Professional Documents
Culture Documents
Phương pháp phân tích phổ hấp thu nguyên tử dùng để phân tích lượng
nhỏ(lượng vết) các kim loại trong các lọai mẫu khác nhau của các chất vô cơ và
hữu cơ. Phương pháp này có thể định lượng được hầu hết các kim lọai (khỏang 65
nguyên tố) và một số á kim ở giới hạn nồng độ cỡ ppm (mcrogam) đến nồng độ
ppb (nanogam).
Nguyên tắc:
Trong điều kiện bình thường nguyên tử không thu và cũng không phát ra
năng lượng dưới dạng các bức xạ. Lúc này nguyên tử tồn tại ở trạng thái cơ bản.
Đó là trạng thái bền vững và nghèo năng lượng nhất của nguyên tử. Nhưng khi
nguyên tử ở trạng thái hơi tự do, nếu ta chiếu một chùm tia sáng có những bước
sóng (tầng số) xác định vào đám hơi nguyên tử đó, thì các nguyên tử đó sẽ hấp thu
các bức xạ có bước sóng nhất định ứng đúng với những tia bức xạ mà nó có thể
phát ra được trong quá trình phát xạ của nó. Lúc này nguyên tử đã nhận năng
lượng của các tia bức xạ chiếu vào nó và nó chuyển lên trạng thái kích thích có
năng lượng cao hơn trạng thái cơ bản. Đó là tính chất đặc trưng cuả nguyên tử ở
trạng thái hơi. Quá trình đó được gọi là quá trình hấp thu năng lượng của nguyên
tử tự do ở trạng thái hơi và tạo ra phổ nguyên tử cuả nguyên tố đó. Phổ sinh ra
trong quá trình này gọi là phổ hấp thu nguyên tử.
Muốn có phổ hấp thu nguyên tử trước hết phải tạo ra được đám hơi nguyên
tử tự do, và sau đó chiếu vào nó một chùm tia sáng có những bước sóng nhất định
ứng đúng với các tia phát xạ nhạy của nguyên tố cần nguyên cứu. Dự vào mối
quan hệ giữa cường độ của vạch phổ hấp thu và nồng độ của nguyên tố đó trong
đám hơi ta có thể xác định được nồng độ của nguyên tố cần phân tích.
Dựa vào phương trình cơ sở của phép đo định lượng các nguyên tố theo phổ
hấp thu nguyên tử, để xác định nồng độ chất cần phân tích.
Da= a.Cb
Phổ UV – Vis là loại phổ electron, ứng với mỗi elctron chuyển mức năng
lượng ta thu được một vân phổ rộng. Phương pháp đo phổ UV – Vis (phương
pháp trắc quang) là một phương pháp định lượng xác định nồng độ của các chất
thông qua độ hấp thu của dung dịch.
Cho chùm ánh sáng có độ dài sóng xác định có thể thấy được (Vis) hay
không thấy được (UV - IR) đi qua vật thể hấp thu (thường ở dạng dung dịch).
Dựa vào lượng ánh sáng đã bị hấp thu bởi dung dịch mà suy ra nồng độ (hàm
lượng) của dung dịch đó.
C
Io I
l
I0 = IA + Ir + I
Trong đó:
Io : Cường độ ban đầu của nguồn sáng.
Ir : Cường độ ánh sáng phản xạ bởi thành cuvet và dung dịch, giá trị
này được loại bỏ bằng cách lặp lại 2 lần đo.
C : Nồng độ mol chất ban đầu.
l : Chiều dày lớp dung dịch mà ánh sáng đi qua.
5.2.2. Định luật về hấp thụ ánh sáng (Định luật Lambert – Beer)
Người ta thường dùng các phản ứng hóa học để chuyển các hợp chất cần xác
định không có màu sang các hợp chất có màu mà mắt người có thể quan sát được.
Bằng cách đo độ hấp thu hoặc so sánh cường độ màu của dung dịch cần nghiên
cứu với cường độ màu của dung dịch đã biết trước nồng độ (dung dịch chuẩn), ta
có thể suy ra nồng độ của chất cần xác định. Mối liên hệ phụ thuộc giữa cường độ
màu và hàm lượng được thể hiện qua định luật Lambert – Beer.
I
A = log = ε *l *C
I0
Trong đó:
A : Độ hấp thu.
C : Nồng độ (mol/l; mg/l).
L : Chiều dày lớp dung dịch, cm.
ε : Hệ số hấp thu phân tử.
Diện tích bề mặt riêng của vật liệu thí nghiệm được xác định trên cơ sở hấp
Diện tích bề mặt riêng có nhiều ý nghĩa khác nhau đối với chất rắn xốp hay
không xốp. Đối với chất rắn xốp thì diện tích bề mặt riêng là diện tích bề mặt bên
ngoài và bề mặt bên trong. Diện tích bề mặt bên trong là diện tích của nhiều lỗ
xốp và lớn hơn rất nhiều so với diện tích bề mặt ngoài.
Bề mặt riêng của vật liệu được xác định bằng cách hấp phụ khí N2 ở nhiệt độ
Phương trình BET tổng quát dự trên cơ sở hấp phụ đa phân tử. Thực tế cho
thấy phương trình BET tuyến tính trong vùng X từ 0,05 – 0,3. Từ đó xác định bề
mặt:
SS =
S o * Vm
W
(cm 2 / g )
Trong đó:
SS : Diện tích bề mặt riêng của mẫu (cm2/g)
So : Diện tích bề mặt của 1cm3 khí N2 cần để hình thành đơn lớp
Vm : Thể tích khí để hình thành đơn lớp khí hấp phụ (cm3 )
Hiển vi điện tử quét môi trường (E-SEM): Quan sát cấu trúc và thành phần vật liệu (kim
loại, phi kim, sinh học...);
- Nhiễu xạ tia X (XRD): Phân tích thành phần và pha có trong mẫu;
- Phổ quang điện tử tia X (XPS), phổ hấp thụ nguyên tử (AAS): Phân tích thành phần các
nguyên tố;
- Các loại kính hiển vi quang học ghép nối máy tính...
SEM và TEM
SEM (scanning electron microscope) là thiết bị kính hiển vi điện tử quét, SEM có thể
hiểu nôm na như là 1 chiếc kính lúp để phóng to mọi vật tuy nhiên kính lúp là việc nhìn 1
ảnh ảo của thấu kính có tiêu cự ngắn bằng ánh sáng quang học để làm vật thể to hơn thì
SEM tạo ra chùm điện tử và sử dụng nó như 1 công cụ nhằm phóng to mọi vật mà kính
lúp hay kính hiển vi thông thường không làm được.
Kính hiển vi điện tử quét lần đầu tiên được phát triển bởi Zworykin vào năm 1942 là một
thiết bị gồm một súng phóng điện tử theo chiều từ dưới lên, ba thấu kính tĩnh điện và hệ
thống các cuộn quét điện từ đặt giữa thấu kính thứ hai và thứ ba, và ghi nhận chùm điện
tử thứ cấp bằng một ống nhân quang điện.
Năm 1948, C. W. Oatley ở Đại học Cambridge (Vương quốc Anh) phát triển kính hiển vi
điện tử quét trên mô hình này và công bố trong luận án tiến sĩ của D. McMullan với
chùm điện tử hẹp có độ phân giải đến 500 Angstrom. Trên thực tế, kính hiển vi điện tử
quét thương phẩm đầu tiên được sản xuất vào năm 1965 bởi Cambridge Scientific
Instruments Mark I và từ đó tới nay thiết bị này ngày càng hoàn thiện và phổ biến trong
các nghiên cứu vật liệu, y học, vật lý…
(còn tiếp)