Professional Documents
Culture Documents
Chúa Giê-xu đang nói về Đức Thánh Linh, Ngôi-vị thứ ba trong Ba ngôi
Đức Chúa Trời. Đức Chúa Cha sai Con Ngài là Chúa Giê-xu đến thế gian để
dạy cho chúng ta biết về Đức Chúa Trời. Khi Đức Chúa Giê-xu trở về cùng
Cha, Ngài ban Đức Thánh Linh xuống để ở trong lòng các tín hữu. Đức
Thánh Linh giải bày Đấng Christ cho chúng ta. Mặc dầu chúng ta không
thấy Ngài, chúng ta vẫn có thể cảm nhận được sự hiện diện và sự hướng dẫn
của Ngài trong đời sống chúng ta khi chúng ta đặt mình vào trong sự kiểm
soát của Ngài.
Kinh thánh đã dùng một số biểu tượng để chỉ về Đức Thánh Linh như: gió
(Cong Cv 2:2) chim bò câu (Mat Mt 3:16, 17) lửa (Mat Mt 3:11) và nước
(GiGa 7:37-39). Những biểu tượng này bày tỏ các khía cạnh khác nhau của
Đức Thánh Linh trong chức vụ của Ngài đối với chúng ta. Ngài là chim bồ
câu hiền từ , sẵn sàng giúp đỡ và bước đi bên cạnh chúng ta. Ngài là nước
sống tuôn tràn từ trong chúng ta. Ngài là lửa thánh khiết để tôi luyện đời
sống thuộc linh của chúng ta, để cáo trách những tội chống nghịch với đời
sống mới trong Đấng Christ. Ngài là gió quyền năng, được bày tỏ qua các tín
hữu đầy dẫy Đức Thánh Linh bởi những dấu kỳ phép lạ.
Qua những bài học nầy chúng tôi sẽ giới thiệu bạn với Đức Thánh Linh,
Người Bạn của bạn. Ngài là Người Bạn riêng tư, có khả năng suy luận, cảm
nhận quyết định. Ngài là Người Bạn thiên thượng, có đầy đủ các đặc tính
của Đức Chúa Trời. Ngài là Người Bạn sẵn sàng giúp đỡ, luôn đứng bên
cạnh bạn trong mọi hoàn cảnh.
Đức Thánh Linh là Người Bạn quyền năng, Đấng dự phần trong công cuộc
sáng tạo, trong việc truyền đạt sứ điệp của Đức Chúa Trời cho con người,
trong việc tái tạo lại những linh hồn hư mất. Ngài cũng là Người Bạn rất
thực tiễn, giúp đỡ chúng ta trong sự thờ phượng, trong chức vụ của chúng ta
đối với nhau, và tạo dựng hình ảnh của Đấng Christ trong chúng ta.
Chúng tôi cầu nguyện để những bài học nầy sẽ thúc đẩy bạn trở nên thân
thiết với Đức Thánh Linh, Người Bạn thiên thượng của bạn, để bạn đạt được
sự tăng trưởng thuộc linh mỗi ngày, và cũng để bạn kinh nghiệm được
những món quà vô giá của một đời sống đầy dẫy Đức Thánh Linh!
Mô tả khóa học
Cố vấn, giáo sư, và người hướng dẫn : Một sự nghiên cứu về Đức Thánh
Linh là một khóa học giới thiệu về các thuộc tính của Đức Thánh Linh và
công tác của Ngài trong thế gian từ khi sáng thế cho đến hiện tại. Ngài được
xem như một Người Bạn riêng tư, quyền năng và thực tiễn, là Đấng đang ở
trong mỗi tín hữu đầy dẫy Đức Thánh Linh và qua họbày tỏ Đức Chúa Giê-
xu Christ cho thế gian. Cùng với kinh nghiệm lễ ngũ tuần của phép Báp têm
trong Đức Thánh Linh, các tín hữu được ban cho quyền năng để làm chứng,
phục vụ và sống đời sống thánh khiết. Khóa học là một sự hướng dẫn thực
tiễn cho những sinh viên ao ước một đời sống đầy dẫy Đức Thánh Linh.
Các mục tiêu của khóa học
Khi hoàn tất khóa học, bạn sẽ có thể:
Liệt kê được những thuộc tính cá nhân và những thuộc tính thiên thượng của
Đức Thánh Linh.
Mô tả được công tác của Đức Thánh Linh trong công cuộc sáng tạo, trong sự
truyền đạt sứ điệp của Đức Chúa Trời cho con người và trong sự tái tạo.
Hiểu rỏ ý nghĩa của sự thờ phượng thuộc linh, phép Báp-têm trong Đức
Thánh Linh, các ân tứ thuộc linh, và các trái Thánh linh.
Nhận diện được giá trị của một đời sống đầy dẫy Đức Thánh Linh và mong
ước rằng Đức Thánh Linh sẽ bày tỏ Đức Chúa Giê-xu Christ qua đời sống
của bạn.
Sách giáo khoa
Bạn sẽ xử dụng cuốn Cố vấn, Giáo sư và Người hướng dẫn được biên soạn
bởi William Farrand để làm sách giáo khoa và cũng là sách hướng dẫn học
tập cho khóa học nầy. Ngoài ra, chỉ Kinh thánh là sách giáo khoa duy nhất
được đòi hỏi. Các đoạn Kinh thánh được trích dẫn trong bản NIV, xuất bản
năm 1978, ngoại trừ các phần khác được chú giải.
Thời gian học
Thời gian cần thiết để học mỗi bài tùy thuộc vào kiến thức của bạn trong
môn học và sức học của bạn trước khi bắt đầu khóa học. Thời gian cũng tùy
thuộc vào mức độ bạn theo dõi phần hướng dẫn và phát huy khả năng tự học
của bạn. Hãy lập thời khóa biểu học tập của bạn để bạn dành đủ thời gian
hoàn thành các mục tiêu của tác giả khóa học đề ra cũng như các mục tiêu
của chính bạn.
Cơ cấu bài học và cách học
Mỗi bài học bao gồm: 1) tựa đề, 2) nhập đề, 3) dàn bài, 4) các mục tiêu bài
học, 5) các sinh hoạt học tập, 6) các từ then chốt, 7) khai triển bài học gồm
cả các câu hỏi nghiên cứu, 8) bài tự trắc nghiệm, và 9) phần trả lời các câu
hỏi nghiên cứu.
Dàn bài và các mục tiêu sẽ giúp bạn có cái nhìn khái quát về chủ đề, giúp
bạn tập trung sự chú ý vào những điểm quan trọng nhất khi bạn nghiên cứu
và giúp bạn biết cần phải học điều gì.
Hầu hết các câu hỏi nghiên cứu trong phần khai triển bài học đều có thể
được trả lời ngay vào các khoảng trống trong bài, nhưng các câu trả lời dài
cần phải ghi vào vở, và bạn cần ghi rỏ số thứ tự của câu hỏi và tựa bài học.
Điều nầy sẽ giúp bạn khi ôn tập để làm các bản đánh giá tiến trình học tập
theo từng đơn vị.
Đừng bao giờ xem trước câu trả lời cho đến khi bạn đã trả lời xong câu hỏi.
Nếu bạn tự trả lời, bạn sẽ nhớ bài học tốt hơn. Sau khi trả lời các câu hỏi
nghiên cứu, hãy kiểm tra câu trả lời của bạn với phần giải đáp ở cuối mỗi bài
học. Sau đó, hãy sửa những câu bạn đã trả lời sai. Những câu trả lời được
sắp xếp không theo thứ tự thông thường để bạn không tình cờ thấy trước các
câu trả lời.
Các câu hỏi nầy rất quan trọng. Chúng sẽ giúp bạn nhớ được những ý chính
của bài học và áp dụng được các nguyên tắc bạn đã học.
Cách trả lời các câu hỏi
Có nhiều dạng câu hỏi nghiên cứu và câu hỏi tự trắc nghiệm khác nhau trong
phần hướng dẫn nghiên cứu nầy. Dưới đây là một vài dạng mẫu và cách trả
lời. Những chỉ dẫn đặc biệt sẽ được trình bày cho những dạng câu hỏi khác
khi cần thiết.
Câu hỏi CHỌN LỰA hay mục yêu cầu bạn phải lựa chọn một trong những
câu trả lời được cho sẵn.
Ví dụ :
1. Một tuần gồm có
a) 10 ngày.
b) 7 ngày.
c) 5 ngày.
Câu trả lời đúng là b) 7 ngày . Trong phần hướng dẫn nghiên cứu của bạn,
hãy khoanh tròn b) như sau:
1. Một tuần gồm có
a) 10 ngày.
b) 7 ngày.
c) 5 ngày.
(Trong một số mục chọn lựa, có hơn một câu trả lời đúng. Nếu vậy, bạn hãy
khoanh tròn các ký tự trước mỗi câu trả lời đúng).
Câu hỏi ĐÚNG-SAI hay mục yêu cầu bạn chọn những câu ĐÚNG.
Ví dụ :
2. Những câu nào là câu đúng dưới đây?
a) Kinh thánh có 120 sách.
b) Kinh thánh là sứ điệp cho các tín hữu ngày hôm nay.
c) Tất cả các trước giả Kinh thánh đều viết bằng ngôn ngữ Hê-bơ-rơ.
d) Đức Thánh Linh hà hơi trên các trước giả của Kinh thánh.
Câu b và d đúng. Bạn sẽ khoanh tròn hai ký tự nầy để chỉ ra câu trả lời của
bạn như đã thấy ở trên.
Câu hỏi SẮP XẾP hoặc mục yêu cầu bạn sắp xếp các sự việc đi chung với
nhau, chẳng hạn như tên và sự mô tả, hoặc các sách Kinh thanh với các
trước giả.
Ví dụ :
..1...a Nhận lãnh Luật pháp trên núi Si-nai. 1) Môi-se
..2...b Hướng dẫn dân Y-sơ-ra-ên vượt sông Giô-đanh 2)Giô-suê
..2...c Đi vòng quanh thành Giê-ri-cô
..1...d Sống trong cung điện của Pha-ra-ôn
Các cụm từ a và d chỉ về Môi-se, b và c chỉ về Giô-suê. Bạn sẽ viết 1 bên
cạnh a và d, và 2 bên cạnh b và c, như bạn thấy ở trên.
Phương pháp học tập
Nếu bạn tự học khóa ICI nầy, thì tất cả các bài làm của bạn phải được gởi đi
bằng thư. Mặc dù khóa học nầy trong chương trình ICI là để bạn tự học, bạn
cũng có thể học chung trong một nhóm hoặc một lớp. Nếu vậy, người hướng
dẫn sẽ trao cho bạn những chỉ dẫn cần thiết khác và bạn hãy làm theo những
chỉ dẫn đó.
Có thể bạn muốn xử dụng khóa học nầy trong một nhóm học Kinh thánh tại
nhà, trong một lớp học tại Hội thánh, hoặc trong một trường Kinh thánh.
Bạn sẽ nhận thấy rằng cả nội dung của chủ đề và các phương pháp học tập
đều thích hợp cho những mục đích nầy cách đặc biệt.
Bản đánh giá tiến trình học tập theo từng đơn vị
Nếu bạn đang tự học chương trình ICI, với một nhóm hoặc trong một
lớp,bạn sẽ nhận được những bản đánh giá tiến trình học tập theo từng đơn vị
của bạn trong khóahọc. Những bản đánh sẽ được trả lời dựa trên những chỉ
dẫn bao gồm trong khóa học và trong bản đánh giá tiến trình học tập theo
từng đơn vị. Bạn phải làm bài và gởi câu trả lời cho người hướng dẫn của
bạn để dựa trên bài làm của bạn, người hướng dẫn sẽ sửa sai và gợi ý cho
bạn.
Chứng chỉ
Dựa trên sự hoàn thành khóa học và điểm cuối khóa của những bản đánh giá
tiến trình học tập theo từng đơn vị được chấm bởi các hướng dẫn ICI của
bạn, bạn sẽ được nhận Chứng chỉ Danh dự của bạn.
Tác giả của khóa học nầy
Tiến sĩ William F. Farrand viết soạn tài liệu học nầy dựa trên kinh nghiệm
sâu rộng là một mục sư, một giáo sĩ, một giảng viên trường Kinh thánh, và
một nhà quản trị. Ông được phong chức mục sư năm 1951. Ông đã hầu việc
Chúa trong cương vị của một giáo sĩ tại Ceylon và Philippines hơn 26 năm.
Ông làm giáo sư của Viện Kinh Thánh Ceylon trong 3 năm, tại Viện Kinh
Thánh Bethel ở Manila hơn 10 năm. Hiện nay ông đang làm giáo sư tại
Trường Kinh Thánh Cao Đẳng Immanuel ở Cebu, thuộc nước Cộng hòa
Philippines. Ông cũng từng giữ những chức vụ như giám đốc kinh doanh,
khoa trưởng trường đại học, và hiệu trưởng của các trường nầy.
Tiến sĩ Farrand có bằng cấp của Trường Kinh Thánh Đông Phương ở bang
Pennysylvania, và nhận bằng cao học Kinh thánh và Thần học của Trường
Cao Đẳng Kinh Thánh tại Springfield, bang Missouri. Ông cũng đã học ở
Trường Đại học Philippines, Trường Cao Đẳng Kinh Thánh Trung Ương,
Viện Thần Học Châu Á, Viện Thần Học Phúc Âm Toàn Vẹn.
Người hướng dẫn ICI của bạn
Người hướng dẫn ICI của bạn rất sẵn lòng giúp đỡ bạn. Hãy hỏi người
hướng dẫn bất cứ thắc mắc nào về việc bạn thu xếp kỳ thi cuối khóa. Nếu có
nhiều người muốn học chung, hãy yêu cầu người hướng dẫn của bạn thu xếp
cho một nhóm học tập.
Nguyện Đức Chúa Trời ban phước cho bạn khi bạn bắt đầu nghiên cứu Cố
Vấn, Giáo Sư và Người Hướng Dẫn . Mong chủ đề này sẽ làm phong phú
cho đời sống và chức vụ của bạn và giúp bạn làm trọn bổn phận của bạn
trong thân thể Đấng Christ cách hiệu quả hơn.
MỘT THÂN VỊ TRỌN VẸN
Khi tôi cùng gia đình chuyển đến Philippines, nơi tôi sẽ đảm nhận việc giảng
dạy trong Trường Cao Đẳng Kinh Thánh Immanuel, ban giảng huấn và toàn
thể sinh viên đã tổ chức buổi chào đón chúng tôi thật nồng nhiệt. Thức ăn rất
ngon, những trò chơi giải trí rất thú vị. Tôi nghe một sinh viên nói
rằng:”Mình thật sự thích buổi tiếp tân nầy”. Đó là một ngày đáng nhớ.
Tôi đang thắc mắc phải chăng họ đã quên mục đích của buổi lễ, nhưng họ đã
không quên. Một người đứng lên và nói rằng: “Chúng ta đã thưởng thức các
món ăn và những trò chơi, tuy nhiên đó không phải là lý do chính mà chúng
ta họp nhau lại đây. Chúng ta đến để chào mừng vị chủ tịch mới của chúng
ta, người sẽ ở với chúng ta trong suốt khóa học đến.”
Sau nầy khi nghĩ lại tôi được nhắc nhở về những buổi lễ tiếp đón muôn phần
quan trọng hơn - tiếp nhận phép Báp-têm của Đức Thánh Linh. Nhiều người
nói về những phước hạnh họ đã kinh nghiệm khi họ được Báp-têm trong
Thánh Linh, nhưng họ đã không kể đến một Thân Vị thần thượng có liên
quan đến.
Đức Thánh Linh là một Thân Vị trọn vẹn . Bởi vì Đức Thánh Linh là một
Thân Vị trọn vẹn, nên chúng ta có thể có mối tương giao Người-với-người
với Ngài, là điều hoàn toàn thỏa mãn và đáp ứng được những nhu cầu sâu
kín nhất của chúng ta, và chuẩn bị cho chúng ta một chổ trong vương quốc
của Đức
Chúa Trời. Trong bài học nầy chúng ta sẽ khám phá những bằng chứng
trong Kinh thánh nói về nhân tính của Đức Thánh Linh và các sự dạy dỗ cho
chúng ta qua những bằng chứng nầy.
Tất cả những đức tính bày tỏ nhân tánh đều được tìm thấy trong Đức Thánh
Linh. Ngài là một hữu thể sống. Nói đúng hơn, như chúng ta sẽ thấy, Ngài là
Nguồn và Đấng ban sự sống, và một trong những danh hiệu của Ngài là
“Thánh Linh sự sống” (RoRm 8:2).
Bởi vì chúng ta thường nghĩ rằng thân vị là một hữu thể với một thân thể vật
lý có thể thấy được, chúng ta đã lạc mất ý nghĩa của từ ngữ thân vị ,từ ngữ
liên hệ đến những đức tính ban đầu của nhân tánh: khả năng để hiểu biết, để
cảm xúc và để chọn lựa. Chúng ta có nghĩ rằng nhân tánh của Đức Thánh
Linh sẽ có ý nghĩa hơn trong đời sống hằng ngày của chúng ta, hơn là nếu
Ngài chỉ là một sức mạnh không thuộc và không có cảm xúc của con người?
Bởi vì Thánh Linh là một Thân Vị trọn vẹn, là Đấng có thể suy nghĩ, cảm
xúc và lựa chọn, nên Ngài là con đường truyền đạt những ước muốn của bạn
với Đức Chúa Trời và ý muốn của Đức Chúa Trời đối với bạn!
1. Dựa trên phần đã thảo luận, phần hoàn chỉnh nào là đúng nhất? Khi tôi
nói rằng Đức Thánh Linh là một Thân Vị, điều đó có nghĩa:
a) Ngài giống tôi.
b) Ngài có những đức tính thiết yếu của nhân tánh.
c) Ngài vừa là một hữu thể siêu nhiên vừa là một hữu thể vật lý.
d) Ngài là một hữu thể siêu nhiên.
Bây giờ chúng ta hãy nghiên cứu từng đức tính trong nhân tánh của Đức
Thánh Linh , và suy nghĩ về ý nghĩa của chúng đối với chúng ta.
Khả năng hiểu biết
Mục tiêu 2. Phân tích những câu Kinh thánh liên quan để xác định những
điều bày tỏ về khả năng hiểu biết của Đức Thánh Linh .
Một trong những đức tính đầu tiên của nhân tánh là khả năng hiểu biết.
Chúng ta thường liên tưởng khả năng này với tâm trí. Lời của Đức Chúa
Trời bày tỏ rằng Đức Thánh Linh hành động trong sự thông minh và khôn
ngoan:
Đấng dò xét lòng người hiểu biết ý tưởng (tâm trí) củaThánh Linh là thể
nào,vì ấy là theo ý Đức Chúa Trời mà Ngài cầu thế cho các thánh đồ vậy
(RoRm 8:27).
Đức Thánh Linh dò xét mọi sự, cả đến sự sâu nhiệm của Đức Chúa Trời
nữa. Vả, nếu không phải là thần linh trong lòng người, thì ai biết được sự
trong lòng người? Cũng một lẽ ấy, nếu không phải là Thánh Linh của Đức
Chúa Trời, thì chẳng ai biết sự trong Đức Chúa Trời (ICo1Cr 2:10-11).
Trong đoạn Kinh thánh thứ hai, sứ đồ Phao-lô so sánh khả năng hiểu biết
của con người với cùng một đức tính riêng của Đức Thánh Linh trong lãnh
vực thuộc linh. Hãy lưu ý rằng đức tính nầy liên hệ đến linh của con người,
là điều sẽ còn lại, chứ không phải thân thể, là điều sẽ hư mất.
Nói cách khác, sự hiểu biết của Đức Thánh Linh về ý muốn của Đức Chúa
Trời và những nhu cầu của con người làm cho Ngài có thể phục vụ như một
người Cố vấn đắc lực của chúng ta. Sự kiện nầy được minh họa cách rõ ràng
trong sách Công vụ các sứ đồ khi Hội thánh đầu tiên nhóm nhau tại Giê-ru-
sa-lem để tìm ra những giải pháp cho những nan đề khác nhau. Khi đối diện
với cuộc khủng hoảng có thể phá vỡ sự hiệp một trong Hội thánh, các sứ đồ
và các trưởng lão đã tìm được nguồn an ủi và sự hướng dẫn trong Đức
Thánh Linh (xem chương 15). Sự hiện diện của Đức Thánh Linh đã mang lại
sự dàn xếp cần thiết, các sứ đồ đã có thể viết rằng “ấy là Đức Thánh Linh và
chúng ta đã ưng rằng” (Cong Cv 15:28). Ở đây, sự khôn ngoan và sự hiểu
biết thần thượng của Đức Thánh Linh đã đem lại một giải pháp cho Hội
thánh, một giải pháp làm thỏa mãn người Giu-đa, khích lệ người ngoại bang,
khiến cho Tin lành được truyền bá khắp nơi.
Vậy thì, một thân vị là một hữu thể có khả năng hiểu biết và được hiểu biết.
Như chúng ta đã thấy, Đức Thánh Linh có cả hai đức tính nầy. Ngài biết bạn
và tôi rõ hơn người nào khác có thể, và chúng ta cũng có thể hiểu biết Ngài.
Mức độ bạn hiểu biết Ngài sẽ tùy thuộc vào mức độ bạn học về Ngài trong
mối tương giao hằng ngày của bạn. Ngài có thể là một người bạn xa lạ, hoặc
là một người bạn thân thiết. Nhiều người nói cách chân thật rằng: “Tôi biết
Ngài”, nhưng họ chỉ biết như một người bạn xa lạ. Rất ít người kinh nghiệm
được Ngài như một người bạn thân thiết. Bạn có muốn hiểu biết Ngài nhiều
hơn không? Nếu bạn càng ở với Ngài nhiều bao nhiêu, bạn càng hiểu biết về
Ngài nhiều bấy nhiêu.
2. Hoàn chỉnh câu sau: Khả năng hiểu biết là một đặc tính .................... của
Đức Thánh Linh .
3. Dựa trên RoRm 8:27 và ICo1Cr 2:10-11, hãy chọn phần trả lời hoàn chỉnh
nhất cho câu sau: Đức Thánh Linh có thể đáp ứng những nhu cầu của chúng
ta theo ý muốn của Đức Chúa Trời bởi vì Ngài biết
a) nhu cầu của dân sự của Đức Chúa Trời.
b) ý muốn của Đức Chúa Trời cho dân sự của Ngài.
c) những điều con người cần.
d) tất cả những câu trên: a), b) và c).
e) những điều được nêu trong câu a) và b).
4 Câu Kinh thánh sau đây bày tỏ điều gì về một đặc tính của Đức Thánh
Linh: “Thánh Linh và chúng ta đã ưng rằng”?
...........................................................................................................................
...................................................................................
Khả năng cảm xúc
Mục tiêu 3: Nêu lên được những gì Kinh thánh bày tỏ về khả năng cảm xúc
của Đức Thánh Linh .
Đức tính thứ hai trong nhân tánh của Đức Thánh Linh là đức tính thuộc về
tình cảm , hay khả năng cảm xúc . Cảm xúc bao gồm khả năng yêu và khả
năng chịu đựng sự đau buồn, đau đớn và thương tổn (bao hàm cả sự giận
dữ ). Kinh thánh sẽ cho chúng ta thấy rằng Đức Thánh Linh có thể cảm xúc
được tất cả những điều trên khi Ngài hành động giữa chúng ta.
Tình yêu, cũng giống như sự hiểu biết, được biểu lộ trong mối tương giao
người-với-người. Nó cần có đối tượng. Bạn có thể bày tỏ tình yêu, nhưng sự
bày tỏ tình yêu của bạn sẽ trở nên vô nghĩa nếu nó không hướng về một
người khác.
Sứ đồ Phao-lô nói rằng: “Sự yêu thương của Đức Chúa Trời rải khắp trong
lòng chúng ta bởi Đức Thánh Linh”(RoRm 5:5). Trong một chỗ khác ông
nói về “Sự yêu thương sanh bởi Đức Thánh Linh”(15:30).
Đức Thánh Linh là một Thân Vị có thể được yêu thương, là Đấng có thể yêu
thương chúng ta và yêu thương những người khác qua chúng ta.
Khi còn ở đại học, tôi đã lạm dụng từ ngữ yêu thương . Tôi thường nói yêu
những cuốn sách hay, yêu những món ăn ngon, và yêu âm nhạc. Thế nhưng
cô giáo dạy anh ngữ của tôi không đồng ý. Cứ mỗi khi tôi nói tôi yêu điều gì
đó, cô lại nhắc nhở tôi. Cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ rỏ giọng của cô:
“Nầy em, em không thể nói rằng em yêu những điều nầy được. Em chỉ có
thể yêu một con người mà thôi. Tình yêu chỉ có thể được biểu lộ cho người
có thể đáp lại nó.” Theo cô, tình yêu là sự truyền đạt cảm xúc của một con
người. Và để cho đầy đủ ý nghĩa, thì sự truyền đạt nầy phải được tiếp nhận
bởi một con người mà người đó có thể hiểu và tôn trọng mục đích của bức
thông điệp cũng như đáp ứng lại bức thông điệp đó.
Bởi vì Đức Thánh Linh là một Thân Vị trọn vẹn, nên Ngài có thể bày tỏ tình
yêu của Đức Chúa Trời. Tình yêu của Đức Thánh Linh là bằng chứng của
việc Ngài có mối liên hệ từ ban đầu với gia đình nhân loại. Trong thời đại
Nô-ê, sự gian ác lan tràn đến nỗi Đức Thánh Linh phải “buồn rầu” và đau
đớn. Và kết quả là Đức Chúa Trời đã định rằng: “Thần Ta sẽ chẳng hằng ở
trong loài người luôn” (SaSt 6:3). Đức Thánh Linh có thể bị buồn rầu bởi tội
lỗi và sự chống nghịch của con người vì Ngài có khả năng cảm xúc. Trong
trường hợp nầy, tình yêu của Ngài bị chống đối.
Nhiều người đã không đáp lại tình yêu của Đức Thánh Linh, như chúng ta sẽ
thấy, sự trả lời của Ngài đối với thái độ của họ là một biểu hiện khác của
những khả năng thuộc cảm xúc cá nhân của Ngài. Ngài có thể là một đối
tượng của sự ngược đãi cá nhân. Phao-lô đối chiếu những hành động của
những người không tin với những người đã biết Đấng Christ. Những người
không tin không ở trong sự kiểm soát của Đức Thánh Linh; họ bị bản chất
tội lỗi của họ kiểm soát. Ngược lại, tín hữu là những người đang được thay
đổi, và Đức Thánh Linh đang kiểm soát đời sống họ. Mức độ của một tín
hữu đặt mình trong sự kiểm soát của Đức Thánh Linh cho thấy sự tăng
trưởng của người ấy trong việc mặc lấy bản chất mới và trở nên giống như
Đấng Christ (so sánh Rô-ma 8:5-15; và Ê-phê-sô 4:17-32;). Tuy nhiên, nếu
sau một thời gian người tân tín hữu không đáp lại sự kiểm soát của Đức
Thánh Linh và cứ tiếp tục có những hành động của bản chất củ,thì Đức
Thánh Linh sẽ bị buồn rầu (Eph Ep 4:30).
Bạn có nhớ bạn đã cảm thấy như thế nào khi mà người bạn yêu thương gây
cho bạn buồn rầu hoặc đau đớn? Đó cũng là cách mà Đức Thánh Linh cảm
nhận khi chúng ta làm Ngài buồn.
5. Hãy tìm những câu Kinh thánh sau rồi liệt kê những tội ngược đãi Đức
Thánh Linh được nói đến trong mỗi câu. Đức Thánh Linh có thể bị:
a Cong Cv 5:3 ................................................................................
b 7:51 .............................................................................
c HeDt 10:29 ...........................................................................
d LuLc 12:10 ................................................................................
e Mat Mt 12:31-32 ......................................................................
6. Đọc Eph Ep 4:25-32 và 5:1-7. Hãy tự hỏi chính bạn: “Tôi có đang phạm
tội làm buồn Đức Thánh Linh bởi vì đã phạm những tội nầy hay đã không
đáp lại sự kiểm soát của Ngài cách xứng đáng?” Hãy viết ra vở những lãnh
vực mà bạn cần thay đổi trong thái độ và hành động của bạn.
Khả năng chọn lựa
Mục tiêu 4: Từ những đoạn Kinh thánh cho trước, lựa chọn những phương
cách Đức Thánh Linh thi hành ý muốn tối cao của Ngài thay cho chúng ta .
Một đức tính quan trọng khác của nhân tánh là khả năng quyết định. Con
người, một hữu thể được dựng nên theo hình ảnh của Đấng Tạo hóa, là tạo
vật duy nhất có khả năng có những quyết định thuộc về luân lý - những
quyết định ảnh hưởng đến số phận đời đời của họ. Con người có quyền thực
hiện ý chí tự do của mình. Như chúng ta sẽ học trong Bài 2, một trong
những đặc tính thiên thượng của Đức Thánh Linh là quyền tối cao độc lập
của Ngài, hay khả năng thi hành ý chí hoặc quyền lực tối thượng của Ngài.
Sách Công Vụ Các Sứ Đồ cho chúng ta thấy ý muốn của Đức Thánh Linh
được bày tỏ qua hành động.
Vòng truyền giáo của Banaba và Phao-lô là một ví dụ điển hình về cách Đức
Thánh Linh hành động trong Thân vị với khả năng chọn lựa. Hãy đọc Cong
Cv 13:1-4. Banaba và Phao-lô đã không thể nghi ngờ gì về Thân vị của Đức
Thánh Linh - Ngài dã kêu gọi họ và rồi công khai biệt riêng họ ra cho công
việc mà Ngài chọn họ làm. Chính sứ điệp cá nhân của Ngài cho họ bày tỏ
rằng Ngài không chỉ là một quyền năng thần thượng được ban xuống để xức
dầu cho họ thi hành công tác mà Đức Chúa Trời muốn họ làm. Đức Thánh
Linh đã và đang là một Thân Vị thiên thượng, Đấng có quyền chọn lựa bất
cứ ai theo ý muốn tối cao của chính Ngài.
7. Hãy đọc RoRm 8:1-39 và hoàn chỉnh các câu sau để chỉ ra phương cách
mà Đức Thánh Linh thi hành ý muốn tối cao của Ngài.
a 8:5 dạy chúng ta rằng Đức Thánh Linh có .....................
b 8:9 bày tỏ rằng Đức Thánh Linh thi hành ......................
trên đời sống của chúng ta.
c 8:26 chứng tỏ rằng Đức Thánh Linh ................chúng ta.
Đây không phải là một lẽ thật mới mẽ đối với bạn nếu bạn quen thuộc với
các ân tứ của Đức Thánh Linh. Phao-lô dạy rằng Đức Thánh Linh ban phát
các ân tứ của Ngài cho các thành viên trong Hội thánh theo như Ngài muốn
(ICo1Cr 12:7-11). Nói cách khác, Đức Thánh Linh chọn lựa những cá nhân
mà qua họ các ân tứ của Ngài được thi hành. Sự chọn lựa nầy là một hành
động theo chủ tâm của Đức Thánh Linh. Mỗi khi một ân tứ của Đức Thánh
Linh được biểu hiện, thì đó là một sự bày tỏ nhân tánh của Ngài.
Đức Thánh Linh hướng dẫn Phi-líp tiếp xúc với vị hoạn quan Ê-thi-ô-bi
đang đi ngang qua sa mạc. Ngài ra lịnh cho Phi-líp phải lại gần và theo kịp
xe của vị hoạn quan và làm chứng cho ông (Cong Cv 8:26-40).
10. Kết quả của lời chứng của Phi-líp cho vị hoạn quan là gì?
.......................................................................................................
Đức Thánh Linh sai Phi-e-rơ đi giảng đạo cho một người đội trưởng ngoại
bang, mặc dù điều này trái với ý muốn của ông (10:19-48).
11. Kết quả tức thì của lời giảng của Phi-e-rơ đối với người đội trưởng và
những người nghe sứ điệp trong nhà ông là gì?
.......................................................................................................
Đức Thánh Linh biệt riêng Ba-na-ba và Phao-lô tại Hội thánh An-ti-ốt để
chuẩn bị họ cho chức vụ truyền giáo (13:1-3). Ngài cũng đem lại sự hiệp
một trong hội đồng tại Giê-ru-sa-lem để phúc âm được rao truyền cho cả
người Giu-đa và người ngoại bang (15:1-41), kêu gọi sự truyền giảng phúc
âm cho toàn thế giới.
Khi Phao-lô đang tìm cách để đi giảng tin lành cho Châu Á, thì Đức Thánh
Linh không cho phép ông đi (16:6-7). Nếu bạn đọc tiếp, bạn sẽ thấy rằng
Đức Thánh Linh có một chương trình khác cho Phao-lô vào thời điểm đặc
biệt đó.
Phao-lô công khai thừa nhận sự quản trị của Đức Thánh Linh khi ông nhắc
nhở các trưởng lão Ê-phê-sô rằng chính Đức Thánh Linh là Đấng đã lập họ
và đặt Hội thánh dưới sự chăm sóc của họ (20:28). Tất cả những chức năng
điều hành nầy của Đức Thánh Linh xác định rằng Ngài là một Thân Vị trọn
vẹn được Đấng Christ sai đến để hướng dẫn các công việc của Hội thánh
Ngài.
12. Dựa trên phần vừa thảo luận, hãy chọn câu trả lời tốt nhất cho câu hỏi
sau. Điều gì khiến Phi-líp, Phao-lô và Phi-e-rơ vâng theo sự hướng dẫn của
Đức Thánh Linh trong những trường hợp trên?
a) Họ có mối tương giao Người-với-người với Đức Thánh Linh, và họ tin
cậy Ngài.
b) Họ bị bắt buộc phải vâng theo Ngài.
c) Họ biết trước kết quả.
Chức vụ Đấng An-ủi
Khi Đức Chúa Giê-xu sắp lìa thế gian để về trời, các môn đệ của Ngài hết
sức buồn rầu. Không có Ngài họ chẳng còn nơi nương tựa, vì vậy Ngài hứa
rằng: “Ta lại sẽ nài xin Cha, Ngài sẽ ban cho các ngươi một Đấng Yên-ủi
khác, để ở với các ngươi đời đời”(GiGa 14:16). Danh hiệu nầy xuất phát từ
tiếng Hy-lạp là Paraclete và thường được dịch sang tiếng Anh là người an ủi,
người giúp đỡ hay người cố vấn . Những nhà học giả Hy-lạp nói rằng từ ngữ
được dịch là khác có nghĩa là “một cái khác trong cùng một bản tánh”. Đức
Thánh Linh là một Thân Vị hoàn toàn khác với Đấng Christ, nhưng Ngài
“có cùng một bản tánh” với Đấng Christ, một Thân vị trọn vẹn.
Đấng Christ hứa ban một Thân Vị! Ngài không chỉ hứa ban sự an-ủi, sự giúp
đỡ hay sự cố vấn - Ngài hứa ban một Đấng Anủi, một Đấng Giúp Đỡ và một
Người Cố Vấn !
13. Hãy đọc GiGa 14:15-18, 26; 15:26; 16:12-15 và hoàn chỉnh các câu sau:
a. Chúa Giê-xu hứa với các môn đệ của Ngài rằng Ngài sẽ không để cho
họ ................................, đó là: không được giúp đỡ và bảo vệ, cô đơn và bất
hạnh.
b. Chúa Giê-xu hứa rằng Cha sẽ ban một Đấng ............................
.................................. để thay thế Ngài đời đời.
c. chức vụ của Đức Thánh Linh sẽ là ............................................
d. Chúa Giê-xu nói rằng khi Đấng An-ủi khác nầy đến, Ngài sẽ dẫn họ
vào ................ .và tôn vinh.................................................
14. Hãy sắp xếp những ví dụ với chức năng của Đức Thánh Linh mà chúng
mô tả.
. . . a. Nhắc nhở chúng ta những lời, của Chúa Giê-xu hướng dẫn chúng ta
vào mọi lẽ thật, giải bày Kinh thánh cho chúng ta.
. . . b. Thay thế cho Đấng Giúp Đỡ, Người Cố Vấn và Người Bạn thiết hữu
của chúng ta.
. . . c. Lãnh đạo và hướng dẫn các công tác của Hội thánh.
1) Giáo Sư
2) Người Điều Hành
3) Đấng An-ủi
Các Danh Xưng của Đức Thánh Linh
Mục tiêu 6: Nêu những ví dụ về các danh xưng của Đức Thánh Linh .
Ngoài những đức tính và những chức vụ giải bày bản tánh của Đức Thánh
Linh, Kinh thánh còn dùng những nhân danh xưng và đại từ nhân xưng để
chỉ về Ngài.
Danh xưng Đức Thánh Linh xuất hiện hơn 90 lần trong Kinh thánh. Đây là
nhân danh xưng của Ngài và nó công bố tính cách của chính Ngài.
Bây giờ chúng ta sẽ thấy Đức Chúa Giê-xu bày tỏ nhân tánh của Đức Thánh
Linh. Chúng ta cũng sẽ thấy chính Đức Thánh Linh tự nhận Ngài là một
Thân Vị.
Được bày tỏ bởi Đức Chúa Giê-xu
Bây giờ chúng ta hãy xem kỹ lời hứa ban Đức Thánh Linh của Đức Chúa
Giê-xu (14:1-15:27; 16:1-33). Chúa Giê-xu đã bày tỏ nhân tánh của Đức
Thánh Linh cách rỏ ràng qua ý nghĩa của một danh nhân xưng và những đại
từ nhân xưng Ngài đã dùng.
“Ta lại sẽ nài xin Cha, Ngài sẽ ban cho các ngươi một Đấng Yên ủi khác, để
ở với các ngươi đời đời”(14:16). “Khi nào Đấng Yên ủi sẽ đến . . . Ngài sẽ
làm chứng về ta”(15:26). “Lúc nào (Ngài ,) Thần Lẽ Thật sẽ đến, thì Ngài
dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật; vì Ngài không nói tự mình, nhưng (Ngài ) nói
mọi điều mình đã nghe, và(Ngài ) tỏ bày cho các ngươi những sự sẽ
đến”(16:13).
Thật rõ ràng trong những câu Kinh thánh này Chúa Giê-xu muốn các môn
đệ của Ngài biết rằng Ngài sẽ ban một Thân Vị để thay thế Ngài. Ba lần
Ngài đã xử dụng nhân danh xưng Đấng Yên ủi . Rồi bảy lần trong một câu
Kinh thánh ngắn Ngài đã dùng đại từ nhân xưng giống đực Ngài để chỉ về
Đức Thánh Linh. Chúa Giê-xu có thể dễ dàng bỏ bớt một số đại từ nầy hoặc
xử dụng danh xưng trung tính linh , tuy nhiên, Ngài đã lặp đi lặp lại nhân
danh xưng nầy. Tôi tin rằng điều mà Chúa Giê-xu muốn nhấn mạnh ấy là
Đức Thánh Linh là một Thân Vị trọn vẹn.
Được bày tỏ bởi chính Đức Thánh Linh
Có bao giờ bạn nghĩ rằng tất cả những câu Kinh thánh nầy đều được Đức
Thánh Linh hà hơi (IIPhi 2Pr 1:20-21)? Điều nầy có nghĩa rằng, sau những
gì đã được nói đến, thì Đức Thánh Linh, Tác nhân của sự khải thị, bày tỏ
rằng chính Ngài là một Thân Vị trọn vẹn. Hơn nữa, Đức Thánh Linh đưa ra
những bằng cớ về nhân tánh của Ngài khi Ngài liên hệ đến những công tác
cá nhân của mình.
Một câu Kinh thánh chúng ta đã học cho chúng ta thấy rõ điều nầy. Đó là
câu của chính Đức Thánh Linh “ . . . Hãy để dành riêng Ba-na-ba và Sau-lơ
cho Ta , để làm công việc Ta ấn định”(Cong Cv 13:2 Bản Diễn Ý).
Được Sứ Đồ Phao-lô bày tỏ
Trong phần Nếp Sống Mới trong Thánh Linh được ghi lại trong Kinh thánh
từ câu 1 đến câu 27, Phao-lô đã dùng đại từ nhân xưng giống đực (xem câu
16,26) để chỉ về Đức Thánh Linh. Ông đã không xử dụng danh xưng trung
tính, nhưng đã dùng danh xưng bày tỏ Đấng có quyền xác nhận Quyền làm
con của chúng ta và cầu thay cho chúng ta là một Thân Vị . Vị Sứ đồ muốn
chúng ta hiểu rằng Đấng đang kiểm soát tâm trí chúng ta, dựng nên cuộc
sống mới trong chúng ta, xác thực mối liên hệ của chúng ta với Đấng Christ
và giúp đỡ chúng ta trong sự cầu nguyện có những đặc tính của nhân tánh là
điều khiến chúng ta có thể có mối tương giao cá nhân với Ngài.
15. Sắp xếp mỗi câu (bên trái) phù hợp với ngôi vị nó mô tả (bên phải)
. . .a. Nói về sự ban xuống của Đấng An ủi và 1) Chúa Giê-xu
bảy lần dùng đại từ nhân xưng Ngài để 2) Đức Thánh Linh
chỉ về Đấng đó.
. . .b. Phán rằng: “ Hãy để riêng Ba-na-ba và
Sau-lơ đặng làm công việc ta đã gọi làm”.
. . .c. Phán rằng: “Khi nào Đấng Yên-ủi sẽ đến,
. . .chính Ngài sẽ làm chứng về ta.”
16. Hãy liệt kê những nhân danh xưng của Đức Thánh Linh - chỉ những
nhân danh xưng được ban cho một thân vị - đã được thảo luận.
.......................................................................................................
MỐI TƯƠNG GIAO CÁ NHÂN CỦA CHÚNG TA
Mục tiêu 7: Lựa chọn được lời giải thích đúng về mối quan hệ của chúng ta
với Đức Thánh Linh khi chúng ta nhận biết Ngài là một Thân Vị .
Có rất nhiều lý do rất quan trọng khiến chúng ta phải nhận biết Đức Thánh
Linh là một Thân Vị trọn vẹn. Một trong những lý do đó là sự nhận biết nầy
làm sâu đậm thêm mối quan hệ của chúng ta với Đức Thánh Linh.
Nhiều nan đề liên quan đến các ân tứ của Đức Thánh Linh đã không xảy ra
như chúng ta tìm kiếm sự nhận biết Thân Vị Đức Thánh Linh trước khi
chúng ta ao ước, tiếp nhận và thực hành các ân tứ của Ngài. Sự nhận biết về
Thân Vị Đức Thánh Linh sẽ mang lại sự khát khao làm đẹp lòng Ngài và
được Ngài xử dụng. Sự nhận biết nầy sẽ chẳng khi nào giới hạn sự vận hành
của những ân tứ thuộc linh.
Một Mối Tương Giao Đúng Đắng
Bạn đã ôn lại những bằng chứng cho thấy Đức Thánh Linh là một Thân vị
hiểu biết . Sự nhận biết này sẽ đem lại cho bạn một nền tảng căn bản trong
việc bạn chia xẻ những nan đề của bạn với Ngài và để Ngài hướng dẫn bạn
cách giải quyết chúng.
Bạn cũng đã nghiên cứu về bằng chứng rằng Đức Thánh Linh là một Thân
Vị có cảm xúc . Bằng chứng nầy đem đến cho bạn cái nhìn sâu sắc về những
điều Ngài mong muốn. Bạn sẽ không còn nghĩ đến việc xử dụng Ngài để
thỏa mãn những mong ước của bạn, nhưng để Ngài xử dụng bạn hoàn thành
các mong muốn của Ngài. Bây giờ bạn sẽ thấy Ngài là một Đấng nhạy cảm,
yêu thương, Đấng có thể bị đau buồn vì những hành động sai trái của bạn.
Và rồi việc làm vừa lòng bạn sẽ không còn quan trọng như việc làm vừa
lòng Ngài.
Cuối cùng, bạn đã lượng giá được những chứng cớ bày tỏ Ngài có khả năng
chọn lựa và quyết định. Sự hiểu biết của Ngài vô hạn, Ngài biết điều gì là tốt
nhất cho bạn. Hơn nữa, Ngài đã chọn bạn và ban quyền năng để bạn trở
thành chứng nhân cho Ngài. Tôi tin rằng bạn sẽ đánh giá cao những ân tứ
củaNgài. Nhưng hơn thế nữa, tôi mong ước bạn sẽ tôn vinh và quý mến
Đấng ban những ân tứ đó.
Một Mối Tương Giao Có Ý Nghĩa.
Một giá trị khác vô cùng quan trọng trong việc nhận biết Đức Thánh Linh là
một Thân Vị ấy là đối với người tín hữu, mối tương giao có ý nghĩa hơn là
kinh nghiệm . Nhận biết quyền năng của Đức Thánh Linh sẽ mang lại những
kinh nghiệm quý báu, nhưng một người chỉ bước vào mối tương giao có ý
nghĩa thật sự với Ngài khi người ấy nhận biết Ngài là một Thân Vị. Đây là
mối tương giao của sự trưởng thành. Nó không chỉ đem lại sự hiểu biết về
các quyền lợi thuộc linh của một người, nhưng còn đem đến sự hiểu biết về
các trách nhiệm của người ấy. Phao-lô đã đề cập đến bản chất trưởng thành
của mối tương giao nầy trong IICo 2Cr 3:18: “Tất cả chúng ta đều để mặt
trần, phản chiếu vinh quang của Chúa như tấm gương và được biến hóa
giống như hình ảnh vinh quang của Ngài”.
11. Nếu bạn nhìn nhận Đức Thánh Linh là một Thân Vị, bạn sẽ có thể chia
xẻ ...........................................của bạn với Ngài và để Ngài chỉ cho bạn cách
giải quyết chúng.
12. Khi bạn phát hiện ra rằng Đức Thánh Linh là một hữu thể có cảm xúc,
bạn sẽ hiểu rằng Ngài cũng có ................................., và bạn sẽ tìm cách làm
đẹp lòng Ngài, không phải làm đẹp lòng bạn.
13. Những người hướng về ...............................................thường xem tự thân
phép Báp-têm trong Đức Thánh Linh là một mục tiêu.
14. Những ai nhận thức được rằng phép Báp-têm trong Đức Thánh Linh liên
quan đến Thân Vị Đức Thánh Linh là những người hướng
về..................................................
15. Nếu một người thật sự lượng giá được năng lực của phép Báp-têm trong
Đức Thánh Linh, người ấy sẽ bắt đầu một mối tương giao mà nó sẽ đem
lại ......................................... của Cơ Đốc Nhân.
16. Khi chúng ta nói rằng Đức Thánh Linh là một Thân
Vị ......................................... chúng ta muốn nói rằng Ngài có tất cả những
đức tính để qua đó chúng ta có thể có mối tương giao cá nhân với Ngài.
CÂU TRẢ LỜI NGẮN. Trả lời các câu hỏi sau cách ngắn nhất.
17. Hãy kể ra ba đức tính cá nhân của Đức Thánh Linh chúng ta đã học
trong bài nầy.
..................................................................................................
18. Hãy giải thích phương cách mối tương giao yêu thương với Đức Thánh
Linh hành động.
..................................................................................................
19. Hãy kể tên ba cách mà Đức Thánh Linh có thể bị xúc phạm là điều
chứng tỏ Ngài cũng có cảm xúc.
..................................................................................................
Kể từ lúc đó, nhiều tín hữu đã theo thể thức nầy và chịu Báp-têm trong Danh
của Đức Cha, Đức Con và Đức Thánh Linh - là Đức Chúa Trời Tam nhất.
Hãy lưu ý rằng trong mạng lịnh này Chúa Giê-xu không dùng “ những
danh .” Đây cũng là một bằng chứng cho thấy sự hiệp nhất của Ba Ngôi Đức
Chúa Trời.
Sự hiệp nhất này được thấy cách rõ nét trong sự Giăng Báp-tít làm phép
Báp-têm cho Chúa Giê-xu.
1. Đọc GiGa 1:25-34 và LuLc 3:15-16, 21-22 và trả lời những câu hỏi sau:
a. Hãy nêu lên hai cách mà Đức Thánh Linh cùng kết hiệp trong lễ Báp-têm
của Chúa Giê-xu ?
...........................................................................................................................
....................
b. Câu Kinh thánh nào bày tỏ rằng Đức Chúa Cha cùng kết hiệp trong lễ
Báp-têm của Chúa Giê-xu ?
.......................................................................................................
Sự Chúc Phước Của Các Sứ Đồ
Một trong những lời chúc phước đầy tình yêu thương, được xử dụng thường
xuyên nhất trong Hội thánh là một bằng chứng khác của Kinh thánh về thần
tánh của Đức Thánh Linh. Trong IICo 2Cr 13:13, sứ đồ Phao-lô kết thúc thư
tín thứ hai gởi cho các tín hữu tại Hội thánh Côrinhtô với những lời như thế
nầy:
Nguyền xin ơn của Đức Chúa Giê-xu Christ, sự yêu thương của Đức Chúa
Trời, và sự giao thông của Đức Thánh Linh ở với anh em hết thảy!
Câu Kinh thánh nầy không chỉ liên kết Đức Thánh Linh với Đức Chúa Cha
và Đức Chúa Con trong danh xưng, mà còn trong cả chức vụ. Ba thuộc tính
được kể trên liên hệ đến chức vụ của Ba Ngôi trong Đức Chúa Trời Tam
Nhất cho chúng ta thấy phương cách hữu hiệu nhất mà mỗi Ngôi Vị hành
động trong đời sống chúng ta: Tình yêu bất diệt của Đức Chúa Cha, Đấng
yêu chúng ta đến nỗi ban chính Con độc sanh của Ngài; ân điển không hề
cùng của Cứu Chúa Giê-xu Christ chúng ta, Đấng chết vì cớ tội lỗi của mỗi
chúng ta; và mối thông công bền vững của Người Bạn thiên thượng của
chúng ta là Đức Thánh Linh. Khi chúng ta tiếp nhận tình yêu, ân điển và sự
thông công của Ba Ngôi Đức Chúa Trời, chúng ta có đầy đủ mọi điều cần
thiết để tiếp tục tiến bước trên linh trình và duy trì một mối tương giao thân
mật với Đức Chúa Trời.
Những Đoạn Kinh thánh Khác
2. Đọc SaSt 1:1-2, 26. Qua những câu Kinh thánh nầy, hãy nêu lên những
cách mà Đức Thánh Linh cùng dự phần trong công cuộc Sáng tạo? Đại từ số
nhiều chúng ta trong câu 26 nói lên điều gì?
...........................................................................................................................
...................................................................................
3. Đọc Mat Mt 1:18-19. Đức Thánh Linh cùng dự phần trong sự giáng sinh
của Đấng Christ như thế nào?
.......................................................................................................
4. Đọc EsIs 61:1-2 và LuLc 4:14-21. Đức Thánh Linh cùng kết hiệp trong
chức vụ trên đất của Đấng Christ như thế nào?
....................................................................................................
Nếu bạn có một cuốn Kinh thánh Phù dẫn, bạn có thể làm phong phú bài học
bằng cách tra cứu những câu Kinh thánh bày tỏ sự hiệp nhất của Đức Thánh
Linh với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Hãy liệt kê những câu Kinh
thánh bạn tìm được và ý nghĩa của mỗi câu.
5 Dựa trên những bằng chứng Kinh thánh chúng ta đã nghiên cứu, hãy chọn
phần hoàn chỉnh nhất cho câu sau: Thể thức Báp-têm, sự chúc phước của các
sứ đồ, công cuộc sáng tạo và sự giáng sanh của Chúa Giê-xu là những phần
Kinh thánh quan trọng bày tỏ rằng Đức Thánh Linh là
a) Đức Chúa Trời, với quyền năng cao hơn Đức Chúa Cha và Đức Chúa
Con.
b) là một Ngôi Vị trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời, ngang bằng và hiệp nhất
cách trọn vẹn với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con.
c) Đức Chúa Trời, với quyền năng thấp hơn Đức Chúa Cha và Đức Chúa
con.
d) không phải là Đức Chúa Trời, nhưng là một sức mạnh siêu nhiên được
Đức Chúa Trời sử dụng để thực hiện ý muốn của Ngài.
NhỬng ThuỘc Tính ThẦn ThưỢng
Mục tiêu 2: Nghiên cứu những bằng chứng Kinh thánh về thần tánh của Đức
Thánh Linh qua những thuộc tính của Đức Chúa Trời .
Một bằng chứng khác về thần tánh của Đức Thánh Linh ấy là Ngài có những
thuộc tính chỉ có trong Đức Chúa Trời. Trong Bài 1 chúng tôi đã đề cập đến
một số đức tính thần thượng mà Đức Thánh Linh sở hữu. Bên cạnh những
đặc tính riêng của Đức Chúa Trời đã nói ở trên, Kinh thánh còn dạy chúng ta
rằng chỉ một mình Đức Chúa Trời là Nguồn và Đấng ban sự sống (Cong Cv
17:24-25).
Thật thú vị là một số đoạn Kinh thánh xem những đặc tính ban sự sống nầy
cũng là của Đức Thánh Linh. Sự thật, một trong những danh hiệu của Đức
Thánh Linh là “Thánh Linh sự sống”. Sứ đồ Phao-lô nói cách rỏ ràng rằng
Đức Thánh Linh làm cho Chúa Giê-xu sống lại từ trong kẻ chết (RoRm
8:11), và Chúa Giê-xu cũng xác định điều tương tự khi bày tỏ rằng chính
Đức Thánh Linh là Đấng ban sự sống (GiGa 6:63) Trong thư tín thứ hai gởi
cho Hội thánh Côrinhtô, sứ đồ Phao-lô viết “Thánh Linh ban sự sống”. Sứ
đồ Phierơ cũng tuyên bố rằng Chúa Giê-xu “về phần xác thì Ngài đã chịu
chết, nhưng đã được làm cho sống bởi Đức Thánh Linh”(IPhi 1Pr 3:18 bản
Kinh thánh NIV).
6. Đọc những câu Kinh thánh (bên phải) rồi sắp xếp cho phù hợp với những
thuộc tính của Đức Chúa Trời (bên trái).
. . . a. Nhân tánh
. . . b. Đời đời
. . . c. Ba Ngôi Hiệp Nhất
. . . d. Thần
. . . e. Bất biến
. . . f. Một Đức Chúa Trời
1) GiGa 4:24
2) ICo1Cr 8:26
3) SaSt 2:18; EsIs 1:14; 55:8
4) GiGa 14:23-26
5) Thi Tv 90:1-2
6) 33:11; 102:25-27; MaMl 3:6.
Bây giờ chúng ta hãy nghiên cứu một số thuộc tính của Đức Chúa Trời được
Kinh thánh bày tỏ mà cả Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh
cùng có.
Ngài là Đấng Thánh Khiết
Danh xưng của Ngôi ba trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời thường xuất hiện
trong Kinh thánh là Đức Thánh Linh . Bởi vì chỉ một mình Đức Chúa Trời
có được phẩm chất thánh khiết trọn vẹn, nên danh xưng của Ngài bày tỏ thần
tánh của Ngài. Sứ đồ Phao-lô nhấn mạnh đến thuộc tính thánh khiết trọn vẹn
của Đức Thánh Linh khi ông xưng Ngài là “Thần Linh của Thánh
đức”(RoRm 1:4). Một số học giả Kinh thánh cho rằng từ ngữ “Thánh thay,
Thánh thay, Thánh thay” trong EsIs 6:3 và KhKh 4:8 là sự xác nhận bản
tánh của Ba Ngôi Đức Chúa Trời.
Ngài là Đấng Đời Đời
Trong thơ HeDt 9:14, Đức Thánh Linh được xưng là Đức Thánh Linh đời
đời . Từ ngữ đời đời trong câu Kinh thánh nầy cũng được dùng để mô tả bản
tánh đời đời của Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con trong những đoạn Kinh
thánh khác. Khác với Đức Thánh Linh, Thánh Phao-lô dạy rằng muôn vật,
dầu thấy được, dầu không thấy được (bao hàm luôn cả những thần linh khác)
đều được dựng nên theo kỳ đã định (CoCl 1:15, 16). Tuy nhiên, Đức Thánh
Linh là Đấng đời đời. Ngài không có khởi đầu và cũng không có kết thúc.
Ngài là Đấng đã có, hiện có và sẽ còn đến. Bản tánh đời đời của Ngài khởi
nguyên của thần tánh của Ngài.
Ngài là Đấng Tể Trị
Trong Bài 1 chúng ta học được rằng một trong những đặc tính của nhân tánh
của Đức Thánh Linh là ý muốn của Ngài. Ý muốn đó, ý muốn trọn vẹn, là
một biểu hiện của thần tánh Ngài.
Chúa Giê-xu so sánh Đức Thánh Linh như là gió “muốn thổi đi đâu thì
thổi”(GiGa 3:8). Bởi vì chỉ một mình Đức Chúa Trời mới có thể làm điều
Ngài muốn, nên chúng ta sẽ thấy những bằng chứng xa hơn về thần tánh của
Đức Thánh Linh. Trong 1Côrinhtô 12, Phao-lô liên hệ đến quyền tể trị của
Đức Thánh Linh trong sự phân phát các ân tứ thuộc linh. Ông lưu ý chúng ta
rằng Đức Thánh Linh ban các ân tứ của Ngài theo ý Ngài: cho người nầy ân
tứ nầy, người khác ân tứ khác. Ngài thi hành quyền tể trị thần thượng của
Ngài, ấy là “theo ý Ngài muốn, phân phát sự ban cho riêng cho mỗi người”
(ICo1Cr 12:11).
Từ ngữ tể trị có nghĩa là “sở hữu uy quyền tối thượng”. Không một uy
quyền nào cao hơn uy quyền của Đức Chúa Trời. Quyền tể trị của Đức
Thánh Linh là uy quyền tối thượng mà chỉ một mình Đức Chúa Trời sở hữu.
Việc Ngài đã tạo dựng chúng ta với một ý chí và khả năng chọn lựa chứng tỏ
Ngài chọn điều Ngài muốn làm. Ngài muốn chúng ta s ử dụng ý chí của
chúng ta trong việc chọn lựa sự hầu việc Ngài hơn là ép buộc chúng ta hầu
việc Ngài. Và ý muốn của chúng ta có thể thực hiện đầy đủ vai trò của nó là
bởi uy quyền tể trị của Ngài.
7. Đọc Cong Cv 13:2 và ICo1Cr 2:4; rồi hoàn chỉnh các câu sau:
a. Trong Cong Cv 13:2, uy quyền tể trị của Đức Thánh Linh được bày tỏ qua
................................... của Ngài cho các tiên tri và các giáo sư tại An-ti-ốt và
qua sự ................................... Banaba và Phao-lô.
b. Trong ICo1Cr 2:4, quyền tể trị của Đức Thánh Linh qua đời sống Phao-lô
cao hơn ............................................................................
Ngài là Đấng Vô Sở Bất Tại
Từ ngữ vô sở bất tại có nghĩa là “hiện diện khắp mọi nơi”. Đa-vít đã thốt lên
rằng “Tôi sẽ đi đâu xa Thần Chúa? . . . Nếu tôi lên trời, Chúa ở tại đó, Ví tôi
nằm dưới âm phủ, kìa, Chúa cũng có ở đó.” (Thi Tv 139:7-8). Không một
nơi nào có thể ẩn núp được khỏi Đức Thánh Linh. Ngài hiện diện khắp mọi
nơi và trong mọi lúc.
Không một linh nào khác sở hữu được năng lực này. Ngay cả Sa-tan cũng
chỉ là loài thọ tạo, là kẻ bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Nó phải nhờ
cậy vào những thiên sứ sa ngã khác để thực hiện công việc gian ác của mình.
Thánh Linh của Đức Chúa Trời không phải nhờ cậy vào một đội quân thần
linh kém uy quyền hơn để thực hiện chương trình cứu rỗi của Đức Chúa
Trời. Ngài hiện trong mỗi cá nhân để cáo trách mọi tội nhân (GiGa 16:7-11),
an ủi các thánh đồ (16:13; 14:16, 17). Ngài được Đức Chúa Cha và Đức
Chúa Con sai đến để cư trú trong lòng của mỗi tín hữu và đổ đầy quyền năng
thần thượng của Ngài trong họ (Cong Cv 1:8). Ngày hôm nay chúng ta đang
sống trong thời kỳ “những ngày cuối cùng” mà tiên tri Giô-ên đã nói đến, và
Đức Thánh Linh đã được “đổ xuống” trên mỗi tín hữu là những người tiếp
nhận Ngài. (Xem 2:16-18) Bạn đã kinh nghiệm được sự hiện diện thần
thượng của Đức Thánh Linh hành động trong đời sống bạn chưa?
Ngài là Đấng Vô Sở Bất Tri
Không một điều gì có thể che dấu khỏi Đức Thánh Linh - Ngài là Đấng vô
sở bất tri (biết tất cả mọi sự). Đức Thánh Linh biết trước từng chi tiết những
việc đã, đang và sẽ xảy ra. Sứ đồ Phao-lô bày tỏ sự toàn tri của Đức Thánh
Linh qua thư tín của ông gởi cho người Côrinhtô:
Song le, như có chép rằng: Ấy là sự mắt chưa thấy, tai chưa nghe, và lòng
người chưa nghĩ đến, nhưng Đức Chúa Trời đã sắm sẵn những điều ấy cho
những người yêu mến Ngài. Đức Chúa Trời đã dùng Đức Thánh Linh để bày
tỏ những sự đó cho chúng ta, vì Đức Thánh Linh dò xét mọi sự, cả đến sự
sâu nhiệm của Đức Chúa Trời nữa. Vả, nếu không phải thần linh trong lòng
người, thì ai biết sự trong lòng người? Cũng một lẽ ấy, nếu không phải là
Thánh Linh của Đức Chúa Trời, thì chẳng ai biết sự ở trong Đức Chúa Trời.
(ICo1Cr 2:9-11).
Ngài là Đấng Vô Sở Bất Năng
Đức Thánh Linh là Đấng “Toàn năng”. Ngài được xưng là “Quyền phép của
Đấng Rất Cao” (LuLc 1:35). Nói cách khác, quyền phép của Đức Thánh
Linh là quyền phép của Đức Chúa Trời. Quyền phép đó không có giới hạn -
“vì Đức Chúa Trời làm mọi sự được cả”(Mac Mc 10:27).
Đức Chúa Trời ban quyền phép của Đức Thánh Linh cho tôi tớ được Ngài
chọn lựa trãi suốt Kinh thánh như Đa-vít (ISa1Sm 16:13), Mi-chê (MiMk
3:8), các môn đồ (GiGa 20:19-23); và trên tất cả những người sẽ nhận lãnh
(Cong Cv 1:8).
Trong XaDr 4:6, lời của Đức Giê-Hô-Va phán cùng Xô-rô-ba-bên rằng: “Ấy
chẳng phải là bởi quyền thế, cũng chẳng phải là bởi năng lực, bèn là bởi
Thần Ta, Đức Giê-Hô-Va vạn quân phán vậy”. Câu Kinh thánh nầy cũng có
thể diễn đạt là “Ấy chẳng phải bởi quyền thế con người, cũng chẳng phải bởi
năng lực con người, bèn là bởi quyền phép Đức Thánh Linh của Ta, Đức
Giê-Hô-Va vạn quân phán vậy”. Stanley M. Horton nhấn mạnh rằng “ ‘bởi
Thần Ta’ là nguyên tắc cơ bản mà tất cả những ai đồng công với Đức Giê-
Hô-Va phải ghi khắc trong tâm trí”(Horton 1976, trang 74,75). Đây là đoạn
Kinh thánh xác định sự toàn năng của Đức Thánh Linh.
8. Hãy sắp xếp các thuộc tính và sự mô tả. Viết số bạn chọn lựa trước mỗi
khoảng trống.
1) Đấng Tể Trị
2) Vô sở bất tri
3) Thánh khiết
4) Vô sở bất năng
5) Đời đời
6) Vô sở bất tại
. . . a. Sự thanh sạch tuyệt đối
. . . b. Không có sự bắt đầu và kết thúc. Còn đến đời đời.
. . . c. Sở hữu quyền phép cao nhất có khả năng làm điều Ngài muốn.
. . . d. Biết tất cả mọi sự
. . . e. Hiện diện khắp mọi nơi
. . . f. Toàn năng
9. Đọc những đoạn Kinh thánh bày tỏ thần tánh của Đức Chúa Trời qua Đức
Chúa Cha và Đức Chúa Con trong biểu đồ dưới đây. Sau đó hãy hoàn chỉnh
biểu đồ bằng cách đưa ra những đoạn Kinh Thánh bày tỏ thần tánh của Đức
Thánh Linh qua những thuộc tính thần thượng của Ngài.
- Những thuộc tính của Đức Chúa Trời
a. Thánh khiết
b. Đời đời
c. Đấng Tể trị
d. Vô sở bất tại
e. Vô sở bất tri
f. Vô sở bất năng
- Đức Chúa Cha Thi Tv 22:3 XuXh 19:12-25 Thi Tv 90:2 102:27 Giop G
42:2
Thi Tv 139:7-12 Thi Tv 139:1-6 Thi Tv 139:13-19 Mat Mt 19:26
- Đức Chúa Con Cong Cv 3:14 MiMk 5:2 GiGa 1:1 Mat Mt 28:18 IPhi 1Pr
3:22 Mat Mt 18:20 Eph Ep 1:22-23 GiGa 2:24-25 CoCl 2:2-3 LuLc 7:11-17
- Đức Thánh Linh
Vả, Chúa tức là Thánh Linh, Thánh Linh của Chúa ở đâu, thì sự tự do cũng
ở đó. Chúng ta ai nấy đều để mặt trần mà nhìn xem vinh hiển Chúa như
trong gương, thì hóa nên cũng một ảnh tượng Ngài, từ vinh hiển qua vinh
hiển, như bởi Chúa, là Thánh Linh (IICo 2Cr 3:16-17).
11. Đọc IIPhi 2Pr 1:20-21 rồi dựa trên đoạn Kinh thánh nầy giải thích tại sao
những sự xác nhận của Si-mê-ôn, Phierơ và Phao-lô có thể được xem là
những bằng cớ minh chứng thần tánh của Đức Thánh Linh.
...........................................................................................................................
...................................................................................
Chúng ta đã học được rằng Đức Thánh Linh là Đấng thần thượng và trọn
vẹn. Trong bài học nầy chúng ta sẽ học về những phương cách mà Đức
Thánh Linh giúp đỡ chúng ta qua sự tự cáo trách, sự tái sanh, sự dạy dỗ và
sự hướng dẫn. Bạn có cần sự giúp đỡ của Ngài cho điều gì trong những lãnh
vực nầy chăng? Hãy mở lòng bạn khi bạn học bài này, và để Đức Thánh
Linh làm Đấng Giúp đỡ riêng tư của bạn!
Dàn Ý Bài Học
Ngài Bắt Phục
Ngài Tái Sanh
Ngài Dạy dỗ
Ngài Hướng dẫn
Các Mục Tiêu Bài Học
Khi kết thúc bài học này bạn sẽ có thể:
Giải thích ý nghĩa của công tác bắt phục của Đức Thánh Linh dựa trên GiGa
16:7-11.
Thảo luận công tác của Đức Thánh Linh trong sự tái sanh.
Mô tả những khía cạnh khác nhau trong công tác dạy dỗ và hướng dẫn của
Đức Thánh Linh.
Chuẩn bị chính bạn cho chức vụ giúp đỡ của Đức Thánh Linh.
Những Họat Động Học Tập
Giống như những hoạt động học tập của Bài 1, khi bạn học bài này, hãy đọc
nội dung bài học, tìm và đọc những đoạn Kinh thánh trưng dẫn, và trả lời
các câu hỏi nghiên cứu.
Tìm định nghĩa những từ ngữ bạn không biết trong phần từ vựng ở cuối
sách.
Làm bài tự trắc nghiệm và kiểm tra lại những câu trả lời của bạn.
Ôn lại Bài 1-3, sau đó trả lời những câu hỏi trong phần Đánh giá Tiến trình
Học tập theo Đơn vị 1.
Những Từ Then Chốt
xức dầu
người cầu thay
ăn năn
kinh sách
người diễn giải
khải thị, sự
cáo trách, sự
người hòa giải
công bình, sự
mở trí
an ủi
ấn chứng
cơ nghiệp
cứu chuộc, sự
xướng ngôn viên
hà hơi
tái sanh, sự
lời phát biểu
Khai Triển Bài Học
NGÀI BẮT PHỤC
Mục tiêu 1: Nhận diện những câu đúng liên quan đến chức vụ của Đức
Thánh Linh trong việc cáo trách thế gian về tội lỗi, về sự công bình và về sự
phán xét .
Công tác đầu tiên của Đức Thánh Linh trong con người được Chúa Giê-xu
giải thích khi Ngài hứa ban cho các môn đệ một Đấng Giúp đỡ. Đây là
những lời của Ngài:
Dầu vậy, ta nói thật cùng các ngươi: Ta đi là ích lợi cho các ngươi; vì nếu ta
không đi, Đấng Yên-ủi sẽ không đến cùng các ngươi đâu; song nếu ta đi, thì
ta sẽ sai Ngài đến. Khi Ngài đến thì sẽ khiến thế gian tự cáo về tội lỗi, về sự
công bình và về sự phán xét. Về tội lỗi, vì họ không tin ta; về sự công bình,
vì ta đi đến cùng Cha, và các ngươi chẳng thấy ta nữa; về sự phán xét, vì vua
Chúa thế gian này đã bị đoán xét. (GiGa 16:7-11).
Thế gian đã tự lập lên cho mình những tiêu chuẩn về tội lỗi và sự công bình ,
và điều nầy dường như họ chối bỏ sự cảnh cáo của Đức Chúa Trời về sự
phán xét . Chỉ bởi tình yêu vĩ đại của Đức Chúa Trời đối với con người mà
Ngài ban Đức Thánh Linh để cáo trách tội nhân về những việc làm tội lỗi
của họ. Đức Thánh Linh làm việc trong lòng người không tin để khiến họ
quay về cùng Chúa, nhưng Ngài sử dụng những tín hữu để làm chứng cho
những người chưa tin về Chúa Giê-xu và sống một cuộc đời thánh khiết
trước mặt họ. Vì vậy chúng ta có thể nói rằng qua tín hữu Đức Thánh Linh
lên án thế gian về tội lỗi, về sự công bình và về sự phán xét. Ngài là Đấng
giúp đỡ chúng ta trong việc đem những tội nhân về với Đấng Christ.
Về Tội Lỗi
Khi tôi kêu gọi trong một buổi truyền giáo, một bé gái nhỏ 8 tuổi rất xinh
đẹp đã đáp lời. Em quì xuống với đôi dòng nước mắt tuôn trào và cầu
nguyện rằng: “Lạy Đức Chúa Trời, con là một tội nhân ghê tởm!”
Tôi không biết cô bé có phạm tội gì mà thế gian gọi là “ghê tởm” hay không,
tuy nhiên Đức Thánh Linh đã chỉ cho cô thấy vẻ đẹp của Chúa Giê-xu, và cô
đã thốt lên nhu cầu cần được cứu của mình. Thế gian thường không xem sự
không tin vào Đức Chúa Trờilà một tội thật sự và chối bỏ món quà vô giá
của Con Ngài, và đó là tội lớn hơn hết thảy. Chính Đức Thánh Linh bày tỏ
cho cô gái nhỏ thấy được tình trạng tội lỗi của mình. Chỉ có Đức Thánh Linh
mới có thể đem con người đối diện với thực trạng của mình và sự chối bỏ
Đấng Christ làm Cứu Chúa. Và cũng chỉ có Đức Thánh Linh mới có thể cáo
trách tội nhân để họ chạy đến với Đấng Christ, ăn năn và tìm sự tha thứ cho
tội lỗi của họ. Nhiều khi Đức Thánh Linh cáo trách tội nhân khi họ lắng
nghe sứ điệp Phúc âm (Cong Cv 2:14-41). Hoặc trong những lần khác, sự
cáo trách đến khi một tội nhân nghe lời chứng của một tín hữu được Thánh
Linh xức dầu, là người đã tiếp nhận Đấng Christ làm Cứu Chúa của mình.
1 Đức Thánh Linh khiến thế gian tự cáo về tội lỗi bằng cách:
a) ban cho những người chưa tin sự hướng dẫn trong những vấn đề thuộc
linh.
b) giới thiệu Chúa Giê-xu như là tấm gương của một đời sống làm đẹp lòng
Đức Chúa Trời (như Ngài đòi hỏi).
c) khiến tội nhân nhận thức sự không xứng đáng của họ khi nhận sự thương
xót của Đức Chúa Trời.
Về Sự Công Bình
Chúa Giê-xu phán rằng Đức Thánh Linh sẽ cáo trách (hay bắt phục) thế gian
về sự công bình vì Ngài sẽ đi về cùng Cha.
Việc Chúa Giê-xu đi về cùng Cha là bằng chứng cho thấy rằng những gì
Ngài đã nói về chính Ngài là thật. Nếu Ngài không phải là Đấng Công bình,
thì Ngài chết cho tội lỗi của chính Ngài chứ không phải của chúng ta. Thân
thể Ngài sẽ phải nằm trong phần mộ và bị tan rã như bao tội nhân khác.
Nhưng Ngài là Đấng Công bình, Ngài đã trả giá thay cho tội lỗi của chúng
ta, Ngài sống lại từ trong kẻ chết, và Ngài đi về cùng Cha. Đây là lý do
Phierơ giới thiệu những lẽ thật nầy cách mạnh mẽ trong ngày Lễ Ngũ Tuần
(Cong Cv 2:14-41).
Sứ đồ Phao-lô dạy trong RoRm 1:4 rằng Chúa Giê-xu “theo Thần linh của
thánh đức, thì bởi sự sống lại của Ngài từ trong kẻ chết, được tỏ ra là Con
Đức Chúa Trời có quyền phép”. Chính Thần linh của thánh đức làm chứng
cho sự công bình của Chúa Giê-xu Christ. Ngài tôn vinh Đấng Christ bằng
cách giải bày những sự thuộc về Đấng Christ cho thế gian (GiGa 16:14).
2 Theo sách công vụ, hai câu nào trong những câu sau là bằng chứng về sự
công bình của Đức Chúa Giê-xu Christ?
a) Sự dạy dỗ của Ngài
b) Sự chết của Ngài trên thập tự giá
c) Sự sống lại của Ngài từ trong kẻ chết
d) Sự trở về cùng Cha của Ngài
e) Chức vụ của Ngài giữa con người
Về Sự Phán Xét
Sự phán xét mà Đức Thánh Linh dùng để cáo trách con người rằng họ chắc
chắn sẽ bị phán xét ấy là sự phán xét Sa-tan. Chúa Giê-xu đã đánh bại Sa-
tan, chiến thắng địa ngục và mộ phần, là tất cả những gì cần thiết để chứng
minh rằng sự phán xét sau cùng là điều chắc chắn.
Nếu sự rao giảng về sự phán xét không bày tỏ tình yêu và sự quan tâm của
Đức Thánh Linh, không nhấn mạnh đến sự chiến thắng của Đấng Christ, thì
nó chỉ làm cho con người càng cách xa Đức Chúa Trời mà thôi. Chúa Giê-
xu đã rất đau đớn khi Ngài cảnh cáo thành Giê-ru-sa-lem về sự phán xét sẽ
đến, Ngài chẳng bao giờ lấy làm vui khi những kẻ chống đối Ngài chịu hình
phạt (Mat Mt 23:37-38).
Trong sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chúng ta có thể tìm thấy những cách mà
Đức Thánh Linh xử dụng các sứ đồ để cáo trách con người về tội lỗi, về sự
công bình và về sự phán xét. Sứ đồ Phierơ trong ngày Lễ Ngũ Tuần đã rao
giảng về điều này cho dân chúng (Horton, 1976, tr 127). Đây là những gì đã
xảy ra:
Có sự cáo trách tội bởi vì những gì họ đã làm cho Chúa Giê-xu do lòng vô
tín của họ (Cong Cv 2:22-23).
Có sự cáo trách về sự công bình khi dân chúng nhận biết rằng Đức Chúa
Trời không để cho Đấng Thánh của Ngài thấy sự hư nát, nhưng khiến Ngài
sống lại và ngồi bên hữu ngai của Ngài (2:27, 30-33, 36).
Có sự cáo trách về sự phán xét: “Phierơ lại lấy nhiều lời giảng nữa mà giục
lòng và khuyên lơn chúng rằng: Các ngươi khá cứu mình thoát khỏi giữa
dòng dõi gian tà này !”(2:40).
Kết quả là trước tiên dân chúng bắt đầu cảm thấy tuyệt vọng. Rồi thì họ ăn
năn và tin nhận sứ điệp của Phierơ. Có khoảng 3000 người được cứu thêm
vào Hội thánh.
Những thí dụ khác được tìm thấy trong 3:14-21; 4:10-12; 10:39-42 và 13:27-
41.
Ngày hôm nay Đức Thánh Linh vẫn là Đấng Giúp Đỡ chúng ta đem sứ điệp
cứu rỗi đến cho thế gian. Ngài sẽ xử dụng chúng ta để cáo trách con người
về tội lỗi, về sự công bình và về sự phán xét.
3. Khoanh tròn các ký tự trước những câu ĐÚNG mô tả công tác của Đức
Thánh Linh trong việc cáo trách thế gian về tội lỗi, về sự công bình và về sự
phán xét dựa trên phần đã thảo luận.
a. Tội đem lại sự phán xét sau cùng là tội vô tín.
b. Sự phán xét mà Đức Thánh Linh cáo trách chúng ta là sự phán xét tội
nhân.
c. Sự phục sinh của Đấng Christ là bằng chứng cho sự công bình của Ngài.
d. Công tác của Đức Thánh Linh đối với thế gian chủ yếu là do những tín
hữu làm chứng bởi đời sống và lời chứng của họ.
e. Việc Chúa Giê-xu nhấn mạnh sự phán xét có nghĩa là tội nhân đáng bị
phán xét.
NGÀI TÁI SANH
Mục tiêu 2: Kể ra ba điều mà Đức Linh làm cho chúng ta khi chúng ta tiếp
nhận sự cứu rỗi .
Trong bài học sau chúng ta sẽ thảo luận kỹ hơn về công tác tái sinh của Đức
Thánh Linh. Tuy nhiên nó được nói đến trong bài học nầy để cho thấy phần
xa hơn trong chức vụ của Đức Thánh Linh khi Ngài là Người Bạn giúp đỡ
của chúng ta qua sự cáo trách về tội lỗi, về sự công bình và về sự phán xét
bởi vì Ngài là Bạn Hữu, là Giáo Sư và là Người Hướng Dẫn của chúng ta.
Trước khi chúng ta kinh nghiệm được sự giúp đỡ của Đấng An-ủi trong đời
sống hằng ngày của chúng ta, chúng ta phải kinh nghiệm được sự tái sanh.
Nói đến sự tái sanh chúng ta có ý nói đến “sự sanh lại”. Đây là điều sẽ xảy
ra khi chúng ta từ bỏ tội lỗi và tiếp nhận Đức Chúa Giê-xu Christ làm Chúa
và Cứu Chúa. Chính Đức Thánh Linh hành động thay cho Cha và Con, ban
sự sống thuộc linh cho tội nhân ăn năn (GiGa 3:3-8; 6:63; Tit Tt 3:4-5).
Trong giây phút được tái sanh, Đức Thánh Linh ngự trong chúng ta; ấy là,
Ngài sống trong chúng ta và luôn hiện diện để giúp đỡ chúng ta (GiGa
14:16-17).
4. Đọc RoRm 8:9, 11; ICo1Cr 3:16; 6:19 và giải thích lẽ thật của những
đoạn Kinh thánh nầy bằng cách hoàn chỉnh câu sau:
Trong giây phút chúng ta tiếp nhận Đấng Christ làm Cứu Chúa của mình,
Đức Thánh Linh ..........................................................
Sau khi đem chúng ta vào sự sống tâm linh, Đức Thánh Linh cư trú trong
mỗi tín hữu. Khi Ngài ngự trong chúng ta, Ngài là ấn chứng của Đức Chúa
Trời - là của cầm bảo đảm cho cơ nghiệp thuộc linh trong tương lai của
chúng ta:
Ấy lại cũng trong Ngài mà anh em sau khi đã nghe đạo chơn thật, là đạo tin
lành về sự cứu rỗi anh em, ấy là trong Ngài mà anh em đã tin và được ấn
chứng bằng Đức Thánh Linh là Đấng Chúa đã hứa, Đấng ấy làm của cầm về
cơ nghiệp chúng ta, cho đến kỳ chuộc lấy những kẻ mà Ngài đã được để
khen ngợi sự vinh hiển Ngài (Eph Ep 1:13-14).
5. Dựa trên nền tảng trong GiGa 14:1-3; Eph Ep 1:12-13 và IICo 2Cr 1:22,
Đức Thánh Linh được gọi là của cầm của chúng ta bởi vì:
...........................................................................................................................
...................................................................................
Ấn chứng của Đức Thánh Linh tượng trưng cho sự an ninh mà chúng ta có
trong Ngài khi Ngài kiểm soát cuộc đời chúng ta. Nó cũng xác chứng cho
quyền làm con của chúng ta, nghĩa là chúng ta sẽ được hưởng cơ nghiệp của
Cha trên trời (RoRm 8:15-17; GaGl 4:6).
Vì vậy Đức Thánh Linh bắt đầu sự sống thuộc linh trong chúng ta trong kinh
nghiệm tái sinh. Khi Ngài ở trong chúng ta, Ngài là Đấng kiểm soát cuộc đời
chúng ta. Sự hiện diện của Ngài mang lại cho chúng ta lòng can đảm. Ngài
làm cho quyền làm con của chúng ta có ý nghĩa bởi 1) xác chứng cho tính
chân thật của nó (RoRm 8:16), 2) đặt để trong chúng ta niềm hy vọng khi
chúng ta nhìn về cơ nghiệp tương lai được dành sẵn cho chúng ta, 3) cầu
nguyện và cầu thay cho chúng ta để chúng ta có thể cầu nguyện theo ý muốn
của Đức Chúa Trời (RoRm 8:16-17), và 4) nhắc nhở chúng ta rằng công tác
của Ngài trong đời sống chúng ta là ấn chứng của sự hiện diện của Đức
Chúa Trời là điều mang lại sự giúp đỡ để chúng ta duy trì một đời sống
thuộc linh đẹp lòng Đức Chúa Trời.
6. Kể tên ba điều chúng ta đã thảo luận trong phần này mà Đức Thánh Linh
làm cho chúng ta trong giây phút chúng ta được tái sinh.
.......................................................................................................
NGÀI DẠY DỖ
Mục tiêu 3: Xác định điều mà Chúa Giê-xu muốn nói khi Ngài bảo rằng Đức
Thánh Linh sẽ dạy chúng ta “mọi sự ”.
Truyền đạt lẽ thật cho tín hữu là một trong những phương cách quan trọng
mà Đức Thánh Linh dùng để giúp đỡ con người. Đây là lý do Chúa Giê-xu
gọi Thánh Linh là Thần lẽ thật trong cùng một câu với danh hiệu Người Cố
Vấn hay Đấng An-ủi (GiGa 14:16-17). Dạy dỗ và hướng dẫn gắn liền với
chức vụ của Đức Thánh Linh. Hãy nhớ rằng đây là chức vụ đối với tín hữu .
Người Hướng Dẫn
Như Chúa Giê-xu đến để giải bày bản tánh và ý muốn của Đức Chúa Cha,
Đức Thánh Linh cũng đến để giải bày bản tánh và ý muốn của Chúa Giê-xu
(GiGa 14:20-21, 23-26). Một cách Ngài thực hiện điều này thời xưa là hàn
hơi trên các môn đệ của Chúa Giê-xu để họ chép lại cuộc đời và chức vụ của
Chủ mình. Đó là những sách Phúc âm: Mathiơ, Mác, Lu-ca và Giăng.
Đức Thánh Linh sẽ dạy dỗ bằng cách nào? Trước hết, Ngài tôn vinh Đấng
Christ . Ngài không dạy một khối lượng kiến thức hoàn toàn mới mẽ; nhưng
chiếu rọi ánh sáng trên những gì Đấng Christ đã dạy dỗ, làm cho người nghe
thông hiểu lẽ thật. Khi tín hữu càng trưởng thành về mặt thuộc linh, họ sẽ có
thể gánh vác những trách nhiệm nặng nề hơn. Họ sẽ thay sữa bằng thức ăn
cứng (ICo1Cr 3:2; Hêbơrơ 5:11-14;). Trong khi chế độ ăn thuôc linh thay
đổi, thì Đấng Christ là chủ thể, vẫn cứ y nguyên.
Đấng An-ủi không bỏ xót điều gì quan trọng để bạn hiểu biết về Đấng
Christ. Chúa Giê-xu hứa rằng: “Đấng ấy sẽ dạy dỗ các ngươi mọi sự” (GiGa
14:26). Bạn sẽ boăn khoăn tự hỏi rằng: “Vậy thì có quan tâm đến công việc,
gia đình cũng như hoàn cảnh sống của tôi không?” Vâng, Đức Chúa Trời có
quan tâm! Tuy nhiên Chúa Giê-xu dạy chúng ta phải họcbiết được sự ưu
tiên: “Nhưng trước hết hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình
của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều (những nhu cầu về vật
chất, thân thể, xã hội và nghỉ ngơi) ấy nữa”(Mat Mt 6:33). Đức Thánh Linh
dạy chúng ta biết cách xắp xếp cuộc đời chúng ta xứng hợp trong lãnh vực
thuộc linh, và rồi cùng với sự kiểm soát của Ngài trên đời sống chúng ta,
Ngài hướng dẫn chúng ta trong những lãnh vực khác của cuộc sống. Chính
Đức Thánh Linh bày tỏ cho chúng ta những điều sâu nhiệm của Đức Chúa
Trời và giúp đỡ chúng ta hiểu được những điều thuộc linh (ICo1Cr 2:10-15).
Trong tất cả những điều này, mục đích của Ngài là tôn vinh Đấng Christ.
Stanley M. Horton nói rằng: “Đức Thánh Linh luôn luôn giải bày Chúa Giê-
xu như tất cả những gì Kinh thánh nói về Ngài” (1976,tr 121).
Thứ hai, Đức Thánh Linh sẽ dạy chúng ta hiểu biết về những việc trong
tương lai . Chúa Giê-xu phán: “Ngài ... sẽ tỏ bày cho các ngươi những sự sẽ
đến” (GiGa 16:13). Lời hứa nầy trở nên rõ rằng hơn khi sứ đồ Giăng được
linh cảm trong Ngày của Chúa và được ban cho sự mặc khải của Đức Chúa
Giê-xu Christ (KhKh 1:10). Giăng được bảo rằng những điều này sẽ được
ứng nghiệm . Sự khải thị bao gồm những việc sẽ xảy ra từ thế kỷ thứ nhất
sau Chúa cho đến thời kỳ Trời Mới và Đất Mới (KhKh 21:1-20). Phao-lô,
cùng được linh cảm như vậy, đã nói tiên tri về sự hiện đến của
Chúa(1Têsalônica 4: 13-18), những sự kiện chung quanh sự hiện đến của
Ngài (ITe1Tx 5:1-11), sự phán xét của Đức Chúa Trời trên những kẻ không
tin (2Tês 1:5-12;), và sự xuất hiện của kẻ vô luật pháp (IITe 2Tx 2:1-12).
Phierơ cũng nói về ngày hiện đến của Chúa (IIPhi 2Pr 3:1-13). Điểm chung
mà chúng ta thấy trong tất cả những sự kiện nầy là sự Khải thị về sự vinh
hiển của Đức Chúa Giê-xu Christ.
7 Chủ đề trong suốt sách Khải thị là gì?
a) Sự phán xét tội nhân
b) Vinh hiển của Đức Chúa Giê-xu Christ
c) Những chiến thắng cuối cùng của Sa-tan
8 Dựa trên phần đã thảo luận, khi Chúa Giê-xu bảo rằng Đức Thánh Linh sẽ
dạy chúng ta “mọi điều”, Ngài muốn nói đến điều gì? Khoanh tròn ký tự
trước những câu trả lời bạn chọn.
a) Tất cả những gì Đức Chúa Trời muốn chúng ta biết về Ngài
b) Tất cả những gì chúng ta cần biết về công tác của chúng ta
c) Những sự kiện khoa học về cuộc sống trong tương lai của chúng ta trên
đất
d) Tất cả những gì Đức Chúa Trời muốn chúng ta biết về Chúa Giê-xu
e) Những điều thuộc về Đức Thánh Linh giúp chúng ta tôn vinh Đấng Christ
f) Những sự kiện trong tương lai liên hệ đến sự sống thuộc linh của chúng ta
g) Làm thế nào để thành công về mặt tài chánh
h) Làm thế nào để cáo trách thế gian về tội lỗi, về sự công bình và về sự
phán xét
Đấng Dạy Dỗ
Mục tiêu 4: Mô tả vai trò liên quan đến Kinh thánh của Đức Thánh Linh .
Khi các sách Tin lành được viết ra, Đức Thánh Linh bắt đầu chức vụ dạy dỗ
của Ngài. Sứ đồ Phao-lô là người được chọn để cắt nghĩa các sách Phúc âm
cho Hội thánh. Chức vụ sứ đồ của ông là một phần quan trọng của Thánh
Kinh Tân ước tiếp theo các sách Phúc Âm và sách Công Vụ Các Sứ Đồ.
Những sứ đồ khác và những người tin Kinh thánh Tân ước đều được Đức
Thánh Linh hà hơi và lấy điều thuộc về Đấng Christ mà rao bảo (GiGa
16:14). Vậy thì đều này xảy ra như thế nào?
Thơ Phierơ thứ hai chương 1 câu 20-21 và IITi 2Tm 3:16 bày tỏ cơ cấu của
sự khải thị Kinh thánh. Những sự nghiên cứu Kinh thánh cho thấy rằng Đức
Thánh Linh hà hơi trên những người ghi lại Lời của Đức Chúa Trời được
ban cho họ. Không phải những trước giả Kinh thánh đã khởi xướng việc ghi
chép, mà họ nói và viết lại Lời của Đức Chúa Trời cách chân thật theo như
điều Đức Thánh Linh thúc đẩy họ. Những sinh viên nghiên cứu Lời của Đức
Chúa Trời cách nghiêm túc sẽ nhận thấy rằng trong khi Kinh thánh là Lời
của Đức Chúa Trời, nó được ghi lại theo phong cách và từ ngữ riêng của
mỗi tác giả, và trong một số trường hợp, kinh nghiệm của tác giả được biểu
lộ qua Kinh thánh. Các tác giả không phải là những người máy; họ rất nhạy
bén với Thánh Linh của Đức Chúa Trời và ghi chép cách chính xác lại sứ
điệp của Đức Chúa Trời, cống hiến tài năng của họ vào trong tiến trình này.
Mặc dù sự ghi chép Kinh thánh đã chấm dứt, và tất cả những gì Đức Chúa
Trời muốn bày tỏ điều đã được ghi lại, Đức Thánh Linh vẫn tiếp tục chức vụ
dạy dỗ của Ngài. Ngài lấy những điều đã được ghi chép trong Kinh thánh và
soi sáng chúng (làm cho chúng trở nên rõ ràng hơn) cho tấm lòng và tâm trí
của mỗi tín hữu.
Cách tốt nhất để hiểu một quyển sách là hỏi chính tác giả của cuốn sách ấy ý
nghĩa của những gì ông đã viết ra. Vấn đề là, những tác giả bên cạnh chúng
ta thì không có nhiều, nhưng Đức Thánh Linh thì có. Tất cả những tác giả
Kinh thánh đều đã chết nhiều thế kỷ trước đây. Tuy nhiên thật được an ủi
biết bao khi biết rằng Vị Tác giả thiên thượng ở với chúng ta đời đời! Mỗi
khi bạn mở Kinh thánh ra, Đấng Giúp Đỡ cá nhân của bạn ở cạnh bạn để
giúp đỡ bạn hiểu biết Kinh thánh.
9 Dựa trên những đoạn Kinh thánh đã học, câu nào là câu mô tả đúng nhất
về vai trò của Đức Thánh Linh trong việc ghi chép Kinh thánh?
a) Đức Thánh Linh khiến con người viết ra những gì Ngài mặc khải trong
cùng một văn phong, từ ngữ và hình thức trình bày để mỗi phần trong Kinh
thánh đều giống như các phần khác.
b) Khi Đức Thánh Linh giáng trên những người thánh của Đức Chúa Trời,
họ rơi vào trạng thái xuất thần. Trong vô thức, họ chỉ ghi chép lại những gì
được đọc cho. Trong chiều hướng này, Đức Thánh Linh không xử dụng văn
phong, từ ngữ hoặc hình thức trình bày của tác giả.
c) Đức Thánh Linh thúc đẩy những người được chọn của Đức Chúa Trời để
nói tiên tri. Khi Đức Thánh Linh giáng trên họ, họ trung tín ghi chép lại sứ
điệp của Đức Chúa Trời. Trong tiến trình truyền đạt sứ điêp đó, Đức Thánh
Linh xử dụng văn phong, từ ngữ và kinh nghiệm của mỗi tác giả.
Mục tiêu 1: Giải thích tại sao trong Công Cuộc Sáng Tạo trong Sáng Thế Ký
không đưa ra những chi tiết đặc biệt hơn về sự liên quan của Đức Chúa Con
và Đức Thánh Linh trong Sự Sáng Tạo .
“Ban đầu Đức Chúa Trời . . .”(SaSt 1:1). Những từ ngữ mở đầu Kinh thánh
trong ngôn ngữ Hê-bơ-rơ sử dụng một danh xưng số nhiều để chỉ về Đức
Chúa Trời. Mặc dù Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh không được nhắc đến
cách đặc biệt, Ba Ngôi Đức Chúa Trời vẫn được nhắc đến cách tổng quát.
Giáo lý Ba Ngôi là một phần trong sự mặc khải của Đức Chúa Trời về chính
Ngài mà giáo lý này không được giải thích kỷ cho đến khi Kinh thánh Tân
ước được viết ra.Vào thời gian Môi-se viết Ngũ kinh (năm sách đầu của
Kinh thánh Cựu ước), rất nhiều người tin vào thuyết đa thần. Sự mặc khải về
Ba Ngôi Đức Chúa Trời vào thời điểm đó sẽ chỉ đem đến sự lầm lẫn mà
thôi. Đức Chúa Trời biết rằng con người chưa sẵn sàng nhận lấy lẽ thật nầy,
vì vậy Ngài không bày tỏ lẽ thật ấy. Tuy nhiên sự tự mặc khải của Ngài cứ
tiếp tục tăng lên bởi vì Ngài biết chính xác phải bày tỏ vào lúc nào. Vì vậy
Công Cuộc Sáng Tạo trong sách Sáng Thế Ký không đề cập từng chi tiết về
công tác tạo dựng của Đức Chúa Trời. Những đoạn Kinh thánh khác giúp
chúng ta hiểu được vai trò của từng Ngôi vị của Ba Ngôi Đức Chúa Trời
trong kế hoạch sáng tạo cũng như trong kế hoạch cứu rỗi.
Sách Sáng Thế Ký ghi lại rất nhiều sự khởi đầu: về sự sáng tạo, về con
người, về tội lỗi, về sự phán xét, và về sự cứu rỗi. Tuy nhiên chỉ hai chương
đầu nói đến Sự Sáng Tạo. Công Cuộc Sáng Tạo được ghi lại cách ngắn gọn
để làm nền tảng cho những sự kiện ban đầu trong lịch sử con người mà
chúng dẫn đến nhu cầu cần được cứu rỗi của họ.
Ngay cả trước Sự Sáng Tạo thì Đức Chúa Trời đã biết điều gì sẽ xảy ra với
sự tạo dựng của Ngài. Ngài biết trước rằng con người sẽ phạm tội, và Ngài
đã chuẩn bị một chương trình cứu rỗi cho con người. Một vài đoạn Kinh
thánh cho chúng ta thấy điều này:
1. KhKh 13:8 nói đến sách sự sống của Chiên Con (Chúa Giê-xu) đã chịu
chết trong buổi sáng thế.
2. Eph Ep 1:4 cho chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời chọn chúng ta trong
Đấng Christ trước khi tạo dựng trời đất.
3. Mat Mt 25:34 nói đến một vương quốc được chuẩn bị cho những kẻ trung
tín từ khi sáng tạo thế giới.
Một vài đoạn Kinh thánh khác xác định sự hiện hữu đời đời của Đức Chúa
Trời Tam Nhất. Do đó, chúng ta biết rằng Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và
Đức Thánh Linh, Đấng luôn hành động trong sự hiệp nhất trọn vẹn, đã cùng
đưa ra kế hoạch và cùng thực hiện Công Cuộc Sáng Tạo. Hãy cùng xem một
số đoạn Kinh thánh nầy:
1. Tác giả Thi Tv 90:2 nói rằng: “Trước khi núi non chưa sanh ra, đất và thế
gian chưa dựng nên; Từ trước vô cùng cho đến đời đời, Chúa là Đức Chúa
Trời”. Đây là đoạn Kinh thánh nói lên sự hiện hữu từ trước vô cùng của Đức
Chúa Cha .
2. Sứ đồ Giăng tuyên bố sự hiện hữu từ trước vô cùng của Đức Chúa Con
trong GiGa 1:1 “Ban đầu có Ngôi-Lời, Ngôi-Lời ở cùng Đức Chúa Trời,
Ngôi-Lời là Đức Chúa Trời. Ban đầu Ngài ở cùng Đức Chúa Trời.” Rồi
Giăng tiếp tục nói rằng: “Ngôi-Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy
ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh
hiển của Con Một đến từ nơi Cha” (GiGa 1:14). Đức Chúa Con đã cùng hiện
diện với Đức Chúa Cha trong Công Cuộc Sáng Tạo.
3. HeDt 9:14 ám chỉ về sự hiện diện của Đức Thánh Linh trong Công Cuộc
Sáng Tạo. Ngài được gọi là Đức Thánh Linh đời đời . Ngài không có khởi
đầu cũng không có kết thúc, và Ngài đã hiện diện với Cha và Con trong
Công Cuộc Sáng Tạo. Sự hiện hữu từ trước vô cùng của Đức Thánh Linh
được câu Kinh thánh nầy xác nhận qua bản tính đời đời của Ngài.
Đức Cha, Đức Con và Đức Thánh Linh đã cùng hiện hữu từ ban đầu. Đức
Chúa Trời Tam Nhất, Đấng bảo tồn muôn vật, là “khởi nguyên của khởi
nguyên” - nghĩa là, Ngài đã luôn luôn hiện hữu và sẽ luôn luôn hiện hữu.
Tâm trí hạn hẹp của chúng ta không thể hiểu đầy đủ về lẽ thật này, bởi vì
chúng ta bị chi phối bởi thời gian. Tuy nhiên Đức Chúa Trời là Đấng vượt
lên trên thời gian. Trước buổi ban đầu được nói đến trong SaSt 1:1, Đức
Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh bởi sự hiệp nhất trọn vẹn đã
đưa ra kế hoạch Sáng thế cũng như kế hoạch Cứu rỗi.
1. Dựa trên bài học, hãy nêu lên lý do tại sao sách Sáng Thế Ký không đề
cập chi tiết về Ba Ngôi Đức Chúa Trời.
...........................................................................................................................
...................................................................................
2. Đọc Sáng Thế Ký chương 1 và trả lời những câu hỏi sau:
a. Đức Chúa Trời được nhắc đến bao nhiêu lần trong chương
nầy? ..................... Đức Thánh Linh ? ...................... Đức Chúa Con?
b. Chúng ta tin rằng câu 1 ám chỉ về Ba Ngôi Đức Chúa Trời bởi vì danh
xưng số nhiều được xử dụng ở đây. Ngoài ra, câu Kinh thánh nào khác chỉ
về Ba Ngôi? ...................................................
Những Đấng Đồng-Tạo Hóa
Mục tiêu 2: Mô tả những phương cách mà qua đó Đức Chúa Cha, Đức Chúa
Con và Đức Thánh Linh dự phần trong Công Cuộc Sáng Tạo .
Kinh thánh mô tả cách rõ ràng rằng Công Cuộc Sáng Tạo được cả Ba Ngôi
Đức Chúa Trời cùng tham gia.
1. Các tín hữu tại Hội thánh đầu tiên đã cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời
rằng: “Lạy Chúa là Đấng dựng nên trời, đất , biển cùng muôn vật trong
đó”(Cong Cv 4:24). Hiển nhiên, đây là lời cầu nguyện cùng Đức Chúa Cha
của họ.
2. Trong phần mở đầu của sách Phúc âm Giăng, tác giả đã nói về Đức Chúa
Con như vầy: “Muôn vật bởi Ngài làm nên, chẳng vật chi đã làm nên mà
không bởi Ngài” (GiGa 1:3). Rõ rằng rằng Đức Chúa Giê-xu cũng dự phần
trong Công Cuộc Sáng Tạo.
3. Trong một bài ca của Thi thiên, Sự Sáng Tạo được mô tả như là một công
tác của Đức Thánh Linh. Tác giả Thi Tv 104:30 nói rằng: “Chúa sai Thần
Chúa ra, chúng nó được dựng nên; Chúa làm cho mặt đất ra mới.” Tại đây,
chúng ta không chỉ thấy Đức Thánh Linh dự phần trong sự tạo dựng trời đất,
mà Ngài còn bảo tồn chúng nữa.
TỪ ĐỨC CHÚA CHA QUA ĐỨC CHÚA CON BỞI ĐỨC THÁNH LINH
Công Cuộc Sáng Tạo là kết quả của một sự kết hợp trọn vẹn giữa Đức Chúa
Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh. Chúng ta không thể hiểu hết điều
nầy xảy ra như thế nào. Stanley Horton nói rằng: “Đức Chúa Cha là Đấng
Tạo Hóa. Ngài tạo dựng mọi vật qua Đức Chúa Con và bởi Đức Thánh Linh.
Sự huyền nhiệm này không được Kinh thánh giải bày cách chi tiết. Điều
quan trọng ấy là Ngài là Đấng Tạo Hóa và chúng ta là những tạo vật của
Ngài”(Horton, Đức Thánh Linh , tr.52).
Chúng ta sẽ thấy rằng Đức Thánh Linh giữ một vai trò chủ động trong Công
Cuộc Sáng Tạo. Ngài được đề cập cách đặc biệt đó là vận hành bởi quyền
năng sáng tạo của Ngài, là đặc tính tể trị trong số các hoạt động của Ngài.
(Xem Giop G 33:4; Thi Tv 104:30; GiGa 6:63 và cũng trong RoRm 8:11
liên hệ quyền năng ban sự sống của Đức Thánh Linh .)
3. Mặc dù Công Cuộc Sáng Tạo trong sách Sáng Thế Ký không nhấn mạnh
về việc cả Ba Ngôi Đức Chúa Trời đều dự phần trong Công Cuộc Sáng Tạo,
làm sao chúng ta biết được rằng cả Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức
Thánh Linh đều đồng công trong Sự Sáng Tạo?
...........................................................................................................................
...................................................................................
TẠO DỰNG THẾ GIỚI
Mục tiêu 3: Phân biệt những quan điểm đúng và sai lầm dựa trên những sự
kiện trong Công Cuộc Sáng Tạo .
Trong số các học giả Kinh thánh, nhiều người đã đưa ra những thuyết giải
thích sự trống không và sự mờ tối bao phủ trên đất trước khi Sự Sáng Tạo
bắt đầu. Bởi vì Lời của Đức Chúa Trời không bày tỏ nguyên nhân cho chúng
ta, vì vậy, chúng ta chỉ có thể phỏng định điều gì đã xảy ra mà thôi, do đó,
chúng ta sẽ không cố gắng bàn luận đến điều này. Qua Kinh thánh chúng ta
biết rằng đã có sự trống không mà chỉ có Thánh Linh của Đức Chúa Trời
mới có thể biến đổi thành sự đầy trọn và đẹp đẽ sau này.
Vận Hành Trên Mặt Nước
Vả, đất là vô hình và trống không, sự mờ tối ở trên mặt vực; Thần của Đức
Chúa Trời vận hành trên mặt nước (SaSt 1:2).
Câu Kinh thánh trên mô tả Thánh Linh đang bay lượn trong vũ trụ trước khi
sáng thế. PhuDnl 32:11 cũng xử dụng từ ngữ này để mô tả một con chim mẹ
vỗ cánh bay lượn cách mạnh mẽ trên những con nhỏ của mình để bảo vệ
chúng. Năng lực siêu nhiên của của Ngôi Thứ Ba trong Ba Ngôi Đức Chúa
Trời được bày tỏ ở đây như là đã sẵn sàng để thực hiện Công Cuộc Sáng Tạo
của Đức Chúa Trời. Chính Ngài đã thực thi những mạng lịnh sáng tạo và
Ngài được xem như là một tác nhân của Sự Sáng Tạo.
Mạng lịnh thứ nhất là: “Phải có sự sáng” (SaSt 1:3). Lập tức có sự sáng, và
điều đó là tốt lành.
Mạng lịnh thứ hai là: “Phải có một khoảng không ở giữa nước đặng phân rẽ
nước cách với nước”(1:6). Những màng sương mù bay lên tạo thành những
đám mây trên mặt nước do sự tác động của Đức Thánh Linh. Một bản dịch
Kinh thánh đã dịch Giop G 26:13 như vầy: “Bởi hơi thở của Ngài(Đức
Thánh Linh) mà các từng trời được điểm tô.”
Và mạng lịnh thứ ba được ban ra: “Những nước ở dưới trời phải tụ lại một
nơi, và phải có chổ khô cạn bày ra”(SaSt 1:9). Các đại dương dồn lại dứi
năng lực toàn năng của Thánh Linh Đức Chúa Trời tác động trên chúng.
Những đại lục xuất hiện và trở nên khô ráo.
4. Từ ngữ nào mô tả đúng nhất về sự đồng công của Đức Thánh Linh trong
việc phân rẽ nước?
a) Nghỉ ngơi
b) Chờ đợi
c) Ra lịnh
d) Quyền năng
Vận Hành Trên Đất
Những mạng lịnh tiếp theo (1:11-13, 20-25) liên quan đến mặt đất mô tả
Đức Thánh Linh như là Thần Linh của Sự Sống. Trong bài học trước, chúng
ta thấy rằng đây là một trong những danh hiệu của Ngài.
Ngài vận hành trên những địa lục của trái đất, và chúng bắt đầu sinh sản ra
những loại hoa cỏ, thảo mộc thích ứng với từng điều kiện khí hậu (1:12).
Ngài vận hành trên các đại dương, sông hồ, làm cho chúng đầy dẫy những
sinh vật. Những loài chim xinh đẹp bay lượn trên bầu trời (câu 20-22). Ngài
lại vận hành trên mặt đất, ban hơi thở sự sống cho muôn loài (câu 24-25).
Tác giả Thi thiên 104 ca ngợi Đức Chúa Trời vì điều này, ông nói: “Chúa sai
Thần Chúa ra, chúng nó được dựng nên.” Hiển nhiên trong đoạn văn, từ
chúng no chỉ về những sinh vật trên đất và dưới nước (xem Thi Tv 104:24-
25).
Vẻ đẹp và sự đa dạng của những loài thảo mộc, chim chóc, muôn thú và các
loài cá dưới nước làm cho chúng ta càng kính sợ quyền năng của Đấng Tạo
Hóa. Trong viện bảo tàng Châu Phi tại thành phố Brussels, nước Belgium,
vô số những loài thảo mộc và muôn thú từ lục địa Châu Phi được trưng bày.
Một trong những vật được trưng bày thú vị nhất là hàng trăm loài côn trùng
nhiều màu sắc, đa dạng và xinh xắn. Một số loài trông giống như những viên
ngọc lấp lánh dưới ánh sáng mặt trời. Tuy nhiên, đây chỉ là một phần nhỏ
trong Công Cuộc Sáng Tạo của Đức Chúa Trời. Chính Đức Thánh Linh đã
thực thi kế hoạch của Đức Chúa Trời bởi quyền năng sáng tạo của Ngài.
5. Đọc SaSt 1:11-12, 20-25. Những câu Kinh thánh này bày tỏ rằng Đức
Chúa Trời tạo dựng
a) mọi loài thảo mộc, sinh vật dưới biển, chim chóc và muôn thú.
b) một số loài tiêu biểu và từ đó chúng tiến hóa và trở nên đa dạng.
c) một số lượng nhỏ trong mỗi loài và chúng tự sản sinh ra nhng loài khác.
Vận Hành Trên Các Từng Trời
Các từng trời được làm nên bởi Lời Đức Giê Hô Va, cả cơ binh trời bởi hơi
thở của miệng Ngài mà có (Thi Tv 33:6).
Trong câu Kinh thánh nầy tác giả đã ghi lại sự tạo dựng các từng trời là bởi
Đức Thánh Linh (hơi thở) của Đức Chúa Trời. Công Cuộc Sáng Tạo tập
trung trên đất và sự sắp đặt các thiên thể trên bầu trời (SaSt 1:14-18).
Không có sự nghiên cứu nào có thể cho thấy được quyền năng đáng kinh sợ
của Đức Chúa Trời như là ngành thiên văn học (ngành khoa học về các thiên
thể, ví dụ như các vì sao). Vũ trụ của chúng ta rộng lớn vô biên, nó vượt quá
khả năng tưởng tượng của chúng ta. Con người chúng ta chỉ như những hạt
bụi khi so với vũ trụ.
Khoảng cách trong vũ trụ vô cùng vĩ đại, những phương tiện đo lường trên
đất của chúng ta chẳng so sánh được. Ví dụ như để đo lường chiều sâu của
không gian, chúng ta phải dùng tốc độ của ánh sáng, nó đi nhanh đến
299.270 Km/giây. Nhưng khoảng cách trong không gian không được tính
bằng giây hay phút, thậm chí cũng không phải giờ hay ngày. Chúng được
tính bằng năm ánh sáng !
Vì sao ngoài hệ mặt trời gần chúng ta nhất cũng cách chúng ta bốn năm rưỡi
ánh sáng. Nói cách khác, ánh sáng của nó với tốc độ 299.270 Km/giây phải
mất bốn năm rưỡi mới có thể đến đuợc trái đất. Hiện tại, các nhà thiên văn
có thể quan sát những vì sao ở cách xa trái đất ba tỉ năm ánh sáng!
Để bạn biết con số của những ngôi sao được dựng nên bởi hơi thở (Thánh
Linh) của Đức Chúa Trời, có 100 tỉ ngôi sao trong thiên hà của chúng ta
(thiên hà là một trong những hệ thống ngôi sao). Các thiên văn gia đếm được
trên một tỉ thiên hà.
Giêrêmi khi nói về nhân loại đã nói rằng: “Người ta không thể đếm được cơ
binh trên trời, và lường cát dưới biển.” (Gie Gr 33:22). Đa-vít, đứng trước sự
diệu kỳ của sự sáng tạo, đã thốt lên rằng: “Các từng trời rao truyền sự vinh
hiển của Đức Chúa Trời, bầu trời giải tỏ công việc tay Ngài làm” (Thi Tv
19:1). Chúng ta đang phục vụ một Đức Chúa Trời quyền năng biết bao! Đức
Thánh Linh Đấng thực thi mạng lịnh của Đức Chúa Cha như một tác nhân
của Sự Sáng Tạo đang hành động trong đời sống chúng ta ngày hôm nay;
quyền năng của Ngài vẫn còn có để chúng ta thực hiện ý muốn của Đức
Chúa Cha trong thế giới mà Ngài đã tạo dựng cách diệu kỳ.
6. Khoanh tròn các ký tự trước những câu ĐÚNG liên quan đến những sự
kiện trong Sự Sáng Tạo.
a. Mỗi Ngôi Vị trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời chịu trách nhiệm cho một
phần khác nhau của Công Cuộc Sáng Tạo.
b. Sự vận hành của Đức Thánh Linh trên mặt nước trước Sự Sáng Tạo nói
lên năng lực năng động của Ngài sẵn sàng để thực thi những mạng lịnh sáng
tạo của Đức Chúa Trời.
c. Mặc dù vũ trụ rộng bao la, vượt quá sức tưởng tượng của chúng ta, chúng
chuyển động cách hài hòa với nhau.
d. Đức Chúa Trời tạo dựng nên trái, cây cối, thú vật, chim muôn và những
sinh vật dưới nước từ chổ không có gì cả.
e. Công Cuộc Sáng Tạo trong sách Sáng Thế Ký tập trung vào các từng trời
và cách chúng được tạo dựng.
f. Mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao là những thiên thể được Đức Chúa
Trời tạo dựng.
g. Một trong những điều Đức Thánh Linh đã làm trong Công Cuộc Sáng Tạo
là ban hơi sống cho các sinh vật.
TẠO DỰNG CON NGƯỜI
Mục tiêu 4: Xác định Đấng ban sự sống con người và sự sống này khác với
những sinh vật khác trong Sự Sáng Tạo như thế nào .
Được Đức Chúa Trời Định Kiểu Mẫu
“Đức Chúa Trời phán rằng: ‘Chúng ta hãy làm nên loài người như hình ta
(chúng ta) và theo tượng ta(chúng ta)’” (SaSt 1:26). Ở đây, chúng ta lại thấy
danh xưng số nhiều của Đức Chúa Trời và được đi theo bởi đại từ số nhiều.
Ba Ngôi Đức Chúa Trời đang lập kế hoạch cho một biểu hiện đặc biệt của
tình yêu thiên thượng.
Chúng ta đã xem con người như là một hạt bụi khi so với kích thước của vũ
trụ. Nhưng đối với Đức Chúa Trời thì con người là một “hạt bụi” rất đặc
biệt. Con người là sự sáng chói nhất và là đối tượng đặc biệt trong Công
Cuộc Sáng Tạo của Đức Chúa Trời.
KhKh 13:8 bày tỏ rằng sự cứu chuộc con người đã được hoạch định từ trước
buổi sáng thế. Quyết định thần thượng này (SaSt 1:26) có thể đã được quyết
định trước Công Cuộc Sáng Tạo. Chúng ta hãy thử tưởng tượng điều gì đã
xảy ra giữa Ba Ngôi Đức Chúa Trời. “Chúng ta hãy làm một sinh vật giống
như chúng ta,” Đức Chúa Cha nói, “một sinh mà nó có thể suy nghĩ, cảm
xúc và quyết định - một sinh vật thuộc linh mà chúng ta có thể tương giao -
một sinh vật mà chúng ta có thể có một mối tương giao mật thiết với chúng.”
Để thực hiện kế hoạch nầy, Đức Chúa Trời quyết định ban cho con người sự
tự do thật mà qua đó, con người có thể tiếp nhận hay chống đối lại với tình
yêu của Đấng tạo dựng mình. Bởi sự toàn tri, Đức Chúa Trời biết rằng con
người sẽ sa ngã và việc dự phòng một phương cách để con người nối lại mối
thông công với Ngài là điều cần thiết. Đức Chúa Con sẽ phải hy sinh để làm
một sinh tế tối cao, và Ngài đã sẵn sàng từ bỏ chính mình. Đức Thánh Linh
sẽ là Đấng thực hiện kế hoạch nầy. Đức Chúa Trời biết rằng sẽ có một số
người tự ý chọn lựa để theo Ngài. Những người tín hữu nầy sẽ cùng dự phần
trong bổn tánh Ngài. Trước khi sáng thế, Đức Chúa Trời đã hoạch định
chương trình cứu rỗi của Ngài.
Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài
người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người
nữ (1:27).
7 Tại sao Đức Chúa Trời hoạch định chương trình cứu rỗi ngay cả trước khi
Ngài tạo dựng con người?
...........................................................................................................................
..................................................................................
Được Đức Chúa Trời Nắn Nên
“Giê-Hô-Va Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn lên hình người”(2:7).
Những loài khác xuất hiện khi Đức Chúa Trời phán ra lời và Đức Thánh
Linh vận hành trên mặt đất.
Con người lại khác. Chính Đức Chúa Trời nắn đúc lên thân thể con người từ
bụi đất. Sự tạo dựng con người hoàn toàn khác với những loài khác. Sáng
Thế Ký chương 2 cho chúng ta những chi tiết đầy đủ hơn về Công Cuộc
Sáng Tạo trong chương 1. Trong 2:21-22 chúng ta thấy rằng sự tạo dựng con
người chấm dứt khi Đức Chúa Trời lấy một trong những xương sườn của
người nam để làm nên một người nữ.
Được Đức Chúa Trời Làm Cho Hoạt Động
Giê-Hô-Va Đức Chúa Trời ... hà sanh khí vào lỗ mũi, thì người trở nên một
loài sanh linh (2:7). Thần của Đức Chúa Trời đã sáng tạo tôi, hơi thở của
Đấng Toàn Năng ban cho tôi sự sống (Giop G 33:4).
Làm cho hoạt động có nghĩa là làm cho sống. Trước tiên Đức Chúa Trời nắn
nên thân thể. Rồi thì Đức Thánh Linh hà hơi vào, đem đến sự sống cho con
người thuộc linh ở trong thân thể. Sự sống xuất phát từ hơi thở của Đức
Chúa Trời dường như tỏ bày Đức Thánh Linh hơn là sự tạo dựng nên nó.
Những thành tố của sự tạo dựng vẫn có, tuy nhiên sự sống chỉ đến từ hơi thở
của Đấng Toàn Năng.
Trong khi chúng ta biết rằng những sự kiện trong Sự Sáng Tạo và quyền
năng của Đức Chúa Trời vượt quá sự hiểu biết của chúng ta, chúng ta vẫn có
thể an tâm mà nói rằng sự tạo dựng con người làm cho con người có một vị
trí gần gũi với Đức Chúa Trời mà chẳng có một tạo vật nào khác có được.
8. Con người nhận được sự sống vào thời điểm nào trong sự tạo dựng?
.......................................................................................................
9. Sự tạo dựng con người khác với những loài khác như thế nào?
...........................................................................................................................
...................................................................................
10. Sự khác biệt nầy cho thấy rằng, trong tất cả những tạo vật của Đức Chúa
Trời, con người làm một
a) hữu thể vật lý.
b) hữu thể linh.
c) hữu thể mà dưới con mắt của Đức Chúa Trời không quan trọng hơn
những tạo vật khác.
BẢO TỒN MUÔN VẬT
Mục tiêu 5: Xác định những đoạn Kinh thánh bày tỏ những hoạt động Đức
Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh trong việc bảo tồn Sự Sáng
Tạo .
Cả Ba Ngôi Đức Chúa Trời đều dự phần trong Công Cuộc Sáng Tạo, vì vậy,
cả Ba Ngôi cũng đều dự phần bảo tồn Sự Sáng Tạo. Có rất nhiều đoạn Kinh
thánh cho thấy Đức Chúa Trời gìn giữ dân Ngài (xem PhuDnl 6:24; Thi Tv
31:23; ChCn 2:8; ITi1Tm 4:18). Thi Tv 121:1-8 tuyên bố rằng:
Tôi ngước mắt lên trên núi: Sự tiếp trợ tôi đến từ đâu? Sự tiếp trợ tôi đến từ
Đức Giê-Hô-Va, là Đấng đã dựng nên trời và đất. Ngài không để cho chơn
ngươi xiêu tó, Đấng gìn giữ ngươi không hề buồn ngủ. Đấng gìn giữ Y-sơ-
ra-ên không hề nhắm mắt cũng không hề buồn ngủ.
Đức Giê-Hô-Va là Đấng gìn giữ ngươi; Đức Giê-Hô-Va là bóng che ở bên
hữu ngươi. Mặt trời sẽ không giọi ngươi lúc ban ngày, mặt trăng cũng không
hại ngươi trong ban đêm.
Đức Giê-Hô-Va sẽ gìn giữ ngươi khỏi mọi tai họa; Ngài sẽ gìn giữ linh hồn
ngươi. Đức Giê-Hô-Va sẽ gìn giữ ngươi khi ra khi vào, từ nay cho đến đời
đời.
Bạn sẽ nhớ lại rằng, Chúa Giê-xu đã nói rằng Ngài sẽ cầu xin Cha ban cho
chúng ta Đấng An-ủi để ở với chúng ta đời đời (GiGa 14:16). Chính Ngài là
Đấng canh giữ chúng ta ngày đêm, và chúng ta được an ninh trong bóng
cánh Ngài. Sự chăm sóc gìn giữ của Ngài không chỉ cho chúng ta mà cho cả
toàn bộ sự tạo dựng của Ngài.
11. Đọc Giop G 12:7-10. Trái đất, chim chóc, muôn thú, và các loài cá dưới
nước dạy chúng ta điều gì?
.......................................................................................................
12. Đọc EsIs 40:7, 13. Hãy dùng lời củabạn để phát biểu ý nghĩa của những
câu Kinh thánh nầy đối với bạn.
...........................................................................................................................
...................................................................................
13. Đọc những phần Kinh thánh được liệt kê (bên phải) và sắp xếp với
những sự việc mà chúng mô tả (bên trái).
. . . .a. Chúa Giê-xu bảo tồn muôn vật bởi Lời của Ngài.
. . . .b. Chúng ta không cần phải sợ hãi vì Đức Chúa Trời sẽ ban năng lực và
gìn giữ chúng ta.
. . . .c Đức Thánh Linh Đấng tạo dựng muôn vật cũng sẽ đổi mới muôn vật.
1) Thi Tv 104:30
2) HeDt 1:1-3
3) EsIs 41:10
14. Những phần Kinh thánh nầy bày tỏ rằng cả Sự Sáng Tạo và sự bảo tồn
(chăm sóc) tất cả những tạo vật là
a) hầu hết là công tác của Đức Thánh Linh.
b) chủ yếu là công việc của Đức Chúa Cha.
c) được thực hiện bởi Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh .
Khi chúng ta chiêm ngưỡng sự vĩ đại của Sự Sáng Tạo của Đức Chúa Trời,
chúng ta sẽ ngạc nhiên kinh sợ bởi những kỳ quan mà Ngài đã thực hiện.
Quả thật Ngài đáng để chúng ta ca ngợi và tôn thờ. Khi Ngài chấm dứt các
công tác vào ngày thứ sáu và nhìn xem tất cả những gì Ngài đã tạo dựng,
Ngài phán rằng mọi sự đều tốt lành.
Đức Chúa Trời tạo dựng muôn vật vì sự vinh hiển của Ngài. “Các từng trời
rao truyền sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, bầu trời giãi tỏ công việc tay
Ngài làm”(Thi Tv 19:1). Sự sáng tạo của Ngài phô bày sự vinh hiển Ngài.
Ngài tạo dựng chúng ta để chúng ta có thể tôn vinh Ngài. Rất nhiều đoạn
Kinh thánh khích lệ chúng ta tôn vinh Đức Chúa Trời (xem ISu1Sb 16:29;
Thi Tv 29:1; RoRm 15:6, 9). Bạn đã tôn vinh Đức Chúa Trời là Đấng Tạo
Hóa của bạn chưa? Bạn có tôn vinh Chúa Giê-xu là Đức Chúa Con và Đức
Thánh Linh là Đấng đã đến để ngự trong bạn không?
Không có lời kết nào tốt hơn cho bài học nầy là những lời của hai mươi bốn
trưởng lão khi họ sấp mặt trước Đấng Tạo Hóa và quăng mão triều thiên
mình trước ngôi Ngài (KhKh 4:11):
Lạy Đức Chúa Trời là Chúa chúng tôi,Chúa đáng được vinh hiển, tôn quí và
quyền lực; vì Chúa đã dựng nên muôn vật, và ấy là vì ý muốn Chúa mà
muôn vật mới có và đã được dựng nên.
Bài Tự Trắc Nghiệm
CÂU HỎI CHỌN LỰA. Khoanh tròn các ký tự trước những câu trả lời
đúng.
1. Đâu là phần hoàn chỉnh đúng liên quan đến sự khải thị qua Công Cuộc
Sáng Tạo về sự đồng công của Ba Ngôi Đức Chúa Trời trong Sự Sáng Tạo?
Công Cuộc Sáng Tạo bày tỏ
a) rằng cả Ba Ngôi Đức Chúa Trời đều dự phần, và được bày tỏ cách rất chi
tiết.
b) rất ít về sự dự phần của mỗi Ngôi, nhưng nhấn mạnh trên cả Ba Ngôi của
một Đức Chúa Trời đời đời và rằng Ngài là Đấng Tạo Hóa của muôn vật.
c) rằng Đức Thánh Linh dự phần nhiều nhất trong Sự Sáng Tạo.
2. Sách Sáng Thế Ký nhấn mạnh điều gì nhất trong những câu sau?
a) Sự tạo dựng vũ trụ
b) Sự bắt đầu của tội lỗi và sự phán xét
c) Nhu cầu được cứu rỗi của con người
d) Sự tạo dựng con người
3. Kế hoạch cứu rỗi của Đức Chúa Trời được quyết định
a) trước buổi sáng thế.
b) sau khi con người phạm tội.
c) khi Chúa Giê-xu giáng sinh.
d) vào thời điểm của Sự Sáng Tạo.
4. Thi Tv 90:2, GiGa 1:1 và HeDt 9:14 xác nhận bản tánh đời đời của Đức
Chúa Trời bằng cách liên hệ đến
a) sự hiện diện và dự phần của Ba Ngôi Đức Chúa Trời trong Công Cuộc
Sáng Tạo.
b) sự hiện hữu từ trước vô cùng của Đức Chúa Trời Tam Nhất so với thời
điểm của Sự Sáng Tạo.
c) sự hiện hữu từ trước vô cùng của Đức Chúa Cha, cùng với Đức Chúa Con
và Đức Thánh Linh xuất hiện vào thời điểm sau nầy.
d) sự trống không và sự mờ tối vào thời điểm của Sự Sáng Tạo.
5. Sự Sáng Tạo là một sự hoạt động kết hợp giữa
a) Đức Chúa Con, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh.
b) Đức Chúa Cha và Đức Thánh Linh.
c) Đức Chúa Trời và con người.
6. Công tác của Đức Thánh Linh trong Sự Sáng Tạo là
a) phán ra Lời.
b) quyết định điều gì sẽ được thực hiện.
c) vận hành trong quyền năng để thực hiện những mạng lịnh thiên thượng.
7. Trong sự tạo dựng con người, sự đồng công của Đức Thánh Linh là gì?
a) Nắn lên con người từ bụi đất.
b) Tạo dựng người nữ từ xương sườn của người nam.
c) Ban hơi thở sự sống khiến con người trở nên một loài sanh linh.
d) Vận hành trên con người trong quyền năng sáng tạo.
8. Theo Sự Sáng Tạo, sự dự phần của Đức Thánh Linh với thứ tự sáng tạo
có thể được mô tả cách chính xác nhất là
a) bảo tồn muôn vật đã được dựng nên.
b) quan tâm đến những người vâng phục Đức Chúa Trời.
c) dần dần làm đầy dẫy khắp đất với những loài sinh vật mới.
9. Đức Chúa Trời tạo dựng con người và thế giới bởi vì Ngài muốn
a) trở nên trọn vẹn.
b) bày tỏ sự vinh hiển của Ngài và để nhận sự vinh hiển.
c) kiểm soát một điều gì đó.
10. Cách tốt nhất mà chúng ta có thể tôn vinh Đức Chúa Trời vì những việc
Ngài đã làm là gì?
a) Thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên.
b) Thờ phượng và vâng phục Ngài.
c) Bày tỏ lòng tốt với tất cả những tạo vật của Ngài.
d) Kiểm soát những sinh vật khác càng nhiều càng tốt.
11. Sự tạo dựng con người khác với những sự tạo dựng khác trong Sự Sáng
Tạo như thế nào?
a) Con người là sinh vật duy nhất được tạo dựng là một người trưởng thành.
b) Con người được Đức Chúa Trời nắn lên từ bụi đất, và rồi được Đức Chúa
Trời hà hơi sự sống vào; trong khi những sinh vật khác được dựng nên bởi
lời phán ra.
c) Con người được ban cho quyền năng để bảo tồn tất cả những sinh vật
khác.
12. Tại sao sự mặc khải của Đức Chúa Trời về chính Ngài phải được phát
triển từ từ hơn là được hoàn chỉnh vào thời điểm Môi-se viết Ngũ kinh?
a) Bởi vì bản tánh thần thượng của Ngài chưa phát triển trọn vẹn vào thời
điểm đó.
b) Bởi vì con người chưa chuẩn bị để tiếp nhận sự mặc khải của một Đức
Chúa Trời Tam Nhất.
c) Môi-se chưa hiểu đủ sự mặc khải về Ba Ngôi Đức Chúa Trời để ông có
thể trình bày sự mặc khải nầy cách rõ ràng, dễ hiểu.
Trả Lời Câu Hỏi Nghiên Cứu
1. Con người chưa sẵn sàng để tiếp nhận sự mặc khải trọn vẹn của Đức Chúa
Trời Tam Nhất vào thời điểm đó - nó sẽ làm cho họ bối rối.
2. a. Ít nhất 30 lần; một lần; không lần nào cả.
b. Câu 26 ( đại từ số nhiều ta -chúng ta-).
3. Những phần Kinh thánh khác trong cả Kinh thánh cho thấy rằng cả Ba
Ngôi Đức Chúa Trời đều dự phần trong Sự Sáng Tạo.
4. d) Quyền năng.
5. a) mọi loài thảo mộc, sinh vật dưới nước, chim chóc và muôn thú.
6. a. Sai
b. Đúng
c. Đúng
d. Đúng
e. Sai
f. Đúng
g. Đúng
7. Ngài biết rằng con người sẽ không giữ mối tương giao với Ngài và rằng
một sự dự phòng sẽ phải được thực hiện để phục hồi mối tương giao đó.
8. Khi Đức Chúa Trời hà hơi (Thánh Linh) sự sống vào lỗ mũi con người.
9. Tất cả những vật được tạo dựng bởi lời phán ra của Đức Chúa Trời khi
Thánh Linh Ngài vận hành trên đất. Đức Chúa Trời nắn đúc con người từ
bụi đất và ban cho con người sự sống của chính Ngài.
10. b) Hữu thể linh.
11. Sự sống và hơi thở đều ở trong tay Đức Giê-Hô-Va.
12. Câu trả lời của bạn. Tôi tin rằng chúng bày tỏ rằng Thánh Linh Đức
Chúa Trời ban cho chúng ta sự sống, và Ngài kiểm soát sự bắt đầu cũng như
sự kết thúc của cuộc đời chúng ta.
b. 3) EsIs 41:10
c. 1) Thi Tv 104:30.
13. a. 2) HeDt 1:1-3
14. c) thực hiện bởi Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh.
Chúa Giê-xu chịu ma-quỉ cám dỗ trong 40 ngày. Sự cám dỗ Chúa Giê-xu
xảy ra khi Ngài đang được Đức Thánh Linh hướng dẫn. Mỗi giai đoạn trong
sự huấn luyện và sự phát triển của Chúa Giê-xu đều ở dưới sự canh giữ của
Đức Thánh Linh! Chương 4 cũng cho chúng ta biết rằng sau khi ma-quỉ
chấm dứt sự cám dỗ của nó (và đã thất bại), Chúa Giê-xu trở về Galilê trong
quyền năng của Đức Thánh Linh .
9. Hãy kể ra ba điều được nhắc đến trong đoạn văn cho thấy sự chuẩn bị
Chúa Giê-xu cho chức vụ của Ngài khi Đức Thánh Linh hiện diện và dư
phần cách tích cực.
.......................................................................................................
Sự Xức Dầu Ngôi Lời
Mục tiêu 5: Đưa ra những ví dụ về những phương cách mà Đức Thánh Linh
xức dầu trên chức vụ của Chúa Giê-xu .
Chỉ một thời gian ngắn sau khi quay về Galilê, Chúa Giê-xu về lại thành phố
quê hương Na-za-rét và vào thăm nhà hội. Vào dịp nầy, người ta trao sách
tiên tri Ê-sai cho Ngài. Ngài chọn chương thứ 61 và đọc những lời tiên tri
mô tả về chức vụ của chính Ngài:
“Thần của Chúa ngự trên ta; vì Ngài đã xức dầu cho ta đặng truyền tin lành
cho kẻ nghèo; Ngài đã sai ta để rao cho kẻ bị cầm được tha, kẻ mù được
sáng, kẻ bị hà hiếp được tự do; và để đồn ra năm lành của Chúa”(Luca 4: 18-
19).
10. Chúa Giê-xu đã nói gì sau khi Ngài ngừng đọc đoạn Kinh thánh nầy?
(câu 21)
.......................................................................................................
Chức vụ của Ngài xác nhận lời tuyên bố về sự xức dầu của Đức Thánh Linh
cho Ngài. Ngài đuổi quỉ bởi Thánh Linh của Đức Chúa Trời (Mat Mt 12:28).
Theo sứ đồ Phierơ, chức vụ đuổi quỉ và chữa bịnh của Chúa Giê-xu xuất
phát từ sự xức dầu của Đức Thánh Linh trên đời sống của Ngài (Cong Cv
10:38). Mọi điều Chúa Giê-xu đã phán thì Ngài sẽ làm dưới sự xức dầu của
Đức Thánh Linh, và Ngài đã làm như vậy!
Bạn sẽ phát hiện ra rằng thật thú vị và ích lợi khi đọc bốn sách Tin lành và
liệt kê những lần Chúa Giê-xu chữa bịnh, kẻ mù được sáng, sự hóa bánh ra
nhiều cách kỳ diệu, kẻ điếc được chữa lành, kẻ chết sống lại, và những kẻ bị
quỉ ám được giải thoát khỏi sự gông cùm của ma quỉ và được tự do. Tất cả
những điều nầy là công tác của Đức Thánh Linh trong chức vụ của Chúa
Giê-xu.
11. Đọc Lu-ca chương 8 và 9 rồi liệt kê những công tác của Chúa Giê-xu
được mô tả trong hai chương Kinh thánh nầy. Bạn có thấy được rằng đây là
sự ứng nghiệm của lời tiên tri của Ê-sai?
...........................................................................................................................
...................................................................................
Trong Mat Mt 12:34 Chúa Giê-xu phán rằng: “Bởi vì do sự đầy dẫy trong
lòng mà miệng nói ra.” Những gì trong lòng bạn sẽ được bày tỏ qua môi
miệng bạn. Bạn có muốn hiểu biết điều ở trong lòng Đức Chúa Trời không?
Đức Thánh Linh sẽ trao tặng Chúa Giê-xu như là Lời của Đức Chúa Trời.
Hãy học những lời và những công việc của Chúa Giê-xu. Ngài là một sự
diễn đạt trọn vẹn của lòng của Đức Chúa Trời.
Ban Sự Vinh Hiển Cho Ngôi Lời
Mục tiêu 6: Nhận diện phương cách mà Đức Thánh Linh ban sự vinh hiển
cho Chúa Giê-xu và khiến cho con người có thể phục hồi mối tương giao với
Đức Chúa Trời .
Sứ điệp về tình yêu của Đức Chúa Trời quan trọng hơn cả sự giảng dạy,
chữa lành kẻ bịnh, hay đuổi quỉ. Sứ điệp nầy cũng có ý nói đến sự chết của
Chiên Con của Đức Chúa Trời vì tội lỗi của thế gian.
Thập tự giá là một sự thử thách kinh khiếp, tuy nhiên Chúa Giê-xu đã tự
nguyện chấp nhận, cùng với sự giúp đỡ của Đức Thánh Linh. Đấng chẳng
biết tội lỗi đã gánh tội lỗi của tất cả nhân loại trên thân thể của chính Ngài và
phó sự sống mình để làm một sinh tế trọn vẹn cho Đức Chúa Trời. Tác giả
thư Hêbơrơ cho chúng ta biết phương cách mà Chúa Giê-xu đã thực hiện
điều nầy: “... Đấng Christ, là Đấng nhờ Đức Thánh Linh đời đời, dâng chính
mình không tì tích cho Đức Chúa Trời” (HeDt 9:14). Khi nói về sự chết và
sự sống lại của Đấng Christ, Phierơ đã làm chứng cho người Giu-đa rằng:
“Còn chúng ta đây là kẻ làm chứng về mọi việc đó, cũng như Đức Thánh
Linh ...” (Cong Cv 5:32).
Đức Thánh Linh hiện diện trong quyền năng sáng tạo khi Chúa Giê-xu thành
nhục thể; Ngài hiện diện trong quyền năng xức dầu trên chức vụ của Đấng
Christ; Ngài hiện diện trong quyền năng ban sức lực trong giờ phút trọng đại
của sự cần yếu của Đấng Christ trên thập tự giá; và Ngài hiện diện trong
quyền năng phục sinh để ban sự chiến thắng sự chết. Ngài là Đức Thánh
Linh, Đấng khiến Chúa Giê-xu sống lại từ trong kẻ chết (RoRm 8:11).
Ngay trước khi trở về cùng Cha, Chúa Giê-xu dạy rằng hễ ai tin Ngài sẽ
được phục hồi mối tương giao với Đức Chúa Trời. Ngài hà hơi trên các môn
đồ và phán rằng: “Hãy nhận lãnh Đức Thánh Linh” (GiGa 20:22).
Từ buổi ban đầu, hơi thở của Đức Chúa Trời khiến con người trở thành một
loài có linh hồn bất diệt. Bây giờ, trong buổi gặp mặt ngắn với các môn đồ
trước khi Ngài về trời, Đức Chúa Con một lần nữa hà hơi trên con người,
ngụ ý rằng bởi quyền năng của Đức Thánh Linh, sự sống thuộc linh được
phục hồi trọn vẹn cho những ai tin cậy Chúa Giê-xu và tin cậy Lời của Ngài.
Đây là công tác vinh hiển trong chức vụ của Chúa Giê-xu. Bởi sự phục sinh,
là điều bày tỏ sự chiến thắng của Đấng Christ trên tội lỗi và sự chết, con
người có thể được phục hòa với Đức Chúa Trời. Sự chết thuộc linh bị bẻ tan
khi tin nhận Đức Chúa Giê-xu Christ.
12. Điều gì khiến Chúa Giê-xu có thể chấp nhận thập tự giá và phó sự sống
của Ngài vì chúng ta?
.......................................................................................................
13. Đức Thánh Linh đã dùng cách nào trong những phương cách sau để tôn
vinh chức vụ của Chúa Giê-xu và khiến con người có thể phục hồi trọn vẹn
mối tương giao của mình với Đức Chúa Trời? Qua
a) quyền năng sáng tạo của Ngài.
b) quyền năng xức dầu của Ngài.
c) quyền năng ban sức lực của Ngài.
d) quyền năng phục sinh của Ngài.
NHỮNG BỨC THƯ SỐNG
Mục tiêu 7: Tìm ra những khuôn mẫu trong những đoạn Kinh thánh cho
trước nói lên trách nhiệm của chúng ta khi trở thành những bức thư sống,
được Đức Thánh Linh dạy dỗ, ban quyền năng và cai trị .
Được Đức Thánh Linh Dạy Dỗ
Chúa Giê-xu biết rỏ sự yếu đuối và năng lực của các môn đồ của Ngài.
Nhiều lần Ngài đã quở trách lòng vô tín và thái độ sai lầm của họ, tuy nhiên,
kế hoạch của Ngài vẫn luôn là sau khi Ngài về trời họ sẽ rao truyền phúc âm
của Ngài. Tương lai của công tác Ngài trên đất phụ thuộc vào họ. Họ phải tỏ
bày Ngài ra. Làm sao Ngài có thể giao phó cho các môn đệ của mình những
trọng trách như vậy khi Ngài không còn ở với để hướng dẫn họ?
Câu trả lời rất đơn giản. Nó tập trung vào Ngôi Vị thần thượng là Đấng sẽ
đến để thay thế Ngài như là Đấng giúp đỡ họ. Chính Thánh Linh đã giáng
xuống trên Ngài cũng sẽ giáng xuống trên họ. Sau khi Chúa Giê-xu chấm
dứt công tác của Ngài và được vinh hiển, các môn đồ sẽ nhận lãnh Đức
Thánh Linh, và Ngài sẽ là Đấng hướng dẫn và ban quyền năng để họ trở
thành những chứng nhân trung tín của Ngài.
Trong vai trò là Người Cố Vấn, Chúa Giê-xu phán rằng Đức Thánh Linh sẽ
dạy dỗ các môn đệ của Ngài. Đấng Cố Vấn sẽ ban cho họ khả năng nhớ lại
những điều dạy dỗ của Thầy. Chúng ta có thể chắc chắn rằng Đấng Cố Vấn
không chỉ nhắc lại những lời Chúa Giê-xu đã phán, mà còn cả đến vô số
những ví dụ trong việc đáp ứng những nhu cầu khác nhau của dân chúng
(GiGa 14:26; 15:26). Hơn nữa, trong khi dạy dỗ các môn đồ, Chúa Giê-xu
phán rằng Đấng Cố Vấn sẽ dẫn họ vào mọi lẽ thật. Điều này hàm ý rằng
Thần lẽ thật sẽ ban cho họ khả năng phân biệt giữa lẽ thật của Ngài và thần
sai lầm (so sánh GiGa 16:13 và IGi1Ga 4:1-6). Ngài cũng sẽ ban cho họ sự
nhận biết sâu sắc về tương lai, với một sự nhận biết sự tương xướng giữa
trách nhiệm hiện tại và phần thưởng trong tương lai.
Sự dạy dỗ mà các môn đồ của Đấng Christ đã tiếp nhận và truyền đạt cho
những người khác không phải chỉ là những lời được viết trên bản đá như
Môi-se đã nhận lãnh trên núi Si-nai. Đây không phải đơn thuần là “sự nhận
biết của cái đầu” mà nó chỉ liên quan đến đời sống thực tế rất ít, cũng không
phải là điều được viết ra với mực và viết, như những bức thư của sứ đồ
Phao-lô. Sự dạy dỗ mà họ nhận lãnh đã được “tiếp thu”, nghĩa là sự dạy dỗ
nầy trở thành một phần của họ, bởi vì nó được Đức Thánh Linh viết lên tấm
lòng bằng thịt của họ, như Phao-lô viết trong Côrinhtô rằng:
Vả, rõ thật rằng anh em là bức thư của Đấng Christ, bởi chức vụ chúng tôi
viết ra, chẳng phải viết bằng mực, nhưng bằng Thánh Linh của Đức Chúa
Trời hằng sống, chẳng phải viết trên bảng đá, nhưng trên bảng thịt, tức là
trên lòng anh em (IICo 2Cr 3:3).
Thông điệp trở thành một phần của người rao truyền thông điệp khi thông
điệp ấy được Đức Thánh Linh viết lên tấm lòng của họ. Họ thật sự trở nên
những bức thư sống .
Trong bài học nầy chúng ta sẽ thấy rằng chính Đức Thánh Linh là Đấng tái
tạo chúng ta, và bởi Ngài chúng ta có quyền năng để sống như cách Đức
Chúa Trời muốn chúng ta sống. Ngài là Thánh Linh Sự Sống, là Đấng ban
cho chúng ta sự sống đời đời và khiến chúng ta đồng hưởng cơ nghiệp với
Cứu Chúa Giê-xu Christ.
Dàn Ý Bài Học
Đức Thánh Linh bắt phục
Đức Thánh Linh Sự Sống
Đức Thánh Linh của Sự Nhận Làm Con
Các Mục Tiêu Bài Học
Khi kết thúc bài học nầy bạn sẽ có thể:
Mô tả công tác của Đức Thánh Linh trong việc cáo trách tội lỗi và đem đến
sự ăn năn.
Giải thích kết quả khi Đức Thánh Linh ban sự sống cho một tội nhân ăn năn
và ngự vào lòng người ấy.
Định nghĩa thuật ngữ sự nên thánh bởi Đức Thánh Linh và sự nhận làm con
bởi Đức Thánh Linh
Nhận diện những đặc quyền và trách nhiệm của những người được tiếp nhận
vào gia đình của Đức Chúa Trời bởi quyền năng tái tạo của Đức Thánh
Linh.
Các Hoạt Động Học Tập
Để chuẩn bị cho bài học nầy, hãy đọc lại hai phần đầu của Bài 3: Ngài Bắt
Phục và Ngài Tái Sanh .
Nghiên cứu bài học như đã chỉ dẫn trong phần những hoạt động học tập
trong Bài học 1. Hãy đọc tất cả những đoạn Kinh thánh trưng dẫn và trả lời
những câu hỏi nghiên cứu.
Làm bài tự trắc nghiệm và kiểm tra câu trả lời của bạn.
Những Từ Ngữ Then Chốt
A-ba
chống đối
phù hợp
thánh hóa,(sư)
tôn vinh
thánh hóa
kẻ kế tự
nói tiên tri
kẻ dự phần
hư mất
ăn năn, sự vi phạm, (sự)
Khai Triển Bài Học
ĐỨC THÁNH LINH BẮT PHỤC
Đem đến Sự Cáo Trách
Mục tiêu 1: Từ những đoạn Kinh thánh trưng dẫn, chỉ ra những kết quả của
quyền năng cáo trách của Đức Thánh Linh .
Trong Bài học 3 chúng ta thấy rằng Đức Thánh Linh được sai đến thế gian
để cáo trách thế gian về tội lỗi, về sự công bình, và về sự phán xét. Bây giờ
chúng ta hãy quay lại bài 3 và đọc lại hai phần đầu: Ngài Bắt Phục và Ngài
Tái sanh để làm nền tảng cho bài học nầy.
Chỉ một mình Đức Thánh Linh mới có thể bắt phục một tội nhân về nhu cầu
cần đến Đức Chúa Trời của mình. Đa-vít, dưới quyền năng cáo trách của
Đức Thánh Linh, đã cầu nguyện rằng: “Vì tôi nhận biết các sự vi phạm tôi,
tội lỗi hằng ở trước mặt tôi. Tôi đã phạm tội cùng Chúa, chỉ một mình Chúa
thôi, và làm điều ác trước mặt Chúa” (Thi Tv 51:3-4).
Đức Thánh Linh thường xử dụng những chứng nhân để phán với tội nhân.
Sau đây là những ví dụ từ trong Kinh thánh:
1. Phierơ . Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, lời hứa ban Đức Thánh Linh của Chúa
Giê-xu đã xảy ra. Phierơ, được đầy dẫy Đức Thánh Linh, đứng lên giảng tin
lành về Đức Chúa Giê-xu Christ cho dân chúng. Bài giảng của ông được
chép trong Cong Cv 2:14-36.
Khi dân chúng đã nghe lời giảng của Phierơ, thì “trong lòng cảm động”(c.
37). Phierơ rao giảng dưới sự xức dầu của Đức Thánh Linh, và chính quyền
năng cáo trách của Đức Thánh Linh chạm đến lòng của họ, khiến họ hỏi
rằng: “Hỡi anh em, chúng ta phải làm chi?”
2. Phao-lô . Trong thư gởi cho Hội thánh Côrinhtô, sứ đồ Phao-lô cho họ
biết điều gì sẽ xảy ra khi một người không tin đến nghe trong một buổi
nhóm nơi mà mọi người đang nói tiên tri bởi quyền năng xức dầu của Đức
Thánh Linh. Ông nói: “thì họ sẽ bị mọi người bắt phục, và bị mọi người xét
đoán, sự kín dấu trong lòng họ đã bị tỏ ra, họ bèn sấp mặt xuống đất, thờ lạy
Đức Chúa Trời và nói rằng thật có Đức Chúa Trời ở giữa anh em” (ICo1Cr
14:24-25).
3. Ê-tiên . Một trong những chấp sự đầu tiên được các sứ đồ chọn là Ê-tiên,
“là người đầy đức tin và Đức Thánh Linh” (Cong Cv 6:5). Ê-tiên đã làm
nhiều dấu kỳ phép lạ giữa dân chúng, và những nhà lãnh đạo Do thái bắt đầu
chống đối ông. 6:9-10 ghi lại rằng: “ (những người nầy) nổi lên cải lẫy cùng
Ê-tiên. Song chúng không chống lại nổi với trí khôn người và Đức Thánh
Linh, là Đấng nhờ người mà nói”
Công vụ đoạn 7 ghi lại bài giảng của Ê-tiên trước tòa công luận. Quyền năng
cáo trách của Đức Thánh Linh rất mạnh mẽ, được bày tỏ qua những lời kết
luận của Ê-tiên: “Hỡi những người cứng cổ, lòng và tai chẳng cắt bì kia! Các
ngươi cứ nghịch với Đức Thánh Linh hoài ...”(c.51).
1. Điều gì đã xảy ra sau bài giảng của Phierơ (2:41)?
...........................................................................................................................
..................................
2. Có phải mọi người đã nghe Phao-lô giảng đều ăn năn để đáp lại quyền
năng cáo trách của Đức Thánh Linh không?
...........................................................................................................................
..................................
3. Điều gì xảy ra sau bài giảng của Ê-tiên (7:54-60)?
...........................................................................................................................
..................................
Mặc dù sứ đồ Phao-lô là người học thức rất cao, ông nói với những người
Côrinhtô rằng: “Lời nói và sự giảng của tôi chẳng phải bằng bài diễn thuyết
khéo léo của sự khôn ngoan, nhưng tại sự tỏ ra Thánh Linh và quyền phép;
hầu cho anh em chớ lập đức tin mình trên sự khôn ngoan loài người, bèn là
trên quyền phép Đức Chúa Trời”(ICo1Cr 2:4-5). Phao-lô đã kinh nghiệm
được sự phụ thuộc vào quyền năng cáo trách của Đức Thánh Linh để đem
tội nhân đến với Đấng Christ.
Những phân đoạn Kinh thánh nầy cho thấy rằng chính Đức Thánh Linh là
Đấng ban sự sống thuộc linh. Điều mà chúng ta cần làm là kết hợp và tiếp
nhận món quà sự sống nầy.
7. Đọc RoRm 8:1-11 và diền vào những chỗ trống.
a. Khi bạn được Đức Thánh Linh ban cho sự tự do khỏi sự tội và sự chết,
bạn không còn sống theo bản tánh tội lỗi nữa, nhưng
theo .......................................................
b. Khi bạn sống theo Đức Thánh Linh, tâm trí bạn sẽ hướng về những điều
Đức Thánh Linh ......................................................
c. Phương cách duy nhất để làm đẹp lòng Đức Chúa Trời là được kiểm soát
bởi .............................................................................
d. Nếu ai không có Thánh Linh của Đấng Christ, người ấy không thuộc
về ........................................................................................
Hễ ai được sanh ra bởi Đức Chúa Trời đều có Thánh Linh của Đức Chúa
Trời. “Chính Đức Thánh Linh làm chứng cho lòng chúng ta rằng chúng ta là
con cái Đức Chúa Trời” (RoRm 8:16). Đây là điều mà Đức Chúa Trời dự
định từ buổi ban đầu. Ngài muốn con người là đền thờ của Ngài, là nơi ngự
của Ngài. Phao-lô nhắc nhở Hội thánh Côrinhtô về điều nầy: “ Anh em há
chẳng biết mình là đền thờ của Đức Chúa Trời, và Thánh Linh Đức Chúa
Trời ở trong anh em sao?”(ICo1Cr 3:16).
Trong RoRm 8:9 Đức Thánh Linh được gọi là Thánh Linh của Đấng Christ ,
và đúng vậy, Ngài đại diện cho Đấng Christ trong chúng ta. Ngài được Đức
Chúa Cha ban xuống để ở với chúng ta thay cho Đấng Christ. Phao-lô cũng
gọi Đức Thánh Linh là Thánh Linh của Con Ngài (GaGl 4:6). Đây là lý do
tại sao ông có thể nói rằng: “Đấng Christ sống trong tôi” (2:20).
Sự ban quyền năng của Đức Thánh Linh được minh chứng từ khi Đức Chúa
Trời kêu gọi những chứng nhân đầu tiên của Ngài. Trong khi một số, như sứ
đồ Phao-lô, là người có học thức cao, rất nhiều người nổi tiếng trong số họ
bắt đầu từ những người hết sức tầm thường. Cho dù kinh nghiệm, sự rèn tập,
hoặc khả năng của con người như thế nào chăng nữa, nhân tố khiến họ có
thể làm đảo lộn thế giới không phải là tài biện luận hay sự khôn ngoan của
con người, nhưng là sự tỏ ra của quyền phép Đức Thánh Linh (ICo1Cr 2:1-
5).
Trong bài học nầy chúng ta sẽ học rằng khi Đức Thánh Linh đến trên đời
sống bạn qua sự đầy trọn của phép báp têm, Ngài sẽ giúp bạn trở thành một
người hầu việc vương quốc của Đức Chúa Trời cách có quyền năng. Quyền
năng đó được dành sẵn cho những tôi tớ của Đức Chúa Trời trong thời Cựu
ước và cho các môn đồ trong thời Tân ước cũng được dành sẵn cho bạn ngày
hôm nay.
Dàn Ý Bài Học
Những nhân vật thời Cựu ước
Những môn đồ thời Tân ước
Những tín hữu của thế kỷ hai mươi
Những Mục Tiêu Bài Học
Khi kết thúc bài học nầy bạn sẽ có thể:
Đưa ra những ví dụ về sự xức dầu của Đức Thánh Linh trên đời sống của
những cá nhân được Đức Chúa Trời chọn lựa trong thời Cựu ước.
Mô tả sự thay đổi của các môn đồ thời Tân ước sau sự ban Đức Thánh Linh
xuống trong ngày lễ Ngũ tuần và những kết quả của sự thay đổi đó.
Liên hệ đến sự ban Đức Thánh Linh trong thời kỳ cận đại nầy với mục đích
của việc truyền giáo cho thế giới và thúc đẩy sự tái lâm của Chúa.
Những Hoạt Động Học Tập
Nghiên cứu bài học như đã được chỉ dẫn trong phần những hoạt động học
tập của Bài học 1. Đọc những phần Kinh thánh trưng dẫn và trả lời những
câu hỏi nghiên cứu.
Làm bài tự trắc nghiệm và kiểm tra câu trả lời của bạn.
Ôn lại Bài học 4-7 rồi trả lời những câu hỏi trong phần bản tường trình học
tập của học viên đơn vị 2.
Những Từ Ngữ Then Chốt
thành quả
tập trung, sự
minh chứng
điều mâu thuẩn
ban quyền năng
Ngũ kinh
ban cho, sự
ứng nghiệm, sự
bốc đồng
cư ngụ
đổ đầy
thuộc lễ Ngũ tuần
quá tự quyền
có thể nhận lãnh
người nhận lãnh
tự ý
Triển Khai Bài Học
NHỮNG NHÂN VẬT THỜI CỰU ƯỚC
Trong Ngũ Kinh
Mục tiêu 1: Nêu lên mục đích mà Đức Chúa Trời ban Đức Thánh Linh trên
những người được chọn trong thời kỳ được mô tả của Ngũ Kinh .
Ngũ Kinh là tên của năm sách đầu trong Cựu ước: Sáng Thế Ký, Xuất-Ê-
Díp-Tô-Ký, Lê-Vi-Ký, Dân-Số-Ký và Phục-Truyền-Luật-Lệ-Ký. Chúng
thường được gọi là “các sách của Môi-se” bởi vì Môi-se được xem là tác giả
của năm sách nầy.
Đức Thánh Linh trong năm sách nầy, và trong toàn bộ Cựu ước, được nhấn
mạnh trên những việc Ngài làm hơn là trên việc Ngài là ai . Trên thực tế,
Cựu ước không đề cập gì đến cá tánh của Đức Thánh Linh, nhưng Cựu ước
chứa đựng những công tác diệu kỳ của Đức Thánh Linh, bắt đầu bằng công
tác sáng tạo trong SaSt 1:1-31.
Sự nhấn mạnh của Cựu ước là sự giáng xuống trên những người được chọn
của Đức Thánh Linh cho một sự phục vụ đặc biệt. Tuy nhiên, sự hiện diện
để cư ngụ của Đức Thánh Linh là một hiện tượng của Tân ước. Điều nầy
được minh chứng qua những lời của Sứ đồ Giăng: “bởi bấy giờ Đức Thánh
Linh chưa ban xuống, vì Đức Chúa Giê-xu chưa được vinh hiển”(GiGa
7:39), và qua lời của Chúa Giê-xu khi Ngài phán về sự Đức Thánh Linh
được ban xuống: “nhưng các ngươi biết Ngài, vì Ngài vẫn ở với các ngươi
và sẽ ở trong các ngươi”(GiGa 14:17).
Bằng cách so sánh, chúng ta có thể nói rằng, dựa trên bằng chứng của Kinh
thánh, những cá nhân trong thời Cựu ước được sự hiện diện từng hồi từng
lúc của Đức Thánh Linh để họ có thể hoàn thành công tác mà Đức Chúa
Trời sai họ làm; trong khi đó, những tín hữu trong thời kỳ Tân ước hưởng
được sự hiện diện vĩnh hằng của Đức Thánh Linh trên đời sống họ. Trước
tiên, Đức Thánh Linh đến trên tín hữu như là một tác nhân của sự tái sanh.
Rồi thì, như chúng ta đã thấy (trong Mat Mt 3:11; Mac Mc 1:8; GiGa 1:33;
Cong Cv 1:5), các tín hữu được báp têm trong Đức Thánh Linh và tiếp nhận
Ngài bởi sự đầy trọn của phép báp têm.
Đức Thánh Linh bắt đầu liên hệ với con người ngay sau Sự sa ngã. Ngài tìm
thấy những con người sẵn sàng mang lấy công tác của Ngài như Nô-ê, Áp-
ra-ham, I-sác. Mặc dầu Đức Thánh Linh rất ít được đề cập khi đối chiếu với
những con người nầy, chúng ta vẫn biết rằng họ được Ngài hướng dẫn bởi
sự vâng phục Đức Chúa Trời của họ. Thánh Linh của Đức Chúa Trời hành
động trên con người nhưng không hề thu hút sự chú ý về phía Ngài. Công
tác của Ngài luôn được tỏ bày qua Cựu ước trong khi danh xưng của Ngài
không hề xuất hiện.
Ngũ Kinh cũng đề cập đến những con người đặc biệt được Đức Thánh Linh
hành động trên họ cách hết sức quyền năng.
1. Giô-sép là người đầu tiên được kể là “có thần minh của Đức Chúa Trời”
(SaSt 41:38). Pha-ra-ôn nhận biết điều nầy bởi vì Giô-sép có khả năng siêu
nhiên để giải nghĩa các giấc mơ. Đức Thánh Linh ngự trên Giô-sép khiến
ông có thể chiến thắng cám dỗ và trở thành người trông coi cả một quốc gia.
2. Môi-se được Đức Chúa Trời chọn lựa để dẫn dắt dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi
Ai-cập. Ê-sai nói rằng Môi-se là kẻ chăn Y-sơ-ra-ên của Đức Chúa Trời, và
rằng Đức Chúa Trời “đặt Thần thánh mình giữa dân sự” (EsIs 63:11). Ê-sai
cũng nói thêm rằng “Thần của Đức Giê-Hô-Va đã khiến dân sự yên
nghỉ”(63:14).
Đến lúc phải xây một Đền Tạm cho Đức Giê-Hô-Va, Đức Chúa Trời phán
cùng Môi-se rằng Ngài đã chọn một người cho công việc nầy và phán rằng :
“Ta đã làm cho người đầy dẫn Thần của Đức Chúa Trời, sự khôn ngoan, sự
thông sáng, và sự hiểu biết để làm mọi thứ nghề thợ”(XuXh 31:2-3). Bết-sa-
lê-ên được ban cho khả năng thần thượng cần thiết để xây dựng nhà của Đức
Chúa Trời.
Khi Môi-se bắt đầu mệt mõi bởi gánh nặng về dân sự và kêu cầu với Đức
Chúa Trời, Đức Giê-Hô-Va ban Đức Thánh Linh tên bảy mươi trưởng lão để
giúp đỡ Môi-se trong việc đáp ứng các nhu cầu của dân sự.
1. Đọc Dan Ds 11:10-17 và trả lời các câu hỏi sau:
a. Câu Kinh thánh nào bày tỏ rằng Đức Thánh Linh ngự trên Môi-se?
.......................................................................................................
b. Đức Chúa Trời dùng phương cách nào để ban Đức Thánh Linh cho bảy
mươi trưởng lão?
.......................................................................................................
c. Khi Đức Thánh Linh ngự trên bảy mươi trưởng lão nầy, họ đã làm gì?
.......................................................................................................
3. Giô-suê được Chúa chọn để kế nghiệp cho Môi-se. Chúa phán cùng Môi-
se rằng: “Hãy chọn lấy Giô-suê ..., người có Thần cảm động; phải đặt tay
trên mình người” (27:18). Bởi quyền năng của Đức Thánh Linh mà Giô-suê
có thể lãnh đạo dân sự chiếm giữ đất hứa. Khi bắt đầu thời kỳ lãnh đạo của
ông Kinh thánh chép rằng: “Giô-suê, con trai của Nun, được đầy dẫy thần
khôn ngoan, vì Môi-se đã đặt tay trên mình người”(XuXh 34:9). Vì vậy,
trong cuộc hành trình từ Ai-cập đến Ca-na-an, dân Y-sơ-ra-ên được hướng
dẫn dưới sự lãnh đạo của một lãnh tụ đầy quyền năng của Đức Thánh Linh.
Trong khi chúng ta có thể nói rằng Đức Thánh Linh ngư trên những cá nhân
của thời Cựu ước và trong những tín hữu của thời Tân ước, điều nầy cũng
không thể giải quyết sự khác biệt cách thỏa đáng. Những bằng chứng trong
Kinh thánh cho thấy rằng sự ngự xuống và ban quyền năng của Đức Thánh
Linh trong thời kỳ Cựu ước chỉ thỉnh thoảng và có chọn lựa, trong khi trong
thời kỳ Tân ước điều nầy xảy ra cách phổ thông và liên tục. Hiển nhiên, mỗi
ví dụ trên đều cho thấy được nhu cầu và kinh nghiệm về sự ngự xuống để
ban quyền năng của Đức Thánh Linh cách lâu dài.
2. Nêu lên mục đích mà Đức Chúa Trời ban Đức Thánh Linh trên những con
người được liệt kê sau đây:
a. Giô-sép ......................................................................................
b. Môi-se .......................................................................................
c. Bảy mươi trưởng lão ..................................................................
d. Giô-suê ......................................................................................
e. Dựa trên những bằng chứng trong mỗi trường hợp trên, hãy cho biết sự
ngự xuống ban quyền năng của Đức Thánh Linh là một kinh nghiệm ngắn
ngủi hay lâu dài?
.......................................................................................................
ÁP-RA-HAM
MÔI-SE
GIÔ-SUÊ
ĐƯỢC ĐỨC THÁNH LINH HƯỚNG DẪN
Trong Các Sách Lịch Sử
Mục tiêu 2: Nêu lên nguyên tắc có thể được học hỏi qua đời sống của Sam-
sôn, Sau-lơ và Đa-vít .
Sách Giô-suê ghi lại nhiều chiến thắng của dân Y-sơ-ra-ên khi họ tiến vào
xứ Ca-na-an dưới sự lãnh đạo của Giô-suê và chiếm giữ xứ. Quyền lãnh đạo
bởi sự xức đầu của Đức Thánh Linh có thể được tóm tắt trong Gios Gs 24:31
Y-sơ-ra-ên phục sự Đức Giê-Hô-Va trọn lúc sanh tiền của Giô-suê và các
trưởng lão mà biết mọi việc Đức Giê-Hô-Va đã làm vì Y-sơ-ra-ên.
Cac Tl 2:10-12 cho chúng ta biết điều xảy ra tiếp theo:
Hết thảy người đời ấy cũng được tiếp về cùng tổ phụ mình; rồi một đời khác
nổi lên, chẳng biết Đức Giê-Hô-Va, cũng chẳng biết các điều Ngài đã làm
nhơn vì Y-sơ-ra-ên. Bấy giờ dân Y-sơ-ra-ên làm ác trước mặt Đức Giê-Hô-
Va, hầu việc các thần tượng của Ba-anh, bỏ Giê-Hô-Va Đức Chúa Trời của
tổ phụ mình, là Đấng đã đem họ ra khỏi xứ Ê-díp-tô.
Kết quả là, Đức Chúa Trời đoán xét dân Y-sơ-ra-ên bằng cách cho phép kẻ
thù đánh bại họ trong bất cứ cuộc chiến nào. 2:16 cho chúng ta biết rằng:
“Đức Giê-Hô-Va dấy lên những quan xét”.
Trong suốt thời kỳ các quan xét, quyền năng của Đức Thánh Linh được bày
tỏ cách đặc biệt. Có nhiều thất bại của những người được chọn để giải phóng
dân sự của Đức Chúa Trời khỏi sự tàn bạo của kẻ thù, tuy nhiên Đức Chúa
Trời vẫn xử dụng họ cho dù họ yếu đuối.
Có tất cả 13 quan xét cai trị dân Y-sơ-ra-ên trong khoảng 300 năm. Câu
chuyện về Ghê-đê-ôn và Sam-sôn kể về những công việc kỳ diệu của con
người khi Đức Thánh Linh ngự xuống trên họ.
3. Đọc 6:11-15. Khi Chúa hiện ra cùng Ghê-đê-ôn, ông đã mô tả chính mình
như thế nào?
.......................................................................................................
Bởi Ghê-đê-ôn vâng theo các chỉ dẫn của thiên sứ của Đức Giê-Hô-Va, nên
Thánh Linh của Ngài đã ngự trên ông (6:34). Đức Chúa Trời xử dụng Ghê-
đê-ôn để giải phóng dân Y-sơ-ra-ên khỏi đạo quân Ma-đi-an chỉ với 300
người được chọn.
Sam-sôn là một bài học cho những ai muốn mặc lấy Thánh Linh của Đức
Chúa Trời trong đời sống và chức vụ hầu việc Đức Chúa Trời. Ông được
chuẩn bị để dẫn dắt dân Y-sơ-ra-ên ngay trong lòng mẹ (Xem Các Quan Xét
chương 13-16). Khi ông còn là một cậu bé, “Đức Giê-Hô-Va ban phước
cho. Thần của Đức Giê-Hô-Va khởi cảm động người”(13:24-25).
4. Đọc 14:6, 19 và 15:14. Những câu Kinh thánh nầy chép điều gì về Sam-
sôn?
.......................................................................................................
Sam-sôn được biệt riêng ra cho Đức Chúa Trời từ trong lòng mẹ, và Ngài
chọn ông để giải phóng dân Y-sơ-ra-ên khỏi tay người Phi-li-tin. Tuy nhiên,
Sam-sôn không vâng giữ sự hứa nguyện của mình với Chúa.
5. Đọc 16:15-20. Điều gì xảy ra khi Sam-sôn bất tuân lời hứa nguyện và tiết
lộ nguồn sức mạnh của ông?
.......................................................................................................
Khi dân Y-sơ-ra-ên đòi một vua (ISa1Sm 8:4), Đức Chúa Trời ban Sau-lơ
cho họ. Tiên tri Samuên nói với Sau-lơ rằng: “Thần của Đức Giê-Hô-Va sẽ
cảm động ngươi nói tiên tri cùng chúng, rồi ngươi sẽ hóa ra một người khác”
(ISa1Sm 10:6). Lời tiên tri nầy được ứng nghiệm trong chính ngày đó, và
Đức Chúa Trời xử dụng Sau-lơ để làm vua dân Y-sơ-ra-ên, tuy nhiên, giống
như Sam-sôn, Sau-lơ không tiếp tục kính sợ và vâng phục Đức Chúa Trời.
Vì vậy, Kinh thánh đã dùng những lời lẽ đáng buồn nhất để viết về ông.
6. Đọc 16:14. Những lời lẽ đáng buồn nầy là gì?
.......................................................................................................
Trong thời gian đó, Đức Thánh Linh đang chuẩn bị cho một cậu bé chăn
chiên để làm vua Y-sơ-ra-ên. Kinh thánh cho biết bằng cách nào mà Samuên
đã tìm thấy cậu bé, xức dầu cho cậu, và “Từ ngày đó về sau, Thần của Đức
Giê-Hô-Va cảm động Đa-vít” (16:13).
Đa-vít là một trong một số ít nhân vật của thời kỳ Cựu ước được Thánh Linh
của Đức Giê-Hô-Va ngự trên ông cách lâu dài và liên tục. Nếu không có
Đức Thánh Linh toàn năng là Đấng ngự trên ông, ông không thể làm được
những công việc diệu kỳ như vậy.
Đa-vít ý thức được nhu cầu về sự hiện diện của Đức Thánh Linh trên đời
sống ông. Khi ông phạm tội, ông ăn năn và kêu cầu cùng Đức Chúa Trời
rằng: “Xin chớ từ bỏ tôi ở trước mặt Chúa, cũng đừng cất khỏi tôi Thánh
Linh Chúa” (Thi Tv 51:11).
7. Nguyên tắc nào có thể được rút ra từ sự thất bại của Sam-sôn, Sau-lơ và
Đa-vít, liên quan đến sự hiện diện của Đức Thánh Linh trên đời sống họ?
...........................................................................................................................
..................................
Cơn phấn hưng bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem khi Phierơ giảng một bài giảng đầy
quyền năng vào ngày Lễ Ngũ Tuần lan rộng đến vùng Samari bởi một chấp
sự đầy dẫy Đức Thánh Linh tên là Phi-líp. Dân chúng tin sứ điệp Phúc âm
và nhận lãnh phép báp têm bằng nước. Nhiều phép lạ xảy ra, tuy nhiên
không một ai được báp têm bằng Đức Thánh Linh. Vì vậy, Phierơ và Giăng
được sai xuống từ Giê-ru-sa-lem. Hai người đặt tay trên những tín hữu mới
để họ nhận lãnh Đức Thánh Linh (8:4-17).
Sau-lơ người Tạt-sơ, sau nầy gọi là Phao-lô, là người nhận lãnh Đức Thánh
Linh kế tiếp. Khi A-na-nia cầu nguyện cho ông, Phao-lô trở thành một sứ đồ
vĩ đại cho dân ngoại (9:17).
Tuy nhiên, sứ đồ Phierơ là người đầu tiên tiếp xúc với dân ngoại trong
quyền năng của Lễ Ngũ Tuần. Đức Thánh Linh sai ông đến nhà Cọt-nây
không theo ý của ông. Và khi ông giảng cho đoàn dân đông ngoại bang, Đức
Thánh Linh giáng xuống trên tất cả những người nghe đạo. Phierơ vô cùng
ngạc nhiên vì ông nghe họ nói tiếng mới như ông đã nói trong ngày Lễ Ngũ
Tuần. Sau nầy, khi ông tự binh vực mình trước những anh em Giu-đa, ông
nhớ lại lời hứa của Giăng Báp tít rằng Chúa Giê-xu sẽ báp têm họ bằng Đức
Thánh Linh. Ông thừa nhận kinh nghiệm của dân ngoại với phép báp têm đó
(10:1-11:18).
Hai mươi năm sau, sứ đồ Phao-lô đến thăm thành phố Ê-phê-sô và biết rằng
có một số tín hữu ở tại đó. Câu hỏi đầu tiên của ông được ghi lại là: “Từ khi
(hoặc sau khi) anh em tin, có nhận lãnh được Thánh Linh chăng?” (19:2).
Họ trả lời rằng họ chưa hề nghe nói về một Đức Thánh Linh nào cả. Phao-lô
dạy dỗ họ, làm phép báp têm cho họ trong danh của Chúa Giê-xu, và đặt tay
trên họ. Đức Thánh Linh giáng trên họ, họ nói tiếng mới và nói tiên tri
(19:1-7).
Sứ đồ Phierơ và Phao-lô, cùng với Gia-cơ, Giăng và Giu-đe, được Đức
Thánh Linh ban quyền năng để viết ra cho chúng ta những sách thư tín trong
Tân ước - là kim chỉ nam cho đời sống của Cơ đốc nhân trong Đức Thánh
Linh. Lời chứng đầy quyền năng của họ, là điều họ nhận lãnh bởi sự đầy dẫy
của Đức Thánh Linh, vẫn còn tác động trên những đời sống ngày hôm nay!
11. Đối chiếu kinh nghiệm của Phierơ trước và sau khi Lễ Ngũ Tuần, dựa
trên hai biểu đồ chúng ta đã có. Sau đó, hãy sắp xếp thời gian (bên phải) với
những sự mô tả về Phierơ (bên trái). Viết số bạn chọn trước những khoảng
trống.
1) Trước Lễ Ngũ Tuần
2) Sau Lễ Ngũ Tuần
. . . . a Can đảm
. . . . b Một tấm gương không xứng đáng
. . . . c Một chứng nhân vững vàng
. . . . d Sợ hãi và đầy mâu thuẩn
. . . . e Một người lãnh đạo có quyền năng và một người truyền đạo năng nổ
. . . . f Một kẻ phỉ báng hèn yếu
. . . . g Bốc đồng
. . h Một người lãnh đạo thuộc linh “gương mẫu”
Sự ban quyền năng của Lễ Ngũ Tuần trong những ngày cận đại nầy cùng lúc
xảy ra nhiều nơi trên thế giới. Một ví dụ điển hình xảy ra ở Mỹ quốc trong
một trường Kinh thánh tại Topeka, Kansas. Với sự đói khát về một kinh
nghiệm sâu xa hơn trong Đức Chúa Trời, các sinh viên tại đây đã thấy được
rằng kinh nghiệm của những Cơ đốc nhân trong Hội thánh đầu tiên là tiêu
chuẩn cho họ; vì vậy, họ đã nghiên cứu sách Công Vụ Các Sứ Đồ. Để đáp
lại đức tin và những lời cầu nguyện tha thiết của họ, Đức Thánh Linh đã
giáng xuống và làm thỏa mãn sự đói khát thuộc linh của họ. Vào ngày 1 / 1 /
1901, một sinh viên đầu tiên được đầy dẫy Đức Thánh Linh, và tiếp theo đó
là nhiều sinh viên khác kinh nghiệm được sự đầy dẫy nầy. Khi họ được báp
têm trong Đức Thánh Linh, họ đã nói những ngôn ngữ khác theo như Đức
Thánh Linh cho họ nói. Cơn phấn hưng lan rộng đến Galena, Kansas, và đến
năm 1903, nó lan rộng đến Houston, Texas, và trên toàn tiểu ban Texas. Đến
năm 1906, có hơn 1000 người được đầy dẫy Đức Thánh Linh.
Vào năm 1906, một nhà truyền đạo người da đen tên là W. J. Seymour, từ
thành phố Houston đến thành phố California để truyền giảng, và một cơn
phấn hưng đã nổ ra tại Hội Truyền Giáo Đường Azusa. Buổi nhóm kéo dài
trong suốt ba năm, cả ngày lẫn đêm, không hề nghỉ ngơi, và một sự ban Đức
Thánh Linh trong quyền năng của Lễ Ngũ Tuần cách liên tục cùng với việc
nói tiếng mới và các phép lạ đã xảy ra. Từ đó, cơn phấn hưng lan rộng trên
toàn nước Mỹ và Canađa.
Cùng lúc đó, có những sự ban Đức Thánh Linh xuống cách tự phát tương tự
xảy ra ở Anh quốc, Na-uy, Đan mạch, Thụy sĩ, Pháp, Đức và Ấn độ. Vị giáo
sĩ của phong trào Lễ Ngũ Tuần đầu tiên đặt chân lên vùng đất Trung quốc
vào tháng 10, năm 1907.Chỉ trong vòng sáu tháng, 700 người Trung quốc và
các giáo sĩ được báp têm bằng Đức Thánh Linh. Đến năm 1909, cơn phấn
hưng trong phong trào Lễ Ngũ Tuần lan rộng đến Ai-cập, Châu Phi, và vùng
Nam Mỹ.
Cho đến giữa thế kỷ chúng ta đang sống, Đức Thánh Linh bắt đầu hành
động trong quyền năng chữa bịnh. Các nhà truyền giáo với những ân tứ đặc
biệt của Đức Thánh Linh chỉ đạo những cuộc thập tự chinh được phát động
trên toàn thành phố với hàng ngàn người tham gia. Những phép lạ chữa bệnh
chưa từng có trong những cuộc truyền giáo giữa công chúng từ thời Tân ước
đã xảy ra. Và Đức Thánh Linh, bởi quyền năng chữa bịnh, đang vận hành
trên toàn thế giới.
Chúng ta đang chứng kiến một sự ban Thánh Linh của Đức Chúa Trời cách
rộng rãi. Sự vận hành nầy của Đức Thánh Linh không còn bị giới hạn trong
những thánh đường Ngũ Tuần như trong đầu thế kỷ nầy. Thay vào đó, chúng
ta đang chứng kiến sự ban Đức Thánh Linh xuống trên những Cơ đốc nhân
của nhiều giáo phái khác nhau. Bởi vì trọng tâm được đặt trên phép báp têm
bằng Đức Thánh Linh và những ân tứ theo sau, nên phong trào nầy được
xem như là phong trào năng quyền của Lễ Ngũ Tuần .Tuy nhiên, điều quan
trọng nhất ấy là Đức Thánh Linh đang áp dụng những kinh nghiệm trong
sách Công Vụ Các Sứ Đồ cho các Cơ đốc nhân trong tất cả các giáo phái,
xảy ra trên toàn thế giới. Điều nầy được xem như là một sự vận hành của
Đức Thánh Linh để chuẩn bị Hội thánh thật của Đức Chúa Giê-xu Christ
cho sự đến lần thứ hai của Ngài .
TRƯỚC HẾT LÀ MƯA XUỐNG . . . . . RỒI ĐẾN MÙA GẶT
SỰ BAN ĐỨC THÁNH LINH BAN XUỐNG SỰ CỨU RỖI CHO MỌI
NGƯỜI
Nghiên cứu kỷ hơn bài giảng của Phierơ trong ngày Lễ Ngũ Tuần cho thấy
vài yếu tố quan trọng. Sự ban Đức Thánh Linh xuống, cùng với sự tỏ bày
những hiện tượng siêu nhiên trên trời và dưới đất - tất cả những điều nầy
được kèm theo một lời thách thức toàn cầu hãy nghe theo tiếng gọi của Đức
Chúa Trời và được cứu ( so sánh 2:17-21 với Mat Mt 24:3-14). Hơn nữa khi
chúng ta so sánh những sự kiện mà Chúa Giê-xu đưa ra trong 24:14 và
những điều Phierơ mô tả trong ngày Lễ Ngũ Tuần, chúng ta phải tin rằng có
một mối tương quan tích cực giữa sự ban Đức Thánh Linh xuống và mạng
lịnh truyền giáo cho toàn thế giới. Chúa Giê-xu phán : “Tin lành nầy về
nước Đức Chúa Trời sẽ được giảng ra khắp đất, để làm chứng cho muôn
dân, bấy giờ sự cuối cùng sẽ đến” (24:14).
14. Dựa trên phần đánh giá 24:3-14 của chúng ta và bài học, hãy chọn phần
hoàn chỉnh nhất cho câu sau: Chúa Giê-xu phán cùng các môn đệ của Ngài
rằng sự đến lần thứ hai của Ngài sẽ xảy ra khi
a) Tin lành được giảng ra khắp đất để làm chứng cho muôn dân.
b) sẽ có tiếng đồn về chiến tranh, đói kém, động đất xảy ra trên thế giới.
c) những giáo sư giả đến xưng là “Ta là Đấng Christ”.
15. Dựa trên phần đã thảo luận trong bài học, hãy cho biết mục đích của sự
ban Đức Thánh Linh xuống trong thời kỳ cận đại nầy có liên quan với sự
đến lần thứ hai của Đấng Christ là gì? (cũng xem Cong Cv 1:8)
...........................................................................................................................
...................................................................................
Bạn có nhận được sự ban Đức Thánh Linh xuống trong những ngày sau rốt
nầy, là điều đang lan tràn khắp đất không? Bạn có nhận được quyền năng để
làm chứng nhân cho Đức Chúa Trời nơi mà Ngài đang đặt để bạn không?
Bạn đã làm tròn trách nhiệm là đem sứ điệp đến cho toàn thế giới chưa?
Quyền năng của Đức Thánh Linh là điều đã được ban cho các sứ đồ để họ
vương đến với thế giới cũng đang dành sẵn cho bạn. Chúa Giê-xu sẽ trở lại
ngay khi sứ điệp phúc âm được giảng ra cho toàn thế giới để làm chứng cho
muôn dân. Ngài đã giao phó trọng trách đó cho chúng ta. Thật vinh hạnh biết
bao khi mà quyền năng của Đức Thánh Linh ở trên và ở trong chúng ta hầu
cho chúng ta có thể làm việc để thúc đẩy sự tái lâm của Chúa chúng ta!
Bài trắc nghiệm
ĐÚNG - SAI. Nếu là câu ĐÚNG, hãy viết chữ Đ trước khoảng trống. Nếu
câu SAI, viết chữ S.
. . . 1. Sự nhấn mạnh trong Kinh thánh Cựu ước được tập trung trên đặc tính
của Đức Thánh Linh hơn là trên những công việc của Ngài.
. . . 2. Những tín hữu trong thời Cựu ước cùng một sự ban Đức Thánh Linh
cách phổ thông như những tín hữu sau ngày Lễ Ngũ Tuần kinh nghiệm
được.
. . . 3. Đức Thánh Linh giáng trên những con người trong thời Cựu ước để
ban cho họ quyền năng để họ làm tròn một công tác đặc biệt nào đó cho Đức
Chúa Trời.
. . . 4. Sam-sôn và Sau-lơ là những gương trong thời kỳ Cựu ước hưởng
được sự hiện diện của Đức Thánh Linh mà không bị gián đoạn.
. . . 5. Đức Thánh Linh sẽ lìa bỏ một người nếu người ấy cứ chông đối và
không vâng phục.
. . . 6. Thời kỳ Các quan xét là một thời kỳ chiến thắng liên tục của dân Y-
sơ-ra-ên bởi vì họ được Đức Thánh Linh hướng dẫn.
. . . 7. Các tiên tri thời Cựu ước nhìn nhận rằng họ không thể làm được điều
gì nếu không có quyền năng của Đức Thánh Linh.
. . . 8. Trọng tâm chủ yếu của Đức Thánh Linh trước ngày Lễ Ngũ Tuần là
trên mười hai sứ đồ của Chúa Giê-xu.
. . . 9. Một sự nghiên cứu về một trong những sứ đồ trước và sau Lễ Ngũ
Tuần cho thấy thế nào Đức Thánh Linh có thể thay đổi một người từ yếu
đuối trở thành một chứng nhân đầy quyền năng.
. . . 10. Sự ban Đức Thánh Linh xuống cứ được tiếp tục kể từ ngày Lễ Ngũ
Tuần.
. . . 11. Chúa Giê-xu sẽ trở lại ngay khi mọi người được đầy dẫy Đức Thánh
Linh.
. . . 12. Việc Đức Thánh Linh được ban xuống trong tất cả mọi giáo phái trên
thế giới trong thời kỳ nầy dường như là một sự chuẩn bị cho một Hội thánh
thật của Đấng Christ cho sự đến lần thứ hai của Ngài.
Trả lời câu hỏi nghiên cứu
1. a. Câu 17
b. Đức Chúa Trời lấy Thần cảm Môi-se mà ban cho những người đó (Vì
vậy, sự khôn ngoan và quyền năng mà Đức Thánh Linh ban cho Môi-se
cũng được ban cho họ.)
c. Tất cả đều nói tiên tri.
2. a Giải nghĩa các điềm chiêm bao; trở thành một người trông coi đất nước.
b Hướng dẫn dân sự của Đức Chúa Trời ra khỏi Ai-cập.
c Giúp đỡ Môi-se đáp ứng các nhu cầu của dân sự.
d Hướng dẫn dân sự của Đức Chúa Trời vào đất hứa (Ca-na-an).
e Sự ngự xuống ban quyền năng của Đức Thánh Linh tương đối là một kinh
nghiệm lâu dài trong từng trường hợp.
3. Ông xuất thân từ một dòng họ nghèo hơn hết, và ông là nhỏ hơn hết trong
nhà cha ông.
4. “Thần của Đức Giê-Hô-Va cảm động Sam-sôn rất mạnh.”
5. Điều ngụ ý ở đây là Thần của Đức Giê-Hô-Va, Đấng ngự trên ông (Cac Tl
13:25; 14:6, 19 và 15:14) để ban cho ông sức mạnh đã lìa bỏ ông (c. 20).
6. “Thần của Đức Giê-Hô-Va lìa khỏi Sau-lơ.”
7. Câu trả lời của bạn phải tương tự như thế nầy: Nếu Đức Thánh Linh buồn
rầu bởi một đời sống tội lỗi, chống đối, không vâng phục, Ngài có thể lìa bỏ
một người ngay cả khi người ấy được Đức Chúa Trời chọn lựa. Sự hiện diện
của Đức Thánh Linh trong đời sống của một người kêu gọi người đó có một
đời sống có trách nhiệm và nhạy bén với sự hiện diện của Ngài.
8. Trong khi tất cả những câu trên đều cho thấy sự phụ thuộc của các tiên tri
vào Đức Thánh Linh, câu a) và c) dường như liên hệ nhiều hơn đến cuộc đời
cá nhân của các tiên tri hơn là chức vụ của họ. Tôi sẽ chọn câu b) bởi vì nó
cho thấy sự phụ thuộc của tất cả các đấng tiên tri vào Đức Thánh Linh.
9. c) Hầu hết thời giờ họ ở với Chúa Giê-xu và học hỏi với Ngài.
10. Phierơ
11. a. 2) Sau Lễ Ngũ Tuần.
b. 1) Trước Lễ Ngũ Tuần.
c. 1) Trước Lễ Ngũ Tuần.
d. 1) Trước Lễ Ngũ Tuần.
e. 2) Sau Lễ Ngũ Tuần.
f . 1) Trước Lễ Ngũ Tuần.
g. 1) Trước Lễ Ngũ Tuần. (Nhìn chung, ông không còn bốc đồng kể từ sau
Lễ Ngũ Tuần).
h. 2) Sau Lễ Ngũ Tuần.
12. Quyền năng để làm chứng cho Đức Chúa Giê-xu Christ trên khắp thế
giới.
13. Sự ngụ ý ở đây là lời hứa vẫn có giá trị cho đến khi Đức Chúa Trời còn
kêu gọi con người cho chính Ngài, ấy là, cho đến ngày lớn và vinh hiển của
Chúa.
14. a) Tin lành được giảng ra khắp đất để làm chứng cho muôn dân.
15 Câu trả lời của bạn. Tôi tin rằng chúng ta đang sống trong những ngày
cuối cùng, và rằng sự ban Đức Thánh Linh xuống trong thế kỷ hai mươi
cũng như những cuộc phấn hưng bởi năng quyền của Lễ Ngũ Tuần trong
hiện tại là mục đích của sự ban quyền năng cho những chứng nhân để tin
lành được giảng ra cho mọi người. Chúa Giê-xu sẽ trở lại ngay khi tin lành
được giảng ra khắp đất để làm chứng cho muôn dân.
THỜ PHƯỢNG TRONG THÁNH LINH
Chúa Giê-xu phán rằng: “Đức Chúa Trời là Thần, nên ai thờ lạy Ngài thì
phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy” (GiGa 4:24). Chúa Giê-xu đang
phán với người đàn bà Samari bên cạnh giếng Si-kha. Trước đó Ngài bảo
với bà rằng: “Ví bằng ngươi biết sự ban cho của Đức Chúa Trời, và biết
người nói: ‘Hãy cho ta uống’ là ai, thì chắc ngươi sẽ xin người cho uống, và
người sẽ cho ngươi nước sống” (4:10).
Vào chặng cuối của con đường chức vụ, Chúa Giê-xu thắp sáng hơn ý nghĩa
của nước sống . Ngài phán rằng: “Nếu người nào khát, hãy đến cùng ta mà
uống. Kẻ nào tin ta thì sông nước hằng sống sẽ chảy từ trong lòng mình, y
như Kinh thánh đã chép vậy” (7:37-38). Sứ đồ Giăng giải thích rằng Chúa
Giê-xu đang phán về Đức Thánh Linh, là Đấng mà các môn đệ của Ngài sẽ
nhận lãnh sau khi Đức Chúa Giê-xu được vinh hiển (c. 39). Cùng với sự
giáng xuống của Đức Thánh Linh, nguồn nước thờ phượng sẽ tuôn chảy từ
trong tín hữu như là chức vụ của Đức Thánh Linh đối với Đức Chúa Trời.
Sự thờ phượng thật sự biểu hiện bằng sự kính sợ Đức Chúa Trời, sanh ra sự
ngợi khen Chúa, vâng phục mạng lịnh của Ngài, và ước ao dâng chính mình
cho sự hầu việc vương quốc Đức Chúa Trời.
Trong tất cả những tạo vật của Đức Chúa Trời, chỉ có loài người được ban
cho khả năng tiếp nhận Đức Chúa Trời trong Ngôi vị Đức Thánh Linh và có
mối thông công với Ngài qua Đức Thánh Linh. Bây giờ, Đức Thánh Linh
đang chuẩn bị một đoàn thể những con người được cứu để kết hiệp với Đấng
Christ cách trọn vẹn đang sắp xảy ra trong cõi đời đời. Bởi vì Thánh Linh
của Ngài ở trong chúng ta, nên chúng ta ao ước được thờ phượng Ngài và
sống cho Ngài cho đến ngày đó. Thật vinh hạnh biết bao khi chúng ta được
tôn vinh Đấng đã phó chính mình Ngài vì chúng ta để chúng ta có sự sống
đời đời. Ngài ban cho chúng ta quyền năng để thờ phượng Ngài qua Đức
Thánh Linh, là nguồn nước sống đang ở trong chúng ta! Hãy thờ phượng
Ngài, kính sợ Ngài, và hầu việc Ngài!
Dàn Ý Bài Học
Kính sợ Đức Chúa Trời
Tôn vinh Đức Chúa Trời
Hầu việc Đức Chúa Trời
Cầu nguyện với Đức Chúa Trời
Những Mục Tiêu Bài Học
Khi kết thúc bài học nầy bạn sẽ có thể:
Giải thích được sự liên hệ giữa sự tôn kính, hay kính sợ Đức Chúa Trời và
sự thờ phượng trong Đức Thánh Linh.
Mô tả những phương cách mà Đức Thánh Linh giúp đỡ chúng ta tôn vinh
Đức Chúa Trời.
Bày tỏ tầm quan trọng của sự hầu việc Đức Chúa Trời bởi vì nó liên quan
đến sự thờ phượng thuộc linh.
Phát huy một đời sống cầu nguyện cá nhân và bước đi mỗi ngày với Đức
Chúa Trời, ấy là thờ phượng trong Đức Thánh Linh và trong lẽ thật.
Những Hoạt Động Học Tập
Nghiên cứu bài học như đã trình bày trong phần những hoạt động học tập
của Bài học 1. Đọc nội dung bài học, tìm và đọc những đoạn Kinh thánh
trưng dẫn, và trả lời những câu hỏi nghiên cứu.
Học ý nghĩa của những từ then chốt mà bạn không biết.
Làm bài tự trắc nghiệm và kiểm tra câu trả lời của bạn.
Những Từ Then Chốt
kính sợ
làm cho kính sợ, (sự)
làm ô uế
gây dựng
tán tụng, (sự)
thiêng liêng
làm cho trọn vẹn
tôn kính
vâng phục
vâng phục, (sự)
Bài giảng cho người đàn bà Samari của Chúa Giê-xu mà chúng ta đã đề cập
ở đầu bài học nầy, đã đưa ra một khuôn mẫu cho sự thờ phượng trong Hội
thánh. Đây là điều Ngài phán cùng bà:
Nhưng giờ hầu đến, và đã đến rồi, khi những kẻ thờ phượng thật lấy tâm
thần và lẽ thật mà thờ phượng Cha: Ấy đó là những kẻ thờ phượng mà Cha
ưa thích vậy. Đức Chúa Trời là Thần, nên ai thờ lạy Ngài phải lấy tâm thần
và lẽ thật mà thờ lạy (GiGa 4:23-24).
Sau nầy, khi Chúa Giê-xu dạy cho các môn đệ của Ngài rằng lúc nào Thần
Lẽ Thật đến, thì Ngài sẽ dẫn họ vào mọi lẽ thật. Rồi Ngài phán: “Ấy chính
Ngài sẽ làm sáng danh ta, vì Ngài sẽ lấy điều thuộc về ta mà rao bảo cho các
ngươi. Mọi sự Cha có, đều là của ta; nên ta nói rằng Ngài sẽ lấy điều thuộc
về ta mà rao bảo cho các ngươi vậy” (GiGa 16:13-15).
ĐỨC THÁNH LINH LÀM SÁNG DANH ĐẤNG CHRIST
Tôn vinh Đức Chúa Trời là điều vô cùng cần thiết trong việc bày tỏ sự tôn
thờ của chúng ta đối với Ngài. Đức Thánh Linh đã đến để giúp đỡ chúng ta
làm sáng danh Đức Giê-Hô-Va. Ngài giúp đỡ chúng ta trong sự thờ phượng
bằng cách cho chúng ta thấy được vẻ đẹp của Chúa chúng ta, bởi vì đó là vẻ
đẹp của sự thánh khiết. Khi chúng ta thờ phượng Đức Giê-Hô-Va trong vẻ
đẹp của sự thánh khiết, chúng ta ca ngợi sự thánh sạch và tuyệt vời của
Ngài, vì sự thánh khiết bao trùm lên mọi thuộc tánh khác của Đức Chúa
Trời. Như những tia sáng của mặt trời hòa quyện với những màu sắc của
quang phổ cách hài hòa khi ánh nắng chiếu rọi, thì các thuộc tánh của Đức
Chúa Trời cũng hòa quyện cách hài hòa trong sự thánh khiết khi Đức Chúa
Trời tự tỏ bày chính mình Ngài. Chỉ một mình Ngài là Đấng thánh khiết
(ISa1Sm 2:2), trong Ngài không hề có một điều ác nào; vì vậy, những gì
Ngài làm đều là công bình, bởi vì công việc của Ngài bày tỏ chính Ngài.
Ngài đã chọn lựa chúng ta qua sự hy sinh của Con Ngài bởi ân điển Ngài,
hầu cho chúng ta có thể đến gần Ngài với lòng vui mừng, vì biết rằng Ngài
là Đấng ngự giữa sự ca ngợi của dân Ngài và lấy làm vui mà ban cho họ
những điều lòng họ ao ước. Chúng ta không thể hiểu được sự thánh khiết
thật là gì trừ khi Đức Thánh Linh bày tỏ cho chúng ta.
Vào những ngày đầu làm Cơ đốc nhân tôi là một người rất thẹn, và ý nghĩ sẽ
hầu việc Chúa giữa công chúng làm cho tôi sợ hãi. Ở nhà, tôi chơi đàn
accordion rất thành thạo, nhưng dù tôi cố gắng trình diễn như thế nào đi nữa,
tôi cũng không thể nào chơi trọn một bài hát trước một nhóm ít người.
Rồi tôi được báp têm bằng Đức Thánh Linh. Trong đêm đó tôi cảm thấy
rằng mình có thể trình diễn trước một ngàn người, vì vậy tôi đồng ý sẽ đàn
và hát trong buổi lễ thờ phượng sáng chúa nhật đến.
Buổi sáng hôm đó, sự dạn dĩ mà tôi cảm thấy khi Đức Thánh Linh giáng trên
tôi bỗng nhiên biến mất, và tôi bắt đầu run rẫy. Sự thất bại đang treo lơ lửng
trước mặt, nhưng tôi tuyên bố trong quyền năng của Đức Thánh Linh và
bước lên bục giảng. Và khi tôi bắt đầu chơi đàn, một lần nữa tôi lại cảm thấy
quyền năng của Đức Thánh Linh giáng trên tôi và tôi đã có thể đàn và hát.
Tuy nhiên, khi chấm dứt, tôi nhận ra một điều hoàn toàn khác - không một
người nào tỏ vẻ quan tâm đến khả năng đàn và hát của tôi cả. Mọi người
trong buổi nhóm đều nhắm mắt và tay họ đưa cao trong sự thờ phượng Đức
Chúa Trời. Đức Thánh Linh đã xử dụng tôi, nhưng Chúa là Đấng nhận sự
vinh hiển!
Như chúng ta đã nêu lên trong bài học trước, Đa-vít là một trong số ít nhân
vật thời Cựu ước được Đức Thánh Linh ngự trên cách liên tục. Những thi
thiên của Đa-vít cho thấy Đức Thánh Linh vận hành trên ông, giúp đỡ ông
tôn vinh Đức Chúa Trời. Các thi thiên đều tràn ngập sự ca ngợi và cảm tạ
Đức Chúa Trời Toàn năng, Đấng ban cho chúng ta mọi điều tốt lành. Hơn
nữa, chúng lại minh họa thế nào Đức Thánh Linh có thể vận hành trên chúng
ta để giúp chúng ta dâng giọng ca tiếng nói của mình để ca ngợi và tán tụng
Cứu Chúa của chúng ta, khi chúng ta ngắm xem vẻ đẹp và sự hy sinh của
Ngài vì chúng ta.
4. Những phẩm chất và thái độ nào sau đây là những yếu tố cần thiết trong
sự thờ phượng Đức Chúa Trời bằng tâm thần vàlẽ thật?
a) Vâng phục
b) Ca ngợi
c) Dạn dĩ
d) Thánh khiết
e) Tôn kính
f) Được Đức Thánh Linh giáng trên
g) Chức vụ trước công chúng
Trong Ngôn Ngữ của Đức Thánh Linh
Mục tiêu 3: Liệt kê hai phương cách thờ phượng trong ngôn ngữ của Đức
Thánh Linh, và nêu lợi ích của mỗi phương cách đó .
Khi Đức Thánh Linh mặc khải vẻ đẹp của sự thánh khiết cho các tín hữu,
ngôn từ không thể diễn tả được. Đôi khi thật khó có thể tìm được những
ngôn từ trong ngôn ngữ của nhân loại để diễn đạt sự thờ phượng theo ý Đức
Chúa Trời. Và Đức Thánh Linh lại giúp đỡ chúng ta bằng cách ban cho
chúng ta ngôn ngữ của chính Ngài.
Cầu nguyện trong Thánh Linh . Một người bạn thân kể với chúng tôi rằng
ông đã chống lại ngôn ngữ của Đức Thánh Linh trong nhiều năm. Tuy nhiên
ông hết sức ao ước sự đầy dẫy Đức Thánh Linh và tuyên xưng với Chúa
rằng ông thiếu khả năng để thờ phượng Đức Chúa Trời như cách mà ông ao
ước. Ông luôn cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, xin ban cho con sự đầy dẫy
Đức Thánh Linh, nhưng con không muốn nói một ngôn ngữ mà con không
hiểu.” Cuối cùng, khi ông không nhận được câu trả lời thỏa đáng, ông đã
thừa nhận rằng điều cần yếu nhất là ông phải hoàn toàn thuận phục Đức
Thánh Linh.
Sau kinh nghiệm đầu tiên của sự thờ phượng trong Thánh Linh, ông làm
chứng rằng ông đã cảm thấy dường như một vòi nước được mở ra trong linh
của ông và tuôn chảy tất cả những gì ông muốn nói với Đức Chúa Trời. Và
đó là lần đầu tiên ông đã thỏa lòng vì đã thờ phượng Đức Chúa Trời trong
tâm thần và lẽ thật.
Hát trong Thánh Linh . Hát là một phần rất quan trọng trong sự tôn vinh Đức
Chúa Trời. Một người nói rằng: “Âm nhạc là ngôn ngữ của linh hồn.”
Chúng ta được khuyên giục phải dùng những “bài hát thiêng liêng” mà ca
ngợi Đức Chúa Trời.
Hãy lấy ca vịnh, thơ thánh, bài hát thiêng liêng mà đối đáp cùng nhau, và hết
lòng hát mừng ngợi khen Chúa. Hãy thường nhơn danh Đức Chúa Giê-xu
Christ chúng ta, vì mọi sự tạ ơn Đức Chúa Trời, là Cha chúng ta (Eph Ep
5:19-20).
Nguyền xin lời của Đấng Christ ở đầy trong lòng anh em, và anh em dư dật
mọi sự khôn ngoan. Hãy dùng những ca vịnh, thơ thánh, bài hát thiêng liêng
mà dạy và khuyên nhau, vì được đầy ơn Ngài nên hãy hết lòng hát ngợi khen
Đức Chúa Trời (CoCl 3:16).
Hát thi thiên và thánh ca là để gây dựng Hội thánh và làm chứng cho người
chưa tin (xem ICo1Cr 14:1-40). Hát trong Thánh Linh, được ngụ ý trong
cụm từ “bài hát thiêng liêng”, giúp chúng ta diễn đạt được những cảm xúc
sâu lắng nhất của sự vui mừng, sự ngợi khen, và sự tôn thờ trong ngôn ngữ
của Đức Thánh Linh. Cả hai đều là những yếu tố cần thiết và quan trọng
trong sự thờ phượng của chúng ta và cả hai đều được Đức Thánh Linh xức
dầu. Sứ đồ Phao-lô nói rằng: “Tôi sẽ cầu nguyện theo tâm thần, nhưng cũng
cầu nguyện bằng trí khôn. Tôi sẽ hát theo tâm thần, nhưng cũng hát bằng trí
khôn” (ICo1Cr 14:15).
5. Liệt kê hai phương cách thờ phượng bằng ngôn ngữ của Đức Thánh Linh,
và nêu lên lợi ích của mỗi phương cách đó.
a.........................................................................................................................
...................................................................................
b.........................................................................................................................
...................................................................................
Stanley M. Horton cho biết các tín hữu trong Hội thánh đầu tiên biết rằng
trong sự thờ phượng, họ “hoàn toàn thiếu khả năng ca ngợi và tôn vinh Đức
Chúa Trời. Họ mong được hát trong Đức Thánh Linh, cầu nguyện trong Đức
Thánh Linh, các ân tứ và chức vụ của Đức Thánh Linh ... mỗi ngày ... họ
sống và bước đi trong Đức Thánh Linh” (Horton, 1976, trang 12).
HẦU VIỆC ĐÚC CHÚA TRỜI
Mục tiêu 4: Xác định những phần Kinh thánh bày tỏ cho chúng ta về mối
liên hệ giữa sự hầu việc Đức Chúa Trời và sự thờ phượng bằng tâm thần .
Một số từ ngữ Hy-lạp được dịch là sự thờ phượng cũng có thể dịch là sự hầu
việc . RoRm 12:1 là một ví dụ:
Vậy, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể
mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ
phượng phải lẽ của anh em.
Trong một bản dịch khác, câu nầy được kết luận như sau: “... ấy là sự hầu
việc phải lẽ của anh em” (Bản KJ). Vì vậy, một trong những cách mà Đức
Thánh Linh giúp đỡ bạn hầu việc Đức Chúa Trời là khiến bạn có thể dâng
hiến chính bạn cho Đức Chúa Trời.
Một ví dụ tương tự được Phao-lô viết trong thư gởi cho người Phi-líp rằng:
“chúng ta ... là kẻ cậy Thánh Linh của Đức Chúa Trời mà hầu việc (thờ
phượng) Đức Chúa Trời, khoe mình trong Đấng Christ, và không để lòng
trông cậy trong xác thịt bao giờ” (Phi Pl 3:3).
Sự cầu nguyện và kiêng ăn của nữ tiên tri An-ne trong đền thờ được gọi là
sự thờ phượng hay sự hầu việc trong những bản dịch khác nhau. Khi Phao-lô
nói về sự hầu việc Chúa với sự khiêm nhường và nước mắt, từ ngữ hầu việc
có thể cũng được dịch là thờ phượng (Cong Cv 20:19).
Không khó lắm khi phải liên hệ sự cầu nguyện, kiêng ăn và sự khóc lóc với
sự thờ phượng, tuy nhiên, sự thờ phượng không chỉ như vậy mà thôi. tác giả
thư Hêbơrơ viết rằng Chúa Giê-xu dâng chính mình Ngài bởi Đức Thánh
Linh đời đời để tội lỗi chúng ta có thể được thanh tẩy đặng hầu việc (thờ
phượng) Đức Chúa Trời hằng sống (HeDt 9:14). Nói cách khác, mỗi ngày
đời sống của chúng ta phải là sự thờ phượng Đức Chúa Trời. Mọi điều
chúng ta nói hay làm đều là những phương tiện của sự thờ phượng tâm linh!
Đây là điều mà sứ đồ Phao-lô muốn nói với người Côlôse:
Mặc dầu anh em nói hay làm, cũng phải nhơn danh Đức Chúa Giê-xu mà
làm mọi điều, nhờ Ngài mà tạ ơn Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha. Hễ làm
việc gì, hãy hết lòng mà làm, như làm cho Chúa, chớ không phải làm cho
người ta.... Hãy hầu việc Đấng Christ, tức là Chúa (CoCl 3:17, 23, 24).
HẦU VIỆC - CẦU NGUYỆN - CA NGỢI NHƯ LÀM CHO CHÚA
6. Chúng ta có thể học được đôi điều về sự thờ phượng tâm linh bằng cách
đọc Rôma chương 12 và áp dụng vào đời sống chúng ta. Hoàn chỉnh biểu đồ
sau đây bằng cách tìm xem những điều KHÔNG làm trong chương nầy và
nêu lên những điều chúng ta PHẢI làm. Đây là bước đầu tiên trong sự hầu
việc của Cơ đốc nhân như là sự thờ phượng tâm linh.
- KHÔNG:
a. làm theo đời nầy . . . (c.2)
b ... có tư tưởng cao quá lẽ (c.3)
c ... làm biếng (c.11)
d cho mình là khôn ngoan (c.16)
e lấy ác trả ác (c.17)
f trả thù (c.19)
- NHƯNG PHẢI:
7. Rô-ma 12 cũng dạy chúng ta phải hầu việc như thế nào . Hoàn chỉnh các
câu sau dựa trên câu 6 đến 8 và câu 20.
a. Nếu ai được ơn nói tiên tri, hãy ..................................................
b. Nếu đó là ơn hầu việc (chức vụ), hãy ........................................
c. Nếu đó là ơn dạy dỗ, hãy ...........................................................
d. Nếu đó là ơn khuyên bảo, hãy ...................................................
e. Nếu đó là ơn bố thí, hãy .............................................................
f. Nếu đó là ơn cai trị, hãy .............................................................
g. Nếu đó là ơn làm sự thương xót, hãy ..........................................
h. Nếu kẻ thù của bạn đói,..............................................................
i. Nếu họ khát, ...............................................................................
Chúa Giê-xu dạy dỗ các môn đệ của Ngài ý nghĩa của sự thờ phượng bằng
tâm linh qua sự hầu việc trong ví dụ về chiên và dê (Mat Mt 25:31-46). Ngài
đã sai chúng ta vào trong thế giới để lo lắng cho nhu cầu của những người
khác. Chúng ta phải cho họ uống Nước hằng sống mà chúng ta đã nhận từ
Ngài. Chúng ta phải chia xẻ Bánh hằng sống, là Lời đời đời, cho những ai
đang hư mất trong tội lỗi. Chúng ta cũng phải lo lắng đến những nhu cầu thể
xác của họ như thể chúng ta đang làm cho Chúa. Đây là sự thờ phượng tâm
linh được tỏ ra bằng hành động.
8. Hãy đọc kỷ Mat Mt 25:31-46. Sau đó, hãy khoanh tròn phần hoàn chỉnh
đúng của mỗi câu sau:
Nền tảng của sự phán xét ở đây dường như là
a) sự đáp ứng của những người nghe khi họ nhìn thấy nhu cầu.
b) sự thiếu khả năng nhận thức của những người nghe.
Từ sự phán xét của Con Người đối với những kẻ được thưởng, chúng ta rút
ra rằng
c) một người muốn nhận được sự cứu rỗi phải siêng năng làm việc.
d) lo lắng cho nhu cầu của những người chung quanh là hầu việc Ngài.
Sự đoán phạt dựa trên
e) số lượng mà một người đã làm so với những gì mà người ấy đã có thể
làm.
f) không đáp ứng với nhu cầu của những người chung quanh như làm cho
Chúa.
Trong ví dụ nầy, Chúa Giê-xu muốn dạy rằng
g) sự thờ phượng sẽ là một việc vô nghĩa nếu không đi kèm với hành động là
sự bày tỏ tình yêu của một người với Đức Chúa Trời.
h) sự thờ phượng dưới mọi hình thức đều được chấp nhận dù có hay không
có hành động đi kèm.
CẦU NGUYỆN CÙNG ĐỨC CHÚA TRỜI
Lời cầu nguyện của bạn sẽ hiệu quả hơn nếu bạn theo khuôn mẫu của Tân
ước về sự cầu nguyện trong Đức Thánh Linh . Phao-lô dạy rằng: “hãy nhờ
Đức Thánh Linh, thường thường làm đủ mọi thứ cầu nguyện và nài xin”
(Eph Ep 6:18). Đây là một khái niệm rộng lớn bao gồm điều mà ông gọi là
cầu nguyện theo Đức Thánh Linh . Phao-lô nói rằng: “Vì nếu tôi cầu nguyện
bằng tiếng lạ, thì tâm thần tôi cầu nguyện, nhưng trí khôn tôi lơ lửng (tôi
không hiểu mình đang cầu nguyện điều gì). Vậy thì tôi sẽ làm thế nào? Tôi
sẽ cầu nguyện theo tâm thần, nhưng cũng cầu nguyện bằng trí khôn”
(ICo1Cr 14:14-15). Cả hai điều nầy đều có thể là và sẽ là cầu nguyện theo
Đức Thánh Linh . Bạn hãy lưu ý rằng trong phân đoạn nầy, cầu nguyện bao
gồm cả ngợi khen (c.16), và cảm tạ , để thêm vào sự cầu nguyện.
Chúa Giê-xu dạy chúng ta ý nghĩa của sự thờ phượng bằng tâm linh trong sự
cầu nguyện, mà chúng ta gọi là Bài cầu nguyện chung (Mat Mt 6:9-13):
Lạy Cha chúng tôi ở trên trời; Danh Cha được thánh;
Nước Cha được đến,
ý Cha được nên, ở đất như trời.
Xin cho chúng tôi hôm nay đồ ăn đủ ngày;
Xin tha tội lỗi cho chúng tôi, như chúng tôi cũng tha kẻ phạm tội nghịch
cùng chúng tôi.
Xin chớ để chúng tôi bị cám dỗ, mà cứu chúng tôi khỏi điều ác!
Vì nước, quyền, vinh hiển đều thuộc về Cha đời đời. Amen!
Chúng ta sẽ nghiên cứu câu mở đầu của bài cầu nguyện nầy và xem câu nầy
có liên hệ như thế nào với những gì chúng ta nói về sự cầu nguyện bằng tâm
linh.
Danh Cha Được Thánh - SỰ TÔN KÍNH
Nếu bạn có một cuốn Kinh thánh Phù dẫn, bạn sẽ tìm được những danh
xưng khác của Đức Chúa Trời và Chúa Giê-xu.
Nước Cha Được Đến - SỰ TÔN VINH Mục tiêu 6: Giải thích làm thế nào
bạn có thể tôn vinh Đức Chúa Trời bằng cách thúc đẩy sự đến của nước
Ngài .
Chủ đề của sự giảng dạy của Chúa Giê-xu trong sách tin lành Mathiơ là
nước thiên đàng . Ngài dạy rằng: “Nước thiên đàng giống như của báu được
chôn trong một đám ruộng kia. Một người kia tìm được thì giấu đi, vui
mừng mà trở về, bán hết gia tài mình, mua đám ruộng đó” (Mat Mt 13:44).
Chúa Giê-xu là người mua đám ruộng trong câu chuyện ngụ ngôn; ruộng là
thế gian ; và của báu là vương quốc của Ngài. Chúa Giê-xu đã mua chuộc
thế gian bằng chính huyết quí giá của Ngài, nhưng nó chưa thuộc về Ngài.
Của báu bị cất giấu khỏi con mắt của thế gian là vương quốc mà Đức Thánh
Linh đang hành động trong lòng của các tín hữu. Ngài đang chuẩn bị cho sự
cai trị của Chúa Giê-xu khi Ngài trở lại và thành lập vương quốc của Ngài.
Phao-lô, dưới sự soi dẫn của Đức Thánh Linh, nói về sự vinh hiển hầu đến
của Đấng Christ rằng: “Ấ y là sự mắt chưa thấy, tai chưa nghe, và lòng
người chưa nghĩ đến, nhưng Đức Chúa Trời đã sắm sẵn điều ấy cho những
người yêu mến Ngài” (ICo1Cr 2:9). Rồi ông thêm rằng: “Đức Chúa Trời đã
dùng Đức Thánh Linh để bày tỏ những sự đó cho chúng ta” (c.10). Trong
khi tâm trí chúng ta đang hướng về những phước hạnh trong sự hiện diện
của Đấng Christ và phước hạnh khi được kết hiệp với những người được cứu
của mọi thế hệ, Đức Chúa Trời đã vén bức màn lên để cho chúng ta thấy
trước sự vinh hiển sẽ được bày tỏ (KhKh 21:1-22:21). Không gì có thể diễn
đạt được lòng mong ước của chúng ta về sự hoàn tất chương trình cứu chuộc
của Đức Chúa Trời.
10. Bạn có biết rằng bạn có thể góp phần thúc đẩy sự đến của nước Đức
Chúa Trời không? Đọc Mat Mt 24:14. Sau đó hãy đọc 9:37-38 và LuLc
10:2. Hãy giải thích làm thế nào bạn có thể tôn vinh Đức Chúa Trời bằng
cách thúc đẩy sự đến của nước
Ngài. .................................................................................................................
.............................................................................................
Rồi sẽ đến ngày Chúa Giê-xu thành lập vương quốc của Ngài, khi đó, chúng
ta có thể cùng các thiên sứ ca hát quanh Ngôi Ngài:
Chiên Con đã chịu giết đáng được quyền phép, giàu có, khôn ngoan, năng
lực, tôn quí, vinh hiển và ngợi khen ... Chúc cho Đấng ngồi trên ngôi cùng
Chiên Con được ngợi khen, tôn quí, vinh hiển và quyền phép cho đến đời
đời! (KhKh 5:12-13).
Trong khi chờ đợi ngày đó, chúng ta hãy cầu nguyện dưới sự xức dầu của
Đức Thánh Linh rằng: “Nước Cha được đến!”
Ý Cha Được Nên - SỰ HẦU VIỆC
Mục tiêu 7: Đánh giá lại kinh nghiệm thờ phượng của chính bạn để xác định
rằng bạn có đang thờ phượng trong Đức Thánh Linh và trong lẽ thật không .
Điều thứ ba mà Chúa Giê-xu dạy chúng ta cầu nguyện la: “Xin ý Cha được
nên.” Ai có thể biết được tâm trí và ý muốn của Đức Chúa Trời hơn Đức
Thánh Linh? Trong ICo1Cr 2:9-11 chúng ta được dạy rằng Đức Chúa Trời
bày tỏ ý muốn của Ngài cho chúng ta qua Đức Thánh Linh. Ngài là Đấng có
thể giúp đỡ chúng ta cầu nguyện cách hữu hiệu nhất để ý muốn của Đức
Chúa Trời được thực hiện, và rồi khi Lời Ngài được rao giảng, Ngài sẽ trả
lời sự cầu nguyện của chúng ta.
Cuộc đời của Chúa Giê-xu là một tấm gương vĩ đại nhất cho chúng ta thấy
rằng sự hầu việc Đức Chúa Trời là làm theo ý muốn của Ngài. Sự quan tâm
lớn nhất của Chúa Giê-xu là thực hiện ý muốn của Cha (xem LuLc 22:42),
và Đức Thánh Linh luôn hiện diện để giúp đỡ Ngài (xem 4:1, 14, 18-19).
Bạn cũng có thể sống như Chúa Giê-xu đã sống. Cuộc đời bạn cũng sẽ là
một nguồn phước cho Đức Chúa Trời nếu bạn để Đức Thánh Linh giúp đỡ
bạn thực hiện ý muốn của Đức Chúa Trời.
RoRm 8:27 nói rằng Đức Thánh Linh sẽ giúp đỡ chúng ta: “Đấng dò xét
lòng người hiểu biết ý tưởng của Thánh Linh là thể nào, vì ấy là theo ý Đức
Chúa Trời mà Ngài cầu thế cho các thánh đồ vậy.” Ngay khi chúng ta không
biết phải cầu nguyện như thế nào, Đức Chúa Trời sẽ giúp đỡ chúng ta, và
Ngài sẽ cầu thay cho chúng ta để ý muốn của Đức Chúa Trời được thực hiện
trên đời sống của chúng ta.
11. Nếu chúng ta cầu nguyện để ý muốn của Đức Chúa Trời được thực hiện
trên đời sống của chúng ta, chúng ta phải sẵn sàng vâng phục và hầu việc
Ngài. Chúa Giê-xu dạy các môn đồ rằng họ phải cầu nguyện để Chúa sai các
con gặt vào trong đồng lúa đã chín vàng (Mat Mt 9:36-38).
a. Để trả lời cho sự cầu nguyện của họ, Chúa Giê-xu đã sai ai?
.......................................................................................................
b. Bạn áp dụng điều nầy như thế nào vào chính ao ước thực hiện ý muốn
Đức Chúa Trời của bạn?
...........................................................................................................................
...................................................................................
12. Trong bài học nầy chúng ta đã thảo luận về sự thờ phượng bằng tâm linh
, hay sự thờ phượng trong Đức Thánh Linh. Thờ phượng Đức Chúa Trời
trong Đức Thánh Linh và trong lẽ thật liên quan đến sự vâng phục, tôn kính,
ngợi khen, tôn vinh danh của Ngài, sự thực hiện ý muốn Ngài, một đời sống
thánh khiết, và sự hầu việc vương quốc của Ngài. Bây giờ là lúc để bạn đánh
giá lại sự thờ phượng Đức Chúa Trời của chính bạn. Đó có phải là sự thờ
phượng thuộc linh không, hay chỉ là một hình thức thờ phượng sáo rỗng?
Cách tốt nhất để bạn làm đẹp lòng Đức Chúa Trời là thờ phượng Ngài bằng
tâm thần và lẽ thật. Hãy để Đức Thánh Linh dạy bạn ý nghĩa của sự thờ
phượng thật khi bạn đầu phục sự hướng dẫn của Ngài trong đời sống bạn.
Bài Tự Trắc Nghiệm
CÂU HỎI CHỌN LỰA. Khoanh tròn những ký tự trước những câu trả lời
tốt nhất.
1. Theo GiGa 7:37-39, nước sống mà Chúa Giê-xu ban cho là:
a) những phước hạnh về vật chất.
b) những điều răn của Đức Chúa Trời.
c) sự kết hiệp với Đức Chúa Trời.
d) Đức Thánh Linh.
2 Điều nào sau đây KHÔNG phải là một phần trong ý nghĩa của sự kính sợ
Đức Chúa Trời ?
a) sự kinh khiếp
b) sự tôn kính
c) sự tán tụng
d) sự tôn trọng
e) sự vâng phục
3. Gương của Ê-sai (EsIs 6:1-6) dạy rằng khi sự hiện diện của Đức Chúa
Trời đụng đến chúng ta, chúng ta sẽ muốn
a) chạy trốn khỏi sự phán xét của Ngài.
b) tôn quí Ngài và đầu phục Ngài.
c) theo những ham muốn của chúng ta.
4. Tại sao kính sợ Đức Chúa Trời là một phần quan trọng trong sự thờ
phượng thuộc linh?
a) Điều đó khiến chúng ta vâng phục Ngài vì e rằng chúng ta không muốn
vâng phục
b) Điều đó khiến chúng ta đến gần Đức Chúa Trời trong sự tôn kính Ngài
bởi vì chúng ta nhận biết được sự thánh khiết của Ngài và rằng Ngài đáng để
chúng ta yêu mến và vâng phục.
c) Đó là phương cách duy nhất mà Đức Chúa Trời có thể kiểm soát chúng ta
cách trọn vẹn, vì chúng ta không thể vâng phục Ngài nếu không kính sợ
Ngài.
5. Hát trong Đức Thánh Linh là một cách
a) thờ phượng với sự thông hiểu.
b) hiểu được tâm trí của Đức Thánh Linh.
c) tôn vinh Đức Chúa Trời.
6. Một từ khác của sự thờ phượng là
a) sự hầu việc.
b) sự vâng phục.
c) sự gây dựng.
7 Nguyên tắc của sự hầu việc trong ý nghĩa của sự thờ phượng là
a) mọi việc chúng ta làm có thể là một phương tiện của sự thờ phượng linh.
b) Sự thờ phượng chỉ có thể xảy ra trong những sự hầu việc trong Hội thánh.
c) Hành động của chúng ta quan trọng hơn sự thờ phượng nói ra bằng lời
của chúng ta.
ĐÚNG - SAI. Nếu là câu ĐÚNG, hãy viết Đ trước khoảng trống. Nếu là
SAI, viết S
. . . 8. Rô-ma chương 12 đưa ra nhiều sự hướng dẫn quan trọng về sự thờ
phượng thuộc linh.
. . . 9. Câu chuyện ngụ ngôn về chiên và dê nói lên rằng giúp đỡ một người
trong lúc họ cần yếu như là giúp đỡ Chúa Giê-xu.
. . . 10. Cầu nguyện theo trí khôn là quan trọng nhưng không thuộc linh bằng
cầu nguyện trong Thánh Linh.
. . . 11. Bạn có thể xác định được sự kính sợ Đức Chúa Trời của một người
qua cách người ấy đối với danh của Ngài.
. . . 12. Vương quốc của Đức Chúa Trời sẽ không đến cho đến khi mọi người
đều thờ phượng Ngài.
. . . 13. Trong ngụ ngôn về của báu được chôn cất trong đồng ruộng, của báu
là vương quốc của Đức Chúa Trời.
. . . 14. Cách duy nhất để biết được ý muốn của Đức Chúa Trời là phải được
Đức Thánh Linh hướng dẫn.
. . . 15. Kính sợ Đức Chúa Trời là một điều tốt.
. . .16. Không thể thờ phượng trong Thánh Linh và trong lẽ thật nếu không
có sự vâng phục.
. . . 17. Để được chấp nhận, sự thờ phượng phải được diễn đạt bằng ngôn
ngữ của chính người thờ phượng.
. . . 18. Hát ca vịnh, thơ thánh không quan trọng bằng hát trong Thánh Linh.
. . . 19. Cầu nguyện và kiêng ăn thường đi đôi với sự thờ phượng thuộc linh.
. . . 2.0 Mỗi ngày chúng ta sống trong sự hướng dẫn của Thánh Linh là một
hành động của sự thờ phượng.
Trả Lời Câu Hỏi Nghiên Cứu
1. a. cao sang và được tôn vinh.
b. kính sợ.
c. là ô uế
d. bởi than lửa đỏ từ bàn thờ của Đức Chúa Trời.
e. vâng phục.
2. Cả Hội thánh đều rất sợ hãi, cho đến người nào nghe tin cũng vậy.
3. Những câu trả lời nầy dựa trên bản Kinh thánh NIV. Nếu bạn dùng một
bản dịch khác, câu trả lời của bạn có thể tương tự như vậy.
a. khiến các ngươi không phạm tội
b. họ và con cháu họ được phước đời đời.
c. sự khôn ngoan.
d trong sạch, hằng còn đến đời đời.
e. cứu họ khỏi sự chết”.
f. sự cứu rỗi.
g. yêu mến hay tỏ lòng thương xót.
h. nguồn sự sống.
I. trong cánh nó có sự chữa bịnh.”
j. thương xót.
k. là Đấng làm việc trong lòng anh em.”
l. phần thưởng.
4. Tất cả những yếu tố nầy đều cần thiết ngoại trừ c) dạn dĩ, và g) chức vụ
trước công chúng
5. a. Cầu nguyện trong Đức Thánh Linh - Vị sứ đồ nói rằng: “Tôi sẽ cầu
nguyện theo tâm thần,” cho thấy rằng ông cầu nguyện trong một ngôn ngữ
mà ông không hiểu khi ông không thể tìm ra những ngôn từ để bày tỏ sự thờ
phượng của mình.
b. Hát trong Đức Thánh Linh - Giúp đỡ chúng ta qua âm nhạc để diễn đạt
được những cảm xúc sâu lắng nhất của sự vui mừng, ngợi khen và sự tôn
thờ.
6. Lưu ý. Trong bài bập này chúng tôi xử dụng bản Kinh thánh NIV. Từ ngữ
có thể khác với bản Kinh thánh bạn dùng, nhưng ý nghĩa như nhau.
a . . . được biến hóa bởi sự đổi mới của tâm trí mình.
b . . . có sự suy xét sáng suốt theo mức độ đức tin mà Đức Chúa Trời ban
cho mình.
c . . . có lòng sốt sắng; hầu việc Chúa.
d . . . khiêm tốn hòa mình với những người tầm thường.
e . . . làm điều công bình trước mặt mọi người.
f . . . nhường cho cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời (để Đức Chúa Trời hành
động).
7. a. nói theo lượng đức tin.
b. hầu việc.
c. dạy dỗ.
d.khuyên bảo.
e. bố thí cách rộng rãi.
f. siêng năng mà cai trị.
g. làm cách vui lòng.
h. hãy cho ăn.
I. hãy cho uống.
8. a) sự đáp ứng của những người nghe khi họ nhìn thấy nhu cầu.
d) lo lắng cho nhu cầu của những người chung quanh như làm cho Chúa.
f) không đáp ứng với những nhu cầu của những người chung quanh như làm
cho Chúa.
g) thờ phượng sẽ là một công việc chết nếu không đi đôi với việc làm.
9. a) Danh Ngài là Đấng Lạ Lùng, Đấng Mưu Luận, Đức Chúa Trời Quyền
Năng, Cha Đời Đời, Chúa Bình An.
b) Ma quỉ bị trừ đi bởi danh Ngài.
c) Chúng ta trở nên con cái Đức Chúa Trời qua danh của Ngài.
d) Lời cầu nguyện và nhu cầu của chúng ta được đáp ứng khi chúng ta nài
xin trong danh Ngài.
e) Trong danh Ngài có sự chữa lành.
f) Sự cứu rỗi được ban qua danh Ngài.
g) Ngài là Vua trên muôn vua, Chúa trên muôn chúa.
10. Câu trả lời của bạn. Tôi sẽ nói rằng tôi có thể cầu nguyện rằng các tín
hữu có thể rao truyền tin lành cho cả thế giới, để mọi người có thể nghe vàcó
cơ hội tiếp nhận Đấng Christ làm Chúa và Cứu Chúa.
11. a. Ngài sai chính các môn đồ là những người đã cầu nguyện.
b. Câu trả lời của bạn. Tôi mong rằng nếu tôi cầu nguyện để ý muốn của
Ngài được thực hiện trên đất, Ngài sẽ xử dụng tôi để thực hiện ý muốn của
Ngài. Tôi phải được chuẩn bị để hầu việc Ngài.
NHỮNG ÂN TỨ THUỘC LINH
Bạn có nhớ rằng khi Chúa Giê-xu hứa với các môn đồ là Ngài sẽ ban Đức
Thánh Linh để ở với họ, Ngài phán rằng: “Ấy chính Ngài sẽ làm sáng danh
ta, vì Ngài sẽ lấy điều thuộc về ta mà rao bảo cho các ngươi” (GiGa 16:14).
Nói cách khác, Đức Thánh Linh sẽ bày tỏ Đấng Christ cho thế gian.
Một trong những cách mà Đức Thánh Linh thực hiện điều nầy là tỏ bày cho
thế gian biết những việc Đức Chúa Trời có thể làm , bởi những ân tứ thuộc
linh. Bạn nhớ rằng trong bài học đầu, chúng ta đã học về các thuộc tính của
Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh như vô sở bất tri, vô sở
bất năng, và vô sở bất tại. Tất cả những thuộc tính nầy đều được mặc khải
qua những biểu hiện của Đức Thánh Linh, được liệt kê trong ICo1Cr 12:8-
10. Những biểu hiện siêu nhiên của Đức Thánh Linh chứng tỏ rằng Đức
Chúa Trời đang sống và đang quan tâm đến nhu cầu của nhân loại. Các ân tứ
thuộc linh được ban cho Hội thánh để xây dựng thân thể của Đấng Christ .
Hãy lưu ý rằng chúng ta đang xử dụng thuật ngữ những ân tứ và những biểu
hiện trong cách có thể thay thế cho nhau. cả hai thuật ngữ đều nói lên những
hoạt động của Đức Thánh Linh. Ngài ban những ân tứ siêu nhiên của Ngài
như ý Ngài muốn, và những ân tứ nầy được thể hiện qua những người nhận
chúng. Mục đích của sự ban cho nầy luôn luôn là để xây dựng Hội thánh và
để tôn vinh Đấng Christ.
Trong bài học nầy chúng ta sẽ nghiên cứu cách ngắn gọn các ân tứ của Đức
Thánh Linh và những phương cách mà chúng bày tỏ quyền năng của Chúa
Giê-xu đối với Hội thánh của Ngài, và qua Hội thánh, cho cả thế giới.
Dàn Ý Bài Học
Những Dẫn Chứng Kinh Thánh
Những Ân Tứ Thuộc Lời Nói
Những Ân Tứ Thuộc Quyền Năng
Những Ân Tứ Thuộc Sự Khải Thị
Mục Tiêu Bài Học
Khi kết thúc bài học nầy bạn sẽ có thể:
Liệt kê chín ân tứ thuộc linh được chép trong 1Côrinhtô 12 và viết định
nghĩa ngắn gọn của mỗi ân tứ.
Nêu mục đích của những ân tứ thuộc linh.
Cho biết ai có thể nhận được một ân tứ thuộc linh.
Nhận thấy nhu cầu về sự vận hành của những ân tứ thuộc linh trong Hội
thánh ngày hôm nay và ước ao nhận lãnh được những ân tứ nầy.
Những Hoạt Động Học Tập
Nghiên cứu bài học theo cách đã trình bày trong những bài học trước. Hãy
đọc những phân đoạn Kinh thánh trưng dẫn, và cẩn thận trả lời tất cả những
câu hỏi nghiên cứu.
Để làm nền tảng cho Bài học nầy, hãy đọc 1Côrinhtô 12 và 14; và Rô-ma
12.
Tra xem nghĩa của những từ then chốt mà bạn không biết.
Làm bài tự trắc nghiệm và kiểm tra câu trả lời của bạn.
4. (chọn câu trả lời.) Một sự khác nhau quan trọng giữa lời được ban cho cá
nhân và lời được ban cho mọi người là
a) lời được ban cho mọi người gây dựng Hội thánh, còn lời ban cho cá nhân
không gây dựng một ai cả.
b) lời ban cho mọi người phải được thông giải, trong khi lời ban cho cá nhân
không cần có sự thông giải.
c) mọi người có thể có ân tứ về lời được ban cho cá nhân, trong khi lời được
ban cho mọi người chỉ được ban cho những người lãnh đạo trong Hội thánh.
Lời Được Ban Cho Mọi Người
Có ba sự biểu hiện của Đức Thánh Linh được xem như những lời được ban
cho mọi người: Nói tiếng mới, thông giải tiếng mới, và nói tiên tri.
Người nói tiếng mới không bao giờ hiểu được ý nghĩa của những tiếng mới
được nói giữa công chúng, và thường thì những người nghe cũng không
hiểu. Phải có một người thông giải (giải thích những điều đã được nói ra).
Đức Thánh Linh ban sự thông giải trong chính ngôn ngữ của người đứng ra
thông giải. Người thông giải không hiểu được ý nghĩa của ngôn ngữ tiếng
mới. Người thông giải có thể là người nói tiếng mới hoặc có thể là một
người khác.
Lời tiên tri là những lời ban cho mọi người của Đức Thánh Linh trong ngôn
ngữ mà những người nghe hiểu được.
Mục đích của tiếng mới và sự thông giải là sự gây dựng Hội thánh hơn là sự
gây dựng cho cá nhân người nói. cũng vậy, mục đích của việc nói tiên tri là
gây dựng Hội thánh và thường được thể hiện khi có người chưa tin ngồi
nghe hoặc không có người thông giải.
5. Đọc 14:1-5. Tại sao nói tiên tri cao trọng hơn nói tiếng mới trừ khi nói
tiếng mới mà được thông giải?
...........................................................................................................................
...................................................................................
Mục tiêu của lời tiên tri và tiếng mới với sự thông giải giống nhau. Qua
những ân tứ nầy, Hội thánh có thể được khích lệ, được khuyên dạy, và được
hà hơi bởi vì Đức Thánh Linh nói ra những nhu cầu mà Ngài biết tỏ tường
(RoRm 8:26-27; ICo1Cr 2:10-15). Vì vậy, Hội thánh được gây dựng. Đôi
khi, Hội thánh được hướng dẫn cách đặc biệt để thực hiện mạng lịnh đi
chinh phục những linh hồn hư mất (so sánh Cong Cv 1:8 với 13:1-3). Trong
những khi khác, Đức Thánh Linh truyền đạt ý muốn của Ngài bằng cách
cấm đoán hay ngăn chặn những tôi tớ của Ngài không làm điều gì đó (16:6-
10). Một mục đích khác của việc nói tiên tri được chép trong 21:10-11, khi
Đức Thánh Linh bày tỏ cho Phao-lô biết “những việc sẽ đến” (GiGa 16:13).
Bằng chứng từ những phần Kinh thánh khác cho thấy rằng Phao-lô nhận
lãnh sự truyền đạt trực tiếp từ Chúa (Cong Cv 23:11) và sự truyền đạt gián
tiếp qua một thiên sứ (27:23-24). Tất cả những điều nầy bày tỏ rằng Chúa
quan tâm đến đời sống thuộc linh, sự tăng trưởng, và sự phát triển của Hội
thánh Ngài.
Không có những ví dụ về tiếng mới hoặc sự thông giải được ghi lại trong
Kinh thánh Tân ước, nhưng có một vài lời cầu nguyện có thể được xem như
những lời tiên tri (xem LuLc 1:47-55, 68-79 và 2:29-32). Ngược lại, dựa trên
phần giảng giải của vị sứ đồ trong ICo1Cr 14:1-40, chúng ta có thể kết luận
rằng những ân tứ thuộc lời nói là những điều hiển nhiên ở Hội thánh
Côrinhtô.
Vì vậy, chúng ta có thể kết luận rằng cả những lời tiên tri hoặc tiếng mới có
sự thông giải đều được Đức Thánh Linh hướng dẫn để Hội thánh được gây
dựng. Có thể bạn đã nghe một người truyền đạo đầy dẫy Đức Thánh Linh
giảng ra những lời tiên tri trong bài giảng của mình, và bạn đã kinh nghiệm
được một phước hạnh đặc biệt khi Hội thánh được tăng trưởng bằng cách
nầy.
Mục đích của những ân tứ nầy là để khích lệ Hội thánh, bởi vì chúng đem
đến sự hiện diện và phước hạnh của Đức Thánh Linh vào trong buổi nhóm.
Tuy nhiên, điều quan trọng ấy là những ống dẫn con người phải đầu phục
Đức Thánh Linh để không thu hút sự chú ý về mình, nhưng cho Đức Chúa
Trời.
Sứ đồ Phao-lô viết chương 14 cho các tín hữu Côrinhtô bởi vì ông biết rằng
họ có thể lạm dụng những ân tứ siêu nhiên của Đức Thánh Linh. Nếu tiếng
mới và sự thông giải hoặc lời tiên tri bằng cách nào đó làm giảm giá trị của
sự vận hành của Đức Thánh Linh, hay không phù hợp với Kinh thánh, bạn
sẽ biết rằng đó là công việc của xác thịt, chớ không phải việc của Thánh
Linh.
Để hiểu chi tiết hơn về sự lạm dụng những ân tứ thuộc linh, tôi đề nghị bạn
hãy đọc sách của Donald Gee: Những vấn đề liên quan đến ân tứ thuộc linh .
Phao-lô khuyên chúng ta hãy ao ước những ân tứ thuộc linh: “Hãy ước ao
cho được sự ban cho lớn hơn hết” (ICo1Cr 12:31). “Hãy nôn nả tìm kiếm
tình yêu thương. Cũng hãy ước ao các sự ban cho thiêng liêng, nhứt là sự
ban cho nói tiên tri” (14:1).
6. Hãy khoanh tròn các mẫu tự trước những câu ĐÚNG liên quan đến những
ân tứ thuộc lời nói.
a. Thuật ngữ sự tiếp nhận lời liên hệ đến tiếng mới với sự thông giải.
b. Tiếng mới trong sự thờ phượng riêng tư luôn luôn hướng về Đức Chúa
Trời.
c. Dấu hiệu có thể thấy được trước tiên rằng một người đã nhận phép báp
têm trong Đức Thánh Linh là người ấy bắt đầu nói tiếng mới.
d. Phép báp têm trong Đức Thánh Linh đem đến cho những người nhận lãnh
sự hiện diện phước hạnh của Đức Thánh Linh, cũng như sự vui mừng và sự
dạn dĩ thánh.
e. Nói tiếng mới là điều quan trọng nhất trong lời được ban cho mọi người.
f. Tiếng mới với sự thông giải cao trọng hơn nói tiên tri.
g. Phao-lô cho rằng nói tiên tri là một trong những ân tứ cao trọng nhất.
h. Mục đích của lời được ban cho mọi người là sự gây dựng Hội thánh.
I. Khi một người nói tiếng mới, người ấy không thể hiểu được ý nghĩa của
những lời mình nói.
j. Chủ đích của sự vận hành của những ân tứ thuộc lời nói là tôn vinh Đức
Chúa Trời và làm cho các tín hữu mạnh mẽ; vì vậy, những ân tứ nầy phải
luôn phù hợp với Kinh thánh.
k. Một lời tiên tri có thể là một lời mới nhất từ Đức Chúa Trời mà lời ấy có
thể không phù hợp với Kinh thánh.
NHỮNG ÂN TỨ THUỘC QUYỀN NĂNG
Kinh thánh là một quyển sách của công việc. Kinh thánh ghi lại những công
việc của Đức Chúa Trời giữa loài người. Trong những bài học trước chúng
ta đã học rằng Đức Thánh Linh là một tác nhân thực hiện ý muốn của Đức
Chúa Cha. Chúng ta đã thấy được quyền năng của Đức Thánh Linh vận
hành trong Công Cuộc Sáng Tạo. Và rồi chúng ta cũng đã thấy Ngài hành
động trên đời sống của những người được chọn trong thời Cựu ước. Kế đến
chúng ta thấy Đức Thánh Linh xức dầu cho Chúa Giê-xu để Ngài làm những
công việc quyền năng khi thi hành chức vụ trên đất.
Trước khi về trời, Chúa Giê-xu nói rằng những môn đồ có thể làm những
việc lớn lao hơn khi Đức Thánh Linh được ban xuống để giúp đỡ họ (GiGa
14:12). Sách Công vụ là một bản ký thuật những công tác của Đức Thánh
Linh trong quyền năng thi hành phép lạ, như Đức Chúa Giê-xu đã hứa.
Ngày hôm nay Đức Thánh Linh vẫn đang hành động trong quyền năng thi
hành phép lạ. Ngài hành động trong đời sống của những tín hữu ao ước
những ân tứ quyền năng của Ngài. Mục đích của những ân tứ nầy là tôn vinh
Đức Chúa Trời và gây dựng Hội thánh. Đó là ân tứ đức tin, ân tứ chữa bịnh ,
và ân tứ làm phép lạ .
Ân Tứ Đức Tin
Mục tiêu 3: Phân biệt những loại đức tin mà con người có .
Ân tứ đức tin là một đức tin đặc biệt mà Đức Thánh Linh ban cho, và chúng
ta không nên lầm lẫn với sự tin thông thường của con người, như khi bạn
ngồi trên một chiếc ghế thì bạn tin rằng chiếc ghế đó có thể đỡ được bạn. Đó
cũng không phải là đức tin để được cứu rỗi mà Đức Chúa Trời ban cho bạn
khi bạn tiếp nhận Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa, cũng không phải là trái đức
tin là kết quả của mối tương giao của bạn với Đức Thánh Linh, là sự tin cậy
rằng Đức Chúa Trời sẽ hướng dẫn bạn trong đời sống cơ đốc mỗi ngày của
bạn. (Chúng ta sẽ học về trái của Đức Thánh Linh trong bài kế tiếp.)
Ân tứ đức tin là một sự ban cho đặc biệt của Đức Thánh Linh về một đức tin
có thể dời núi được - một sự tin chắc không lay chuyển rằng Đức Chúa Trời
sẽ cung cấp những gì cần thiết trong giờ thiết yếu !
Đó là đức tin của ba bạn Hêbơrơ khi họ bị ném vào lò lửa hực (DaDn 3:16-
18); của Đaniên khi ông bị quăng vào hang sư tử (6:21-22); của sứ đồ Phierơ
khi ông bình thản ngủ trong đêm trước khi phải bị chém đầu vào ngày hôm
sau (Cong Cv 12:6).
Đó là đức tin khiến Phierơ có thể nói với người bại rằng: “Ta chẳng có vàng
bạc chi hết, song điều ta có thì ta cho ngươi: nhơn danh Đức Chúa Giê-xu
Christ ... hãy bước đi” (3:6). Và người ấy đã bước đi! Chúng ta hãy xem
thêm để có sự hiểu biết sâu sắc về bản chất của những sự chữa lành nầy.
Phao-lô, khi ở Lít-trơ, nhận biết (do sự nhạy bén của ông với Đức Thánh
Linh) rằng người què có đức tin có thể chữa lành được. Thực hành ân tứ đức
tin, ông nói lớn tiếng rằng: “Ngươi hãy chờ dậy, đứng thẳng chơn lên!”
(14:8-10). Cùng sự nhạy bén với Đức Thánh Linh đó mà Smith
Wigglesworth, một nhà truyền giáo của giáo phái Ngũ tuần, vào những ngày
đầu của thế kỷ nầy, đã can đảm đi vào bịnh viện, đỡ một người phụ nữ đang
hấp hối đứng dựa vào tường và cầu nguyện trong danh Đức Chúa Giê-xu để
bà được chữa lành! Và bà đã được chữa lành!
Mặc dầu ân tứ đức tin có thể được xem như một ân tứ khiêm nhường nhất
trong các ân tứ thuộc quyền năng, nó lại rất cần thiết đối với ân tứ chữa bịnh
và ân tứ làm phép lạ. Đức tin đặc biệt nầy được ban cho những cá nhân Đức
Thánh Linh chọn lựa theo ý Ngài muốn, cũng như các ân tứ thuộc linh khác.
Có thể bạn đã kinh nghiệm được ân tứ đức tin, hoặc đã thấy trong tín hữu
khác.
7. Hãy nêu lên vài ví dụ từ kinh nghiệm của bạn về ân tứ đức tin được tỏ ra
bằng hành động.
...........................................................................................................................
...................................................................................
8. Sắp xếp những loại đức tin với sự mô tả của mỗi loại. Viết số mà bạn
chọn lựa vào những khoảng trống.
1) Đức tin để được cứu.
2) Ân tứ đức tin.
3) Trái đức tin.
4) Đức tin thông thường.
. . . . a. Tin cậy rằng Đức Chúa Trời sẽ hướng dẫn bạn trong đời sống cơ đốc
mỗi ngày của bạn.
. . . . b. Tin rằng nếu bạn ngồi trên một chiếc xe đạp và bắt đầu đạp, thì nó sẽ
chở bạn và đưa bạn đến nơi bạn muốn.
. . . . c. Tin rằng khi bạn xưng ra tội lỗi của bạn và tiếp nhận Đấng Christ,
Ngài sẽ cứu bạn khỏi sự phán xét đời đời.
. . . . d. Một sự tin chắc cách đặc biệt đến từ Đức Thánh Linh rằng bất cứ
điều gì bạn cầu xin trong danh Chúa Giê-xu thì Ngài sẽ làm.
Những Ân Tứ Chữa bịnh
Mục tiêu 4: Nhận diện những ví dụ nói đến mục đích của các sự chữa bịnh
trong sách Công vụ , dựa trên những phần Kinh thánh trưng dẫn .
Bạn có lưu ý rằng trong 1Côrinhtô 12, câu 9 và câu 30 liệt kê danh từ số
nhiều những ân tứ chữa bịnh? Tôi nghĩ Đức Thánh Linh muốn mọi người
biết rằng có nhiều ân tứ đặc biệt được dự phòng để chữa lành những căn
bịnh khác nhau.
Trong Hội thánh đầu tiên, mục đích của những ân tứ nầy dường như là để
truyền giáo hơn là để gây dựng thân thể của Đấng Christ. Sự chữa lành xảy
ra hầu cho danh của Đấng Christ được vinh hiển (xem Cong Cv 3:1-3). Đây
là sự quan phòng cho những thành viên trong Hội thánh như được nêu lên
trong Gia Gc 5:14-15, ấy là, nếu có ai đau ốm, “hãy mời các trưởng lão Hội
thánh đến, sau khi nhơn danh Chúa xức dầu cho người bịnh đoạn, thì các
trưởng lão hãy cầu nguyện cho người. Sự cầu nguyện bởi đức tin sẽ cứu kẻ
bịnh, Chúa sẽ đỡ kẻ ấy dậy.”
Gia-cơ khuyên giục những Cơ đốc nhân xưng ra những tội lỗi của họ cùng
nhau và cầu nguyện cho nhau hầu cho họ có thể nhận sự chữa lành. Tức
nhiên, sự chữa lành của Cơ đốc nhân không chỉ là sự đặt tay của vị giáo sĩ có
ân tứ, nhưng nó đòi hỏi những nhu cầu thuộc linh khác phải được đáp ứng
bởi sự tương tác trong thân thể của các tín hữu.
9. Đọc Cong Cv 3:1-13. Dân chúng phản ứng như thế nào đối với sự chữa
bịnh nầy?
.......................................................................................................
10. Việc Phierơ chữa bịnh nhằm mục đích gì?
.......................................................................................................
11. Đọc 14:8-18. Hãy khoanh tròn các mẫu tự trước những câu ĐÚNG liên
quan đến sự chữa lành người bại.
a. Phần Kinh thánh nầy hàm ý rằng cả người bại và sứ đồ Phao-lô đều có
đức tin chữa bịnh.
b. Dân chúng lập tức nhận biết rằng sự chữa lành đến từ Đức Chúa Trời.
c. Phao-lô và Ba-na-ba từ chối nhận của lễ d ân chúng dâng cho mình.
d. Mục đích của sự chữa bịnh là đem đến cho các sứ đồ một cơ hội để làm
sáng danh Đấng Christ và rao truyền tin mừng phúc âm.
e. Sau khi họ giải thích như vậy, dân chúng ngừng không thờ phượng hai
ông nữa.
Một Hội thánh đầy dẫy Đức Thánh Linh có thể ngửa trông những ân tứ chữa
bịnh từ Đức Thánh Linh, nhưng điều nầy không có nghĩa rằng ai cũng được
ban cho quyền năng tuyệt đối để tiêu trừ tất cả mọi bịnh tật. Đức Thánh Linh
ban những ân tứ của Ngài theo ý Ngài muốn, và chúng ta được khuyên giục
hãy ước ao những ân tứ của Ngài. Mục đích luôn luôn là để tôn vinh Đấng
Christ, chớ không phải con người. Điều quan trọng là phải nhạy bén với sự
thúc giục của Đức Thánh Linh. Nếu Ngài thúc giục bạn thi hành một ân tứ
thuộc linh, hãy vâng phục Ngài cách tuyệt đối.
Làm Phép Lạ
Mục tiêu 5: Xác định những phép lạ và nhận định lợi ích lớn nhất .
Phép lạ có thể được định nghĩa là sự can thiệp của Đức Chúa Trời vào trật tự
bình thường của thiên nhiên . Định nghĩa nầy thừa nhận rằng thiên nhiên
luôn luôn vận chuyển với những quy luật nhất định, nhưng Đức Chúa Trời
kiểm soát thiên nhiên và đôi khi thay đổi những quy luật đó cách tạm thời để
thực hiện những mục đích của Ngài.
Làm phép lạ có thể được xem như ân tứ ngoạn mục nhất trong các ân tứ của
Thánh Linh. Cựu ước đã cho thấy những bằng chứng đặc biệt về việc Đức
Thánh Linh giáng trên những người được chọn của Đức Chúa Trời và họ đã
làm các công việc diệu kỳ quá sức của con người.
12. Hãy tìm đọc những phần Kinh thánh sau đây. Cho biết phép lạ nào đã
xảy ra trong mỗi trường hợp và ai là người được Chúa dùng. Hãy viết câu trả
lời trong vở của bạn.
a) XuXh 14:21
b) 17:6-7
c) Gios Gs 10:12
d) Cac Tl 15:14
e) IVua 1V 18:38
f) IIVua 2V 4:35
Chức vụ trên đất của Chúa Giê-xu cũng đầy dẫy các phép lạ. Chúng bắt đầu
từ khi Ngài hóa nước thành rượu tại tiệc cưới Cana (GiGa 2:9) và chấm dứt
cùng với sự thăng thiên về trời của Ngài (Cong Cv 1:9).Trong suốt thời kỳ
chức vụ, Chúa Giê-xu đã đi bộ trên mặt biển, cho năm ngàn người ăn chỉ với
năm cái bánh và hai con cá, kêu kẻ chết sống lại, chữa lành kẻ bịnh, đuổi
quỉ, và làm nhiều phép lạ khác. Các sách phúc âm đầy dẫy những phép lạ
của Ngài.
Chúa Giê-xu hứa rằng khi Ngài trở về cùng Cha và ban Đức Thánh Linh
xuống, các môn đồ của Ngài có thể làm những phép lạ lớn hơn Ngài đã làm
cùng với việc công bố Lời. Phép lạ không hề chấm dứt; nhưng ngược lại,
chúng chứng thực giá trị của sự công bố phúc âm và bày tỏ sự tể trị và quyền
năng của Đức Chúa Trời.
Sách Công vụ ghi lại nhiều phép lạ của các môn đồ. Thật ra, Kinh thánh Tân
ước bày tỏ tính xác thực trong những lời hứa của Chúa Giê-xu: “Vậy những
kẻ tin sẽ được các dấu lạ nầy” (Mac Mc 16:17). Trong khi những phép kỳ
dấu lạ được gộp lại trong sách Công vụ (ví dụ xem Cong Cv 5:12-16), thì
một sự nghiên cứu kỷ lưỡng cho thấy một mức độ gia tăng của các phép lạ.
Tác giả thư Hêbơrơ trình bày rằng phúc âm, trong những năm đầu được
công bố, được kèm theo bởi những dấu kỳ sự lạ và đủ thứ phép mầu, lại
dùng sự ban cho của Đức Thánh Linh (HeDt 2:4). Những phép lạ nầy bao
gồm cả sự kêu kẻ chết sống lại (Cong Cv 20:10), thoát khỏi nhà tù cách kỳ
diệu (5:19; 12:6-10), di chuyển kỳ lạ (8:30), tiên báo về đói kém (11:28-29),
hình phạt (12:23; 13:9-12), chữa lành kẻ bại (3:6-10; 14:8-10), đuổi quỉ
(16:16-18), xiềng xích trong tù đứt tung (16:25-28). Thật cảm tạ Chúa vì các
phép lạ vẫn còn đi kèm với sự công bố phúc âm ngày hôm nay, bởi quyền
năng thi hành phép lạ của Đức Chúa Trời vẫn sẵn sàng cho chúng ta.
13. Các phép lạ, những điều mà Kinh thánh Tân ước đưa ra rất nhiều bằng
chứng, chủ yếu là để (dựa trên phần thảo luận của chúng ta).
a) đáp ứng nhu cầu của những cá nhân có giá trị.
b) chứng minh quyền năng của những giáo sĩ, mục sư, và giáo sư để kiểm
soát đời sống của những con người nầy.
c) chứng thực rằng sự công bố phúc âm là bởi Đức Chúa Trời chọn lựa.
d) thỏa mãn sự tò mò của những kẻ tìm kiếm những dấu lạ trong Hội thánh
hay trong một nhóm người nào đó.
NHỮNG ÂN TỨ THUỘC SỰ KHẢI THỊ
Mục tiêu 6: Sắp xếp mỗi ân tứ thuộc sự khải thị với định nghĩa và với một ví
dụ .
Các ân tứ thuộc linh trong nhóm nầy đem đến cho người tín hữu đầy dẫy
Đức Thánh Linh một sự hiểu biết thiêng liêng khi người ấy cần thiết. Sự
hiểu biết của Đức Chúa Trời là vô giới hạn, và Ngài hiểu rỏ bất kỳ hoàn
cảnh nào mà bạn đang đối diện. Bằng những ân tứ của sự khải thị, Ngài quan
phòng sự giúp đỡ siêu nhiên khi sự hiểu biết của con người tỏ ra bất lực.
Chúng ta cần nhấn mạnh rằng những ân tứ nầy không xảy ra do sự luyện tập
thuộc linh hoặc tự nhiên. Những tín hữu đầy dẫy Đức Thánh Linh cần phải
học tập, và họ phải trung tín nghiên cứu Lời của Đức Chúa Trời, tuy nhiên,
có những lúc chỉ cần có sự khải thị đặc biệt của tâm trí của Đức Chúa Trời.
Những sự hiểu biết thiêng liêng nầy được cung cấp qua các ân tứ thuộc linh
được gọi là phân biệt các thần, lời tri thức , và lời khôn ngoan .
Phân biệt các Thần
Mục tiêu 7: Xác định những câu đúng liên quan đến hoạt động của Đức
Thánh Linh và sự phân biệt các thần .
Từ ngữ phân biệt xuất phát từ tiếng Hy-lạp có nghĩa là: “ một sự phán đoán
qua”. Bản dịch Kinh thánh cho những bài học nầy gọi là “khả năng phân biệt
các thần” (ICo1Cr 12:10).
Hầu hết chúng ta không nhận biết rằng có vô số linh đang hoạt động chung
quanh chúng ta. Ân tứ phân biệt các thần đem đến cho người tín hữu đầy dẫy
Đức Thánh Linh một cái nhìn thoáng qua thế giới linh vô hình nầy và một
quyền năng để phán đoán linh nào đang hoạt động. Có ba lãnh vực hoạt
động của các linh mà chúng ta phải xác định:
Thánh Linh của Đức Chúa Trời . Đức Chúa Trời là Thần linh, và chúng ta
cần nhận biết Ngài khi Ngài vận hành để chúng ta có thể liên kết với Ngài.
Ngài vận hành qua những tín hữu đầy dẫy Đức Thánh Linh là những người
thuận phục Ngài, và đôi khi Ngài xử dụng các thiên sứ của Ngài, là những
linh thiện, để thực hiện các mệnh lệnh của Ngài.
Các linh ác . Sách khải huyền nói về các linh ác làm những phép lạ trong
những ngày sau rốt (KhKh 16:14). Ngày hôm nay có rất nhiều hoạt động của
Sa-tan trong lãnh vực huyền bí và sự thờ phượng ma quỉ. Cơ đốc nhân đầy
dẫy Đức Thánh Linh phải có khả năng nhận diện các hoạt động của những
linh ác, nếu không người ấy sẽ bị đánh lừa.
Linh của con người . Có thể đôi khi linh của con người hướng dẫn các tín
hữu chớ không phải Thánh Linh của Đức Chúa Trời. Đức Thánh Linh ban
cho chúng ta khả năng phân biệt các thần để chúng ta có thể nhận biết đâu là
một sự bày tỏ đến từ Ngài, hoặc đến từ một linh ác, hoặc đến từ xác thịt.
Trong Tân ước, có vài trường hợp đề cập đến ân tứ phân biệt các thần. Chúa
Giê-xu biết trước rằng Giu-đa sẽ phản Ngài (GiGa 13:21, 26). Ngài hiểu sự
lừa dối của Sa-tan trong khi Ngài chịu cám dỗ (LuLc 4:1-12), và Ngài cũng
biết những khi Sa-tan là nguyên nhân của bịnh tật (4:33-35; GiGa 5:14).
Phierơ thấy được rằng Si-môn đang bị một linh ác sai khiến (Cong Cv 8:18-
23).
Ân tứ phân biệt các thần sẽ giữ chúng ta không trở thành những nạn nhân
tuyệt vọng của những sự lừa dối thuộc linh. Ân tứ nầy chỉ có thể vận hành
trong và qua các tín hữu đầy dẫy Đức Thánh Linh (ICo1Cr 2:12-15). Chúng
ta cũng sẽ không bị lừa dối bởi những linh thuộc về xác thịt.
Chúng ta học được rất nhiều bài học qua thư tín thứ nhất của sứ đồ Giăng.
Ông nói rằng nhiều kẻ địch lại Đấng Christ ra từ giữa chúng ta (IGi1Ga
2:18-19). Họ chối bỏ Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con (c.22). Những kẻ gây
rối nầy đi đến các tín hữu để tìm cách lừa dối họ, và tự cho sứ điệp của họ
đến từ Đức Chúa Trời (c.26, so sánh KhKh 2:14-16, 20-23; 3:9). Giăng
khuyên các tín hữu hãy thử các thần (4:1) để phân biệt được thần chân thật
và thần sai lầm (4:6). Ông cũng đưa ra một số khía cạnh để phán đoán: 1) Có
phải họ là những người sống công bình, giữ luật pháp, và tránh phạm tội
không? 3:4-10) 2) Họ có yêu anh em mình không? (3:10) 3) Có phải họ là
những kẻ chối bỏ sự thành nhục thể của Đấng Christ? (2:22; 4:2;) 4) Họ có
giữ theo các giáo lý căn bản mà các sứ đồ truyền cho chăng? (2:18-19) 5) Họ
có chia xẻ nhu cầu với anh em mình không? (3:16-20) 6) Họ có giữ theo
những sự dạy dỗ của các sứ đồ chăng? (4:6) 7) Họ có vâng giữ các điều răn
của Chúa không? (5:1-3). Chúa là đầu của Hội thánh sẽ chỉ cho chúng ta
những gì cần để đoán xét. Tuy nhiên điều nầy đòi hỏi chúng ta phải nhạy
bén với Đức Thánh Linh khi chúng ta tìm kiếm sự phân biệt giữa điều tốt và
ích lợi với điều sai lầm.
14. Những câu nào là câu ĐÚNG liên quan đến hoạt động của linh và sự
phân biệt các thần?
a. Những hoạt động của linh chỉ có thể đến từ Đức Thánh Linh.
b. Những linh gian ác đôi khi có thể lừa dối con người và dẫn họ rời xa chân
lý.
c. Ân tứ phân biệt các thần cho phép một tín hữu đầy dẫy Đức Thánh Linh
phân biệt được Thần chân thật với thần giả dối.
d. Linh của con người xác thịt đôi khi có thể bắt chước những sự bày tỏ của
Đức Thánh Linh.
e. Những tín hữu đầy dẫy Đức Thánh Linh phải nhạy bén với Đức Thánh
Linh và phải quen thuộc với những khía cạnh trong sự phân biệt các thần để
không bị lừa dối.
f. Ai cũng có thể phân biệt được các thần.
Lời Tri Thức
Mục tiêu 8: Nhận diện những ví dụ của Kinh thánh về lời tri thức và lời
khôn ngoan .
Chúng ta đã học rằng Đức Thánh Linh biết tâm trí của Đức Chúa Trời. Ngài
có thể bày tỏ tri thức của Đức Chúa Trời cho bạn những khi cần thiết. Đó có
thể là một sự báo trước về tương lai, có thể là một điều gì đó đang xảy ra ở
một nơi khác mà bạn không biết, hoặc cũng có thể là một điều gì đó trong
quá khứ mà bạn cần phải nhớ lại. Bạn sẽ không được ban cho ân tứ tri thức
để bạn hiểu biết hết mọiviệc, nhưng chỉ được ban cho lời tri thức vào những
khi cần thiết.
Có bao giờ bạn cảm thấy cần phải ngừng công việc bạn đang làm để cầu
nguyện cho một ai đó ở rất xa bạn? Sau đó bạn biết rằng khi bạn cầu nguyện,
người đó đang trãi qua một sự khủng hoảng và cần đến lời cầu nguyện của
bạn? Đó là ví dụ về lời tri thức mà Đức Thánh Linh ban cho các tín hữu đầy
dẫy Đức Thánh Linh là những người đầu phục sự hướng dẫn của Ngài.
Trong Cựu ước, ví dụ về ân tứ tri thức được chép trong IIVua 2V 6:9-10.
Tiên tri Ê-li-sê, người được mệnh danh là “Người của Đức Chúa Trời” báo
cho vua Y-sơ-ra-ên không nên đi ngang qua một nơi kia bởi vì ông biết kẻ
thù đang ẩn núp ở đó. Bởi sự tỏ ra của Đức Chúa Trời, tiên tri Ê-li-sê báo
cho vua Y-sơ-ra-ên nhiều lần như vậy, để vua giữ mình.
Lời Khôn Ngoan
Đức Thánh Linh ban cho bạn lời khôn ngoan để bạn biết phải làm gì trong
những khi có cần. Đây không chỉ đơn thuần là sự khôn ngoan của con người
dựa trên những kinh nghiệm trong quá khứ, nhưng là một sự khôn ngoan đặc
biệt được ban cho để đáp ứng một nhu cầu đặc biệt. Lời khôn ngoan đôi khi
bao gồm cả lời tri thức.
Ở đây một lần nữa, ân tứ chỉ là một lời khôn ngoan. Điều nầy có nghĩa là
bạn nhận được sự khôn ngoan từ Đức Thánh Linh cho một hoàn cảnh nào
đó. Lời khôn ngoan rất cần thiết cho những người đang lãnh đạo Hội thánh.
Một lời từ Đức Thánh Linh có thể đem đến sự hiệp một trong những buổi
nhóm đông người và trong những công tác của Hội thánh. Nếu bạn phải đối
diện với tòa án của thế gian để binh vực cho niềm tin vào Đấng Christ của
mình, thật khích lệ khi biết rằng Đức Thánh Linh sẽ ở với bạn và sẽ ban cho
bạn lời khôn ngoan cần thiết.
Công vụ chương 15 ghi lại buổi hội nghị ở Giê-ru-sa-lem, nơi mà các sứ đồ
và các trưởng lão cùng họp nhau để quyết định rằng liệu những tín hữu
ngoại bang phải chịu phép cắt bì theo như luật của người Giu-đa hay không.
Ân tứ lời khôn ngoan được biểu lộ qua bức thư mà các nhà lãnh đạo Hội
thánh gởi cho những tín hữu ngoại bang, rằng: “Đức Thánh Linh và chúng
ta đã ưng rằng chẳng gán gánh nặng nào khác cho anh em ngoài những điều
cần dùng...” (Cong Cv 15:28).
15. hãy viết 1) trước những câu chỉ về lời tri thức và 2) trước những câu chỉ
về lời khôn ngoan .
. . . . a. GiGa 4:7-17 : Chúa Giê-xu nói với người đàn bà về cuộc đời quá khứ
của bà.
. . . . b. Cong Cv 5:27-29 : Phierơ đưa ra một giải pháp cho vấn đề.
. . . . c. 5:3 : Phierơ biết rằng Anania và Saphira đã nói dối về tài sản của họ.
. . . . d. 10:19 : Đức Thánh Linh cho Phierơ biết rằng ông không còn cách
nào khác để hiểu biết.
. . . . e. 28:26 : Đức Thánh Linh ban cho Ê-sai một sứ điệp liên quan đến
việc dân Giu-đa sẽ phản ứng với phúc âm như thế nào.
16. Hãy cho biết tên của mỗi ân tứ thuộc sự khải thị được mô tả trong mỗi
bài tập sau:
a. Một lời đặc biệt cho phép bạn biết phải làm điều gì khi có cần.
....................................................................................................
b. Ân tứ có thể biết được rằng một sự biểu lộ của linh là thuộc về Đức Chúa
Trời, hay thuộc về ma quỉ, hay thuộc về linh của con người.
....................................................................................................
c. Một sự khải thị của Đức Thánh Linh về một điều bạn cần biết ở một thời
điểm đặc biệt.
....................................................................................................
d. Ân tứ khiến Phao-lô có thể nhận biết rằng có một ác linh ở trong đứa đầy
tớ gái (16:16-18).
....................................................................................................
Để thảo luận chi tiết hơn về những ân tứ thuộc linh và sự ứng dụng cách
phải lẽ những ân tứ nầy trong Hội thánh, tôi đề nghị bạn hãy học khóa ICI
trong loạt bài học nầy với tựa đề là Những ân tứ thuộc linh , được biên soạn
bởi Robert L. Brandt. Hãy nhớ rằng mục đích của mọi ân tứ của Đức Thánh
Linh là xây dựng Hội thánh - thân thể của Đấng Christ. Đức Thánh Linh ban
những ân tứ theo ý Ngài muốn, để Hội thánh kinh nghiệm được sự trưởng
thành thuộc linh và mạnh mẽ.
Bài Tự Trắc Nghiệm
1. SẮP XẾP. Hãy sắp xếp chín ân tứ trong ICo1Cr 12:7-11 với định nghĩa
của mỗi ân tứ. Ghi số bạn chọn vào những khoảng trống.
1) Tiếng mới
2) Thông giải tiếng mới
3) Tiên tri
4) Đức tin
5) Chữa bịnh
6) Phép lạ
7) Phân biệt các thần
8) Lời tri thức
9) Lời khôn ngoan
. . . a. Ân tứ cho biết rằng một sự biểu lộ của linh là từ Đức Thánh Linh hay
từ những linh khác.
. . . b. Ân tứ về một niềm tin đặc biệt rằng Đức Chúa Trời sẽ thực hiện điều
bạn cầu xin.
. . . c. Ân tứ đem đến cho bạn một sự hiểu biết đặc biệt trong một nhu cầu
cấp thiết và khả năng để nhớ lại một điều gì đó trong quá khứ khi bạn cần
nó.
. . . d. Ân tứ về những ngôn ngữ bạn không biết.
. . . e. Ân tứ can thiệp vào bản chất của thiên nhiên.
. . . f. Ân tứ , theo cách nói của những người nghe, đem đến sự giải thích cho
một sứ điệp bằng tiếng mới.
. . . g. Ân tứ đem đến sự phục hồi khỏi bịnh tật.
. . . h. Ân tứ về một sứ điệp từ Đức Chúa Trời trong ngôn ngữ của những
người nghe.
. . . I. Ân tứ bày tỏ điều gì phải làm trong thì giờ cần thiết.
CÂU TRẢ LỜI NGẮN. Hãy trả lời những câu hỏi sau cách ngắn gọn.
2. Hãy liệt kê ba loại ân tứ đã thảo luận trong bài học nầy.
.......................................................................................................
3. Hãy nêu lên hai mục đích quan trọng của những ân tứ thuộc linh.
......................................................................................................
4. Ai có thể nhận lãnh các ân tứ thuộc linh?
.......................................................................................................
.......................................................................................................
Trả Lời Những Câu Hỏi Nghiên Cứu
1. Sứ đồ, thầy giáo, và người cai quản. (Dường như là những người có thể
giúp đỡ kẻ khác .)
2. ICo1Cr 12:7-11
- khôn ngoan
- tri thức
- đức tin
- những ân tứ chữa bịnh
- quyền năng làm phép lạ
- ơn nói tiên tri
- phân biệt các thần
- nói tiếng mới
- thông giải tiếng mới
12:28-30
- những ân tứ chữa bịnh
- những người làm phép lạ
- tiên tri
- nói tiếng mới
- thông giải tiếng mới
- sứ đồ
- giáo sư
- làm chức vụ
- quyền lãnh đạo
- bố thí
- làm sự thương xót
- người cứu giúp
- người cai quản
RoRm 12:6-8
- không được đề cập
- nói tiên tri
- sứ đồ
- dạy dỗ
Eph Ep 4:11
- không được đề cập
- tiên tri
- sứ đồ
- giáo sư
- mục sư
- người giảng tin lành
3. c) Khi họ bắt đầu nói tiếng mới và ca ngợi Đức Chúa Trời.
4. b) Lời được ban cho mọi người phải được thông giải, trong khi lời được
ban cho cá nhân không cần sự thông giải.
5. Tiếng mới chỉ gây dựng cho người nói. Lời tiên tri và tiếng mới có sự
thông giải gây dựng cả Hội thánh. (Hãy đọc trọn chương 14 để có sự hiểu
biết đầy đủ hơn về lẽ thật nầy.)
6. a. Sai.
b Đúng.
c Đúng.
d Đúng.
e Sai.
f Sai.
g Đúng.
h Đúng.
I Đúng.
j Đúng.
k Sai.
7. Câu trả lời của bạn.
8. a. 3) Trái đức tin.
b. 4) Đức tin thông thường.
c. 1) Đức tin để được cứu.
d. 2) Ân tứ đức tin.
9. Họ nghĩ rằng Phierơ và Giăng có khả năng chữa bịnh do chính quyền
năng của hai người hoặc bởi chính đức độ của hai người
10. Để tôn vinh Chúa Giê-xu.
Bây giờ hãy tra xét chính mình chúng ta. Hầu hết chúng ta đều giống như
một cậu học sinh nhỏ trong trường Kinh thánh của chúng tôi. Rudy thật sự
không thích các kỳ thi. Cậu ta thường thở dài, ca cẩm và ít khi trả lời tất cả
các câu hỏi. Trong một kỳ thi kia, cậu để giấy trắng và chỉ viết ở bên dưới
rằng: “Đấng Christ là câu trả lời.” Tuy nhiên, vị giáo viên đã tỏ ra công
bằng trong tình huống nầy. Cô viết lên phần trên của tờ giấy rằng: “Đấng
Christ: 100; Rudy: 0.)
Đây có thể là một câu chuyện vui, nhưng nó đã nói lên một điều gì đó về
ngày thi cuối cùng của chúng ta. Tôi biết rằng bản tính Cơ đốc nhân của
Đấng Christ là 100 điểm, nhưng dĩ nhiên tôi muốn điểm của tôi phải hơn
điểm của Rudy, còn bạn thì sao?
Phao-lô cho chúng ta biết rằng chúng ta sẽ chịu xét đoán bởi Đấng Christ,
theo phúc âm của Ngài (RoRm 2:16). Có thể 1Côrinhtô 13 sẽ chính là sứ
điệp được dùng trong ngày phán xét của Đấng Christ như là một tiêu chuẩn
để chọn lựa những người sẽ giữ những vị trí quan trọng trong vương quốc
hầu đến của Ngài. Định nghĩa của trái Thánh Linh mà Phao-lô đã đưa ra cho
chúng ta có thể sẽ là bài tự trắc nghiệm mà chúng ta phải nghiên cứu thường
xuyên cho kỳ thi cuối cùng của mình.
Tất cả những gì Đức Chúa Trời đòi hỏi trong bản tính của Cơ đốc nhân đã
được ghi lại trong những phân đoạn Kinh thánh mà chúng ta đã học về trái
Thánh Linh. Đó là những thuộc tính của Đức Chúa Trời, là những đặc tính
của Ngài. Bạn không thể tự mình sản sinh ra những đặc tính nầy được - bạn
phải để chúng lớn lên bởi mối tương giao các nhân với Đức Thánh Linh.
Ngài sẽ sinh ra những trái nầy trong bạn.
10 Trong vở của bạn, hãy lập một biểu đồ như sau, và liệt kê tất cả các trái
Thánh Linh từ GaGl 5:22-23 và ICo1Cr 13:1-13. Hãy tự cho điểm khi bạn
phát huy được mỗi trái nầy. Hãy cầu xin Đức Thánh Linh sinh ra những trái
nầy trong bạn theo như tiêu chuẩn của Đấng Christ. Bạn tự đánh giá mình
như thế nào?
- TRÁI:
Yêu thương, vui mừng, bình an.
Tôi có thể thấy trái nầy trong đời sống của tôi:
- không bao giờ (0)
- ít khi (20)
- Đôi khi (40)
- Thường hay (60)
- Thường xuyên (80)
- luôn luôn (100)
SỰ BAN THƯỞNG CỦA TRÁI THÁNH LINH
Mục tiêu 7: Nêu lên ba phần thưởng của việc kết trái, và trưng dẫn những
phần Kinh thánh làm hậu thuẩn cho mỗi phần thưởng .
Tôi đã từng là một thiếu niên, nhưng bây giờ tôi đã là một ông nội. Hãy tin
là có rất nhiều kinh nghiệm được học hỏi trong thời gian đó. Một số rất thú
vị, và số kia thì không thú vị lắm, nhưng tất cả đều cần thiết.
Bạn có thể hỏi: “Nhưng chúng cần thiết cho cái gì?” Vâng, nếu chúng chỉ
cần thiết cho đời nầy mà thôi, là thời gian mà tôi còn đang sống, rồi nó sẽ
qua đi! Không, Đức Thánh Linh đang chuẩn bị tôi cho điều gì đó cao trọng
hơn trong một tương lai rất gần - một điều gì đó cao trọng hơn ngay cả
những điều tôi đã tưởng tượng! Trái Thánh Linh, bản tính của Cơ đốc nhân,
đang được Đức Thánh Linh phát huy trong tôi để sắm sẵn cho tôi một chổ
trong cõi đời đời .
Vượt Qua Thời Gian
Bản tính của Cơ đốc nhân chỉ là một phần của cõi đời đời mà bạn có thể
kinh nghiệm được ngay bây giờ. Mọi việc đều sẽ qua đi: “Các lời tiên tri rồi
sẽ hết, sự ban cho nói tiếng lạ sẽ thôi, sự thông biết hầu bị bỏ” (c. 8).
Các lời tiên tri sẽ không còn cần thiết khi chúng ta thấy Chúa Giê-xu, vì vậy
chúng sẽ chấm dứt. Chúng chỉ còn là những kỷ niệm sau khi chúng được
ứng nghiệm.
Tiếng mới, cả ngôn ngữ hiểu được hoặc không hiểu được, sẽ thôi đi khi Đức
Thánh Linh đem đến một hình thức tương giao siêu việt hơn. Và sẽ không
còn những trở ngại trong ngôn ngữ nữa.
Sự hiểu biết hạn hẹp của chúng ta cũng sẽ qua đi, bởi vì những lời tiên tri,
tiếng mới, và sự hiểu biết hiện tại chỉ lấy làm tốt cho sự khải thị một phần
nào đó của Đức Chúa Trời trong lúc này mà thôi. Chỉ có sự phát huy bản
tính của chúng ta mới còn lại khi chấm dứt đời nầy mà thôi. Tình yêu
thương chẳng hề hư mất - nó sẽ còn lại. Bản tính của Cơ đốc nhân vượt qua
thời gian (ICo1Cr 13:8, 13).
11. (Chọn câu trả lời tốt nhất.) Lý do mà chúng ta sẽ không cần đến tiếng
mới, lời tiên tri, và tri thức hạn hẹp trong vương quốc đời đời của Đấng
Christ ấy là
a) khi chúng ta ở trong sự hiện diện của Ngài, chúng ta sẽ không còn cần đến
những sự khải thị không hoàn thiện nầy nữa, bởi vì chúng ta sẽ thấy Ngài và
biết Ngài như vốn có thật vậy.
b) chúng ta sẽ không cần sự liên lạc trong vương quốc của Ngài.
c) khi chúng ta đồng cai trị với Ngài, chúng ta sẽ không cần đến quyền năng
của Đức Thánh Linh hành động trong chúng ta nữa.
Đem Đến Sự Trưởng Thành
Như chúng ta đã thấy trong những bài học trước, Đức Thánh Linh là Đấng
đem đến cho chúng ta sự sống mới cùng với sự tái sinh. Và rồi khi chúng ta
được nuôi dưỡng bởi Lời của Đức Chúa Trời dưới sự chăn giữ của Đức
Thánh Linh, chúng ta lớn lên bằng học hỏi và kinh nghiệm.
Tất cả chúng ta đều là con cái của Đức Chúa Trời trong những giai đoạn
trưởng thành thuộc linh khác nhau một khi đã kinh nghiệm được sự tái sinh.
Tuy nhiên, chiều dài thời gian mà mỗi chúng ta là một Cơ đốc nhân ảnh
hưởng rất ít đến tình trạng trưởng thành thuộc linh của chúng ta.
Đức Thánh Linh chỉ có thể sinh ra trái bản tính của Cơ đốc nhân trong đời
sống chúng ta khi chúng ta cộng tác với Ngài. Một số Cơ đốc nhân đầy dẫy
Đức Thánh Linh đã phải mất nhiều năm chỉ để học được rất ít. Tiếng mới,
lời tiên tri là những điều ích lợi, và chúng là những ân tứ tuyệt vời của Đức
Thánh Linh, nhưng sự hiện diện của chúng trong đời sống của chúng ta
không phải lúc nào cũng là một sự bày tỏ sự trưởng thành thuộc linh của
chúng ta. Mức độ trưởng thành trong Đức Chúa Trời, như chúng ta đã thấy,
phụ thuộc vào mức độ chúng ta để Đức Thánh Linh sinh ra những đặc tính
của Chúa Giê-xu trong đời sống của chúng ta.
12. Đọc GiGa 15:1-5. Đây là những lời của Chúa Giê-xu. Ngài cho chúng ta
kết quả trong điều kiện gì?
.......................................................................................................
Ở trong Đấng Christ liên quan đến sự hiệp một với Ngài (c.1,2) tỉa-sửa (kỷ
luật) bởi Đức Chúa Cha (c.2) và kết quả (c.5). Đây là những điều kiện của sự
kết quả.
13. Trong IIPhi 2Pr 1:5-8 chúng ta tìm thấy tiến trình cho việc sinh ra trái
Thánh Linh. Hãy hoàn chỉnh biểu đồ sau bằng cách liệt kê những bước tiến
mà Phierơ khuyên giục chúng ta tuân theo trong sự phát triển sự trưởng
thành của Cơ đốc nhân. Hãy chú ý đến nơi mà tất cả chấm dứt.
Phierơ tiếp tục nói rằng: “Vì nếu các điều đó có đủ trong anh em và đầy dẫy
nữa, thì ắt chẳng để cho anh em ở dưng hoặc không kết quả trong sự nhận
biết Đức Chúa Giê-xu Christ chúng ta đâu. Nhưng ai thiếu những điều đó,
thì thành ra người cận thị, người mù; quên hẳn sự làm sạch tội mình ngày
trước” (1:8-9).
Đem Đến Sự Đầy Trọn
Cuối cùng khi chúng ta đứng trước Chúa Giê-xu, khuôn mẫu của chúng ta,
chúng ta sẽ biết một Cơ đốc nhân trưởng thành trọn vẹn là như thế nào. Sứ
đồ Phao-lô nói rằng: “Ngày nay chúng ta xem như trong một cái gương cách
mập mờ; đến bấy giờ chúng ta sẽ thấy hai mặt đối nhau” (ICo1Cr 13:12).
Hiện nay, đức tin và sự hy vọng giúp đỡ chúng ta hăng hái trên bước đường
thuộc linh, nhưng đây không phải là điều dành cho cõi đời đời. Cả hai đều sẽ
trở nên rỏ ràng khi chúng ta đối mặt cùng Chúa chúng ta.
Cách duy nhất để kinh nghiệm được sự đầy trọn của phần thưởng của chúng
ta là sinh ra trái Thánh Linh trong đời sống chúng ta. Phierơ nhắc nhở chúng
ta rằng: “Làm điều đó anh em sẽ không hề vấp ngã; dường ấy, anh em sẽ
được cho vào cách rộng rãi trong nước đời đời của Đức Chúa Giê-xu Christ
là Chúa và Cứu Chúa của chúng ta” (IIPhi 2Pr 1:10-11).
14. Hãy cho biết ba phần thưởng của sự kết quả, và trưng dẫn những câu
Kinh thánh làm hậu thuẩn cho mỗi phần thưởng.
...........................................................................................................................
...................................................................................
Bài Tự Trắc Nghiệm
CÂU HỎI CHỌN LỰA. Khoanh tròn các mẫu tự trước những câu trả lời tốt
nhất cho mỗi câu hỏi.
1. Thuật ngữ trái Thánh Linh nói về
a) những ân tứ thuộc linh.
b) lời tiên tri và sự hy sinh.
c) Sự giống ảnh tượng Đấng Christ.
2. Các đặc tính của trái Thánh Linh được phát triển trong tín hữu bởi
a) Đức Thánh Linh.
b) sự học hỏi và kinh nghiệm.
c) những cố gắng của tín hữu để trở nên giống Chúa Giê-xu.
3. Phần của tín hữu trong việc phát triển bản tính của Cơ đốc nhân là
a) cố gắng bắt chước Đấng Christ.
b) sống theo luật pháp.
c) để Đức Thánh Linh phát triển trái Thánh Linh trong họ.
4. Trái Thánh Linh, hay bản tính của Cơ đốc nhân, có thể được tóm gọn
trong từ ngữ
a) agape (tình yêu thương).
b) phục vụ.
c) đức tin.
d) làm chứng.
5. Trong những điều sau, điều nào quan trọng nhất đối với Cơ đốc nhân?
a) Điều tôi nói.
b) Tôi là người như thế nào.
c) Điều tôi làm.
d) Điều tôi cảm nhận.
6. Tôi có thể có tất cả các ân tứ thuộc linh mà vẫn không có gì trừ khi tôi
cũng có
a) quyền năng.
b) tiếng mới.
c) sự khải thị từ Đức Chúa Trời.
d) tình yêu thương.
7. Trong vương quốc của Đức Chúa Trời, vị trí của những người đồng cai trị
với Đấng Christ sẽ dựa trên
a) hành động trong quá khứ của họ.
b) những ước muốn của họ.
c) sự giống ảnh tượng Đấng Christ của họ.
d) kinh nghiệm thờ phượng của họ.
8. Tiết độ là tình yêu trong
a) hành động.
b) kỷ luật.
c) sự cám dỗ.
d) xã hội.
9. Điều duy nhất sẽ còn lại trong cõi đời đời là
a) hy vọng.
b) lời tiên tri.
c) đức tin.
d) bản tính của Cơ đốc nhân.
10. Tiến trình của việc sinh ra trái Thánh Linh được chép trong IIPhi 2Pr
1:5-8 bắt đầu và kết thúc bằng hai từ ngữ
a) Đức tin - tiết độ.
b) Nhơn đức - tin kính.
c) Đức tin - tình yêu thương.
d) Tình yêu thương - nhịn nhục.
Trả Lời Những Câu Hỏi Nghiên Cứu
1. b) Điều đó có nghĩa là bạn bày tỏ tình yêu của Đấng Christ trong mọi lúc,
và người khác sẽ được kéo đến với Đấng Christ bởi bạn là người như thế
nào cũng như bạn nói điều gì.
2. a. là, làm.
b. giống như Ngài.
c. trái, bản tính của Cơ đốc nhân
3. Tình yêu thương, hoặc bản tính của Cơ đốc nhân.
4. Khi điều đó được thực hiện bởi tình yêu của Đấng Christ ban cho chúng
ta.
5. Câu trả lời của bạn. Tôi sẽ nói rằng ông muốn chúng ta bày tỏ tình yêu
như Đấng Christ bày tỏ vì chỉ có tình yêu mới còn lại trong cõi đời đời. Ông
dùng sự tự hy sinh như là một hành động cao cả nhất mà một người có thể
làm, để cho thấy rằng chúng ta là người như thế nào là điều quan trọng hơn.
6. a. Đúng.
b. Sai.
c Đúng.
d Sai.
e Đúng.
f Đúng.
g Sai.
h Đúng.
7. Yêu thương, vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhơn từ, hiền lành, trung tín,
mềm mại, tiết độ
8. Bạn sẽ khoanh tròn tất cả các mẫu tự trừ b), f), j), k), và n).
9. Tôi sẽ sắp xếp như thế nầy:
a 3) Bình an.
b 8) Mềm mại.
c 9) Tiết độ.
d 4) Nhịn nhục.
e 7) Trung tín.
f 1) Yêu thương.
g 9) Tiết độ.
h 6) Hiền lành.
I 5) Nhơn từ.
j 2) Vui mừng.
k 6) Hiền lành.
l 4) Nhịn nhục.
10. Câu trả lời của bạn.
11. a) Khi chúng ta ở trong sự hiện diện của Ngài, chúng ta sẽ không còn
cần đến những sự mặc khải không hoàn thiện nầy nữa.
12. Để kết quả, bạn phải ở trong Ngài.
14. Trái Thánh Linh, hay tình yêu thương, là điều vượt qua thời gian :
ICo1Cr 13:8, 13. Trái Thánh Linh đem đến sự trưởng thành thuộc linh , hoặc
giống với ảnh tượng Đấng Christ: IIPhi 2Pr 1:8. Trái Thánh Linh cũng đem
đến sự đầy trọn : 1:10-11.
Thư Mục
Bikersteth, Edward Henry. Đức Thánh Linh: Thân vị và Công tác của Ngài .
Nhà xuất bản Kregel, Grand Rapids, Michigan, 1973.
Biederwolf, William E. Hướng dẫn Nghiên cứu về Đức Thánh Linh . Nhà
xuất bản Baker Book, Grand Rapids, Michigan, 1974.
Gee, Donald. Liên hệ Những Ân tứ Thuộc linh . Nhà xuất bản Tin lành,
Springfield, Missouri, 1947.
Horton, Stanley M. Kinh Thánh nói gì về Đức Thánh Linh . Nhà xuất bản
Tin lành, Springfield, Missouri, 1976.
Horton, Stanley M. Đức Thánh Linh: Hướng dẫn Nghiên cứu . Viện Thư Tín
Quốc Tế, Brussels, Belgium, 1979.
Thiessen, Henry C. Những Bài Giảng theo Thần Học Hệ Thống . Hiệu đính
bởi Vernon D. Doerksen. Công ty Phát hành Sách William B. Eerdmans,
Grand Rapids, Michigan, 1979.
Chú Giải Từ
- A-ba: Từ ngữ Aramaic Cha
- An ủi (Paraclete): Liên hệ đến Đức Thánh Linh là Đấng An-ủi.
- Ăn năn: Tỏ ra đau buồn vì tội lỗi và ước muốn thay đổi
- Ăn năn, sự: Hành động hay tiến trình thay đổi tâm trí của một người; hối
cải và từ bỏ tội lỗi
- Ấn chứng: Một điều gì đó dùng để chứng thực hoặc bảo đảm.
- Ba Ngôi: Ba Ngôi vị của Đức Chúa Trời: Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con
và Đức Thánh Linh.
- Ban cho, sự: Sự cung cấp, sự quan phòng.
- Ban quyền: Cho quyền hạn để hành động, thay cho ai, hoặc làm thế cho ai.
- Ban quyền năng: Ban quyền năng cho, làm cho có thể.
- Ban tứ: Ân tứ hay một sự ban cho
- Bảo tồn: Gìn giữ, bảo vệ, hổ trợ.
- Bền lòng: Vững vàng trong điều bạn tin; vững chí khi đối diện với nghịch
cảnh.
- Biến đổi: hoàn toàn thay đổi
- Biểu hiện: Làm cho rõ ràng bằng cách bày tỏ ra.
- Biểu hiện, sự: Sự làm cho rõ ràng bằng cách bày tỏ ra.
- Bốc đồng: hành động thiếu suy nghĩ cách chính chắn
- Cảm xúc: Có thể biểu lộ tình cảm
- Cáo trách, sự: Một biểu hiện của sự bị cáo trách về tội lỗi.
- Cầu thay: Hành động giữa hai bên để đem đến sự hòa giải; cầu nguyện cho
ai.
- Chỉ định, sự: Hành động của sự xác định ai, điều gì.
- Chiến đấu: Tranh đấu cho; chống lại.
- Chịu đựng: Khả năng để đứng vững; khả năng vượt khó.
- Chống đối: Chống nghịch; ngược với.
- Có thể nhận lãnh: Có khả năng hoặc có khuynh hướng để nhận lãnh.
- Cơ nghiệp: Điều gì đó được nhận bởi quyền thừa kế.
- Cố vấn: Người đưa ra lời khuyên hay sự giúp đỡ.
- Công bình, sự: Công nghĩa; một điều gì đó theo lẽ phải.
- Cư ngụ: Hiện diện trong
- Cứu chuộc, sự: Hành động giải phóng khỏi tội lỗi hoặc nợ nần; hành động
của sự giành lại được.
- Đặc tính: Phẩm chất hoặc tính cách.
- Đầy trọn, sự: Sự đầy đủ; khả năng đáp ứng mọi nhu cầu.
- Điều mâu thuẩn: Hành động của một người mà nó ngược lại với các hành
động khác của người đó.
- Đổ đầy: Một sự đầy dẫy ở trong.
- Động cơ: Một động lực như là một nhu cầu hay một mong ước khiến cho
một người hành động.
- Đức Chúa Trời Tam Nhất: ba-trong-một; liên quan đến Ba Ngôi
- Được gây dựng: Được dạy dỗ hoặc được xây dựng về phần thuộc linh
- Gây dựng: Làm cho mạnh mẽ; dạy dỗ hoặc xây dựng về mặt thuộc linh.
- Gây dựng, sự: Sự làm cho mạnh mẽ; sự dạy dỗ hoặc sự xây dựng về mặt
thuộc linh.
- Giáng xuống: Hành động di chuyển từ nơi cao hơn xuống nơi thấp hơn.
- Hạn chế: Có một bản tánh hay một sự hiện hữu hạn hẹp.
- Hệ mặt trời: Mặt trời và các thiên thể xoay quanh và được giữ bởi hấp lực
của nó.
- Hiện hữu từ trước vô cùng, sự: Nói về sự có trước buổi sáng thế
- Hoàn mỹ: Không có lỗi lầm hay thiếu xót.
- Hư mất: Chết
- Hướng về: Nghiên về một tình huống nào đó.
- Kẻ dự phần: Người dự phần trong một điều gì đó.
- Kẻ kế tự Người được trao quyền để nhận tài sản từ người khác.
- Khải thị, sự: Sự làm cho một điều gì đó được biết đến mà trước đây không
được biết.
- Kinh sách: Những sách được chấp nhận là Kinh thánh.
- Kính sợ: Một sự sợ hãi phát xuất từ sự tôn kính sâu xa.
- Làm buồn: Làm cho ai buồn rầu
- Làm cho kính sợ, sự: Khả năng phát xuất sự tôn kính và sợ hãi.
- Làm cho trọn vẹn: Làm cho trở nên trọn vẹn.
- Làm hại: Làm cho hư hại.
- Làm ô uế: Trở nên dơ bẩn, bất khiết bởi tiếp xúc hoặc kết hiệp với.
- Lời chúc phước: Một lời chúc phước ngắn bao gồm cả lời cầu nguyện.
- Lời phát biểu: Điều gì đó được nói ra.
- Lời tiên tri: Lời phát biểu được linh dẫn.
- Lỗi lầm cố ý: Sự vi phạm có chủ ý.
- Minh chứng: Đồng ý với; xác nhận cho
- Mở trí: Dạy dỗ; soi sáng; ban kiến thức cho; làm rõ.
- Nhà thiên văn học: Người chuyên về nghiên cứu các thiên thể.
- Nhạy bén: Có khả năng cảm nhận đặc biệt.
- Nhận biết: Nhận ra sự khác nhau.
- Ngoạn mục: Cảnh tượng đẹp mắt hoặc kỳ lạ
- Ngũ kinh: năm sách đầu của Cựu ước
- Người cầu thay: Người cầu nguyện, nài xin cho người khác.
- Người diễn giải: Người giải thích ý nghĩa của điều gì.
- Người hòa giải: Người đứng giữa hai bên để đem đến sự hòa thuận.
- Người nhận lãnh: Người nhận điều gì
- Người quản trị: Người thi hành những công tác lãnh đạo.
- Nói tiên tri: Nói dưới sự soi dẫn thiên thượng.
- Nuôi nấng: Nuôi dưỡng; chăm sóc; dạy dỗ.
- Phạm thượng: Hành đông phỉ báng hoặc thiếu sự tôn kính Đức Chúa Trời.
- Phân biệt: Phân chia hay nhận biết giữa
- Phân biệt, sự: Khả năng nhận biết giữa; một sự hiểu biết sâu sắc
- Phù hợp: Đem đến sự hài hòa hoặc sự tương ứng.
- Quá tự quyền: Vượt quá giới hạn cho phép; vượt quá quyền hạn.
- Quản trị: thuộc về hoặc liên quan đến sự thi hành những công tác lãnh đạo
- Quyền tể trị: Sở hữu quyền lực cao nhất.
- Siêu nhiên: Vượt quá sự tự nhiên hoặc bình thường; thuộc về hay liên quan
đến Đức Chúa Trời.
- Soi dẫn: Quyền năng thần thượng của Đức Thánh Linh trên sự khôn ngoan
hoặc cảm xúc của một người để bày tỏ tâm trí của Đức Chúa Trời.
- Soi dẫn, sự: Công tác của Đức Chúa Trời để bày tỏ tâm trí của Đức Chúa
Trời trên sự khôn ngoan hay cảm xúc của một người.
- Soi sáng, sự: Sự làm cho rỏ ràng.
- Tái sanh, sự: Tiến trình được đổi mới hoặc được sanh lại.
- Tán tụng, sự: Hành động của sự dâng cao trong sự ca ngợi và sự tôn thờ.
- Tập trung, sự: Nhấn mạnh; đặt trọng tâm hoặc sự chú ý trên.
- Thanh tẩy: Xóa đi; tẩy sách.
- Thành quả: Điều đạt được, hoàn thành
- Thân mật: Rất gần gũi; rất thân thiết.
- Thánh hóa: Làm cho thánh khiết; biệt riêng ra cho Đức Chúa Trời.
- Thánh hóa, sự: Thánh khiết; tình trạng được biệt riêng ra cho Đức Chúa
Trời.
- Thánh khiết, sự: Phẩm chất thanh sạch; không có tội lỗi.
- Thiên thể: thuộc về, hoặc liên quan đến những vật thể trên trời.
- Thiên văn học: Khoa học về các thiên thể (như mặt trời, mặt trăng, các
ngôi sao ...)
- Thiêng liêng: Thánh khiết; thuộc về thần thánh
- Thuộc Lễ ngũ tuần: liên quan đến kinh nghiệm của lễ báp têm trong Đức
Thánh Linh; một người đã có kinh nghiệm nầy.
- Thuộc tính: Phẩm chất hay thuộc tính của một người hay một vật.
- Thử thách: Trãi qua hoặc kinh nghiệm một sự khó khăn.
- Thực vật: Loài cây cỏ.
- Thượng Đế: Hữu thể tối cao; Đức Chúa Trời.
- Tiếp nhận: Hành động tiếp nhận hay tiếp đón
- Tôn kính: Tôn quí hoặc tôn trọng
- Tôn vinh: Dâng sự ca ngợi, tôn quí.
- Trung tính: Không thuộc về giống đực hay giống cái.
- Trưởng lão: Người có uy quyền bởi tuổi tác hoặc đức hạnh.
- Tuận đạo: Chịu chết vì niềm tin tôn giáo
- Tự ý: Không theo ảnh hưởng, kế hoạch; tự động.
- Ứng nghiệm: Hoàn thành
- Vâng phục: Vâng theo những người khác
- Vâng phục, sự: Dâng hiến chính mình cách trọn vẹn.
- Vi phạm, sự: tội lỗi, sự quá phạm.
- Vô sở bất năng: Có quyền năng vô biên.
- Vô sở bất tại: Hiện diện khắp mọi nơi.
- Vô sơ bất tri: Biết hết mọi điều.
- Vũ trụ: Các từng trời và trái đất và tất cả mọi vật chứa trong đó.
- Xác nhận, sự: Sự bày tỏ sự chấp thuận cách mạnh mẽ, đồng ý.
- Xức dầu: Làm cho có thể; ban quyền năng vì một mục đích đặc biệt.
- Xức dầu, sự: Trong Cựu ước, sự đổ dầu trên đầu để chỉ định một người cho
mục đích đặc biệt; trong Tân ước, Đức Thánh Linh giáng trên một người để
ban quyềng năng vì một mục đích đặc biệt.
- Xướng ngôn viên: Người nói đại diện cho người khác
Bài 6
1. a) Đây là công tác của Đức Thánh Linh...
2. b) Mặc dù Đức Thánh Linh là Dấng cáo trách tội nhân ...
3. b) Sự ăn năn liên quan đến một sự thay đổi ...
4. b) Tôi sẽ không còn sống theo bản tánh tội lỗi nữa ...
5. a) Khi Đức Thánh Linh cư ngụ trong tôi, tôi nhận được rất nhiều lợi ích ...
6. a) Khi tôi thuận phục sự kiểm soát của Đức Thánh Linh, Ngài khiến tôi có
thể phân rẽ khỏi tội lỗi và biệt riêng ra cho Đức Chúa Trời.
7. b) Khi Đức Thánh Linh ban cho tôi sự tái sinh ...
Bài 7
1. Sai.
2. Đúng.
3. Đúng.
4. Sai.
5. Đúng.
6. Sai.
7. Đúng.
8. Sai.
9. Đúng.
10. Đúng.
11. Sai.
12. Đúng.
Bài 8
1. d) Đức Thánh Linh.
2. a) Sự khiếp sợ.
3. b) Tôn kính Đức Chúa Trời và thuận phục Ngài.
4. b) điều đó khiến chúng ta đến gần Đức Chúa Trời trong sự kính sợ Ngài
bởi vì chúng ta nhận biết sự thánh khiết của Ngài.
5. c) tôn vinh Đức Chúa Trời.
6. a) sự hầu việc.
7. a) mọi điều chúng ta làm có thể là một phương tiện của sự thờ phượng
thuộc linh.
8. Đúng.
9. Đúng.
10. Sai.
11. Đúng.
12. Sai.
13. Đúng.
14. Đúng.
15. Đúng.
16. Đúng.
17. Sai.
18. Sai.
19. Đúng.
20. Đúng.
Bài 9
1. a. 7) Phân biệt các thần.
b. 4) Đức tin.
c. 8) Lời tri thức.
d. 1) Tiếng mới.
e. 6) Phép lạ.
f. 2) Thông giải tiếng mới.
g. 5) Chữa bịnh.
h. 3) Tiên tri.
I. 9) Lời khôn ngoan.
2. Những ân tứ thuộc lời nói, những ân tứ thuộc quyền năng, và những ân tứ
thuộc sự khải thị.
3. Gây dựng Hội thánh, tôn vinh Đấng Christ.
4. Bất cứ tín hữu đầy dẫy Đức Thánh Linh nào. ( Tuy nhiên những ân tứ nầy
được ban cho tùy theo ý muốn của Đức Thánh Linh. Chúng ta được khích lệ
hãy ao ước những ân tứ thuộc linh. Điều nầy gợi ý rằng những ai hết lòng ao
ước những ân tứ thuộc linh là những người được Đức Thánh Linh chọn lựa.)
Bài 10
1. c) Sự giống ảnh tượng của Đấng Christ.
2. a) Đức Thánh Linh.
3. c) để Đức Thánh Linh phát triển những trái Thánh Linh trong mình.
4. a) agape (tình yêu thương).
5. b) Tôi là người như thế nào.
6. d) tình yêu thương.
7. c) Sự giống ảnh tượng của Đấng Christ.
8. b) kỷ luật.
9. d) bản tính của Cơ đốc nhân.
10. c) Đức tin - tình yêu thương.