nó.
Những đặc điểm và tính chất mới đó của lực lượng sàn xuất quy định và đòi hỏi nội dung
mới, tính chất mới của quan hệ sản xuất vả cơ cấu của nền kinh tế tương ứng.
Quan hệ sản xuất và cơ cấu kinh tế trong nền kinh tế tri thức
Nội dung và tính chất mới của vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất
Tri thức hiện nay đang được coi là nguồn lực kinh tế chủ yếu. Các nhân tố sản xuất truyền
thống là đất đai, lao động và tư bản không biến mất, nhưng tầm quan trọng của nó không
còn như cũ. Một điều quan trọng hơn rất nhiều là tri thức tạo ra được cơ chế lợi nhuận tăng
dần, trong khi các yếu tố sản xuất truyền thống (đất đai, vốn, lao động), như chúng ta đã
biết, lại tuân theo quy luật lợi nhuận giảm dần. Đó là một xu hướng thực tế, bới chính công
nghệ thông tin - một bộ phận quan trọng của nền kinh tế tri thức đã trở thành phương tiện
giải phóng các tiềm năng sáng tạo và tri thức tiềm ẩn trong mỗi người, thành công cụ
"khuếch đại sức mạnh của não giống như công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp
khuếch đại sức mạnh của cơ bắp " (Brad de Long). Bắt đầu từ giữa những năm 80 của thế
kỷ XIX, một bộ phận quan trọng của nền kinh tế đã tuân theo cơ chế lợi nhuận tăng dần, đó
là khu vực công nghệ cao. Các nền kinh tế phát triển như các nước OECD đang phụ thuộc
rất nhiều vào việc sản xuất phân phối và sử dụng tri thức. Sản lượng và việc làm được mở
rộng rất nhanh ở các ngành công nghệ cao. Trên 50% GDP của các nền kinh tế OECD là
dựa trên tri thức (Candie Stevens).
Sở hữu trong nền kinh tế tri thức trước hết và chủ yếu là sở hữu trí tuệ. Trong nền kinh tế
đó, trí tuệ là nguồn lực cơ bán nhất của quốc gia. Ai nắm được trí tuệ, có khả năng điều
tiết, chi phối nó, kẻ đó có sức mạnh chi phối sự phát triển xã hội theo mục tiêu và lợi ích
của mình. Trong khi đó, như đã đề cập trên đây, tri thức mang tính xã hội hoá, quốc tế hóa
cao. Theo Joseph Stigliz, nhà kinh tế học Mỹ được nhận giải Nobel năm 2001 đồng thời là
cố vấn kinh tế trưởng của Ngân hàng thế giới, thì tri thức và thông tin là loại hàng hoá đặc
biệt, nó hoàn toàn khác các loại hàng hoá thông thường khác: nó thuộc về không phải của
một cá nhân nào đó, mà thuộc về quyền sở hữu của toàn xã hội, là một hàng hoá xã hội và
hơn thế nữa, nó thực sự là một hàng hoá mang tính toàn cầu.
Trong nền kinh tế tri thức, tri thức trở thành nhân tố sản xuất quan trọng hàng đầu trong
lực lượng sản xuất, quyết định lợi thế so sánh của một nước. Nếu doanh nghiệp nào nắm
được quyền sở hữu trí tuệ, ứng dụng công nghệ mới, tạo ra sản phẩm mới sẽ thu được tỷ
suất lợi nhuận cao hơn mức trung bình. Thí dụ: Nhờ luôn tạo ra các bộ vi xử lý trước một
thế hệ, lợi nhuận của hãng Intel trong nhiều năm là 23% doanh thu. Cũng với cách thay đổi
luôn như vậy lợi nhuận của hãng Microsoft đạt 24% doanh thu vào năm 1994. Lợi nhuận
cao như thế tuy không thể tồn tại mãi, nhưng có thể duy trì trong nhiều năm, như hãng
Intel duy trì tỷ suất lợi nhuận cao trong một thập kỷ. Như vậy, quy luật bình quân hoá tỷ
suất lợi nhuận bị cản trở, không thể phát huy tác dụng mạnh mẽ. Bởi vì, tiền đề để quy luật
này hoạt động là môi trường cạnh tranh tự do hoàn háo, nhưng trong nền kinh tế tri thức,
việc bảo hộ quyển sở hữu trí tuệ đã làm tăng tính độc quyền, khiến cho người nắm quyền
chiếm hữu đối với tri thức thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Điều có phần quan trọng hơn là trong xã hội tri thức, người là làm thuê tức người công
nhân tri thức lại là người sở hữu công cụ sản xuất, trí tuệ của bản thân họ. C.Mác đã có
phát kiến vĩ đại khi cho rằng, người công nhân nhà máy không có và không thể sở hữu tư

55
liệu sản xuất và do vậy bị "tha hoá". Ông chỉ rõ: Người công nhân không thể sở hữu máy
hơi nước và không thể lấy máy hơi nước đi cùng với mình, khi họ chuyển từ công việc này
sang công việc khác. Nhà tư bản cần phải sở hữu động cơ hơi nước và cần phải kiềm soát
nó. Thế nhưng, những đầu tư thực sự trong xã hội tri thức không phải vào máy móc hay
công cụ, mà chính là vào người công nhân tri thức, không có người công nhân tri thức thì
cho dù máy móc có hiện đại và tinh vi đến thế nào chăng nữa cũng không thể hoạt động
được.
So với sở hữu các giá trị vật chất, sở hữu tri thức có những đặc điểm hết sức riêng biệt
Sở hữu tri thức bao gồm quyền sở hữu công nghiệp (quyền về phát minh - sáng chế, về
nhãn hiệu thương mại, bản quyền và các kiểu dáng công nghiệp...), ngày nay còn tính thêm
phương pháp gây giống các loài cây, quyền về các hình vẽ, mẫu vẽ, quyền về các bản đồ
vẽ địa hình, về các chất bán dẫn... Ngoài ra, còn quyền về bí mật thương mại.
Với tư cách là đối tượng sở hữu, tri thức là một sản phẩm có đặc tính lũy tiến và rất khó
kiểm soát. Tri thức là một sản phẩm không bị cạn kiệt khi sử dụng, có thể vô số người
cùng sử dụng một tri thức mà không ai mất phần. Một tri thức có thể thuộc quyền sở hữu
của nhiều người, một người có thể dùng nhiều lần mà không phái trả thêm tiền. Hơn nữa,
càng nhiều người sử dụng càng tăng hiệu quả (như mạng Internet). Người sau có thể kế
thừa tri thức của người đi trước để sần xuất ra tri thức mới. Bởi vậy, tri thức cũng là một tài
sản khó kiểm soát nhất.
Chi phí cho phát triển tri thức rất lớn, nhưng sản phẩm càng về sau càng rẻ. Thí dụ, chi phí
cho việc nghiên cứu đĩa chương trình Window đầu tiên tổn phí hết 50 triệu USD, nhưng
đĩa thứ hai và các đĩa tiếp theo chỉ tốn 3 USD.
Khác với "lao động" và "vốn", việc sử dụng tri thức không làm nó mất đi và vì vậy, càng
nhiều người sử dụng càng đem lại lợi ích nhiều mà không tốn thêm chi phí. Người này sử
dụng không làm giảm khả năng sử dụng của người khác, vì vậy, tri thức có tính không
cạnh tranh trong sử dụng.
Tri thức có tính không loại trừ với nghĩa là khi truyền bá và chuyển giao tri thức không
làm tri thức mất đi, vì vậy, một tri thức được xã hội hoá (nhiều người biết), người ta không
thể loại trừ người này sử dụng trong khi cho phép người khác được sử dụng (theo nghĩa tự
nhiên của nó). Trên thực tế, người ta có thề thông qua bản quyền để cấm áp dụng.
Tri thức cũng có tính tích luỹ cao. Tri thức và thông tin không bị giảm đi theo thời gian sử
dụng (không khấu hao), mà luôn được tích luỹ thêm.
Trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế, dòng tri thức lưu chuyển nhanh khắp thế giới, lợi ích
thu được từ tri thức mới không nhất thiết sẽ thuộc về nơi đã phát minh ra chúng, mà tuỳ
thuộc vào tri thức và kỹ năng tổ chức sản xuất với chi phí thấp nhất và gắn kết được toàn
bộ các hoạt động của hệ thống tổ chức sản xuất. Thí dụ, Hoa Kỳ đã phát minh ra máy quay
phim và máy ghi âm, máy Fax, Hà Lan phát minh ra máy CD, nhưng phần lớn lợi nhuận
của sản phẩm này lại rơi vào tay Nhật Bản.
Các tính chất nêu trên của tri thức với tư cách là bộ phận chủ yếu của lực lượng sản xuất
trong nền kinh tế tri thức quy định tính tất yếu phải có hình thức sở hữu tương ứng Dưới
một hình thức nào đó, chế độ sở hữu phải mang tính chất xã hội. Tuy chưa phải la xã hội
hoá sở hữu với nghĩa đen của từ này, nhưng sự ra đời và ngày càng phát triển của những
Công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia trong những thập kỷ gần đây phần nào do tính tất yếu
khách quan đó quy định. Đành rằng giờ đây, ở một số nước rất coi trọng việc phát triển các

56
doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng xét về tính chất sở hữu và quản lý, các doanh nghiệp vừa
và nhỏ đó vẫn nằm trong một hệ thống chung, có sự liên kết và hỗ tương nhau rất chặt chẽ,
chúng phụ thuộc vả ràng buộc lẫn nhau tạo thành một chỉnh thể không phải chỉ ở quy mô
quốc gia, mà cá quy mô quốc tế. Trong giới hạn của chế độ sở hữu tư nhân, "xã hội hóa về
sở hữu”, với nghĩa là số người tham gia vào sở hữu ngày càng táng, quy mô sở hữu ngày
càng mở rộng đang là một xu thế phổ biến, nó làm cho việc sở hữu ấy mang tính xá hội
(mặc dù vẫn thuộc những cá nhân cụ thể) và tri thức được vận hành vì sự phát triển chung
của toàn xã hội, tuy lợi ích trực tiếp thuộc về một số người.
Đối với trí tuệ, vấn đề bản quyền chỉ có giá trị trên phương diện pháp lý nhằm bảo đảm lợi
ích của chủ thể sáng tạo ra tri thức mới, của phát minh, sáng tạo chứ không làm cho trí tuệ
đó mang tính cá nhân. Nó chỉ thuộc cá nhân khi mới sáng tạo ra, sau đó nhanh chóng trở
thành của xã hội.
Đặc điểm mới của quan hệ tổ chức, quản lý trong nền kinh tế tri thức
Tác động của kinh tế tri thức đối với tổ chức và quản lý rất rộng, trong đó, nổi bật nhất là
một số điểm chính sau đây:
Chủ thể và đối tượng quản lý: đại bộ phận là công nhân có học vấn.
Việc áp dụng các thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ (nhất là công nghệ thông
tin) vào quản lý đòi hỏi chủ thể quản lý phải nâng cao trình độ hiểu biết về nhiều mặt. Còn
về đối tượng chịu sự quản lý, đúng như dự báo của C.Mác "toàn bộ quá trình sản xuất thì
biểu hiện ra không phải như là một quá trình phụ thuộc vào tài nghệ trực tiếp của người
công nhân, mà với tư cách là sự ứng dụng khoa học trong “lĩnh vực công nghệ" và "biến
quá trình sản xuất từ chỗ là quá trình lao động giản đơn thành quá trình khoa học...", "do
đó đến một giai đoạn nào đó, guồng máy có thể thay thế công nhân" và "theo đà phát triển
của đại công nghiệp, việc tạo ra của cải thực tế trở nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động
và vào số lượng lao động đã chi phí hơn là vào sức mạnh của những tác nhân được khơi
động trong thời gian lao động và bản thân những tác nhân ấy, đến lượt chúng (hiệu quả to
lớn của chúng) tuyệt đối không tương ứng với thời gian lao động trực tiếp cần thiết để sản
xuất ra chúng, mà đúng hơn, chúng phụ thuộc vào trình độ chung của khoa học và vào sự
tiến bộ của kỹ thuật, hay là phụ thuộc vào việc ứng dụng khoa học ấy vào sản xuất". Vì
thế, "lao động biểu hiện ra không phải chủ yếu là lao động được nhập vào quá trình sản
xuất, mà chủ yếu là một loại lao động trong đó con người, trái lại, là người kiểm soát và
điều tiết bản thân quá trình sản xuất" và "thay vì làm tác nhân chủ yếu của quá trình sản
xuất, người công nhân lại đứng bên cạnh quá trình ấy”.
Như trong bất kỳ nền kinh tế nào, đối tượng quản lý là quá trình sản xuất, nhưng trong nền
kinh tế tri thức, quản lý trước hết và chủ yếu là quá trình ứng dụng khoa học trong lĩnh vực
công nghệ, trong đó máy móc đã thay thế hầu hết lao động chân tay, còn lao động sống chủ
yếu là lao động trí óc kiểm soát và điều tiết bản thân quá trình sản xuất.
Một phương thức tổ chức sản xuất mới ra đời
Để thích ứng với đối tượng quán lý là công nhân tri thức, sự thay đổi về phương pháp tổ
chức công việc đã được tiến hành thử nghiệm:
Sản xuất vừa đủ bắt nguồn từ kiểu sản xuất của hãng Toyota (triệt tiêu tồn kho, sản xuất
theo đơn đặt hàng, thông tin, báo cáo theo chiều dọc và nhân viên có thể đề xuất ý kiến cải
tiến kết quả công việc và chất lượng).

57
Cơ cấu lại là lý thuyết nhằm vào cắt giảm chi phí và hướng ngoại, liên quan chủ yếu đến
đội ngũ cán bộ khung, trong đó ứng dụng công nghệ thông tin để tạo ra những dịch vụ mới,
phối hợp kiểm tra công việc thông qua các mạng nội bộ chứ không còn thông qua cán bộ
trung gian.
Quản lý toàn diện chất lượng là lý thuyết phát triển sâu hơn một số điểm của lý thuyết sản
xuất vừa đủ như thoả mãn toàn bộ nhu cầu khách hàng và xoá bỏ tình trạng lãng phí.
Modul là lý thuyết khái quát phương pháp chia một cách hiệu quả quy trình sản xuất thành
những modul.
Nhưng sáng tạo đa dạng về cơ cấu tổ chức đó đều tìm cách đoạn tuyệt với với cái logic của
mô hình kiểu Taylor (lợi ích kinh tế nhờ quy mô, tiêu chuẩn hoá sản phẩm, mỗi nhân viên
một phận sự). Chính các phương thức linh hoạt đã tham gia trực tiếp vào quá trình nâng
cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nhiều mô hình lý thuyết chứng minh rằng,
công nghệ thông tin đang tạo điều kiện cho việc cấu trúc lại doanh nghiệp, đặc biệt là
khuyên khích phân cấp chức năng, hoặc tăng cường hiệu quả của tính đa năng trong doanh
nghiệp. Nói một cách khái quát, toàn bộ những lựa chọn của doanh nghiệp về chiến lược,
tổ chức công việc hay về công nghệ sẽ mang tính chất bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau. Như vậy, ý
tưởng, tổ chức nhân lực triển khai ý tưởng, tổ chức cách thức đùng vật lực (công nghệ)
thực hiện ý tưởng luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Để kinh tế tri thức phát triển, phương pháp tổ chức sản xuất mới từng bước thay thế
phương pháp Taylor trước đây. Đó là việc tổ chức ở cấp kinh tế vi mô, kết nối các Xí
nghiệp, Công ty, doanh nghiệp thành mạng lưới.
Từ đó giảm các khâu trung gian, chuyển giao nhiều trách nhiệm hơn cho cấp dưới và
ngược lại, cũng đòi hỏi người lao động phải có năng lực cao hơn.
Trong thời đại hiện nay, sự phát triển của công nghệ thông tin đang tạo điều kiện cho việc
thực hiện các chu trình sản xuất phi tập trung hơn, sự phối hợp giữa các công đoạn sản
xuất kinh doanh trở nên mềm dẻo hơn so với thời kỳ trước đây trong nền sản xuất đại trà.
Đặc điểm mới của quan hệ phân phối trong nền kinh tế tri thức
Sự tồn tại của con người về mặt thể chất sẽ không thể duy trì, nếu không có tiêu dùng vật
chất (ăn, uống...). Song, xã hội càng phát triển cao bao nhiêu, nhu cầu đó càng trở nên ít
bức bách bấy nhiêu, bởi nhu cầu vật chất của con người là có hạn và khả năng thoả mãn
nhu cầu đó không thành vấn đề cần có sự quan tâm đặc biệt trong một xã hội phát triển
cao. Trái lại, nhu cầu tiêu dùng trí tuệ lại vô hạn và ngày càng phức tạp, đa dạng. Sản xuất
và phân phối trí tuệ lại sẽ là nơi tập trung những mâu thuẫn phức tạp nhất trên lĩnh vực
phân phối nói chung.
Từ giác độ phân phối trí tuệ, chúng ta cũng thấy rằng, trí tuệ là cái không thể tước đoạt Do
vậy, việc mua - bán trí tuệ không làm thay đổi căn bản chủ thề thực sự sở hữu và tiêu dùng
nó. Mua trí tuệ (hay bán nó) thực chất chỉ là mua (hoặc bán) sản phẩm vật chất hay sản
phẩm mang tính trí tuệ do chủ thể trí tuệ đó tạo ra, trí tuệ của người bán nó vẫn như cũ, nếu
không nói rằng chính trong quá trình tiêu dùng trí tuệ của mình, trí tuệ của chủ thể được
kiểm chứng, được bổ sung và phát triển thêm. Đó là cơ sờ để nói rằng trí tuệ được tăng
trưởng và phát triển lên trong tiêu dùng.
Khi thừa nhận rằng, trong nền kinh tế tri thức, trọng tâm của quá trình sản xuất và phân
phối là sản xuất và phân phối trí tuệ cũng như những vật mang nó, chúng ta cũng có cơ sở

58
để khẳng định rằng, trong nền kinh tế đó, nếu có bóc lột, thì đó trước hết và chủ yếu bóc
lột trí tuệ, bóc lột lao động trí tuệ. Sản phẩm thặng dư là trí tuệ, độ lao động trí tuệ tạo ra
ngày càng lớn. Việc phân phối bất công những sản phẩm thặng dư đó là thước đo đánh giá
trình độ bất bình đẳng xã hội. Việc chiếm đoạt các sản phẩm thặng dư đó khi chúng biểu
hiện dưới hình thái giá trị là nội dung chủ yếu của bóc lột giá trị thặng dư trong chủ nghĩa
tư bản tương lai - nếu chế độ xã hội ấy còn tồn tại.
Khoảng cách giữa nước nghèo nhất và nước giàu nhất về thu nhập, tuổi thọ, giáo dục và
chất lượng cuộc sống đã ngày một rộng hơn trong quá trình phát triển của nền kinh tế tri
thức. 20% dân số thế giới hiện đang sống ở những nước có thu nhập cao nhất (hưởng 86%
GDP, 82% thị trường xuất khẩu hàng hoá và địch vụ, 68% đầu tư từ nước ngoài trực tiếp,
93,3% mạng lưới viễn thông toàn cầu).Trong khi đó, 20% dân số là những người nghèo
khó của thế giới chỉ được hưởng chưa đầy 1% thành quả trên.
Riêng về thu nhập, khoảng cách giữa 1/5 số người giàu nhất và 1/5 số người nghèo nhất
tăng từ 30 lần (thập niên 60) lên 74 lần (thập niên 60).
Những nước phát triển mạnh kinh tế tri thức thường có tăng trưởng GDP cao, tỷ lệ thất
nghiệp giảm và đời sống của người lao động được nâng cao. Chẳng hạn, Ôxtrâylia đã có
lúc là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới (năm 1998 GDP tăng
4,9%). Một trong những nguyên nhân của thành công trên là Ôxtrâylia đã đi đầu trong ứng
đụng công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin. Vào tháng giêng 1999, trên 48. 000
doanh nghiệp ở Ôxtrâylia đã có các địa chỉ miền riêng với máy chủ là các nhà cung cấp
dịch vụ Internet (ISP), ngoài ra còn 50.000 địa chỉ Web thuộc các trang chủ khác trong các
thư mục cửa hàng hoặc khu buôn bán trên mạng. Hiện có hơn 640 ISP đang hoạt động ở
Ôxtrâylia. Doanh thu của các ngành công nghiệp thông tin của Ôxtrâylia trong những năm
1995 - 1996 là 47 tỷ USD Ôxtrâylia. Ôxtrâylia hiện chỉ tạo ra 1,2% GDP toàn cầu, nhưng
lại tạo ra tới 2,3% giá trị của ngành công nghiệp thông tin toàn cầu. Xuất khẩu công nghệ
thông tin đạt 4 tỷ USD Ôxtrâylia một năm.
Tỷ trọng các ngành công nghệ cao trong GDP của Phần Lan đã tăng gấp 5 lần trong 10
năm qua, và GNP trên đầu người tăng vọt. Đó là do Phần Lan đã đi nhanh vào công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học. Phần Lan đạt tiêu chuẩn cao về giáo dục - đào tạo. Học sinh
tiếp cận với công nghệ thông tin từ khi còn nhỏ. Tất cả các trường đều truy cập mạng
Internet với tốc độ nhanh. Phần Lan đã đào tạo số cử nhân khoa học và công nghệ gấp 5
lần số cử nhân luật.
Sigapore là một trong những bước đầu tiên hướng đến nền kinh tế tri thức. Năm 1992, kế
hoạch IT2000 được ban hành nhằm chuyển Singapore thành một “hòn đảo thông minh".
Ngày nay, một nửa số gia đình đã có máy vi tính cá nhân và 1/5 số người dân dùng
Internet. Năm 1997, ngành công nghiệp thông tin Singapore có doanh thu 7,3 tỷ USD
(không tính các sản phẩm chế tạo và doanh thu của các nhà phân phối), 98% các gia đình
Singapore đã truy cập mạng Internet Singapore one mạng kết nối toàn quốc duy nhất trên
thế giới.
Các nước lạc hậu không vận đụng được công nghệ mới thường tăng trưởng chậm, thậm chí
suy thoái. Bởi vậy, cái gọi là sự phân cách về kỹ thuật số càng rộng và sự phân cực giàu
nghèo giữa các nước tiến lên kinh tế tri thức với các nước kém phát triển có khuynh hướng
ngày càng ra xa. Sự bất bình đẳng trong phân phối “cái bánh” toàn cầu hóa kinh tế tăng
lên.
Đặc điểm mới của cơ cấu kinh tế trong nền kinh tế tri thức

59
Sự thay đổi về đối tượng sở hữu, về tổ chức việc quản lý quá trình sản xuất có tác động rất
lớn tới sự chạy đổi cơ cấu của nền kinh tế tri thức. Theo lý luận về kết cấu các ngành (khu
vực) sản xuất của kinh tế truyền thống, cơ cấu nền kinh tế bao gồm: ngành sản xuất thứ
nhất là nông nghiệp, ngành sản xuất thứ hai là công nghiệp và ngành sản xuất thứ ba là
địch vụ. Dịch vụ đang nói ở đây là một khái niệm rộng, bao gồm dịch vụ đối với các ngành
sản xuất vật chất và bao gồm các loại dịch vụ đối với đời sống và tiêu đùng của nhân dân
(như thương nghiệp, tiền tệ, vận tải, thông tin, thậm chí cả những hoạt động của khoa học,
giáo dục, những hoạt động của Chính phủ, toà án... đều được gọi là ngành sản xuất thứ ba).
Sự phân loại ngành sản xuất thứ nhất, thứ hai, thứ ba và sự ra đời, sự tiến triển của các
ngành đó cung phản ánh một xu thế lịch sử, tức cái sau hơn cái trước - cả về chất lượng và
tốc độ. Riêng về tốc độ, chúng ta thấy rằng ngành sản xuất thứ hai có nhịp độ phát triển
nhanh hơn so với ngành sản xuất thứ nhất, ngành sản xuất thứ ba có nhịp độ tăng trưởng
nhanh hơn ngành thứ hai. Tình hình thực tế hiện nay của các nước phát triển là tỷ trọng
ngành sản xuất thứ ba có thể chiếm tới 66,7% GDP. Dư luận chung hiện nay cho thấy, nhịp
độ tăng trưởng của giáo dục và khoa học trong ngành sản xuất thứ ba là hết sức nhanh, vị
trí ngày càng quan trọng. Cho nên có thể tách giáo đục, khoa học từ ngành sản xuất thứ ba
ra thành ngành sản xuất thứ tư.
Theo thống kê của Tổ chức Hợp tác Phát triển Kinh tế ( OECD), tỷ lệ đóng góp của ngành
địch vụ Hoa Kỳ vào GNP từ 50% tăng lên 80%, trong đó 63% dịch vụ là thuộc dịch vụ kỹ
thuật cao. Còn theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, 64% của cải thế giới hiện nay là do
“vốn nhân lực" cấu thành. Trên 80% công việc trong các ngành của Hoa Kỳ về bản chất là
công việc "lao động trí óc". Trong nền kinh tế tri thức, hàm lượng tri thức trong các yếu tố
sản xuất ngày càng tăng, các ngành kinh tế tri thức (những ngành dựa vào các thành tựu
mới nhất của khoa học và công nghệ) và cả nhưng ngành truyền thống (như nông nghiệp,
công nghiệp, dịch vụ, được cải tạo bằng ứng đụng thành tựu khoa học và công nghệ) ngày
càng chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế quốc dân. Sản xuất công nghệ trở thành loại hình
sản xuất quan trọng nhất, tiên tiến nhất, tiêu biểu cho nền kinh tế tri thức. Ở những nước
công nghiệp phát triển cao (ở Bắc Mỹ và Tây Âu), những ngành chủ yếu dựa vào công
nghệ thông tin đã chiếm khoảng 45% đến 50% GDP. Một số điều trình bày trên đây được
rút ra từ nhiều tư liệu khác nhau nhằm giúp bạn đọc có được một ý niệm nào đó về một
lĩnh vực mới mẻ đối với nước ta - kinh tế tri thức.

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đổi
mới và hội nhập quốc tế
Phạm Công Nhất
TS, Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, Đại học quốc gia Hà Nội
(Cập nhật: 15/4/2008)

Sau hơn một năm gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, với những thành tựu ban đầu
đạt được, Việt Nam đã chứng tỏ được khả năng của mình trong việc tận dụng các thời cơ
để phát triển một cách năng động. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đó, Việt Nam đang
phải tiếp tục vượt qua nhiều thách thức ngày càng trở nên gay gắt mà một trong số đó là
phải xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng các yêu cầu phát triển của đất nước đang trong quá
trình đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng hơn.

Một vài nét về nguồn nhân lực

60
Sau hơn 20 năm tiến hành đổi mới và từng bước hội nhập quốc tế, cùng với sự phát triển mạnh
mẽ của nền kinh tế - xã hội, nguồn nhân lực Việt Nam đã có sự phát triển nhanh cả về số lượng và
chất lượng.

Về số lượng, Việt Nam hiện có một đội ngũ nhân lực khá dồi dào so với nhiều nước trong khu vực
và trên thế giới. Đến hết năm 2007, cả nước có trên 44 triệu lao động trên tổng số 85 triệu dân,
đứng thứ 2 trong khu vực và đứng thứ 13 trên thế giới về quy mô dân số. Sức trẻ là đặc điểm nổi
trội của tiềm năng nguồn nhân lực Việt Nam. Nước ta là một trong số ít quốc gia trong khu vực có
tỷ lệ về cơ cấu độ tuổi của dân số và lao động khá lý tưởng (trên 50% số dân trong độ tuổi từ 15 -
60 (độ tuổi lao động) và 45% trong tổng số lao động có độ tuổi dưới 54). Đây là yếu tố rất thuận lợi
để phát triển kinh tế - xã hội.

Về chất lượng, Việt Nam là một trong số ít các quốc gia ở khu vực có tỷ lệ người lớn biết chữ và
trẻ em trong độ tuổi đến trường khá cao. Sau hơn 20 năm đổi mới, lực lượng lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật ở nước ta đã tăng từ 7,6% (năm 1986) lên gần 30% (năm 2007). So với
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, người lao động Việt Nam nhìn chung có những phẩm
chất vượt trội như: thông minh, cần cù, chịu khó, khả năng nắm bắt các kỹ năng lao động, đặc biệt
là kỹ năng sử dụng các công nghệ hiện đại tương đối nhanh. Đây là lợi thế cạnh tranh quan trọng
của nguồn nhân lực nước nhà trong quá trình hội nhập và tham gia thị trường lao động quốc tế.

Tuy nhiên, với yêu cầu của quá trình phát triển nền kinh tế đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc
tế ngày càng sâu rộng thì chất lượng nguồn nhân lực nước ta hiện nay còn nhiều bất cập và hạn
chế. Mặc dù các chỉ số thống kê hằng năm về giáo dục ở nước ta khá cao (hơn 90% dân số biết
chữ, nhiều địa phương đã thực hiện xong chương trình phổ cập giáo dục cấp tiểu học cơ sở, trung
học cơ sở v.v..), tuy nhiên, trên thực tế, chất lượng nền giáo dục ở nước ta còn đạt ở mức thấp.
Báo cáo phát triển thế giới năm 2006 của Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra nhận định: Việt Nam chỉ
có 2% dân số được học từ 13 năm trở lên, tụt hậu khá xa so với các nước trong khu vực. Và, Việt
Nam xếp hạng chót trong khu vực với tỷ lệ 10% số người trong độ tuổi 20 - 24 học đại học. Tỷ lệ
này ở Trung Quốc là 15%, Thái Lan là 41% và Hàn Quốc là 89% (1).

Sau hơn 30 năm tiến hành công nghiệp hóa, vẫn còn khoảng 70% lao động cả nước hoạt động
trong lĩnh vực nông nghiệp. Tỷ lệ số học sinh, số trường các loại, số trường đại học, tỷ lệ tốt
nghiệp đại học, tỷ lệ học vị tiến sĩ trên triệu dân của nước ta đều cao hơn so với tất cả các nước
có mức thu nhập bình quân theo đầu người tương đương với Thái Lan. Nhưng chất lượng lại là
vấn đề đáng quan tâm. Điều tra của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2006 cho thấy cả nước có tới
63% số sinh viên ra trường không có việc làm, 37% số còn lại có việc làm thì hầu hết phải đào tạo
lại và có nhiều người không làm đúng nghề mình đã học, trong khi đó nhiều doanh nghiệp, kể cả
những doanh nghiệp có FDI và nhiều dự án kinh tế quan trọng khác rất thiếu nguồn lực chuyên
nghiệp. Khoảng 2/3 số người có học vị tiến sĩ trong cả nước không làm khoa học mà đang làm
công tác quản lý; số bài báo khoa học được công bố hằng năm chỉ bằng khoảng 1/4 của Thái Lan
và bằng 0,00043% của thế giới, mặc dù số người nhận bằng tiến sỹ hằng năm của ta thường
nhiều hơn của Thái Lan, có năm cao gần gấp đôi. Theo điều tra của Diễn đàn kinh tế thế giới
(WEF) năm 2005: nguồn nhân lực Việt Nam về chất lượng được xếp hạng 53/59 quốc gia được
khảo sát, song mất cân đối nghiêm trọng. Ở Việt Nam cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học có 1,16 cán
bộ tốt nghiệp trung cấp và 0,92 công nhân kỹ thuật, trong khi đó tỷ lệ này của thế giới là 1, 4 và 10.
Nước ta hiện nay cứ 1 vạn dân có 181 sinh viên đại học, trong khi đó của thế giới là 100, của
Trung Quốc là 140 mặc dù mức thu nhập quốc dân tính theo đầu người của Trung Quốc khoảng
gấp đôi của nước ta. ở một hướng điều tra khác cũng cho thấy, mức độ sẵn sàng tham gia “sân
chơi” thế giới của người lao động nước ta cũng còn hạn chế. Kết quả cuộc thăm dò ý kiến trên
Báo điện tử VnExpress mới đây cho thấy, chỉ 8,6% độc giả trả lời rằng họ hiểu rất rõ về Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO) và tiến trình gia nhập của Việt Nam, 28,5% nói hiểu tương đối, 41,2%
hiểu lơ mơ, số còn lại không hiểu và thậm chí không quan tâm tới vấn đề này.

Những hạn chế trên đây xuất phát từ nhiều nguyên nhân, song cơ bản là cho đến nay nền kinh tế
nước ta vẫn là nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, thu nhập bình quân đầu người chưa vượt quá 925
USD (chuẩn mới về thu nhập của quốc tế được coi là quốc gia vẫn còn ở mức thu nhập thấp).
Tính đến hết năm 2007, tỷ trọng giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp vẫn còn cao (29,6%), số
lao động trong các ngành nghề nông, lâm, ngư nghiệp vẫn còn lớn (56,8%), tỷ lệ lao động xã hội
chưa qua đào tạo chiếm một tỷ lệ đa số. Những chỉ số này cho thấy đây là một trong những
nguyên nhân cơ bản đang tạo ra sự hạn chế trong sự phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện
nay. Một nguyên nhân khác là thực trạng quy hoạch và phát triển nguồn nhân lực nước ta những

61
năm qua còn quá nhiều bất cập. Cho đến nay chúng ta chưa có chiến lược tổng thể trong việc xây
dựng, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực cho quá trình phát triển đất nước giai đoạn công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ít nhất là đến năm 2020. Việc quy hoạch, phát triển và sử dụng nguồn
nhân lực giữa các ngành, vùng và địa phương trong cả nước cũng còn nhiều chồng chéo và thiếu
các mục tiêu cụ thể. Điều đó dẫn đến tình trạng khá phổ biến hiện nay là vừa “thừa” vừa “thiếu”
nhân lực trong các ngành, vùng, địa phương. Một nguyên nhân nữa thường được nhắc đến là sự
lạc hậu về nội dung và phương pháp trong việc đào tạo nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay.
Trong một thời gian dài, với nhiều lý do khác nhau, nền giáo dục đào tạo của chúng ta chưa xác
định được mục tiêu rõ ràng, chưa được coi là điểm đột phá để đưa đất nước phát triển như nhiều
quốc gia trong khu vực và trên thế giới có hoàn cảnh như nước ta đã từng làm. Phần lớn nội dung
và chương trình giáo dục các cấp hiện nay ở nước ta đều được biên soạn hoặc còn chịu ảnh
hưởng bởi nội dung, chương trình giáo dục của các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là của Liên Xô
trước đây. Một thời gian dài, những nội dung và chương trình giáo dục này khá phù hợp với nền
giáo dục của nước ta và đã mang lại những thành tựu hết sức quan trọng. Song, tự nó cũng hàm
chứa rất nhiều hạn chế, bất cập. Đặc biệt, trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay thì
những hạn chế, bất cập đó đã và đang là một trở ngại lớn đòi hỏi cần có sự cải cách và đổi mới
cho phù hợp. Phương pháp giáo dục cũng còn nhiều bất cập. Các phương pháp dạy và học của
chúng ta hiện nay thường tạo ra sự thụ động đối với người học, như nặng về lý thuyết, nhẹ về kỹ
năng thực hành. Do đó, chất lượng nguồn nhân lực sau đào tạo thường bất cập. Người học
thường ít vận dụng được những gì sau khi học, hoặc muốn làm việc được thì người học phải chấp
nhận qua một quá trình “đào tạo lại” không chỉ lãng phí về tiền của mà còn lãng phí về thời gian đối
với người học v.v..

Một số giải pháp cấp bách

Là thành viên của nền kinh tế thế giới, vấn đề xây dựng và phát triển nguồn nhân lực có chất
lượng ngày càng cao để có thể đáp ứng quá trình hội nhập quốc tế vẫn đang là yêu cầu bức thiết
đối với nước ta hiện nay. Để giải quyết yêu cầu bức thiết này đòi hỏi chúng ta cần:

Một là, nhận thức rõ tầm quan trọng của việc xây dựng, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực của nước nhà trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay. Trong quá trình đổi
mới và bước vào “sân chơi” toàn cầu, so với nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới chúng
ta không có lợi thế nào đáng kể, trừ những lợi thế nhất định về tài nguyên con người. Do đó, để
quá trình đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập thành công với nền kinh tế
thế giới, để “sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại” (2) thì nhân tố quyết định cho
sự thành công đó chính là phải bắt đầu từ việc xây dựng, phát triển và phát huy nguồn lực con
người Việt Nam. Các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương phải quán triệt quan điểm:
phát huy tiềm năng trí tuệ con người Việt Nam, xây dựng nguồn nhân lực Việt Nam ngày càng
nâng cao về chất lượng và coi đó là “chìa khóa” quan trọng để đi đến thành công trong quá trình
đổi mới và hội nhập quốc tế.

Hai là, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, trước hết là đổi mới trong lĩnh vực kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời tích cực chủ động hội nhập sâu hơn vào nền kinh
tế thế giới. Đây là điều kiện tiên quyết có ý nghĩa đến việc tạo động lực quan trọng để thúc đẩy quá
trình xây dựng, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay. Muốn
vậy, Nhà nước cần tiếp tục đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; thực hiện đa dạng hóa các thành phần kinh tế nhằm tạo thêm nhiều việc làm và thu nhập
cho người lao động; tiếp tục điều chỉnh chính sách đối với việc thu hút các nguồn vốn đầu tư nước
ngoài theo hướng trước hết ưu tiên vào một số ngành nghề có khả năng đào tạo và sử dụng lực
lượng lao động chất lượng cao, những ngành nghề có khả năng hợp tác và trao đổi lao động quốc
tế v.v..

Mặc dù chất lượng lực lượng lao động ở Việt Nam những năm gần đây đã được cải thiện đáng kể
song hiện vẫn còn một tỷ lệ lớn lực lượng lao động còn chưa qua đào tạo mà phần lớn số lao động
này lại đang sống và hoạt động tại các khu vực nông thôn, vùng miền núi. Để nâng cao chất lượng
lực lượng lao động này giải pháp cấp bách hiện nay là tiếp tục đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, đồng thời có các giải pháp căn bản để chuyển đổi cơ
cấu ngành nghề, tích cực mở mang các cơ sở đào tạo nhằm từng bước nâng cao chất lượng lao
động tại các khu vực nông thôn và miền núi để có thể đáp ứng được yêu cầu của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ngay trong từng địa bàn của các địa phương trong cả

62
nước. Cùng với việc đào tạo lao động tại chỗ, Nhà nước và địa phương cần có chính sách khuyến
khích, thu hút lực lượng lao động trẻ đã qua đào tạo nhưng lại chưa tìm được việc làm ở các khu
đô thị về làm việc tại các khu vực nông thôn, miền núi.

Ba là, xây dựng và triển khai chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam từ nay đến năm 2020
và tầm nhìn 2030. Nội dung và cách thức triển khai chiến lược phải bảo đảm tính toàn diện phù
hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Trong đó, cần đề ra và thực hiện các mục tiêu theo lộ
trình cụ thể, như “đến năm 2010 có nguồn nhân lực với cơ cấu đồng bộ và chất lượng cao; tỷ lệ
lao động trong khu vực nông nghiệp còn dưới 50% lực lượng lao động xã hội (3); đến năm 2020
phải bảo đảm 75% - 80% số lao động được đào tạo phục vụ trong tất cả các ngành công nghiệp,
dịch vụ và nông nghiệp nông thôn; đến năm 2030 bảo đảm từ 95 - 100% số lao động được đào
tạo, trong đó tỷ lệ lực lượng lao động chất lượng cao (có trình độ từ đại học, cao đẳng trở lên) phải
chiếm từ 60 - 70% trở lên. Cố nhiên, các mục tiêu nói trên có thể được điều chỉnh, thay đổi tùy
theo điều kiện hoàn cảnh cụ thể trong tiến trình phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước.

Bốn là, cải cách mạnh mẽ hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hiện đại, góp phần đào tạo và
xây dựng nguồn nhân lực của đất nước có chất lượng ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển
đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế.
Việc chuẩn bị đủ lực lượng lao động có chất lượng tốt hiện nay gắn liền với quyết tâm cao và
bước đi đúng đắn của công cuộc cải cách hệ thống giáo dục, trong đó có hệ thống giáo dục đại
học. Vấn đề này cũng phụ thuộc vào quyết tâm thay đổi nội dung, chương trình đào tạo, cơ chế
quản lý giữa Bộ Giáo dục - Đào tạo và các trường đại học, cơ chế tuyển chọn đội ngũ cán bộ quản
lý, giảng viên...
Để tạo được sự chuyển biến về chất lượng trong giáo dục đại học, trước mắt cần phải tập trung
giải quyết một số vấn đề then chốt. Về hệ thống các cơ sở đào tạo, tạo ra một hệ thống các trường
đại học có tính cạnh tranh và tính thực nghiệm cao. Về cơ chế quản lý, thay đổi theo hướng tăng
thêm tính chủ động cho cấp dưới, cấp cơ sở. Cơ quan quản lý cấp trên phải kịp thời ban hành các
chủ trương, chính sách và thường xuyên giám sát thực hiện (điển hình là việc phát hành sách giáo
khoa, giáo trình của nhiều môn học trong các nhà trường). Về nội dung, chương trình cần chuyển
mạnh từ những ưu tiên nặng về lý thuyết sang tăng cường hệ thống tri thức vận dụng thực tế và
đặc biệt hướng tới phát triển tư duy sáng tạo của sinh viên. Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh công tác
xã hội hóa giáo dục, cho phép các thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia vào quá trình
đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu hội
nhập quốc tế phù hợp với luật pháp Việt Nam cũng là cần thiết trong bối cảnh hiện nay.

. Tình trạng về nguồn nhân lực của Việt Nam 


Nhận thức về nguồn nhân lực của Việt Nam đang còn có những ý kiến khác nhau. Trên
phương tiện thông tin đại chúng, người ta thường nói đến thế mạnh của Việt Nam là nguồn
nhân công rẻ mạt và kêu gọi các nhà đầu tư hãy đầu tư vào Việt Nam vì Việt Nam có
nguồn nhân công rẻ mạt. Tại sao lại nói như vậy? Một số người chưa đánh giá đúng về
nguồn nhân lực của Việt Nam. Quan điểm chỉ đạo về vấn đề này cũng chưa rõ ràng. Khả
năng để tổ chức khai thác nguồn nhân lực còn bất cập. Vì vậy, để nghiên cứu nó, phải tìm
hiểu xem nguồn nhân lực ở Việt Nam xuất phát từ đâu và đang ở trong tình trạng nào? 
Nguồn nhân lực từ nông dân: 
Tính đến nay, số dân của cả nước là 84,156 triệu người1, trong đó, nông dân chiếm khoảng
hơn 61 triệu 433 nghìn người, bằng khoảng 73% dân số của cả nước. Số liệu trên đây phản
ánh một thực tế là nông dân nước ta chiếm tỷ lệ cao về lực lượng lao động xã hội. Theo các
nguồn số liệu mà tôi thống kê được, hiện nay, cả nước có khoảng 113.700 trang trại, 7.240
hợp tác xã nông, lâm nghiệp, thủy sản; có 217 làng nghề và 40% sản phẩm từ các ngành,
nghề của nông dân được xuất khẩu đến hơn 100 nước. Như vậy, so với trước đây, nông
thôn nước ta đã có những chuyển biến tích cực. 
Tuy nhiên, nguồn nhân lực trong nông dân ở nước ta vẫn chưa được khai thác, chưa được
tổ chức, vẫn bị bỏ mặc và từ bỏ mặc đã dẫn đến sản xuất tự phát, manh mún. Người nông

63
dân chẳng có ai dạy nghề trồng lúa. Họ đều tự làm, đến lượt con cháu họ cũng tự làm. Có
người nói rằng, nghề trồng lúa là nghề dễ nhất, không cần phải hướng dẫn cũng có thể làm
được. ở các nước phát triển, họ không nghĩ như vậy. Mọi người dân trong làng đều được
hướng dẫn tỷ mỷ về nghề trồng lúa trước khi lội xuống ruộng. Nhìn chung, hiện có tới 90%
lao động nông, lâm, ngư nghiệp và những cán bộ quản lý nông thôn chưa được đào tạo.
Điều này phản ánh chất lượng nguồn nhân lực trong nông dân còn rất yếu kém. Sự yếu
kém này đẫ dẫn đến tình trạng sản xuất nông nghiệp nước ta vẫn còn đang trong tình trạng
sản xuất nhỏ, manh mún, sản xuất theo kiểu truyền thống, hiệu quả sản xuất thấp. Việc liên
kết "bốn nhà" (nhà nước, nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp) chỉ là hình thức. 
Tình trạng đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, làm cho một bộ phận lao động ở nông thôn
dôi ra, không có việc làm. Từ năm 2000 đến năm 2007, mỗi năm nhà nước thu hồi khoảng
72 nghìn ha đất nông nghiệp để phát triển công nghiệp, xây dựng đô thị và rơi vào túi
những ông có chức, có quyền ở địa phương, gây nên bất hợp lý trong chính sách đối với
người nông dân. 
Chính vì nguồn nhân lực trong nông thôn không được khai thác, đào tạo, nên một bộ phận
nhân dân ở nông thôn không có việc làm ở các khu công nghiệp, công trường. Tình trạng
hiện nay là các doanh nghiệp đang thiếu nghiêm trọng thợ có tay nghề cao, trong khi đó,
lực lượng lao động ở nông thôn lại dư thừa rất nhiều. 
Vấn đề lao động và việc làm ở nông thôn Việt Nam đang rất đáng lo ngại. Nông dân ở
những nơi bị thu hồi đất thiếu việc làm; chất lượng lao động thấp, nhưng cho đến nay, qua
tìm hiểu, tôi thấy vẫn chưa được khắc phục có hiệu quả. 
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là chính sách đối với nông dân, nông thôn, nông
nghiệp chưa rõ ràng. 
Nguồn nhân lực từ công nhân: 
Về số lượng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay có khoảng dưới 5 triệu người, chiếm
6% dân số của cả nước, trong đó, công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ lệ
thấp, khoảng gần 2 triệu người, bằng khoảng 40% so với lực lượng công nhân nói chung
của cả nước; lực lượng công nhân của khu vực ngoài nhà nước có khoảng 2,70 triệu, chiếm
gần 60%. Xu hướng chung là lực lượng công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước ngày
càng ít đi, trong khi đó, lực lượng công nhân của khu vực ngoài nhà nước ngày càng tăng
lên. Công nhân có tay nghề cao chiếm tỷ lệ rất thấp so với đội ngũ công nhân nói chung.
Trình độ văn hóa, tay nghề, kỹ thuật của công nhân còn thấp. Số công nhân có trình độ cao
đẳng, đại học ở Việt Nam có khoảng 150 nghìn người, chiếm khoảng 3,3% so với đội ngũ
công nhân nói chung ở Việt Nam. Số công nhân xuất khẩu lao động tiếp tục tăng, tuy gần
đây có chững lại. Từ năm 2001 đến năm 2006, Việt Nam đã đưa được gần 375 nghìn người
lao động đi làm việc tại trên 40 nước và vùng lãnh thổ, tăng gấp 4 lần so với thời kỳ 1996-
2000 (95 nghìn người). Hiện nay, lao động Việt Nam làm việc tại nước ngoài có khoảng
500 nghìn người, làm việc tại trên 40 nước và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành nghề. 
Vì đồng lương rẻ mạt, công nhân không thể sống trọn đời với nghề, mà phải kiêm thêm
nghề phụ khác như đi làm xe ôm trong buổi tối và ngày nghỉ, làm nghề thủ công, buôn bán
thêm, cho nên đã dẫn đến tình trạng nhiều người vừa là công nhân, vừa không phải là công
nhân. Trong các ngành nghề của công nhân, tỷ lệ công nhân cơ khí và công nghiệp nặng
còn rất thấp, khoảng 20% trong tổng số công nhân của cả nước, trong khi đó, công nhân
trong các ngành công nghiệp nhẹ, chế biến thực phẩm lại chiếm tỷ lệ cao, khoảng 40%. Sự
già đi và ít đi của đội ngũ công nhân Việt Nam đã thấy xuất hiện. Với tình hình này, công

64
nhân khó có thể đóng vai trò chủ yếu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Về mặt chính trị, thực chất, công nhân Việt Nam chưa có địa vị bằng trí thức, công
chức, viên chức, rất khó vươn lên vị trí chủ đạo trong đời sống xã hội và trong sản xuất,
kinh doanh. 
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do sự quan tâm chưa đầy đủ và chưa có chính sách
có hiệu quả trong việc xây dựng giai cấp công nhân. 
Nguồn nhân lực từ trí thức, công chức, viên chức: 
Nếu tính sinh viên đại học và cao đẳng trở lên được xem là trí thức, thì đội ngũ trí thức
Việt Nam trong những năm gần đây tăng nhanh. Riêng sinh viên đại học và cao đẳng phát
triển nhanh: năm 2000, cả nước có 899,5 nghìn người; năm 2002: 1.020,7 nghìn người;
năm 2003: 1.131 nghìn người; năm 2004: 1.319,8 nghìn người. Năm 2005: 1,387,1 nghìn
người; năm 2006 (mới tính sơ bộ: prel): 1,666, 2 nghìn người,… Cả nước đến nay có 14
nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa học; 1.131 giáo sư; 5.253 phó giáo sư; 16 nghìn người có trình
độ thạc sĩ; 30 nghìn cán bộ hoạt động khoa học và công nghệ; 52.129 giảng viên đại học,
cao đẳng, trong đó có 49%  của số 47.700 có trình độ thạc sĩ trở lên, gần 14 nghìn giáo
viên trung cấp chuyên nghiệp, 11.200 giáo viên dạy nghề và 925 nghìn giáo viên hệ phổ
thông; gần 9.000 tiến sĩ được điều tra, thì có khoảng 70% giữ chức vụ quản lý và 30% thực
sự làm chuyên môn. Đội ngũ trí thức Việt Nam ở nước ngoài, hiện có khoảng 300 nghìn
người trong tổng số gần 3 triệu Việt kiều, trong đó có khoảng 200 giáo sư, tiến sĩ đang
giảng dạy tại một số trường đại học trên thế giới. Số trường đại học tăng nhanh. Tính đến
đầu năm 2007, Việt Nam có 143 trường đại học, 178 trường cao đẳng, 285 trường trung
cấp chuyên nghiệp và 1.691 cơ sở đào tạo nghề. Cả nước hiện có 74 trường và khối trung
học phổ thông chuyên với tổng số 47,5 nghìn học sinh tại 63/64 tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương và 7 trường đại học chuyên. Tỷ lệ học sinh trung học phổ thông chuyên so với
tổng dân số của cả nước đạt 0,05%, còn chiếm rất thấp so với thế giới. 
Cả nước có 1.568/3.645 học sinh đọat giải trong kỳ thi học sinh giỏi quốc gia trung học
phổ thông năm học 2007-2008. 
Đầu năm 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam đã trình lên Thủ tướng Chính phủ Việt
Nam dự án đào tạo 20 nghìn tiến sĩ trong giai đoạn 2007-2020 ở cả trong nước và ngoài
nước. 
Nhà nước đã dành một khoản ngân sách chi cho giáo dục và đào tạo là 76.200 tỷ đồng,
chiếm 20% tổng chi ngân sách nhà nước, tăng 14,1% so với thực hiện năm 2007. 
Bên cạnh nguồn nhân lực là trí thức trên đây, nguồn nhân lực là công chức, viên chức
(cũng xuất thân từ trí thức) công tác tại các ngành của đất nước cũng tăng nhanh: 
Tổng số công chức, viên chức trong toàn ngành xuất bản là gần 5 nghìn người làm việc tại
54 nhà xuất bản trong cả nước (trung ương 42, địa phương 12). 
Tổng số nhà báo của cả nước là 14 nghìn phóng viên chuyên nghiệp và hàng nghìn cán bộ,
kỹ sư, nghệ sĩ, nhân viên làm việc trong các cơ quan báo chí và hàng chục nghìn người
khác là cộng tác viên, nhân viên, lao động tham gia các công đoạn in ấn, tiếp thị quảng
cáo, phát hành, làm việc tại 687 cơ quan báo chí, hơn 800 báo, tạp chí, báo điện tử, đài
phát thanh, truyền hình. 
Đội ngũ công chức, viên chức của ngành thuế Việt Nam hiện có gần 39 nghìn người;
ngành hải quan của Việt Nam là 7.800 người, ngành kho bạc là 13.536 người. 

65
Tính đến tháng 6-2005, đội ngũ cán bộ nghiên cứu, hoạch định chính sách pháp luật của
các cơ quan trung ương là 824 người, trong đó có 43 tiến sĩ luật (chiếm 5,22%), 35 tiến sĩ
khác (chiếm 4,25%), 89 thạc sĩ luật (chiếm 10,08%), 43 thạc sĩ khác (chiếm 5,22%), 459
đại học luật (chiếm 55,70%), 223 đại học khác (chiếm 27,06%), 64 người có 2 bằng vừa
chuyên môn luật, vừa chuyên môn khác (chiếm 7,77%),… Cả nước có 4.000 luật sư (tính
ra cứ 1 luật sư trên 24 nghìn người dân). 
Trí thức, công chức, viên chức trong các ngành nghề khác của các cơ quan trung ương và
địa phương cũng tăng nhanh. 
Tổng nhân lực các hội, liên hiệp hội, viện, trung tâm (NGO) hiện có 52,893 người. 
Bên cạnh sự tăng nhanh từ nguồn nhân lực trí thức, công chức, viên chức đã dẫn ra trên
đây, thấy rằng, ở Việt Nam hiện nay, chất lượng nguồn nhân lực từ trí thức, công chức,
viên chức còn quá yếu. Có người tính rằng, hiện vẫn còn khoảng 80% số công chức, viên
chức làm việc trong các cơ quan công quyền chưa hội đủ những tiêu chuẩn của một công
chức, viên chức như trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học, ảnh hưởng nhiều
đến chất lượng công việc. Có 63% tổng số sinh viên tốt nghiệp ra trường chưa có việc làm,
không ít đơn vị nhận người vào làm, phải mất 1-2 năm đào tạo lại. Trong số 37% sinh viên
có việc làm, thì cũng không đáp ứng được công việc. Bằng cấp đào tạo ở Việt Nam chưa
được thị trường lao động quốc tế thừa nhận. Năm 2007, số sinh viên tốt nghiệp đại học là
161.411. Theo ước tính, mỗi tấm bằng đại học, người dân bỏ ra 40 triệu đồng, còn nhà
nước đầu tư khoảng 30 triệu đồng. Như vậy, với tỷ lệ 63% số sinh viên ra trường chưa có
việc làm, cho thấy kinh phí đầu tư của sinh viên thất nghiệp (161.411 sinh viên x 63% x 70
triệu), ít nhất thất thoát 7.117 tỷ đồng (trong đó, 4.067 tỷ đồng của dân và 3.050 tỷ đồng
của nhà nước). 
Việt Nam có khoảng 2,6 triệu người có trình độ đại học trở lên. Con số này có thể nói
tương đương với 2,6 triệu trí thức nước nhà. 
Nói tóm lại, nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân, trí thức (trong đó có công chức, viên
chức) ở Việt Nam, nhìn chung, còn nhiều bất cập. Sự bất cập này đã ảnh hưởng trực tiếp
đến phát triển kinh tế. Trong những năm đổi mới, kinh tế đất nước tuy có tăng từ 7,5 đến
8%, nhưng so với kinh tế thế giới thì còn kém xa. Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới
(WB) và tập đoàn tài chính quốc tế (IFC), công bố ngày 26-9-2007, kinh tế Việt Nam xếp
thứ 91/178 nước được khảo sát. 
Có thể rút ra mấy điểm về thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam: 
 - Nguồn nhân lực ở Việt Nam khá dồi dào, nhưng chưa được sự quan tâm đúng mức, chưa
được quy hoạch, chưa được khai thác, còn đào tạo thì nửa vời, nhiều người chưa được đào
tạo. 
- Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn giữa lượng và chất. 
- Sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân, trí thức,…
chưa tốt, còn chia cắt, thiếu sự cộng lực để cùng nhau thực hiện mục tiêu chung là xây
dựng và bảo vệ đất nước.
2. Những giải pháp về phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam
Hiện nay, mục tiêu phát triển của đất nước đã được Đảng và Nhà nước Việt Nam xác định
là phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng

66
hiện đại. Vấn đề còn đang xác định là xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai
đoạn 2011-2020. 
Tạo nguồn nhân lực dồi dào cho đất nước sẽ góp phần quan trọng có tính quyết định để
thực hiện mục tiêu trên. Xin được nêu một số giải pháp về phát triển nguồn nhân lực ở Việt
Nam qua nghiên cứu của chúng tôi: 
Một là: Phải xác định cho rõ nguồn nhân lực là tài nguyên quý giá nhất của Việt Nam
trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Một đất nước rất ít tài nguyên thiên nhiên
như ở Việt Nam, cần phải lấy nguồn nhân lực làm tài nguyên thay thế, gọi là tài nguyên
nguồn nhân lực, hoặc tài nguyên con người. 
Hai là: Nâng cao hơn nữa đến chất lượng con người và chất lượng cuộc sống. Chất lượng
con người, trước hết, phải tính đến vấn đề chất lượng sinh nở. Ngành y tế phải có những
quy định cụ thể về chất lượng sinh nở như kiểm tra sức khỏe, bệnh tật, tính di truyền,…
trước khi đăng ký giá thú và vợ chồng quan hệ để sinh con. Hiện nay, tại Việt Nam, đang
có tình trạng đẻ vô tội vạ, đẻ không tính toán, cân nhắc, nhất là ở nông thôn, làm cho
những đứa con sinh ra bị còi cọc, không phát triển được trí tuệ. Thậm chí có những người
bị nhiễm chất độc da cam mà vẫn đẻ ra những đứa con dị tật. Có người tính rằng, tại Việt
Nam, cứ 10 đứa trẻ sinh ra, có 1 đứa bị dị tật bẩm sinh. Vì vậy, phải tăng cường chất lượng
hoạt động của các cơ quan chức năng.
Khi có chất lượng con người, phải tính đến chất lượng cuộc sống, có nghĩa là phải nuôi
dưỡng về vật chất và tinh thần của con người sinh ra, bảo đảm cho họ có thể lực dồi dào,
có trí tuệ minh mẫn. Về vấn đề này, Việt Nam còn kém xa so với nhiều nước. 
Ba là: Nhà nước xây dựng chiến lược nguồn nhân lực gắn với chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế; xác định thật rõ
xây dựng nguồn nhân lực là trách nhiệm của các nhà hoạch định và tổ chức thực hiện chính
sách, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. 
Bốn là: Chính phủ và các cơ quan chức năng của Chính phủ có biện pháp giải quyết hiệu
quả những vấn đề vừa cấp bách, vừa lâu dài của nguồn nhân lực, trong đó có vấn đề khai
thác, đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực, tạo một chuyển biến thật sự mạnh mẽ trong việc
khai thác, đào tạo, sử dụng từ nguồn nhân lực trong công nhân, nông dân, trí thức, doanh
nhân, dịch vụ,… 
Năm là: Nhà nước phải có kế hoạch phối hợp tạo nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân,
trí thức; có kế hoạch khai thác, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng các nguồn nhân lực cho đúng. 
Sáu là: Không ngừng nâng cao trình độ học vấn. Hiện nay, nhìn chung, trình độ học vấn
bình quân của cả nước mới khoảng lớp 6/ đầu người (có người tính là lớp 7). Tỷ lệ biết chữ
mới đạt khoảng 93% (có người tính là 94 - 95%). Vì vậy, vấn đề đặt ra một cách gay gắt là
phải bằng mọi biện pháp và đầu tư để nâng cao trình độ học vấn của cả nước lên, bằng
không, sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Thực hiện toàn xã
hội học tập và làm việc.  
Bảy là: Đảng và Nhà nước cần có chính sách rõ ràng, minh bạch, đúng đắn đối với việc
việc sử dụng, trọng dụng nhân tài, nhất là trọng dụng các nhà khoa học và chuyên gia thật
sự có tài năng cống hiến. Phải có sự phân biệt rành mạch giữa tài thật và tài giả, giữa
những người cơ hội và những người chân chính trong các cơ quan công quyền. Không giải
quyết được vấn đề này một cách rõ ràng, thì nhân tài của đất nước sẽ lại "rơi lả tả như lá
mùa thu", "vàng thau lẫn lộn", làm cho những người thật sự có tài năng không phát triển

67
được, trong khi đó, những người cơ hội, “ăn theo nói leo”, xu nịnh, bợ đỡ lại tồn tại trong
các cơ quan công quyền. 
Tám là: Chính phủ cần có những quyết định đúng đắn về việc được phép đầu tư vào cái gì
trong nguồn nhân lực; cải thiện chính sách tiền tệ và tài chính, phát triển cơ sở hạ tầng,
hiện đại hóa giáo dục là những vấn đề quan trọng vào thời điểm hiện nay. 
Chín là: Cải thiện thông tin về nguồn nhân lực theo hướng rộng rãi và dân chủ, làm cho
mọi người thấy được tầm quan trọng của phát triển nguồn nhân lực của nước ta và trên thế
giới. Mở những đợt tuyên truyền rộng rãi, thấm sâu vào lòng người về nguồn nhân lực,
chất lượng sinh, sống, thông tin về học tập, giáo dục ngành nghề trong các tầng lớp nhân
dân, nhất là trong thanh niên, học sinh. 
Mười là: Hằng năm, Nhà nước cần tổng kết về lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực ở
Việt Nam, đánh giá đúng mặt được, mặt chưa được, kịp thời rút ra những kinh nghiệm,
trên cơ sở đó mà xây dựng chính sách mới và điều chỉnh chính sách đã có về nguồn nhân
lực ở Việt Nam, như chính sách hướng nghiệp, chính sách dạy nghề, học nghề, chính sách
quản lý nhà nước về dạy nghề, học nghề; chính sách dự báo nhu cầu lao động và cân đối
lao động theo ngành nghề, cấp trình độ; chính sách thu hút các thành phần kinh tế tích cực
tham gia vào lĩnh vực tạo nguồn nhân lực cho đất nước; chính sách chi ngân sách để đào
tạo nguồn nhân lực; chính sách đối với các tổ chức NGO có liên quan đến vấn đề nhân tài,
nhân lực; chính sách đối với lao động đi làm việc ở nước ngoài và thu hút các thành phần
kinh tế tham gia đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài; chính sách bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp, chính đáng của nông dân, công nhân, trí thức, chăm lo đời sống vật chất, tinh
thần cho người lao động. 
Chính phủ và các cơ quan chức năng phải có chính sách, biện pháp kết hợp thật tốt giữa
đào tạo và sử dụng trong tổng thể phát triển kinh tế của đất nước, đáp ứng có hiệu quả
nguồn lao động có chất lượng cao cho yêu cầu phát triển của nền kinh tế. 
Nói tóm lại, nếu không làm tốt vấn đề tạo nguồn nhân lực cho đất nước, thì khó lòng đạt
được mục tiêu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại. Trên thực tế, có nhiều quốc gia đang phát triển, trở thành nước có thu nhập trung
bình, nhưng rất ít nước tiếp tục đi lên được để trở thành một nước công nghiệp, vì những
nước này, không có chính sách hiệu quả để phát triển nguồn nhân lực.
 

Nhiều doanh nghiệp tham gia Hội thảo “Chất lượng nhân lực và Nhu cầu tuyển dụng” do
báo điện tử Dân trí và Vieclambank.com tổ chức đã đồng tình với ý kiến trên. Ông Bùi Văn
Hoà, Giám đốc Motorola Việt Nam, bày tỏ: “Khá nhiều người xin việc không định vị được
bản thân, thiếu ý thức nghề nghiệp. Hầu hết nhân viên được tuyển dụng vào phải qua đào
tạo lại”.

Còn ông Hoàng Quốc Việt, Tổng Giám đốc Công ty Nguyễn Hoàng lại cho biết công ty có
nhu cầu tuyển dụng khá nhiều vị trí cao cấp và sẵn sàng trả chi phí cho người giới thiệu
nhưng thị trường này thực sự khan hiếm.

Trước thực trạng này không ít doanh nghiệp chọn giải pháp thu hút nguồn lực nhiều kinh
nghiệm đang làm việc cho các công ty trong ngành hoặc mong đợi vào nguồn du học sinh.

68
Trong khi đó, lượng sinh viên tốt nghiệp hàng năm ở nước ta lại khá vất vả đi “xin” việc
thay vì “tìm” việc làm phù hợp.

“Một sinh viên tốt nghiệp cao học từ Úc nếu so về kiến thức, trình độ chuyên môn thì
không hẳn vượt trội so với sinh viên tốt nghiệp trong nước. Thế nhưng, cái họ hơn hẳn là
thái độ làm việc tích cực và phong cách rất tự tin”, ông Lê Châu Tuấn, Giám đốc Trung
tâm đào tạo Quản trị Quốc tế E-Link, cho biết. “Cạnh tranh trong thị trường lao động nhất
thiết phải thay đổi phương pháp học, rèn luyện kỹ năng học để sáng tạo. Và để thực hiện
điều này, chỉ nhà trường thôi sẽ không đủ”.

Theo nhận định của ông Trịnh Thành Thịnh, Trưởng phòng tuyển dụng của
Vieclambank.com thì chất lượng lao động thấp một phần do công tác tư vấn chưa thực sự
tốt. Người học chưa biết được học ra làm gì và người làm cũng chưa xác định rõ công việc
xin vào như thế nào. Trong khi đó, khá nhiều đơn vị tuyển dụng đòi hỏi người làm việc thế
này thế nọ, nhiều yêu cầu hơn là mô tả cụ thể công việc và môi trường làm việc.

Nâng chất nguồn nhân lực: Doanh nghiệp phải… chạy!

Ý kiến của nhiều doanh nghiệp cho rằng, thay vì tự hào nguồn nhân lực dồi dào, giá rẻ
chúng ta hãy lấy làm xấu hổ và quyết tâm nâng cao chất lượng lao động. Cần chọn công
việc, môi trường thích hợp, chớ ngại những thay đổi tích cực, hãy học và áp dụng thay vì
để đó và lãng quên. Tự học, tự đào tạo suốt đời là cách nâng chất lượng một cách hiệu quả
nhất đối với người lao động trong môi trường cạnh tranh hội nhập như hiện nay.

Ông Thân Trọng Phúc, Tổng giám đốc Intel tại Việt Nam và Đông Dương cho rằng, nguồn
lao động trẻ có trình độ tại Việt Nam rất có tiềm năng. Tuy nhiên khi tuyển dụng vào
doanh nghiệp cần phải bỏ thời gian đào tạo lại mới có thể tin tưởng giao việc được. Ngoài
ra, Intel đã liên kết với các trường ĐH lớn như ĐH Bách khoa TPHCM để đặt hàng và liên
kết đào tạo. Có như vậy, nguồn lao động trẻ của Việt Nam mới được trui rèn và thích ứng
được với môi trường làm việc quốc tế một cách nhanh chóng.

Theo dự báo, trong thời gian tới thị trường lao động chất xám của Việt Nam sẽ xảy ra cuộc
khủng hoảng thừa.

Theo đánh giá của bà Phạm Chi Lan, Nguyên Phó chủ tịch Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam thì, nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay chưa đáp ứng yêu cầu của
nguồn nhân lực có khả năng cạnh tranh quốc tế. Cụ thể về trình độ, thể lực, tính chuyên
nghiệp, kỷ luật, khả năng thích ứng với thay đổi… Điểm cho năng lực cạnh tranh tổng hợp
về nguồn nhân lực thấp, chưa đạt đến 4 điểm (3,79/10).

69
Ngoài ra, nguồn lực này còn bị hạn chế bởi tỉ lệ lao động có kỹ năng thấp; mất cân đối về
cơ cấu lao động theo trình độ, kỹ năng; lao động chất xám thiếu và yếu về chất lượng; thể
lực kém; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động thấp.

Một khi nền giáo dục Việt Nam chưa giải được bài toán về nguồn nhân lực cho giai đoạn
cạnh tranh hội nhập thì trong chừng mực nào đó, các doanh nghiệp một là bằng các
“chiêu” trải thảm đỏ về lương, về phúc lợi để cạnh tranh, thu hút nhân tài về cho mình. Với
cách này, các doanh nghiệp e rằng sẽ rất khó có kết quả trong thời gian tới đây. Bởi với
“chiêu” này, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài luôn “đo ván” các doanh nghiệp
Việt Nam trong việc trải thảm đỏ.

Hai là bằng các chính sách đào tạo cộng với chế độ đãi ngộ như cho nhân viên mua nhà trả
góp để ổn định cuộc sống. Đây là cách mà Ngân hàng Á Châu đã làm rất thành công. Hoặc
ưu đãi cho người lao động mua cổ phiếu của công ty để khuyến khích, động viên người lao
động luôn nâng cao ý thức, kỷ luật và trách nhiệm trong công việc. Đây là biện pháp được
nhiều công ty lớn hiện nay như FPT áp dụng để ngăn chặn tình trạng chảy máu chất xám từ
phía các doanh nghiệp trong nước sang các doanh nghiệp có vốn đầu

1. Thực trạng nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay.
Theo số liệu của Viện Khoa học Lao động - Xã hội Bộ LĐTB&XH, đến cuối năm
2007, tổng số lao động trong lĩnh vực KH-CN, bao gồm những người làm việc trực tiếp
trong lĩnh vực nghiên cứu và triển khai, các viện, trung tâm nghiên cứu và triển khai ứng
dụng KH-CN của cả nước là gần 40.000 người. Ngoài ra, còn một số lực lượng nhất định
trong tổng số gần 48.541 giảng viên trong các trường đại học, cao đẳng và các chuyên
gia, kỹ sư làm việc trong các doanh nghiệp cũng được thu hút vào các hoạt động KH-CN.
Hiện nay, lực lượng này phân bố rất không đều giữa các vùng trong cả nước. Có tới
92,2% cán bộ có trình độ tiến sĩ và tiến sĩ khoa học tập trung ở các cơ quan trung ương
và hai thành phố lớn là Hà Nội và Hồ Chí Minh (Hà Nội có 63,8% TS và 75,9% TSKH),
(thành phố HCM có19,33% TS và 17,11% TSKH). Số tiến sĩ ở các vùng Tây Bắc, Tây
Nguyên và Nam Bộ chưa tới 1% . Trong số các giáo sư, phó giáo sư, có 86,2% ở Hà Nội
và 9,5% ở thành phố HCM, các nơi khác còn lại là 4,3%. Nguồn nhân lực KH-CN chất
lượng cao nước ta hiện nay có những đặc điểm cơ bản sau:
Một là, trình độ chuyên môn kỹ thuật đạt mức khá cao và cơ cấu ngành nghề đa
dạng:
- Theo kết quả khảo sát nhân lực KH-CN năm 2006 của Viện KHoa học - Lao động,
Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, tỉ lệ cán bộ có trình độ đại học trở lên chiếm 94,7%
tổng số lao động trong lĩnh vực KH-CN, trong đó thạc sĩ là 35,5%, tiến sĩ là 30,5%. Xét về
mặt học vị, Việt Nam ở mức cao so với mức trung bình của khu vực. Tuy nhiên, ngoại
ngữ và tin học là nguyên nhân cản trở quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của đội ngũ cán
bộ KH-CN.
Về ngoại ngữ, nếu căn cứ theo bằng cấp, tỉ lệ cán bộ có trình độ ngoại ngữ bằng C
trở lên là 66,1%, B là 25,7% vẫn còn đến 6,7% trình độ A. Tuy nhiên, kỹ năng nghe, nói,
viết rất hạn chế, khả năng giao tiếp rất khó khăn. Tại các hội thảo, thuyết trình, về cơ bản
cán bộ Việt Nam đều phải thông qua phiên dịch.
Về tin học, cơ bản đội ngũ này đều sử dụng được máy tính, song số đông chủ yếu
xử lý văn bản (43,5% sử dụng chương trình word, 13% sử dụng chương trình Excel,
12,2% sử dụng power point và chỉ có 7% sử dụng các phần mềm chuyên dụng). Tỷ lệ
thường xuyên sử dụng tất cảc các phần mềm kể trên chỉ đạt 22,6%. Nghịch lý ở chỗ, cán
bộ giữ chức vụ càng cao thì chủ yếu sử dụng chương trình word để xử lý văn bản, các
chương trình khác phải thông qua hệ thống nhân viên, tham mưu và chuyên gia.

70
- Về cơ cấu ngành nghề khá đa dạng, bao gồm tất cả các ngành nghề trong danh
mục đào tạo quốc gia. Theo số liệu của Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, qua điều tra 8.965 tiến sỹ trong toàn quốc cho thấy các ngành được đào tạo như sau:
Với cơ cấu ngành nghề trên, về cơ bản đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, trước yêu cầu hội nhập, một số ngành thuộc lĩnh vực dịch vụ cao đang thiếu
nghiêm trọng như các chuyên gia môi giới, chứng khoán, ngân hàng, các nhà quản lý …
Hai là, trình độ chuyên môn, khả năng nghiên cứu triển khai còn hạn chế, hiệu quả
sử dụng nhân lực khoa học công nghệ chưa cao.
Nghiên cứu khoa học công nghệ và tham gia đào tạo là chức năng, nhiệm vụ chính
của đội ngũ cán bộ KH-CN chất lượng cao, nhưng tỷ lệ nhân lực tham gia trực tiếp vào
quá trình nghiên cứu khoa học và triển khai còn thấp. Cụ thể, ở đề tài cấp nhà nước chỉ
có 30% cán bộ được tham gia, tương ứng đề tài cấp bộ có 48,1% và đề tài cấp cơ sở là
65,1%. Điều này hợp lý ở chỗ cấp đề tài càng cao, đòi hỏi khả năng nghiên cứu của số
cán bộ có trình độ chuyên môn cao. Tuy nhiên, xét tổng thể thì số lượng cán bộ KH-CN
được tham gia nghiên cứu khoa học mới đạt 65,1%, còn lại 34,9% không tham gia, đó là
sự lãng phí rất lớn.
Các đề tài nghiên cứu KH-CN của nước ta còn nhiều điểm chưa tiếp cận được trình
độ khoa học công nghệ thế giới, khả năng hội nhập còn hạn chế. Cụ thể, việc tham gia
hội thảo và các kết quả nghiên cứu được công bố trên các tạp chí khoa học có danh tiếng
trên thế giới còn ít. Số bằng phát minh, sáng chế trong lĩnh vực KH-CN Việt Nam rất hạn
chế. Theo tài liệu của Ban Khoa giáo Trung ương, thời kỳ 2001- 2005, Việt Nam chỉ có 11
đơn đăng ký sáng chế ở nước ngoài, trong khi đó Indonesia có 36, Thái Lan 39, Philipin
có 85, Hàn Quốc có 15.000, Nhật Bản 87.620 Mỹ 206.710. Nếu căn cứ vào số lượng các
công trình nghiên cứu khoa học được đăng trên tạp chí quốc tế và bằng sáng chế được
quốc tế công nhận thuộc 27 môn khoa học, thì Việt Nam chưa lọt vào danh sách của 50
nước được tính đến. Trong khi đó, Singapo, Malaisia và Thái Lan đã có tên trong danh
sách này. Điều đó có nghĩa là, trình độ nguồn nhân lực KHCN nước ta còn rất thấp.
2. Những giải pháp chủ yếu để xây dựng và phát triển nguòn nhân lực chất
lượng cao ở nước ta hiện nay
Từ thực trạng đã phân tích ở trên, để xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao, cần tập trung vào một số giải pháp chủ yếu sau:
2.1. Có chính sách sử dụng nhân lực KH-CN cụ thể, thiết thực
Sự phát triển nhân lực KH-CN chất lượng cao bên cạnh những nét chung, trong
quá trình phát triển còn có những con đường riêng. Nhân tài chỉ có được sau khi trải qua
thời gian dài giáo dục, đào tạo và thực tế làm việc đúc rút kinh nghiệm, kỹ năng thực
hành và nâng cao trình độ chuyên môn. Để có nhân tài, cần phải có thời gian từ phát hiện
đến đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, theo dõi giám sát… Những năm qua, chúng ta mới chú
trọng đến giáo dục đào tạo (giải pháp đầu vào) mà chưa quan tâm đúng mức đến sử
dụng đãi ngộ (giải pháp đầu ra). Vì vậy, theo chúng tôi, định hướng chính sách cần theo
hướng kích thích sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ phản ánh kết quả cuối cùng
của chất lượng nguồn nhân lực. Đã đến lúc chính sách sử dụng nhân tài phải cụ thể, thiết
thực chứ không nên chung chung như trước đây, cụ thể là :
- Thiết lập và hoàn thiện ngân hàng dữ liệu về nhân lực KH-CN trong cả nước về
trình độ, ngành nghề, lĩnh vực… trong các thành phần kinh tế, theo dõi thường xuyên sự
biến động (tăng, giảm) từ đó xác định nguyên nhân khách quan, chủ quan … tìm giải
pháp cụ thể, thiết thực.
- Trẻ hoá đội ngũ cán bộ KH-CN, xoá bỏ quan niệm phải có thâm niên công tác mới
được đề bạt các chức danh quan trọng. Đây đang là tư duy cản trở sự phát triển nhân lực
KH-CN chất lượng cao.
- Ưu tiên những ngành công nghệ cao, những ngành đang thiếu cán bộ tài năng; có
chính sách thu hút những chuyên gia giỏi là Việt kiều trong những lĩnh vực mà nước ta
đang thiếu và cần thiết trong tiến trình hội nhập.
- Thực hiện cơ chế đấu thầu rộng rãi các chương trình, đề tài nghiên cứu. Giao
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho cán bộ chủ trì thực hiện các đề tài, công trình
nghiên cứu KH-CN.

71
Đặc biệt các cơ quan nghiên cứu triển khai phải thực hiện tự hạch toán, bắt buộc
cơ quan này phải bám sát thực tiễn sản xuất, nhu cầu cuộc sống để tạo ra những sản
phẩm hữu ích cho xã hội. Nhà nước xoá bỏ bao cấp cho các đề tài, song có cơ chế mua
hoặc yêu cầu các doanh nghiệp phải mua các sản phẩm KH- CN có giá trị để áp dụng có
hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
2.2. Có chính sách đãi ngộ, tôn vinh nhân lực KH-CN chất lượng cao.
Thực hiện chính sách tiền lương linh hoạt theo tiêu chí tài năng, không nên hạn chế
mức thu nhập, nếu đó là mức thu nhập chính đáng từ tài năng và sáng tạo của họ, đồng
thời truy cứu trách nhiệm nếu có biểu hiện lợi dụng, tham nhũng.
- Cần xây dựng chế độ chính sách ưu đãi đối với nhân lực KH-CN chất lượng cao
để tạo động lực thu hút nhân tài vào các cơ quan nghiên cứu, cơ quan hoạch định chính
sách để họ có điều kiện phát huy cao nhất khả năng sáng tạo của mình.
- Thường xuyên tôn vinh nhân tài đi kèm cơ chế khuyến khích về lợi ích vật chất đối
với những cống hiến mang lại nhiều lợi ích cho xã hội.
2.3. Có chính sách thu hút nhân lực KH-CN chất lượng cao từ nước ngoài .
Trong thời điểm hiện nay, trước sức ép về nguồn nhân lực KH-CN chất lượng cao,
để đáp ứng yêu cầu phát triển, Việt Nam rất cần tận dụng tiềm năng to lớn của hơn
300.000 trí thức Việt kiều đang sinh sống ở nước ngoài. Thời gian vừa qua, chính sách
thu hút nhân tài là Việt kiều đã được thực thi, song chưa đủ mạnh. Ngoài việc kêu gọi vận
động, cần có những chính sách cụ thể hơn như xoá bỏ định kiến, nguồn gốc xuất thân;
chế độ lương và thu nhập, chế độ mua nhà hợp pháp, chế độ học tập và làm việc cho con
cái… Ngoài ra, cũng cần mạnh dạn liên kết trong nghiên cứu, hợp tác đào tạo với các
viện, các trường có tên tuổi của nước ngoài để từng bước nâng tầm KH-CN nước ta …
Tài liệu tham khảo :
1. Kỷ yếu hội thảo văn hoá, con người và phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong
thế kỷ XXI (Hội đồng lý luận TW và Viện KHXH Việt Nam, Hà Nội 2004)
2. Kỷ yếu Đại hội lần thứ nhất Hội Khoa học và phát triển nguồn nhân lực và nhân
tài Việt Nam, Hà Nội 2005
3. Tạp chí Nghiên cứu con người, các số năm 2006,2007
4. Đề tài khoa học cấp Bộ: Thị trường sức lao động chất lượng cao- những vấn đề
lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay. TS. Nguyễn Minh Quang - Học viện CT-HCQG-
HCM
5. Đánh giá tác động của thị trường lao động tới phát triển KT-XH giai đoạn 2000-2005 và
dự báo xu hướng tác động giai đoạn 2006-2010.

1. Yếu Tố quan trọng nhất trong quá trình sản xuất=> vấn đề về nguồn nhân lực
Việt Nam
Đề bài: Trong những yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, yếu tố nào là quan trọng nhất. Liên hệ
với thực tiễn Việt Nam về yếu tố đó.

Sản xuất của cải vật chất đã trải qua con đường phát triển lịch sử lâu dài từ việc hái lượm thức ăn
nhờ những cộng cụ thô sơ của người nguyên thủy đến sự thống trị của công nghệ hiện đại. Mặc
dù vậy, bất kỳ quá trình sản xuất nào cũng đều có sự kết hợp và tác động lẫn nhau của 3 yếu tố
cơ bản: sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động.

Đối tượng lao động và tư liệu lao động hợp thành tư liệu sản xuất – nhân tố vật của sản xuất. Nó
là khách thể của sản xuất. Không thể sản xuất được nếu thiếu tư liệu sản xuất. Nhưng, nếu không
có sức lao động của con người thì tư liệu sản xuất không thể phát huy được tác dụng.Trong khi
đưa tư liệu lao động và đối tượng vào sản xuất, sức lao động biến chúng thành tư liệu sản xuất
hiên thực. Do đó, chỉ có lao động của con người mới là yếu tố tích cực, sáng tạo; là chủ thể của
sản xuất. Lao động tạo ra những tư liệu sản xuất ngày càng hiện đại và cũng chính lao động làm
hoàn thiện bản thân con người. Vì thế, nhân tố con người mãi mãi là yếu tố cơ bản số một của sản
xuất.

72
Nguồn nhân lực là một nguyên nhân quan trọng của tăng
trưởng kinh tế:

Trình độ học vấn của dân chúng cao hơn, nghĩa là có nhiều người có thể học cách sử dụng công
nghệ tốt hơn. Một công trình nghiên cứu đã phát hiện là việc tăng số năm đi học của học sinh tại
nước Mỹ đã góp phần vào khoảng 20% số tăng GDP theo đầu người của Mỹ từ 1929 đến 1982.

Ở nước ta, lao động nông nghiệp chiếm phần lớn lực lượng lao động. Cơ cấu lao động đang
chuyển dịch theo hướng tăng lao động công nghiệp, lao động dịch vụ, lao động tri thứ, nhằm đáp
ứng được chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế. Hội nghị Trung ương 6 (khoá IX) vừa họp
tháng 7/2002 đánh giá; bước sang thế kỷ XXI, đội ngũ lao động của nước ta đã có bước phát triển
mới. “Lao động có trình độ từ cao đẳng trở lên tăng 17,2%/năm, số Tiến Sĩ và Tiến Sĩ Khoa Học
tăng 7%/năm. Số lao động đã qua đào tạo đạt 20% năm 2000 ”.

Một trong những đặc điểm được đề cập đến nhiều nhất là Việt Nam có số lượng lao động dồi dào,
giá cả rẻ.

Trên thực tế, lợi thế cạnh tranh này bị hạn chế, bởi hầu hết lao động không có tay nghề cao, tỷ lệ
lao động đã qua đào tạo thấp, cơ cấu đào tạo chưa hợp lý, chất lượng đào tạo còn nhiều bất cập.

Nhìn lại thực trạng nguồn nhân lực trong doanh nghiệp nước ta, chúng ta không thể phủ nhận
rằng doanh nghiệp Việt Nam kém cạnh tranh. Xét về đội ngũ quản lý, đội ngũ chủ doanh nghiệp,
giám đốc và cán bộ quản lý doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế về kiến thức và kỹ năng
quản lý. Số lượng doanh nhân giỏi, trình độ chuyên môn cao và năng lực quản lý tốt chưa nhiều.

Đa phần họ chưa được trang bị các kiến thức kinh doanh như: quản trị doanh nghiệp, phát triển
thương hiệu, chiến lược cạnh tranh, ứng dụng công nghệ thông tin,… Hoạt động quản lý chủ yếu
dựa vào kinh nghiệm thực tiễn, do đó tính hiệu quả chưa cao và dễ gặp rủi ro.

Chúng ta vẫn chưa quên bài học đắt giá của Vietnam Airlines vào năm 2005. Do chủ quan và
thiếu hiểu biết về luật pháp quốc tế, Vietnam Airlines đã không cử đại diện tham dự phiên tòa khi
có giấy triệu tập của tòa án Roma. Kết quả là Vietnam Airlines phải trả 5 triệu Euro. Vụ kiện này
chỉ là một trong những vấn đề mà doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt khi hội nhập quốc tế.
Nguyên nhân chủ yếu của hiện trạng này là do các doanh nghiệp chưa đánh giá đúng về tầm quan
trọng của vấn đề pháp lý, vì họ thường quan niệm sai lầm rằng có thể giải quyết vấn đề bằng
nhiều cách, trong khi đối với quốc tế mọi vấn đề đều phải giải quyết dựa trên pháp luật.

Chất lượng đào tạo nhân lực “nhất là ở bậc ĐH, nhìn chung còn thấp so với mục tiêu giáo dục, với
yêu cầu nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và với trình độ các nước trong khu vực có mặt
còn kém. Nội dung, phương pháp dạy ĐH chưa đáp ứng tốt yêu cầu chuẩn bị nhân lực cho Công
Nghiệp Hóa rút ngắn và trình độ chưa theo kịp phát triển khoa học công nghệ hiện đại”. Việc học
tập ở mọi cấp học bị chi phối nặng nề bởi tâm lý bằng cấp; phương pháp giáo dục nặng về áp đặt,
chưa khuyến khích sự năng động, sáng tạo của người học, chưa coi trọng năng lực tư duy và năng
lực thực hành (trong xã hội, nhiều người cố gắng lo cho con em vào ĐH chỉ cốt để kiếm tấm bằng,
còn không xác định ra trường với tâm bằng đó để làm gì).

Công tác bồi dưỡng và sử dụng nhân tài như là đầu tầu của đội ngũ nhân lực chưa được quan tâm
đúng mức, “thiếu cơ chế, chính sách để trọng dụng cán bộ khoa học và nhà giáo có trình độ cao”
và “nhiều chính sách đối với cán bộ khoa học và công nghệ chưa được ban hành. Cán bộ khoa học
và công nghệ có trình độ cao còn ít, song chưa được sử dụng tốt, đang bị lão hoá, ít có điều kiện
cập nhật kiến thức mới. Sự hẫng hụt về cán bộ là nghiêm trọng, nhất là trong lĩnh vực khoa học cơ
bản”

Thực tế cho thấy, thị trường lao động nước ta phát triển chậm do ảnh hưởng tới thu hút lao
động, sử dụng lao động và đến lượt nó ảnh hưởng đến thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực. Việc
phát triển con người, phát triển nhân lực là yếu tố quyết định nhất của sự phát triển bền vững.
Đây chính là một kinh nghiệm quý báu của Nhật Bản, một đất nước vươn mình đứng dậy sau Thế

73
chiến thứ 2.

Khi nói về mục đích thành lập Quỹ học bổng Phát triển nguồn nhân lực của Nhật Bản dành cho
sinh viên Việt Nam, Đại diện Liên đoàn kinh tế Nhật Bản, tập đoàn Nippon Keidanren – đơn vị tài
trợ chính cho Quỹ học bổng này, ông Kudo, đã khẳng định: “Khi nói đến việc phát triển nền kinh tế
Việt Nam, chúng tôi nghĩ là cần phải có con người, nhân lực. Để đào tạo cho các bạn một kiến
thức cao, trình độ ưu tú thì chúng tôi nghĩ học bổng sẽ giúp các bạn vượt qua những khó khăn
trong quá trình học tập để sau này góp phần phát triển nền kinh tế Việt Nam. Nhật Bản không có
tài nguyên, sự phát triển kinh tế ngày nay của Nhật Bản chính là nhờ con người. Chúng tôi nghĩ
Việt Nam sau này cũng nên như vậy. Để giúp đỡ Việt Nam, chúng tôi nghĩ điều quan trọng là giúp
về con người”.

Muốn việc đào tạo NNL thực sự có hiệu quả,

điều quan trọng hơn là chúng ta có chính sách đào tạo, sử dụng NNL đúng với những tư tưởng chỉ
đạo phát triển NNL thể hiện một quan niệm mới về phát triển nguồn nhân lực

Lấy phát triển bền vững người làm trung tâm;

Lấy lợi ích của người lao động làm nguyên tắc cơ bản của quản lý lao động; nhằm tăng năng suất
lao động;

Bảo đảm môi trường dân chủ thuận lợi cho tiến hành giao lưu đồng thuận; tạo cơ hội thăng tiến
cho tất cả mọi người;

Có chính sách giải phóng và phát huy tiềm năng của người lao động, bảo đảm hiệu quả công việc;

Phát triển NNL bám sát thị trường lao động. Đây là một vấn đề rất phức tạp, trong đó mấu chốt là
phải xây dựng được các chính sách quản lý phát triển giáo dục và đào tạo đúng đắn;

Có hệ thống chính sách sử dụng phù hợp NNL bao gồm tuyển dụng, chính sách lao động, phân
công lao động, phân bố NNL, chính sách cán bộ, tiền lương, khen thưởng, v.v...

Nâng cao chất lượng và quy mô đào tạo nghề từ trình độ sơ cấp tới đại học với phương châm đào
tạo theo nhu cầu của xã hội. Có chính sách và cơ chế khuyến khích để các doanh nghiệp, các nhà
đầu tư tổ chức đào tạo và cung cấp nhân lực đáp ứng yêu cầu của thực tiễn sản xuất kinh doanh.
Tập trung xây dựng một số trường dạy nghề, trường đại học, cao đẳng đạt trình độ quốc tế. Triển
khai trong cả nước việc cho vay với lãi suất thích hợp để học nghề ở mọi trình độ, tăng nhanh tỷ lệ
lao động đã qua đào tạo.

Chú trọng việc đổi mới phương pháp giảng dạy và đánh giá; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin trong giảng dạy và học tập; nâng cao chất lượng và chuẩn hoá đội ngũ giáo viên; khuyến khích
phát triển mạnh việc dạy và học ngoại ngữ. Đổi mới và phát triển các trường chuyên trong cả nước
như một giải pháp cơ bản để bồi dưỡng nhân tài ở lứa tuổi học sinh. Thực hiện phổ cập mầm non
cho trẻ 5 tuổi, tiếp tục thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học; phấn đấu để năm 2008 đạt phổ cập
trung học cơ sở ở 46 tỉnh, thành phố.

Xây dựng chính sách về nhân tài; có cơ chế phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo nhân tài; khuyến khích
phát huy tài năng, đặc biệt là tài năng của lớp trẻ. Đổi mới chính sách sử dụng nhân lực từ khâu
tuyển dụng, bố trí công việc, chính sách tiền lương, khen thưởng, kỷ luật. Tôn vinh các nhà khoa
học có đóng góp thiết thực cho phát triển đất nước.

Chính phủ cần tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp để tăng cường hiệu lực quản lý
nhà nước và công tác đào tạo từ trung ương đến cơ sở, làm tốt công tác hướng nghiệp cho học
sinh ở cuối cấp, chú trọng đào tạo nghề cho các lao động ở nông thôn về kỹ năng tăng gia sản
xuất bảo đảm an toàn thực phẩm và phòng tránh tai nạn lao động, có như vậy việc đào tạo nguồn
nhân lực mới mới thực sự đem lại hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của công cuộc

74
phát triển đất nước.

Ngoài ra, nguồn nhân lực là Việt kiều cũng khá tốt nếu ta biết tận dụng. Ngay từ những năm đầu
thập niên 80 vốn còn nhiều rào cản khó khăn, Việt kiều đã là chiếc cầu nối cho Việt Nam tiếp cận
với ngành CNTT thế giới. Tiềm năng về CNTT của Việt kiều khá mạnh. Chỉ tính riêng tại thung lũng
Silicon(Mỹ) hiện có khoảng 10.000-12.000 người gốc Việt đang làm việc. Họ có thể là một nguồn
lực để giúp phát triển ngành CNTT trong nước.
Ví dụ:

Ông Kudo (bên trái): "Sự phát triển kinh tế ngày nay của Nhật Bản chính là nhờ con người

Kinh nghiệm của Tập đoàn kinh tế Toyota, Nhật Bản là một minh chứng khá hùng hồn cho bài
toán phát triển kinh tế phải gắn với phát triển nguồn nhân lực. Năm 1995, khi Toyota Việt Nam ra
đời, lúc ấy chỉ có 9 kỹ sư và 2 nhân viên làm việc tại văn phòng đại diện. Thế nhưng hiện nay, đội
ngũ của Toyota tại Việt Nam đã lớn mạnh với tổng số nhân viên trên 700 người. Nhân viên của
Toyota được đào tạo những kiến thức kỹ thuật theo tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời khuyến khích
tính sáng tạo cá nhân và đề cao tinh thần làm việc tập thể. Chìa khóa cho sự thành công của họ
chính là phát triển nguồn nhân lực. Với việc thành lập Trung tâm đào tạo, Toyota hàng năm đào
tạo khoảng 500 kỹ thuật viên trên nhiều lĩnh vực kỹ thuật ôtô tiên tiến. Bên cạnh đó, nhiều nhân
viên cũng được cử đi đào tạo tại nước ngoài. Ngoài ra, công ty đã đón
hơn 300 chuyên gia từ Nhật, Úc và các nước khác cho hoạt động chuyển giao công nghệ.

Lao động và giải quyết việc làm ở nước ta hiện nay


Võ Hồng Phúc
Ủy viên Trung ương Đảng - Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(Cập nhật: 30/12/2007)

Lao động và việc làm vừa là vấn đề kinh tế vừa là vấn đề xã hội nhân văn và chính trị. Văn
kiện Đại hội X của Đảng đã nêu rõ: Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy
nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện
vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân...

Nỗ lực đem lại những thành tựu to lớn

Qua 7 năm 2001 - 2007, cả nước đã tạo việc làm cho 10,85 triệu lao động, giai đoạn 2001 - 2005
là 7,5 triệu lao động (tăng 25% so với giai đoạn 1996- 2000); riêng năm 2006 là 1,65 triệu lao động
và năm 2007 ước tính 1,68 triệu lao động. Trong đó, tạo việc làm thông qua các chương trình phát
triển kinh tế - xã hội là hơn 8 triệu lao động, tạo việc làm thông qua Quỹ quốc gia về việc làm là
2,37 triệu lao động, xuất khẩu lao động theo hợp đồng 456 nghìn người. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành
thị giảm dần: năm 2001 là 6,28% đến năm 2006 còn 5,1%.

Cơ cấu lao động đã có sự chuyển biến rõ rệt theo hướng tích cực: Năm 2001: nông lâm ngư
nghiệp: 62,7%; công nghiệp - xây dựng: 14,5%; thương mại - dịch vụ: 22,8%; năm 2006: nông lâm
ngư nghiệp: 55,7%; công nghiệp - xây dựng: 19,1%; thương mại - dịch vụ: 25,2%.

Chất lượng lao động được nâng lên, thể hiện qua số lượng lao động đã qua đào tạo và đào tạo
nghề. Trình độ học vấn phổ thông của lao động trong độ tuổi ngày càng được nâng cao. Đến năm
2006, khoảng 26,85% lao động từ 15 tuổi trở lên tốt nghiệp trung học cơ sở và 23,46% tốt nghiệp
trung học phổ thông. Lao động qua đào tạo nghề tăng, giai đoạn 2001 - 2006 dạy nghề cho 6,6
triệu người (tăng bình quân 6,5%/năm), trong đó dạy nghề dài hạn cho 1,14 triệu người (tăng bình
quân 15%/năm); lực lượng lao động xã hội qua đào tạo năm 2006 đạt 31,5%, trong đó, có 20%
qua đào tạo nghề (năm 2001 là 13,4%), đáp ứng tốt hơn nhu cầu của nền kinh tế; góp phần tạo cơ
hội việc làm cho người lao động, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Cơ hội và thách thức đang đặt ra gay gắt

75
Nước ta đang trong thời kỳ hội nhập mạnh mẽ, đặc biệt là sau khi trở thành thành viên chính thức
của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Hội nhập sẽ làm tăng các cơ hội việc làm, sẽ xuất hiện
những nghề mới, ở các lĩnh vực, khu vực mới. Việc hội nhập và chuyển sang kinh tế thị trường sẽ
kích thích sự di chuyển của lao động giữa các vùng và giữa các doanh nghiệp. Cơ cấu kinh tế thay
đổi cũng đòi hỏi cơ cấu lao động phải có sự điều chỉnh. Tuổi thọ của việc làm có thể sẽ ngắn đi.
Khái niệm làm việc suốt đời đối với một công việc, trong cùng một doanh nghiệp sẽ ít dần đi. Đồng
thời, sẽ xảy ra tình trạng mất việc làm ở một số lĩnh vực khác, khu vực khác. Khu vực nông thôn
cũng chịu tác động nhiều chiều, có thể tiếp cận được các thị trường nông sản mới, có thể các
doanh nghiệp phi nông nghiệp ở nông thôn phát triển làm tăng cơ hội việc làm; nhưng quá trình đô
thị hóa, công nghiệp hóa mạnh mẽ sẽ làm một bộ phận nông dân mất đất sản xuất, dẫn đến mất
việc làm.

Thị trường lao động ngoài nước cũng được mở rộng, lao động Việt Nam có cơ hội tham gia tích
cực vào quá trình phân công lao động quốc tế, có cơ hội tiếp cận với khoa học kỹ thuật sản xuất
tiên tiến, tiếp cận những tri thức và công nghệ mới. Mặc dù cơ hội mở ra trước mắt như vậy,
nhưng với tình trạng chất lượng lao động ở nước ta hiện nay, khó đáp ứng được yêu cầu của phát
triển trong thời kỳ hội nhập.

Lực lượng lao động ở nước ta tuy có số lượng lớn (năm 2006 là 45,6 triệu lao động), song chất
lượng lao động còn thấp. Phần lớn lao động Việt Nam (gần 70%) chưa qua đào tạo, tỷ lệ lao động
được đào tạo nghề còn thấp hơn, chỉ chiếm khoảng 20%. Tính đến năm 2005, số người có trình
độ đại học và cao đẳng trở lên là 2,4 triệu người, chiếm 5,5% tổng số lực lượng lao động, nhưng
chất lượng còn thấp kém.

Cả nước có 6,5 triệu công nhân kỹ thuật, trong đó 4,7 triệu người không có bằng, 1,6 triệu có
chứng chỉ, bằng nghề và 430 ngàn người có trình độ sơ cấp. Hiện nay còn thiếu nhiều công nhân
kỹ thuật lành nghề, trước hết là trong các ngành trọng điểm (cơ khí, điện tử - kỹ thuật điện, hóa
chất,...) và ở các khu công nghiệp lớn, các khu kinh tế mới thành lập.

Một bộ phận đáng kể là lao động trẻ chưa được đào tạo về nghề hoặc nếu được đào tạo thì còn
hạn chế về kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp. Có đến trên 78% thanh niên ở nhóm tuổi 20 - 24
chưa được chuẩn bị về nghề khi tham gia thị trường lao động. Năm 2005, tỷ lệ học sinh tham gia
đào tạo nghề nghiệp các loại so với tổng số thanh niên thuộc nhóm tuổi này chỉ khoảng 20% -
25%, kể cả dạy nghề ngắn hạn, trong khi tỷ lệ này của các nước phát triển tới 80% - 90% .Lao
động trình độ cao thiếu nhiều, nhất là trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, quản lý doanh
nghiệp, chuyên gia kỹ thuật.

Quy mô đào tạo cấp bậc trình độ cao đẳng, đại học tăng quá nhanh (tăng bình quân 9,35%/năm
thời kỳ 2001 - 2005) và không tương ứng với điều kiện về cơ sở vật chất, giảng viên, chương
trình, phương pháp giảng dạy,... nên không đạt yêu cầu về chất lượng. Trong khi đó, quy mô dạy
nghề lại tăng chậm nên cơ cấu đào tạo theo cấp bậc càng trở nên bất hợp lý. Cơ cấu đào tạo theo
ngành nghề cũng bất hợp lý, chưa đáp ứng yêu cầu của thực tế. Đào tạo các ngành kỹ thuật -
công nghệ, nông - lâm - ngư chiếm tỷ trọng thấp. Tỷ trọng các ngành xã hội, luật, kinh tế, ngoại
ngữ,... lại quá cao. Vì vậy, cùng với cơ cấu ngành nghề đào tạo không phù hợp và chất lượng
thấp, hiện nay Việt Nam đang thiếu nhiều kỹ sư, chỉ có 1,32 kỹ sư trên 1.000 dân (tỷ lệ này của
Anh là 136, của Thụy Điển là 115 và của Nhật Bản là 100).

Lao động dịch vụ cao cấp các ngành tài chính, ngân hàng, du lịch, bán hàng... và lao động quản lý
cũng đang rơi vào tình trạng thiếu nghiêm trọng, nhiều nghề và công việc phải thuê lao động nước
ngoài.

Những năm gần đây, tuy số lượng người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài có tăng
nhanh, song phần lớn vẫn là lao động trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp, thiếu ý thức tổ chức kỷ
luật, thiếu kiến thức xã hội và luật pháp ở nước sở tại, tác phong làm việc kém, yếu về ngoại ngữ
và khả năng giao tiếp.

Xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ kéo theo sự chuyển dịch lao động. Lao động nông -
lâm - ngư nghiệp hiện nay chiếm tỷ trọng rất lớn (55,7%), song lại chỉ tạo ra 20,36% GDP. Tỷ trọng
lao động các ngành công nghiệp xây dựng và dịch vụ tăng, sẽ giảm dần tỷ trọng lao động trong
ngành nông - lâm- ngư nghiệp. Khó khăn đặt ra là làm thế nào để đáp ứng được yêu cầu về trình
độ lao động trong các ngành công nghiệp xây dựng và dịch vụ.

76
Không chỉ có chuyển dịch lao động mà trong thị trường lao động liên thông, không có các rào cản
về hành chính, việc dịch chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị và các khu công nghiệp, khu
kinh tế lớn tất yếu diễn ra. Tập trung quá nhiều lao động tại khu vực đô thị, các khu công nghiệp
tập trung sẽ tạo áp lực về cơ sở hạ tầng, nơi ăn, chốn ở, điều kiện sinh hoạt, giáo dục và các dịch
vụ văn hóa xã hội. Di dân mạnh mẽ trong khi chất lượng lao động thấp không đáp ứng được yêu
cầu của các doanh nghiệp ở thành thị sẽ khiến cho các đô thị thừa quá nhiều lao động. Một bộ
phận lớn lao động trẻ, khỏe, có trình độ rút khỏi khu vực nông thôn cũng sẽ ảnh hưởng đến chất
lượng nhân lực và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, để lại nhiều hệ quả về mặt xã hội, cũng
như kéo xa hơn khoảng cách giữa nông thôn và thành thị.

Cơ chế thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động còn mang tính hình thức, chưa
có cơ chế thỏa thuận 2 bên, 3 bên ở cấp ngành, đại diện người sử dụng lao động ở doanh nghiệp
chưa có, còn vai trò đại diện người lao động (công đoàn) ở doanh nghiệp thì rất yếu. Giải quyết
tranh chấp lao động, đình công trong thực tế còn mang tính hành chính, từ trên xuống và từ bên
ngoài vào doanh nghiệp, chưa phù hợp với cơ chế thị trường.

Mặc dù hệ thống thông tin và giao dịch trên thị trường lao động đã hình thành, song hoạt động còn
mang tính tự phát, phạm vi hoạt động chưa bao quát hết thị trường lao động theo lãnh thổ, cơ cấu
lao động,... nên số người được tư vấn, giới thiệu việc làm và có việc làm ổn định vẫn chưa nhiều
so với số người có nhu cầu tìm việc (chỉ đáp ứng được khoảng 15- 20% nhu cầu).

Những giải pháp quantrọng

Thứ nhất, giải pháp quan trọng nhất và mang tính quyết định, nhất là nâng cao chất lượng nguồn
lao động thông qua công tác đào tạo và dạy nghề. Chất lượng lao động đề cập ở đây bao gồm cả
trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng làm việc, văn hóa ứng xử, tác phong công
nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật.

Trước hết là phát triển mạnh hệ thống dạy nghề theo hướng mở rộng quy mô, nâng cao chất
lượng trên cơ sở đa dạng hóa, chuẩn hóa và hiện đại hóa các cơ sở dạy nghề, ngành nghề đào
tạo, trình độ và phương thức đào tạo, bảo đảm cơ cấu ngành nghề, trình độ đào tạo phù hợp. Phát
triển dạy nghề trong doanh nghiệp và gắn với doanh nghiệp là chủ yếu; thực hiện liên kết với các
trường dạy nghề để kiểm tra, đánh giá và cấp bằng chứng chỉ học nghề trong các doanh nghiệp.
Thiết lập hệ thống kết nối giữa hướng nghiệp - dạy nghề - tư vấn, giới thiệu việc làm - doanh
nghiệp, thu hút, tạo điều kiện cho nước ngoài đầu tư các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề theo
tiêu chuẩn quốc tế tại Việt Nam.

Bên cạnh đó, cần ban hành và thực hiện tốt các chính sách khuyến khích học nghề, đặc biệt là đối
với người nghèo, dân tộc thiểu số và người tàn tật. Khuyến khích doanh nghiệp, khu vực tư nhân
tham gia dạy nghề, có chính sách ưu đãi đối với nghệ nhân truyền nghề.

Thứ hai, hoàn thiện và phát triển hệ thống giao dịch thị trường lao động. Trong thị trường lao
động, để cung - cầu lao động gặp nhau nhanh chóng, cần có các tổ chức giới thiệu việc làm, tiết
kiệm chi phí cho doanh nghiệp và người lao động, giảm thiểu chỗ làm việc trống và người thất
nghiệp. Tập trung đầu tư và hoàn thiện 3 trung tâm giới thiệu việc làm ở 3 vùng kinh tế trọng điểm
(Bắc, Trung, Nam) đạt tiêu chuẩn các nước trong khu vực; đồng thời, quy hoạch và đầu tư hệ
thống cơ sở giới thiệu việc làm ở địa phương, sử dụng công nghệ thông tin hiện đại để thực hiện
giao dịch lành mạnh và hiệu quả.

Thứ ba, huy động nguồn lực để phát triển mạnh các vùng, ngành, lĩnh vực có khả năng thu hút
nhiều lao động, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, kinh tế trang trại, hợp tác xã, đặc biệt coi
trọng phát triển kinh tế dịch vụ, công nghiệp chế biến nông sản, khôi phục và phát triển các làng
nghề tiểu thủ công mỹ nghệ sản xuất sản phẩm tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; tăng đầu tư
vào nông thôn, miền núi nhằm chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động thông qua các
chính sách trợ giúp, tín dụng tạo điều kiện cho người lao động phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng
thu nhập.

Thứ tư, xây dựng và hoàn thiện các cơ chế, chính sách quản lý, sử dụng lao động phù hợp với
điều kiện cụ thể của Việt Nam và thông lệ quốc tế tạo điều kiện cho lao động nước ta hội nhập với
thị trường lao động quốc tế, bảo đảm quyền lợi hài hòa giữa người lao động và người sử dụng lao
động, để góp phần làm lành mạnh môi trường đầu tư.

77
Thứ năm, chuyển sang cơ chế thị trường tất yếu có nhiều rủi ro xảy ra đối với người lao động,
nhất là các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương. Do vậy, bên cạnh việc triển khai thật tốt các quy định
về bảo hiểm xã hội đã có, cần phải gắn các chế độ trợ cấp của bảo hiểm thất nghiệp với các hoạt
động đào tạo lại, tư vấn và giới thiệu việc làm, hỗ trợ tích cực người mất việc trở lại làm việc, giúp
cho người lao động có được việc làm và thu nhập ổn định
Đối với các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển để đảm bảo tăng trưởng kt và phát triển kinh
tế cần có hàng loạt các nguồn lực tổng hợp. Song các nguồn lực cơ bản nhất bao gồm: Vốn đầu tư;
tài nguyên và môi trường, lao động và khoa học kỹ thuật công nghệ. Tùy thuộc vào mỗi q.gia mà yếu
tố nào trở thành quan trọng nhất, nhưng quốc gia nào cũng đặt lđ ở một vị trí đặc biệt. Nguồn lđ bao
gồm tất cả những người trong độ tuổi lđ, đủ các đ. kiện về thể chất và tinh thần đang t. gia làm việc
hoặc tích cực tìm kiếm việc làm.
Nước ta đang trong quá trình tiến hành đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Sự nghiệp này chỉ có
thể thành công khi chúng ta có được một nguồn nhân lực có chất luợng. Điều này được thể hiện ở mối
quan hệ giữa lao động và phát triển kinh tế:
Lao động là tiềm năng đặc biệt của mỗi quốc gia. Nó là chủ thể sản xuất và là lực lượng sản xuất
hàng đầu của XH. Theo lý thuyết kinh tế từ cổ điển cho đến hiện đại đều cho rằng: Một trong các
nguồn lực để các quốc gia phát triển là lao động. Tuy nhiên khác với các lý thuyết kt trước đây, lý
thuyết kinh tế của Mác và lý thuyết kinh tế hiện đại thì nhấn mạnh đến nguồn lực lao động đối với sự
phát triển kt-xh.
Lao động là nhân tố quyết định việc khai thác, sử dụng, tái tạo các nguồn lực khác. Không dựa trên
nền tảng phát triển cao của nguồn lao động về thể chất, trình độ văn hóa, kỹ thuật, kinh nghiệm
quản lý và lòng nhiệt tình… thì không thể sử dụng hợp lý các nguồn lực trên. Thậm chí, thiếu một
nguồn lực lđ chất lượng cao có thể làm lãng phí, cạn kiệt và hủy hoại nguồn lực #.
Lao động là nhân tố tham gia tạo ra cung- cầu và tạo vốn cho quá trình CNH. Điều này thể hiện lao
động là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, hơn nữa bản thân nó trực tiếp tạo ra sản phẩm. Mặt
khác, lao động là một bộ phận của dân cư, nó cũng tiêu dùng chính những sản phẩm do xã hội tạo ra.
Vì vậy, lao động tham gia tạo cầu của nền kinh tế. Từ đó, nó góp phần tạo vốn cho quá trình CNH,
thúc đẩy nền kt tăng trưởng và phát triển.
Giữa nguồn lực lao động và phát triển kinh tế có sự tác động tương hỗ lãn nhau. Lao động có vai trò
quyết định đối với phát triển kinh tế, cần thấy rõ ảnh hưởng của trình độ phát triển kinh tế đối với
nguồn lao động, lượng của cải vật chất do nền kinh tế tạo ra là cơ sở để phát triển nguồn lực lao
động. Một quốc gia có năng suất lao động cao, của cải nhiều, ngân sách dồi dào sẽ có những điều
kiện về vật chất, tài chính để

nâng cao mức dinh dưỡng, phát triển văn hóa, giáo dục, chăm sóc y tế … nhằm nâng cao chất lựong
nguồn lao động. Mặt khác, việc phát triển kinh tế sẽ làm xuất hiện những ngành nghề mới, những
công nghệ mới, cách quản lý mới. Điều đó đòi hỏi nguồn lực lao động phải không ngừng tự hoàn
thiện, phát triển để làm chủ quá trình phát triển KT-XH.
*** Nguồn lao động nước ta – bộ phận không thể tách rời của dân cư và dân tộc Việt Nam là chủ thể
của công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Nguồn lao động ở nước ta tiếp thu được những tinh hoa
của dân tộc như: có lòng yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc, yêu lao động, chịu đựng gian khổ, đoàn
kết. Việt Nam cũng là một quốc gia có trình độ dân trí cao hơn nhiều nước cùng trình độ phát triển
kinh tế... Những ưu điểm này của nguồn lao động nước ta là những điều kiện quan trọng để thúc đẩy
nền kt-xh phát triển.
Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân về lịch sử kt-xh, nguồn lđ nước ta còn nhiều hạn chế. Đó là:
Nguồn lao động có chất lượng thấp thể hiện rất đa dạng: Trước hết là sự thấp kém về mặt sức khoẻ,
thể chất. Số lao động được đào tạo ít, nhiều ngành nghề chuyên môn được đào tạo chưa phù hợp với
yêu cầu của nền kinh tế cả về cơ cấu ngành nghề và chất lượng chuyên môn. Nguồn lực lao động
nước ta không chỉ yếu kém về kỹ thuật, công nghệ, mà còn yếu kém cả về trình độ tổ chức, quản lý
các hđsxkd. Theo thống kê, năm 2005 mới chỉ có 24% người lao động được đào tạo về chuyên môn,
trong khi tỷ lệ này ở các nước trong khu vực là 45%-50%. Một bộ phận quan trọng lao động chưa có
hoặc có việc làm chưa thường xuyên. Tình trạng này là nguyên nhân quan trọng của nhiều tiêu cực về
kinh tế xã hội. Hầu hết lực lượng lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp lại phân bố không
đồng đều giữa các vùng. Ở nước ta, cho đến nay, lao động nông nghiệp vẫn chiếm trên 60% lực
lượng lao động cả nước. Thực tiễn đó đang đòi hỏi cùng với việc tập trung các biện pháp nâng cao
chất lượng nguồn lao động, cần thiết phải xúc tiến khẩn trương việc phân công lại lao động giữa các
ngành và vùng kt cả nước. Thu nhập và đời sống của người lao động còn thấp. Mặc dù sau những
năm đổi mới, thu nhập của người lao động nước ta đã được cải thiện nhiều, nhưng so với giá cả thì
thu nhập và đời sống của người lao động vẫn rất thấp. Việc này ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng và
trình độ của người lao động, nó còn là nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tiêu cực trong xh. Nguồn
lao động tăng nhanh, đây không phải là lợi thế mà nó lại gây ra sức ép đối với chính quyền. Cơ cấu
đào tạo lao động và sử

dụng lao động ở nước ta còn nhiều bất hợp lý, thầy nhiều hơn thợ; nhiều ngành nghề cần thì lại
không được đào tạo, những ngành nghề không cần lại đào tạo tràn lan. Mặt khác, vấn đề làm việc trái

78
với ngành nghề đã được đt đang là một vấn đề bức bách của xh hiện nay.
*** Để sử dụng nguồn lực lao động có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH đất
nước, tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại. Chúng ta phải quán triệt bốn quan điểm lớn sau: Phải thực sự coi nguồn lực con người là
nguồn vốn quan trọng và cơ bản nhất để tiến hành CNH,HĐH ở nước ta. Phải lấy hiệu quả làm tiêu
chuẩn và thước đo để đưa ra các chính sách về sử dụng nguồn lao động. Giải quyết tốt mối quan hệ
giữa nâng cao chất lượng việc làm và tạo việc làm đầy đủ cho người lao động. Quá trình sử dụng lđ
phải gắn với việc nâng cao chất lượng nguồn lao động. Muốn vậy phải thực hiện tốt và đồng bộ các
biện pháp sau:
Thứ nhất, nâng cao trình độ dân trí, phát triển giáo dục và đạo tạo. Để nâng cao trình độ dân trí, theo
kinh nghiệm của các quốc gia cho thấy, đầu tư cho nâng cao trình độ dân trí, cho giáo dục, đào tạo là
nền tảng của tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Đây là công việc lâu dài được Đảng ta xác định
trong Nghị quyết HNTW 2 khoá VIII, Nghị quyết Đại hội VIII, IX và X. Để thực hiện được điều này còn
đòi hỏi sự đầu tư, sử dụng sức mạnh kt của NN và toàn xã hội.
Thứ hai, khuyến khích phát triển kinh tế, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế để tạo thêm việc làm.
Phát triển kinh tế, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, có nghĩa là tạo thêm việc làm và tăng thêm
thu nhập. Do vậy, cả chất lượng và số lượng nguồn lao động sẽ tăng lên, tuy nhiên, xu hướng tất yếu
của quá trình phát triển kinh tế là đổi mới công nghệ, thay đổi phương thức quản lý kinh tế. Quá trình
đó tạo ra nguy cơ giảm tỷ lệ lao động và dẫn đến thất nghiệp. Xử lý vấn đề trên đòi hỏi một quá trình
lâu dài, nhiều mặt, trong đó vai trò điều tiết của nn có một vai trò đặc biệt quan trọng. Thứ ba, tạo
lập và quản lý thị trường lao động. Cùng với những loại thị trường khác, thị trường lao động ở nước ta
đã hình thành và cũng đã xuất hiện rất nhiều hạn chế, tiêu cực. Nó không chỉ tác động đến kinh tế,
mà còn mang nội dung chính trị – xã hội sâu sắc. Nếu buông lỏng thị trường này có thể đưa đến
những hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt. Hoàn thiện hệ thống luật pháp, các chính sách, nâng cao
hiệu quả hoạt động của các tổ chức Công đoàn, đang là những vấn đề cấp bách lâu dài của việc sử
dụng nguồn lđ ở nước ta.
Thứ tư, nâng cao thể chất và thu nhập của người lao động. Trước mắt cần có sự ưu tiên cho nhóm gia
định nghèo, các đối tượng chính sách, các ngành nghề hoặc các vùng mà mà người lao động có thu
nhập thấp, điều chỉnh thu nhập bất hợp lý giữa các ngành nghề, giữa các vùng.... Cải cách chế độ
tiền lương đối với cán bộ công chức nhà nước. Tiền tệ hoá đầy đủ vào tiền lương, điều chỉnh tiền
lương bảo đảm mức sống tương ứng với mức độ tăng thu nhập trong xã hội.
Thứ năm, hạ thấp tỷ suất sinh để giảm sức ép tăng lao động quá nhanh. Tiếp tục thực hiện nhất quán
kiên quyết và có hiệu quả chương trình dskhhgđ. Trước mắt chương trình này cần phải được tập trung
vào khu vực nông thôn, miền núi, ven biển và những gia đình nghèo nhưng đông con ở thành thị.
Thứ sáu, mở rộng xuất khẩu lao động. Xuất khẩu lao động không những giải quyết được vấn đề việc
làm cho người lao động; tăng thu nhập cho người lao động mà nó còn đóng góp lớn vào ngân sách
nhà nước. Sai lầm trong việc thực hiện những chính sách và biện pháp trong việc phát triển và sử
dụng nguồn lao động, sẽ có những hậu quả xấu hơn nhiều so với sai lầm trong việc sử dụng các
nguồn lực khác trong phát triển kinh tế đất nước. Vấn đề này, ở nước ta, Đảng và nhà nước đã khẳng
định mục tiêu và động lực phát triển kinh tế – xã hội là vì con người và do con người.

TS. Nguyễn Thị Như Hà – Học viện CTQG Hồ Chí Minh

“Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân lực, ổn định và phát
triển kinh tế, làm lành mạnh hóa xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và
yêu cầu bức xúc của nhân dân”i[1]. Vì vậy, giải quyết việc làm là một trong
những hướng ưu tiên trong phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 – 2010.
Nhìn lại nửa chặng đường đã đi qua (2001 – 2005) chúng ta rút ra một số vấn
đề sau để làm cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp giải quyết vấn đề lao động
việc làm của chặng đường tiếp theo (2006 – 2010).

1. Thực trạng lao động ở nước ta hiện nay

- Lực lượng lao động:

Theo điều tra lao động việc làm ngày 1/7/2004 lực lượng lao động từ 15 tuổi
trở lên cả nước là 43.255 nghìn người. Trong đó lực lượng lao động ở nhóm
tuổi 15 – 34 tuổi chiếm 46,8%, từ 35 – 54 tuổi chiếm 35,4%, trên 55 tuổi chiếm
7,8%. Như vậy lực lượng lao động trẻ (dưới 35 tuổi) ở nước ta chiếm xấp xỉ
50% lực lượng lao động và điều đó cũng cho thấy được tiềm năng về lao động

79
ở nước ta là dồi dào – khả năng thiếu lao động (xét về lượng) không phải là
vấn đề tồn tại hiện nay. Nếu chúng ta có hướng đào tạo, sử dụng tốt để khai
thác được tiềm năng đáng quý này, mà hiện nay một số quốc gia (nhất là các
nước đang phát triển) thì lại đang khan hiếm.

- Phân bổ lực lượng lao động:

Trong tổng số lực lượng lao động hiện có thì tỷ lệ lao động ở khu vực thành thị
chiếm 24,6%, lao động ở khu vực nông thôn 75,5%. Phân bổ lao động hiện
nay cho thấy sự chuyển dịch về cơ cấu lao động chưa tương thích với sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong 5 năm qua. Trong 5 năm qua tỷ trọng ngành
nông nghiệp xấp xỉ 21,6% GDP nhưng lực lượng lao động lớn, điều đó cho
thấy hiệu quả sử dụng lao động ở khu vực nông thôn, nông nghiệp thấp và
càng tạo sức ép về giải quyết việc làm ở khu vực này.

Mặt khác, sự phân bố lao động chủ yếu tập trung ở 3 vùng: Đồng bằng sông
Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ - 2 vùng Tây Bắc và Tây
Nguyên chưa thu hút lao động.

Sự phân bổ lực lượng lao động giữa các vùng chưa tương xứng với tiềm năng
của các vùng đó, do đó chưa khai thác được lợi thế của các vùng kinh tế đó.
Chẳng hạn: 2 vùng Tây Bắc và Tây Nguyên là 2 vùng có diện tích đất tự nhiên
lớn, có thể phát triển và sản xuất những loại cây đặc sản có giá trị kinh tế cao
(cây công nghiệp, cây ăn quả…) nhưng lao động ở 2 lĩnh vực này chỉ chiếm
8,8% (xét về mặt lượng, về mặt chất lại còn là vấn đề bức xúc hơn). Vì vậy, sự
phát triển kinh tế ở khu vực này còn gặp nhiều khó khăn trong đó có khó khăn
lớn thiếu nguồn nhân lực có trình độ để chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên cơ sở
lợi thế của vùng.

- Chất lượng lao động:

Nhìn vào số liệu về phân bổ lực lượng lao động giữa các khu vực cũng đã
phần nào nói lên chất lượng lao động ở nước ta. Phần lớn lao động ở khu vực
nông thôn chưa qua đào tạo, hoặc đào tạo không cơ bản, trình độ văn hóa
thấp. Vì trên thực tế hiện nay yêu cầu lao động ở đây cũng chủ yếu là lao
động phổ thông là chính, những ngành nghề đòi hỏi trình độ cao ở khu vực
này chưa phát triển.

Hiện nay lực lượng đã qua đào tạo (tính lao động được đào tạo từ 3 tháng trở
lên) trong cả nước chiếm 25%, lao động từ bậc tiểu học trở xuống chiếm
42,5%, lao động mù chữ 5%. Trình độ đào tạo của Việt Nam còn nhiều bất cập
so với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày
càng mở rộng. Vì vậy, nhu cầu lao động có chất lượng cao (tức lao động có
trình độ chuyên môn cao, có tác phong lao động công nghiệp, có ý thức, kỷ
luật cao) ngày càng tăng. Mặt khác, từ yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước trong bối cảnh kinh tế thế giới thì vấn đề chất lượng lao động ở nước ta
trở thành một vấn đề bức xúc của nền kinh tế và là nguyên nhân cơ bản của
tình trạng lao động thiếu việc làm hiện nay. Chúng ta vẫn thường nói: lao
động ở nước ta còn dư thừa, điều ấy là đúng nhưng chưa đủ, ta chỉ dư thừa

80
lao động phổ thông (lao động không có tay nghề) nhưng lại rất thiếu những
lao động có trình độ chuyên nghiệp, tay nghề giỏi, thiếu những lao động
nghiên cứu khoa học để ứng dụng thành tựu đó là phát triển kinh tế - xã hội
cho đất nước.

Nói tóm lại lực lượng lao động ở nước ta đông nhưng không mạnh, sự phân
bổ và sử dụng lao động còn nhiều điều bất hợp lý với một nền kinh tế chuyển
đổi và thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH.

2. Tình hình giải quyết việc làm giai đoạn 2001 – 2005:

Bảng 1: Phân bổ lao động ở các vùng lãnh thổ (tính đến 1/7/2004)
Số lao động Tỷ lệ
(nghìn người) (%)
Cả nước 43.225,2 100
Đồng bằng sông Hồng 9.718,3 22,5
Đông Bắc 5.129,2 11,8
Tây Bắc 1.373,7 3,2
Bắc Trung Bộ 5.214,7 12,1
Duyên hải miền Trung 3.582,3 8,3
Tây Nguyên 2.415,7 5,6
Đông Nam Bộ 6.536,9 15,1
Đồng bằng sông Cửu Long 9.284,5 21,4
Nguồn: Kết qủa điều tra lao động việc làm ngày 1/7/2004,
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.

Trong 5 năm qua chúng ta đã giải quyết được 7,5 triệu việc làm đạt chỉ tiêu kế
hoạch đề ra. Việc làm hàng năm có xu hướng tăng: Năm 2001: 1.400 ngàn
người; Năm 2002: 1.420 ngàn người; 2003: 1.525 ngàn người; 2004: 1.557,5
ngàn người; 2005: ước 1.592 ngàn người.

Giải quyết việc làm trong thời gian qua chủ yếu theo 3 hướng cơ bản sau:

- Các chương trình phát triển kinh tế - xã hội đã tạo khoảng 74% tổng số việc
làm mới. Trong 5 năm qua các chương trình này tập trung vào: chương trình,
dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn như: phát triển trang trại, mở rộng
phát triển làng nghề, xây dựng các vùng kinh tế mới, khai táhc các vùng đất
trống đồi núi trọc, khai táhc mặt nước ao hồ nuôi trồng thủy sản… theo hướng
chuyển dịch cơ cấu kinh tế để phát triển sản xuất hàng hóa, dịch vụ; chương
trình phát triển công nghiệp và dịch vụ như: xây dựng và phát triển các khu
công nghiệp, khu công nghệ cao, các chương trình trọng điểm về xây dựng,
phát triển giao thông, các trung tâm văn hóa thể thao, các khu du lịch…

81
- Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm: Nguồn quỹ này đã tạo hơn 22% tổng việc làm.
Theo số liệu của Bộ Lao động – Thương bình và Xã hội trong 4 năm 2001 –
2004 Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm đã cấp được 3.700 tỷ đồng vốn cho trên 80
ngàn dự án, tạo việc làm cho 1,32 triệu người. Chương trình này cũng đã huy
động được một lượng vốn đối ứng ước tính khoảng 5.000 tỷ đồng để các gia
đình, các doanh nghiệp có cơ hội tự tạo việc làm cho mình và thu hút lao động
vào làm việc.

- Hoạt động xuất khẩu lao động: Hiện nay đối với nước ta đây là một hướng
giải quyết việc làm tương đối có hiệu quả: Vì: Thứ nhất, nó tạo nguồn thu nhập
tương đối cao và ổn định (so với lao động tự tạo việc làm trong nước). Ví dụ:
Hiện nay thu nhập bình quân một lao động Việt Nam tại Đài Loan khoảng 300
USD/tháng, Hàn Quốc 500 USD/tháng, Nhật Bản 300 – 500 USD/tháng, trong
lúc đó mức thu nhập bình quân một lao động có việc làm tại Việt Nam chỉ
617.340 đồng/tháng (tương đương 40 USD/tháng). Thứ hai, góp phần vào việc
đào tạo tay nghề cho người lao động. Đối với lao động xuất khẩu đó là cơ hội
để họ có thể có điều kiện: học tập về kỹ thuật, tiếp cận công nghệ hiện đaị, tích
lũy kinh nghiệm, tạo ý thức chấp hành kỷ luật lao động… đó là yêu cầu bắt
buộc đối với người lao động trong nền sản xuất lớn.

Bảng 2: Lao động xuất khẩu Việt Nam sang khu vực Đông Bắc Á (2001 –
2004)

Đơn vị: Người


Năm Tổng số Đài Loan Nhật Bản Hàn Malaysia Nước
Quốc khác
2001 36.168 7.782 3.249 3.910 23 21.204
2002 46.122 13.191 2.202 1.190 19.965 9.574
2003 75.000 20.069 2.256 4.336 38.227 1.112
2004 67.447 37.144 2.752 4.779 14.567 8.205
Nguồn: Cục Quản lý lao động người nước. Bộ Lao động – Thương binh và Xã
Hội

Tuy nhiên, hiện nay hoạt động xuất khẩu lao động ở nước ta chỉ tạo ra được
xấp xỉ 4% việc làm. Nhưng đây sẽ là một hướng giải quyết việc làm đang có xu
hướng phát triển theo chiều hướng tốt. 5 năm qua xuất khẩu lao động ở nước
ta có xu hướng tăng – đặc biệt sang các nước Đông Bắc Á.

5 năm qua chúng ta có nhiều cố gắng bằng nhiều hình thức, nhiều kênh khách
nhau để tạo việc làm cho người lao động, do đó đã phần nào cải thiện được
tình hình thiếu việc là trong cả nước, nhìn chung tỷ lệ thất nghiệp giảm so với
năm 2001. Ở khu vực thành thị giảm 0,73%, ở khu vực nông thôn giảm 0,55%.
Tuy nhiên, nhìn vào thực tế giải quyết việc làm trong thời gian qua mang tính
tự phát: tự tạo việc làm và đối tượng là lao động phổ thông. Việc làm thực hiện
trên thị trường lao động mới chiếm khoảng 17%. Vì vậy, chất lượng việc làm
chưa cao, các quan hệ trong lao động (cả về kinh tế, xã hội, chính trị) chưa

82
được giải quyết thỏa đáng và thường người lao động bị thiệt thòi và điều đó
càng làm lao động, việc làm thiếu sự phát triển ổn định, bền vững.

Việc làm ở khu vực chính thức tăng lên không đáng kể, chủ yếu là lao động
thay thế (những người nghỉ hưu, thôi việc, nghỉ việc…).

Mặt khác, việc làm xét về mặt cơ cấu là chưa tương thích với sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế và chưa tạo tiền đề cho việc tăng năng suất lao động xã hội.
Trên thực tế lao động, việc làm ở nước ta đang tồn tại 2 xu hướng: thiếu việc
làm và thừa lao động (ở khu vực lao động giản đơn – lao động phổ thông) và
thiếu lao động và thừa việc làm (ở khu vực đòi hỏi lao động có tay nghề, có
trình độ chuyên môn cao). Sự thừa, thiếu đó diễn ra ở các ngành, các khu vực
mà rất khó điều phối trong điều kiện lao động hiện nay ở nước ta và làm cho
mâu thuẫn lao động và việc làm sẽ càng căng thẳng trong bối cảnh nền kinh tế
tri thức phát triển.

3. Những vấn đề đặt ra về lao động, việc làm và hướng giải quyết

* Sự mất cân đối giữa cung và cầu về lao động trên các mặt sau đây:

- Về chất lượng đội ngũ lao động: Do yêu cầu của tiến trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi lao động chất lượng cao ngày
càng lớn. Nhưng trên thực tế đội ngũ lao động của chúng ta đang hụt hẫng
trước yêu cầu đó. Chúng ta vừa thiếu cả thầy và thiếu cả thợ, khác một số ý
kiến cho rằng Việt Nam “thừa thầy thiếu thợ”. Chúng ta “thiếu thầy” tức là thiếu
đội ngũ cán bộ quản lý và các chuyên gia giỏi để vận hành nền kinh tế có hiệu
quả; “thiếu thợ” là thiếu đội ngũ công nhân lành nghề, có tính chuyên nghiệp
cao. Vì vậy, vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ lao động trở thành nhiệm vụ
hàng đầu trong chiến lược giải quyết việc làm ở nước ta. Nó vừa là điều kiện
là tiền đề để giảm thất nghiệp và cải thiện đời sống cho người lao động.

- Về cơ cấu lao động: Cơ cấu lao động và cơ cấu việc làm đang có sự mất
cân đối lớn xét theo ngành, vùng kinh tế. Điều đó nó được thể hiện sự phân bổ
lao động bất hợp lý giữa các ngành, vùng kinh tế, đẩy đến tình trạng một số
ngành và vùng kinh tế có lao động dôi dư, tỷ lệ lao động thất nghiệp cao. Hiện
tượng lao động ở các khu vực nông thôn ra tìm việc làm ở thành thị đã minh
chứng cho điều đó. Ngược lại một số ngành (ngành có kỹ thuật cao) thiếu lao
động buộc chúng ta thuê lao động nước ngoài. Để sử dụng lao động có hiệu
quả thì việc chuyển dịch cơ cấu lao động là yêu cầu quan trọng trong chính
sách lao động – việc làm hiện nay.

- Về cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực: Cơ cấu đào tạo ảnh hưởng trực tiếp cơ
cấu lao động theo trình độ, nghề nghiệp chuyên môn. Thực tế trong thời gian
qua chúng ta thường chú ý đến đào tạo những ngành nghề có chi phí đào tạo
thấp (ít thí nghiệm, ít thực hành…) như các ngành kinh tế, luật (chiếm 43% số
sinh viên đào tạo), còn các ngành khoa học kỹ thuật chỉ chiếm 25,5%. Điều
này chưa tương thích với yêu cầu CNH, HĐH đất nước. Tình trạng đó làm cho
tỷ lệ thất nghiệp của lao động ở bậc đại học xấp xỉ tới 4%, nhiều cử nhân kinh
tế, luật phải làm việc không theo đúng ngành nghề được đào tạo….

83
* Thị trường lao động ở nước ta chưa phát triển (đặc biệt là khu vực nông
thôn); cung cầu về lao động chưa được giải quyết qua thị trường. Điều đó
cũng là ách tắc cho việc giải quyết mối quan hệ giữa lao động và việc làm bởi
nguồn nhân lực và khả năng tiếp cận nguồn nhân lực không có môi trường để
thực hiện. Vì vậy, phát triển thị trường lao động để lực lượng lao động được
xã hội hóa đặc biệt là lao động có trình độ cao, để đảm bảo sử dụng nguồn
nhân lực có hiệu quả và giải quyết được những mâu thuẫn giữa lao động và
việc làm.

* Giải quyết việc làm: Giải quyết việc làm ở nước ta trong những năm qua theo
hướng tập trung giải quyết việc làm cho lực lượng lao động chưa qua đào tạo,
vì vậy tập trung phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động (giày da, dệt
may, chế biến thủy sản….). Theo chúng tôi, đây không phải là những ngành có
lợi thế trong cạnh tranh, cũng không phải là những ngành nền tảng hoặc
ngành tiềm năng của nền kinh tế Việt Nam. Bởi ngành dệt may, giày da ở
nước ta hiện nay 80% nguyên liệu để sản xuất là nhập ngoại. Vì vậy, nếu
chiến lược phát triển lao động, việc làm vẫn theo đuổi hướng đó sẽ làm cho
nền kinh tế Việt Nam trì trệ, tụt hậu hơn. Do đó, hướng giải quyết việc làm
trong giai đoạn tiếp theo cần thu hút lực lượng lao động vào các ngành có lợi
thế cạnh tranh (những ngành đưa lại hiệu quả kinh tế cao) những ngành nền
tảng và những ngành tiềm năng của nền kinh tế. Phát triển một số ngành khác
sử dụng nhiều lao động phổ thông nên gắn với những ngành sử dụng nguyên
liệu sản xuất ra từ trong nước (các ngành công nghiệp chế biến thủy sản, hàng
nông sản phẩm….). Điều đó, một mặt nó sẽ giải quyết lao động tại chỗ, mặt
khác thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển bền vững và đưa lại lợi ích cho
quốc gia nhiều hơn.

* Lao động dôi ra từ việc sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước trong
thời gian qua cũng là một trong những nhân tố tác động lớn đến lao động –
việc làm của nền kinh tế. Hiện nay có khoảng hơn 10 vạn lao động dôi dư khi
thực hiện việc sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước, nhìn chung lực
lượng lao động này khả năng phát triển rất hạn chế, tuy nhiên họ vẫn nằm
trong lực lượng lao động của quốc gia. Hướng giải quyết lực lượng lao động
đó là việc khuyến khích phát triển nhiều thành phần kinh tế để họ có thể tự
nguyện tham gia lao động phù hợp với khả năng của họ (tức là hướng giải
quyết chủ yếu để họ tự tìm và tạo việc làm).

Từ bức tranh lao động – việc làm ở nước ta hướng giải quyết cơ bản cần tập
trung vào những vấn đề sau:

- Đào tạo nguồn nhân lực: Đây là bước đi căn bản đầu tiên, đặt nền tảng cho
việc giải quyết việc làm ổn định, bền vững. Đặc biệt chú ý đến chất lượng đào
tạo, cơ cấu đào tạo và gắn nó với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Công tác
đào tạo phải hướng tới mục tiêu chuyển thế hệ lao động nông nghiệp sang lao
động công nghiệp (lao động có kỹ thuật, kỷ luật). Để thực hiện được mục tiêu
đó là một quá trình lâu dài và có lộ trình thực hiện cho từng giai đoạn nhất
định, không thể nóng vội, đốt cháy giai đoạn.

84
- Đầu tư có hiệu quả vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội để đa
dạng hóa mô hình tạo việc làm, chú ý tạo việc làm tại chỗ trên cơ sở chuyển
dịch cơ cấu kinh tế để đảm bảo phát triển kinh tế bền vững, ổn định trật tự an
toàn xã hội. Mặt khác, phải phát triển các ngành khoa học kỹ thuật cao để thu
hút lao động có chất lượng để tăng thu nhập và khuyến khích người lao động
có ý thức nâng cao trình độ. Đây là một trong những yếu tố tạo sự ổn định và
phát triển bền vững đối với lao động và việc làm.

- Phát triển thị trường lao động: phát triển thị trường lao động để lao động
được xã hội hóa, người lao động được quyền tham gia trao đổi sức lao động
trên thị trường theo quan hệ kinh tế thị trường. Điều đó vừa đảm bảo lợi ích
cho người lao động, vừa tạo động lực thúc đẩy chất lượng đội ngũ lao động.
Trong những năm tới hướng giải quyết khá tích cực đối với lao động, việc làm
ở nước ta mở rộng và nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động.

Hậu WTO: Giải bài toán chất lượng nguồn nhân lực
( Bình chọn: 2   --  Thảo luận: 3 --  Số lần đọc: 8928)
Cùng đó, khi Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới thì chất lượng lao động thấp sẽ có tác động
xấu tới khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Đây là ý kiến của phần lớn các chuyên gia lao động khi nói về
chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam.

Theo tính toán của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Việt Nam mới có khoảng hơn 20% lực lượng lao
động đã qua đào tạo từ sơ cấp trở lên. Trên thực tế, chưa có con số thống kê chính xác về bao nhiêu phần
trăm lao động đáp ứng được yêu cầu sử dụng. Hiện chất lượng lao động Việt Nam còn nhiều vấn đề cần giải
quyết.

Dồi dào nhân lực nhưng chất lượng yếu

Những năm vừa qua, thị trường lao động ở nước ta đã hình thành và đang phát triển, lực lượng lao động khá
dồi dào, thể hiện trên các mặt. Về cung cấp lao động cho sự phát triển thị trường trong nước và quốc tế, đến
năm 2005, tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên chiếm 53,4% dân số (trên 44 triệu người); chất lượng cung lao động
ngày càng cao, lao động qua đào tạo chiếm 25%, trong đó 19% qua đào tạo nghề.

Về cầu lao động, lực lượng lao động có việc làm năm 2005 là 43,46 triệu người, chiếm 97,9%, tỷ lệ tăng
trưởng việc làm là 2,67%; cơ cấu việc làm tiếp tục có sự chuyển dịch tích cực, lao động làm việc trong khu
vực nông nghiệp chiếm 56, 79%, khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 17,88%, và khu vực dịch vụ chiếm
25,33%. Tỷ lệ thất nghiệp chung của cả nước là 2,09%, riêng khu vực thành thị là 5,31%. Tuy nhiên, chất
lượng lao động lại quá kém. Năng suất lao động của ta hiện nay đang kém từ 2 đến 15 lần so với các nước
trong khu vực ASEAN.

Theo ông Lê Duy Đồng, Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, có một thực tế là nguồn nhân lực
của ta rất dồi dài nhưng rất nhiều doanh nghiệp lại kêu thiếu nhân lực. Sự khan hiếm tập trung ở số lao động
có trình độ, kỹ năng làm việc và có khả năng nắm giữ một số vị trí chủ chốt của doanh nghiệp.

Trong khi đó, số lượng lớn lao động giản đơn đặt gánh nặng giải quyết việc làm lên các cơ quan chức năng.
Hơn nữa, việc cung lớn hơn cầu đối với lao động giản đơn đang đẩy tiền công có xu hướng ngày càng thấp
và lợi thế luôn thuộc về chủ sử dụng lao động.

Ông Đồng lấy ví dụ, tại Nhà máy Nghi Sơn (Thanh Hoá), do không tìm được người bản xứ có khả năng đáp
ứng được yêu cầu nên những vị trí chủ chốt đều do người Nhật nắm giữ. Tổng quỹ lương của 20 người Nhật
làm việc trong Nhà máy này bằng tổng quỹ lương của gần 2.000 người Việt Nam làm việc ở đây. Còn ở một
số dịch vụ khác như: ngân hàng, y tế... có tới 40% tổng số lao động có thu nhập từ 14.000 USD/năm trở lên
thuộc người nước ngoài.

Cần có một chương trình nghề thực hành cao

Theo ông Nguyễn Mạnh Cường, Phó vụ trưởng Vụ quan hệ quốc tế (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội),
mặc dù khi chính thức gia nhập WTO, nước ta có thể sẽ chưa mở cửa thị trường lao động, nhưng sẽ có một
dòng chảy lớn lao động nước ngoài vào thị trường trong nước.

85
Thực tế, không có điều khoản nào của WTO yêu cầu chúng ta phải mở cửa thị trường lao động, song lao
động nước ngoài có thể vào làm việc tại nước ta từ các gói dịch vụ do nước ngoài cung cấp. Để hạn chế
luồng lao động từ nước ngoài, cách tốt nhất cần thực hiện là nâng cao chất lượng lao động để lao động bản
xứ có thể đáp ứng được yêu cầu của các nhà cung cấp dịch vụ. Khi đó, thay vì đưa lao động từ nước ngoài
vào làm việc, các nhà cung cấp dịch vụ sẽ tuyển lao động bản xứ để tiết kiệm chi phí.

Để cải thiện dần chất lượng nguồn nhân lực, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã đưa ra một kế hoạch
tổng thể nhằm đưa tỷ lệ lao động đã qua đào tạo lên 40% vào năm 2010.

Trong đó, mục tiêu trọng tâm là dạy nghề cho lực lượng lao động làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế
xuất. Hệ thống trường đào tạo nghề sẽ được đầu tư nâng cấp dần lên ngang tầm với khu vực và thế giới. Dự
kiến, sẽ có 25 trường đào tạo nghề và 10 trung tâm đào tạo được đầu tư từ nguồn vốn ODA.

Ngoài ra, 30 trường trọng điểm và khoảng 100 trung tâm dạy nghề của cả nước cũng sẽ được đầu tư nâng
cấp. Hoàn thiện hệ thống giao dịch của thị trường lao động bằng cách, quy hoạch và phát triển rộng khắp các
cơ sở giới thiệu việc làm ở các địa phương để người lao động dễ tiếp cận; đầu tư hiện đại hóa 3 trung tâm ở
3 vùng kinh tế trọng điểm (Bắc, Trung, Nam) đạt tiêu chuẩn các nước trong khu vực, sử dụng công nghệ
thông tin hiện đại (internet, website) để thực hiện giao dịch lành mạnh, hiệu quả và chuyên nghiệp, chống tiêu
cực, nhất là lừa đảo người lao động.

Đa dạng hóa các kênh giao dịch trên thị trường lao động, tạo điều kiện cho các giao dịch trực tiếp giữa người
lao động và người sử dụng lao động. Hình thành và hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động quốc
gia và nối mạng, trước hết ở các vùng kinh tế trọng điểm, các thành phố lớn, khu công nghiệp tập trung, cho
xuất khẩu lao động; xây dựng các trạm quan sát thông tin thị trường lao động trên địa bàn cả nước để thu
thập và phổ biến thông tin thị trường lao động đầy đủ, kịp thời.

Tuy nhiên, vấn đề được nhiều chuyên gia quan tâm là, bên cạnh việc đầu tư cho các trường đào tạo nghề,
cần đưa các chương trình dạy nghề có tính thực hành cao hơn, học sinh được nắm bắt kịp thời với công
nghệ hiện đại. Hơn nữa, cần có chính sách cụ thể để đào tạo đội ngũ lao động quản lý có hàm lượng chất
xám cao song song với các chương trình đào tạo lao động đại trà.

Lao động – việc làm là vấn đề có tính xã hội cao, đòi hỏi sự kết hợp nỗ lực giữa nhà
nước, cộng đồng xã hội, gia đình và cá nhân người lao động khi giải quyết tháo gỡ các
khó khăn.

86
i+ Ưu điểm:
- trẻ (tính theo tuổi đời trung bình – một ưu thế lớn).
- đông (một ưu thế lớn khác, nước có dân số đứng thứ 13 trên thế giới)
- văn hóa thích ổn định khiến tỷ lệ chuyển việc ở Việt Nam thấp, chỉ 5% – 7%
- khả năng về toán học.

+ Nhược điểm :
- kỹ năng thấp;
- mất cân đối về cơ cấu lao động theo trình độ, kỹ năng;
- lao động chất xám thiếu và yếu về chất lượng;
- thể lực kém;
- tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động thấp.

Cần sớm khắc phục nhược điểm nguồn nhân lực


(Theo An ninh thủ đô )
Theo Bộ LĐ-TB&XH, thể lực người lao động nước ta hiện nay còn yếu. So với thế giới tầm vóc và
thể lực của người Việt Nam thuộc loại trung bình thấp, tỷ lệ thấp còi cao hơn nhiều nước trong khu
vực. Chiều cao của thanh niên 15 tuổi thấp hơn so với chuẩn quốc tế 8,34cm đối với nam, 9,13cm
đối với nữ, thấp hơn thanh niên Nhật Bản 8cm đối với nam, 4cm đối với nữ, thấp hơn thanh niên
các nước trong khu vực là Thái Lan, Singapore từ 2-6 cm.

Việc này ảnh hưởng đến việc sử dụng, vận hành máy móc, hiện đại, hạn chế năng suất lao động, bắt
buộc người lao động phải gắng sức nhiều và làm tăng nguy cơ mất an toàn lao động. Tuổi thọ trung
bình của người Việt Nam đạt 73 tuổi năm 2008 nhưng tuổi trung bình khoẻ chỉ đạt bình quân trên
60 tuổi (trung bình một con người Việt Nam có khoảng 12 năm ốm đau, bệnh tật).

Theo đánh giá của các nhà sử dụng lao động nước ngoài, lao động Việt Nam làm việc khéo léo,
chăm chỉ nhưng không đáp ứng được yêu cầu công việc với cường độ lao động cao, sức dẻo dai
cũng hạn chế. Đồng thời việc chứng nhận sức khoẻ của người lao động không chính xác, có tới
15% sức khoẻ yếu và khoảng 5% phải chú ý về sức khoẻ như nhẹ cân, áp huyết cao…

So sánh giữa khả năng lao động của người Việt Nam với các nước trong khu vực cho thấy năng suất
lao động khá thấp (thấp hơn Trung Quốc 1,8 lần; Indonesia 1,5 lần - theo nguồn của Viện Khoa học
thống kê năm 2006).

Cơ cấu đào tạo chưa phù hợp

Bên cạnh thể lực, trình độ chuyên môn kỹ thuật hiện nay còn thấp, tỷ lệ lực lượng lao động qua đào
tạo từ sơ cấp nghề trở lên mới đạt ở mức 26%, trong đó số lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật từ cao đẳng trở lên chỉ chiếm 6,74%. Nhiều tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội mới đạt tỷ lệ lao
động qua đào tạo trên 45% (trong đó qua đào tạo nghề chỉ 23%); lao động trong khu công nghiệp -
khu chế xuất TP Hồ Chí Minh có trình độ từ trung học nghề đến đại học chiếm chưa tới 30%…

Vấn đề nữa là cơ cấu đào tạo không phù hợp. Theo kết quả Tổng điều tra cơ sở kinh tế, hành chính,
sự nghiệp năm 2007 cho thấy, số lao động làm việc trong các cơ sở tăng cả về quy mô và trình độ
chuyên môn kỹ thuật, nhưng chủ yếu tăng lao động có trình độ đại học (người lao động có trình độ
đại học chiếm tỷ trọng 11,7% và tăng 82,6%).

Trong khi đó lao động được đào tạo nghề dài hạn lại giảm 15,7%. Điều này cho thấy đào tạo
nghiêng theo “hàn lâm” gây ra nguy cơ thiếu hụt lực lượng lao động có tay nghề, kỹ năng thực hành
sản xuất.
Tác phong, kỹ năng lao động còn bất cập. Đa số lao động của Việt Nam xuất phát từ nông nghiệp,
do vậy chưa có sự chuyển đổi tác phong lao động nông nghiệp sang công nghiệp, chưa được trang
bị kiến thức và kỹ năng làm việc theo nhóm, trách nhiệm trong công việc.

Đồng thời, người lao động xuất thân từ nông thôn thường có tâm lý làng xã, bị ràng buộc nhiều bởi
lệ làng, phong tục tập quán nên ảnh hưởng không nhỏ đến kỷ luật, tác phong lao động. Điều này
được thể hiện rõ nhất tại thời điểm sau Tết Nguyên đán, hàng loạt người lao động không quay trở
lại làm việc.

You might also like