Professional Documents
Culture Documents
Tieu Luan Mon A Minh
Tieu Luan Mon A Minh
Từ thời xa xưa, con người đã sử dụng thiên văn, la bàn và bản đồ để xác định vị trí và tìm
đường trong các chuyến thám hiểm khai phá các miền đất lạ. Tuy nhiên phải đến năm 1995, khi
các hệ thống vệ tinh định vị toàn cầu GPS của Mỹ và GLONASS của Nga chính thức đi vào hoạt
động, nhu cầu định vị dẫn đường mới được giải quyết một cách cơ bản.
Ngoài mục tiêu quân sự như ý tưởng thiết kế ban đầu, các hệ thống vệ tinh định vị đã
được ứng dụng rộng rãi và hiệu quả trong nhiều lĩnh vực dân sự. Ngày nay, công nghệ định vị
toàn cầu đã trở thành một ngành công nghiệp có doanh số hàng chục tỷ USD/năm và đang được
phát triển mạnh mẽ.
Hệ thống vệ tinh định vị toàn cầu là một ví dụ tiêu biểu cho sự kết hợp giữa nghiên cứu
cơ bản với nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ.
A. CÔNG NGHỆ GPS
NASTAR Global Positioning System (GPS) là hệ thống định vị dựa vào các vệ tinh. Nó có
nhiều ưu điểm sau:
· Độ chính xác định vị cao, từ decamet đến milimet
· Có sẵn cho người sử dụng bất cứ đâu trên trái đất
· Hoạt động liên tục 24h/ngày, trong mọi điều kiện thời tiết
GPS trước tiên là một hệ thống hàng hải phục vụ cho mục đích quân sự. Nó được thiết kế, hỗ
trợ tài chính, khai thác và điều khiển bởi Bộ quốc phòng Mỹ. Tuy nhiên GPS được cung cấp
miễn phí cho người sử dụng dân sự ở một mức độ giới hạn.
GPS được thiết kế để thay thế cho hệ thống vệ tinh Doppler TRANSIT đã phục vụ tốt cho cộng
đồng trắc địa và hàng hải trên 20 năm. Việc xây dựng thành công GPS là nhờ vào những thành
tựu khoa học và kỹ thuật sau:
· Độ tin cậy cao của hệ thống không gian
· Công nghệ đồng hồ nguyên tử độ chính xác cao
· Khả năng xác định và theo dõi vệ tinh một cách chính xác
· Công nghệ VLSI và quang phổ rộng
Các thành phần của GPS
Hệ thống GPS được chia làm 3 mảng:
· Mảng không gian: bao gồm các vệ tinh, chúng truyền những tín hiệu cần thiết cho hệ tống
hoạt động
· Mảng điều khiển: Các tiện ích trên mặt đất thực hiện nhiệm vụ theo dõi vệ tinh, tính toán
quĩ đạo cần thiết cho sự quản lý mảng không gian
· Mảng người sử dụng: toàn thể các thiết bị thu và kỹ thuật tính toán để cung cấp cho người
sử dụng thông tin về vị trí
Hình 5
Giả sử toạ độ vệ tinh đã biết ( ), véc tỏ từ máy thu đến vệ tinh đo được là , thì toạ độ của
máy thu ( ) có thể xác định được. Tuy nhiên trong thực tế chúng ta không đo được mà chỉ đo
được khoảng cách r. Do đó cần ít nhất 3 vệ tinh khác nhau mới giải ra được toạ độ máy thu.
Ngoài ra do đồng hồ của máy thu luôn có sai số nên phát sinh thêm một ẩn số nữa và do vậy cần
có từ 4 vệ tinh trở lên.
Hình 6
Trị đo giả cự ly chứa nhiều sai số dẫn đến toạ độ của máy thu có thể sai từ vài mét đến vài
chục mét.
ĐỊNH VỊ TƯƠNG ĐỐI
Hầu hết các nguồn sai số trong trị đo khoảng cách có thể được khủ hoặc giảm đi đáng kể
trong trị đo hiệu giữa hai máy thu và/ hoặc hai vệ tinh. Tuy nhiên để làm điều đó cần phải có ít
nhất hai máy thu đồng thời quan trắc một số lượng vệ tinh chung. Kết quả xử lý cho ta hiệu tọa
độ giữa hai điểm đặt máy thu (còn gọi là baseline vector).
Hình 8:Hình ảnh mô phỏng công tác đo sâu dùng máy đo đa chùm tia Multibeam
Hình 9:Kỹ thuật đo sâu kết hợp thiết bị quét Side Scan Sonar để kiểm tra kích thước vật liệu đáy
B. CÔNG NGHỆ VIỄN THÁM
Viễn thám là gì?
Ở Việt Nam, viễn thám là một ngành còn chưa phổ biến, chúng ta vẫn thường nghe rất
nhiều người hỏi viễn thám là gì.
Nói một cách nôm na trong “viễn thám” có hai từ “viễn” và “thám”. “Viễn” có nghĩa là
xa, từ xa, không tiếp xúc với đối tượng. “Thám” có nghĩa là tìm hiểu, lấy thông tin về đối tượng.
Ta có thể hiểu một cách đơn giản viễn thám là một ngành khoa học nghiên cứu đối tượng mà
không tiếp xúc trực tiếp với chúng. Trong tiếng Anh, viễn thám là “remote sensing”, thường
được viết tắt là RS.
Nếu nói một cách khoa học thì chúng ta có thể dùng định nghĩa sau:
"Viễn thám là một khoa học thu nhận thông tin của bề mặt trái đất mà không tiếp xúc trực tiếp
với bề mặt ấy. Điều này được thực hiện nhờ vào việc quan sát và thu nhận năng lượng phản xạ,
bức xạ từ đối tượng và sau đó phân tích, xử lý, ứng dụng những thông tin nói trên." (theo CCRS).
Một tập hợp có tổ chức của phần cứng, phần mềm, cơ sở dữ liệu và con người được thiết
kế để thu nhận, lưu trữ, cập nhật, thao tác phân tích làm mô hình và hiển thị tất cả các dạng thông
tin địa lý có quan hệ không gian nhằm giải quyết các vấn đề về quản lý và quy hoạch.
GIS sẽ làm thay đổi đáng kể tốc độ mà thông tin địa lý được sản xuất, cập nhật và phân
phối. GIS cũng làm thay đổi phương pháp phân tích dữ liệu địa lý, hai ưu điểm quan trọng của
GIS so với bản đồ giấy là:
- Dễ dàng cập nhật thông tin không gian.
- Tổng hợp hiệu quả nhiều tập hợp dữ liệu thành một cơ sở dữ liệu kết hợp.
GIS lưu giữ thông tin về thế giới thực dưới dạng tập hợp các lớp chuyên đề có thể liên kết
với nhau nhờ các đặc điểm địa lý. Điều này đơn giản nhưng vô cùng quan trọng và là một công
cụ đa năng đã được chứng minh là rất có giá trị trong việc giải quyết nhiều vấn đề thực tế, từ thiết
lập tuyến đường phân phối của các chuyến xe, đến lập báo cáo chi tiết cho các ứng dụng quy
hoạch, hay mô phỏng sự lưu thông khí quyển toàn cầu.
Tham khảo địa lý các thông tin địa lý hoặc chứa những tham khảo địa lý hiện (chẳng hạn
như kinh độ, vĩ độ hoặc toạ độ lưới quốc gia), hoặc chứa những tham khảo địa lý ẩn (như địa chỉ,
mã bưu điện, tên vùng điều tra dân số, bộ định danh các khu vực rừng hoặc tên đường). Mã hoá
địa lý là quá trình tự động thường được dùng để tạo ra các tham khảo địa lý hiện (vị trí bội) từ
các tham khảo địa lý ẩn (là những mô tả, như địa chỉ). Các tham khảo địa lý cho phép định vị đối
tượng (như khu vực rừng hay địa điểm thương mại) và sự kiện (như động đất) trên bề mặt quả
đất phục vụ mục đích phân tích.
Hệ thống thông tin địa lý làm việc với hai dạng mô hình dữ liệu địa lý khác nhau về cơ bản -
mô hình vector và mô hình raster. Trong mô hình vector, thông tin về điểm, đường và vùng được mã
hoá và lưu dưới dạng tập hợp các toạ độ x,y. Vị trí của đối tượng điểm, như lỗ khoan, có thể được
biểu diễn bởi một toạ độ đơn x,y. Đối tượng dạng đường, như đường giao thông, sông suối, có thể
được lưu dưới dạng tập hợp các toạ độ điểm. Đối tượng dạng vùng, như khu vực buôn bán hay vùng
lưu vực sông, được lưu như một vòng khép kín của các điểm toạ độ.
Mô hình vector rất hữu ích đối với việc mô tả các đối tượng riêng biệt, nhưng kém hiệu quả
hơn trong miêu tả các đối tượng có sự chuyển đổi liên tục như kiểu đất hoặc chi phí ước tính cho các
bệnh viện. Mô hình raster được phát triển cho mô phỏng các đối tượng liên tục như vậy. Một ảnh
raster là một tập hợp các ô lưới. Cả mô hình vector và raster đều được dùng để lưu dữ liệu địa lý với
nhưng ưu điểm, nhược điểm riêng, Các hệ GIS hiện đại có khả năng quản lý cả hai mô hình này.
2. XU HƯỚNG CÔNG NGHỆ ĐO ĐẠC BẢN ĐỒ HIỆN NAY
Trong giai đoạn hiện nay, khoa học và công nghệ đo đạc và bản đồ đang chuyển sang một
giai đoạn mới trên cơ sở những thành tựu mới của khoa học và công nghệ nói chung và trên cơ
sở những yêu cầu mới về phát triển bền vững của toàn hành tinh, khu vực và từng quốc gia.
Về thành tựu khoa học và công nghệ nói chung, những bước phát triển rất nhanh của công
nghệ thông tin và công nghệ hàng không - vũ trụ đã tạo nên những hướng đi mới của khoa học và
công nghệ đo đạc và bản đồ. Thứ nhất, kỹ thuật khảo sát trái đất từ vệ tinh, máy bay và các
phương tiện bay khác ở nhiều tầng độ cao khác nhau, với nhiều loại tia phát khá nhau đã tạo
được những thành tựu vượt bậc về độ chi tiết, độ chính xác dữ liệu và khả năng thu nhận nhanh
dữ liệu. Độ chính xác tọa độ có thể đạt tới cỡ mi-li-mét, độ chính xác độ cao mặt đất cũng như
mặt biển có thể đạt tới cỡ xen-ti-mét, độ phân giải ảnh chụp có thể đạt cỡ đề-xi-mét với nhiều
phổ khác nhau. Bên cạnh đó, thiết bị đo đạc mặt đất cũng đã có những thay đổi quan trọng, từ
những thiết bị đo đạc bằng tia đơn đã bắt đầu chuyển sang các thiết bị quét mặt đất. Từ những
thành tựu khoa hoạc và công nghệ như vậy, khả năng thiết lập mô hình bề mặt đất đầy đủ, chi
tiết, chính xác, kịp thời bảo đảm khả năng tác động trên đó như tác động trên thực tế đã trở nên
hoàn toàn khả thi. Đồng thời, khả năng hình thành một mô hình toàn cầu của hành tinh trái đất
cũng đang trong tầm tay của con người.
Hiện nay, sự cố gắng của cả thế giới là hình thành một mô hình trái đất thực thật đầy đủ,
chi tiết, chính xác để con người nhìn vào mô hình có thể biết được thực tế như thế nào. Mô hình
đó chính là hạ tầng thông tin địa lý toàn cầu (GSDI - Global Spatial Data Infrastructure). Con
người nhận thức và tác động vào hành tinh thông qua mô hình này. Nhất là hiện nay, vấn đề biến
đổi khí hậu, bảo vệ hành tinh đang trở thành trọng tâm của cả nhân loại. Mô hình GSDI đang
được đánh giá là công cụ duy nhất để giám sát mọi hoạt động trên hành tinh, dự báo các thảm
họa thiên nhiên để phòng tránh và chống đỡ, liên kết giữa mọi người để phối hợp hành động. Tất
nhiên, một mô hình GSDI phải được hình thành trên cơ sở kết nối các cơ sở dữ liệu đối với từng
quốc gia hay vùng lãnh thổ với tên gọi là hạ tầng thông tin địa lý quốc gia (NSDI - National
Spatial Data Infrastructure). Để thành lập các NSDI, các quốc gia cần đưa ra chương trình chuẩn
hóa dữ liệu đo đạc và bản đồ đã có theo chuẩn quốc tế, lựa chọn các công nghệ để xây dựng hệ
thống đo đạc thu nhận dữ liệu ở nhiều tầng khác nhau phục vụ bổ sung và cập nhật dữ liệu cho
toàn bộ hệ thống. Điểm quan trọng là các quốc gia cần hình thành các chính sách phù hợp để xã
hội hóa quá trình đầu tư công nghệ, dựa vào khả năng của các doanh nghiệp để xây dựng dữ liệu.
Trong thời gian vài năm tới, nhiệm vụ về đo đạc và bản đồ còn nhiều hơn những năm
tháng trước đây. Vấn đề là cân nhắc sau cho xã hội hóa cao hơn các hoạt động đo đạc và bản đồ,
đầu tư từ ngân sách nhà nước phải đủ ở mức cần thiết nhưng không được lãng phí, sự phối hợp
để xác định nhu cầu quản lý của các Bộ, ngành và đại phương phải thấu đáo để một sản phẩm đo
đạc và bản đồ phải đạt tiêu chuẩn đa mục tiêu. Ví dụ, bản đồ địa hình tỷ lệ 1/10.000 phải làm
theo công nghệ gì để vừa là bản đồ cơ bản nhưng phải đáp ứng được nhu cầu quản lý rừng của
lâm nghiệp, quản lý môi trường đất của địa phương, đánh giá mùa vụ của nông nghiệp, v.v. Hoặc
như bản đồ địa hình tỷ lệ 1/2.000 đô thị không chỉ là địa hình mà phải đủ thông tin để quản lý
quy hoạch xây dựng đô thị, giám sát ô nhiễm môi trường đô thị, quản lý kiến trúc đô thị v.v.
Những yêu cầu này cần được cân nhắc kỹ lưỡng.